Trích lại một bài đã đăng báo. Hy vọng làm sáng tỏ một số vấn đề.
=====================================
TỬ VI VÀ THẾ CUỘC, bài 7
VẤN ĐỀ NGÀY VÀ GIỜ KHI AN LÁ SỐ TỬ VI TẠI MỸ
Đằng Sơn
Trả lời bài ý kiến của ông Paul Trần
Trong số Thời Báo cuối tuần ra ngày thứ bảy 10 tháng 5 ở San Jose, 2003 ông Paul Tran (San Jose) có góp ý về lá số của đương kim tổng thống George W. Bush. Người viết dùng lịch Việt Nam của software VNI tính ra được ngày 8 tháng 6 và dùng ngày này lập lá sôá của ông. Ông Paul Trần cho rằng khi lấy lá số tử vi cho những người sinh ở Mỹ phải cộng thêm một ngày nữa mới đúng (thành ngày 9 tháng 6 trong trường hợp tổng thống Bush). Ngoài ra người viết chọn giờ sinh là giờ Mão, ông Paul Trần chọn giờ sinh là giờ Thìn.
Khi dòng này được viết, cách định ngày giờ cho những người sinh ngoài Việt Nam vẫn là một vấn nạn chưa được giải quyết thỏa đáng. Có ba trường phái chính:
1. Tính ra ngày giờ Việt Nam rồi lập lá số: Trong trường hợp tổng thống Bush, tính ra là 6 giờ 32 chiều cùng ngày 8 tháng 6 ở Việt Nam.
2. Giữ nguyên ngày và giờ địa phương. Đây là phương pháp người viết đã xử dụng cho 6 lá số trong loạt bài Tử Vi và thế cuộc.
3. Thêm một ngày nhưng giữ nguyên giờ: Đây là phương pháp ông Paul Trần đã xử dụng.
Người viết thú nhận là đã chưa giải thích tại sao lại chọn phương pháp 2, nên xin làm việc đó trong số này; nhưng trước hết xin được phép góp ý với ông Paul Trần trong trường hợp lá số của tổng thống Bush như sau.
Ông Bush sinh 7:32 sáng giờ kiệm quang đông Mỹ (Eastern daylight saving time) ngày 6 tháng 7 năm 1946. Giờ kiệm quang là giờ tiêu chuẩn cộng thêm một giờ, nên muốn tính giờ tiêu chuẩn phải trừ đi một giờ thành 6:32 sáng (lẽ ra phải dựa theo luật cứ 15 kinh tuyến bằng một giờ đồng hồ để tính ra chi tiết hơn nữa, nhưng cách trừ một giờ tạm thỏa đáng cho đa số trường hợp giờ kiệm quang).
Cách đổi giờ tây phương sang giờ tử vi thì có hai trường phái. Một trường phái cho là phải khởi giờ Tý từ 11 giờ đêm trước. Trường phái khác cho là phải khởi từ 12 giờ đêm.
Cách thứ nhất: Tý (11giờ-1giờ), Sửu (1-3), Dần (3-5), Mão (5-7).
Cách thứ hai: Tý (12giờ-2giờ), Sửu (2-4), Dần (4-6), Mão (6-8).
Trường phái thứ hai là trường phái thông dụng ở Việt Nam (các thầy tử vi thường khởi giờ Tý ở 11 giờ đêm trước, nhưng -vì VN cố ý để đồng hồ chạy trễ hơn tiêu chuẩn 1 giờ- 11 giờ đêm VN tức là 12 giờ đêm theo tiêu chuẩn quốc tế.)
Nhưng bất luận chọn lựa cách nào, 6:32 giờ sáng đều là giờ Mão. Vì vậy người viết xin phép bất đồng ý với giờ Thìn như ông Paul Trần đã chọn.
Một khi đã đồng ý giờ Mão thì cung Mệnh sẽ lập ở Thìn (thay vì ở Mão nếu chọn giờ Thìn), được Thủy nhị cục. Đặc điểm của Thủy nhị cục là hai ngày 8 và 9 cùng an Tử Vi ở cung Tỵ. Nghĩa là thêm một ngày lá số vẫn gần như y hệt so với lá số mà người viết đã dẫn ở trên, chỉ hai cặp sao không mấy quan trọng cho việc đoán vận mệnh là Quang Quý và Thai Tọa1 dời chỗ mà thôi.
Ngày và giờ sinh ngoài Việt Nam phải tính thế nào?
Dù bất đồng ý kiến về giờ, người viết công nhận vấn đề ngày mà ông Paul Trần đưa ra cần phải được giải quyết thỏa đáng.
Về ba phương pháp định ngày giờ đã liệt kê, người viết xin khẳng định là cách 1 chắc chắn sai bởi vì tử vi là một ứng dụng của thuyết âm dương, dựa trên cộng hưởng giữa trái đất với mặt trời, mặt trăng, và phần còn lại của vũ trụ. Đơn cử một thí dụ: Một người sinh giữa trưa ở nước Mỹ thì khi sinh mặt trời đang ở thế dương, nếu đổi sang giờ Việt Nam thành ban đêm là thế âm mất rồi, làm sao chính xác được. Tóm lại phải lấy tử vi theo giờ địa phương mới hợp lý.
Nhưng còn ngày thì sao? Hai cách 2 và 3 đều có cơ sở nhưng đều không ổn thỏa. Cách 2 giản dị vì nó coi mọi nơi trên thế giới như nhau, nhưng có thể coi mọi nơi trên thế giới như nhau không khi trái đất luôn luôn quay theo một chiều cố định, và dương lịch (mà ta phải dựa theo để định ngày âm lịch) đã chọn một lằn ranh ngày giữa Thái Bình Dương làm chuẩn điểm? Cách 3 nghe có lý vì rõ ràng giờ Việt Nam đi trước giờ Mỹ mười mấy tiếng. Nhưng vấn đề to lớn là, ta phải phân ranh giới thêm một ngày ở đâu? Giả như nói nước Mỹ phải thêm một ngày thì Hawaii, đảo Guam có thêm ngày không? Còn Nhật Bản, Đại Hàn, Trung Đông (trường hợp Saddam Hussein), Âu Châu (trường hợp Thatcher) thì sao? Quả là nan giải.
Vì nhu cầu thời sự, sáu lá số Tử Vi thế cuộc đã xuất hiện trong khi người viết vẫn còn đang vật lộn với vấn nạn ngày. Cách 2 được chọn (thay vì cách 3) chỉ vì nó giản dị hơn. Rất may, nhờ một kỳ duyên to lớn, hai tuần trước người viết tình cờ vào một website của ông Hồ Ngọc Đức, một chuyên gia computer ở Âu Châu. Theo lời chỉ dẫn của website này, người viết đặt mua một quyển sách giải thích rõ cái lý nằm sau âm lịch2. Người viết rất vui mừng tuyên bố rằng vấn đề ngày tử vi ngoài Việt Nam bây giờ đã được giải quyết xong, tối thiểu trên mặt lý luận.
Một cách vắn tắt, cách chọn ngày cho lá số Tử Vi phải dựa trên cái lý của âm lịch. Nhiều người trong chúng ta (người viết trước đây cũng thế) tưởng rằng chỉ có một âm lịch. Thực ra, vì âm lịch dựa trên cộng hưởng của cả mặt trăng lẫn mặt trời, mỗi địa phương -vì kinh tuyến khác nhau- có một âm lịch khác nhau (gọi là âm lịch địa phương). Đây là lý do tại sao Việt lịch (dựa theo đông kinh tuyến 105 gần Hà Nội) thỉnh thoảng khác với âm lịch Trung Hoa (dựa theo Bắc Kinh, đông kinh tuyến 116 độ 25 phút) và âm lịch Nhật Bản (dựa theo đông kinh tuyến 135, gần Đông Kinh.)
Cái lý của việc tính ngày âm lịch rất phức tạp nên sẽ không được trình bày ở đây. Sau khi tham khảo với website của ông Đức3, người viết có kết quả như sau về 6 lá số đã đoán trong loạt bài Tử Vi và Thế Cuộc:
Bill Clinton, sinh ở tây kinh tuyến 93 độ 35 phút, ngày 19 tháng 8, 1946. Ngày âm lịch là 23 tháng 7 Bính Tuất, y như lá số đã an.
Hillary Clinton, sinh ở tây kinh tuyến 87 độ 39 phút, ngày 26 tháng 10, 1947. Ngày âm lịch là 13 tháng 9, y như lá số đã an.
Al Gore, sinh ở tây kinh tuyến 77 độ 02 phút, ngày 31 tháng 3 năm 1948. Ngày âm lịch là 22 tháng 2 Mậu Tý, hơn lá số đã an một ngày.
George W. Bush, sinh ở tây kinh tuyến 72 độ 56 phút, ngày 6 tháng 7 năm 1946. Ngày âm lịch là 9 tháng 6 Bính Tuất, hơn lá số đã an một ngày.
Saddam Hussein, sinh ở đông kinh tuyến 43 độ 42 phút, ngày 28 tháng 4 năm 1937. Ngày âm lịch là 18 tháng 3 Đinh Sửu, y như lá sôá đã an.
Margaret Thatcher, sinh ở đông kinh tuyến , ngày 13 tháng 10 năm 1925. Ngày âm lịch là 26 tháng 8, y như lá số đã an.
Tóm lại, trong 6 lá số kể trên bốn lá đúng ngày với Việt lịch (Bill & Hillary Clinton, Saddam Hussein, Margaret Thatcher) nên không cần lấy lại. Lá số của TT Bush vì là Thủy Nhị cục nên ngày địa phương (9 tháng 6) và ngày Việt lịch (8 tháng 6) chỉ khác chỗ hai cặp sao không mấy ảnh hưởng đến vận mệnh là Quang Quý và Thai Tọa, do đó không cần bàn thêm nữa.
Kiểm chứng cách định ngày âm lịch với lá số của Al Gore
Còn lá số của Al Gore thì sao? Tử Vi vẫn chưa đạt vị trí của một khoa học, nên mọi khám phá mới đều phải được chứng nghiệm cẩn thận. Ta đã thấy lá số của cựu tổng thống Al Gore tính theo Việt lịch (sinh ngày 21 tháng 2 Mậu Tý) từ mệnh đến vận đều chính xác. Nay thử xem lá số tính theo âm lịch địa phương (sinh ngày 22 tháng 2 Mậu Tý, giờ Ngọ) có chính xác không.
Al Gore: Khó thoát bụi trần!
Theo lá số Việt lịch chính tinh của mệnh thân Al Gore là Âm Dương. Nay theo lá số âm lịch địa phương chính tinh là Thiên Tướng. Người viết có làm một bài phú mới, trong đó có hai câu:
Dậu cung bất thiện Thiên Tướng đa đoan
Phản hữu Hồng Loan sắc không giác ngộ
Nghĩa là Thiên Tướng cư mệnh thân ở cung Dậu rất dễ gặp chuyện bất đắc chí, nhưng tuổi Ngọ tất vì Thiên Tướng cùng cung với Hồng Loan (và xung chiếu với Liêm Phá Đào Hoa) mà dễ ngộ ra cái lẽ sắc không của cuộc đời. Tiếc rằng Al Gore tuổi Tí nên Thiên Tướng cùng cung với Đào Hoa (tượng dục vọng ích kỷ) mà xung chiếu Hồng Loan (tượng tình cảm nhẹ nhàng duy nhân), tức là ngược lại; nên đời sống từ nhỏ đã quy củ như một nhà tu nhưng vì duyên nghiệp mà vẫn phải vướng bụi trần.
Al Gore lấy vợ năm 1970, khi còn ở trong quân đội. Sau khi giải ngũ năm 1971 hai vợ chồng cùng đi làm báo. Họ ôm giấc mơ giản dị là mua lại một tờ tuần báo phát hành trong phạm vi địa phương. Nhưng ý trời xui khiến, ngay khi mộng chủ báo không thành vì bị người khác xuất nhiều tiền hơn phỗng tay trên mất, thì cơ hội vào hạ viện lại đến tận tay vào năm 1976. Có thể nói Gore vì tình cờ mà bước vào lịch sử.
Cái nghiệt ngã của cung phụ mẫu
Nhưng chính trị là một cái vòng quái ác, lỡ lọt vào rồi rất khó thoát ra. Nhất là trong trường hợp Al Gore, trời cho ông thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chẳng cần cố gắng gì mà năm 1984, chỉ mới 37 tuổi, ông đã thắng cử vào thượng viện.
Và rồi cung phụ mẫu đã quyết định đời của ông. Như ta đã biết Gore sinh ra trong gia đình quyền quý. Cha ông là thượng nghị sĩ cho đến khi thất cử năm 1970 (mặc dù Gore đã hy sinh vào quân đội năm 1969 mong giúp ông đắc cử.) Kẻ có một thuở vàng son thường muốn con cái tiếp tục sự nghiệp dở dang của mình. Giáng sinh năm 1986, trong cảnh đoàn tụ của gia đình, ông Gore Sr. bảo thẳng với Al Gore rằng ông muốn thấy Al Gore là tổng thống trước khi ông nhắm mắt lìa bỏ cõi đời. Thế là Al Gore vì cha mà nhảy vào vòng lửa đỏ năm 1987, để rồi phải bỏng chân nhảy ra sau khi thua to cuộc bầu cử nội bộ của đảng Dân Chủ năm 1988 ở New York.
Từ đó có thể thấy cung phụ mẫu của Al Gore phải rất mạnh mẽ mới đúng số. Lá số cũ Tham Lang miếu địa hóa Lộc ở đây hợp cách. Lá số mới chính tinh là Cơ (hóa Kỵ) và Lương (tự Lộc) miếu địa có lẽ đúng hơn nữa, vì Kỵ Hình cùng cung cho ta thấy cái áp lực cay nghiệt mà cung phụ mẫu đã đè nặng lên Al Gore suốt cuộc đời.
Hạnh phúc gia đình
Vì thêm một ngày, cung Thê không còn cách Quang Quý, nhưng với Vũ Tham đắc hai Lộc (hóa Lộc và tự Lộc) một tự Quyền, thêm Khôi Việt Hồng Loan Thanh Long vẫn là vợ khá giả và hai vợ chồng thương yêu nhau. Cung Tử Tức Đồng Âm cùng hãm địa, nhưng Thái Âm (tượng phái nữ) đắc hai Quyền nên phái nữ lấn đất, sinh ba gái một trai là quá đúng.
Đại hạn: Ý nghĩa không đổi bao nhiêu
Nay xét đại hạn. Giai đoạn 1970-79 ứng với đại hạn 23-32. Tử Sát cư Hợi có hai Lộc (hóa Lộc và tự Lộc) một tự Quyền, cộng Không Kiếp đắc địa chiếu; phù hợp với việc lấy được vợ vượng phu ích tử (năm 1970) và đắc cử vào hạ viện (1976).
Giai đoạn 1980-89 ứng với đại hạn 33-42. Vô chính diệu ngộ Triệt lại không có sát tinh thủ nên hút được sức chiếu của Âm Dương. Chú ý chính vì hãm địa mà cặp Âm Dương này thỏa lẽ “cùng tắc biến” của dịch (bởi Thái Âm đắc hai Quyền -hóa Quyền và tự Quyền-, trở thành mạnh mẽ hơn nhiều cặp Âm Dương khác), do đó mạnh mẽ hơn nhiều cặp Âm Dương khác. Chỉ có điểm đáng tiếc là đối cung (tức là địch thủ trong cảnh đấu tranh chính trị) được vào đúng cách “Mã đầu đới kiếm trấn ngự biên cương” nên mặc dù được sự đắc ý của vòng Thái Tuế (tam hợp Thân Tí Thìn) là đắc cử vào thượng viện, vẫn bị điểm bất đắc ý là thua to trong cuộc tranh cử tổng thống.
Giai đoạn 1990-99 là đại hạn 43-52 vào quan lộc, vô chính diệu không có sát tinh độc thủ. Đối phương rất uy mãnh (Tham Vũ đồng hành đắc hai Lộc một tự Quyền) mà sao lại thắng? Xin thưa vì hai lẽ. Thứ nhất nhờ ở thế tiền hỗn loạn lại được cặp Không Kiếp ở Tỵ là “hung tinh đắc địa phát dã như lôi” ở Tỵ tam hợp. Thứ hai là vì tranh chức phó tổng thống nên được hưởng cách “Phủ Tướng triều viên”, vốn là vị thế nương nhờ kẻ khác. Tóm lại vì vô tình hành sử đúng với ý nghĩa “quyền lực vay mượn” của mệnh thân Thiên Tướng nên được trời đáp ứng.
Năm 2000 là năm đầu của đại hạn 53-62, đại tiểu hạn trùng phùng ở Dần nên mọi ý nghĩa đều tăng gấp bội. Cung này lại vô chính diệu, có bại tinh Đại Hao dành chức với Thiên Mã. Đại Hao ở đây là đắc địa, nhưng là bại tinh không đủ mạnh để lấn át Mã. Hao lại là phản đề của Lộc nên mâu thuẫn với Mã. Đối phương cũng mạnh (Cự Nhật đắc tự Lộc) lại ở cung Thân mang tính kim khắc thắng tính mộc của cung Dần. Do đó mặc dù đắc Mã Khốc Khách, thêm Lộc Quyền chiếu mà Al Gore thất cử đớn đau.
Cách Linh Xương Đà Vũ vẫn ứng với Al Gore!
Còn lại một vấn đề chót. Trong lá số lấy theo Việt lịch ta thấy cung phúc đức của đại hạn 53-62 bị cách Linh Xương Đà Vũ cùng cung nên thua George W. Bush một cách vô cùng đau đớn. Với lá số mới (lấy theo âm lịch địa phương) ta thử xem cách này có còn ứng hay không?
Một trường phái tử vi đang tung hoành ở Đài Loan do ông Liễu Vô Cư Sĩ đề xướng chủ trương “mệnh vận phân ly”, nghĩa là khi xem vận ta phải bỏ hẳn một số sao nguyên thủy, chỉ xem sao lưu thôi. Mặc dù rất khâm phục kiến thức quảng bác của ông Liễu Vô Cư Sĩ, sau khi nghiền ngẫm bằng phương pháp khoa học, người viết buộc lòng đi ngược lại ông. Thay vì “mệnh vận phân ly”, người viết chủ trương “mệnh vận tương phùng”.
Chủ trương “mệnh vận tương phùng” sẽ được bàn kỹ hơn trong loạt bài “Tử Vi hoàn toàn khoa học”. Đại khái ta có thể so sánh cung mệnh nguyên thủy như căn nhà chính ở trọn cả đời, mỗi đại hạn như một căn nhà phụ ở tạm 10 năm. Vận là hoàn cảnh của người đến căn nhà phụ. Hoàn cảnh ấy sẽ tùy thuộc vào căn nhà chính. Lấy một thí dụ: Cùng đến ở tạm một motel tương đối sạch sẽ, người nhà nghèo sẽ rất vừa ý, người nhà giàu sẽ rất khó chịu.
Áp dụng vào tử vi, khi xem đại hạn phải lấy lá số nguyên thủy làm căn bản, đến đại hạn nào thì xem đại hạn ấy là cung mệnh tạm thời. Phối hợp cung mệnh nguyên thủy với cung đại hạn (tức cung mệnh tạm thời) thì biết tốt xấu tổng quát, phối hợp cung phúc nguyên thủy với cung phúc của đại hạn (cách cung đại hạn một cung theo chiều kim đồng hồ) thì biết được phúc đức trong đại hạn ra sao, vân vân...
Với cách xem này ta thấy cung phúc nguyên thủy thuộc cách Sát Phá Liêm Tham (nghĩa là tam hợp có Sát Phá Tham Tử Liêm Vũ), trong đó Vũ Tham mạnh hơn cả. Cung tật ách nguyên thủy vô chính diệu, nên hai hung tinh Linh và Đà giật quyền làm chủ. Hai sao này chế hóa giảm sát khí của nhau nên là một phối hợp tốt đẹp, thêm cách Long Phượng Hổ Cái là quý nhân phù trợ khiến Al Gore ít phải lo ngại tai nạn. Rất tiếc khi vào đại hạn 53-62 cung này tạm trở thành cung phúc đức, tất sao Văn Xương được tạm hội họp với sao Vũ Khúc, thành cách “tà chính phân vân” Linh Xương Đà Vũ. Nhắc lại Linh Xương Đà Vũ là cách bất đắc chí, bởi vậy trời bắt Gore thua đau đớn trong đại hạn 53-62 là quá đúng rồi!
Âm lịch địa phương: Tạm thời khả tín
Tóm lại, tối thiểu với lá số Al Gore, ta thấy cách định ngày theo âm lịch địa phương không những chính xác, mà có phần chính xác hơn cách định ngày theo Việt lịch. Nhưng lá số của Al Gore là một trường hợp khá đặc biệt. Người viết đã thử lấy luôn một lá cho ngày 20 tháng 2, tức là giảm một ngày so với Việt lịch, và thấy rằng lá số này vẫn chính xác.
Tóm lại, trên mặt lý luận ta nên tạm tin cách định ngày theo âm lịch địa phương; nhưng phải kiểm chứng với nhiều lá số nữa mới có thể xác quyết rằng nó đúng.
San Jose ngày 14 tháng 5, 2003
Đằng Sơn
Chú thích:
1. Cần nói rõ hơn là hai cặp Thai Tọa và Quang Quý không mấy ảnh hưởng vận mệnh của TT Bush, nhưng vẫn có thể đóng vai trò quan trọng trong nhiều lá số khác.
2. Sách có tên là “Calendrical Calculations, the Millenium edition”, Edward M. Reingold và Nachum Dershowitz, Cambridge University Press, 2002. Có thể đặt mua qua Amazon.com.
3. Âm lịch địa phương không những có thể khác ngày mà còn có thể khác tháng nữa. Thí dụ: Ông X ra đời ngày 25 tháng 12 năm 1642 ở tây kinh tuyến 0 (GMT+ = 0), tính ra âm lịch địa phương là ngày 5 tháng 11 năm Nhâm Ngọ. Nếu theo Việt lịch (GMT+ = 420) thì được ngày 4 tháng 12 năm Nhâm Ngọ, tức là khác cả tháng lẫn ngày. Ấy bởi vì trong năm Nhâm Ngọ này âm lịch địa phương có tháng 8 nhuận, mà Việt lịch thì không.
Các độc giả tò mò có thể ghé website của ông Hồ Ngọc Đức
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
để thử cách đổi ngày từ Dương lịch sang âm lịch địa phương. Trong website này ông Đức đặt GMT+ = 420 (trong cửa sổ bên phải), đây là số phút cách biệt giữa Việt Nam và điểm mốc giờ ở Greenwich Anh quốc (420 phút tức 7 giờ đồng hồ). Muốn định giờ âm lịch địa phương ta phải dùng GMT+ của nơi sinh thay vì 420. Các địa điểm ở phía phải của Greenwich (đông kinh tuyến) tương đối giản dị, chỉ việc lấy số kinh tuyến chia cho 15 rồi nhân với 60. Thí dụ đông kinh tuyến 30 cho kết quả của GMT+ là 30/15x60= 120.
Ghi chép thêm ngày 24 tháng 5, 2004 cho tây kinh tuyến: Các địa điểm ở phía trái của Greenwhich (tây kinh tuyến) thì thêm dấu trừ phía trước. Thí dụ tây kinh tuyến 30 cho kết quả của GMT+ là -120.
Ghi chép thêm ngày 24 tháng 5 về cách tính giờ:
Phụ lục 1: Bàn thêm về cách “Thai Vượng Tướng Binh Đào Hồng”
Nam mệnh hai tuổi Tý và Ngọ rất dễ gặp cách “Thai Vượng Tướng Binh Đào Hồng” ở hai cung Mão Dậu (can Bính Mậu Nhâm và cục Kim Mộc, xác suất 6/25). Lá số của Al Gore là một trường hợp điển hình.
Một số báo trước đây người viết đã trình bày rằng “Thai Vượng Tướng Binh Đào Hồng” không nhất thiết là dâm cách, mà chỉ đại biểu “sắc” theo nghĩa “sắc không” của nhà Phật.
Với lá số đoan chính hoặc xuất sắc, đây là món nợ trần gian. Nó khiến kẻ muốn an nhàn (như Al Gore) phải vướng vào vòng danh lợi, kẻ có tài dễ sinh ra thiếu độ lượng, kẻ tham vọng dễ sinh tật gian hùng. Thế nhưng, như mọi sắc hương, nếu được chế hóa nó sẽ biến thành những đóa hoa đời đẹp đẽ, ứng với óc sáng tạo của văn nghệ sĩ, tài phát minh của khoa học gia, viễn quan của chính trị gia vân vân...
Dĩ nhiên với lá số tầm thường -các điều trên không ứng và cung phúc đức lại xấu- thì đây quả là dâm cách.
Phụ lục 2: Xét lại vị trí một số sao
Sau sáu năm rưỡi trời nghiên cứu Tử Vi ở Á Châu, ngoài việc học hỏi và chiêm nghiệm ra nhiều bí quyết, người viết dành nhiều thời giờ suy ngẫm về vị trí của một số sao.
KÌNH ĐÀ: Cách an truyền thống là “tiền Kình hậu Đà” với sao Lộc Tồn ở giữa, nghĩa là đi theo chiều thuận thì Đà La, Lộc Tồn, và Kình Dương chiếm ba cung liên tiếp nhau.
Mấy mươi năm trước đây Thiên Lương tiên sinh chủ trương rằng “tiền Kình hậu Đà” chỉ đúng với dương nam âm nữ; còn âm nam dương nữ phải đi ngược lại thành “tiền Đà hậu Kình”. Thí dụ tuổi Giáp Tý, bất luận nam nữ Lộc Tồn đều ở cung Dần. Theo truyền thống thì –bất luận nam nữ- an Đà ở Sửu, Kình ở Mão. Theo phái Thiên Lương nam sinh năm Giáp Tý là dương nam nên vẫn an như truyền thống, nhưng nữ Giáp Tý là dương nữ phải đi ngược lại, tức là Kình ở Sửu, Đà ở Mão.
Người viết xin phép bất đồng với phái Thiên Lương và vẫn an Kình Đà theo lối truyền thống, tức là “tiền Kình hậu Đà” bất luận âm dương nam nữ.
VÒNG TRƯỜNG SINH: Cách truyền thống là Thủy nhị cục và thổ ngũ cục an Trường Sinh ở Thân, Mộc tam cục ở Hợi, Kim tứ cục ở Tỵ, Hỏa lục cục ở Dần; rồi dương nam âm nữ theo chiều thuận, âm nam dương nữ theo chiều nghịch an 11 sao còn lại.
Trường phái Thiên Lương giống truyền thống cho trường hợp dương nam âm nữ. Âm nam dương nữ thì an như sau: Thủy nhị cục và Thổ ngũ cục khởi Trường Sinh ở Tý, Mộc tam cục ở Mão, Kim tứ cục ở Dậu, Hỏa lục cục ở Ngọ; rồi đi ngược chiều kim đồng hồ an 11 sao còn lại.
Người viết lại xin phép bất đồng với phái Thiên Lương và vẫn an vòng Trường Sinh theo lối truyền thống.
HỎA LINH: Tử Vi Việt Nam và Trung Hoa đồng ý rằng phải khởi Hỏa Linh từ một cung định trước rồi chuyển theo giờ, tùy theo “dương nam âm nữ” hoặc “âm nam dương nữ”.
Bài thơ “cung định trước”, nguyên thủy là:
Dần Ngọ Tuất nhân Sửu Mão phương
Thân Tý Thìn nhân Dần Tuất trường
Tỵ Dậu Sửu nhân Mão Tuất vị
Hợi Mão Mùi nhân Dậu Tuất đương
Nghĩa là tuổi Dần Ngọ Tuất khởi Hỏa Tinh ở Sửu, Linh Tinh ở Mão; Thân Tý Thìn khởi Hỏa ở Dần, khởi Linh ở Tuất; Tỵ Dậu Sửu khởi Hỏa ở Mão, khởi Linh ở Tuất; Hợi Mão Mùi khởi Hỏa ở Dậu, Linh ở Tuất. Cách an Hỏa Linh của người viết chỉ khác trong trường hợp Tỵ Dậu Sửu, thay vì “Mão Tuất vị” xin đổi ngược lại thành “Tuất Mão vị”, nghĩa là khởi Hỏa ở Tuất thay vì ở Mão, và khởi Linh ở Mão thay vì ở Tuất.
Gần như 100% các sách tử vi Trung Hoa hiện tại đều cho Hỏa Linh có vận hành cùng chiều, nghĩa là nếu Hỏa đi theo chiều thuận của giờ thì Linh cũng thế; trong khi đó tử vi Việt Nam nhất luật cho rằng hai sao này vận hành trái chiều nhau; nghĩa là nếu Hỏa đi theo chiều thuận thì Linh đi theo chiều nghịch, Hỏa chiều nghịch thì Linh chiều thuận.
Cần nói thêm rằng có một thiểu số rất nhỏ các nhà tử vi Đài Loan an Hỏa Linh nhất luật theo chiều thuận, bất chấp âm dương nam nữ. Một thiểu số khác, nhỏ hơn nữa, bỏ hẳn yếu tố giờ; an luôn Hỏa Linh vào cung định trước theo bài thơ nói trên.
Người viết an Hỏa Linh theo phương pháp Việt Nam.
LƯU HÀ: Sao này hiện nhan nhản trong các sách Tử Bình, nhưng người viết chưa được thấy sách Tử Vi nào ở Đài Loan hoặc Hồng Kông bàn tới. Tuy nhiên, vì rừng sách tử vi ở Đài Loan mênh mông, người viết chưa thấy không có nghĩa không sách nào bàn tới.
Theo tài liệu của ông Yên Tử Trần Đại Sĩ thì Lưu Hà là sao được thêm vào sau này. Cách an thì có nhiều khác biệt. Xin so sánh hai tài liệu Việt Nam là Văn Đằng Thái Thứ Lang “Tử Vi đẩu số tân biên” và Thiên Lương “Tử Vi nghiệm lý” với cách an của khoa Tử Bình:
Can Tử Vi đẩu số TV nghiệm lý Tử Bình
Giáp Dậu Dậu Dậu
Ất Tuất Tuất Tuất
Bính Mùi Mùi Mùi
*Đinh (âm) Thìn (dương) Thân (dương) Thân (dương)
Mậu Tỵ Tỵ Tỵ
Kỷ Ngọ Ngọ Ngọ
**Canh (dương) Thân (dương) Mão (âm) Thìn (dương)
**Tân (âm) Mão (âm) Thìn (dương) Mão (âm)
Nhâm Hợi Hợi Hợi
Quý Dần Dần Dần
Từ bảng trên ta thấy cách an Lưu Hà của phái Thiên Lương (tử vi nghiệm lý) bất đồng với truyền thống (tử vi đẩu số) ở ba can Đinh Canh và Tân. Lập luận của phái Thiên Lương là Lưu Hà phải luôn luôn nghịch lẽ âm dương với năm sinh. Xin bàn lại sao này khi có dịp. Hiện thời tạm theo phái Thiên Lương.
Vì hầu hết các software Tử Vi hiện nay dựa trên cách an sao của phái Thiên Lương, xin các độc giả điều chỉnh lại cho phù hợp trước khi đọc các bài “Tử Vi và thế cuộc”.