“Nguyễn Đức Kiên sinh ngày 13 tháng 4 năm 1964 tại Hà Nội.
Ngày 20/8/12, cơ quan CSĐT Bộ Công an đã khởi tố bị can, bắt tạm giam đối với ông Nguyễn Đức Kiên,
Tiểu sử
Nguyễn Đức Kiên sinh năm 1964 và lớn lên tại Gia Lâm, Hà Nội.[2] Năm 1980, ông thi đậu vào Đại học Kỹ thuật Quân sự (nay là Học viện Kỹ thuật Quân sự), khóa 15. Sau một năm học tại Học viện, đạt kết quả xuất sắc, ông được chọn đi du học tại Hungary.[3]
Từ năm 1981-1985 học tại Trường kỹ thuật quân sự Zalka Maté , ngành thông tin liên lạc quân sự.
Từ năm 1985-1993 là cán bộ Tổng công ty Dệt May VN.
Năm 1994 -2012, cùng các ông Trần Mộng Hùng, Phạm Trung Cang, Trịnh Kim Quang xây dựng Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB), sau đó là Phó chủ tịch Hội Đồng Quản Trị trước khi chuyển thành Phó Chủ tịch Hội đồng sáng lập ACB.
Năm 20/8/2012, ông bị bắt giữ để làm rõ hành vi "cố ý làm trái" liên quan đến các hoạt động kinh tế”.
Theo bác Hà Uyên thì bầu Kiên sinh giờ Thìn có Tứ Trụ:
Giáp Thìn – Mậu Thìn – Nhâm Thìn – Giáp Thìn
Các vận :
Kỷ Tị/ Canh Ngọ/ Tân Mùi/ Nhâm Thân/ Quý Dậu/ Giáp Tuất/ Ất Hợi/ Bính Tý
....6..........16...........26.............36...............46...........56..........76.........86
1969........79...........89.............99...............09...........19..........29.........39
Với Tứ Trụ này Thân quá nhược còn Quan Sát quá vượng lại không có Kim nên ngũ hành thiên lệch nhưng lại không thể tòng Thổ được vì có tới 2 Giáp. Cho nên mệnh này quá xấu, nó thuộc mệnh thiên khô thì làm sao có thể đại phát Tài được.
Vậy thì sinh vào giờ nào thì mới ứng hợp với đại phát Tài như bầu Kiên ?
Nhìn qua hành vận ta thấy 2 vận Canh Ngọ và Tân Mùi có can mang hành Kim ứng với Kiêu Ấn, còn vận Nhâm Thân và Quý Dậu, có can chi đều mang hành Kim và Thủy ứng với Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp của Tứ Trụ này. Mà thực tế của các vận này đều rất đẹp, đã đại phát Tài, phát Quan. Do vậy từ thông tin này chúng ta đủ để kết luận rằng Tứ Trụ này có Thân nhược và chỉ có thể thuộc cách cục phổ thông.
Thân nhược nhưng phải có lực thì vào các vận Thân vượng (tức vào các vận hỷ dụng thần) mới có thể đại phát Tài, phát Quan như vậy được. Do vậy ta thấy người này phải sinh vào các giờ có can chi mang hành Kim, Thủy hoặc Thủy và Mộc. Bởi vì Mộc có tác dụng khắc Thổ làm Thổ bị giảm sự cường vượng và làm cho Thủy bớt bị khắc nên mạnh lên.
Theo lý luận này thì người này chỉ có thể sinh vào các giờ:
Canh Tý, Nhâm Dần, Quý Mão và Tân Hợi.
Nếu sinh giờ
Canh Tý thì Thân vượng (vì Thìn trụ ngày hợp với Tý trụ giờ hóa Thủy thành công), khi đó Kiêu Ấn và Tý Kiếp sẽ là kỵ thần nên không phù hợp với lý luận trên là Thân phải nhược.
Nếu sinh giờ
Tân Hợi thì Thìn trụ ngày khắc trực tiếp Nhâm cùng trụ và khắc gần Hợi nên Thân bị thương tổn nặng, thêm Tân là Kiêu Ấn tử tuyệt thành ra không giúp ích được gì cho Thân cả. Do vậy với giờ Tân Hợi thì Thân khá nhược và hỷ dụng thần suy nhược còn bị thương tổn nặng, vào vận đẹp cũng không thể đại phát Tài như bầu Kiên được.
Bây giờ chỉ còn giờ
Nhâm Dần và
Quý Mão. Ta thử xét giờ
Quý Mão xem sao:
Sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần giờ
Quý Mão:
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Qua sơ đồ tính toán này ta thấy nói chung Thân nhược nhưng có lực (do có Quý vượng trợ Thân cũng như kỵ thần Thổ và Mộc không quá vượng so với Thân), dụng thần Quý vượng (Thân nhược mà Quan Sát là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn nhưng trong Tứ Trụ không có, đành phải lấy đến dụng thần thứ 2 là Tỷ Kiếp là Quý ở trụ giờ) và không bị thương tổn (do không bị Thổ khắc gần hay trực tiếp). Với các điều kiện này thì khi vào các vận hỷ dụng thần mới có thể đại phát Tài, phát Quan được.
Bây giờ ta xét tai họa năm 2012 xem giờ Mão có ứng hợp hay không :
Sau đây là sơ đồ tính điểm hạn tai họa lao tù vào tháng 8/2012.
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Tai họa xẩy ra vào tháng 8/2012, nó là năm Nhâm Thìn thuộc đại vận Quý Mão và tiểu vận Nhâm Thìn (vì sau ngày sinh nhật 13/4).
1 - Mậu trụ tháng hợp với Quý đại vận không hóa nên Mậu khắc Quý có 0,5đh (vì Mậu vượng ở lưu niên).
2 - Ta thấy có 5 Thìn hợp với Dậu đại vận nhưng bị Mão trụ giờ xung tan (Tý, Ngọ, Mão, Dậu xung gần nhau luôn luôn phá được bán hợp và lục hợp, tức không cần phải tính lực xung phải lớn hơn lực hợp).
3 – Quý dụng thần nhược ở lưu niên có 0đh.
4 – Nhật can Nhâm tử tuyệt ở lưu niên có 1đh.
5 - Dậu đại vận xung Mão trụ giờ có 0,3đh.
6 - Dậu đại vận khắc gần một mình Mão nên Mão không thể hại được Thìn thái tuế và 3 Thìn trong Tứ Trụ, vì vậy 4 Thìn này hại được Mão trụ giờ.
Thìn thái tuế hại Mão có 1đh, Thìn trụ ngày hại Mão có 0,5đh (vì hại gần trong Tứ Trụ), Thìn trụ tháng hại Mão có 0,25đh (vì cách 1 ngôi) và Thìn trụ năm hại Mão có 0,13đh (vì cách 2 ngôi).
7 - 3 Thìn trong Tứ Trụ tự hình Thìn thái tuế, mỗi lực có 1đh và mỗi lực tự hình này có 1G (điểm giảm theo lý thuyết của tôi. Nếu 4 Thìn này ở trong hợp, tức không bị Mão xung phá thì mỗi lực tự hình thái tuế này có tới 2G).
Thìn tiểu vận tự hình Thìn thái tuế có 0,5đh và có 0,5G.
Thìn trụ năm tự hình Thìn trụ tháng có 0,5đh, tự hình Thìn trụ ngày có 0,25đh.
Thìn trụ tháng tự hình Thìn trụ ngày có 0,5đh.
8 – Có 5 chi Thìn là tự hình (kể cả khi chúng hóa thành hành khác), trong đó có 3 chi trong Tứ Trụ và thái tuế nên có 0,5đh, chi thứ 5 là Thìn tiểu vận nên chỉ có 0,07đh.
9 – Nhâm lưu niên có 3 cát thần nên có -3.0,25đh.
Tổng số là
8,25đh. Tổng số điểm hạn được giảm là 5/12 (vì có 3,5G) còn 8,25.7/12đh =
4,81đh. Số điểm hạn này có thể chấp nhận được vì nó tương ứng với hạn tù trung thân (trên dưới 20 năm).
Tai họa không thể xẩy ra trước ngày sinh nhật (tức ở tiểu vận đầu là Tân Mão được) bởi vì Dậu đại vận xung 2 Mão nên lực hại của Mão tiểu vận và Mão trụ giờ với Thìn thái tuế chỉ bị giảm 50%. 2 Mão hại Thìn thái tuế nên Thìn thái tuế không thể hại được 2 Mão. Do vậy lực hại của Mão trụ giờ với 3 Thìn trong Tứ Trụ cũng chỉ bị giảm 50%. Chính vì vậy mà điểm hại của Mão với 3 Thìn trong Tứ Trụ cứ cho là tương đương với điểm hại của 3 Thìn với Mão nhưng điểm hạn tự hình của 3 Thìn trong Tứ Trụ với Thìn thái tuế bị giảm. Chính vì vậy mà tổng điểm hạn giảm, trong khi tổng điểm giảm là G tăng nên tổng số chỉ khoảng 3đh đến 4đh. Số điểm hạn này là quá thấp không thể chấp nhận được, vì nó không thể gây ra bất kỳ 1 tai họa nào cả.
Với giờ
Nhâm Dần vào tháng 8/2012 có tổng số điểm hạn quá thấp nên cũng không thể chấp nhận được (bạn đọc có thể tự chứng minh, vì nó hoàn toàn tương tự như giờ Quý Mão).
VULONG