

Ân quang và Thiên quý
#346
Gửi vào 05/02/2018 - 15:50
Trai tận cửu trùng gái tắc giai phi
Thanked by 4 Members:
|
|
#347
Gửi vào 05/02/2018 - 16:12
minhminh, on 05/02/2018 - 15:50, said:
Trai tận cửu trùng gái tắc giai phi
" Khoa khôi xuong khúc tấu hồng
Trai tận cửu trùng gái tắc giai phi."
Đúng. Nhưng một sao trong bộ này mà lạc cách thì sẽ lận đận về đường hôn nhân : sao Hồng Loan !
Hồng loan cư mệnh, Nam chủ tiểu khắc , Nữ chủ nhị phu.
( tôi đã thấy rất nhiều cặp bị gẫy gánh giữa chừng từ sau 75, ở đảo, và kể cả sau khi định cư, là nam hay nữ thì đều có Hồng Loan cư mệnh ! trai hai vợ, gái lập gia đình hai lần.)
( là nam thì khắc vợ - vợ mất sớm, li dị sớm và có vợ lần thứ 2 )
Sửa bởi V.E.DAY: 05/02/2018 - 16:14
Thanked by 6 Members:
|
|
#348
Gửi vào 05/02/2018 - 16:15
minhminh, on 05/02/2018 - 15:50, said:
Trai tận cửu trùng gái tắc giai phi
Thanked by 1 Member:
|
|
#349
Gửi vào 05/02/2018 - 17:28
V.E.DAY, on 05/02/2018 - 08:32, said:
Quang, Quý giải được tính chất xấu của cặp Không-Kiếp, giải được sát tính của Hỏa, Linh, Kình, Đà và Thất sát
không hiểu tại sao,lại hiện lên quẻ Thuần Khôn ( quẻ đẹp thứ nhì Kinh Dịch).Thuần Khôn tượng quẻ là Đất.Đức quẻ là Thuận ( Thuận lợi,hiền từ).Lời tượng:Cái thể lực của trái đất (dày,thuận,bao dung) tượng trưng cho đạo Khôn.Người quân tử xem quẻ này mà lập Đức cho dày,để bao dung,chở ( chứa,tải) mọi vật.Quẻ này đề cao đức độ,bao dung,rất hợp ý nghĩa sao Ân quang,Thiên Quý.
Sửa bởi anhhungxadieu: 05/02/2018 - 17:38
#350
Gửi vào 05/02/2018 - 18:31
- Tại sao an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc ( mà Xương Khúc lại là biểu tượng của cây nêu, cây biểu can dùng để đo bóng mặt trời )
- Rồi từ đó mới thấy rõ tính chất ngũ hành của cặp sao này. ( Ân quang hành hỏa, Thiên Quý hành thủy )
Người xưa căn cứ vào bóng của mặt trời để tìm ra độ dài của :
- bình minh là khoảng thời gian mặt trời chưa lên khỏi mặt đất nhưng trên bầu trời đã có ánh sáng.
- hoàng hôn là khoảng thời gian mặt trời đã lặn xuống dưới mặt đất nhưng trên bầu trời vẫn còn ánh sáng.
Cho nên an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc.
Và không có lý do gì để nói Ân quang là hành mộc hay thổ ! Ân quang hành hỏa.
Còn Thiên quý liên quan đến mặt trăng. Thiên Quý hành thủy. Người có Quang Quý thủ mệnh phải khẳng định chắc chắn là NGƯỜI CÓ TỪ TÂM.
Chính vì vậy Quang Quý mới hóa giải được sát tính của Tứ Sát.
Thanked by 11 Members:
|
|
#351
Gửi vào 05/02/2018 - 19:45
V.E.DAY, on 05/02/2018 - 18:31, said:
- Tại sao an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc ( mà Xương Khúc lại là biểu tượng của cây nêu, cây biểu can dùng để đo bóng mặt trời )
- Rồi từ đó mới thấy rõ tính chất ngũ hành của cặp sao này. ( Ân quang hành hỏa, Thiên Quý hành thủy )
Người xưa căn cứ vào bóng của mặt trời để tìm ra độ dài của :
- bình minh là khoảng thời gian mặt trời chưa lên khỏi mặt đất nhưng trên bầu trời đã có ánh sáng.
- hoàng hôn là khoảng thời gian mặt trời đã lặn xuống dưới mặt đất nhưng trên bầu trời vẫn còn ánh sáng.
Cho nên an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc.
Và không có lý do gì để nói Ân quang là hành mộc hay thổ ! Ân quang hành hỏa.
Còn Thiên quý liên quan đến mặt trăng. Thiên Quý hành thủy. Người có Quang Quý thủ mệnh phải khẳng định chắc chắn là NGƯỜI CÓ TỪ TÂM.
Chính vì vậy Quang Quý mới hóa giải được sát tính của Tứ Sát.
Chào bác V.E. Day, cháu xin hỏi bác về cung, tinh, cũng như nhận định "Người có Quang Quý thủ mệnh phải khẳng định chắc chắn là NGƯỜI CÓ TỪ TÂM".
Xem người xưa lập thuyết thì cung có trước, tinh có sau.
Cung: niên can -> nguyệt can -> nạp âm của cung thiên bàn; sau đó thì số ngày + nhật can -> thời can -> âm dương trị số (tới cực/chưa tới cực) của cung thiên bàn.
Tinh:
niên can + nguyệt chi + số ngày + thời chi -> chính tinh
Còn đối với Quang Quý thì đơn giản là: nguyệt chi + số ngày + thời chi
Bất luận là dựa theo tiêu chuẩn trước/sau, nhiều tham số/ít tham số, hay can/chi, thì ta thấy rõ ràng Cung > chính tinh > phụ tinh. Dấu ">" không phải là lớn về kích thước mà thể hiện phần đại cục, phần thống suất, chỉ huy.
Nói nôm na xem mệnh tốt xấu hay lớn nhỏ trước tiên phải xem bố cục của vòng Thái Tuế, Lộc Tồn, Trường Sinh và trị số âm dương của các cung so với vị trí của Mệnh-Thân, Tài, Quan, Phúc ra sao.
Lại nói, không biết người xưa phân biệt THIÊN Tính, Tâm ĐỊA, NHÂN Cách là vì cớ làm sao? Hay chăng chỉ cần xem 2 sao Quang Quý là đủ.
#352
Gửi vào 05/02/2018 - 21:26
Hồi đó tôi đã cố công giải thích rằng đó là một ý tưởng sai lầm. Nhưng hoài công vô ích. Và có người còn "phản biện" rằng :
- Bộ bên Trung quốc họ ngu hết hay sao mà họ không lên tiếng ( nguyên văn )
Để rồi vài năm sau trên báo đăng hình ảnh cho thấy phụ huynh xếp hàng xin cho con đi học phải xếp hàng từ 2, 3 giờ sáng, xô đổ cả cổng trường, con nít bị ốm nằm la liệt trong bịnh viện, nằm chen chúc như xếp cá mòi trên giường !
Vì đâu xẩy ra tình trạnh như thế ?
À thì ra đồng loạt sinh vào năm heo vàng nên mới xẩy ra tình cảnh như thế.
Trải qua chuyện đó, từ đó tôi tự rút ra một kinh nghiệm cho bản thân là điều gì cần thiết và đối tượng mà mình nhìn thấy có thể giúp được tôi sẽ lên tiếng.
Còn lại XIN MIỄN TRẢ LỜI.
Thanked by 2 Members:
|
|
#353
Gửi vào 05/02/2018 - 23:44
V.E.DAY, on 05/02/2018 - 18:31, said:
- Tại sao an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc ( mà Xương Khúc lại là biểu tượng của cây nêu, cây biểu can dùng để đo bóng mặt trời )
- Rồi từ đó mới thấy rõ tính chất ngũ hành của cặp sao này. ( Ân quang hành hỏa, Thiên Quý hành thủy )
Người xưa căn cứ vào bóng của mặt trời để tìm ra độ dài của :
- bình minh là khoảng thời gian mặt trời chưa lên khỏi mặt đất nhưng trên bầu trời đã có ánh sáng.
- hoàng hôn là khoảng thời gian mặt trời đã lặn xuống dưới mặt đất nhưng trên bầu trời vẫn còn ánh sáng.
Cho nên an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc.
Và không có lý do gì để nói Ân quang là hành mộc hay thổ ! Ân quang hành hỏa.
Còn Thiên quý liên quan đến mặt trăng. Thiên Quý hành thủy. Người có Quang Quý thủ mệnh phải khẳng định chắc chắn là NGƯỜI CÓ TỪ TÂM.
Chính vì vậy Quang Quý mới hóa giải được sát tính của Tứ Sát.
Thanked by 2 Members:
|
|
#354
Gửi vào 06/02/2018 - 00:05
GiangLong, on 30/01/2013 - 00:46, said:
Theo lời huynh Độc Họat: Ân chính là Ân điển của vua ban, Quý chính là bảo vật. Cho nên Ân Quang mới chính là cái lợi ích thiết thực, sự cứu giải lớn. Thiên Quý là nhỏ. Quang có hiệu lực mạnh hơn Quý.
Hai sao này nếu thủ mệnh hoặc chiếu về Mệnh (tam hợp chiếu khi mệnh ở cung Âm , 1 tam hợp chiếu 1 xung chiếu nếu Mệnh ở cung Dương, Quang Quý đồng cung Sửu Mùi) thì cả đời may mắn, thóat khỏi tai họa dễ dàng, luôn có sự giúp đỡ của người trên, mạnh nhất là khi đồng cung ở Sửu Mùi. Hai sao này (ví dụ 1 ở Quan Lộc, 1 ở Tài bạch chiếu về, hoặc 1 ở QUan Lộc 1 ở Thiên Di chiếu về Mệnh) cũng có tác dụng giải ách mạnh mẽ, nó làm cho Tuần Triệt đóng tại Mệnh Thân bị giảm tác dụng phá họai rất nhiều.
Ân Quang Thiên Quý đồng cung Sửu Mùi thời Tuần Triệt không còn tác dụng nữa, chỉ là sự cản trở nho nhỏ chẳng đáng kể. Cho nên tôi có kinh nghiệm, Mệnh có Tuần Triệt chưa chắc thiếu niên tân khổ đâu, nếu có cặp Quang Quý này thủ Mệnh hoặc từ Quan, Di ,Tài chiếu về Mệnh thời Tuần Triệt chỉ còn là cái bề ngòai chỉ còn gây tác hại nho nhỏ thôi. Lưu ý là phải có đủ cả Quang Quý tại các cung trên chiếu về Mệnh hoặc thủ Mệnh thì mới ngăn cản Tuần Triệt mạnh được, chứ một sao thì tác dụng giảm đi nhiều.
Ân Quang Thiên Quý không sợ Lục Sát Tinh. Nó giải được phần nào Không Kiếp , khi đi đủ bộ tại Sửu Mùi thì giải được mạnh hơn. Nói chung Mệnh Thân Quan Di Tài Phúc Phối nều có Sát Tinh hãm địa nhưng lại có Quang Quý hội họp chiếu về cũng không nên lo lắng lắm, cái hung hãn bị giải nhiều.
Quang Quý làm cho cặp Hình Riêu mất đi tính hung hãn và dâm ác, trở nên từ hòa hơn, bớt gây tác hại. Quang Quý đi thêm Thiên Quan Thiên Phúc nói như anh Đỗ Thanh Dũng đúng là gần như bất khả xâm phạm, các Sát Tinh đóng ở mệnh hay hạn gần như không gây họa lớn được mà chỉ làm cản trở phá họai vừa phải thôi.
Hai sao này đóng ở đâu giáng phúc ở đấy, là hai sao rất đáng quý của Tử Vi.
Bổ sung thêm 1 ý là Tuần Triệt làm giảm tác dụng của Quang Quý về thời gian tác dụng của hai sao này . Cụ thể nếu Quang Quý gặp Tuần Triệt thì khoảng thời gian về sau (trung hậu vận, giữa hạn..) mới cảm thấy rõ rệt tác dụng của Quang Quý, nhưng tác dụng của Quang Quý rất bền vững, càng về sau càng tốt đẹp.
Các bạn chắc hầu hết đã từng đặt câu hỏi, Quang Quý Thai Toạ có những liên hệ gì đó rất mật thiết với Xương Khúc Tả Hữu nên chúng mới an theo nhau. Có Xương Khúc rồi mới có Quang Quý: an xương khúc theo giờ, sau đó thêm vào ngày sinh để an Quang Quý. Có Tả Hữu (an theo tháng) rồi mới có Thai Toạ. Trong đó ta biết Xương Khúc là biểu trưng cho sách vở, tình cảm, tư duy bắt nguồn học vấn, trí thức học hiểu , Tả Hữu là biểu trưng cho sự giúp đỡ của người đời với ta (hoặc của ta với người đời) . Trong Tử Vi, rất sao quan trọng đều có hoá khí: Thiên Tướng hoá khí là ấn, Đà hoá Kỵ, Kình hoá Hình... Vậy nhưng chưa từng nói tới Hoá Khí của Tả Hữu Xương Khúc. Thực tế Quang Quý, Thai Toạ có thể coi như Hoá Khí của Xương Khúc tả hữu.
- Quang Quý là tình cảm, may mắn, vui vẻ, sự thuỷ chung, lòng tín ngưỡng, sự trợ giúp Vô Hình. Nó bắt nguồn từ đâu, chính là từ Xương Khúc mà ra. Nói theo thuyết nghiệp báo nhà Phật thì phải từ học hỏi, tư duy (Xương Khúc) người ta mới đi tới hành động, phát sinh tình cảm. Từ tư duy hiểu biết đứng đắn mà phát sinh tâm tư hành động và ta thụ hưởng nhân quả của hành động hay tư tưởng một phần qua Quang Quý. Hai quý khí này gặp Thổ thì tụ khí rất mạnh, như vậy tại Sửu Mùi Thìn Tuất là miếu vượng, tại đây Quang Quý phát sinh huệ (trí tuệ theo Đạo Phật) do vậy người có Mệnh hoặc Thân ở tứ mộ được Quang Quý hội tụ là cực kỳ tốt.
---suu tam----
Ân Quang thuộc Mộc , Thiên Quí thuộc Thổ.
Đây là hai sao phúc tinh, quí tinh, chủ sự nhân hậu, từ thiện, may mắn, gặp thời, đem lại sự tốt lành, có tính chất cứu khổn phò nguy, giải trừ bệnh tật tai họa, đem lại phúc thọ, chế hóa được tính dâm đãng hoa nguyệt của Đào Hồng, gặp sao hung cũng không có hại. Hai sao này biểu hiện sự giúp đỡ của đấng linh thiêng, khác với Tả Hữu là sự giúp đỡ của người đời
Hai sao này được an căn cứ vào Xương Khúc, Ân Quang được an căn cứ vào vị trí Văn Xương, Thiên Quí được an căn cứ vào vị trí của Văn Khúc. Hai sao này xung chiếu với nhau ở Thìn Tuất, đồng cung với nhau ở Sửu Mùi, tam hợp chiếu với nhau ở Mão Dậu Tỵ Hợi, và đứng riêng lẻ với nhau không thành bộ ở Tí Ngọ Dần Thân và chỉ có cung Thổ là Sửu Mùi mới có cách giáp Quang giáp Quí. Sách vở chỉ nói Ân Quang Thiên Quí miếu địa tại hai cung Sửu Mùi nhưng theo kinh nghiệm thì tại Tứ Mộ hai sao này rất mạnh mẽ và có tác dụng cứu giải ngay cả các hung tinh hạng nặng như Địa Không, Địa Kiếp đóng đồng cung. Nếu không gặp hung thì sao này lại chủ về may mắn. Có người còn cho rằng hai sao này vượng ở Sửu Mùi, đắc tại Mão Dậu.
Sụ giải họa của Quang Quí
Quang Quí giải họa rất mạnh mẽ khi thủ tại cung đó và đi đủ bộ, nhất là tại Thìn Tuất Sửu Mùi càng mạnh mẽ. Đơn thủ hoặc có cả bộ chiếu không sao thủ thì hiệu lực yếu đi nhiều. Còn cách giáp Quang giáp Quí thì hầu như không có tác động giải họa mấy khi trong cung có hung tinh hãm địa thủ. Không Kiếp có tác dụng giải họa gây ra bơi các sát tinh hạng nặng như Không Kiếp Kình Đà Hỏa Linh Hình Riêu, nhưng không có hiệu lực mấy khi giải cách hai đời chồng hoặc vợ gây ra do các yếu tố không phải do hung tinh tác họa như cách Tả Hữu tại Phu Thê thì không giải hết được và vẫn có khả năng hai đời. Quang Quí cũng không giải mạnh được chuyện thị phi do Tuế Đà Kỵ gây ra.
Tại vị trí Sửu Mùi thì nó có khả năng giải được hung tinh tọa thủ tại cung nhị hợp là Tí và Ngọ. Tại Thìn Tuất gặp Không hay Kiếp đồng cung hoặc hợp chiếu thì Quang Quí tại đây giải hầu hết tai họa, không phải lo ngại về tai họa vì tai họa không đáng kể. Trường hợp này có Kình Đà hãm địa cùng chiếu về cũng không sao. Nếu có Không Hoặc Kiếp mà thêm Hinh Riêu cả bộ thì cũng giảm rất nhiều tai họa nhưng cũng không hết. Quang Quí tam hợp thủ tại cung thì Không Kiếp hãm địa cả bộ chiếu thủ cũng không đáng ngại vì tai họa không đáng kể. Quang Quí thủ có đủ bộ giải được cả bộ Kình Đà hãm chiếu về, hoặc Kình hoặc Đà hãm tọa thủ, giải đươc Kình Dương hãm địa tại Tí Ngọ Mão Dậu
Ân Quang Thiên Quí đồng cung giải được Hình Riêu Không Kiếp đủ bộ thủ chiếu
Quang Quí đơn thủ không giải họa mạnh được, không giải được Kình cư Ngọ có Hình Riêu tam hợp. Quang Quí đồng cung, vừa nhị hợp vừa giáp thì giải họa rất nhiều cho cung này, giải được Không hoặc Kiếp tọa thủ. Quang Quí đơn thủ gặp Không, Kiếp hãm đồng cung thì giải nhiều nhưng không hết tai họa.
---suu tam---
Thanked by 1 Member:
|
|
#355
Gửi vào 06/02/2018 - 07:54
anhhungxadieu, on 05/02/2018 - 23:44, said:
Thiên, Nguyệt Đức, Giải thần tàng,
Cùng là Quan, Phúc một làng trừ hung
Khi bàn về Quang-Quý, tôi biết rồi sẽ đến câu hỏi này.
Hãy nhận xét ( nêu ý kiến nhận xét của riêng mình ) về cách an cặp sao Quan-Phúc cho tôi xem rồi tôi sẽ trả lời.
Thanked by 2 Members:
|
|
#356
Gửi vào 06/02/2018 - 10:49
Cái thủa tía bắt học Kinh ba chữ ( Tam tự kinh ), không thuộc là tía đánh đòn ... hi hi hi
"Nhân chi sơ"
là sờ tí mẹ
"Tính bản thiện"
là miệng muống ăn, thò tay bốc liền
"Tính tương cần"
là mắt cận thị
"Tập tương viễn"
là phi ra đồng đi xúc cá ...
Thời đó cứ nghĩ rằng Ngũ hành tương sinh là tốt còn tương khắc là xấu. Vậy mà mãi đến sau này mới hiểu ra rằng :
Tương khắc để thành nên công dụng
Tương khắc để giữ lấy sự quân bình.
Thanked by 6 Members:
|
|
#357
Gửi vào 06/02/2018 - 14:42
Càn: Nguyên; Hanh, Lỵ, Trinh .
Càn đạo (Nguyên) biến hoá, các chính tính mệnh, bảo hợp thái hoà, nãi lỵ trinh.
Sửa bởi Vô Danh Thiên Địa: 06/02/2018 - 14:44
Thanked by 1 Member:
|
|
#358
Gửi vào 06/02/2018 - 15:34
V.E.DAY, on 05/02/2018 - 18:31, said:
- Tại sao an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc ( mà Xương Khúc lại là biểu tượng của cây nêu, cây biểu can dùng để đo bóng mặt trời )
- Rồi từ đó mới thấy rõ tính chất ngũ hành của cặp sao này. ( Ân quang hành hỏa, Thiên Quý hành thủy )
Người xưa căn cứ vào bóng của mặt trời để tìm ra độ dài của :
- bình minh là khoảng thời gian mặt trời chưa lên khỏi mặt đất nhưng trên bầu trời đã có ánh sáng.
- hoàng hôn là khoảng thời gian mặt trời đã lặn xuống dưới mặt đất nhưng trên bầu trời vẫn còn ánh sáng.
Cho nên an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc.
Và không có lý do gì để nói Ân quang là hành mộc hay thổ ! Ân quang hành hỏa.
Còn Thiên quý liên quan đến mặt trăng. Thiên Quý hành thủy. Người có Quang Quý thủ mệnh phải khẳng định chắc chắn là NGƯỜI CÓ TỪ TÂM.
Chính vì vậy Quang Quý mới hóa giải được sát tính của Tứ Sát.
Thiên quý còn có nghĩa là kinh nguyệt của phụ nữ (thiên quý 天癸).
Thanked by 3 Members:
|
|
#359
Gửi vào 06/02/2018 - 15:49
Thanked by 1 Member:
|
|
#360
Gửi vào 07/02/2018 - 00:16
V.E.DAY, on 06/02/2018 - 15:49, said:
Sửa bởi Vô Danh Thiên Địa: 07/02/2018 - 00:25
Thanked by 1 Member:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
![]() ![]() Thiên can là gì![]() |
Tử Bình | iamthat |
|
![]() |
|
![]() Thiên đạo vô thường và ý nghĩa sâu sắc của nhân đạo |
Nguồn Sống Tươi Đẹp | Baokiemtrungma |
|
![]() |
|
![]() nhân tông và thiên tông trong đạo gia |
Giải Trí | Baokiemtrungma |
|
![]() |
|
![]() Tìm hiểu ĐÀN BÀ CON GÁI qua Tướng thuật-ĐÔNG HẢI THẦN NHÃN Vũ Tri Thiên![]() Bài từ diễn đần cũ,nkd833 post |
Nhân Tướng Học | giakhoa |
|
![]() |
|
![]() Miêu tả cảnh giới thiền của các cõi trời |
Khoa Học Huyền Bí | iamthat |
|
![]() |
|
![]() Thiên Đạo Mộng Huyễn![]() |
Linh Tinh | T0ny99 |
|
![]()
|
2 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












