Jump to content

Advertisements




những vần thơ ngọt ngào của phú tử vi việt!


13 replies to this topic

#1 minhgiac

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1958 Bài viết:
  • 5379 thanks

Gửi vào 22/05/2014 - 20:10

PHÚ TỬ VI VIỆT luận MỆNH PHỤ NỮ

Lại xem trong số đàn bà
cầu cung tử tức cùng là phu cung
gái hiền có phúc có phần
nữ nhân phú quý tấm thân nhờ chồng
mệnh mà quý cách vô cùng
điền tài lại tốt hai cung vẹn toàn
phu cung thìn tuất cũng nhÀn
mệnh thân dậu tuất muôn vàn kể chi
giáp nhật giáp nguyệt số kỳ
giáp tả giáp hữu kẻ vì người mong
tử cung nhật hãm chắc không
mệnh cung hóa kỵ ngỡ ngàng mấy xuân
hồng loan tử vượng đồng lâm
phu quân cung ấy mừng thầm đẹp thay
xem trong tử tức cung này
nhị minh thiên hỷ thực hay dành dành
phượng loan đẹp đẽ hiền lành
khốc hư táo tợn bỗng đành hiếu trung
hỉ riêu đêm ngủ mơ màng
tính hay rối trá kiếp không đóng rồi
thai hỏa ngộ kiếp hiếM con
thai phùng nhật nguyệt lâm bồn song sinh
mã phùng đào tử lênh đênh
dương phùng thái tuế e mình khổ thay
ách cung e ngộ dưỡng thai
mệnh hiềm nhật nguyệt gặp hai dương đà
tấu thơ hoa cái lượt là
phượng long lấy được chồng nhà quý nhân
tướng loan cung ngự phi tần
mộc cái thủ mệnh lắm phần dăm phi
phu quân có tham lang vì
chính tinh làm cả bàng thì làm hai
mệnh cung xương khúc chiếu hai
dẫu nhân duyên sớm cũng người dâm phong
lộc mã ích tử vượng chồng
vì đồng tử phủ ngợi cung ra vào
thái âm hãm tử chẳng sao
thái dương hãm tử nhẽ nào có con
liêm trinh gặp tham gian ngoan
thiên đồng ngộ nguyệt đông đàn bắc thang
hóa lộc tài bạch buôn mang
thiên riêu xương khúc cả ngày vuốt ve
trưởng huyenh huyenh đệ tử vi
thiên phủ tài bạch vậy thì phong doanh
hao tài bởi có thiên hình
không vong ngộ hãm khuyết tình ly hương
phá phùng triệt lộ tử đường
văn tinh xinh trẻ, văn xương dịu dàng
tam thai tọa chiếu rõ dàng
sinh con tài tướng vẻ vang anh hùng
nguyệt phùng hóa kỵ phúc cung
nữ nhân cả họ dâm phong đó mà
thiên riêu người béo đẫy đà
thiên đồng dư dật rồi mà hiển vinh
hình hỏa việt mộc áp lôi kinh
phá quân thái tuế tụng định giáo thoa
loạn luân thai hỷ đào hoa
triệt tuần tướng ngộ chiếu nhà theo đi
sát phá nghèo khổ có gì
tang môn ngộ hỏa có kỳ họa tai
thiên di tham kỵ trùng lai
phòng khi sông nước có kỳ chẳng sai
đào hoa ngộ kiếp đắm thuyền
kinh dương linh hỏa cuồng điên hẳn là
có đồng phá triệt cùng gia
có người phá cốt chết cha dành dành
ngọ cung mệnh tử vượng tinh
đã hay chồng quý lại sinh con hiền
liêm trinh thanh bạch giữ gìn
mệnh tham tỵ hợi giao triều lương âm
thiếu có phá đẳng chẳng nhầm
hóa chồng vũ khúc chính dâm kỵ đà
kiếp không tứ sát cùng gia
cự tham liêm sát chiếu ba phương vào
nhược bằng chiếu ở phu hào
ấy là tai họa lao đao cả đời!

Hôm nay ngày quý thôi thì khai tý cự môn, nhưng cũng chẳng được thời khắc hợp vị thôi thì đành bắt đầu trong cái thế hỏa thủy vị tế trong cái khốn khổ sơn thủy mông vậy!

Sửa bởi minhgiac: 22/05/2014 - 20:18


#2 minhgiac

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1958 Bài viết:
  • 5379 thanks

Gửi vào 22/05/2014 - 21:09

những loài bạc ác đáng trê
sát tham vũ phá lại lâm hãm phường
mệnh thân nay đã chủ trương
cơ lương xương lộc thật đường cao vinh
đào hồng má đỏ lung linh
điềm hay số gái chẳng trinh trắng lòng
số khổ cô hình hẹn ước
âm gặp kỵ đã có phước lắm sao
lộc quyền ấy đã tài cao
chính chuyên khôi việt lâm vào mệnh thân
thương thay cái số cô bần
thiên cơ kỵ sát đóng lâm mệnh rồi
giá mà lộc mã thai khôi
hoặc là tử phủ lai lâm nữ hiền
vả lại lại được phước tiên
nữ nhân rất kỵ hóa quyền
trán cao, mắt sắc đảo điên cửa nhà
lạ thay cái số đàn bà
cứ phường dương hãm thật là khốn thay
mô phật vả lại ăn chay
thiên quan thiên phúc đã bày cơ duyên
tiếc thay số gái thuyền quyên
kình đà âm hãm lại gia hồng đào
tả hữu long phương tốn cung
hoặc là tham tử tang bồng hữu lai
xem ra số ấy phải trai.....

Sửa bởi minhgiac: 22/05/2014 - 21:31


#3 minhgiac

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1958 Bài viết:
  • 5379 thanks

Gửi vào 24/05/2014 - 15:12

CỰ MÔN

( tôi không biết tiếng trung nên sử dịch phần mềm lời nghĩa không thể thấu đáo hơn, hy vọng ai đó đọc hiểu được, giúp ai đang học và mới học tìm thêm những ý mới. mong thông cảm! cự môn = cách cửa cực lớn)


※ mệnh cung -

1. Chủ thị phi, thái độ làm người cụ ý thức trách nhiệm, ký ức giai năng lực phân tích cường, không quả quyết, thiện tâm đa ngờ vực vô căn cứ, dịch chiêu khẩu thiệt thị phi, cùng người gặp gỡ hữu thủy chung đến chết già ác chi hiện tượng. Lớn giọng, thẳng tính, nói nhiều nhưng vị tất hữu lý, hành sự không nỡ. Suốt đời chi khẩu thiệt thị phi đa số chính trêu chọc mà đến. Nghi xuất ngoại mưu sinh, suốt đời đa lao lực, chết già tha hương.

Cánh cửa cực lớn hóa khí vi ám, nhân sự thị phi. Rất khó giải một thân sự thị phi chi khuyết điểm, trừ phi phù hợp tam điều kiện:

+. Cung vị tại thần tuất xấu vị, chủ có lộc ăn. Thị phi chi tranh, oán ân chu kết giao.

+ Hóa lộc, hóa quyền. ( quyền trội hơn lộc )

+ Phùng lộc tồn Bạn cố tri chỉ có thổ tinh dữ tài khả sử cánh cửa cực lớn khuyết điểm giảm thiểu. Ngoài ra, tử ngọ cung vị hữu tam ngôi sao may mắn ( khoa quyền lộc ) đồng cung, đối cung, hội chiếu diệc khả giải chi, xưng là "Thạch trung ẩn ngọc", chủ đại khí vãn thành.

2. Cánh cửa cực lớn, tỉ mỉ, mẫn cảm, đa nghi, lòng tự trọng cường, khẩu tài giai, đã bị một điểm sơ sẩy hoặc chậm trễ, thì có bị tổn thương cảm giác tâm tư. Phản ứng trực tiếp, mặc kệ thì hơn là phủ thích hợp, thẳng đến đối phương chịu thua phương hưu. Dữ cánh cửa cực lớn thổ lộ tình cảm không đổi chung tình.

3. Cánh cửa cực lớn nhìn như hiền hoà, kỳ thực cá tính câu nệ khó tính, căn xét, tự giữ tự ngạo, thế nhưng một ngày gặp gỡ tình huống cần phải, kiến chiêu sách chiêu dung hòa trống đỡ, hữu cao siêu nói đến phục lực.


5. Hỉ cát hóa, chủ khẩu tài giai, năng cấp biện, thích hợp dùng tài hùng biện phát tài hành trình nghiệp, giảm kỳ thị phi bất thuận. Nhập mệnh thân tật ách chủ bệnh tai, dịch hữu tài đa thân nhược chi hiện tượng.

6. Cánh cửa cực lớn hóa lộc, phúc hậu hữu có lộc ăn, tăng khẩu tài, danh lợi song thu. Tâm cơ trọng, vô chủ kiến tự lực, trong ngoài không đồng nhất.

7. Cánh cửa cực lớn hóa quyền, tăng khẩu tài, giảm thiểu tranh cãi, đề cao xã hội địa vị. Hội xương khúc, khả cử tri đại.

8. Cánh cửa cực lớn hóa kỵ, dịch chiêu thị phi, quan phi tố tụng, hình tang, hàng chức, tạm rời cương vị công tác, thể nhược, tai ách, rủi ro, ly hôn, phùng hỏa linh phòng cháy họa tai.

9. Cánh cửa cực lớn vi ám túc, vu sự nghiệp thượng dịch mậu pháp luật tìm khe hở, cầm lại khấu, vu mệnh thân, tài quan, không hề nộp thuế chi tài.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



10."Cự phá kình dương tính tất cương", khả quan vâng theo, thâu nhân không thua trận, trách cứ nhiều giữ cô độc.

11. Bất phùng kỵ sát, cánh cửa cực lớn cũng động hũu tâm dao nhỏ khẩu, coi trọng công bình chính nghĩa. Bất thổ không hài lòng mãn tự.

12. Cánh cửa cực lớn chi khẩu tài dữ thành khẩn phân trần phải cụ thể thái độ , dịch cùng người sơ thiện, đối sự nghiệp chi khai thác rất có bang trợ. Kiến khôi việt, tả hữu, cát hóa gia hội, tại nhân tế quan hệ dữ công cộng sự nghiệp năng triển trường tài, nắm giữ vững trắc , cố giáo sư, y sư, ngoại giao, nghiệp vụ giai nghi.

13. Cánh cửa cực lớn chủ có lộc ăn, khẩu thiệt, cánh cửa cực lớn tại thần tuất xấu vị chủ có lộc ăn, vô chế hóa đích cánh cửa cực lớn, dịch hữu khẩu thiệt chi tranh.

14. Cánh cửa cực lớn chi khẩu tài hữu nội dung, nếu phùng hóa quyền, trật tự phân minh, dịch thủ tín vu nhân, cụ quyền uy tính, dữ văn khúc chi hoa lệ ở trong chứa tiền tài hoa đào rất là bất đồng.

15. Tối lợi dĩ khẩu tài là việc chính hành trình nghiệp, đại chúng truyền bá, diễn nghệ, y dược, tư pháp, ngoại giao, giáo chức, bảo hiểm, đại lý, mệnh để ý, ngôn ngữ. Học tập ứng với đi chính đồ, miễn tăng làm phức tạp.

16. Phùng cát vu mệnh thân, khẩu tài giai, thích dùng tài hùng biện phát tài hành trình nghiệp. Vượng địa tài năng ở giao tế biện luận, hoặc truyền thụ thượng có điều biểu hiện.

17. Lạc hãm phùng sát, suốt đời lắm lời lưỡi thị phi, tổn hại tài chiêu phi, cầu mưu bất thuận, cá tính cường xuất đầu, hồng nhan bạc mệnh. ( thần tuất xấu vị )

18. Cánh cửa cực lớn gia hội khoa, quyền, lộc, hữu thực lực, sự nghiệp thành công.

19. Cánh cửa cực lớn ngộ khoa quyền lộc, khẩu tài hảo, ngôn từ lợi hại hữu tài hùng biện ( vô hóa kỵ thì ).

Hóa lộc, phân rõ phải trái cảm tính hiền hoà, khán trường hợp nói. Vượng địa phùng cát ngộ đào thần, nghi tiêu khiển giới phát triển. Công trạng giai, giỏi về buôn bán, năng ngôn thiện nói.

Hóa quyền, phân rõ phải trái đái quyền uy tính, tự tin, hữu giữ tại mạnh bách lực. Quản lý năng lực giai, năng ngôn thiện nói, duy cẩn thận hãm hại nhân, phản phạm tiểu nhân. Vượng địa phùng cát, nghi ngoại giao, hãm địa thái độ làm người gương tốt.

Hóa khoa, hào hoa phong nhã, khách khí, quân tử phong độ.

Hóa kỵ, nói bất hảo thính, rồi lại nói nhiều, dịch dẫn nhân phản cảm. Phản bội tâm trọng, khẩu thiệt thị phi, không hiểu tai ương, sự nghiệp biến động. Hóa kỵ phùng sát, phòng quan phi.

20. Cánh cửa cực lớn hóa quyền lộc kỵ, vu mệnh tài quan, nghi dùng tài hùng biện phát tài hành trình nghiệp. ( hóa giải hóa kỵ thị phi đích lực lượng )

21. Cánh cửa cực lớn hóa kỵ nhập mệnh, dữ mẫu giác vô duyên, nhân kỳ vi Thái Âm chi phúc đức vị.

22. Cánh cửa cực lớn kiến tả hữu, hóa khoa, bất cư địa vị cao người, họa khinh. Hóa kỵ đồng cung hoặc đối chiếu, thị phi dây dưa, tái kiến khoảng không kiếp, lo sợ không đâu. Cánh cửa cực lớn vi cô độc chi sổ, không tốt chi thần, trừ vi tăng nói 1.cửu lưu, phương miễn phí công.

23. Cánh cửa cực lớn hội lộc tồn, suốt đời THUẬN.

24. Cánh cửa cực lớn + lộc tồn + văn xương, tài hoa dương tràn đầy.

25. Cánh cửa cực lớn + văn xương, cá tính thẳng, trùng.

26. Cánh cửa cực lớn ( lộc )+ văn xương ( kỵ ), tự hỏi bất án văn bài .

27. Cánh cửa cực lớn hội xương khúc, khôi việt, nghi công chức, văn hóa sự nghiệp.

28. Cánh cửa cực lớn phùng cát hóa, tam hợp xương khúc, đào thần, diệc khả làm tiêu khiển, diễn nghệ sự nghiệp, đương có thể có sở thành tựu.

29. Cánh cửa cực lớn hội văn xương, văn khúc, hữu màu sắc đẹp đẽ, nói có đạo lý, phản ứng linh hoạt, nghi công chức, văn hóa sự nghiệp, cảm tình bất định.

30. Cánh cửa cực lớn hội tả hữu, suốt đời giàu có. Áo cơm không sứt mẻ, hữu quý nhân trợ.

31. Cánh cửa cực lớn + hữu bật, thái độ làm người giác hòa hoãn, nhiệt tâm.

32. Cánh cửa cực lớn tam hợp tả hữu, võ quý.

33. Cánh cửa cực lớn hội thiên khôi, thiên việt, nghi công chức, văn hóa sự nghiệp, hữu quý nhân tương trợ.

34. Cánh cửa cực lớn đối kỵ sát giác vô sức chống cự.

35. Cánh cửa cực lớn + dương, tính sinh hoạt không bình thường, hoặc hữu bệnh kín.

36. Cánh cửa cực lớn đà la tất sinh ám chí.

37. Cánh cửa cực lớn + đà la, nhập mệnh, phúc đức, giai chủ tai họa bất ngờ. ( đại nạn diệc đồng )

38. Cánh cửa cực lớn + dương đà, chủ khai đao, hoặc nam nữ cảm giác tình gút mắt.

39. Cánh cửa cực lớn gia hội kình dương, đà la: cảm tình hoặc nhân sự thị phi không ngừng, dịch thụ thương.

40. Cánh cửa cực lớn + dương đà, hóa kỵ, lắm lời lưỡi thị phi, suốt đời đa khúc chiết, vu mệnh thân tật bệnh doanh hoàng. Cảm tình gút mắt. Đa hình khắc, nam quan nữ quả.

41. Cánh cửa cực lớn + hỏa linh, khoảng không kiếp, chủ từ nhỏ nhấp nhô, tàn tật, vô cát phòng hình thương bôn ba, phụ mẫu vị vô cát người, dễ bị vứt bỏ, ly tông thứ ra. ( cư tử nữ vị đồng để ý, tử nữ hữu tàn )

42. Cánh cửa cực lớn gia hội Hỏa Tinh hoặc linh tinh dịch đắc tội với người, cẩn thận hoả hoạn.

43. Cánh cửa cực lớn + hỏa linh, chủ tai nạn xe cộ.

44. Cánh cửa cực lớn hỏa linh phùng ác hạn, chết vào ngoại đạo. Phòng tự sát hoặc chết thảm.

45. Cự hỏa kình dương phùng ác diệu, phòng ải tử đầu hà.

46. Cánh cửa cực lớn + hỏa + dương, chung thân ải tử, suốt đời đa ngoài ý muốn hình thương. Đi hạn bất cát dịch luẩn quẩn trong lòng. ( tứ mộ vưu hung )

47. Cánh cửa cực lớn + hỏa + dương, tất sinh dị chí.

48. Cánh cửa cực lớn + hỏa linh + bạch hổ, kể triệu chứng bệnh tụng. Tái gia quán tác, chủ lao ngục.

49. Cánh cửa cực lớn + Hỏa Tinh, chủ hoả hoạn. Cánh cửa cực lớn + Tang Môn, chủ đồ tang. Hóa kỵ diệc đồng. Nếu vô tắc vi sự nghiệp biến động, đại phá.

50. Cánh cửa cực lớn + khoảng không kiếp, vi tiểu nhân giữa đường.

51. Cánh cửa cực lớn + thiên hình, lao ngục tai ương.

52. Cánh cửa cực lớn hội thiên hình, hình phạt chính tụng.

53. Cánh cửa cực lớn hội Hỏa Tinh, linh tinh, kình dương, đà la, bầu trời, địa kiếp, hóa kỵ, khẩu thiệt cảm tình vấn đề đa, áp lực trọng.

54. Cánh cửa cực lớn + văn khúc + tả + dương, cá tính trùng, thẳng, bất thảo hỉ.

55. Cánh cửa cực lớn + văn khúc ( hóa kỵ )+ đà la, cà lăm. Vu mệnh thân, tật ách.

56. Cánh cửa cực lớn + thiên đồng + văn xương, hội nói chuyện, nghi ngoại giao.

57. Cánh cửa cực lớn + thiên khốc + khoảng không kiếp, nhập mệnh thân, dịch xuất gia.

58. Cánh cửa cực lớn mệnh thân phùng chi, đối cung hỏa linh, bạch hổ, vô đế lộc, quyết phối thiên nhai, sát thấu gặp lại tam hợp, ắt gặp thuỷ ách.

59. Bản mạng, đại nạn chi tài vị nhập tứ mộ phùng cánh cửa cực lớn + kỵ sát, dịch tổn hại tài chiêu phi.

60. Nữ mệnh cánh cửa cực lớn + dương đà vu hãm địa, tướng mạo mị lệ, chủ dâm đãng hoặc yêu thọ hung vong. Hồng nhan bạc mệnh.

61. Nữ mệnh cánh cửa cực lớn mệnh hãm chủ dâm xướng, thị nữ nhà gần thủy sinh hại. Tướng mạo thanh kỳ đa cận sủng, không phải thọ, yểu chủ hung vong.

62. Nữ mệnh hãm địa, hình phu khắc tử, bất lợi lục thân, đa dâm dục, cảm tình không đổi như ý. Khả năng vi nhà kề, hoặc dữ hữu phụ chi phu dây dưa không rõ.

63. Nữ mệnh cánh cửa cực lớn miếu vượng, quý tân sinh ra phúc hậu, gia tả hữu, trường thọ.

64. Nữ mệnh cánh cửa cực lớn hãm địa, hình phu khắc tử.

65. Nữ mệnh cánh cửa cực lớn, đinh sinh ra rất nhiều tình.

66. Nữ mệnh cánh cửa cực lớn + văn khúc, kỹ năng nói rộng hoa.

67. Nữ mệnh cơ cự thủ mệnh thân, mặc dù chủ phú quý, không khỏi đa tình. Cự túc thiên cơ vi phá đãng. Nữ mệnh mão dậu mặc dù phú quý không khỏi dâm dật.

68. Nữ mệnh cánh cửa cực lớn + đà la, dịch chìm đắm vào phong nguyệt.

69. Cánh cửa cực lớn cư tứ mã địa nhập mệnh, điền, tha hương mưu sinh.

70. Cánh cửa cực lớn hóa kỵ nhập mệnh thân, tự bế, dịch hữu tinh thần tật chứng, thị phi tai nạn.

71. Cánh cửa cực lớn, thiên lương nhập mệnh thân, loạn luân bại tục. Kiến dương đà vưu xác thực.

72. Cánh cửa cực lớn, thiên lương phân đà mệnh thân, vô cát lai phù, dịch không hề chính cảm giác tình dữ tình khốn, tính nghi hoặc, vãn vận tốt hơn. 〈 đại nạn đi Thái Âm, hoặc hoa đào tinh thì. 〉

73. Cánh cửa cực lớn, Thái Âm phân thủ mệnh thân, "Tư tâm vi mình" .

74."Cánh cửa cực lớn vi ám túc, chủ nhân nghi thị đa phi, lục thân khó hoà hợp, cùng người giao sơ chết già ác."

75. Cánh cửa cực lớn vi cô độc chi túc, không tốt chi thần."

76."Cự phá kình dương tính tất cương."

77."Cánh cửa cực lớn không thích hợp thủ cao phong vị."

78."Thạch trung ẩn ngọc." Tử ngọ lưỡng cung kiến tả hữu, cát hóa, mà sát ít, hữu thông minh tài trí, có lý tưởng, nại thao nại ma, luôn luôn quang mang bắn ra bốn phía là lúc, nhưng ứng với giới tự cao, bằng không khó thoát thị phi quấn chi số phận. ( cánh cửa cực lớn hóa kỵ hoặc kình dương đồng cung đối chiếu giai đặc biệt. )

79."Cự hỏa kình dương, chung thân ải tử." "Cánh cửa cực lớn Tứ Sát hãm mà hung." Lòng tự trọng cường, hựu không đổi mình điều thích, thường không hề lý tính hành trình vi. Kiến tả hữu, cát hóa, giác hữu chuyển cơ.

◎ cánh cửa cực lớn nhập mười hai viên:

Tý ngọ vượng địa, đinh kỷ quý tân nhân phúc hậu; bính mậu nhân chủ khốn.

Sử mùi không được địa thiên đồng đồng, quý tân bính nhân tài quan cách.

Dần thân nhập miếu thái dương đồng, canh quý tân nhân tài quan cách.

Mão dậu nhập miếu thiên cơ đồng, ất tân nhân tài quan cách; đinh mậu nhân thành công bại.

Thần tuất hòa bình, quý tân nhân quý; đinh nhân chủ khốn.

Tị hợi vượng cung, quý tân nhân tài quan cách.

◎ cánh cửa cực lớn nhập nam mệnh:

Cánh cửa cực lớn tử ngọ nhị cung phùng cục trung đắc ngộ cho rằng quang vinh tam hợp hóa cát khoa quyền lộc quan cực cao phẩm y tử bào

Thử tinh hóa ám không thích hợp phùng canh hội hung tinh dũ tứ hung gắn bó có thương tích kiêm tính mãnh nếu nhiên nhập miếu khả hòa bình

Cánh cửa cực lớn thủ mệnh ngộ kình dương linh hỏa phùng việc bất tường thái độ làm người gấp gáp đa điên đảo bách sự mang mang loạn chủ trương

◎ cánh cửa cực lớn nhập nữ mệnh:

Cánh cửa cực lớn vượng địa đa sinh cát tả hữu gia lâm thọ lâu nữ nhân đắc thử thành vi quý liêm quyển Pearl tọa khuê phòng

Cánh cửa cực lớn mệnh hãm chủ dâm xướng thị nữ nhà kề thủy miễn hại tướng mạo thanh kỳ đa cận sủng không phải thọ, mà yểu chủ hung vong

#4 minhgiac

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1958 Bài viết:
  • 5379 thanks

Gửi vào 25/05/2014 - 17:38

SƯU TẦM BIẾT VIẾT HAY TỪ BLOG ÔNG HaUyen! ĐĂNG LÊN !

Mệnh cung Thiên Can phối thuyết Tam Tài
I. I. Mệnh cung Thiên Can
Mệnh cung (MC), cung an Mệnh trên lá số tử vi, nó bao gồm cả Thiên Can và Địa chi, nhưng lâu nay chúng ta thường sử dụng phần của Địa chi nhiều hơn trong phép luận đoán trên lá số mà lại quên mất các tính chất quan trọng của Thiên can. Nay, tôi (Ma y cung) xin nêu lại vấn đề của Thiên Can và phụ bổ một số tính chất thuộc về Thiên Can của Mệnh cung. Như vậy, chỉ cần biết MC Thiên can của một người là ta có thể đoán sơ sơ được vài cá tính căn bản của họ mà chưa cần phải nhìn vào lá số. (Người soạn – Ns: Việc này cũng có thể sử dụng như một công cụ rất hữu ích cho việc phối hợp với các thông tin khác để kiểm chứng giờ sinh của đương số trước khi bắt tay vào việc giải đoán lá số tử vi).

a, Làm thế nào để xác định được Mệnh cung Thiên Can?

- Dùng Lịch của Năm sinh mà truy cứu, ví dụ sinh năm 1980, Mệnh cung tại cung THÌN thì Mệnh Can (Mệnh cung Thiên Can) sẽ là CANH. Như vậy, Can Chi của Mệnh cung sẽ là Canh Thìn, mà Canh Thìn thì có Hành của Nạp Âm là KIM, và Kim ở đây chính là CỤC số. (Ns: việc này có mối liên quan chặt chẽ với việc xác định Cục khi thành lập một lá số tử vi, xem chi tiết xin tham khảo trang 21, 22, sách của tác giả Trừ Mê Tín).

- Nếu không dùng lịch thì dùng bài thơ Ngũ Hồ độn:
GIÁP/KỶ chi niên BÍNH tác đầu. (BÍNH là Thiên can Tháng Giêng)
ẤT / CANH = MẬU (MẬU là Thiên can Tháng Giêng, từ đó suy ra những tháng tiếp theo)
BÍNH /TÂN = CANH
ĐINH/NHÂM = NHÂM
MẬU/QUÝ = GIÁP.

b, Mệnh cung Thiên Can có những đặc tính sau:

1/ GIÁP:
Giáp - Mộc có khuynh hướng phát triển vươn lên theo chiều cao (chẳng hạn như vị trí, cấp bậc), có cá tính kiên cường khí phách, có thể đủ dung lượng che chở cho kẻ yếu thế (vì có bóng mát), có tâm địa nhân hậu và chính trực, nhưng Giáp lại khiếm khuyết (thiếu) tính mềm dẻo, thiếu khả năng ứng biến và thích nghi với hoàn cảnh. (Ns: các tính chất trên có thể hình tượng hóa như sau “Giáp = dương mộc, nên có tượng là cây lớn, cây đại thụ, thuộc họ thân gỗ, cứng cáp, có tán lá tỏa rộng”). GIÁP = Là người có cá tính độc lập, độc lai độc vãng (đến 1 mình, đi 1 mình), không thích ai bao che cho mình, giúp ai thì cũng thích giúp nhưng cũng không muốn vướng bận.

2/ ẤT:
Ất - Mộc có tính cách mềm yếu, dù nội tâm có xung động cũng ít khi biểu lộ cực đoan, có khuynh hướng phát triển ảnh hưởng theo bề ngang, bề rộng (ví như có nhiều vây cánh), ngoại biểu thường tùy hòa, hiền lành, đối với ai cũng được lòng lại dễ thích ứng một khi hoàn cảnh bị thay đổi và dễ tùy cơ ứng biến. (Ns: các tính chất trên có thể hình tượng hóa như sau “Ất = âm mộc, nên có tượng là cây thân leo, cây bụi hoặc cây thuộc họ thân cỏ, mềm dẻo”). ẤT = Thường được phái nữ xung quanh bao che và ủng hộ, nhưng vẫn thích tính cách độc lập, cuộc sống thường dễ chịu, có thể khắc Mẹ hoặc khắc Vợ.

3/ BÍNH :
Bính - Hỏa thường là mẫu người nóng tính, cả nội tâm và sức sống đều mãnh liệt, dễ bị xung động, trọng những biểu hiện có tính hình thức bề ngoài,... Tâm tính tuy quang minh lỗi lạc nhưng lại hay cố chấp, nóng nảy. Có tính vội vã và ưa hoạt động, có khi quá đáng thành ra kẻ bận rộn và lao lực. (Ns: các tính chất trên có thể hình tượng hóa như sau “Bính = dương hỏa, nên có tượng là đám cháy, cây đuốc,… tính cấp, vội, nóng, có sự lan tỏa ra môi trường xung quanh”). BÍNH = Đàn ông thường được Mẹ / Vợ / Tình nhân / bạn bè nữ giới / nữ chủ nhân giúp đỡ. Nhưng lại cũng dễ bị hiềm khích, hiểu lầm.

4/ ĐINH:
Đinh - Hỏa là những người Nhu trung hữu cương, trông cá tính bề ngoài thì mềm dẻo nhưng có quyết tâm, cứng rắn bên trong, là kẻ có tính cách ôn hòa bên ngoài nhưng có khi bên trong như bị lửa đốt (cấp tháo, kiểu như nói chuyện với khách mà cứ nhìn đồng hồ như muốn chấm dứt nhanh chuyện để làm việc khác, mà thực ra cũng chẳng phải là việc gì quan trọng phải làm cả), kiêm tính tế nhị nhưng lại hay đa nghi, ưa quan sát kín đáo đối phương (để thẩm định giá trị hoặc nhận xét về một khía cạnh nào đó) và nhiều Tâm cơ (đầu óc hay tính toán, suy tính lung tung).(Ns: các tính chất trên có thể hình tượng hóa như sau “Đinh = âm hỏa, nên có tượng là lửa trong lò, lửa trong đèn lồng,… bên ngoài thì tĩnh mà bên trong thì động, để lâu có thể sẽ bộc phát”).ĐINH = Có tính cách độc lập, lầm lì nhưng quyết liệt, dám làm dám chịu, không sợ hậu quả cũng như hậu hối (làm thì quyết không hề hối hận sau này).

5/ MẬU:
Mậu - Thổ là mẫu người cá tính ổn trọng, trung hậu, thành thật và giữ chữ Tín, hay trọng danh dự, mặt mũi, cho nên thường là người hay tự ái, cố chấp ý kiến của họ, không thích những kẻ ưa thay đổi và sống kiểu phù du, không thích những người hứa rồi không bao giờ đến. Họ rất hay thích những gì cổ điển và có tính xưa cũ, không thích nghi với những cái thay đổi quá đáng, họ có tính bảo thủ, lại hơi tiêu cực và khó thích ứng với hoàn cảnh mới (vì cứ nhớ lại những hình bóng, kỷ niệm thời xa xưa). (Ns: các tính chất trên có thể hình tượng hóa như sau “Mậu = Dương thổ, nên có tượng là vùng đất cao, hơi nhô lên (lộ thiên),…có tính ổn định vững chắc, kiên cố”). MẬU = Giúp đỡ, che chở cho người thì nhiều, mà thọ lãnh sự giúp đỡ của người thì ít, hay nể sợ đàn bà, cá tính ổn trọng thâm trầm, nhiều cao vọng.

6/ KỶ:
Kỷ - Thổ là dạng người nội hàm (có nội tâm được hàm dưỡng tốt), tư cách không nóng vội, chịu đựng và nhẫn nhịn, thường thì các biểu hiện vui, buồn, ưa, ghét, v.v… ít khi để lộ quá rõ ràng ra bên ngoài, đối với công việc thì xử sự linh động, thông minh, đa biến hóa nhưng lại cẩn thận.(Ns: các tính chất trên có thể hình tượng hóa như sau “Kỷ = Âm thổ, nên có tượng là vùng đất ẩn tàng bên trong, phía dưới,…vừa có tính ổn định vừa có tính mềm dẻo, bền bỉ”). KỶ = Cũng thường bao che người khác, nhưng bị người khác làm hao phí tiền bạc của mình, hoặc dễ bị lường gạt, quịt nợ về tiền bạc. Nhưng là người đạt chữ nhẫn tốt nhất nên cuộc sống thường bình ổn và ít gặp phải sóng gió, bôn ba.

7/ CANH:
Canh - Kim thường có cá tính cương nghị, cương quyết, quả đoán, khảng khái, có tính cách hiệp nghĩa, hay giúp người khi người ta gặp khốn khó. Ngoài ra, còn mang tính hiếu thắng, thích xuất đầu lộ diện đứng mũi chịu sào, có đảm lược và hào sảng, cương trực, nhưng cũng cả tính cách công kích, phá hoại cùng dã tâm to lớn. (Ns: các tính chất trên có thể hình tượng hóa như sau “Canh = Dương kim, nên có tượng là thiết trụ kình thiên, thanh bảo kiếm,… có tính rắn chắc, kiên cố nhưng cũng có tính chống đối, tranh thắng”). CANH = Thích tư thế độc lập, giúp người mà không mong người giúp.

8/ TÂN:
Tân - Kim có tính cách nhu hòa, ôn nhã, minh mẫn và khí chất thanh cao, hào sảng, thích thể diện và ít muốn va chạm xông xáo với giới phàm tục (vì e chén ngọc đụng phải chén sành chứ không phải nhút nhát) vì thế có thể bị hiểu lầm là thiếu khí phách, cũng là loại người trọng cảm tình, ý chí không được kiên định. (Ns: các tính chất trên có thể hình tượng hóa như sau “Tân = Âm kim, nên có tượng là đồ trang kim thanh cao, những kim loại mềm và mỏng,…có tính cao quý, trang nhã, đẹp đẽ”). TÂN = Thích thể diện, hình thức, trọng tình cảm, có tâm hồn nghệ thuật.

9/ NHÂM:
Nhâm - Thủy có tính cách nhiệt tình cuồng cuộn như dòng sông đang trôi chảy, là kẻ đa tài đa nghệ, kiêm bị văn võ muốn chơi đằng nào cũng được, thường xuyên lạc quan yêu đời và ngoại hướng (thích hòa mình với sinh hoạt của dòng đời, dễ bị sự quyến rũ từ bên ngoài) có mưu lược và biết nắm lấy thời cơ, tuy thông minh nhưng hay làm theo ý của mình (ít chịu khuất phục kẻ khác). (Ns: các tính chất trên có thể hình tượng hóa như sau “Nhâm = Dương thủy, nên có tượng là thác nước, mưa bão, những con sóng lớn,…có tính mạnh mẽ lôi cuốn nhưng không ổn định”). NHÂM = Tính cách độc lập và tự phụ rất cao, nắm được Thiên thời nên dễ chiếm được tiện nghi trong nhiều hoàn cảnh.

10/ QUÝ:
Quý - Thủy là kẻ thanh t*o, êm thắm, ôn nhu, bình tĩnh và hướng nội (sống thiên về nội tâm), là kẻ trọng tình cảm và có nhiều mơ mộng, ảo tưởng, tuy có tâm nhẫn nại, nhường nhịn nhưng đôi khi cũng bị nổi cộc nếu bị khiêu khích quá đáng. (Ns: các tính chất trên có thể hình tượng hóa như sau “Quý = Âm thủy, nên có tượng là chén nước trà quý, rượu ngon,…có tính thi vị, lan toả hương thơm”). QUÝ = Dễ bị hao tổn , thích biến động, bởi Quý là Can duy nhất không muốn dựa vào thế lực của Thiên / Địa / Nhân mà chỉ trông mong vào sự nỗ lực của chính mình, cho nên ưa thích những ngành nghề tự do, khởi phục cao độ.

Ví dụ về cách tính Thiên Can cho cung trên Lá Số Tử Vi:

Ví dụ 1: Nick Truonglao hỏi “Bác Ma Y Cung cho cháu hỏi sinh năm 1971 mệnh cung tại Thìn thì Mệnh can là gì ạ?”
- Đáp: 1971 là Tân Hợi , những năm có chữ BÍNH hay TÂN thì Thiên Can của THÁNG GIÊNG là CANH .
THÁNG GIÊNG = DẦN . ( Có Địa chi là DẦN ) => Can Chi Tháng giêng = CANH DẦN .
Như vậy Tháng 2 = TÂN MÃO, Tháng 3 = NHÂM THÌN,… tuần tự mà tính.
Vậy MC THIÊN CAN của Truonglao = NHÂM THÌN .

Ví dụ 2: (do nick Vothienkhong đề xuất) Vấn đề tính Can của tháng Giêng mỗi năm. Để giúp các bạn có trí nhớ kém như tôi, sau đây xin trình bày cách tính Can của tháng Giêng cho mỗi năm.
Trước tiên ta cho mỗi Can một con số bắt đầu từ Giáp là 1, Ất là 2 cho đến Quí là 10.
Công thức là : Số của Can năm x 2 + 1 = Can tháng Giêng.
Vd, năm Giáp Tí, Giáp là 1 vậy : 1x2+1= 3.
Con số 3 là Bính, vậy tháng giêng năm Giáp Tí là Bính Dần.
Số thành trên 10 thì ta bỏ bớt 10.
Vd, năm Mậu Tí: Mậu là 5 x 2 + 1 = 11 (trừ 10) còn 1, vậy tháng Giêng năm Mậu Tí là Giáp Dần.
Cứ thế tiếp tục tính cho các năm khác.

II. Thuyết Tam Tài (rút gọn)

TAM TÀI: THIÊN, ĐỊA, NHÂN (Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa).

NGUỒN GỐC phát sinh của TAM TÀI:
THIÊN: Khai tại TÝ
ĐỊA: Khai tại SỬU
NHÂN: Khai tại DẦN

Tý, Sửu, Dần, 3 Cung đó là nơi khai thủy của Tam Tài (Thiên, Địa, Nhân), khoa Tử vi là môn nghiên cứu về Nhân, mà Dần là cung khởi thủy của Nhân, do đó lấy Dần làm Chính cung để định Thân / Mệnh.

CHỖ SỞ CƯ CỦA TAM TÀI:
Trong 12 địa chi thì được phân chia thành 4 bộ Tam hợp và bộ Tứ hành xung, trong đó:
THIÊN cư tại TÝ NGỌ MÃO DẬU = ứng với Thượng Hào.
NHÂN cư tại DẦN THÂN TỴ HỢI = Ứng với Trung Hào.
ĐỊA cư tại THÌN TUẤT SỬU MÙI = Ứng với Hạ Hào.
Do vậy, cứ theo Địa Chi mà nói thì nói thì cứ mỗi TAM HỢP đều có đủ Tam Tài.

ỨNG DỤNG CỦA TAM TÀI:
Mệnh Cung Tam Tài dùng xem xét số phận của người được xem cái cách người đó sẽ được hưởng Thiên thời / Địa lợi / Nhân hòa như thế nào, mức độ ra sao, nhằm giúp quyết đoán Cách cục của 1 lá số. (Ns: Đối với những người mới học Tử Vi có thể dùng như một căn cứ để bổ khuyết cho phép hội sao khi chưa có kinh nghiệm).
Tại Vận trình (Đại / Tiểu Hạn), Tam Tài dùng để xem xét Thời Thế như thế nào, có nên lộ mặt ra (làm ăn, hoạt động...) hay không, hay nên ẩn nhẫn, nên / không nên làm gì trong Đại / Tiểu Hạn này, mức độ thành công / thất bại cao thấp như thế nào, v.v…
Theo địa chi thì cứ trong mỗi TAM HỢP MỆNH CUNG đều có bao hàm các yếu tố THIÊN / ĐỊA / NHÂN. Có nghĩa là mỗi con người khi sinh ra đều phải chịu 3 loại Tác động rất quan trọng trong cuộc sống, đó là:

THIÊN THỜI = Tự giúp mình (độc lập, tự lập) nhưng nắm được thời cơ, điều kiện thuận lợi.
ĐỊA LỢI = Mình giúp người, nhưng chiếm vị thế nên hoàn cảnh, môi trường sẽ giúp lại cho ta.
NHÂN HÒA = Người xung quanh giúp mình, nhưng chưa chắc được hưởng Thiên thời, Địa lợi.

Nắm được Thiên thời là hay nhất (Ns: hay gặp may mắn, gặp thời), cho nên lá số nào có MỆNH CAN là GIÁP / ĐINH / CANH thuộc THIÊN thì thường được thành công và chiếm nhiều trong số lượng danh nhân / Vĩ nhân. Thiên can là QUÝ cũng có khả năng thành công và là Danh / Vĩ nhân, nhưng dễ bị Hao / Phá.

Qua những Tượng ý bên trên, chúng ta có thể đại lược suy ra được Tính cách của từng lá số, ví dụ như các trường hợp sau đây:

- Chẳng hạn Mệnh cung Thiên Can = BÍNH, thì thường được Mẹ / Vợ chu cấp, lo lắng, chăm sóc, v.v… nhưng cũng dễ bị xung khắc.

- TÀI BẠCH cung CAN tọa NHÂM = phải tự lực phấn đấu và phải dựa vào Thiên thời / Thiên ý (có nghĩa là phải đi hỏi Thầy bói khi nào làm ăn được, he he! - Ns: chỗ này tác giả hài hước cho vui vậy thôi, độc giả cần xem lại tính chất của can Nhâm).

- QUAN LỘC cung CAN tọa MẬU = Sự nghiệp của mình có thể dùng để bao bọc, giúp đỡ hay làm lợi cho kẻ khác, cho nên thường dễ bị phí tổn tâm sức mà cái lợi không có là bao.

Hoặc giả như trường hợp:

- Mệnh cung THIÊN CAN tọa NHÂM = Tính cách cao ngạo, tự thị, nếu giàu có thì cũng chia xẻ cho họ hàng hay người nghèo.

Lập lá số xong , xem đại khái sư kết hợp của Tinh tú , rồi dùng TAM TÀI , TỨ TƯỢNG (Tứ Hóa) quan xét thì gọi là XÉT VỀ KHÍ TƯỢNG ( 3 TÀI / 4 HÓA ) để định CÁCH CỤC. Đây là chiêu thức CAO CẤP mà các Đại sư ngày xưa đã sử dụng, ngày nay bộc lộ ra thì ắt có kẻ coi thường, nhưng chỉ cần vài người hiểu giá trị và tự tìm biết cách ứng dụng.

III. Mệnh cung Thiên Can phối Thuyết Tam Tài (rút gọn)
Các Lý Thuyết liên quan tới TAM TÀI lâu nay bị bưng bít, một vài Trưởng lão thủ đắc được chiêu Tam Tài cứ lâu lâu đem ra HÙ 1 tiếng làm bọn Hậu bối giựt mình, chơi như vậy là không công bằng, nên hôm nay tui xin được công bố, vì thế quý vị không nên xem thường Chiêu này, nếu không có chỗ dùng tại sao người ta lại giấu kỹ như vậy?

GIÁP / ẤT / BÍNH = Thuộc THIÊN .
ĐINH / MẬU / KỶ = Thuộc ĐỊA .
CANH / TÂN / NHÂM = Thuộc NHÂN.
QUÝ là can có vị trí không chịu nhiều tác động của các thế lực THIÊN / ĐỊA / NHÂN.

TAM TÀI = THIÊN - ĐỊA - NHÂN ( THEO THỨ TỰ 1-2-3 ).
GIÁP - ẤT - BÍNH ( theo Thứ tự A - B - C )

Lấy A-B-C áp đặt lên trên 1- 2- 3 ta sẽ có:
1/
GIÁP thuộc THIÊN, nên GIÁP là THIÊN chi THIÊN (Trời của Trời / tầng Trời cao nhất).
ẤT thuộc ĐỊA, nên ẤT là THIÊN chi ĐỊA.
BÍNH thuộc NHÂN, nên BÍNH là THIÊN chi NHÂN.
2/
ĐINH thuộc THIÊN, nên ĐINH là ĐỊA chi THIÊN.
MẬU thuộc ĐỊA, nên MẬU là ĐỊA chi ĐỊA.
KỶ thuộc NHÂN, nên KỶ là ĐỊA chi NHÂN.
3/
CANH thuộc THIÊN, nên CANH là NHÂN chi THIÊN.
TÂN thuộc ĐỊA, nên TÂN là NHÂN chi ĐỊA.
NHÂM thuộc NHÂN, nên NHÂM là NHÂN chi NHÂN.

Can QUÝ đứng độc lập, không phụ thuộc THIÊN / ĐỊA / NHÂN, gọi là Ngoại Hóa chi Vị (Vị trí có Hóa thể Ngoại thuộc).

(Ns: Cách phối hợp để xác định bản vị và cấp số được viết ở trên, về sau này chính tác giả công bố cũng công nhận là có phần hơi khó hiểu và đã có phần bổ chính, quý độc giả nào cảm thấy chưa thấu triệt thì có thể xem ở phần hỏi đáp dưới đây để hiểu được rõ hơn. Người soạn cố ý giữ nguyên văn để bày tỏ sự tôn trọng tác giả).

Các hỏi đáp thắc mắc, góp ý và phản biện:
1. Nick lethanhson: Cháu có Mệnh cung Thiên Can là Giáp (cung Tuất) thuộc thiên, Thiên Can cung quan là Bính thuộc thiên, Thiên Can cung tài là Canh thuộc nhân ~> tam hợp cung mệnh của cháu ko đủ thiên - địa - nhân ~> Vậy là sao ạ? Không biết cháu có tính nhầm không ạ? Cháu sinh năm Kỷ.

- Đáp:
TAM giác MỆNH - TÀI - QUAN không nhất thiết phải hội đủ Thiên -Địa - Nhân, cách tính của Anh không sai.
Mệnh cung Thiên Can thuộc Thiên, tuy nói là có tính cách độc lập, nhưng những người này trong đời tự nhiên hưởng được 1, 2 lần Thiên thời (hay nhiều hơn nữa tùy lá số) vấn đề là có nắm bắt được hay không, nếu Mệnh cung VCD, hoặc có các sao Văn tinh hoặc các sao về bảo thủ (Lộc tồn, Đẩu quân,...) thì chưa chắc đã nắm được thời cơ ( vì VCD = Có tính không nhất quyết, hay thay đổi . Văn tinh = tính cách hay lo sợ vớ vẩn, hơi nhát, thiếu tính chất gan dạ liều lĩnh), vì thế những trường hợp này cần sự khuyến khích, ủng hộ tinh thần của người thân / bạn bè mới có thể chớp lấy được thời cơ.
Tam hợp Mệnh cung có 2 Thiên và 1 Nhân, như vậy là trong Cách cục của tam hợp Mệnh cung của anh thiếu mất tính Địa lợi, điều này có nhiều ý nghĩa, có thể là nghề nghiệp của mình không hợp khu vực đang sinh sống, có thể hoàn cảnh làm việc hay công việc thấy không thích hợp, thoải mái, v.v… đại loại là có liên quan đến tính thiếu Địa lợi.

2. Nick ThepTu10: MYC chưa phổ bến hết các chiêu!
- Sự phối giữa Can mệnh cung với can năm sinh, Chi cung Mệnh với chi năm sinh, nạp âm mệnh cung (cục số) với nạp âm bản mệnh năm sinh.
- Cục số tại nạp âm cung mệnh phát đọng vòng trường sinh cô định, còn vòng trường sinh lưu theo vòng nạp âm các cung lưu thì sao? Yếu tố này có là nhân hòa đại hạn qua các cung ko? Hay gọi ngũ hành cung khí vận chuyển từ cung mệnh tới các cung ra sao?
- Thiên can từng cung sinh ra lưu tứ hoa cho các đại vận, yếu tố này vận hành có gọi Thiên thời đại hạn hay không?
- Địa chi của cung đại hạn có là yếu tố địa lợi cho đại hạn không? Điều đó có phát sinh ra lưu thái tuế đại vận không?
Những cái này không phải không có, tiên sinh MYC nghiên cứu có đầy đủ tài thì xin ngài cung cấp, và các bác ai biết thì mong các bác đóng góp. Chân Thành cảm ơn MYC đưa ra nhiều bí ẩn trong thâm cung chiêu thức. Chúc anh mạnh khỏe!
- Đáp:
Những đề mục anh đưa ra rất hay nhưng cần phải trải qua thời gian nghiên cứu, vì hiện nay đa số các bạn đều cần thời gian áp dụng và thử nghiệm, nếu ôm đồm quá thì sẽ bị phân tâm, vì thế học đến đâu chúng ta cứ từ từ giải đến đấy.
Với lại những trường hợp như phối hợp Mệnh cung Can / Chi với Bản Mệnh Can / Chi hoặc so sánh về Nạp Âm thì đến 1 trình độ nào đó tự nhiên làm được, khỏi cần giải thích, nhất là đối với các bạn có căn bản về Ngũ Hành (Tử Bình).
Những Vấn đề còn lại đều là những thâm cứu ở cấp bực CAO , cần phân chia theo từng đề mục và cần sự góp sức của nhiều người , không thể nói vắn tắc , vì có thể rơi vào võ đoán.

3. Nick Thatsat: Phần trên nói Nhâm thuộc NHÂN CHI NHÂN, nhưng lại được luận theo Thiên thời. MYC đại hiệp có thể xem lại được không?
Việc phân chia ĐỊA CHI NHÂN và NHÂN CHI ĐỊA dễ gây nhầm lẫn, đại hiệp có thể chỉ rõ hơn được không?
Ví dụ như phần trên nói GIÁP ẤT BÍNH thuộc THIÊN, nhưng ở đây lại tính ĐINH thuộc ĐỊA CHI THIÊN là THIÊN, điều này dễ gây nhầm lẫn, khó hiểu, đại hiệp MYC có thể chỉ rõ hơn được không?

- Nick Khongtuong đáp Thatsat (và hỏi luôn Ma Y Cung): TS quả là danh bất hư truyền, một kiếm xuất ra là chỉ ngay được huyệt đạo trọng yếu của tuyệt học này.
Để dễ hiểu có thể đưa về dạng bảng kiểu của bảng lập thành quẻ dịch, sau khi xác định được thiên can, muốn biết tính chất của nó khi phối vào thuyết Tam Tài thì chỉ cần: Nhìn vào bảng thấy can đó nằm ở đâu và chiếu từ trái qua phải, rồi chiếu lên trên, sẽ biết ngay:

QUÝ THIÊN ĐỊA NHÂN
THIÊN GIÁP ẤT BÍNH
ĐỊA ĐINH MẬU KỶ
NHÂN CANH TÂN NHÂM

VD: Giáp = Thiên chi Thiên, Kỷ = Địa chi Nhân, Tân = Nhân chi Địa, Nhâm = Nhân chi Nhân,...
Mời cung chủ MYC tiếp tục ra tay, nhân tiện xin MYC chỉ giáo về sự liên hệ giữa thuyết Tam Tài MC TC và thuyết Tam Tài của Hạn.

- Ma Y Cung đáp:
VỀ TAM TÀI của Đại hạn liên quan đến Mệnh cung Tam tài theo tôi thì cũng tựa như Lưu Tứ Hóa của đại hạn đối với Tứ Hóa Mệnh cung mà thôi, ví dụ Mệnh cung thiếu Địa lợi mà địa lợi thấy xuất hiện tại đại hạn thì tại Hạn này có thể làm ăn dễ dàng và mát mặt với đời 1 tý, vì đã hội đủ Tam Tài, nếu thấy kết hợp Tinh diệu tại Hạn này tương đối không xấu.
Vấn đề là phải làm sao kết hợp được sư liên hệ giữa Tam Tài Của Mệnh cung / đại hạn với Tứ Hóa cũng như sự phối hợp Cát / bất Cát của Tinh diệu để đưa ra 1 giải đáp tương đối Chính xác. Lý thuyết là vậy nhưng khi áp dụng thì mỗi người mỗi ý, có người chủ trương lược bỏ Tứ Hóa và Tinh diệu, có người chủ trương loại bỏ Tinh diệu chỉ giữ lại Tam Tài và Tứ Hóa .v.v…

(TAM TÀI ỨNG DỤNG TRONG ĐẠ/ & TIỂU HẠN) - Ví dụ :
LƯU ĐẠI HẠN cung QUAN có TC = ĐINH , Tức L.QUAN được hưởng Thiên thời, nhưng nếu Tiểu Hạn là các năm NHÂM / QUÝ thì Thủy sẽ khắc Hỏa của ĐINH làm cho GIẢM hoặc MẤT Thiên thời.
Như LƯU ĐẠI HẠN cung TÀI có TC = ẤT, tức L.TÀI hưởng được Địa lợi, nếu Tiểu hạn là năm TÂN, Kim khắc Mộc, làm giảm mất phần Địa lợi trong Cung Tài.
Cũng vậy , Tiểu Hạn tại Cung Dần có chữ BÍNH, tức được Nhân Hòa , nhưng nếu đó là năm 1992 = Nhâm Thân, thì Nhâm sẽ khắc Bính làm mất đi lợi thế Nhân hòa . (Phải an Thiên Can theo năm sinh, bắt đầu từ Cung Dần chạy thuận vòng cho đến cung Sửu).
Ngược lại, những năm nào SINH cho Tam Tài thì Tốt, cứ theo lý Ngũ Hành sinh khắc, chế hóa mà suy luận.

Như vậy, vấn đề này vẫn chưa thống nhất và cần nhiều thảo luận, trao đổi để khám phá thêm, vì đơn giản là từ trước đến nay chưa từng có những cuộc hội thảo kiểu này, vấn đề là phải có 1 hiểu biết tổng quát, mà mỗi người chỉ biết có khu vườn nhỏ của mình, như vậy cần có nhiều phát hiện khác để bổ sung và củ chính.
Về việc phối Tam Tài, Tui – Ma Y Cung - xin sắp xếp lại (cho có trật tự 1 tý):
GIÁP ẤT BÍNH = Thiên .
ĐINH MẬU KỶ = Địa
CANH TÂN NHÂM = Nhân .
---------------------------------------
Thiên Địa Nhân

Ví dụ, muốn biết GIÁP là gì, ta thấy theo chiều NGANG thì GIÁP = Thiên .
Từ chữ GIÁP nhìn theo chiều DỌC xuống dưới cùng ta thấy chữ Thiên. Như vậy GIÁP = Thiên chi Thiên.
KỶ, theo chiều Ngang = Địa / theo chiều Dọc = Nhân.Vậy, KỶ = Địa chi Nhân.

Các Bạn FORGET giùm phần viết bên trên (1-2-3) và (A -B -C) đi vì thấy nó lủng củng quá.
4. Nick QuachAthanh: Bác Ma Y Cung, Mong bác có thể cho một vài ví dụ về cách luận. Như Mệnh cung là can Canh.
Canh đọc ngang là Nhân = Được người giúp, ỷ lại
Canh đọc dọc xuống là Thiên = Độc lập tính, nắm được thiên thời.
Như vậy cung Mệnh can Canh sẽ là Nhân Chi Thiên. Ý nghĩa của Nhân Chi Thiên là gì? Phải chăng là sự tổng hợp của hai yếu tố Nhân và Thiên?

- Đáp:
THIÊN = Thiên thời, ĐỊA = Địa lợi, NHÂN = Nhân hòa. Cứ dựa theo ý của 3 chữ trên mà diễn đạt. HÀNG NGANG LÀ CẤP SỐ, HÀNG DỌC LÀ BẢN VỊ.

* HÀNG DỌC = BẢN VI :
GIÁP / ĐINH / CANH = THIÊN THỜI (nắm được THIÊN THỜI vì có BẢN VỊ là chữ THIÊN).
ẤT / MẬU / TÂN = ĐỊA LỢI (nắm được ĐỊA LỢI vì BẢN VỊ là chữ ĐỊA).
BÍNH / KỶ / NHÂM = NHÂN HÒA (nắm được NHÂN HÒA vì BẢN VI là chữ NHÂN).

* HÀNG NGANG = CẤP SỐ.
Chữ THIÊN / ĐỊA / NHÂN theo hàng NGANG có thể hiểu là THƯỢNG / TRUNG / HẠ, vì dùng để chỉ CẤP SỐ.

* Điểm CHÍNH YẾU là HÀNG DỌC còn HÀNG NGANG chỉ là CẤP SỐ.

Như chữ ĐINH , Bản vị là THIÊN cho nên nắm được THIÊN THỜI , và có Cấp số là ĐỊA (TRUNG) nên gọi là ĐỊA chi THIÊN = Có được Thiên thời, nhưng chỉ ở mức TRUNG ĐẲNG. chưa phải là cao nhất (vì cao nhất là Thiên chi Thiên).
Như chữ TÂN = ĐỊA LỢI, nhưng Địa lợi ở CẤP ĐỘ nào thì xem HÀNG NGANG = NHÂN (có nghĩa chỉ ở mức HẠ ĐẲNG – thấp nhất).

Ví dụ: Mệnh cung Thiên can có NHÂM = Nhân chi Nhân, có nghĩa là người này nắm được, sở hữu được tính Nhân hòa, tức là được lòng người xung quanh (Bà con, hàng xóm... tuy rằng ở mức độ không cao vì chỉ có cấp số là NHÂN (Hạ đẳng).
Nếu QUAN có chữ NHÂM = Được cấp trên đề bạt / đồng nghiệp giúp đỡ, v.v… tuy nhiên những sự ưu ái đó vẫn chưa phải là cao nhất vì do cấp số chỉ ở mức thấp.
Nếu TÀI có chữ NHÂM = Tiền bạc làm ra là nhờ yếu tố nhân sự, nhân hòa, chẳng hạn như mở quán Phở, tài nghệ nấu nướng thì chỉ dưới trung bình, quán lại ở trong hẻm nhưng vẫn sống được vì cả xóm đa số đều ủng hộ.
Như vậy khi Mệnh cung Thiên Can = NHÂM, tức đương sự nắm được yếu tồ Nhân hòa.

5. Nick Khongtuong: Mong Cung chủ MYC tiếp tục tường minh giùm tôi và các độc giả ở một vài điểm nữa trong thuyết Tam Tài Mệnh Cung Thiên Can.
Do khởi từ Dần nên đến Hợi sẽ hết 10 TC, qua Tý & Sửu sẽ lần lượt lặp lại TC của Dần & Mão. Vì vậy, Hành của các cung này sẽ vượng hơn các Hành khác tại các cung còn lại. Ví dụ: năm 2010-Canh Dần thì TC Tháng Giêng - cung Dần là Mậu (thổ), Mão là Kỷ (thổ),... đến Tý là Mậu (thổ), Sửu là Kỷ (thổ). Như vậy:
a, Sự vượng quá của Thổ sẽ có vai trò như thế nào khi luận đoán?
b, Xét về Hành của các Địa Chi của cung thì Dần & Mão thuộc Mộc, nay thiên can của cung đều là Thổ. Tương tự, Tý thuộc Thủy, Sửu thuộc Thổ, nay thiên can đều là Thổ. Sự chế hóa của Ngũ hành có được áp dụng vào đây hay không?
c, Nếu tạm bỏ qua sự rắc rối về Hành của các Địa Chi, sau khi xác định được Thiên Can của các cung thì ghép ngay vào Địa Chi và dùng ngay Hành của Nạp Âm của nó liệu có thỏa chăng?

- Đáp:
a/ Khi qua những Cung Vượng THỔ , dĩ nhiên Hiện tượng Địa lợi nổi bậc , nhưng CÁI CHÍNH và QUYẾT ĐINH VẪN LÀ THIÊN CAN.
THIÊN CAN là Quyết định nhưng nhìn ĐỊA CHI có thể cho ta biết Mức độ Thịnh / Suy ... của Thiên Can như thế nào. Vì thế, khi đã phối hợp Can và Chi thì không cần thiết dùng HÀNG NGANG - CẤP SỐ nữa.

b/ Tất nhiên là PHẢI CÓ sự Chế Hóa của Ngũ Hành ở đây ,vì thế tôi mới đưa ra cái Hướng Kết hợp Can Chi. VẤN ĐỀ là tại sao người ta chỉ lấy Thiên CAN để luận?
Thứ nhất là Địa chi gồm nhiều Thành phần, không chuyên nhất.
Thứ nhì, kết hợp Can Chi nhiều khi rất khó cho người luận.
Thứ ba, Địa Chi cũng như gốc rễ ( Địa chi = nhánh dưới đất = gốc rễ), Thiên Can cũng như thân cây, hoa lá cành. Thiên Can vì hiển lộ nên dễ thấy, Địa chi ẩn tàng nên khó nhìn.
Thiên Can ví như Thân cây /như HOA , duy chỉ nhìn HOA là có thể biết được Tổng thể của nó , chẳng hạn nhìn 1 đóa hoa là ta có thể biết giống Hoa gì, Quý hay tầm thường ( Cách cục ) nhìn lá có thể biết nó bị bệnh gì , nhìn Thân biết nó sống được bao lâu ...
Từ trước đến nay, như tôi đã nói, chưa có ai dùng sự kết hợp giữa CAN và CHI để luận đoán về Tam Tài, người ta chỉ 1 mạch dùng THIÊN CAN mà thôi.

Cho nên Kết hợp giữa CAN và CHI để luận Tam Tài là 1 HƯỚNG quá mới mà tôi đã đề ra, nhưng vẫn có cái lý của nó. Và Các Bạn muốn đi Hướng này thì phải tự làm chủ chính mình, đây là 1 lối đi chưa ai đi, thì mình là người Pioneer phải đi thử và quan sát lấy kinh nghiệm, trước mặt của mình không là ai cả.

c/ Nếu Bạn dùng NẠP ÂM thì lại tạo dựng thêm 1 Hướng mới nữa, tại sao không thỏa chứ? Dùng Nạp Âm có nghĩa là bỏ Chính Ngũ Hành nhảy qua dùng Phản Ngũ Hành, dùng Nạp Âm có nghĩa là dùng SỐ / KHÍ SỐ để đoán, cũng tựa như dùng Quái số vậy. Tử bình xưa kia cũng có trường phái dùng Nạp Âm đoán rất chính xác.
Bổ xung thêm về LÝ THUYẾT: TAM TÀI có 2 phần: ÂM và DƯƠNG:
Tất cả Phần Lý thuyết về MC THIÊN CAN bên trên có thể gọi là DƯƠNG CỤC TAM TÀI, vì Thiên Can thuộc DƯƠNG.
Nửa phần còn lại là PHẦN nghiên cứu thêm về ĐỊA CHI TAM TÀI, hay gọi là ÂM CỤC TAM TÀI (Xem bảng CHỖ SỞ CƯ CỦA TAM TÀI).

Thực ra người ta chỉ dùng DƯƠNG CỤC Tam Tài để luận về THIÊN THỜI / ĐỊA LỢI / NHÂN HÒA , không mấy ai phối hợp DƯƠNG CỤC và ÂM CỤC, tức PHỐI HỢP THIÊN CAN và ĐỊA CHI để luận vì Âm cục Tàng Can rất hỗn Tạp, không được Tinh thuần như Thiên Can , đó là lý do người ta không dùng ĐỊA CHI TAM TÀI.

Nhưng phải chú ý một số trường hợp sau:
GIÁP TÝ = Giáp và Tý đều thuộc THIÊN, can Giáp - Mộc được chi Tý - Thủy sinh cho, nên nắm được Thiên thời rất mạnh.
ĐINH MÃO cũng vậy, ĐINH và MÃO = THIÊN, mà MÃO - Mộc sinh cho ĐINH - Hỏa nên Thiên thời rất mạnh.
CANH TÝ = Đều là THIÊN, nhưng CANH - Kim lại sinh xuất TÝ - Thủy, nên tính chất Thiên thời tuy khá mạnh, nhưng đang trên đà giảm sút.
CANH NGỌ = Đều là THIÊN, nhưng CANH đang ở Vị thế Mộc dục, có lực lượng yếu nhất trong Lục CANH. Nhưng dù sao CANH NGỌ ở vị thế Lưỡng THIÊN, nên khí thế vẫn mạnh, nhưng cuối cùng cũng chính vì quá ỷ vào Thiên thời mà có thể suy sụp sự nghiệp.
Ở ngay trên là nói về các trường hợp thuộc Thiên, còn các trường hợp khác (ĐỊA và NHÂN) thì cũng suy luận tương tự sẽ hiểu.

DÙ SAO , trong giai đoạn đầu để khỏi bối rối , quý vị cứ dùng THIÊN CAN là đủ.
Sau khi dùng TC thuần thục, thì mới đi thêm bước nữa là dùng Thiên can phối Địa chi, nhưng theo tôi biết thì trong THỰC HÀNH, hiện nay chưa có ai dùng chiêu này.
Nên nhớ trong Trường hợp nào thì cũng phải phối hợp với TINH DIỆU để luận, Ví dụ, bản cung có được Thiên thời , nhưng ngộ Không Kiếp / Mã ngộ Không vong / Thiên Không, Hình, Kỵ, v.v… thì coi như Tính chất Thiên thời bị tổn hại nặng, không còn bao khí lực.

6. Nick Cự Cơ: Mong được Bác ma y cung giải thích giúp Cháu tuổi Ất Sửu Mệnh cung ở Dậu. Cháu xin cảm ơn Bác nhiều!

- Đáp:
MC TC = ẤT (DẬU) = Thiên chi Thiên, Thiên thời có Khí thế rất mạnh, lại thêm Địa chi là chữ THIÊN, nên có đầy đủ khí lực, Thiên thời ở thế Cực mạnh, nhưng Địa chi Dậu Kim khắc Mộc nên có giai đoạn bị mất Thiên thời, Hậu vận hoặc trong 1 Đại vận nào đó có thể suy vi vì mất Thiên thời (kết hợp Tinh diệu ở các Đại vận để đoán).
QUAN CUNG Thiên Can = KỶ (SỬU) = Địa chi Nhân, tính cách Nhân Hòa chiếm mức Trung bình. Địa chi đồng Hành lại chiếm chữ Địa thì thế Nhân hòa trên mức trung bình (ở đây vẫn luận Nhân hòa là Chính).
TÀI CUNG Thiên Can = TÂN (TỴ) = Nhân chi Địa, Địa lợi ở thế thấp. Địa chi TỴ = Nhân, Tỵ Hỏa khắc Tân Kim, nhưng Kim không bị tiêu diệt (Trường sinh chi địa), như vậy Địa lợi của Tài cung ở mức rất thấp.
Làm ăn nên chú trọng ở mặt Địa lợi ( vì mình bị yếu thế ở lãnh vực này ) , ví dụ chọn địa điểm kinh doanh tại những chỗ thuận tiện cho sự đi lại , đùng chọn trong hóc hẻm ( ở Mỹ mở tiệm mà thiếu Parkings thì sụp liền ), mua bán nhà đất cũng vậy , đừng chọn ở những nơi hẻo lánh , ngập nước .v.v .Nếu là Sĩ quan , thì phải học thêm về Địa hình.

MỆNH Cung Thiên Can có Địa lợi bị Hãm , đa Sát tinh , nếu có Hỏa Tinh đừng ở những tòa cao lâu có rào kín mít, Hỏa hoạn khó thoát, v.v…

* Nói về nguồn gốc của Thuyết “Mệnh Cung Thiên Can phối Tam Tài”:

Tôi xin minh định tôi không tạo lập ra Thuyết này, Tác giả Thuyết này là ai và có ghi chú trong các sách Tử vi Bí truyền hay không thì tôi cũng rõ, chỉ biết rằng đây là 1 Bảo bối và được Khẩu truyền (trước 1975, Chiêu này được ít người biết nhưng chỉ truyền trong gia đình/đệ tử ruột, nhà tui có mấy ông Chú, Bác chơi Tử vi trên 30 niên mà cũng không được ai dạy Chiêu này).
Chiêu Tam Tài này theo tui thì có lẽ là của NAM Phái HÀ LẠC , Trường phái này rất chuyên về KHÍ CÔNG , thường dùng CAN và CHI ( Ngũ Hành ) phối hợp với Cung vị / âM DƯƠNG để coi số. Nhưng thông thường thì thấy họ dùng CAN là CHÍNH / CHI là PHỤ.
Phái HÀ LẠC này có ảnh hưởng rất lớn ở miền Nam Trung Hoa và ngay cả VN.
Trong các sách Tử vi hiện hành thỉnh thoảng thấy tàn tích của Họ, thấy trong PhiTinh TVDDS , TÚ phái Tvds , Tử vi Áo Bí (Việt viêm Tử), Trường phái sư huynh đệ của Cụ Bala đều có sử dụng lý thuyết Hà lạc, nhưng tuyệt nhiên không ai đề cập đến Chiêu này.
Về BẦNG CHỨNG: Bằng chứng chính là Thời gian, tui không cần đánh bóng nhưng ai cũng biết đây là 1 chiêu cao tầng, đã là cao tầng thì Cao thủ lấy ra áp dụng (sau vài tháng cho đến 1 năm, vì mới đầu còn lọng cọng chưa thể đánh giá được) sẽ thấy thuận tay vừa ý hay không , vì còn tùy, chiêu này tui thích nhưng anh không thích thì sao? Và đã là Cao thủ thì có thể tự vận hành sử dụng khi đã biết kiếm quyết. Tự nghiệm mới thấy được cái hay của nó ở chỗ nào.


#5 songbienxanh

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 192 Bài viết:
  • 230 thanks

Gửi vào 25/05/2014 - 21:28

minhgiac: bài này của cụ Ma Y Cung mà . Blog cụ Hà Uyên chỉ đăng lại thôi.

Thanked by 2 Members:

#6 minhgiac

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1958 Bài viết:
  • 5379 thanks

Gửi vào 25/05/2014 - 22:06

vâng có lẽ thế, minhgiac lấy nguồn ở blog của ông thấy hay thì đăng lên vậy! tất nhiên đọc biết là của ông đó

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 2 Members:

#7 minhgiac

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1958 Bài viết:
  • 5379 thanks

Gửi vào 26/05/2014 - 19:25

Bộ Sao Cơ Nguyệt Đồng Lương - Cự Nhật (TRÍCH DẪN BÀI VIẾT CỦA GIÁO SƯ PHẠM KẾ VIÊM)


Trong các bài trước, chúng ta đã xét 8 Sao chính trong 2 vòng Sao của Tử Vi và Thiên Phủ - đó là các Sao Tử Vi, Thiên Phủ, Vũ Khúc, Thiên Tướng, Liêm Trinh, Thất Sát, Phá Quân và Tham Lang với tên gọi tắt là Tử, Phủ, Vũ, Tướng, Liêm, Sát, Phá và Tham. Trong vòng Tử Vi bộ ba ( Tử Liêm Vũ ) luôn luôn ở vị trí Tam Hợp ; cũng như vậy với bộ ba ( Sát Phá Tham ) của vòng Thiên Phủ. Do đó khi một trong các Sao của vòng nọ đồng cung với một Sao trong những Sao của vòng kia đã tạo nên những Bộ Đôi, Bộ Ba, Bộ Bốn thậm chí có thể là Bộ 5, Bộ Sáu , mà thuật ngữ Tử Vi từ ngàn xưa đã tạo thành những Cách : Tử Phủ Vũ Tướng ( Liêm), Sát Phá Tham hay Tử Vũ Liêm Sát Phá Tham, Phủ Tướng Triều Viên cách …
Trong bài này ta sẽ xét đến 6 Sao Chính còn lại của 2 vòng Sao Tử Vi và Thiên Phủ : Ba Sao Thiên Đồng (gọi tắt là Đồng ) , Thái Dương ( Dương hay Nhật ), Thiên Cơ ( Cơ) của vòng Tử Vi luôn luôn tạo thành 1 cấp số Cộng mà công sai r = 2, nên Đồng và Cơ luôn luôn ở Vị Trí Tam Hợp. Cũng như ba Sao Thái Âm (Âm hay Nguyệt ), Cự Môn ( Cự ), Thiên Lương (Lương ) cũng vậy, ở vị trí của Cấp Số Cộng như trên – nên Nguyệt ( hay Âm) và Lương cũng luôn luôn ở vị trí Tam Hợp. Do đó khi 1 Sao của bộ ( Đồng, Nhật, Cơ ) thuộc vòng Tử Vi đồng cung với 1 Sao của bộ ( Nguyệt, Cự, Lương ) thuộc vòng Thiên Phủ ta sẽ có 3x3 = 9 Bộ Đôi (Đồng Âm ), ( Cự Đồng), (Đồng Lương), ( Nhật Nguyệt hay Âm Dương ), ( Cự Nhật ), ( Dương Lương ), ( Cơ Âm hay Cơ Nguyệt ), ( Cự Cơ ) và ( Cơ Lương ). Bộ 3 như (Âm Dương Đồng, Cự Nhật Cơ, Cự Nhật Âm ) ; Bộ 4 như ( Cơ Nguyệt Đồng Lương , Cơ Cự Đồng Lương, Cự Nhật Đồng Âm ) ; Bộ 5 ( Nhật Nguyệt Cơ Cự Đồng ) hay Bộ 6 ( Cự Nhật Cơ Nguyệt Đồng Lương ).
1) Cơ Nguyệt Đồng Lương cách
Cách này chỉ sảy ra trong 3 Trường Hợp :
a) Khi Cơ Âm đồng cung tại Dần, Thân trong Mẫu Tử Tham

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Khi Đồng Lương đồng cung cũng tại Dần, Thân trong Mẫu Tử Phá
c) Khi Cơ Lương đồng cung tại Thìn, Tuất hay Đồng Âm đồng cung tại Tý, Ngọ trong Mẫu Tử Sát.
Còn trong các mẫu khác ( Tử Vi độc thủ, Tử Phủ, Tử Tướng ) bộ 4 này thiếu 1 hay 2 sao hoặc trùng thêm với 1 hay 2 Sao trong bộ đôi ( Cự Nhật ) để thành bộ 5 hay bộ 6.
Trước khi bàn đến sự liên kết của Bộ 4 này ta nhắc lại định nghĩa cùng tính chất riêng rẽ từng Sao một của Bộ này :

A) THIÊN CƠ
Nam Đẩu Tinh , Âm - Mộc Thiện Tinh - Chủ về Huynh Đệ, Phúc Thọ ; Miếu tại Thìn, Tuất, Mão, Dậu ; Vượng tại Tỵ, Thân ; Đắc Địa tại Tý, Ngọ, Sửu, Mùi ; Hãm Địa tại Dần, Hợi.
Thiên Cơ theo nghĩa đen là Máy Tính của Trời ( chữ khi ghép với Cơ Mật : Cơ « quan trọng », Mật « kín đáo », khi ghép với Cơ Mưu « khôn khéo, tính toán », cơ quan « bộ máy then chốt », cơ khí « máy móc, vật dụng », cơ năng « khôn khéo tài giỏi » …nghĩa bóngkhi đắc địa là mẫu người có dáng cao ( Mộc cách trong Nhân Tướng Học), xương cốt lộ, da trắng, mặt dài nhưng đầy đặn, khi gặp nhiều trung tinh đắc cách ( Xương Khúc, Khôi Việt, Tả Hữu, Ân Qúy, Khoa Quyền Lộc …) thông minh, mưu cơ quyền biến, tính nhân hậu và từ thiện - cuộc đời không Qúy cũng Phú, có uy danh lừng lẫy. Với Nữ Mệnh đắc địa và hợp Mệnh là người tài giỏi – hành động nhiều khi vững chắc hơn đám m*y râu ‼
Cơ đắc địa đóng tại Mệnh gặp Tả Hữu, Hình Y, Ân Qúy chuyên về Y Khoa hay Nha - gặp Tả Hữu, Hỏa Linh, Hình chuyên về Kỹ Nghệ, máy móc hay thủ công cũng thành danh. Với Nữ Mệnh - nếu không hành nghề cũng là mẫu người khôn ngoan lanh lợi, đảm đang, nhân hậu, từ thiện, vượng phu ích tử.
Nếu hãm địa, hình tướng thấp bé, da dẻ không tươi nhuận – tuy kém thông minh, có chút gian sảo ( khi gặp nhiều Hung Sát Tinh) – trong kinh doanh dù có ngược suôi vất vả nhưng cũng no cơm ấm áo và sống lâu ! Với Nữ Mệnh phải muộn lập gia đình mới tránh được buồn thương trong Tình Cảm, éo le vì chồng con.
Phú Cổ Nhân đã có câu :
- Cơ viên phú tính từ tâm ( Cung Mệnh có Cơ Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa tọa thủ là người có lòng Từ Thiện ).
- Thiên Cơ gia ác Sát đồng cung, cẩu thân thử thiết ( Cung Mệnh có Cơ độc thủ đắc địa gặp Sát Tinh đồng cung là người qủy quyệt, xảo trá – nhưng nếu Hãm Địa + Sát Tinh là hạng trộm cướp bất lương).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

THÁI ÂM
( gọi tắt là Nguyệt hay Âm )
Bắc Đẩu Tinh, Âm-Thủy, Phú Tinh chủ về Quan Lộc và Điền Trạch ; Miếu Địa tại Dậu, Tuất, Hợi ; Vượng tại Thân, Tý ; Đắc địa tại Sửu, Mùi ; Hãm địa tại Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ. Thái Âm biểu tượng là Mặt Trăng - ở Số tượng trưng cho Mắt bên phải, Bà Nội, Ngoại, Mẹ, Cô, Dì, Vợ và Chị Em Gái ( tùy theo vị trí của Cung ). Sinh vào ban đêm trong khỏang từ mồng 1 đến ngày rằm là thuận lý - rất rực rỡ nếu gặp thêm Đào Hồng Hỉ, Khoa.
Gặp Hóa Kị hay Kình Đà Hình hay Tuần Triệt dễ có vấn đề về Mắt, Thần Kinh, Tim Mạch hay Khí Huyết.Trường hợp hãm địa, nếu gặp Tuần hay Triệt- nếu cuộc sống thay đổi Môi Sinh ( xuất Tổ ly Tông ) lại trở nên đắc cách.
Thái Âm đắc địa với Nam mạng ( hợp với Âm Nam) thuộc mẫu người cao, da trắng, mặt tròn đầy đặn , mắt sáng, rất thông minh, tính khoan hòa nhân hậu, nhiều sáng kiến, rất lý tưởng (đôi khi viễn mơ xa rời thực tế). Cung Mệnh được Thái Âm vượng địa hội hợp nhiều Trung Tinh đắc cách thêm Tam Minh ( Đào Hồng Hỉ ) được hưởng phú qúy tột bậc và nổi tiếng là giàu có. Đi về ngành Y Khoa, Văn Học Nghệ Thuật ( họa sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ …) dễ nổi danh ; trong ngành Kinh Tế, Ngân Hàng, Tài Chánh hay Hành Chính ( công tư chức) ở vai trò Tham Mưu, Cố Vấn hay Nghiên Cứu cũng thành công lớn. Tuy nhiên nếu gặp Tuần Triệt độ số giảm nhiều, thêm Hung Sát Tinh thường có bệnh ở mắt, thần kinh, tuổi thọ bị chiết giảm - nếu xuất tổ ly tông có thể tránh được gian khổ, cuộc đời về Hậu Vận sẽ khá hơn Tiền Vận. Ở Nữ Mệnh mẫu người có nhan sắc ( mặt tròn da trắng, mắt phượng, mắt bồ câu ) có đức độ, tài giỏi đảm đang - gặp nhiều Sao sáng sủa hợp Mệnh, xa lánh Hung Sát Tinh được hưởng phú qúy lâu dài – phúc thọ song toàn. Đi về ngành Y Khoa ( chuyên về Tim Mạch, Thần Kinh, Mắt ), Sư Phạm, Văn Học Nghệ Thuật dễ thành công. Với Khôi Việt, Tả Hữu, Hỉ Thần, Tấu Thơ , Tam Minh ( Đào Hồng Hỉ ) dễ nổi danh về Văn Học Nghệ Thuật. Hãm Địa +Hình Tướng thấp bé da dẻ không tươi nhuận ( hay nhiều Hung Sát Tinh) cuộc đời cùng khổ - tình duyên lận đận - thường có bệnh về mắt, thần kinh ( hoang tưởng, đồng bóng ), khí huyết ; kể cả khi gặp Tuần Triệt. Trường hợp này khi sống xa nơi sinh trưởng có thể cuộc đời khá hơn.
Với Thái Âm vượng địa Cụ Lê Qúy Đôn đã có câu Phú : Thái Âm viên mãn ai bằng hay các Câu Phú khác của Cổ Nhân :
- Nguyệt Lãng Thiên Môn ư Hợi địa, đăng vân chấp chưởng đại quyền ( Thái Âm tại Hợi « nơi trú của Qủe Càn nên được gọi là Thiên Môn » đẹp như mặt trăng sáng rực giữa Trời, được hưởng Phú Qúy đến tột bực ; thường nắm giữ quyền hành lớn - sai khiến được muôn người ).
- Thái Âm cư Tý, hiệu viết thủy đăng quế ngạc, đắc thanh yếu chi chức, trung gián chi tài ( Thái Âm đóng tại Tý, ví như giọt nước đọng trên cành Quế - cách này Qúy Hiển - lại có tài can gián được người trên ).
- Thái Âm cư Tý, Bính Đinh phú qúy trung lương (Cung Mệnh an tại Tý có Thái Âm tọa thủ - đó là cách Đồng Âm cư Tý – sinh năm Bính Đinh là hợp cách, nên được hưởng phú qúy, phúc thọ song toàn và là người trung lương - thật ra Đinh Kỷ đúng hơn vì có Lộc Tồn tại Di chiếu về được cách Song Lộc, Quyền ; Khoa tại Quan Lộc, tuổi Bính tuy được Hóa Lộc tại Mệnh, nhưng bị Kình tại Di, nếu sinh giờ Tý thì đỡ hơn ! )
- Thái Âm Dương Đà tất chủ nhân ly tài tán ( Thái Âm gặp Kình Đà hội hợp tất phải ly tổ, tiền tài hay bị hao tán – dù vượng địa tại Tý nếu là Tuổi Nhâm thì Kình tại Mệnh độ số tuy có giảm – nhưng vẫn còn hơn khi hãm địa gặp Kình Đà, Hình, Không Kiếp, Kị : suốt đời cùng khổ, bệnh tật - nếu xuất tổ ly tông sinh giờ Sửu Mùi ( nhờ Phúc Đức), sinh giờ Tỵ Hợi (nhờ cung Phối ), sinh giờ Mão Dậu ( nhờ Môi sinh tốt gặp Qúy Nhân) - cuộc đời về Hậu Vận có thể khá hơn Tiền Vận ).
C) THIÊN ĐỒNG ( gọi tắt là Đồng ).
Nam Đẩu Tinh – Dương Thủy –Phúc Tinh - Chủ về Phúc Thọ ; Miếu tại Dần Thân ; Vượng tại Tý ; Đắc địa tại Mão, Tỵ, Hợi ; Hãm địa tại Ngọ , Dậu, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Thiên Đồng tại Mệnh, nếu Đắc Địa, hợp Mệnh, mẫu người nở nang hơi thấp chân tay ngắn, mặt vuông vức đầy đặn ( khuôn mặt chữ Dụng ) - nhiều Phật tính, ôn hòa nhân hậu, từ thiện nhưng không qủa quyết, không bền chí ( hay thay đổi ý kiến, công việc, đôi khi ba phải )- hội nhiều Trung Tinh đắc cách cũng là mẫu người được hưởng phú qúy đến tột bậc, có uy danh, phúc thọ song tòan. Với Nữ Mệnh là người đảm đang phúc hậu, đức độ, vượng Phu ích Tử. Nếu hãm địa gặp nhiều Hung Sát Tinh với hình tướng khuyết hãm, da dẻ không tươi nhuận, chỉ tay đứt gãy không rõ nét, suốt đời khổ cực, lang thang phiêu bạt thường gặp nhiều rủi ro hay tật bệnh ( bộ máy tiêu hóa). Nếu gặp Tuần Triệt độ số rủi ro giảm nhẹ.
Với Thiên Đồng đắc địa tại Mệnh, Cụ Lê Qúy Đôn đã có câu : « Thiên Đồng phì mãn , tính bằng ôn lương » và các Câu Phú khác của Cổ Nhân :
- Thiên Đồng nhập Mệnh, hóan cải vô thường(Đồng tại Mệnh là người không có định kiến, hay thay đổi chí hướng, công việc và chỗ ở ).
- Thiên Đồng hội Cát, thọ nguyên thời ( Mệnh có Đồng tọa thủ gặp nhiều Sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, chắc chắn là sống lâu ).
- Dần Thân tối hỷ Đồng Lương hội ( Đồng Lương tại Dần Thân hội nhiều Trung Tinh đắc cách, tất được hưởng Phú Qúy đến tột bực, Phúc Thọ song toàn ).
- Thiên Đồng Tuất cung vi phản bội, Đinh Nhân hóa cát, chủ đại qúi ( Đồng tại Tuất hãm địa nhưng với người Tuổi Đinh nhờ bộ Tứ Hóa đi cặp : Nguyệt với Lộc, Đồng với Quyền, Cơ với Khoa đóng tại Tam Hợp Mệnh lại trở nên tốt ).

D) THIÊN LƯƠNG ( gọi tắt là Lương )

Nam Đẩu Tinh , Âm Mộc – Phúc Thọ Tinh - chủ Phụ Mẫu, Phúc Thọ ; Miếu tại Ngọ, Thìn, Tuất ; Vượng tại Tý, Mão, Dần, Thân ; Đắc địa tại Sửu , Mùi ; Hãm địa tại Dậu, Tỵ, Hợi.
Thiên Lương ( Lương - bộ Mộc – ý nghĩa như lương đống « rường cột », bộ phận quan trọng) đắc địa tại Mệnh, hợp với hành của Mệnh là mẫu người thân hình thon cao ( Hình Tướng : Mộc cách ), da trắng, vẻ mặt khôi ngô tuấn tú, tính khoan hòa, độ lượng, nhân hậu, trầm tĩnh, sống nhiều với nội tâm - gặp nhiều Sao sáng sủa hội hợp, vắng bóng Hung Sát Tinh được hưởng Phú Qúy đến tột bực, có uy quyền hiển hách - thường ở vai trò Tham Mưu, Cố Vấn rất thành công.Với Nữ Mệnh – khi Thiên Lương đắc địa, hợp Mệnh được gặp nhiều Sao tốt, xa lánh Hung Sát Tinh với Hình Tướng đẹp, da dẻ tươi nhuận là mẫu người Hiền Phụ ( nghiêm trang, đôn hậu, độ lượng, từ thiện ) được hưởng giàu sang trọn Đời và rất vượng Phu ích Tử. Nếu hãm địa hội nhiều Hung Sát Tinh với Hình Tướng thấp bé Ngũ Quan khuyết hãm, gặp Hung Sát Tinh : cuộc Đời vất vả cùng khổ, gặp rủi ro và tật bệnh - với Nữ Mệnh : tình duyên trắc trở, dâm dật, khắc chồng, hại con, đôi khi còn yểu tử ‼
Với Thiên Lương đắc địa thủ Mệnh, Cụ Lê Qúy Đôn đã có câu « Thiên Lương từ hậu dung nhan » và các Câu Phú khác của Cổ Nhân :
- Thiên Lương thủ chiếu, cát tương phùng, bình sinh Phúc Thọ ( Lương thủ Mệnh đắc địa gặp nhiều Sao sáng sủa hội hợp được hưởng phú và sống lâu ).
- Thiên Lương cư Ngọ vị, quan tư thanh hiển triều đình ( đó là Cách Ngọ thượng Thiên Lương với tuổi Đinh Kỷ « Lộc Tồn đồng cung » , tuổi Qúy « Lộc Tồn chính chiếu » được hưởng giàu sang, uy quyền hiển hách. Các tuổi khác có cách này cũng có quan chức lớn ).
- Thiên Lương, Văn Xương cư Miếu, Vượng vị chí Công Khanh ( Cung Mệnh có Lương Miếu địa, Vượng địa tọa thủ gặp Xương đồng cung, nên rất Qúy Hiển ).
- Lương phùng Hao, Sát tại Tỵ cung, đao - nghiệp hình thương ( Cung Mệnh an tại Tỵ có Lương tọa thủ, gặp Đại Tiểu Hao, Sát Tinh hội hợp , tất khó tránh được tai họa về Đao thương hay súng đạn ).
- Thiên Lương, Thiên Mã vi nhân phiêu lãng vô nghi ( Cung Mệnh an tại Tỵ Hợi có Thiên Lương tọa thủ gặp Mã đồng cung hay xung chiếu là người phiêu đãng, thích chơi bời, ngao du nay đây mai đó và hay thay đổi chí hướng).
- Thiên Lương ngộ Mã, Nữ Mệnh tiện nhi thả dâm( Đàn Bà mà cung Mệnh tại Tỵ Hợi gặp Mã đồng cung hay xung chiếu là người hạ tiện và dâm dật ).
- Phần trên là hình ảnh, tính chất Riêng của các Sao Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thái Âm khi đứng riêng rẽ một mình (độc thủ tại Mệnh ). Khi đứng chung với một sao khác - ảnh hưởng vị trí cung + phái tính + vai trò cộng hưởng các Sao chung khi tạo thành Bộ - bản chất và cuộc đời có tính chung khác nhau. Như cùng một cách Cơ Nguyệt Đồng Lương – nhưng khi ở trong Mẫu Tử Sát, Tử Phá và Tử Tham, bản chất đôi khi cũng khác nhau, kể cả khi cùng trong 1 Bộ 4 – nhưng khi các Sao đóng tại Mệnh khác nhau – tính cách Cá Nhân của Bộ đó cũng có vài điểm « nổi bật » khác nhau ! Phần sau đây nói về Cơ Nguyệt Đồng Lương cách trong các Mẫu ( Tử Sát, Tử Phá và Tử Tham) :
- 1) Cơ Nguyệt Đồng Lương cách trong Mẫu TỬ SÁT
Trong Mẫu Tử Sát cặp Cơ Lương đắc cách khi đồng cung tại Thìn Tuất và cặp Đồng Âm cũng đắc cách khi đồng cung tại Tý, nhưng ở Ngọ thì không bằng – tuy không đến nỗi lạc hãm. Bộ 4 ( Cơ Nguyệt Đồng Lương ) đắc cách khi ở Vị Trí này.
a) Mệnh có Cơ Lương đóng tại Thìn, Tuất thì Quan Lộc vô chính Diệu được cách Nhật Nguyệt đắc địa chiếu Hư Không ; Tài Bạch được cặp Đồng Âm rất đắc vị khi ở Tý - ở Ngọ thì không bằng. Ba vị trí của Mệnh, Quan, Tài các Sao đều đắc vị - nếu vắng bóng Hung Sát Tinh sinh giờ Tý, Ngọ ( Mệnh Thân đồng cung ), sinh giờ Dần Thân ( THÂN cư Quan Lộc), sinh giờ Thìn, Tuất ( THÂN cư Tài Bạch ) thì cuộc Đời từ Tiền Vận đến Hậu Vận đều gặp nhiều may mắn, ít thăng trầm trong Nghiệp Vụ - chung thân Qúy Hiển. Cho dù có vướng Hung Sát Tinh tại Mệnh – thủa thiếu thời có nhiều trở ngại, nhiều phấn đấu, nhưng từ Trung Vận Cuộc Đời khá hơn khác trước - nếu Sinh giờ Sửu, Mùi ( THÂN cư Phúc Đức ), sinh giờ Mão Dậu ( THÂN cư Thiên Di) đều được cách Nhật Nguyệt chiếu Hư Không giống như cung Quan Lộc ( cuộc đời từ Trung Vận, nhờ Phúc Ấm của Tổ Tiên – cùng gặp nhiều Qúy Nhân trong Môi Sinh giúp sức cũng làm nên Nghiệp lớn) ; sinh giờ Tỵ Hợi cung Phối được cách Cự Nhật ( người Bạn Đời phò tá giúp ý kiến, có thể là Quân Sư đắc lực !).
Bất kỳ ai, mà Lá Số có cách này - đi vào ngành Hành Chánh, Y Dược Nha, Sư Phạm, Văn Học Nghệ Thuật đều thành công - nếu thêm Tam Minh ( Đào Hồng Hỉ ) - rất nổi tiếng, được nhiều người ngưỡng mộ ‼. Nếu gia thêm Kình Đà, Hình, Không Kiếp theo đuổi ngành Bác Sĩ giải Phẫu, Nha Sĩ, Luật Sư có thể giảm sự tác hại của Hung Sát Tinh tác động vào chính mình ‼ .
Về Cách này, Phú của Cổ Nhân đã có câu :
- Thiên , Ấm triều cương , nhân từ chi trưởng ( Cung Mệnh an tại Thìn, Tuất có Cơ « Thiên », Lương « Ấm » đồng cung nên rất nhân từ và chắc chắn hưởng đựơc Phú Qúy song toàn. Nếu gặp Tuần Triệt án ngữ hay gặp nhiều Sát Tinh , thật chỉ có Tu hành mới được yên thân hưởng Phúc và sống lâu ).
- Cơ Lương hội họp thiện đàm Binh, cư Tuất diệc vi mỹ luận ( Cung Mệnh an tại Thìn, Tuất có Cơ Lương tọa thủ là người học rộng tài cao, hay bàn luận về chính lược, chiến lược. Nếu cung Mệnh tại Tuất, tất có nhiều mưu trí hơn là an tại Thìn ).
- Cơ Lương thủ Mệnh gia Cát Diệu, Phú Qúy song toàn ( Cung Mệnh an tại Thìn, Tuất có Cơ Lương tọa thủ, gặp nhiều Sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, chắc chắn là được hưởng giàu sang trọn Đời ).
- Cơ Lương, Tứ Sát, Tướng Quân xung, Vũ khách, Tăng lưu Mệnh sở phùng ( Cung Mệnh an tại Thìn, Tuất có Cơ Lương tọa thủ gặp Kình, Đà, Hỏa, Linh hội hợp, gặp Tướng xung chiếu, ắt là hạng Võ Sĩ giang hồ hay Thầy Tu ).
- Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân ( Cung Mệnh có Cơ Nguyệt Đồng Lương hội hợp thường là Công Tư Chức ).
- Cơ Nguyệt đồng chiếu Mệnh Thân Không vi Tăng Đạo ( Cung Mệnh hay cung THÂN gặp Tuần, Triệt án ngữ có Cơ Lương đồng cung hay chiếu, tất là Thầy Tu « tuổi Hợi, Mão, Mùi, Tỵ, Dậu, Sửu » ).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Trường hợp Mệnh có cặp Đồng Âm tại Tý, Ngọ( tại Tý đắc cách hơn ), thì Quan Lộc Cơ Lương, Tài Bạch và Thiên Di vô chính Diệu ( Nhật Nguyệt đắc cách chiếu Hư Không - rất đẹp ), Cung Phúc Đức Cự Nhật, Cung Phối cũng vô chính Diệu được Cự Nhật Cơ Lương chiếu. Sinh vào giờ nào thì cũng đẹp, cuộc Đời từ Tiền Vận đến Hậu Vận ít thăng trầm – đi vào ngành nghề nào cũng thành công – không Giàu cũng Sang. Với Nữ Mệnh nổi danh tài sắc , nhất là đi vào Lãnh Vực Văn Hoá Nghệ Thuật.
c) Trường hợp Mệnh vô chính Diệu đóng tại Dần hay Thân vẫn được cách Cơ Nguyệt Đồng Lương cộng hưởng với các Cung Di, Phúc, Phối ( Phu hay Thê ) - nếu sinh giờ Mão, Dậu, Sửu, Mùi, Thìn, Tuất - cuộc Đời vẫn lên hương dù ở bất cứ ngành nghề nào trong Xã hội. Tuy nhiên, nếu đi vào ngành nào mà hợp với Bản Chất và sở trường của Bộ Sao thủ Mệnh thì vẫn có lợi cho Mình và giúp ích cho xã hội nhiều hơn !
Thuộc Mẫu Tử sát với Bộ 4 ( Cơ Nguyệt Đồng Lương ) nằm trong tam giác ( Thân Tý Thìn ) nếu thuộc lứa Tuổi Canh ( Thân, Tý, Thìn)+Cục Thổ hay Thủy được hưởng đủ 3 vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh. Cũng vậy khi Bộ 4 ( Cơ Nguyệt Đồng Lương ) nằm trong tam giác ( Dần Ngọ Tuất) với lứa tuổi Giáp ( Dần, Ngọ, Tuất )+ Cục Hỏa - sinh giờ Tý, Ngọ, Dần, Thân, Thìn, Tuất - được hưởng đủ 3 vòng nói trên, nếu xa lánh Hung Sát Tinh trong tam giác ( Mệnh, Quan, Tài ) thì cuộc Đời thật là toàn hảo.
- 2) Cơ Nguyệt Đồng Lương cách trong Mẫu TỬ PHÁ
Trong Mẫu Tử Phá , cặp Đồng Lương đắc cách tại Dần, Thân ; Thái Âm ( Nguyệt ) độc thủ tại Thìn, Tuất (ở Tuất đắc vị hơn ) ; Thiên Cơ độc thủ tại Tý, Ngọ ( Cơ đều đắc cách ở 2 vị trí này ).
a) Khi Mệnh Đồng Lương đóng tại Dần hay Thânthì Quan Lộc có Thiên Cơ độc thủ tại Ngọ hay Tý, Tài Bạch có Thái Âm độc thủ tại Tuất (đắc địa ) hay tại Thìn ( hãm). Cung Phúc Đức có Thái Dương độc thủ tại Thìn (đắc ) hay Tuất ( hãm ) ; cung Thiên Di vô chính Diệu tại Thân hay Dần (được Cự Nhật chiếu) ; cung Phối ( Phu hay Thê ) được Cự Môn cư Tý ( Thạch Trung Ẩn Ngọc) hay cư Ngọ. Bộ 4 ( Cơ Nguyệt Đồng Lương ) ở Mẫu Tử Phá cũng đẹp như ở Mẫu Tử Sát : các Sao trong Tam Giác ( Mệnh Quan Tài) và Tam Giác ( Phúc Di Phối ) đều phần lớn đắc vị - nên sinh giờ nào - vắng bóng Hung Sát Tinh + Hình Tướng thì cuộc Đời cũng Qúy Hiển. Mệnh có Đồng Lương đóng tại Dần đẹp hơn khi đóng tại Thân vì 6 cung ( Mệnh, Quan, Tài, Phúc, Di, Phối ) đều có các Sao đắc vị. Nên Phú đã có câu : Dần Thân tối hỷ Đồng Lương hội ( cung Mệnh an tại Dần, Thân có Đồng Lương tọa thủ đồng cung nên rất sáng sủa tốt đẹp. Có cách này, tất được hưởng Phú Qúy đến tột bậc, phúc thọ song tòan ).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Khi Mệnh có Thiên Cơ độc thủ đóng tại Ngọ ( hay Tý) thì Quan Lộc có Thái Âm độc thủ tại Tuất ( hay Thìn ) ; Tài Bạch có cặp Đồng Lương tại Dần ( hay Thân ) ; cung Phúc Đức vô chính Diệu được Cự Nhật chiếu ; cung Thiên Di có Cự Môn cư Tý ( hay Ngọ) ; cung Phối được Thái Dương độc thủ tại Thìn ( hay Tuất). Trường hợp này Thiên Cơ ở Ngọ đẹp hơn ở Tý.
c) Khi Mệnh có Thái Âm ( Nguyệt ) độc thủ tại Tuất ( hay Thìn ) thì Quan Lộc có cặp Đồng Lương tại Dần ( hay Thân ) ; Tài Bạch có Cơ độc thủ tại Ngọ ( hay Tý ) ; cung Phúc Đức Cự Môn cư Tý ( hay Ngọ ) cung Thiên Di được Thái Dương độc thủ tại Thìn ( hay Tuất ) ; cung Phối vô chính Diệu tại Thân (hay Dần ) được 2 cặp ( Đồng Lương ) và Cự Nhật hợp chiếu. Trường hợp này Thái Âm tại Tuất đẹp hơn khi ở Thìn ; tuy nhiên, nếu sống xa nơi sinh trưởng thì lại khác ‼
Do đó ở Bộ 4 ( Cơ Nguyệt Đồng Lương ) trong Mẫu Tử Phá này dù Mệnh đóng ở đâu – sinh giờ nào thì 6 cung ( Mệnh, Quan, Tài, Phúc, Di, Phối ) đều có Sao đắc vị hỗ trợ lẫn nhau - với Đồng Lương đóng tại Dần thì đẹp hơn khi đóng tại Thân ( vì Nhật Nguyệt Cự đắc vị hơn). Mệnh đóng tại Dần với tuổi Giáp ( Dần Ngọ Tuất ) hay Đinh, Kỷ + Cục Hỏa được hưởng đủ 3 vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh cũng vậy khi Mệnh đóng tại Thân với tuổi Canh ( Thân Tý Thìn) hay Qúy +Cục Thổ hay Thủy. Với Lá Số có cách này +Hình Tướng ( Tam Đình cân xứng, Ngũ Quan không khuyết hãm)+Bàn Tay các chỉ rõ ràng không đứt quãng : cuộc Đời chung thân Qúy Hiển.
- 3) Cơ Nguyệt Đồng Lương cách trong Mẫu TỬ THAM
Trong Mẫu Tử Tham cặp Cơ Âm đồng cung tại Dần hay Thân ( Cơ hãm địa tại Dần Thân, riêng Âm chỉ hãm tại Dần ) do đó cặp Cơ Âm ở Thân sáng hơn ở Dần. Thiên Lương độc thủ tại Tý hay Ngọ và đắc cách ở 2 vị trí này. Thiên Đồng độc thủ tại Tuất hay Thìn - đều hãm địa ở 2 vị trí này. Bộ 4 (Cơ Nguyệt Đồng Lương ) ở mẫu này kém hơn khi ở 2 mẫu Tử Sát và Tử Phá, hơn nữa Tam Giác ( Phúc, Di, Phối ) chỉ có 2 Sao Cự Nhật tọa thủ hỗ trợ khi THÂN cư Phúc, Di, Phối lại không toàn hảo ( lúc sáng, lúc tối ) nên cách này chỉ đẹp khi Mệnh đóng tại Ngọ hay Thân ( sinh giờ Tý Ngọ )+ tuổi Giáp ( Dần, Ngọ, Tuất ) hay Đinh, Kỷ+Cục Hỏa hay tuổi Canh ( Thân, Tý, Thìn ) hay Quý +Cục Thổ hay Thủy ( nhờ được trùng phùng 3 vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh ) - nếu vắng bóng Hung Sát Tinh +Hình Tướng đẹp thì cuộc đời cũng chung thân Phú Qúy.
2) Cự Nhật cách
Cũng giống như cách trình bày Bộ 4 ( Cơ Nguyệt Đồng Lương ) cách - trước khi vào sự Kết Hợp của Bộ đôi Cự Nhật, ta cũng xét riêng từng Sao một - Bản Chất của 2 Sao này khi đứng riêng một mình (độc thủ tại Mệnh ) :

A) Cự Môn ( gọi tắt là Cự ).
Cự Môn ( Cự chữ nho thuộc bộ Công –ý nghĩa đen là Lớn- như Cự Phú « giàu có lớn », Cự Phách « ngón tay cái lớn- nghĩa bóng : người tài giỏi » - Môn là cửa. Cự Môn nghĩa đen là Cửa Lớn trong Tử Vi – hình tượng - là Sao Bắc Đẩu Tinh- Âm Thủy , Ám Tinh - Chủ : ngôn ngữ, thị phi ; Miếu tại Mão, Dậu ; Vượng tại Tý, Ngọ, Dần ; Đắc địa tại Thân, Hợi ; Hãm tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tỵ.
Cự Môn đắc địa thủ Mệnh ( hợp với hành của Mệnh « Mộc, Thủy, Kim » ) là người thông minh, nhân hậu, vui vẻ, mưu cơ, giỏi xét đóan, ăn nói đanh thép ( +Hình Tướng và Chỉ Tay đẹp) - hội Xương Khúc, Tả Hữu, Khôi Việt, Khoa Quyền Lộc là người có văn tài lỗi lạc, thích họat động Chính Trị, thường chuyên về Tư Pháp, Ngọai Giao ( nếu gặp Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ thường là Quan Tòa hay Luật Sư danh tiếng).
Cự Môn hãm địa là người kém thông minh, gian quyệt, tham lam, khắc nghiệt - nếu gặp trung tinh đắc cách – còn khá – cũng là người hiểu biết sâu rộng, có văn tài, ăn nói khôn ngoan đanh thép, họat động chính trị hay làm Thầy ( thầy giáo, thầy kiện…) cũng được hưởng giàu sang. Cự hãm địa lại gặp nhiều Hung Sát Tinh ( Kình Đà, Không Kiếp, Hình Kỵ , Hỏa Linh), tính tình chua ngoa, đa hư thiểu thực, dâm dật, hoang đàng, chung thân cùng khốn cô đơn, lang thang phiêu bạt, tật bệnh khó chữa hay mắc tai nạn khủng khiếp, thường vướng vào vòng lao lý – đôi khi yểu tử hay chết một cách thảm khốc ( Cự Môn tượng thân thể là cái mồm - thủ Mệnh hay Cung Tật Ách : thường bị môi thâm - gặp Kỵ Đà : nói lắp, dễ bị thị phi điều tiếng « nhất là tuổi Đinh : Cự+Kỵ : thị phi, miệng tiếng, dễ bị đố kị ganh ghét, ngộ nhận, ăn uống dễ bị dị ứng » ; Cự+Kiếp : dễ có vấn đề Sông nước - tật bệnh ảnh hưởng nhiều đến bộ phận Tiêu Hóa hay Bài Tiết, nhất là các tuổi mạng Thủy ). Trường hợp Cự Môn độc thủ tại Mệnh, Cụ Lê Qúy Đôn đã có câu :Cự Môn tính khí bất thường. Hễ khi xử sự tìm đường đảo điên. Hay các Câu Phú của Cổ Nhân :
- Cự Môn Tý, Ngọ, Khoa, Quyền Lộc, thạch trung ẩn ngọc , Phúc hưng long ( Cung Mệnh an tại Tý, Ngọ có Cự toạ thủ gặp Khoa Quyền Lộc hội hợp là người học rộng tài cao, có đức độ, ví như Ngọc báu ẩn trong Đá và chắc chắn hưởng Phú Quý đến tột bực , phúc thọ song toàn.
- Thìn, Tuất ứng hiềm hãm Cự Môn ( Cung Mệnh an tại Thìn, Tuất có Cự hãm địa tọa thủ, nên rất mờ ám xấu xa, riêng đối với 2 tuổi Qúy, Tân lại thành sáng sủa tốt đẹp « vì Tuổi Qúy Cự gặp Hóa Quyền, tuổi Tân Cự gặp Hóa Lộc » ).
- Cự Môn Thìn, Tuất vi hãm địa, Tân nhân hóa cát , Lộc tranh vinh hay Cự Môn Thìn cung Hóa Kỵ, Tân nhân Mệnh ngộ phản vi giai ( giống như câu trên, nếu có Xương Khúc tại Mệnh hay chiếu Mệnh lại có đủ bộ Tam Hóa : cuộc đời được hưởng Phú Qúy song toàn ).
- Cự Môn, Tứ Sát hãm nhi Hung ( Cung Mệnh có Cự tọa thủ gặp Kình Đà, Hỏa Linh hội hợp nên rất mờ ám xấu xa. Có cách này thật là suốt Đời vất vả, thường mắc nhiều tật bệnh và khó thóat .
- Cự Môn, Đà La tất sinh dị chí ( Cung Mệnh có Cự, Đà toạ thủ tất trong mình có nốt ruồi lạ - đôi người bị nói ngọng, nói lắp hay người có tật ).
- Cự Môn, Dương Đà ư Thân, Mệnh loa hòang khốn nhược , đạo nhi phá đãng ( Cung Mệnh hay Thân có Cự hãm địa tọa thủ lại gặp Kình hay Đà đồng cung là người yếu đuối , mắc nhiều tật bệnh , suốt đời khổ sở. Nếu khỏe mạnh lại là phường trộm cắp, đàng điếm ăn hại phá nát ‼ ).
- Cự Hỏa Kình Đà, phùng ác Diệu , ải tử đầu hà ( Cung Mệnh có Cự toạ thủ gặp Hỏa, Kình , Đà hội hợp cùng với nhiều Sao xấu dễ chết thắt cổ hay trầm mình xuống ao, sông mà chết ).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Thái Dương ( gọi tắt là Nhật hay Dương ).
Nam Đẩu Tinh, Dương Hỏa, Qúy Tinh chủ về Quan Lộc ; Miếu Địa tại Tỵ, Ngọ ; Vượng tại Dần, Mão, Thìn ; Đắc Địa tại Sửu, Mùi ; Hãm Địa tại Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý. Thái Dương biểu tượng là mặt Trời. Ở số tượng trưng cho mắt trái, Ông Nội, Ngoại, Bố, Bố chồng, Chồng, Bác, Dượng, Chú, Cậu, Anh Em trai, bậc Trưởng thượng. Sinh ban ngày là thuận lý, tăng thêm vẻ đẹp rực rỡ nếu gặp Khoa, Đào Hồng Hỉ hay Hỏa, Linh đắc địa. Gặp Hóa Kị, Riêu, Đà, Hình hay Tuần, Triệt giảm bớt vẻ rực rỡ - dễ có vấn đề về mắt, thần kinh hay ảnh hưởng đến người thân ( tùy theo vị trí của Cung ). Khi hãm địa gặp Tuần Triệt - nếu thay đổi Môi Sinh ( xuất Tổ ly Tông ) có ảnh hưởng ngược lại.
Thái Dương đắc địa với Nam mạng ( hợp với Dương nam) thuộc mẫu người đẫy đà, cao vừa tầm, da hồng hào - mặt vuông vắn đầy đặn, vẻ uy nghi, bệ vệ, thông minh, trực tính, cương nghị hơi nóng nảy, nhưng nhân hậu, từ thiện, văn võ song toàn, được hưởng giàu sang và sống lâu. Với Nữ mạng - nhiều Nam tính : tài giỏi, đảm đang, khí huyết dồi dào, cương nghị nóng nảy ; vượng Phu ích Tử cũng Phúc Thọ song toàn. Trường hợp Thái Dương hãm địa với thân hình thấp bé+chỉ tay khuyết hãm lại gặp nhiều Hung Sát Tinh trong tam giác ( Mệnh Quan Tài ) : chung thân cùng khốn cô đơn, lang thang phiêu bạt, cuộc Đời không ổn định - sức khỏe thường có vấn đề (đau đầu, thần kinh, tim mạch, mắt, khí huyết ) dễ mắc tai nạn khủng khiếp – đôi khi yểu tử. Nữ Mệnh : đa sầu đa cảm, dễ đau yếu, khắc chồng hại con - phải muộn lập gia đình hay lấy kế mới tránh được buồn thương về Tình Cảm hay xuất Tổ ly Tông ( nếu sinh giờ Mão Dậu) có thể cuộc Đời thay đổi.
Với Thái Dương đắc địa thủ Mệnh, Phú của Cụ Lê Qúy Đôn đã có câu : Thái Dương tính khí thực khôn. Thanh kỳ bậc nhất, tư lương khác thường.Các câu Phú khác của Cổ Nhân :
- Nữ Mệnh đoan chính Thái Dương tinh, tảo ngộ Hiền Phu tín khả bằng ( Đàn bà mà Mệnh có Thái Dương vượng địa tọa thủ là người đoan chính và chắc chắn sớm lấy được chồng hiền, có tài thao lược).
- Nhật lạc nhàn Cung, sắc thiểu xuân dung ( Cung Mệnh có Nhật hãm địa tọa thủ nên vẻ mặt kém tươi và buồn tẻ ).

C) Cự Nhật cách
Cự Môn ở vòng Thiên Phủ không có vị trí Tam Hợp với bất cứ một Sao nào của vòng này ( không như Thiên Phủ tam hợp với Thiên Tướng, Thái Âm tam hợp với Thiên Lương ). Cũng vậy Thái Dương ở vòng Tử Vi không có vị trí Tam Hợp với bất cứ một Sao nào của vòng này ( không như Tử Vi với Liêm Trinh, Vũ Khúc hay Thiên Đồng với Thiên Cơ ). Cự Môn luôn nhị phá với Tử Vi và không có Nhị Hợp. Thái Dương nhị phá với Thất Sát và nhị hợp với Thiên Phủ. Do đó khi Cự Môn đồng cung với Thiên Cơ ( Cự Cơ Mão Dậu ) là có Thiên Đồng tam hợp hay đồng cung với Thiên Đồng ( Cự Đồng Sửu Mùi ) là có Thiên Cơ tam hợp. Cũng như Thái Dưong của vòng Tử Vi khi đồng cung với 1 Sao của vòng Thiên Phủ như ( Nhật Lương ở Mão Dậu ) là có Thái Âm tam hợp, ( Nhật Nguyệt hay Âm Dương tại Sửu Mùi ) là có Thiên Lương tam hợp.
Cự Môn Thái Dương chỉ đồng cung tại Dần Thân tạo thành cách Cự Nhật thuần chất khi Mệnh đóng tại Dần hay Thân có Cự Nhật đồng cung.
Cự Nhật biến chất trong các Trường Hợp sau :
a) Cự Nhật đồng cung chiếu Mệnh vô chính diệu trong mẫu Tử Sát là có 2 cặp Đồng Âm và Cơ Lương tam hợp để tạo thành Bộ 6 ( Cơ Nguyệt Đồng Lương Cự Nhật).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Mệnh có Cự độc thủ tại Thìn hay Tuất trong mẫu Tử Tham dù tam hợp với Thái Dương tại Tý, Ngọ thì cũng có Đồng chính chiếu tại Tuất, Thìn để tạo thành Bộ 3 ( Cự Nhật Đồng), nếu Mệnh có Nhật độc thủ tại Tý hay Ngọ thì tạo thành Bộ 3 ( Cự Nhật Lương ).
c) Mệnh có Cự độc thủ tại Tý hay Ngọ cũng tam hợp với Thái Dương tại Thìn,Tuất trong mẫu Tử Phá thì Cơ chính chiếu với Cự tại Ngọ hay Tý để tạo thành Bộ 3 ( Cự Nhật Cơ ). Nếu Mệnh có Nhật độc thủ tại Thìn hay Tuất thì tạo thành Bộ 3 ( Cự Nhật Nguyệt).
d) Mệnh có Cự độc thủ tại Tỵ hay Hợi thì Thái Dương độc thủ và chính chiếu tại Hợi hayTỵ để tạo thành Bộ 4 ( Cự Nhật Cơ Đồng) trong mẫu Tử Phủ.Trường hợp Mệnh có Nhật độc thủ tại Tỵ hay Hợi thì tạo thành Bộ 4 ( Cự Nhật Đồng Âm ). Bộ 4 ( Cự Nhật Đồng Âm ) cũng sảy ra trong mẫu Tử Sát khi Mệnh vô chính diệu tại Tý hay Ngọ (đôi khi còn được gọiNhật Nguyệt chiếu Hư Không cách ).
e) Cũng như khi Thái Dương đồng cung với Thiên Lương ( Nhật Lương tại Mão Dậu ), đồng thời Cự Môn đồng cung với Thiên Đồng ( Cự Đồng Sửu Mùi) trong mẫu Tử Vi độc thủ tại Tý Ngọ; nếu Mệnh Vô chính Diệu tại Mùi hay Sửu thì tạo thành bộ 5 ( Nhật Lương Cự Đồng Nguyệt).

1) Cự Nhật thuần chất
2) Cự Nhật biến chất


TRÍCH DẪN BÀI VIẾT CỦA GIÁO SƯ PHẠM KẾ VIÊM!

#8 minhgiac

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1958 Bài viết:
  • 5379 thanks

Gửi vào 27/05/2014 - 20:02

KHÔNG KIẾP LÀ NỖI NHỤC, LỖI UẤT HẬN CỦA CỦA ĐỜI NGƯỜI!

có lẽ nói về không kiếp cũng như một số tinh đẩu khác đã tốn không ít giấy mực, đã có ngàn trang giấy và ý để bàn luận cũng như làm sáng tỏ ý nghĩa đặc trưng, tác họa của không kiếp. dù muốn hay không muốn nó cũng sẽ nằm ở đâu đó trong số mạng, vận mệnh của ta. có lẽ nhiều người đã bị nó mặc cảm, đè nén, dày séo. nên nó là nỗi ám ảnh của những người bị nó ảnh hưởng tác động. có lẽ dù là tác động tiêu cực hay tích cực thì sự toàn vẹn của nó không thể bảo toàn, không thể mỹ mãn. thường bị gắn với cái tên " kh*n n*n", xấu xa, đê tiện, khốn khổ, mất mát, bất chấp!
ngày nay với sự phát triển và đa dạng hóa của xã hội nên các sách mới có những nhận xét, cũng như những đánh giá khách quan hơn về nó, cũng đã phù hợp hơn so với bối cảnh của xã hội. đúng là thiên biến vạn hóa, không gì là không thể, mọi chuyện đều có thể xảy ra.
các tư tưởng xấu về không kiếp như thành bại đa đoan, mất mát, ôm hận. cả về phương diện vật chất cũng như tình cảm. có lẽ nó không bao giờ sai ở góc độ đó cả. nó vốn dĩ như một quy luật tất yếu của trời đất là " vô thập toàn" chăng? hay quy luật lấy " chỗ thừa bù chỗ thiếu" chăng? nhưng dù là gì đi chăng nữa nơi đóng của không kiếp cũng ít nhiều đem lại cho người ta một sự khốn khổ, bất mãn, nhục nhã nào đó. không mất mát thì là đau thương, không điên rồ thì lại là hoang tưởng, dị lộ, không xấu xa thì là man trá. ôi biết đâu là trong là đục, biết đâu là xấu là tốt bây giờ, khi mà con người vàng thau lẫn lộn, rắn giả lươn, sói giả cừu đây! nên người thì tâm khổ vì nó làm cho nghèo hèn mất mát, người thì nó làm cho ảo dị điên đảo, hoang tưởng bất hợp với đời. người thì nó làm cho xấu xa đê tiện. dù thế nào nó cũng bất cập là nỗi nhục, nối uất hận của cuộc đời ta!

+ khi xét trên phương diện lá số nhất là lâm mệnh thân ngoài các ý nghĩa như gốc bao tiền nhân định nghĩa về nó tôi thấy rằng " địa không là con đường dẫn đến địa kiếp, địa kiếp là con đường dẫn đến địa không, tinh thần tác động đến vật chất, vật chất tác động đến tinh thần". và tôi tạm chia ra đánh giá ở 3 phương diện cho 3 loại tác động chính sau:

_ loại người thứ 1 là tác động tới hoàn cảnh lúc sớm thời thường sống trong nghèo hèn, gia đình tan nát, tan vỡ, gia đình không hạnh phúc bố mẹ chia ly hoặc đoạn sinh đoạn tử. cuộc sống khá tủi thân lúc sớm, cô đơn, tâm hồn rất héo úa, buồn thảm. thường bị kẻ đời coi thường, hắt hủi! đó là vết sẹo của tâm hồn nới chứa đựng mỗi nổ khổ, nỗi nhục và sự uất hận mà số phận sẽ vô tình đêm lại hoặc đưa đến cho người đó. nhưng cũng vì thế những người này thường có nghị lực sức phấn đấu rất kiên cường, họ có lý tưởng, có bản lĩnh để vươn lên và có thể thành công trong xã hội. đây là không là tiếp người xấu, mà vì hoàn cảnh lúc sớm thời làm cho tâm hồn họ bị tổn thương, mất mát về tinh thần nên tâm họ lúc nào cũng rất lãng lẽ thầm nặng và chất chứa những niềm đâu, sự uất hận, một lỗi nhục của số phận và cuộc đời.
_ loại người thứ 2 là bị không kiếp tác động đến tư tưởng và hành vi, công danh tành bại đa đoan. loại người này thường thì có tư tưởng, suy nghĩ rất lập dị, từ cách sống, phương thức sức, suy nghĩ, việc làm, hành động có lẽ là biệt dị. họ ít quan tam tới những gì mà thiên hạ nói, suy nghĩ, hay miệt thị về họ, đối với ngoài một bản năng sống với lý tưởng của ra thì ít khi quan tâm tới những thứ khác.cái này gọi là "dị lộ" con đường khác thường vậy. nên tư tưởng của họ có thể rất cao, vươn xa ra ngoài sức tưởng tượng của người thường. và hay bị miệt thị, khinh nhờn, sỉ nhục, lăng mạ họ bởi những thứ quái đẳng đó. điều này cũng phân chia thành 2 loại tư tưởng. một dạng chỉ nặng lề về nghiên cứu lý thuyết, hoặc nghiên cứu ở dạng lý thuyết. họ có tư duy vô cùng tiềm năng. nhưng thực tế khả năng hành động rất kém, gọi là " thiên tưởng đại hành" giữa lời nói và hành động thật khác xác nhau.thế gian dừơng như không có người hiểu cho họ nên đây là một dạng trí thức như các như nhà nghiên cứu khoa học, nhưng coi một chữ đích thực. đương nhiên khả năng thành công danh, hoặc tiền tài ít được thành tựu. dạng thứ 2 là dạng chủ về hành động phần lớn dành cho các nhà về những lĩnh vực chính trị, hay như tình báo, thanh tra, kiểm soát... và các nhà kinh doanh, sì candan vậy. vì nó tác động vào tư tưởng tham vọng, sự liều lĩnh, khác người. có khả năng thực thi rất cao, thậm trí là giữ dội. thường làm những việc rất khác người, táo bạo. nên dù có thành công cũng luôn phải trải qua những biến cố lớn trong cuộc đời, khó nhọc hay bị ghen ghét, sự đấu đá, tranh dành, thủ đoạn, hiểm nguy, thành bại đa đoan. nên rất nhọc nhằn, hao tâm tổn trí. và dù gì được mất gì đi chăng nữa họ cũng sẽ luôn là điểm nhắm cho kẻ khác hay ai đó, hoặc dư luận từ hệ lụy liên quan đến việc làm, lời nói, tư tưởng của họ.và cả chuỗi cuộc đời chìm nổi, thành bại đa đoan.. nên khó tránh lỗi niềm nhục nhã, uất hận nào đó trong lòng!
_ loại thứ 3 là loại dụng không kiếp. hạng này thì phải nói là không phường trộm cướp cũng phường bất nhân. đồ tể chẳng thể khác được. nên kẻ này thường có sự kh*n n*n, bất nhân, bất nghĩa bẩm sinh mà không thể khác được. họ sẽ làm, nói và hành động bằng mọi giá cho mục tiêu lý tưởng của họ ngay cả với máu mủ, người thân. với họ thì ngoài lợi ích, và lợi ích của họ ra thì không còn lý tưởng nào khác. sống với sự dối trá, nham hiểm đến ghê tởm. đương nhiên phải chịu những nỗi nhục nhã, phê phán, coi thường của xã hội, thậm chí là cả gia đình, người thân. vậy dù có chiếm đoạt hay gian phi với vở diễn cuộc đời thành công như thế nào đi chăng nữa thì chẳng phải là một lỗi nhục, uất hận hay sao?

nên tôi tạm thời chủ quan nhận định nó là nỗi nhục và sự uất hận nào đó vậy mà do vô tình hay cố ý số phận Đã sắp đặt. dù họ không biết hay nhận ra điều đó thì nó vẫn là ,vẫn là một sự thật hiển nhiên vậy! còn về tướng mạo thì không kiếp sẽ hay ảnh hưởng tới bệnh phổi, ung nhỌt, có người Da sần sùi, dỗ, nhám đen, có người thì đôi mắt rất lơ láo, trợn trừng!

đó là tôi tổng hợp lại 3 hình thức cơ bản từ tác động và ảnh hưởng của không kiếp. nên khi LUẬN không kiếp cần rất rõ dàng và công tâm không nên bị ám ảnh của NÓ hay tử sách vở của tiền nhân mà vội kết luận nhân cách hay nhân phẩm, hay đạo đức của một con người. rất dễ bị sai lầm, nên số học hay dịch hay có cái bao la, có cái rộng lớn bao trùm thế đó có biết đâu là bến là bờ đâu. còn đánh giá thế nào nên phối kết hợp với tổng thế lá số xem mạng gì, chính tinh thủ là gì, đắc hay hãm, có cát tinh hay hung tinh gia giảm thế nào, vận trình ra sao. và khách quan nhất là nên được tường tận nhìn tướng mạo, hay dùng thêm sở dịch để mà đưa ra nhận định thì may ra mới có thể bớt sai lầm, cũng như nhận định nhầm, đánh giá nhầm!

minhgiac!


Thanked by 5 Members:

#9 hanhphucbattan

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 107 Bài viết:
  • 60 thanks

Gửi vào 27/05/2014 - 21:13

Sau khi bàn bạc và thảo luận, nhân cách loại người thứ 1, 2, 3 đồng ý với bài viết của bác MG.

Thanked by 1 Member:

#10 minhgiac

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1958 Bài viết:
  • 5379 thanks

Gửi vào 29/05/2014 - 14:06

TRÍCH BÀI VIẾT VỀ CUNG NÔ BỘC TRÊN BLOG CỦA ÔNG HaUuyen!


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


--------------

Khi chiêm đóan Tử-Vi, thường ít chú trọng đến cung Nô Bộc, vì cung này không được coi là cường cung. Khi luận đóan về công danh, sự nghiệp, uy quyền của một người, thì rất cần chú trọng tới cung Nô.

1- Trường hợp cung Nô tốt hơn cung Mệnh

Trước hết, xem cung Nô phải phối hợp với các cung Huynh-Đệ, Tử-Tức và Phụ-Mẫu chiếu về.

Không thể ham cung Nô qúa tốt nếu mình muốn làm lớn, tối kị cung Nô có cách Tử Phủ Vũ Tướng (dù hãm địa), nhất là khi có thêm trung tinh quần tụ, vì ít khi Mệnh của mình có cách trội hơn.

2- Trường hợp cung Nô xấu, nhưng cung Mệnh tốt

Trong trường hợp này các nhà Tử-Vi thường gọi là “hữu tướng vô quân” (có tướng mà không quân) và cũng cho rằng như thế là công danh bất hiển, giống như cách “hữu quân vô tướng”. Nghiệm thấy rằng trong trường hợp này không thể quyết đóan một cách máy móc như thế được, sẽ bị lầm lẫn khi theo quy tắc đó.

Đối với những người hành nghề chuyên môn, thường thường không cần phải cung Nô tốt (lẽ dĩ nhiên tốt vẫn hơn những người dưới quyền đâu cần nhiều và đâu cần tài ba lỗi lạc, nếu họ có kém cỏi hay lưu manh chăng nữa thì mình cũng chỉ bực mình và phải thận trọng thôi, chứ sự nghiệp đâu có bị ảnh hưởng trực tiếp). Tuy nhiên những người hành nghề chuyên môn muốn có địa vị cao trong chính quyền, nếu có cung Nô xấu, chỉ nên đeo đuổi nghề của mình mới mong vững bền và giàu có. Và do đó trường hợp “hữu tướng vô quân” sẽ rất ứng nghiệm đối với những người đeo đuổi chức phận cao trong chính quyền, nhất là về phương diện quân sự và chính trị. Lá số của một số sĩ quan “ngồi chơi xơi nước” chỉ có hai ba người lính dưới quyền và chẳng có ai nể vì, lại hay lên lon cũng chỉ vì bị cách “hữu tướng vô quân”.

=======================

Hà Ngọc

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

------------------

3- Tương quan giữa các sao của Cung Nô và các sao Cung Mệnh

Trong hai phần (1) và (2) nêu trên đây, nêu ra vấn đề xấu tốt của cung Nô và cung Mệnh, còn trong phần này bàn đến sự “ăn khớp” giữa các sao của cung Nô và các sao của cung Mệnh, một điểm không kém phần quan trọng.

Thí dụ : Một người Mệnh có Khôi Việt, Xương Khúc, Quan Phúc, Hóa Khoa, Tấu Thư, tức là có năng khiếu về văn chương, có tâm hồn thi sĩ … nếu cung Nô có: Không Kiếp, Hỏa Linh, Kình Đà, Sát Phá Tham thì làm sao mà thầy trò có thể hòa hợp, ăn ý với nhau, vì lọai người dưới quyền này chỉ thích đâm chém, du đãng, trộm cắp … Ngược lại cũng vậy, một người Mệnh có các sao này chỉ thích buôn lậu lớn (thí dụ như Nhật-Nguyệt hãm địa hội Không Kiếp, Tả Hữu chẳng hạn) mà cung Nô có tòan sao hiền lành như Quan Phúc, Thai Tọa, Bộ Tứ Đức, Hóa Khoa … thì làm sao có thể thực hiện được khuynh hướng của mình, và nếu xoay sang chiều hướng khác thì nhất định là kém, thất bại dễ dàng. Do đó nếu có sự “tréo cẳng ngỗng” giữa Nô & Mệnh như vậy thì đương nhiên công danh, sự nghiệp (lương thiện cũng như bất hợp pháp) khó đạt được.

Tuy nhiên, những trường hợp “ngược” như trên không có nhiều. Nghiệm thấy các cung trong một lá số thường có một cách bố cục rất ăn khớp với nhau, vì nếu các sao không có môi trường để họat động theo cương vị của mình, thì làm sao mà đóan được đường hướng, sự nghiệp của một đời người.

4- Tương quan Ngũ hành các sao thuộc Cung Nô và của Cung Nô với Ngũ Hành của bản Mệnh.

Khi xét đến cung Nô, nếu chỉ lưu tâm đến những sao tốt, xấu thì vẫn chưa được chính xác, vì cũng một sao nếu sinh được bản Mệnh của mình thì khác hẳn với trường hợp khắc bản Mệnh mình hay được bản Mệnh mình sinh. Có một lần tình cờ tôi được hai lá số khác nhau về năm, tháng, ngày, giờ nhưng các cung lại có các sao được bố cục gần như giống nhau. Đây tôi chỉ nói về cung Nô. Tôi hãy còn nhớ một người Mạng Hỏa và một người mạng Mộc. Hai người khả năng gần như ngang nhau, nhưng người mạng Mộc chức vụ cao hơn nhiều và có uy quyền. Thật tôi không ngờ chỉ vì một yếu tố Ngũ Hành mà công danh chênh lệch như thế. Cung Nô của hai người cùng có Thiên Đồng & Thái Âm (thuộc Thủy), do đó chỉ có người mạng Mộc được hưởng hai sao đó. Ngòai ra thường thường Thái-Âm hay Thái-Dương chiếu Nô thì người dưới không trung thành, đói thì tìm đến, no thì bỏ đi . Sách có nói là cách “ cơ lai bão khứ” và :

Con em xa khứ xa hòan
Bởi vì Nhật Nguyệt đóng miền Nô cung

Nhưng đối với người mạng Hỏa thì đúng, còn đối với người mạng Mộc thì người đó cho tôi biết là đàn em của ông ta chỉ thay đổi nhiều vì bị thuyên chuyển, chứ không hề vì chán ghét đàn anh và bất cứ người nào tới cũng đều phục vụ ông ta hết mình.

========================

Hà Ngọc

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

--------------

A- Bản Mạng khắc sao (chỉ nên nói chính tinh) cung Nô.

Người coi Tử-Vi đều e ngại mệnh khắc sao, nhưng thực ra riêng đối với trường hợp cung Nô thì như thế lại cũng hay, vì mình dễ sai khiến được người dưới quyền, dễ làm chủ tình hình, ít khi bị làm bù nhìn, nhất là khi mệnh mình lại tốt hơn. Nghiệm thấy ngay cả trường hợp mệnh ngang với Nô mà vẫn còn uy quyền thực sự đối với người dưới quyền, khi mạng mình khắc các sao cung Nô.

Tuy nhiên, nếu được các sao cung Nô sinh mạng mình vẫn tốt hơn nhiều, vì bao giờ người dưới quyền tự ý phục vụ mình cũng hay hơn là sợ hãi mình mà thi hành chỉ thị của mình.

B- Bản Mạng sinh sao cung Nô (sinh xuất)

Gặp trường hợp này gần như chắc chắn là bất lợi cho mình, trừ khi mệnh mình có các sao trội hơn nhiều, vì không còn gì nhu nhược cho bằng người trên cứ phải làm theo ý muốn của người dưới quyền, phải chìu lụy họ. Tệ bại nhất là nếu cung Nô có thêm Hóa Quyền, thì thực mình chỉ là tôi tớ cho người dưới quyền, nếu có Song Lộc tức là mình bợ đỡ họ chỉ vì tiền. Còn gặp trường hợp mệnh mình trội hơn nhiều và có thêm các sao cứng rắn, uy quyền (như Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Tham Vũ hội Khoa Quyền Lộc … ) thì hết bất lợi, vì như thế tức là mình giúp đỡ được cho đàn em hữu hiệu khiến cho họ trở lên người khá giả thêm tài năng (nhất là trong trường hợp cung Nô có các sao như Long Phượng, Quang Qúy, Xương Khúc, Thanh Long ….) nhưng dù sao mình cũng phải mất mát về tiền bạc, thời giờ, tinh thần khá nhiều .

C- Bản Mạng hòa với các sao cung Nô

Trường hợp này hòan tòan bị chi phối bởi các sao cung Nô và các sao cung Mệnh. Nếu Nô tốt hơn mình khó chỉ huy và Nếu Mệnh tốt hơn là mình có quyền uy. Còn hai cung tương đương thì hai bên đều làm việc theo bổn phận và trách nhiệm.

========================

Hà Ngọc

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

-------------

5- Các chính tinh tại cung Nô nên đắc địa hay hãm địa ?

Cụ Song An Đỗ Văn Lưu, tác giả cuốn Tử-Vi Chỉ Nam, khi còn sinh tiền có cho biết rằng các chính tinh (không cần xét tới trung hay bàng tinh) tại cung Nô cần hãm địa hơn là đắc địa, vì người dưới giỏi hơn cấp trên không hay. Chính trong cuốn Tử-Vi của Cụ cũng có nêu ra như vậy. Nhưng theo kinh nghiệm của một số nhà Tử-Vi thì không hẳn phải như vậy mới hay, vì không bao giờ chỉ xét riêng cung Nô mà không so sánh với cung Mệnh. Thực thế, nghiệm thấy rằng khi Mệnh có thượng cách (thí dụ như Tử Phủ Vũ Tướng đắc địa hội các trung tinh Long Phượng, Quang Qúy, Khôi Việt, Thai Tọa, Tả Hữu ….) thì rất cần có cung Nô hội các sao đắc địa, ngòai các yếu tố khác. Có được như vậy thì người dưới quyền mới nhiều khả năng, đắc lực, phục vụ hữu hiệu cho cung Mệnh, nếu không thượng cách của cung Mệnh sẽ không có môi trường họat động. Hơn nữa, nếu được các chính tinh cung Nô sinh bản Mệnh thì cần đắc địa, để cho các tài năng của người dưới hòan tòan được sử dụng cho cấp trên.

Như vậy không có nghĩa là phủ nhận hòan tòan ý kiến của Cụ Song An Đỗ Văn Lưu. Lẽ dĩ nhiên khi Mệnh không được trội mấy thì cung Nô cần có các chinh tinh hãm địa hay bị Tuần Triệt án ngữ để bớt sự lấn áp cấp trên.

Thí dụ Mệnh có Cơ Nguyệt Đồng Lương đắc địa mà cung Nô có cách Sát Phá Tham Vũ thì rất cần các sao này hãm địa để có sự tương xứng (vì cách Sát Phá Tham Vũ coi như mạnh hơn cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ). Nhưng theo kinh nghiệm thấy có điều bất lợi là người dưới quyền thường thiếu khả năng hay làm hỏng việc, nhất là trong trường hợp liên quan đến kỹ thuật, chuyên môn. Vì người dưới không làm tròn bổn phận và ít khi tuyển dụng được người đúng với công việc đòi hỏi.

6- Vị trí cung Nô

Trường hợp này rất hiếm có và rất tốt, lá số có trường hợp cung Nô nằm đúng vào cung tuổi của mình, ví dụ như tuổi Dậu mà có cung Nô ở cung Dậu. Có thể nói là bất cứ ai có cung Nô ở vị trí như vậy, đều có công danh và có nhiều người dưới quyền đắc lực, vẫn biết còn tùy theo nhiều yếu tố khác nữa kèm theo. Nhưng quan niệm rằng khi đã có cung Nô nằm đúng ngay cung tuổi của mình, thì gần như chắc chắn các yếu tố khác được bố cục thuận lợi cho mình, ít nhất là về phương diện công danh, uy quyền. Ngòai ra, riêng về tuổi Dậu này, cung Nô lại chiếu về (Nhị-Hợp) cung Mệnh (ở Thìn) cho nên còn làm tăng thêm sự phục vụ đắc lực, và còn có tình thương mến, kính trọng cấp trên.

Lưu ý không phải cứ cung Nô ở ngay cung tuổi mình, là đều chiếu mệnh nhị hợp (phải như trường hợp ví dụ trên mới ứng hợp)

========================

Hà Ngọc

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

-----------------

Phải so sánh kỹ lưỡng cung Mệnh và cung Nô, vấn đề Ngũ Hành giữa cung Nô và bản Mệnh trước khi xét đến ý nghĩa các cách và các sao, có như thế mới khỏi bị sai lạc nhiều về công danh sự nghiệp của một người chiêm số.

Thanked by 3 Members:

#11 Andrew

    Kiền viên

  • Hội Viên mới
  • PipPipPip
  • 1436 Bài viết:
  • 3027 thanks

Gửi vào 29/05/2014 - 19:10

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

minhgiac, on 29/05/2014 - 14:06, said:

TRÍCH BÀI VIẾT VỀ CUNG NÔ BỘC TRÊN BLOG CỦA ÔNG HaUuyen!


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


--------------

Nghe tiếng Cụ HaUyen đã lâu nay mới được biết blog của Cụ.
Thanks!

Thanked by 1 Member:

#12 minhgiac

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1958 Bài viết:
  • 5379 thanks

Gửi vào 29/05/2014 - 19:18

SỐ VÀ ĐẨU

lại nói đến số trong tử vi. tổ lão Thiệu tử. Thiệu khang Tiết là vị tổ thuyết khai mở về số, số sinh tượng, tượng sinh số. ông đưa thuyết tam tài vào trong dịch và số, khai triển hà đồ lạc thành số! với tác phảm kinh thiên động địa là thiết bản thần số và hoàng cực kinh thế với hơn 1o vạn chữ. đã là tổ thuyết khai mở cho số thần được ứng dụng. thiệu khang tiết truyền cho hi di Trần Doàn tổ lão. trần đoàn lại tiếp lỗi con đường của tiền nhân khai mở về số về số đại diễn, số âm và số dương. qua đó phất triển thần số đên hoa khai mở biết bao triết nhân sinh, triết học môn lý số, dịch số, tượng số, và Đẩu số. làm mở tung ra bao nhiêu lý lẽ huyền vi dấu trong hà đồ, lạc thư. làm sáng tỏ, âm dương, cơ ngẫu, vãng lai vậy qua đó đời sau mới có mà dùng, mới biết mà sử dụng. ông trần đoàn không những thoát phầm bởi khả năng tiên tri,đoán vận. không nhưng thông bác tinh tượng, địa lý, dịch lý, tướng pháp mà ông còn công hoàn thiện môn tinh tượng học tức " ĐẨU SỐ" và thượng gọi cái với cái tên tử vi.
vậy trong 2 chữ đó chúng có lẽ ít nhiều qua sách vở, qua kinh nghiệm, qua học hỏi thì về ĐẨu tức là sao, là tinh còn hiểu biết còn nhận định được. vậy phần về SỐ nó nằm ở Đâu? sao không thấy ai nhắc đến, vì không biết hay không nhìn thấy? ôi cái huyền mênh mông nhường nào?
có lẽ cái mà ta hay dùng và tồn trong tử vi về số là "CỤC SỐ" mà còn chẳng biết dụng ra sao nữa là nói gì về SỐ. số không liên quan gì hà cớ lấy số của ngũ hành cục mà định khởi Đại Hạn, ĐẠi Vận? số không liên quan gì hà cớ toán đến năm nao hạn, năm nao sinh tử? ôi đúng là càng càng càng bàn càng biết hơi tăm. cứ là đi vào mê hồn trận.
vậy dịch đồ số, can chi thứ tự số? thứ tự nam, bắc tinh đẩu số dùng để làm gì? trong tử vi? không lẽ chỉ là thừa hay sao? dù muốn hay không số vẫn tồn tại trong một lá số chứ hề mất đi hay ẩn dâth ở đâu. mà bàn thân ta do vô tình hay cố không nhận ra nó mà thôi. và khi thờ ơ với nó, có lẽ nào nó lại bảo rằng tôi là một nửa còn lại của tử vi đây sao các cứ xa lánh tôi hoài. vui nhỉ. đọc đến đây sẽ người cho tôi là háo danh, hay hoang tưởng ừ thì đành thế cũng chẳng sao. thui thì một nhìn mới mẻ, dở hơi cho ai đó quân tâm vậy!

TAM TÀI CỦA CUNG!
nhều người sẽ buồn cười lắm khi nói ồ có cả " tam tài của cung nữa ư? nó là cái chi chi vậy. minhgiac tôi chả lời rằng nó là như thế đó. là cái chi trong chi vậy! hihi
tam hợp cục, dịch đồ số, tam hợp cung, 3 cung liên giáp vậy có phải là tam tài không? có là nghĩa lễ tín với nhau không? hay nó là cái chi?
không nhiên ta lại phối số 3 của tâm hợp, số 3 của cung liên giáp nhau, số 3 của dịch Đồ số. à bắt đầu dùng đến số rồi á, hihi
3 cung tam hợp giúp trợ, năng đỡ nhau như cáo kiềng 3 chân vậy, hỏng cũng kém, hỏng hay thì càng kém. nếu tam hợp không thỏa đáng có kháng gì cô hóa, cô đơn không? có khác gì kẻ không có thiên thời địa lợi không? có khác người, trời đất tương tác, tương giao không?

trong một bản cung luôn có 2 cung kề giáp, đếm 1, 2, 3 có phải tam tài không? có phải là thiên địa nhân không? đương nhiên là ảnh hưởng cũng vô cùng lớn vậy sao lại bỏ quên mấy cái số học tam tài nảy nhỉ.
ví như cung mệnh luôn có cung huyênh đệ phụ mẫu tiếp giáp hỏi có ảnh hưởng đến cuộc đời ta không? nếu nó đẹp hẳn người đó có được cha mẹ, anh em hòa thuận, giúp đỡ vậy lý lẽ có chặt chẽ có hữu lý không?
cung phụ mẫu tiếp cung phúc,và cung mệnh, hỏi rằng cha mẹ có phúc thì được hưởng, có phúc thì có con ngoan hiếu lẽ có phải là quan trong không?
cung phúc giáp cung điền cchẳng phải là lý phúc nhiều ít do hợp phong thủy không, do dòng họ, hay cha mẹ đã làm được gì ư?
cung điền giáp cung quan lộc, giáp phúc đức chẳng lý tam tài có công danh làm ăn tốt sẽ và có phúc, có thời cơ thì có nhà đất đẹp và nhiều chăng?
cung quan lộc giáp cung nô bộc và cung điền chẳng phải lý của tam tài là có người trên kẻ dưới giúp đỡ, hay quản chế thêu mướn, có đất đai đẻ xay dụng sự nghiệp, vương quốc của mình ư?
cung nô giáp quan lộc, và thiên di, thì sao?
cung di giáp cung tất và nô bộc thì sao?
cung tật giáp tiền tài và di cung thì sao?
cung tài giáp tật và tử thì sao?
cung tử giáp tài và thê phu thì sao?
cung thê giáp huênh đệ và tử tức thì sao?

ôi chúng chẳng phải lý tam tài ư? vậy tam cung, 2 cung liên giáp chẳng phải là lý tam tài sao? nên nhìn tam tài đó đẻ phân biệt thiên thời địa lợi của một cung, lễ nghĩ tín của một cung ra sao vậy, trước và sau này cung đó ra sao vậy. kỳ thực không nên bỏ quên hay coi thường nó.
tôi phải nói thật rằng có những cái chỉ biết cảm nhận, mà khó có thể diễn tả bằng bất cứ ngôn từ nào được! thôi thì hiểu và dùng thế nào tùy vào nhân thế, tôi đây chẳng ép cầu.

TAM DỊCH VÀ TAM GIÁO TRIẾT LÝ

lại nói qua về dịch một chút chúng ta có 3 loại chu dịch, liên sơn và quy tàng. ôi cái đó mới rắc rối làm sao có người bào thời chu gọi là chu dịch,,, nghe cũng thấu đáo làm sao, cũng hợp lý. nay tôi chỉ muốn đưa nó vào tư tưởng của tam giáo tức " khổng, lão và thích" có cho rằng người xoay một 180 độ thì là dịch dịch kia. nhưng tôi thì thấy thế này.
_ liên sơn dịch ví như đạo của khổng tử tức lấy người tức cấn làm trọng sao trong việc đối nhân xử thế hài hòa, với tính chất trung dung mà thuận trị, nên đó là đạo của người của thánh nhân. kỳ thực lấy bái quái tiên thiên nhị biến tức 2 lần biến thì thành liên sơn dịch hoặc nói ngược lại cũng được. đây là triết mà tôi cảm thấy từ đó.
_quy tàng dịch tức ví như đạo phật lấy sắc sắc không không mà làm lòng cốt diệt bản ngã, tư không, coi mọii sự trống Rỗng như quẻ khôn vậy mà giác ngộ. kỳ thực từ tiên thiên bát quái tam biến tức 3 lần biến thì thành quy tàng dịch hoặc ngoặc lại. đây là chiết mà tôi cảm thấy từ đó
_chi dịch lòng cốt lấy tiên thiên bát quái. tôi ví như Đạo Lão, Đạo Gia. chấp pháp và làm theo lý của càn khôn xoay chuyển và hợp mới đaọ trời hợp với quy luật tất yếu tự nhiên. không cái gì được thái quá mà ứng hợp với trời với đạo cả, với tự nhiên. lý lec của tiên thánh vậy. chính thế đạo gia lấy tiên thiên để luyện thần khí, luyện đan, luyện pháp bảo. đó là cái tôi thấy.

kỳ thực chỉ có thể cảm nhận không thể diễn tả được bằng lời. tôi vốn khả năng nói thì có, chứ khả năng sư phạm thì tồi tệ chưa từng thấy thiết nghĩ cũng là cái hay vậy đâu có sao hihi. thui thì vài dòng ngơ ngác viết cho đỡ buồn.

minhgiac

Sửa bởi minhgiac: 29/05/2014 - 19:47


Thanked by 2 Members:

#13 minhgiac

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1958 Bài viết:
  • 5379 thanks

Gửi vào 29/05/2014 - 21:38

sao Thiên Không!

thiên không là một đề tài nóng bỏng, nóng và mãi nóng. thiên không là một thần sát đã có từ rất nâu rùi, cũng tồn tại trong môn "tiểu lục nhâm" vậy. có lẽ quá nhiều người bị nó vùi dùi, bị nó đánh cho te tua nên nó là con ác mộng của nhiều nam thanh nữ tú, của kẻ giàu có cũng như nghèn hèn chả trừ ai hết. ngay cả bản thân minhgiac bị nó phũ phàng rùi.
tử vi việt thì rất coi trọng sao thiên không, và coi nó là một huyền ảo nhất. lúc thì ngộ giác vô ngã, lúc thì tài hoa mưu lược, lúc thì tan nát mất mát, lúc thì giải thoát trần ai ( vì hay cùng đào hoa, lưu hà kiếp sát) !
vậy mà một số trưởng phái của trung quốc, đài cảng không dùng đến nó, thậm trí không biết đến là gì vì không tâm. chưa biết nó xuất phát từ thời nào. nhưng chỉ biết rằng nó gắn liền với lịch sử và văn hóa việt nam, nó đã tồn tại trong tử vi việt như một hạ quả tất yếu vậy. và dù muốn hay không nó cũng là phần rất đáng chú ý trên lá số, và các nhà tử vi việt nam rất là coi trọng khi xét đến nó một cách cẩn thận mà vẫn chưa thể nào lắm bắt được nó.
sao thiên không luôn đồng cung cùng sao thiếu dương của vòng thái tuế. đối với tôi tạm thời phân chia vòng thái tếu theo tứ tượng tứ thái dương tam hợp thái tếu, thiếu tam hợp thiếu dương tử phù,thiếu âm long đức tam hợp thiếu âm và thái âm tam hợp tang điếu.

bây giờ ta đi sâu phân tích thiếu dương có tượng là gì? thiếu dương là một trong những bốn tượng vĩ đại của dịch. mang hành mộc, manh nha sinh trưởng tại thời lập đông tức khí của thái âm hợi. vì thế nơi của thái dương là nơi phấn phát của mộc tượng là mùa xuân, khí hậu chan hào vạn vật đua nhau nảy nở mạnh mẽ nhất. vì được ưu đãi khí hậu của trời đất mưa thuận gió hòa, trời buôn anh nắng mà chiếu lan tràn khắp muôn nơi. không đâu không mà không hân hoan thì cớ gì lại không tốt đẹp.
nhưng chính vì một phấn khích của thiếu dương cũng như lý của dịch " đế xuất hồ chấn" mà sự phất triển, nhu cầu phát triển ra tăng một cách mạnh mẽ. lên cái phấn khích đó chính là nơi mà mà dục vọng, tham vọng của người đến tột độ. mà đã có tham cầu thì hẳn là phải có tranh đua, cạnh tranh, mưu lược để mà mưu sinh mà tồn tại theo quy luật đào thải, theo quy luật mạnh được thua yếu. hơn nữa cũng là lá mà sức mạnh, sự hoàn thiện , tinh tế chưa đủ. vì vẫn còn dùng từ " thiếu". chúng ta không xa lạ gì với các tù thiếu này như thiếu gia, thiếu chủ...vvv... đều ám chỉ rằng thời chưa tới, chưa đủ đề hoàn thiện hay đứng chủ gọi là thiếu. vì thế với sự tham cầu, no nết nên dễ vấp ngã thì ra sự việc thường trải qua mất mát, vấp ngã rùi mới thấy được chân lý, đạo lý mà chở nên minh triết. và thật là lạ làm sao khi tam hợp thiếu dương lại luôn xuất hiện thiên đức, nguyệt đức, phúc đức. ba sao này ít được đề cập trong tử vi nhiều chỉ bảo rằng tốt thế, tốt thế kia với vài dòng rất khiêm tốn. dù đó là sự hiện diện một cách tự nhiên của người tạo ra môn tử vi hay nó là sự hài hòa, hay sắp đặt tự nhiên của tư tưởng triết học, dịch học. thì chúng ta cũng không thể phủ nhận được sự tinh tế đến kỳ của thế đó, của tam hợp đó.

vậy thiên đức, nguyệt đức, phúc đức là biểu tượng cho cái gì? đó là 3 ông hình tượng hóa " phúc lộc thọ". 3 ông này trong truyền thống, cũng như trong Đạo Giáo để giải hạn tam tai mà nó cũng đi vào lịch sử, ý thức truyền thống của phương đông cũng như của việt nam vậy. một việc sai lầm của người học tử vi là cứ các sao giải hạn như hóa khoa, thiên lương, thiên giải, giải thiền.... thì cặm cụi khen tốt, tốt này tốt lọ. nhưng kỳ lạ là sao chúng ta không chịu đặt một câu hỏi ngược lại vì có họa, hay có điều bất ổn chúng mới giải chứ? và đứng đó để mà giải chứ?
nên hình tương hóa giải tam tai chính là phúc lộc thọ thiên đức, nguyệt đức, phúc đức. nên thiên không được đặt đồng cung với thiếu với ý là vì tham cầu quá trớn, muốn vươn lên khi chưa đủ sức và thời thì sẽ lãnh hậu quả một thứ mất mát gọi là " thiên không" ý là trời không cho. và vô hình ta hiểu cái tam tai đó chính là sao thiên không, hay vị chí thiếu dương.
nói như vật thiên không đâu là bất diệt hay bất xâm phạm. vì nó nơi mà tham cầu, vọng cầu thái quá nên mới bị "không" nếu đó là chính đáng, là vừa sức, không thái quá, vượt quá giới hạn vừa phải sao mà lại là " không" được? lúc nàu nó nhưng xấu mà lại giúp trợ ta nhưng kế hoặc, sách lược, hay những ý tưởng tuyệt mà biết nó đêm lại điều gì đó thành công hay giác ngộ cho ta. nên muốn lắm lại thì hãy xòa bàn tay ra trước lại đã.
hơn nữa như tôi đề nó gặp triệt thì hóa giải nhau, gặp VCD thì có lúc thăng hoa nếu hợp mệnh,hợp cục. gặp cự môn, đồng cơ hợp thì khai mở minh sáng. nếu gặp thái âm hãm thì phản cách ( Cụ Lê Quý Đôn)... và vân vân...

một sự tư duy ng u ngốc của tôi !

minhgiac!


Sửa bởi minhgiac: 29/05/2014 - 21:52


Thanked by 4 Members:

#14 Elohim

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1030 Bài viết:
  • 1425 thanks
  • LocationLondon

Gửi vào 28/02/2017 - 14:31

thấy hay nên up cho Ma Y Cung






Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |