9
TĂNG BỔ BỐC PHỆ CHÍNH TÔNG
Viết bởi maphuong, 18/05/11 17:34
161 replies to this topic
#31
Gửi vào 09/04/2012 - 15:51
60.父 亡 而 事 無 頭 緒
福 隱 而 事 不 稱 情
Phụ vong nhi sự vô đầu tự
Phúc ẩn nhi sự bất xứng tình
Phụ lâm Không thì việc không đầu mối
Phúc phục thì việc không vừa lòng.
Câu này chỉ nói đến việc công. Xem văn thư thì hào Phụ Mẫu là văn thư. Phàm xem công danh thì việc công, cơ quan đều dùng hào Phụ Mẫu làm đầu mối. Đầu tiên là dựa vào văn thư, tiếp đến mới theo Quan Quỷ, nếu hào văn thư gặp Không vong, sợ việc chưa xác đáng. Cho nên mới bảo : “Phụ Không vong thì việc không có đầu mối”.
Phàm xem việc tư lấy hào Tử Tôn làm thần giải ưu, lại dùng hào Tài làm căn nguyên. Há Tử Tôn phục mà không hiện sao. Cho nên mới bảo:” Phúc Đức ẩn mà việc chẳng vừa lòng”..
61. 鬼 雖 禍 災 伏 猶 無 氣
Quỷ tuy hoạ tai, phục do vô khí
Quỷ tuy là tai hoạ, phục thì vô khí.
Hào Quan Quỷ tuy bảo là thần sát về tai hoạ, nhưng trong sáu hào của quẻ không thể không có, nên xuất hiện mà an tĩnh, không nên phục tàng. Nếu phục thì trong quẻ vô khí. Vả lại hào Quan đó cũng là nơi dựa khi xem mọi chuyện, tức cũng cần. Như xem về quan chức thì Quan là Dụng thần; xem văn thư thì Quan là Nguyên thần; xem kiện tụng thì Quan là quan lại; xem bệnh tật thì Quan là bệnh; xem trộm cướp thì Quan là trộm cướp; xem việc quái dị thì Quan là quái dị; xem về tiền bạc nếu không có hào Quan sợ Huynh Đệ nắm quyền khó tránh tổn hại.
62. 子 雖 福 德 多 反 無 功
Tử tuy phúc đức , đa phản vô công
Tử tuy là phúc đức, bị khắc nhiều thì vô ích.
“Đa”” là xuất hiện nhiều, “Phản” là chịu khắc. Chỉ xem công danh thì Tử Tôn là ác sát. Ngoài ra đều lấy Tử Tôn làm thần phúc đức. Như xem thuốc men đều lấy Tử Tôn làm Dụng thần, nếu trong quẻ xuất hiện nhiều hào Tử Tôn thì dùng thuốc lộn xộn, có uống cũng vô ích. Như xem cầu tài gặp hào Tử Tôn bị tương, không chỉ không lợi sợ còn bị hao vốn.
63. 究 夫 母 推 為 體 統
論 官 鬼 斷 作 禍 殃
財 乃 祿 神 ,子 為 福 德
兄 弟 交 重 必 至 ,凡 謀 多 阻 滯
Cứu Phụ Mẫu suy vi thể thống
Luận Quan Quỷ đoán tác hoạ ương
Tài nãi lộc thần, Tử vi phúc đức
Huynh Đệ giao trùng tất chí, phàm mưu đa trở trệ.
Xét Phụ Mẫu suy được thể thống
Luận Quan Quỷ đoán được hoa tai.
Tài là lộc thần , Tử là phúc đức
Huynh Đệ động tất mưu sự nhiều trở ngạ.)
Ở đây tuy nói đại lược về năm loại[1], nhưng cũng có phân ra để mà dùng. Giả như xem chung thân, lấy hào Phụ Mẫu để luận xuất thân, nếu gặp Quý Nhân mà có sát, tức hậu duệ của nhà quan lại, nếu bị hình hại vô khí là con nhà nghèo hèn. Giả như xem về tai hoạ nên xem Quan Quỷ lâm vào loại thú nào, nếu ở Huyền vũ thì hoạ về đạo tặc. Tài là thực lộc của người ta, cho nên gọi là lộc thần; Tử Tôn có thể giải ưu khắc Quan Quỷ cho nêngọi là phúc đức. Huynh Đệ là ngang hàng với ta mà lấn Tài, động thì khắc Tài mà tranh đoạt , cho nên mới bảo :”mưu sự nhiều trở ngại”.
64.卦 摊 重 疊 須 知 事 體 兩 交 關
Quái thân trùng điệp, tu tri sự thể lưỡng giao quan
Quái thân trùng điệp, nên biết sự việc có liên quan đến hai nơi.
Quái thân là Nguyệt quái thân, phép khởi là “Thế dương khởi từ tháng Tí, Thế âm khởi từ tháng Ngọ” Cần phải luận rõ câu này. Phàm hào Quái thân là thể của sự việc cần xem. Nếu trong quẻ có đến hai hào xuất hiện, tức là việc có kết hợp, hoặc sự việc liên quan đến hai nơi. Nếu ở Huynh Đệ tất cùng mưu sự với người, Huynh Đệ khắc Thế, hoặc lâm Quan Quỷ phát động tất có người tranh giành việc này.
Trong quẻ không xuất hiện Quái thân, việc chưa định hướng; xuất hiện sinh Thế, trì Thế, hợp Thế thì sự việc đã định. Quái thân nên xuất hiện mà không nên động, động thì phòng có biến đổi, nếu biến hoại thì việc sẽ biến hoại. Nếu trì Thế thì biết việc này mình có thể điều động. Nếu Quái thân lâm Ứng thì việc này quyền bính ở người, hoặc do hào khác động biến thành tức biết người liên quan hào này cũng thuộc vào việc đó. Như Tử Tôn là tăng đạo hoặc bọn cháu chắt chẳng hạn, hoặc phục ở dưới hào khác cũng như theo vậy mà suy đoán.
Nếu sáu hào cùng Phi hào, Biến hào, Phục thần đều không có Quái thân, thì việc ấy chưa chắc, ở Không vong, Mộ, Tuyệt thì việc khó thành. Đại để Quái thân dùng để xem sự thể, không thể lầm là để xem thân mệnh, như xem tướng mạo xấu đẹp thì xem Quái thân có thể biết.
Phàm gặp Thân khắc Thế thì sự việc tìm tới ta là tốt, Thế khắc Thân thì hung. Nếu được hào Thân sinh hợp hào Thế lại càng tốt.
65. 虎 興 而 遇 吉 神 不 害 其 為 吉
龍 動 而 逢 凶 曜 難 掩 其 為 凶
玄 武 主 道 賊 之 事 亦 必 官 爻
朱 雀 本 口 舌 之 神 然 須 兄 弟
疾 病 大 宜 天 喜 若 臨 凶 煞 必 生 悲
出 行 最 怕 往 亡 如 係 吉 神 終 獲 利
是 故 吉 凶 神 煞 之 多 端 何 如 生 剋 制 化 之 一 理
Hổ hưng nhi ngộ cát thần bất hại, kỳ vi cát.
Long động nhi phùng hung diệu nan yểm, kỳ vi hung.
Huyền Vũ chủ đạo tặc chi sự. diệc tất Quan hào.
Chu Tước bổn khẩu thiệt chi thần, nhiên tu Huynh Đệ
Tật bệnh đại nghi Thiên Hỷ, nhược lâm hung sát tất sinh bi.
Xuất hành tối phạ Vãng vong, như hệ cát thần chung hoạch lợi
Thị cố cát hung thần sát chi đa đoan, hà như sinh khắc chế hoá chi nhât lý.
Hổ động mà gặp cát thần chẳng hại, mà là tốt
Long động mà gặp sao hung khó tránh, ấy là hung.
Huyền Vũ chủ việ đạo tặc không nên ở hào Quan,
Chu Tước vốn thần khẩu thiệt nhưng không nên ở Huynh Đệ
Tật bệnh rất nên có Thiên Hỷ, nếu lâm hung sát tất sinh đau buồn.
Xuất hành rất sợ Vãng Vong , nếu gặp cát thần cuối cùng được lợi.
Cho nênThần sát cát hoặc hung tuy quá nhiều, đâu bằng một lý sinh khắc chế hoá.
Đại để Bốc dịch nên đinh Ngũ hành của Lục thân , không thể dùng thần sát lộn xộn để đoán. Vốn Thần sát ở sách xưa đến lúc Kinh Phòng tiên sinh làm Dịch, để lại quá nhiều sao hung cát làm mê hoặc người học về sau, đại loại như Thiên Hỷ, Vãng Vong, Đại Sát, Đại Bạch Hổ. Nay người đời lấy làm tông chỉ, không gì là không tin. Nhưng thần sát quá nhiều, há có thể dùng được sao. Với phép dùng Lục thú mà nói, chẳng ai không lấy Thanh Long làm tốt, Bạch Hổ làm hung, thấy Chu Tước cho là khẩu thiệt, thấy Huyền Vũ cho là đạo tặc, không phân biệt lầm trì Dụng thần, Nguyên thần, Kỵ thần hay Cừu thần, đại khái lấy tinh chất của Lục thú để đoán mà thôi , làm mất diệu chỉ của tiên thiên. Chẳng lẽ Bạch Hổ động chắc chắn là hung, nếu lâm vào hào thích ứng để sinh phù củng hợp với Thế thân , thì có gì hại đến ta, cho nên bảo là hung mà chẳng hại, ấy là tốt.
Thanh Long động vốn là tốt, nếu lâm vào hào kỵ, hình xung khắc hại Dụng thàn, thì có ích gì cho việc. Cho nên bảo là tốt mà chẳng ngăn được hung.
Chu Tước tuy chủ khẩu thiệt nhưng chẳng phải Huynh Đệ tính lâm, tất không thể thành khẩu thiệt.
Huyền Vũ tuy chủ đọ tặc, nếu không phải là hào Quan tính lâm, thì không gọi là đạo tặc.
Vốn Lục thù dựa vào sinh khắc ngũ hành của Lục thân.
Lại như Thiên Hỷ là cát tinh, xem bệnh mà gặp, tuy đại lợi nhưng hung hiểm, lại không đoán chết , là cớ nhớ Thiên Hỷ; nếu lâm vào Kỵ thàn, thì ta lấy làm buồn mà chẳng lấy làm vui. Vãng Vong là hung sát, xuất hành mà gặp tuy đại tượng cát lợi, lại đoán hung , vì cớ là thần chết.
Nếu lâm vào hào ưa thích động mà sinh phù củng hợp với Thế thân Dụng thần, ta tất lấy làm lợi mà không cho là hại. Vì quyền của Thần sát là nhẹ mà quyền của Ngũ hành là nặng. Do vậy mà xem, gặp cát thì cát, gặp hung thì hung, do ở Ngũ hành mà không do ở Thần sát, nghiệm ở lý mà không nghiệm ở sát, hà tất phải theo thuyết ảo vọng đó. Nếu không thi ta quá lẫn lộn, đã hại lý lẽ mà loạn nhân tâm, há làm sao có thể chắc đúng được.
Thần sát vốn không bằng chứng,chỉ khiến việc đoán dịch rẽ ra nhiều lối, mà khônoáonr thoả bằng lẽ sinh khắc chế hoá, đã sáng tỏ lý lẽ mà linh động, rành mạch mà chẳng mê hoặc. Lục thân là cái gốc, Lục thú là cái ngọn. Đến nhưấcc cát thân hung sát như Thiên Hỷ, Thiên Y, Tang xa đều là từ ngọn này đến ngọn khác, muốn dùng thì chỉ có Lục Thú là được. Tức trọng ở gốc mà nhẹ ở ngọn vậy. Nhưng Lục thú chỉ có thể suy tính tình, hình trạng, còn như cát hung đắc thất, lấy sinh khắc của Lục thân làm chủ. Học như vậy thì gốc ngọn đều đầy đủkhông mất diệu chỉ, mà từ một lẽ có thể thông suốt hết.
66. 嗚 呼 卜 易 者 知 前 則 易
Ô hô ! Bốc dịch giả tri tiền tắc dịch
Than ôi ! Người bói dịch trước hết phải biết thông biến.
Người đời bói dịch đều câu nệ vào cổ pháp, người biết biến thông hiếm có. Cho nên gặp Long, Hổ thì đoán vui buồn, thuỷ hoả thì đoán mưa tạnh, Không vong thì cho là hung, Nguyệt phá thì bảo vô dụng, Thân thì cho là mình, Ứng hào thì cho là người. Phàm loại như thế khó nêu lên cho hết. Lưu Bá Ôn tiên sinh viết sách này, dùng cái hay của lý lẽ mà bỏ cái hẹp hòi của ý nghĩa, tỏ rõ cái tối tăm xưa , định lại cho đúng sai lầm ngày nay. Người đời chấp mê vào cổ pháp chẳng ai là không lấy đó mà lý giải. Người có chí với thuật này nên xét những điều nói trên, thì tự biết linh động.
67.求 占 者 鑑 後 則 靈
Cầu chiêm giả giám hậu tắc linh
(Người cầu bói phải xem xét sau đó mới linh)
Người đoán dịch đương nhiên phải thông biến, mà người cầu bói cũng không thể không biết đạo về bói. Đấy là thành tâm.
68. 筮 必 誠 心
Phệ tất thành tâm
(Bói phệ phải thành tâm)
Thánh nhân làm Dịch ca ngợi thần minh, vì đem đạo hợp với trời đất. Cho nên phàm bói Dịch, tất cần chân thành kính cẩn, hết lòng mà cầu, tất cát hung hoạ phúc không gì là không nghiệm. Ngày nay người cầu bói đông, mà cử chỉ chẳng nghiêm trang, ăn mặc bê bối, thậm chí có người chẳng thắp nhang, chẳng rửa tay. Lại có người giàu có tự kiêu, sai gia nhân xem bói thay mình, hoặc nhờ thân hữu đi coi giúp, mà không biết mình tuy phát tâm xem mà người đi thay tâm chưa kính. Cẩu thả như thế mà muốn cầu thần minh cảm ứng sao, há không thân trọng ư ?
69.何 妨 子 日
Hà phương Tí nhật
Ngày Tí có hại gì.
Trong sách lịch âm dương có câu “Tí bất vấn quái” (Tí chẳng xem bói). Cho nên người đời nay phần lớn kỵ ngày Tí. Lưu quốc sư nói : Việc ứng hung cát đều do cảm của thần minh. Thần minh không lúc nào không có, không lúc nào không cảm. Cảm được với thần minh thì không lúc nào không nghiệm. Cho nên phàm bói Dịch do ltại người có lòng thành hay không, chẳng do tại ngày Tí hay không phải ngày Tí.
Toàn chương trên đây trình bày chung phép đoán Dịch, là chương nói nhứng nét chính yếu. Không theo như thế thì mọi việc khó quyết. Người có chí trước hết đọc chương này, nêu có thể suy đi nghĩ lại mãi, đọc kỹ chú thích tất rõ lý lẽ, thì mọi điều mọi việc xảy ra đều có thể lý giải. Nào có gì hơn được Bốc dịch .
[1] Tức lục thân gồm 5 loại Phụ Mẫu, Quan Quỷ, Tử Tôn, Thê Tài, Huynh Đệ, nếu thêm Ta vào thì thành 6.
福 隱 而 事 不 稱 情
Phụ vong nhi sự vô đầu tự
Phúc ẩn nhi sự bất xứng tình
Phụ lâm Không thì việc không đầu mối
Phúc phục thì việc không vừa lòng.
Câu này chỉ nói đến việc công. Xem văn thư thì hào Phụ Mẫu là văn thư. Phàm xem công danh thì việc công, cơ quan đều dùng hào Phụ Mẫu làm đầu mối. Đầu tiên là dựa vào văn thư, tiếp đến mới theo Quan Quỷ, nếu hào văn thư gặp Không vong, sợ việc chưa xác đáng. Cho nên mới bảo : “Phụ Không vong thì việc không có đầu mối”.
Phàm xem việc tư lấy hào Tử Tôn làm thần giải ưu, lại dùng hào Tài làm căn nguyên. Há Tử Tôn phục mà không hiện sao. Cho nên mới bảo:” Phúc Đức ẩn mà việc chẳng vừa lòng”..
61. 鬼 雖 禍 災 伏 猶 無 氣
Quỷ tuy hoạ tai, phục do vô khí
Quỷ tuy là tai hoạ, phục thì vô khí.
Hào Quan Quỷ tuy bảo là thần sát về tai hoạ, nhưng trong sáu hào của quẻ không thể không có, nên xuất hiện mà an tĩnh, không nên phục tàng. Nếu phục thì trong quẻ vô khí. Vả lại hào Quan đó cũng là nơi dựa khi xem mọi chuyện, tức cũng cần. Như xem về quan chức thì Quan là Dụng thần; xem văn thư thì Quan là Nguyên thần; xem kiện tụng thì Quan là quan lại; xem bệnh tật thì Quan là bệnh; xem trộm cướp thì Quan là trộm cướp; xem việc quái dị thì Quan là quái dị; xem về tiền bạc nếu không có hào Quan sợ Huynh Đệ nắm quyền khó tránh tổn hại.
62. 子 雖 福 德 多 反 無 功
Tử tuy phúc đức , đa phản vô công
Tử tuy là phúc đức, bị khắc nhiều thì vô ích.
“Đa”” là xuất hiện nhiều, “Phản” là chịu khắc. Chỉ xem công danh thì Tử Tôn là ác sát. Ngoài ra đều lấy Tử Tôn làm thần phúc đức. Như xem thuốc men đều lấy Tử Tôn làm Dụng thần, nếu trong quẻ xuất hiện nhiều hào Tử Tôn thì dùng thuốc lộn xộn, có uống cũng vô ích. Như xem cầu tài gặp hào Tử Tôn bị tương, không chỉ không lợi sợ còn bị hao vốn.
63. 究 夫 母 推 為 體 統
論 官 鬼 斷 作 禍 殃
財 乃 祿 神 ,子 為 福 德
兄 弟 交 重 必 至 ,凡 謀 多 阻 滯
Cứu Phụ Mẫu suy vi thể thống
Luận Quan Quỷ đoán tác hoạ ương
Tài nãi lộc thần, Tử vi phúc đức
Huynh Đệ giao trùng tất chí, phàm mưu đa trở trệ.
Xét Phụ Mẫu suy được thể thống
Luận Quan Quỷ đoán được hoa tai.
Tài là lộc thần , Tử là phúc đức
Huynh Đệ động tất mưu sự nhiều trở ngạ.)
Ở đây tuy nói đại lược về năm loại[1], nhưng cũng có phân ra để mà dùng. Giả như xem chung thân, lấy hào Phụ Mẫu để luận xuất thân, nếu gặp Quý Nhân mà có sát, tức hậu duệ của nhà quan lại, nếu bị hình hại vô khí là con nhà nghèo hèn. Giả như xem về tai hoạ nên xem Quan Quỷ lâm vào loại thú nào, nếu ở Huyền vũ thì hoạ về đạo tặc. Tài là thực lộc của người ta, cho nên gọi là lộc thần; Tử Tôn có thể giải ưu khắc Quan Quỷ cho nêngọi là phúc đức. Huynh Đệ là ngang hàng với ta mà lấn Tài, động thì khắc Tài mà tranh đoạt , cho nên mới bảo :”mưu sự nhiều trở ngại”.
64.卦 摊 重 疊 須 知 事 體 兩 交 關
Quái thân trùng điệp, tu tri sự thể lưỡng giao quan
Quái thân trùng điệp, nên biết sự việc có liên quan đến hai nơi.
Quái thân là Nguyệt quái thân, phép khởi là “Thế dương khởi từ tháng Tí, Thế âm khởi từ tháng Ngọ” Cần phải luận rõ câu này. Phàm hào Quái thân là thể của sự việc cần xem. Nếu trong quẻ có đến hai hào xuất hiện, tức là việc có kết hợp, hoặc sự việc liên quan đến hai nơi. Nếu ở Huynh Đệ tất cùng mưu sự với người, Huynh Đệ khắc Thế, hoặc lâm Quan Quỷ phát động tất có người tranh giành việc này.
Trong quẻ không xuất hiện Quái thân, việc chưa định hướng; xuất hiện sinh Thế, trì Thế, hợp Thế thì sự việc đã định. Quái thân nên xuất hiện mà không nên động, động thì phòng có biến đổi, nếu biến hoại thì việc sẽ biến hoại. Nếu trì Thế thì biết việc này mình có thể điều động. Nếu Quái thân lâm Ứng thì việc này quyền bính ở người, hoặc do hào khác động biến thành tức biết người liên quan hào này cũng thuộc vào việc đó. Như Tử Tôn là tăng đạo hoặc bọn cháu chắt chẳng hạn, hoặc phục ở dưới hào khác cũng như theo vậy mà suy đoán.
Nếu sáu hào cùng Phi hào, Biến hào, Phục thần đều không có Quái thân, thì việc ấy chưa chắc, ở Không vong, Mộ, Tuyệt thì việc khó thành. Đại để Quái thân dùng để xem sự thể, không thể lầm là để xem thân mệnh, như xem tướng mạo xấu đẹp thì xem Quái thân có thể biết.
Phàm gặp Thân khắc Thế thì sự việc tìm tới ta là tốt, Thế khắc Thân thì hung. Nếu được hào Thân sinh hợp hào Thế lại càng tốt.
65. 虎 興 而 遇 吉 神 不 害 其 為 吉
龍 動 而 逢 凶 曜 難 掩 其 為 凶
玄 武 主 道 賊 之 事 亦 必 官 爻
朱 雀 本 口 舌 之 神 然 須 兄 弟
疾 病 大 宜 天 喜 若 臨 凶 煞 必 生 悲
出 行 最 怕 往 亡 如 係 吉 神 終 獲 利
是 故 吉 凶 神 煞 之 多 端 何 如 生 剋 制 化 之 一 理
Hổ hưng nhi ngộ cát thần bất hại, kỳ vi cát.
Long động nhi phùng hung diệu nan yểm, kỳ vi hung.
Huyền Vũ chủ đạo tặc chi sự. diệc tất Quan hào.
Chu Tước bổn khẩu thiệt chi thần, nhiên tu Huynh Đệ
Tật bệnh đại nghi Thiên Hỷ, nhược lâm hung sát tất sinh bi.
Xuất hành tối phạ Vãng vong, như hệ cát thần chung hoạch lợi
Thị cố cát hung thần sát chi đa đoan, hà như sinh khắc chế hoá chi nhât lý.
Hổ động mà gặp cát thần chẳng hại, mà là tốt
Long động mà gặp sao hung khó tránh, ấy là hung.
Huyền Vũ chủ việ đạo tặc không nên ở hào Quan,
Chu Tước vốn thần khẩu thiệt nhưng không nên ở Huynh Đệ
Tật bệnh rất nên có Thiên Hỷ, nếu lâm hung sát tất sinh đau buồn.
Xuất hành rất sợ Vãng Vong , nếu gặp cát thần cuối cùng được lợi.
Cho nênThần sát cát hoặc hung tuy quá nhiều, đâu bằng một lý sinh khắc chế hoá.
Đại để Bốc dịch nên đinh Ngũ hành của Lục thân , không thể dùng thần sát lộn xộn để đoán. Vốn Thần sát ở sách xưa đến lúc Kinh Phòng tiên sinh làm Dịch, để lại quá nhiều sao hung cát làm mê hoặc người học về sau, đại loại như Thiên Hỷ, Vãng Vong, Đại Sát, Đại Bạch Hổ. Nay người đời lấy làm tông chỉ, không gì là không tin. Nhưng thần sát quá nhiều, há có thể dùng được sao. Với phép dùng Lục thú mà nói, chẳng ai không lấy Thanh Long làm tốt, Bạch Hổ làm hung, thấy Chu Tước cho là khẩu thiệt, thấy Huyền Vũ cho là đạo tặc, không phân biệt lầm trì Dụng thần, Nguyên thần, Kỵ thần hay Cừu thần, đại khái lấy tinh chất của Lục thú để đoán mà thôi , làm mất diệu chỉ của tiên thiên. Chẳng lẽ Bạch Hổ động chắc chắn là hung, nếu lâm vào hào thích ứng để sinh phù củng hợp với Thế thân , thì có gì hại đến ta, cho nên bảo là hung mà chẳng hại, ấy là tốt.
Thanh Long động vốn là tốt, nếu lâm vào hào kỵ, hình xung khắc hại Dụng thàn, thì có ích gì cho việc. Cho nên bảo là tốt mà chẳng ngăn được hung.
Chu Tước tuy chủ khẩu thiệt nhưng chẳng phải Huynh Đệ tính lâm, tất không thể thành khẩu thiệt.
Huyền Vũ tuy chủ đọ tặc, nếu không phải là hào Quan tính lâm, thì không gọi là đạo tặc.
Vốn Lục thù dựa vào sinh khắc ngũ hành của Lục thân.
Lại như Thiên Hỷ là cát tinh, xem bệnh mà gặp, tuy đại lợi nhưng hung hiểm, lại không đoán chết , là cớ nhớ Thiên Hỷ; nếu lâm vào Kỵ thàn, thì ta lấy làm buồn mà chẳng lấy làm vui. Vãng Vong là hung sát, xuất hành mà gặp tuy đại tượng cát lợi, lại đoán hung , vì cớ là thần chết.
Nếu lâm vào hào ưa thích động mà sinh phù củng hợp với Thế thân Dụng thần, ta tất lấy làm lợi mà không cho là hại. Vì quyền của Thần sát là nhẹ mà quyền của Ngũ hành là nặng. Do vậy mà xem, gặp cát thì cát, gặp hung thì hung, do ở Ngũ hành mà không do ở Thần sát, nghiệm ở lý mà không nghiệm ở sát, hà tất phải theo thuyết ảo vọng đó. Nếu không thi ta quá lẫn lộn, đã hại lý lẽ mà loạn nhân tâm, há làm sao có thể chắc đúng được.
Thần sát vốn không bằng chứng,chỉ khiến việc đoán dịch rẽ ra nhiều lối, mà khônoáonr thoả bằng lẽ sinh khắc chế hoá, đã sáng tỏ lý lẽ mà linh động, rành mạch mà chẳng mê hoặc. Lục thân là cái gốc, Lục thú là cái ngọn. Đến nhưấcc cát thân hung sát như Thiên Hỷ, Thiên Y, Tang xa đều là từ ngọn này đến ngọn khác, muốn dùng thì chỉ có Lục Thú là được. Tức trọng ở gốc mà nhẹ ở ngọn vậy. Nhưng Lục thú chỉ có thể suy tính tình, hình trạng, còn như cát hung đắc thất, lấy sinh khắc của Lục thân làm chủ. Học như vậy thì gốc ngọn đều đầy đủkhông mất diệu chỉ, mà từ một lẽ có thể thông suốt hết.
66. 嗚 呼 卜 易 者 知 前 則 易
Ô hô ! Bốc dịch giả tri tiền tắc dịch
Than ôi ! Người bói dịch trước hết phải biết thông biến.
Người đời bói dịch đều câu nệ vào cổ pháp, người biết biến thông hiếm có. Cho nên gặp Long, Hổ thì đoán vui buồn, thuỷ hoả thì đoán mưa tạnh, Không vong thì cho là hung, Nguyệt phá thì bảo vô dụng, Thân thì cho là mình, Ứng hào thì cho là người. Phàm loại như thế khó nêu lên cho hết. Lưu Bá Ôn tiên sinh viết sách này, dùng cái hay của lý lẽ mà bỏ cái hẹp hòi của ý nghĩa, tỏ rõ cái tối tăm xưa , định lại cho đúng sai lầm ngày nay. Người đời chấp mê vào cổ pháp chẳng ai là không lấy đó mà lý giải. Người có chí với thuật này nên xét những điều nói trên, thì tự biết linh động.
67.求 占 者 鑑 後 則 靈
Cầu chiêm giả giám hậu tắc linh
(Người cầu bói phải xem xét sau đó mới linh)
Người đoán dịch đương nhiên phải thông biến, mà người cầu bói cũng không thể không biết đạo về bói. Đấy là thành tâm.
68. 筮 必 誠 心
Phệ tất thành tâm
(Bói phệ phải thành tâm)
Thánh nhân làm Dịch ca ngợi thần minh, vì đem đạo hợp với trời đất. Cho nên phàm bói Dịch, tất cần chân thành kính cẩn, hết lòng mà cầu, tất cát hung hoạ phúc không gì là không nghiệm. Ngày nay người cầu bói đông, mà cử chỉ chẳng nghiêm trang, ăn mặc bê bối, thậm chí có người chẳng thắp nhang, chẳng rửa tay. Lại có người giàu có tự kiêu, sai gia nhân xem bói thay mình, hoặc nhờ thân hữu đi coi giúp, mà không biết mình tuy phát tâm xem mà người đi thay tâm chưa kính. Cẩu thả như thế mà muốn cầu thần minh cảm ứng sao, há không thân trọng ư ?
69.何 妨 子 日
Hà phương Tí nhật
Ngày Tí có hại gì.
Trong sách lịch âm dương có câu “Tí bất vấn quái” (Tí chẳng xem bói). Cho nên người đời nay phần lớn kỵ ngày Tí. Lưu quốc sư nói : Việc ứng hung cát đều do cảm của thần minh. Thần minh không lúc nào không có, không lúc nào không cảm. Cảm được với thần minh thì không lúc nào không nghiệm. Cho nên phàm bói Dịch do ltại người có lòng thành hay không, chẳng do tại ngày Tí hay không phải ngày Tí.
Toàn chương trên đây trình bày chung phép đoán Dịch, là chương nói nhứng nét chính yếu. Không theo như thế thì mọi việc khó quyết. Người có chí trước hết đọc chương này, nêu có thể suy đi nghĩ lại mãi, đọc kỹ chú thích tất rõ lý lẽ, thì mọi điều mọi việc xảy ra đều có thể lý giải. Nào có gì hơn được Bốc dịch .
[1] Tức lục thân gồm 5 loại Phụ Mẫu, Quan Quỷ, Tử Tôn, Thê Tài, Huynh Đệ, nếu thêm Ta vào thì thành 6.
Thanked by 5 Members:
|
|
#32
Gửi vào 09/04/2012 - 18:12
Chương 7
THIÊN THỜI
天 時
1.天 道 杳冥 豈 可 度 斯 夫 旱 潦
易 爻 微 妙 自 能 驗 彼 之 陰 晴
當 究 父 財 - 勿 憑 水 火
Thiên đạo yểu minh, khởi khả đạc tư phù hạn lạo
Dịch hào vi diệu, tự năng nghiệm bỉ chi âm tình.
Đương cứu Phụ Tài - Vật bằng thuỷ hoả.
Đạo trời u minh há lượng được hạn lụt thế sao
Hào dịch vi diệu tự nghiệm được nắng mưa đấy
Phải xét Phụ, Tài - Chớ nhờ Thuỷ Hoả.
Thiên Huyền phú và Dịch Lâm Bổ Di đều dùng Thuỷ Hoả làm chủ nắng mưa, mà không xét Lục thân chế hoá. Vốn cố chấp mà không thông biến. Vả lại như hào Thuỷ là mưa, tất bảo vượng động sẽ mưa như trút, hưu tù thì mưa bay bay. Nhưng Thuỷ ở mùa đông vượng tất mưa. Mưa há chỉ to vào thu đông mà nhỏ vào xuân hạ sao ? Biết như thế mà không tự phá bỏ sao ? Phàm xem thiên thời nên xem Phụ và Tài, chớ luận Thuỷ và Hoả.
2.妻 財 發 動 八 方 咸 仰 晴 光
父 母 興 隆 四 海 盡 霑 雨 澤
Thê Tài phát động bát phương hàm ngưỡng tình quang
Phụ Mẫu hưng long tứ hải tận triêm vũ trạch.
Thê Tài phát động tám phương đều thấy nắng ráo
Phụ Mẫu vượng hưng bốn bể đều thấm ướt mưa.
Dùng hào Phụ Mẫu làm mưa, Tài động thì khắc chế thần mưa, cho nên chủ tạnh.
3.應 乃 太 虛 逢 空 則 雨 晴 難 擬
Ứng nãi thái hư, phùng Không tắc vũ tình nan nghĩ
Ứng là bầu trời, gặp Không thì nắng mưa khó định.
Xem Thiên thời , Ứng lâm Không thì nắng mưa khó định, phải dựa vào Phụ, Tài và Nhật thần để đoán.
4.世 為 大 塊 受 剋 則 天 變 非 常
Thế vi đại khối, thụ khắc tắc thiên biến phi thường.
Thế là đất lớn, chịu khắc thì trời biến đổi phi thường.
Ứng là Trời, thể của muôn vật. Thế là Đất, chủ muôn vật. Nếu Thế bị động hào hình khắc tất thời tiết thay đổi phi thường.
5. 日 辰 主 一 日 之 陰 晴
Nhật thần chủ nhất nhật chi âm tình
Nhật thần chủ mưa nắng trong ngày.
Như hào Phụ Mẫu động bị Nhật thần khắc chế thì không mưa. Nếu hào Phụ Mẫu động được Nhật thần sinh phù chủ mưa to. Nếu Tài hào động được Nhật thần sinh phù chủ nắng bức. Nhật thần là chúa tể.
6.子 孫 管 九 天 之 日 月
Tử Tôn quản cửu thiên chi nhật nguyệt
Tử Tôn cai quản tháng ngày trong bốn phương.
Tử Tôn dương là ngày, Tử Tôn âm là tháng. Vượng tất trời trong sáng, suy thì trời ảm đạm, Không phục thì mây che, mộ tuyệt thì u ám. Mộ thì nên gặp xung, Tuyệt nên gặp sinh.
7.若 論 風 雲 全 憑 兄 弟
Nhược luận phong vân toàn bằng Huynh Đệ
Nếu luận gió mây toàn dựa vào Huynh Đệ.
Gió mây nên xem hào Huynh Đệ , dùng vượng động suy tĩnh để luận gió mây lớn nhỏ dày mõng. Nếu luận về thuận phong hay nghịch phong thì không dùng Huynh Đệ. Lấy Tử Tôn làm thuận phong, dùng Quan quỷ làm nghịch phong.
8.要 知 雷 電 但 看 官 爻
Yếu tri lôi điện đản khán Quan hào
Muốn biết sấm chớp chỉ xem hào Quan.
Quan Quỷ ở cung Chấn động là Sấm, vượng tướng là sét, hoá Tiến thần cũng thế. Hoặc quẻ không có Phụ Mẫu, tuy sấm cũng không mưa, Phụ Mẫu trị nhật mới mưa.
9.更 隨 四 季 推 詳
Cánh tuỳ tứ quý suy tường
Lại tuỳ bốn mùa để suy rõ.
Câu này nối tiếp với cau trên, gặp mùa đông thì không thể đoán sấm.
10.須 配 五 行 參 決
Tu phối ngũ hành tham quyết
Nên phối hợp với ngũ hành mà quyết đoán.
Ngũ hành tuỳ thời mà vượng. Xuân Đông nhiều sương tuyết băng đá, Hạ Thu sấm chớp sương móc buổi sớm.
11.晴 或 逢 官 為 烟 為 霧
Tình hoặc phùng Quan vi yên vi vụ
Tạnh gặp quan Quỷ là khói là sương.
Quẻ được trời tạnh, nếu Quan Quỷ động thì có khói mù dày đặc, lắm sương, gió độc tối mù. Đông thì quá lạnh, hạ thì quá nóng.
12.雨 而 遇 福 為 電 為 虹
Vũ nhi ngộ Phúc vi điện vi hông
Mưa mà gặp Phúc Đức là chớp là mống.
Quẻ xem xó mưa, nếu Tử Tôn động thì có chớp có cầu vồng. Tử Tôn chủ có màu sắc, cầu vồng và chớp đều có hình ảnh đó, cho nên dựa đó mà suy.
13.應 臨 子 孫 碧 落 無 瑕 疵 之 半 點
Ứng lâm Tử Tôn, bích lạc vô hà tì chi bán điểm
Ứng ở Tử Tôn thì bầu trời xanh không có chút mây.
Phàm Ứng lâm Tử Tôn động, mặt trời sáng tỏ. Hoặc Tài lâm Ứng động hoá Phúc Đức cũng thế.
14.世 l臨 土 鬼 黃 沙 多 漫 散 於 千 村
Thế lâm Thổ Quỷ, hoàng sa đa mạn tán ư thiên thôn
Thế ở Quỷ thổ thì trời vàng như cát rải rác cả ngàn thôn.
Hợc hào Phụ Mẫu Không phục, lâm Quỷ thổ phát động thì trời vàng, đợi hào Phụ xuất Không, đến ngày xung thì có mưa.
15.三 合 成 財 問 雨 那 堪 八 卦
Tam hợp thành Tài, vấn vũ na kham bát quái.
Tam hợp thành Tài cục, hỏi mưa thì chẳng quẻ nào được.
Quẻ có Tam hợp thành Tài cục thì ráng rực rỡ mà không mưa. Tam hợp thành Phụ cục thì có mưa.
Thanked by 4 Members:
|
|
#33
Gửi vào 09/04/2012 - 18:17
16.五 鄉 連 父 求 晴 怪 殺 臨 空
Ngũ hương liên Phụ, cầu tình quái sát lâm Không.
Phụ dù có hành gì trong ngũ hành, cầu nắng thì Sát chớ lâm Không)
Ngũ hương là ngũ hành Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ . Chỉ có hào Phụ là mưa. Tài hào là kỵ sát. Nếu cầu tạnh đừng để Tài hào lâm Tuần Không.
17.財 化 鬼 陰 晴 未 定
Tài hoá Quỷ âm tình vị định
Tài hào hoá Quan Quỷ nắng ráo hay u ám chưa định được.
Tài chủ tạnh nắng, Quỷ chủ u ám. Như gặp Tài và Quỷ biến đổi lẫn nhau, hoặc Quỷ Tài đều động tất chủ nắng ráo hay u ám chưa định được.
18.父 化 兄 風 雨 靡 常
Phụ hoá Huynh phong vũ mỹ thường
Phụ hoá Huynh gió mưa không thường,
Phụ chủ mưa, Huynh chủ gió. Hai hào này hoá lẫn nhau hoặc đều động chủ gió mưa xen lẫn. Phàm luận thứ tự thì động xảy ra trước, biến xảy ra sau. Nếu đều động cả thì vượng chiếm trước, mà suy thì sau.
19.父 化 子 孫 雨 後 長 虹 垂 螮 蝀
弟 連 福 德 雲 中 日 月 出 蟾 蛛
Phụ hoá Tử Tôn, vũ hậu trường hồng thuỳ đế đống
Đệ liên Phúc Đức, vân trung nhật nguyệt xuất thiềm thù.
Phụ hoá Tử Tôn, sau mưa có cầu vồng dài vắt ngang
Huynh Đệ cùng Phúc Đức, trong mây hiện ra nhật nguyệt.
Nhật Nguyệt, cầu vồng đều thuộc Tử Tôn. Nếu Phụ hào hoá ra Tử Tôn tất sau cơn mưa có cầu vồng, nếu Huynh hào hoá Tử Tôn thì trong mây có mặt trời.
20. 父 持 月 建 必 然 陰 雨 連 旬
Phụ trì Nguyệt kiến tất nhiên âm vũ liên tuần
Phụ trì Nguyệt kiến thì ắt mưa mù suốt tuần.
Như cầu tạnh nắng há lại Phụ trì Nguyệt kiến. Nếu không có Tử Tôn cùng Thê Tài động thì tất mưa mù trọn tuần.
21.兄 坐 長 生 擬 定 狂 風 累 日
Huynh toạ Trường Sinh, nghĩ định cuồng phong luỹ nhật
Huynh ở Trường Sinh, đoán định gió lớn nhiều ngày.
Với Trường Sinh mà mầm mống của mọi sự việc. Nếu Hào Phụ gặp tất mưa nhiều ngày; hào Huynh gặp thì gió nhiều ngày; hào Quan gặp thì mây mù không tan; hào Tài gặp thì không mong có mưa. Đợi đến ngày Mộ Tuyệt thì mưa mới hết, gió mới ngừng, mới hết mây mù...
22.父 財 無 助 旱 潦 有 常
Phụ Tài vô trợ hạn lạo hữu thường
Phụ và Tài không được phù trợ, thường có hạn lụt.
Quan hào và Phụ Mẫu vô khí mà Tài hào vượng động tất hạn. Tử Tôn, Thê Tài vô khí mà Phụ Mẫu vượng động tất lụt. Gặp như vậy sợ nhất là Nhật Nguyệt động mà sinh phù thì lụt ngập hết, hạn thì khô cằn. Nếu hai hào Phụ Tài tuy vượng động nhưng bị chế phục, lại không được phù trợ, nếu hạn thì cũng có lúc, mà mưa cũng có chừng.
23.福 德 帶 刑 日 月 必 蝕
Phúc Đức đới Hình, Nhật Nguyệt tất thực
Phúc Đức mà bị Hình, tất có Nhật Nguyệt thực.
Tử Tôn bị Hình hoá Quan Quỷ, hoặc Quan Quỷ động mà hình hại, hoặc Phụ có Đằng Xà mà khắc Tử, đều chủ có Nhật Nguyệt thực. Hào Dương thì Nhật thực, hào Âm thi Nguyệt thực.
24.雨 h嫌 妻 位 之 逢 冲
Vũ hiềm Thê vị chi phùng xung
Xem mưa thì ngại hào Thê gặp xung.
Xem mưa nếu Tài hào ám động, thì Phụ Mẫu ngầm bị thương, không hi vọng có mưa.
25.晴 利 父 爻 之 入 m墓
Tình lợi Phụ hào chi nhập Mộ
Xem nắng thì lợi khi hào Phụ nhập Mộ
Hào Phụ phát động nhập Mộ, mà không có Nhật thần, động hào xung khai Mộ khố thì mưa ngưng.
26.子 伏 財 飛 檐 下 暴 夫 猶 抑 鬱
Tử phục Tài phi, thiềm hạ bộc phu do ức uất
Tử phục Tài Phi, người dưới thềm còn chịu oi bức.
Hào Tài chủ tạnh mà không chủ có mặt trời. Nếu Tử Tôn xuất hiện, phát động vượng tướng thì sau sẽ có mặt trời.Nếu không có Tử Tôn thì hào Tài không gốc rễ, Quan Quỷ ắt chuyên quyền, điềm tạnh không lâu được.
27.父 衰 官 旺 門 前 行 客尚 趑 趄
Phụ suy Quan vượng, môn tiền hành khách thượng tư thư
Phụ suy Quan vượng, trước cổng người đi còn chùn bước.
Mưa lấy hào Phụ làm chủ, được hào Quan vượng động thì có mưa. Nếu hào Phụ lâm Không thì không có mưa, tượng mây dày đặc không tan. Đợi hào Phụ xuất Tuần gặp xung tất mưa.
28. 福 合 應 爻 木 動 交 而 游 絲 漫 野
Phúc hợp Ứng hào mộc động giao nhi du ti mạn dã
Phúc hợp với hào Ứng, thuộc mộc mà động thì mưa bay tràn đồng.
Tử Tôn là thần khoáng đạt, nếu ở hạo Mộc động mà hợp với Ứng, hoặc ở hào Ứng mà sinh hợp với Thế thân, tất thì gió dịu nắng ấm, trời lộng gió mưa bay.
29.鬼 冲 身 位 金 星 會 而 陰 霧 迷 空
Quỷ xung Thân vị Kim tinh hội nhi âm vụ mê không
Quỷ xung Thân, thuộc Kim thì sương mù mờ mịt.
Quỷ lâm hào Kim động mà xung khắc Thế thân, hoặc xung khắc Ứng hào, hợc lâm Ứng mà động, đều chủ khói mù mờ mịt khắp đồng.
30.卦 值 暗 冲 雖 空 有 望
Quái trị ám xung, tuy Không hữu vọng
Quẻ gặp ám xung, tuy Không cũng có hi vọng.
Như xem mưa mà Phụ hào lâm Không, xem tạnh ráo mà Tài hào lâm Không, nếu được Nhật thần xung, tất xung Không mà nên chẳng phải là Không. Muốn định nhật kỳ, phải xuất Tuần mới hi vọng được.
Ngũ hương liên Phụ, cầu tình quái sát lâm Không.
Phụ dù có hành gì trong ngũ hành, cầu nắng thì Sát chớ lâm Không)
Ngũ hương là ngũ hành Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ . Chỉ có hào Phụ là mưa. Tài hào là kỵ sát. Nếu cầu tạnh đừng để Tài hào lâm Tuần Không.
17.財 化 鬼 陰 晴 未 定
Tài hoá Quỷ âm tình vị định
Tài hào hoá Quan Quỷ nắng ráo hay u ám chưa định được.
Tài chủ tạnh nắng, Quỷ chủ u ám. Như gặp Tài và Quỷ biến đổi lẫn nhau, hoặc Quỷ Tài đều động tất chủ nắng ráo hay u ám chưa định được.
18.父 化 兄 風 雨 靡 常
Phụ hoá Huynh phong vũ mỹ thường
Phụ hoá Huynh gió mưa không thường,
Phụ chủ mưa, Huynh chủ gió. Hai hào này hoá lẫn nhau hoặc đều động chủ gió mưa xen lẫn. Phàm luận thứ tự thì động xảy ra trước, biến xảy ra sau. Nếu đều động cả thì vượng chiếm trước, mà suy thì sau.
19.父 化 子 孫 雨 後 長 虹 垂 螮 蝀
弟 連 福 德 雲 中 日 月 出 蟾 蛛
Phụ hoá Tử Tôn, vũ hậu trường hồng thuỳ đế đống
Đệ liên Phúc Đức, vân trung nhật nguyệt xuất thiềm thù.
Phụ hoá Tử Tôn, sau mưa có cầu vồng dài vắt ngang
Huynh Đệ cùng Phúc Đức, trong mây hiện ra nhật nguyệt.
Nhật Nguyệt, cầu vồng đều thuộc Tử Tôn. Nếu Phụ hào hoá ra Tử Tôn tất sau cơn mưa có cầu vồng, nếu Huynh hào hoá Tử Tôn thì trong mây có mặt trời.
20. 父 持 月 建 必 然 陰 雨 連 旬
Phụ trì Nguyệt kiến tất nhiên âm vũ liên tuần
Phụ trì Nguyệt kiến thì ắt mưa mù suốt tuần.
Như cầu tạnh nắng há lại Phụ trì Nguyệt kiến. Nếu không có Tử Tôn cùng Thê Tài động thì tất mưa mù trọn tuần.
21.兄 坐 長 生 擬 定 狂 風 累 日
Huynh toạ Trường Sinh, nghĩ định cuồng phong luỹ nhật
Huynh ở Trường Sinh, đoán định gió lớn nhiều ngày.
Với Trường Sinh mà mầm mống của mọi sự việc. Nếu Hào Phụ gặp tất mưa nhiều ngày; hào Huynh gặp thì gió nhiều ngày; hào Quan gặp thì mây mù không tan; hào Tài gặp thì không mong có mưa. Đợi đến ngày Mộ Tuyệt thì mưa mới hết, gió mới ngừng, mới hết mây mù...
22.父 財 無 助 旱 潦 有 常
Phụ Tài vô trợ hạn lạo hữu thường
Phụ và Tài không được phù trợ, thường có hạn lụt.
Quan hào và Phụ Mẫu vô khí mà Tài hào vượng động tất hạn. Tử Tôn, Thê Tài vô khí mà Phụ Mẫu vượng động tất lụt. Gặp như vậy sợ nhất là Nhật Nguyệt động mà sinh phù thì lụt ngập hết, hạn thì khô cằn. Nếu hai hào Phụ Tài tuy vượng động nhưng bị chế phục, lại không được phù trợ, nếu hạn thì cũng có lúc, mà mưa cũng có chừng.
23.福 德 帶 刑 日 月 必 蝕
Phúc Đức đới Hình, Nhật Nguyệt tất thực
Phúc Đức mà bị Hình, tất có Nhật Nguyệt thực.
Tử Tôn bị Hình hoá Quan Quỷ, hoặc Quan Quỷ động mà hình hại, hoặc Phụ có Đằng Xà mà khắc Tử, đều chủ có Nhật Nguyệt thực. Hào Dương thì Nhật thực, hào Âm thi Nguyệt thực.
24.雨 h嫌 妻 位 之 逢 冲
Vũ hiềm Thê vị chi phùng xung
Xem mưa thì ngại hào Thê gặp xung.
Xem mưa nếu Tài hào ám động, thì Phụ Mẫu ngầm bị thương, không hi vọng có mưa.
25.晴 利 父 爻 之 入 m墓
Tình lợi Phụ hào chi nhập Mộ
Xem nắng thì lợi khi hào Phụ nhập Mộ
Hào Phụ phát động nhập Mộ, mà không có Nhật thần, động hào xung khai Mộ khố thì mưa ngưng.
26.子 伏 財 飛 檐 下 暴 夫 猶 抑 鬱
Tử phục Tài phi, thiềm hạ bộc phu do ức uất
Tử phục Tài Phi, người dưới thềm còn chịu oi bức.
Hào Tài chủ tạnh mà không chủ có mặt trời. Nếu Tử Tôn xuất hiện, phát động vượng tướng thì sau sẽ có mặt trời.Nếu không có Tử Tôn thì hào Tài không gốc rễ, Quan Quỷ ắt chuyên quyền, điềm tạnh không lâu được.
27.父 衰 官 旺 門 前 行 客尚 趑 趄
Phụ suy Quan vượng, môn tiền hành khách thượng tư thư
Phụ suy Quan vượng, trước cổng người đi còn chùn bước.
Mưa lấy hào Phụ làm chủ, được hào Quan vượng động thì có mưa. Nếu hào Phụ lâm Không thì không có mưa, tượng mây dày đặc không tan. Đợi hào Phụ xuất Tuần gặp xung tất mưa.
28. 福 合 應 爻 木 動 交 而 游 絲 漫 野
Phúc hợp Ứng hào mộc động giao nhi du ti mạn dã
Phúc hợp với hào Ứng, thuộc mộc mà động thì mưa bay tràn đồng.
Tử Tôn là thần khoáng đạt, nếu ở hạo Mộc động mà hợp với Ứng, hoặc ở hào Ứng mà sinh hợp với Thế thân, tất thì gió dịu nắng ấm, trời lộng gió mưa bay.
29.鬼 冲 身 位 金 星 會 而 陰 霧 迷 空
Quỷ xung Thân vị Kim tinh hội nhi âm vụ mê không
Quỷ xung Thân, thuộc Kim thì sương mù mờ mịt.
Quỷ lâm hào Kim động mà xung khắc Thế thân, hoặc xung khắc Ứng hào, hợc lâm Ứng mà động, đều chủ khói mù mờ mịt khắp đồng.
30.卦 值 暗 冲 雖 空 有 望
Quái trị ám xung, tuy Không hữu vọng
Quẻ gặp ám xung, tuy Không cũng có hi vọng.
Như xem mưa mà Phụ hào lâm Không, xem tạnh ráo mà Tài hào lâm Không, nếu được Nhật thần xung, tất xung Không mà nên chẳng phải là Không. Muốn định nhật kỳ, phải xuất Tuần mới hi vọng được.
Thanked by 5 Members:
|
|
#34
Gửi vào 09/04/2012 - 18:19
31.爻 逢 合 住 縱 動 無 功
Hào phùng hợp trú, túng động vô công
Hào nếu gặp hợp, dù động cũng vô ích.
Phụ động thì mưa, Tài động thì tạnh, là lẽ đương nhiên. Nhếu bị Nhật thần hợp, tuy động cũng như tĩnh, đợi Nhật thần xung Phụ hào có thể mưa, xung Tài hào có thể tạnh.
32.合 父 鬼 冲 開 有 雷 則 雨 - 合 財 剋 破 無 風 不 晴
Hợp Phụ, Quỷ xung khai, hữu lôi tắc vũ,
Hợp Tài, Huynh khắc phá, vô phong bất tình
Hợp với Phụ, Quỷ xung khai, có sấm sẽ mưa;
Hợp với Tài, Huynh khắc phá không gió không tạnh.
Như động hào hợp với Phụ hào, được Quan quỷ khử xung động hào, trước sấm sau mưa. Tài bị động hào hợp, được Huynh Đệ khắc phá động hào, không gió thì không tạnh.
33.坎 巽 互 交 此 日 雪 花 飛 六 出
Khảm Tốn hỗ giao, thử nhật tuyết hoa phi lục xuất
(Khảm Tốn cùng động thì ngày đó hoa tuyết bay)
Khảm Tôn là nói đến Phụ và Huynh đều động. Xem vào mùa đông, có tượng gió tuyết tung bay.
34.陰 陽 各 半 今 朝 霖 雨 慰 三 農
Âm dương các bán, kim triêu lâm vũ uý tam nông
Âm dương mỗi thứ một nửa thì hôm đó mưa dầm, an uý nhà nông.
Âm và tình là nói đến 2 hào Quan và Phụ. Như ccầu mưa mà thấy Quan và Phụ đều vượng động mà không có xung hợp thương tổn thì ngày đó có mưa.
35.兄 弟 木 興 係 巽 風 而 馮 夷 何 其 肆 虐
Huynh Đệ mộc hưng hệ Tốn phong, nhi Phùng Di hà kỳ tứ ngược
Huynh Đệ thuộc mộc động liên quan cung Tốn, để Thần gió sao quá bạo ngược.
Gặp Huynh Đệ thuộc mộc ở cung Tốn, vượng động hình khắc hào Thế thì lo có gió lếu Phụ cũng vượng động chủ gió mưa hoà lẫn.
36.妻 財 發 動 屬 乾 陽 而 旱 魃 乎 爾 行 凶
Thê Tài phát động thuộc Càn dương nhi hạn bạt hồ nhĩ hành hung
Thê Tài động thuộc cung Càn dương sao mà Thần hạn quá hành hung.
Tài hào phát động, hoặc biến nhập quẻ Càn, lại gặp Nguyệt kiến Nhật thần sinh phù hợp trợ tất chủ đại hạn.
37.六 龍 御 天 祇 為 蛇 興 震 卦
Lục long ngự thiên chỉ vi Xà hưng Chấn quái
Lục long hiện ở trời chỉ vì Đằng Xà động ở cung Chấn.
Chấn có tượng rồng, nếu thấy Thanh Long hoặc hào Thìn tại cung Chấn vượng động, tất có rồng hiện. Nếu Phụ hoá Thìn thì trước mưa sau có rồng. Nếu Thìn hoá Phụ thì trước thấy rồng sau có mưa. Phụ hào an tĩnh hoặc Không phục, rồng tuy hiện mà không mưa, hoá Tài cũng thế.
38.五 雷 驅 電 蓋 緣 鬼 發 離 宮
Ngũ lôi khu điện cái duyên Quỷ phát Li cung
Sấm xua chớp vốn do Quỷ động ở cung Li.
Có tiếng là sấm, không tiếng là chớp. Nếu Quỷ ở cung Ly động nên đoán là sấm động xua chớp. Vốn quẻ Li tượng có màu sắc. Quỷ thuộc hoả cũng thế.
39.土 星 依 父 雲 行 雨 施 於 天-木 德 扶 身 而 日 暖 風 和 之 景
Thổ tinh y Phụ, vân hành vũ thí ư thiên
Mộc Đức phù thân, nhật noãn phong hoà chi cảnh
Phụ có hành Thổ, trời chuyển mây mưa,
Phúc Đức thuộc Mộc trợ Thân, tượng nắng ấm gió dịu.
Thổ chủ mây, Phụ chủ mưa, cho nên Thổ lâm Phụ động thì tượng mây chuyển trời mưa. Mộc chủ gió, Tài chủ tạnh. cho nên Mộc lâm Tài động có nắng ấm gió dịu.
40. 半 晴 半 雨 卦 中 財 父 動 興
Bán tình bán vũ, quái trung Tài Phụ đồng hưng
Nửa mưa nửa tạnh, trong quẻ Tài Phụ cùng động.
Thê Tài, Phụ Mẫu đều động tất nhiên nửa mưa nửa tạnh.vượng tạnh nhiều mưa ít, Phụ vượng Tài suy thì mưa nhiều tạnh ít.
41.多 霧 多 煙 爻 象 財 官 皆 動
Đa vụ đa yên, hào tượng Tài Quan giai động
Nhiều sương nhiều khói, trong quẻ Tài Quan đều động.
Tài động chủ tạnh, Quỷ động chủ âm u. Quan vượng Tài suy thì sương nặng hạt như mưa phùn. Quỷ suy Tài vượng thì khói mờ chốt lát rồi sáng tỏ.
42.身 值 同 人 雖 晴 而 日輪 含 曜
世 持 福 德 縱 雨 而 雷 鼓 藏 聲
Thân trị đồng nhân, tuy tình nhi nhật luân hàm diệu
Thế trì Phúc Đức, túng vũ nhi lôi cổ tàng thanh.
Thân ở cùng người, tuy tạnh mà trời cũng không sáng
Thế ở Phúc Đức nếu mưa cũng không có tiếng sấm.
Phàm Huynh Đệ trì Thế, động thì khắc Tài, Tài nếu vượng tướng trời cũng không trong sáng. Tử Tôn trì Thế nếu động thì khắc Quan, Quan nếu động tuy mưa cũng không có tiếng sấm.
43.父 空 財 伏 須 救 輔 爻
剋 日 取 期 當 明 占 法
Phụ Không, Tài phục tu cứu phụ hào
Khắc nhật thủ kỳ, đương minh chiêm pháp.
Phụ lâm Không, Tài phục nên xét Nguyên thần
Chon ngày ứng việc, cần rõ phép xem.
Phụ[1] hào là Nguyên thần. Xem mưa lấy Phụ Mẫu làm Dụng thần, lấy hào Quan quỷ làm Nguyên thần; xem tạnh ráo lấy Tài hào làm dung thần, lấy Tử Tôn làm Nguyên thần. Nếu Dụng thần Không phục, suy vượng, động tĩnh, xuất hiện, Mộ Tuyệt, hợp xung, Nguyệt phá thì phải dúng phép định bệnh trên các hào mà quyết đoán ngày ứng việc.
Nay lấy Dụng thần làm phép tắc mà định lúc ứng việc như sau:
- Dụng thần phục tàng chờ ngày Dụng thần xuất lộ thì ứng việc; như Dụng thần an tĩnh chờ ngày xung tĩnh thì ứng việc; như Dụng thần Tuần không an tĩnh, chờ xuất Tuần gặp ngày xung thì ứng việc; như Dụng thần tĩnh Không gặp xung, gọi là xung khởi, chờ xuất Tuần gặp ngày hợp sẽ ứng việc; như Dụng thần tĩnh Không gặp chờ, chờ xuất Tuần gặp ngày xung thì ứng việc; như Dụng thần phát động mà không bị gì khác, chờ gặp ngày hợp ứng việc; như Dụng thần Tuần không phát động gặp xung ,gọi là xung thực, thì ứng việc vào ngày này. Như Dụng thần phát động gặp hợp, động Không gặp hợp cũng tĩnh mà gặp hợp, đều chờ ngày xung mà ứng việc; như Dụng thần nhập Mộ ở Nhật thần, chờ ngày xung Dụng thần sẽ ứng việc; như Dụng thần tự hoá nhập Mộ, chờ ngày xung khai Mộ khố sẽ ứng việc; như Dụng thần bị hào khác động hợp, hay tự đống hoá hợp chờ ngày xung khai hào hợp với Dụng thần thì ứng việc. Như Dụng thần bị Nguyệt phá chờ ra khỏi tháng gặp ngày trị hoặc ngày hợp thì ứng việc; như Dụng thần Tuyệt ở Nhật thần hoặc hoá Tuyệt ở hào , chờ ngày Trường Sinh sẽ ứng việc;
Như Nguyên thần hợp cục khắc mà Dụng thàn phục tàng, chờ ngày xuất lộ ứng việc; như Tuần không thì chờ ngày xuất Tuần ứng việc.
Cho nên thep phép thì hợp thì chờ xung, xung thì chờ hợp; Tuyệt thì đợi Sinh, Mộ thì đợi mở; Phá thì đợi bổ, Không thì xuất Tuần, Suy thì đợi vượng. Việc xa thì đoán vào tháng ngày, việc gần thì đoán ngày giờ. Cho nên bảo: "Chọn ngày ứng việc nên rõ phép xem" .
Mưa thì nên xét hào Phụ Không mà bất Không; tạnh thì nên xét hào Tài tuy phục mà không phục.Đã biết Dụng thần, còn nên xét thêm Nguyên thần. Cho nên bảo:" Phụ Không Tài phục nên xét Nguyên Thần". Chữ "tu" nên có nghĩa là "kiêm" (kèm thêm), mà xưa chú thích nghi là xem mưa mà hào Phụ lâm Không, bất tất phải theo hào Phụ, nên lấy Nguyên thần mà suy; xem tạnh mà Tài hào phục, bất tất phải theo hào Phụ mà lấy Nguyên thần để đoán, lấy từ mà đoán nghĩa, cho nên ta phải trình bày cặn kẻ.
44.要 知 其 詳 別 陰 陽 可 推 晴 雨
欲 知 其 細 明 衰 旺 以 決 重 輕
Yếu tri kỳ tường, biệt âm dương khả suy tình vũ
Dục tri kỳ tế, minh suy vượng dĩ quyết trọng khinh
Muốn biết rõ, phân âm dương để suy tạnh hay mưa,
Muốn biết cặn kẽ, ró suy vượng để quyết nặng nhẹ.
Câu này ý nói đại lược mà thôi. Âm dương, động biến là quan trọng lớn lao (định mưa hay tạnh), còn nhỏ bé và ít oi là bởi vượng suy. Như vậy có thể đoán định được mưa to hay nhỏ.
[1] Phụ ở đây có nghĩa là “trợ giúp”
Hào phùng hợp trú, túng động vô công
Hào nếu gặp hợp, dù động cũng vô ích.
Phụ động thì mưa, Tài động thì tạnh, là lẽ đương nhiên. Nhếu bị Nhật thần hợp, tuy động cũng như tĩnh, đợi Nhật thần xung Phụ hào có thể mưa, xung Tài hào có thể tạnh.
32.合 父 鬼 冲 開 有 雷 則 雨 - 合 財 剋 破 無 風 不 晴
Hợp Phụ, Quỷ xung khai, hữu lôi tắc vũ,
Hợp Tài, Huynh khắc phá, vô phong bất tình
Hợp với Phụ, Quỷ xung khai, có sấm sẽ mưa;
Hợp với Tài, Huynh khắc phá không gió không tạnh.
Như động hào hợp với Phụ hào, được Quan quỷ khử xung động hào, trước sấm sau mưa. Tài bị động hào hợp, được Huynh Đệ khắc phá động hào, không gió thì không tạnh.
33.坎 巽 互 交 此 日 雪 花 飛 六 出
Khảm Tốn hỗ giao, thử nhật tuyết hoa phi lục xuất
(Khảm Tốn cùng động thì ngày đó hoa tuyết bay)
Khảm Tôn là nói đến Phụ và Huynh đều động. Xem vào mùa đông, có tượng gió tuyết tung bay.
34.陰 陽 各 半 今 朝 霖 雨 慰 三 農
Âm dương các bán, kim triêu lâm vũ uý tam nông
Âm dương mỗi thứ một nửa thì hôm đó mưa dầm, an uý nhà nông.
Âm và tình là nói đến 2 hào Quan và Phụ. Như ccầu mưa mà thấy Quan và Phụ đều vượng động mà không có xung hợp thương tổn thì ngày đó có mưa.
35.兄 弟 木 興 係 巽 風 而 馮 夷 何 其 肆 虐
Huynh Đệ mộc hưng hệ Tốn phong, nhi Phùng Di hà kỳ tứ ngược
Huynh Đệ thuộc mộc động liên quan cung Tốn, để Thần gió sao quá bạo ngược.
Gặp Huynh Đệ thuộc mộc ở cung Tốn, vượng động hình khắc hào Thế thì lo có gió lếu Phụ cũng vượng động chủ gió mưa hoà lẫn.
36.妻 財 發 動 屬 乾 陽 而 旱 魃 乎 爾 行 凶
Thê Tài phát động thuộc Càn dương nhi hạn bạt hồ nhĩ hành hung
Thê Tài động thuộc cung Càn dương sao mà Thần hạn quá hành hung.
Tài hào phát động, hoặc biến nhập quẻ Càn, lại gặp Nguyệt kiến Nhật thần sinh phù hợp trợ tất chủ đại hạn.
37.六 龍 御 天 祇 為 蛇 興 震 卦
Lục long ngự thiên chỉ vi Xà hưng Chấn quái
Lục long hiện ở trời chỉ vì Đằng Xà động ở cung Chấn.
Chấn có tượng rồng, nếu thấy Thanh Long hoặc hào Thìn tại cung Chấn vượng động, tất có rồng hiện. Nếu Phụ hoá Thìn thì trước mưa sau có rồng. Nếu Thìn hoá Phụ thì trước thấy rồng sau có mưa. Phụ hào an tĩnh hoặc Không phục, rồng tuy hiện mà không mưa, hoá Tài cũng thế.
38.五 雷 驅 電 蓋 緣 鬼 發 離 宮
Ngũ lôi khu điện cái duyên Quỷ phát Li cung
Sấm xua chớp vốn do Quỷ động ở cung Li.
Có tiếng là sấm, không tiếng là chớp. Nếu Quỷ ở cung Ly động nên đoán là sấm động xua chớp. Vốn quẻ Li tượng có màu sắc. Quỷ thuộc hoả cũng thế.
39.土 星 依 父 雲 行 雨 施 於 天-木 德 扶 身 而 日 暖 風 和 之 景
Thổ tinh y Phụ, vân hành vũ thí ư thiên
Mộc Đức phù thân, nhật noãn phong hoà chi cảnh
Phụ có hành Thổ, trời chuyển mây mưa,
Phúc Đức thuộc Mộc trợ Thân, tượng nắng ấm gió dịu.
Thổ chủ mây, Phụ chủ mưa, cho nên Thổ lâm Phụ động thì tượng mây chuyển trời mưa. Mộc chủ gió, Tài chủ tạnh. cho nên Mộc lâm Tài động có nắng ấm gió dịu.
40. 半 晴 半 雨 卦 中 財 父 動 興
Bán tình bán vũ, quái trung Tài Phụ đồng hưng
Nửa mưa nửa tạnh, trong quẻ Tài Phụ cùng động.
Thê Tài, Phụ Mẫu đều động tất nhiên nửa mưa nửa tạnh.vượng tạnh nhiều mưa ít, Phụ vượng Tài suy thì mưa nhiều tạnh ít.
41.多 霧 多 煙 爻 象 財 官 皆 動
Đa vụ đa yên, hào tượng Tài Quan giai động
Nhiều sương nhiều khói, trong quẻ Tài Quan đều động.
Tài động chủ tạnh, Quỷ động chủ âm u. Quan vượng Tài suy thì sương nặng hạt như mưa phùn. Quỷ suy Tài vượng thì khói mờ chốt lát rồi sáng tỏ.
42.身 值 同 人 雖 晴 而 日輪 含 曜
世 持 福 德 縱 雨 而 雷 鼓 藏 聲
Thân trị đồng nhân, tuy tình nhi nhật luân hàm diệu
Thế trì Phúc Đức, túng vũ nhi lôi cổ tàng thanh.
Thân ở cùng người, tuy tạnh mà trời cũng không sáng
Thế ở Phúc Đức nếu mưa cũng không có tiếng sấm.
Phàm Huynh Đệ trì Thế, động thì khắc Tài, Tài nếu vượng tướng trời cũng không trong sáng. Tử Tôn trì Thế nếu động thì khắc Quan, Quan nếu động tuy mưa cũng không có tiếng sấm.
43.父 空 財 伏 須 救 輔 爻
剋 日 取 期 當 明 占 法
Phụ Không, Tài phục tu cứu phụ hào
Khắc nhật thủ kỳ, đương minh chiêm pháp.
Phụ lâm Không, Tài phục nên xét Nguyên thần
Chon ngày ứng việc, cần rõ phép xem.
Phụ[1] hào là Nguyên thần. Xem mưa lấy Phụ Mẫu làm Dụng thần, lấy hào Quan quỷ làm Nguyên thần; xem tạnh ráo lấy Tài hào làm dung thần, lấy Tử Tôn làm Nguyên thần. Nếu Dụng thần Không phục, suy vượng, động tĩnh, xuất hiện, Mộ Tuyệt, hợp xung, Nguyệt phá thì phải dúng phép định bệnh trên các hào mà quyết đoán ngày ứng việc.
Nay lấy Dụng thần làm phép tắc mà định lúc ứng việc như sau:
- Dụng thần phục tàng chờ ngày Dụng thần xuất lộ thì ứng việc; như Dụng thần an tĩnh chờ ngày xung tĩnh thì ứng việc; như Dụng thần Tuần không an tĩnh, chờ xuất Tuần gặp ngày xung thì ứng việc; như Dụng thần tĩnh Không gặp xung, gọi là xung khởi, chờ xuất Tuần gặp ngày hợp sẽ ứng việc; như Dụng thần tĩnh Không gặp chờ, chờ xuất Tuần gặp ngày xung thì ứng việc; như Dụng thần phát động mà không bị gì khác, chờ gặp ngày hợp ứng việc; như Dụng thần Tuần không phát động gặp xung ,gọi là xung thực, thì ứng việc vào ngày này. Như Dụng thần phát động gặp hợp, động Không gặp hợp cũng tĩnh mà gặp hợp, đều chờ ngày xung mà ứng việc; như Dụng thần nhập Mộ ở Nhật thần, chờ ngày xung Dụng thần sẽ ứng việc; như Dụng thần tự hoá nhập Mộ, chờ ngày xung khai Mộ khố sẽ ứng việc; như Dụng thần bị hào khác động hợp, hay tự đống hoá hợp chờ ngày xung khai hào hợp với Dụng thần thì ứng việc. Như Dụng thần bị Nguyệt phá chờ ra khỏi tháng gặp ngày trị hoặc ngày hợp thì ứng việc; như Dụng thần Tuyệt ở Nhật thần hoặc hoá Tuyệt ở hào , chờ ngày Trường Sinh sẽ ứng việc;
Như Nguyên thần hợp cục khắc mà Dụng thàn phục tàng, chờ ngày xuất lộ ứng việc; như Tuần không thì chờ ngày xuất Tuần ứng việc.
Cho nên thep phép thì hợp thì chờ xung, xung thì chờ hợp; Tuyệt thì đợi Sinh, Mộ thì đợi mở; Phá thì đợi bổ, Không thì xuất Tuần, Suy thì đợi vượng. Việc xa thì đoán vào tháng ngày, việc gần thì đoán ngày giờ. Cho nên bảo: "Chọn ngày ứng việc nên rõ phép xem" .
Mưa thì nên xét hào Phụ Không mà bất Không; tạnh thì nên xét hào Tài tuy phục mà không phục.Đã biết Dụng thần, còn nên xét thêm Nguyên thần. Cho nên bảo:" Phụ Không Tài phục nên xét Nguyên Thần". Chữ "tu" nên có nghĩa là "kiêm" (kèm thêm), mà xưa chú thích nghi là xem mưa mà hào Phụ lâm Không, bất tất phải theo hào Phụ, nên lấy Nguyên thần mà suy; xem tạnh mà Tài hào phục, bất tất phải theo hào Phụ mà lấy Nguyên thần để đoán, lấy từ mà đoán nghĩa, cho nên ta phải trình bày cặn kẻ.
44.要 知 其 詳 別 陰 陽 可 推 晴 雨
欲 知 其 細 明 衰 旺 以 決 重 輕
Yếu tri kỳ tường, biệt âm dương khả suy tình vũ
Dục tri kỳ tế, minh suy vượng dĩ quyết trọng khinh
Muốn biết rõ, phân âm dương để suy tạnh hay mưa,
Muốn biết cặn kẽ, ró suy vượng để quyết nặng nhẹ.
Câu này ý nói đại lược mà thôi. Âm dương, động biến là quan trọng lớn lao (định mưa hay tạnh), còn nhỏ bé và ít oi là bởi vượng suy. Như vậy có thể đoán định được mưa to hay nhỏ.
[1] Phụ ở đây có nghĩa là “trợ giúp”
Thanked by 4 Members:
|
|
#35
Gửi vào 09/04/2012 - 18:24
NIÊN THỜI
年時
(VIỆC TRONG NĂM)
1.陰晴寒暑天道之常
水旱兵災年時之變
欲決禍福於一年
須審吉凶於八卦
Âm tình hàn thử Thiên đạo chi thường
Thuỷ hạn binh tai niên thời chi biến.
Dục quyết hoạ phúc ư nhất niên
Tu thẩm cát hung ư bát quái.
Nắmg mưa lạnh nóng việc bình thường của Thiên đạo,
Lụt hạn binh đao là những biến cố trong năm
Muốn định hoạ phúc trong một năm
Cần xét cát hung nơi bát quái.
Niên thời là sự việc trong bốn mùa của một năm. Việc quốc gia, quan lại, thời tiết, nhân vật đều ở trong 6 hào của quẻ.
2.初觀萬物 莫居死絕之鄉
次察群黎喜在旺生之地
Sơ quan vạn vật, mạc cư Tử Tuyệt chi hương
Thứ sát quần lê, hỉ tại vượng sinh chi địa
Hào sơ để xem vạn vật, chớ trị ở nơi Tử Tuyệt,
Hào tiếp xét lê dân, mừng tại chỗ Vượng Sinh.
Vạn vật thuộc hào Sơ, ở Tài Phúc thì cát, lâm Quan Quỷ thì hung. Hào hai là vị trí của nhân dân, gặp Tử Tôn bốn mùa an lạc, gặp Quan Quỷ trong năm nhiều tai hoạ.
3.三言府縣官僚兄動則徵 科必追
四論九卿宰相冲身則巡察無私
Tam ngôn phủ huyện quan liêu, Huynh động tất chinh khoa tất truy
Tứ luận cửu khanh tể tướng, xung Thân tất tuần sát vô tư.
Hào tam nói về quan lại phủ huyện, nếu Huynh động thì truy thu thuế .
Hào tứ luận về Tể tướng và cửu khanh[1], nêu xung Thân thì việc tuần sát vô tư.
Hào tam đoán quan lại có trách nhiệm, sinh hợp Thế hào thì có lòng thương người mến vật. Nếu lâm Tử Tôn thì thanh liêm chính trực, lâm Quan Quỷ bất nhân tàn bạo, lâm Huynh Đệ phát động khắc Thế thì bức bách thu thuế.
Nếu xem cử khanh và tể tướng thì xét hào tứ, lâm Tử Tôn sinh hợp Thế Thân thì cai trị lo lắng cho dân, chính trực vô tư.
[1] Chỉ các hạng quan lớn. Tuỳ triều đại mà thay đổi, như triều Minh ở Trung Quốc gọi Thượng thư của lục Bộ, Đô ngự sử ở Đô Sát viện, Thông Chính Ty sứ, Đại Lý tự khanh là cửu khanh.
4.五為君上之爻
六為昊 天之位
Ngũ vi Quân thượng chi hào,
Lục vi hạo thiên chi vị.
Hào ngũ là vị của vua
Hào lục là vị của Trời.
Hào ngũ là vị trí của vua, không nên động khắc hào Thế, vì như thế thì năm đó chịu bóc lột của triều đình. Nếu lâm Tài Phúc sinh hợp hào Thế tất được ân của vua, hoá ra Phụ Mẫu thường có ân xá, lâm Không động tất có danh mà không thực. Hào lục là Trời, nếu lâm Không năm ấy tất nhiều việc quái dị, vì vốn Trời không có lý xuất Không, nên chủ sự biến đổi lạ thường.
5.應亦為天剋世則天心不順
世還為地逢空則人物多災[/indent]
Ứng diệc vi Thiên, khắc Thế tắc Thiên tâm bất thuận;
Thế hoàn vi Địa, phùng không tắc nhân vật đa tai
Ứng cũng là Trời, khắc Thế thì lòng Trời không thuận
Thế còn là Đất, gặp Không thì người vật nhiều tai ương.
Ứng hào lại là những quân bên ngoài Kinh, Thế hào lại là bản địa (chỉ vùng người xem đang ở)
6. 太歲逢凶乘旺有溫州之大颶
Thái Tuế phùng hung thừa vượng, hữu Ôn châu chi đại cụ
Thái Tuế gặp hung mà vượng có gió lớn ở Ôn châu[1].
Thái Tuế là chủ tinh của một năm, duy gặp Tử Tôn, Thê Tài là cát, lâm những nơi khác đều bất lợi. Như lâm Huynh động thì năm đó nhiều gió, khắc Thế thì tai hoạ về gió bão.
[1] Tên phủ ở Triết Giang Trung quốc, đây dùng để chỉ miền đất đang ở. Dung từ Ôn châu để đối với Hán tẩm ở vế sau (câu 7).
7. 流年直鬼帶刑成漢寢之轟雷
Lưu niên trị Quỷ đới hình, thành Hán tẩm chi oanh lôi.
Lưu niên gặp Quan quỷ nên sấm sét trên đất Hán.
Thái Tuế lâm Quan Quỷ động , nhiều sấm sét tai hoạ. Sáu hào không có Quan, niên nguyệt không trị Quan , hoặc Quan suy tuyệt đều tốt.
8. 發動妻財旱若成湯之日
交重父母潦如堯帝之時
Phát động Thê Tài, hạn nhược Thành Thang chi nhật
Giao trùng Phụ Mẫu, lạo như Nghiêu đế chi thì.
Thê Tài phát động thì trời hạn như thời vua Thành Thang
Phụ Mẫu động thì lụt như thời vua Nghiêu.
Thê Tài lâm Thái Tuế phát động mà hào Phụ suy nhược, tất chủ khô hạn. Nêu Phụ trì Thái Tuế phát động, Tử Tôn suy nhược chủ nước lớn.
9. 猛烈火官回祿興災於照應
Mãnh liệt hoả Quan hồi lộc hưng tai ư chiếu ứng
(Quan Quỷ thuộc Hoả vượng động thì ứng việc có hoả tai)
Quan Quỷ thuộc Hoả phát động chủ có hoả tai.
Hoả Quỷ phát động chủ có hoả tai, nếu với hào Thế vô can mà trở ngại, với hào Ứng thì hàng xóm bị hoả tai. Dùng nội ngoại quái mà luận xa hay gần.
10. 汪洋水鬼玄冥作禍於江淮
Uông dương thuỷ Quỷ, Huyền Minh tác hoạ ư giang hoài
Thuỷ Quỷ thì nước mênh mông, Huyền Minh[1] gây hoạ nơi sông lớn.
Thuỷ Quỷ phát động chủ có thuỷ tai, tại ngoại quái động thì ngập chìm ở nơi khác, ở nội quái động thì nước sông tràn ngập ở nơi gần, nếu không khắc Thế thì tuy ngập cũng vô sự.
11. 尤怕屬金四海干戈如鼎沸
Vưu phạ thuộc kim, tứ hải can qua giai đỉnh phất
Càng sợ nếu thuộc kim, bốn biển chiến tranh sùng sục.
Kim Quỷ phát động sợ có binh đao, xung khắc Ứng hào, sinh hợp với hào ngũthì triều đình chinh phạt, như ở ngoại quái lại thuộc cung khác, khắc hào ngũ hoặc khắc Thái Tuếthì ở ngoài xâm phạm đất nước. Hoặc lưỡng Quỷ đều động thì chẳng phải một nơi làm loạn, hoặc hoá hồi đầu khắc, nhưng Nhật thần Nguyệt kiến động hào khắc chế thì tuy có phản loạn mà chẳng hại. Nếu Quan hưu tù động thì là giặc cứơp.
12. 更嫌值土千門疫厲苦 符同
Cánh hiềm trị Thổ, thiên môn dịch lệ khổ phù đồng
Lại hiềm ở Thổ, khổ vì tai hoạ ôn dịch khắp ngàn nhà.
Thổ Quỷ phát động lại lâm Bạch Hổ đều chủ ôn dịch, nếu khắc Thế thì người mắc bệnh chết nhiều, có chế thì chẳng hại gì.
13. 逢朱雀而化福爻財動則旱蝗 相繼
Phùng Chu Tước nhi hoá Phúc hào, Tài động tắc hạn hoàng tương kế
Gặp Chu Tước mà hoá Phúc Đức, Tài động thì hạn và sâu bọ kế tiếp nhau.
(Quỷ lâm Chu Tước động,hình khắc Thế Thân chủ có tai hoạ sâu bọ, vì vốn Chu Tước (chim sẻ đỏ) có thể bay được.
[1] tên thuỷ thần.
Thanked by 4 Members:
|
|
#36
Gửi vào 09/04/2012 - 18:26
14. 遇勾陳而加世位足興則饑饉相仍
Ngộ Câu Trần nhi gia Thế vị, túc hưng tắc cơ cận tương nhưng
Gặp Câu Trần lại ở Thế hào mà hưng động thì đói kém vô cùng.
Câu Trần chuyên chỉ điền thổ, Quan Quỷ gặp phải thì không phải là năm đầy đủ. Trì Thế, khắc Thế là năm thu hoạch kém. Tài hoá Huynh mà Quỷ cũng động tất đói kém vô cùng.
15. 莽興盜起由玄武之當官
Mãng hưng đạo khởi do Huyền Vũ chi đương Quan
Giặc cướp nổi lên do Huyền Vũ ở cung Quan.
Quan Quỷ có Huyền Vũ động khắc hào Thế, năm đó tất nhiều giặc cướp. Nếu thuộc Kim xung khắc Tuế quân hoặc hào Ngũ, động chuyện binh đao rối loạn khắp nơi để chống đối với triều đình.
16. 災沴異多因螣蛇之御世
Tai lệ dị đa nhân Đằng Xà chi ngự Thế
Nhiều tai ương nhân vì Đằng Xà ở Thế.
Đằng Xà là thần quái dị, ở hào Lục động tuy không phải Quan Quỷ cũng chủ có biến đổi lạ thường. Nếu Quan Quỷ ở hào lục động tuy không có Đằng Xà cũng chủ biến đổi lạ lùng.
17, 若在乾宮天鼓兩鳴於元末
Nhược tại Càn cung, thiên cổ lưỡng minh ư Nguyên mạt
Nếu ở cung Càn, trống trời trổi lên cuối triều Nguyên.
Đằng Xà ở Quan hào động, nếu ở cung Càn , chủ có trống trời nổi lên lạ thường. Dùng ngũ hành để phân biệt, như hào Kim là Tử Tôn hoặc hoá thành quẻ đoài thì có lạ tường về tinh tú. Ngoài ra cứ phỏng theo như thế.
18. 如 當震卦雷霆獨異於國初
Như đương Chấn quái, lôi đình độc dị ư quốc sơ
Nếu ở quẻ Chấn, sấm sét lạ thường buổi dựng nước.
Đằng Xà là Quan Quỷ động thuộc cung Chấn, thì có sấm sét lạ thường. Nếu vào mùa hè thu không có mây mà sấm sét. Quẻ Chấn là rồng, nếu ở Thìn hoặc hoá Thìn chủ có rồng xuất hiện.
19. 艮主山崩臨應則宋都有五石之隕
Cấn chủ sơn băng, lâm Ứng tắc Tống đô hữu ngũ thạch chi vẫn
Cấn chủ núi đổ, lâm Ứng tất như kinh đô nhà Tống có vẫn thạch rơi xuống.
Đằng Xà là Quan Quỷ ở cung Cấn động, chủ có núi sụp đổ, như vào niên hiệu Nguyên Thống[1] núi sập thành bình địa chẳng hạn.
[1] Niên hiệu vào đời Thuận Đế nhà Nguyên.
20. 坤為地震帶刑則懷仁有二所之崩
Khôn vi địa chấn, đới hình tắc Hoài Nhân hữu nhị sở chi băng
Khôn là địa chấn, bị hình tất Hoài Nhân[2] có hai núi bị sập.
Đằng Xà Quỷ thuộc cung Khôn mà động chủ có địa chấn, thuộc Kim thì có tiếng vang, bị Hình thì đất nức. Khôn là trâu, Quỷ lâm Sửu động tất trâu lạ thường. Hai quẻ Càn Khôn là việc lạ của người không phải của vật, như đàn bà mọc râu, đàn ông mang thai, cuối đời Nguyên có những việc lạ thường này.
[2] Hoài Nhânlà tên phủ thuộc tỉnh Sơn Tây Trung Quốc.
21. 坎化父爻雨血雨毛兼雨土
Khảm hoá Phụ hào, vũ huyết vũ mao kiêm vũ thổ
Khảm hoá Phụ thì mưa máu, mưa lông cùng mưa đất.
Quan Quỷ mang Đằng Xà thuộc quẻ Khảm động hoá Phụ đều đoán mưa. Mưa máu, mưa lông cùng mưa đất đều là chuyện lạ cuỗi đời Nguyên.
22. 巽連兄弟風紅風黑及風旋
Tốn liên Huynh Đệ, phong hồng, phong hắc cập phong toàn
Tốn dính với Huynh Đệ thì gió đỏ, gió đen cùng gió xoáy.
Quan quỷ có Đằng Xà thuộc cung Tốn, động hoá Huynh Đệ chủ có gió lạ thường. Thời Nguyên Đế có gió đen. Nếu không hoá Huynh chớ đoán là gió, mà là lạ thường về thảo mộc cầm thú. Thời Xuân thu, chim nghịch bay lui; trong kho đời Đường tiền hoá thành bướm.
23. 日生黑子宋恭驚離象之反常
Nhật sinh hắc tử, Tống Cung kinh Li tượng chi phản thường
Đời Cung Đế đời Tống, mặt trời sinh vết đen, lạ thường thuộc cung Li.
Đằng Xà Quan Quỷ thuộc cung Ly động, chủ có lạ thường về mặt trời. Như thời Cung Đế nhà Tống mặt trời sinh vết đen. Nếu lâm Ngọ thì có lửa lạ thường. Như vào niên hiệu Đại Đức lửa từ trên không xuống thiêu cháy lúa má.
24. 沼起白龍唐玄遭兌金之變異
Chiểu khởi bạch long, Đường Huyền tao Đoài kim chi biến dị
Gặp cung Đoài thuộc Kim thì biến đổi lạ lùng như thời Huyền Tông nhà Đường có rồng trắng từ ao nổi lên.
Đoài là đầm, chủ giếng, ao. Nếu Đằng Xà ở Quỷ thuộc cung Đoài động thì như thời Đường Huyền Tông có rồng trắng trong ao bay lên không trung; trong giếng sau điện của thái tử của vua Thuận Đế nhà Nguyên, trong giếng mới có rồng xuất hiện, phát ánh sáng biến ảo khôn lường, cung nhân nhìn thấy chẳng ai không khiếp sợ.
25. 發動空亡乃驗天書之詐
Phát động Không vong nãi nghiệm thiên thư chi trá
Phát động mà lâm Không là như chuyện giả trá của thiên thư.
Đằng Xà ở trên đã phát động mà không lâm Không, hoá Không thì quái dị có thể có, nhưng nếu gặp xung gặp Không thì giả trá, nói không thực, như chuyện đời Tống Chân Tông có thiên thư từ trên trời giáng xuống.
26. 居臨內卦定成黑眚之妖
Cư lâm nội quái định thành hắc sảnh chi yêu
Ở nội quái thì thành yêu nghiệt màu đen.
Đằng Xà Quỷ tại nội quái của bản cung, yêu quái hiện trong nhà, như thời Tống Chân Tông có yêu quái đen hiện ở góc sân,
Ngộ Câu Trần nhi gia Thế vị, túc hưng tắc cơ cận tương nhưng
Gặp Câu Trần lại ở Thế hào mà hưng động thì đói kém vô cùng.
Câu Trần chuyên chỉ điền thổ, Quan Quỷ gặp phải thì không phải là năm đầy đủ. Trì Thế, khắc Thế là năm thu hoạch kém. Tài hoá Huynh mà Quỷ cũng động tất đói kém vô cùng.
15. 莽興盜起由玄武之當官
Mãng hưng đạo khởi do Huyền Vũ chi đương Quan
Giặc cướp nổi lên do Huyền Vũ ở cung Quan.
Quan Quỷ có Huyền Vũ động khắc hào Thế, năm đó tất nhiều giặc cướp. Nếu thuộc Kim xung khắc Tuế quân hoặc hào Ngũ, động chuyện binh đao rối loạn khắp nơi để chống đối với triều đình.
16. 災沴異多因螣蛇之御世
Tai lệ dị đa nhân Đằng Xà chi ngự Thế
Nhiều tai ương nhân vì Đằng Xà ở Thế.
Đằng Xà là thần quái dị, ở hào Lục động tuy không phải Quan Quỷ cũng chủ có biến đổi lạ thường. Nếu Quan Quỷ ở hào lục động tuy không có Đằng Xà cũng chủ biến đổi lạ lùng.
17, 若在乾宮天鼓兩鳴於元末
Nhược tại Càn cung, thiên cổ lưỡng minh ư Nguyên mạt
Nếu ở cung Càn, trống trời trổi lên cuối triều Nguyên.
Đằng Xà ở Quan hào động, nếu ở cung Càn , chủ có trống trời nổi lên lạ thường. Dùng ngũ hành để phân biệt, như hào Kim là Tử Tôn hoặc hoá thành quẻ đoài thì có lạ tường về tinh tú. Ngoài ra cứ phỏng theo như thế.
18. 如 當震卦雷霆獨異於國初
Như đương Chấn quái, lôi đình độc dị ư quốc sơ
Nếu ở quẻ Chấn, sấm sét lạ thường buổi dựng nước.
Đằng Xà là Quan Quỷ động thuộc cung Chấn, thì có sấm sét lạ thường. Nếu vào mùa hè thu không có mây mà sấm sét. Quẻ Chấn là rồng, nếu ở Thìn hoặc hoá Thìn chủ có rồng xuất hiện.
19. 艮主山崩臨應則宋都有五石之隕
Cấn chủ sơn băng, lâm Ứng tắc Tống đô hữu ngũ thạch chi vẫn
Cấn chủ núi đổ, lâm Ứng tất như kinh đô nhà Tống có vẫn thạch rơi xuống.
Đằng Xà là Quan Quỷ ở cung Cấn động, chủ có núi sụp đổ, như vào niên hiệu Nguyên Thống[1] núi sập thành bình địa chẳng hạn.
[1] Niên hiệu vào đời Thuận Đế nhà Nguyên.
20. 坤為地震帶刑則懷仁有二所之崩
Khôn vi địa chấn, đới hình tắc Hoài Nhân hữu nhị sở chi băng
Khôn là địa chấn, bị hình tất Hoài Nhân[2] có hai núi bị sập.
Đằng Xà Quỷ thuộc cung Khôn mà động chủ có địa chấn, thuộc Kim thì có tiếng vang, bị Hình thì đất nức. Khôn là trâu, Quỷ lâm Sửu động tất trâu lạ thường. Hai quẻ Càn Khôn là việc lạ của người không phải của vật, như đàn bà mọc râu, đàn ông mang thai, cuối đời Nguyên có những việc lạ thường này.
[2] Hoài Nhânlà tên phủ thuộc tỉnh Sơn Tây Trung Quốc.
21. 坎化父爻雨血雨毛兼雨土
Khảm hoá Phụ hào, vũ huyết vũ mao kiêm vũ thổ
Khảm hoá Phụ thì mưa máu, mưa lông cùng mưa đất.
Quan Quỷ mang Đằng Xà thuộc quẻ Khảm động hoá Phụ đều đoán mưa. Mưa máu, mưa lông cùng mưa đất đều là chuyện lạ cuỗi đời Nguyên.
22. 巽連兄弟風紅風黑及風旋
Tốn liên Huynh Đệ, phong hồng, phong hắc cập phong toàn
Tốn dính với Huynh Đệ thì gió đỏ, gió đen cùng gió xoáy.
Quan quỷ có Đằng Xà thuộc cung Tốn, động hoá Huynh Đệ chủ có gió lạ thường. Thời Nguyên Đế có gió đen. Nếu không hoá Huynh chớ đoán là gió, mà là lạ thường về thảo mộc cầm thú. Thời Xuân thu, chim nghịch bay lui; trong kho đời Đường tiền hoá thành bướm.
23. 日生黑子宋恭驚離象之反常
Nhật sinh hắc tử, Tống Cung kinh Li tượng chi phản thường
Đời Cung Đế đời Tống, mặt trời sinh vết đen, lạ thường thuộc cung Li.
Đằng Xà Quan Quỷ thuộc cung Ly động, chủ có lạ thường về mặt trời. Như thời Cung Đế nhà Tống mặt trời sinh vết đen. Nếu lâm Ngọ thì có lửa lạ thường. Như vào niên hiệu Đại Đức lửa từ trên không xuống thiêu cháy lúa má.
24. 沼起白龍唐玄遭兌金之變異
Chiểu khởi bạch long, Đường Huyền tao Đoài kim chi biến dị
Gặp cung Đoài thuộc Kim thì biến đổi lạ lùng như thời Huyền Tông nhà Đường có rồng trắng từ ao nổi lên.
Đoài là đầm, chủ giếng, ao. Nếu Đằng Xà ở Quỷ thuộc cung Đoài động thì như thời Đường Huyền Tông có rồng trắng trong ao bay lên không trung; trong giếng sau điện của thái tử của vua Thuận Đế nhà Nguyên, trong giếng mới có rồng xuất hiện, phát ánh sáng biến ảo khôn lường, cung nhân nhìn thấy chẳng ai không khiếp sợ.
25. 發動空亡乃驗天書之詐
Phát động Không vong nãi nghiệm thiên thư chi trá
Phát động mà lâm Không là như chuyện giả trá của thiên thư.
Đằng Xà ở trên đã phát động mà không lâm Không, hoá Không thì quái dị có thể có, nhưng nếu gặp xung gặp Không thì giả trá, nói không thực, như chuyện đời Tống Chân Tông có thiên thư từ trên trời giáng xuống.
26. 居臨內卦定成黑眚之妖
Cư lâm nội quái định thành hắc sảnh chi yêu
Ở nội quái thì thành yêu nghiệt màu đen.
Đằng Xà Quỷ tại nội quái của bản cung, yêu quái hiện trong nhà, như thời Tống Chân Tông có yêu quái đen hiện ở góc sân,
Thanked by 4 Members:
|
|
#37
Gửi vào 09/04/2012 - 18:28
27. 欲知天變於何方須究地支而分野
Dục tri thiên biến ư hà phương, tu cứu địa chi nhi phân dã
Muốn biết trời biến đổi ở phương nào, phải xem Địa chi mà phân vùng.
Phàm gặp tượng biến đổi lạ thường, cần xem hiện ở phương nào, để biết phương nào bị hại mà định. Như Tí là vùngTề, Sửu là vùng Ngô, Dần là vùng Yên…
28. 身持福德其年必獲休祥
Thân trì Phúc Đức, kỳ niên tất hoạch hưu tường
Thân ở Phúc Đức thì năm đó tất được tốt lành.
Tử Tôn là Phúc Đức sinh Tài khắc Quỷ, nếu vượng động thì năm được mùa, nước yên dân vui, thái bình quan thanh liêm, vạn vật hanh thông.
29. 世受刑傷此歲多遭驚怪
Thế thụ hình thương, thử tuế đa tao kinh quái
Thế chịu hình thương, năm đó gặp nhiều quái sợ.
Thế là hào chủ của niên thời, trăm họ, cày cấy, ngũ cốc, lục súc đều dựa vào nơi đó. Nếu Thế lâm Tài Phúc vượng tướng thì vừa lòng. Nếu bị Tuế, Nguyệt, Nhật cùng động hào khắc thì nhiều kinh hiểm.
30. 年豐歲稔財福生旺而無傷
Niên phong tuế nẫm, Tài Phúc sinh vượng nhi vô thương
Năm được dồi dào vì Tài Phúc vượng mà không bị hình thương.
Tử Tôn đắc địa, Tài hào hữu khí chẳng lam Không, Huynh Quỷ đều suy tĩnh thì ắt năm được mùa dồi dào.
31. 冬暖夏凉水火休囚而莫助
Đông noãn Hạ lương, Thuỷ Hoả hưu tù nhi mạc trợ
Đông ấm, Hạ mát bì Thuỷ, Hoả hưu tù mà chẳng được trợ giúp.
Dùng Tài, Phụ để xem hạn và lụt, hào Thuỷ, Hoả để xem lạnh nóng. Nếu Thủy lâm Không thì Đông tất ấm, Hoả ở Tử Tuyệt thì Hạ tất mát. Nếu vượng động khắc Thế thì cực nóng hoặc cực lạnh.
32. 他宮傷剋外番侵凌
Tha cung thương khắc ngoại phiên xâm lăng
Cung khác mà khắc hại thì nước bên ngoài xâm lấn.
Tha cung là nước bên ngoài, không có tha cung thì xem ngoại quái. Nếu khắc thương khắc bản cung thì nước ngoài đến xâm phạm. Ngoại sinh nội thì tiến cống nhiều.
33. 本卦休囚國家衰替
Bản quái hưu tù, quốc gia suy thế
Quẻ gốc hưu tù thì nước nhà suy tàn.
Bản quái là nước nhà, không có bản cung thì xem nội quái. Nếu vượng tướng thì quốc gia cường thịnh, vô khí thì nước nhà suy tàn.
34. 陰陽相合定然雨順風調
Âm Dương tương hợp định nhiên vũ thuận phong điều
Âm Dương hợp nhau thì mưa thuận gió hoà.
Phàn gặp Thế Ứng tương sinh, lục hào tương hợpnăm đó chủ mưa thuận gió hoà, lại được an tĩnh. Tài Phúc chẳng Không thì năm được mùa.
35. 兄鬼皆亡必主國泰民安
Huynh Quỷ giai vong, tất chủ dân an quốc thái
Huynh Quỷ đều Không tất chủ quốc thái dân an.
Huynh Đệ là thần bóc lột, phá bại, Quan Quỷ chủ hoạ hoạn tai ương. Huynh và Quỷ đều Không vong hoặc không có trong quẻ thì chủ quốc thái dân an,
36. 推 明天道能知萬象之森羅
識透玄機奚啻一年之休咎
Suy minh Thiên đạo, năng tri vạn tượng chi sâm la
Thức thấu huyền cơ, hề thí nhất niên chi hưu cựu
Suy rõ Thiên đạo thì có thể biết vạn vật bao la,
Thấu rõ huyền vi, sao chẳng rõ tốt xấu trong năm.
Dục tri thiên biến ư hà phương, tu cứu địa chi nhi phân dã
Muốn biết trời biến đổi ở phương nào, phải xem Địa chi mà phân vùng.
Phàm gặp tượng biến đổi lạ thường, cần xem hiện ở phương nào, để biết phương nào bị hại mà định. Như Tí là vùngTề, Sửu là vùng Ngô, Dần là vùng Yên…
28. 身持福德其年必獲休祥
Thân trì Phúc Đức, kỳ niên tất hoạch hưu tường
Thân ở Phúc Đức thì năm đó tất được tốt lành.
Tử Tôn là Phúc Đức sinh Tài khắc Quỷ, nếu vượng động thì năm được mùa, nước yên dân vui, thái bình quan thanh liêm, vạn vật hanh thông.
29. 世受刑傷此歲多遭驚怪
Thế thụ hình thương, thử tuế đa tao kinh quái
Thế chịu hình thương, năm đó gặp nhiều quái sợ.
Thế là hào chủ của niên thời, trăm họ, cày cấy, ngũ cốc, lục súc đều dựa vào nơi đó. Nếu Thế lâm Tài Phúc vượng tướng thì vừa lòng. Nếu bị Tuế, Nguyệt, Nhật cùng động hào khắc thì nhiều kinh hiểm.
30. 年豐歲稔財福生旺而無傷
Niên phong tuế nẫm, Tài Phúc sinh vượng nhi vô thương
Năm được dồi dào vì Tài Phúc vượng mà không bị hình thương.
Tử Tôn đắc địa, Tài hào hữu khí chẳng lam Không, Huynh Quỷ đều suy tĩnh thì ắt năm được mùa dồi dào.
31. 冬暖夏凉水火休囚而莫助
Đông noãn Hạ lương, Thuỷ Hoả hưu tù nhi mạc trợ
Đông ấm, Hạ mát bì Thuỷ, Hoả hưu tù mà chẳng được trợ giúp.
Dùng Tài, Phụ để xem hạn và lụt, hào Thuỷ, Hoả để xem lạnh nóng. Nếu Thủy lâm Không thì Đông tất ấm, Hoả ở Tử Tuyệt thì Hạ tất mát. Nếu vượng động khắc Thế thì cực nóng hoặc cực lạnh.
32. 他宮傷剋外番侵凌
Tha cung thương khắc ngoại phiên xâm lăng
Cung khác mà khắc hại thì nước bên ngoài xâm lấn.
Tha cung là nước bên ngoài, không có tha cung thì xem ngoại quái. Nếu khắc thương khắc bản cung thì nước ngoài đến xâm phạm. Ngoại sinh nội thì tiến cống nhiều.
33. 本卦休囚國家衰替
Bản quái hưu tù, quốc gia suy thế
Quẻ gốc hưu tù thì nước nhà suy tàn.
Bản quái là nước nhà, không có bản cung thì xem nội quái. Nếu vượng tướng thì quốc gia cường thịnh, vô khí thì nước nhà suy tàn.
34. 陰陽相合定然雨順風調
Âm Dương tương hợp định nhiên vũ thuận phong điều
Âm Dương hợp nhau thì mưa thuận gió hoà.
Phàn gặp Thế Ứng tương sinh, lục hào tương hợpnăm đó chủ mưa thuận gió hoà, lại được an tĩnh. Tài Phúc chẳng Không thì năm được mùa.
35. 兄鬼皆亡必主國泰民安
Huynh Quỷ giai vong, tất chủ dân an quốc thái
Huynh Quỷ đều Không tất chủ quốc thái dân an.
Huynh Đệ là thần bóc lột, phá bại, Quan Quỷ chủ hoạ hoạn tai ương. Huynh và Quỷ đều Không vong hoặc không có trong quẻ thì chủ quốc thái dân an,
36. 推 明天道能知萬象之森羅
識透玄機奚啻一年之休咎
Suy minh Thiên đạo, năng tri vạn tượng chi sâm la
Thức thấu huyền cơ, hề thí nhất niên chi hưu cựu
Suy rõ Thiên đạo thì có thể biết vạn vật bao la,
Thấu rõ huyền vi, sao chẳng rõ tốt xấu trong năm.
Thanked by 4 Members:
|
|
#38
Gửi vào 09/04/2012 - 18:29
Chương 9
THÂN MỆNH
身 命
1.乾 坤 定 位 人 物 肇 生
感 陰 陽 而 化 育分 智 愚 于 濁 清
既富 且 壽 世 爻 旺 相 更 無 傷
非 夭 必 貧 身 位 休 囚 兼 受 制
Càn Khôn định vị, nhân vật triệu sinh,
Cảm âm dương nhi hoá dục, phân trí ngu vu trọc thanh.
Ký phú thả thọ, Thế hào vượng tướng cánh vô thương,
Phi yểu tất bần, Thân vị hưu tù kiêm thụ chế.
Càn Khôn định vị, người vật bắt đầu sinh
Chịu âm dương để biến đổi nuôi nấng – Phân trí ngu tuỳ ở trọc hay thanh
Đã giàu lại thọ vì Thế hào vượng tướng chẳng bị thương,
Chẳng yểu thì nghèo vì Thân vị hưu tù cùng bị thụ chế
Người sinh ra ở đời, muốn biết thuộc hạng nào, quí hay tiện cao hay thấp đều lấy Thế hào làm chủ. Vượng tướng lại được Nhật thần, động hào sinh hợp, tất chủ người này giàu sang, phúc thọ. Nếu hưu tù vô khí mà bị Nhật thần, động hào khắc chế thì người này không nghèo cũng yểu.
2. 世 居 空 地 終 身 作 事 無 成
身 入 墓 爻 到 老 求 謀 多 戾
Thế cư Không địa, chung thân tác sự vô thành,
Thân nhập Mộ hào, đáo lão cầu mưu đa lệ.
Thế lâm Không, suốt đời làm việc chẳng thành
Thân nhập Mộ, đến già mưu sự vẫn ngang trái
Phàm xem Thân mệnh, đại kỵ Thế Thân lâm Không, chủ suốt đời làm việc chẳng thành. Nếu Thế Thân nhập Mộ , chủ người này như say như mê, không lanh lợi, mọi mưu tính ít thành tựu.
3. 卦 中 衰弱 根 基 淺
爻 象 豐 隆 命 運 高
Quái cung suy nhược căn cơ thiển,
Hào tượng phong long mệnh vận cao.
Quẻ suy nhược thì căn cơ kém
Hào tượng vượng thì mệnh vận tốt
Vốn căn nguyên của người ta liên hệ ở quẻ, hung cát của mệnh dựa vào hào. Cho nên quẻ vô khí thì căn cơ kém, tào tượng được thời thì mệnh vận cao.
4. 若 問 成 家 嫌 六 冲 為 卦
要 知 創 業 喜 六 合 之 成 爻
Nhược vấn thành gia hiềm Lục xung vi quái
Yếu tri sáng nghiệp hỉ Lục hợp chi thành hào.
Nếu hỏi việc thành gia nghiệp, ngại gặp quẻ Lục xung.
Cần biết sáng tạo sự nghiệp, mừng được quẻ Lục hợp
Gặp quẻ Lục xung tất chủ công việc có đầu không đuôi; được quẻ Lục hợp là người từng trải, mở mang được cơ nghiệp. Gặp xung trung phùng hợp thì về sau mới thành tựu, hợp xứ phùng xung thì về sau thất bại.
5. 動 身 自 旺 獨 力 撑 持
衰 世 遇 扶 人 人 創 立
Động Thân tự vượng, độc lực sanh trì
Suy Thế ngộ phù, nhân nhân sáng nghiệp
Thân động tự vượng, thì một mình gắng sức gây dựng,
Thế suy được phù, nhờ người tạo nghiệp
Thế hào không đựơc sinh phò mà tự cường vượng phát động tức tay trắng tạo được cơ nghiệp, không ai giúp đỡ. Nếu vô khí mà được Nhật Nguyệt ,động hào sinh phò, tất được người nâng đỡ mà tạo được sự nghiệp.
6. 日 時 合 助 一 生 偏 得 小 人 心
歲 月 剋 冲 半 世 未 沾 君 子 德
Nhật thời hợp trợ, nhất sinh thiên đắc tiểu nhân tâm
Tuế Nguyệt khắc xung, bán thế vị triêm quân tử đức.
Ngày, giờ hợp trợ suốt đời được lòng tiểu nhân
Tuế Nguyệt khắc xung, hết nửa đời chưa được hưởng đức quân tử
Thế hào gặp Niên, Nguyệt, Nhật sinh hợp tất được quí nhân thân ái, tiểu nhân kính cẩn. Nếu bị xung khắc, khó tránh được khinh thường. Như hào Phụ hợp tất được phụ ấm, hào Huynh khắc tất chịu rắc rối về anh em.
7. 遇 龍 子 而 無 氣 縱 清 高 亦 是 寒 儒
Ngộ Long Tử nhi vô khí, túng thanh cao diệc thị hàn nho
Tử gặp Thanh Long mà vô khí thì cũng chỉ là hàn nho thanh cao
Tử Tôn có Thanh Long mà trì Thế tất có chí cao xa, không thích công danh phú quí. Như Thiệu Khang Tiết , Đào Uyên Minh… Tử Tôn vô khí là kẻ sĩ siêu quần sống xa đời.
8. 逢 虎 妻 而 旺 強 雖 鄙 俗 偏 為 富 客
Phùng Hổ Thê nhi vượng cường, tuy bỉ tục thiên vi phú khách
Hổ ở Thê mà cường vượng, tuy hủ lậu nhưng là kẻ giàu có
Bạch Hổ lâm ở Tài vượng mà trì Thế , người này tuy không biết lễ nghĩa, nhưng nhà đầy đủ như bọn Lý Trừng, Tiêu Sùng. Tài vượng mà bị chế hoặc phục cũng chẳng thông văn chương.
9. 父 母 持 身 辛 勤 勞 碌
鬼 爻 持 世 疾 病纏 綿
遇 兄 則 財 莫 能 聚
遇 子 則 身 不 犯 刑
Phụ Mẫu trì Thân, tân cần lao lục
Quỷ hào trì Thế, bệnh tất triền miên
Ngộ Huynh tắc tài mạc năng tụ
Ngộ Tử tắc thân bất phạm hình.
Phụ Mẫu trì Thân, chăm lo vất vả
Hào Quỷ trì Thế, tật bệnh triền miên
Gặp Huynh thì tiền bạc chẳng tụ
Gặp Tử thì thân chẳng hình tội
Phụ Mẫu trì Thế chủ thân vvất vả chăm lo, động thì khắc thương Tử Tôn. Quan là tai hoạ, gặp phải là chủ mang tật bệnh hoặc rước quan tụng. Nếu có Quí Nhân cùng lâm tất tốt. Huynh là thần phá tài, khắc thê ,lắm việc phá hao, suốt đời khó tụ tài. Gặp Tử Tôn không thể cầu danh, suốt đời chẳng phạm hình tội, an nhàn tự tại, y thực đầy đủ, rất sợ Tử Tôn hưu tù.
10. 祿 薄 而 遇 煞 冲 奔 走 於 東 西 道 路
Lộc bạc nhi ngộ sát xung, bôn tẩu ư đông tây đạo lộ
Lộc kém mà gặp sát xung, bôn tẩu khắp đông tây
Lấy Tài làm lộc. Nếu hào Tài lâm Tử Tuyệt vô khí tắc lộc kém, mà hào Thế lại bị ác thần xung động, không có cát thần cứu trợ, là mệnh vận hết sức thấp kém.
Thanked by 4 Members:
|
|
#39
Gửi vào 09/04/2012 - 18:31
11. p福 輕 而逢 凶 制 寄 实 於 南 北 人 家
Phúc khinh nhi phùng hung chế, ký thực vu nam bắc nhân gia
Phúc bạc mà bị hung chế, ăn nhờ nhà người ta khắp bắc nam
Hào Tử nếu bị Tử, Mộ, Tuyệt, Không ấy là Phúc kém, mà hào Thế lại bị khắc chế là bị người ta chế phục , tất chủ ăn nhờ ở người khác.
12. 子 死 妻 空 絕 俗 離 塵 之 輩
Tử Tử, Thê Không, tuyệt tục li trần chi bối
Tử gặp Tử, Thê lâm Không là bọn xa lánh cõi đời
Hào Phúc là Tử Tôn, hào Tài là Thê, nếu lâm vào Tử Mộ Tuyệt Không là điều hình táng vợ con, tất xa lánh cõi đời.
13. 貴 臨 祿 到 出 將 入 相 之 人
Quí lâm Lộc đáo, xuất tướng nhập tướng chi nhân
Quí nhân đến, Lộc Mã lâm là người xuất tướng nhập tướng[1]
Quí Nhân, Lộc Mã vượng lâm Thân Thế mà Quan Quỷ, Phụ Mẫu lại đến phò trợ, hoặc Nhật thần, Nguyệt kiến sinh hợp là điềm xuất tướng nhập tướng, là người phú quí hết sức.
[1] Ra ngoài biên cương là đại tướng, vào chốn triều đình là thừa tướng
14. 朱 雀 與 福 德 臨 身 合 應 乃 梨 園 之 子 弟
Chu Tước dữ Phúc Đức lâm Thân hợp ứng nãi lê viên tử đệ
Chu Tước với Phúc Đức lâm Thân, hợp với Ứng là con cháu phường hát
Tử Tôn là thần vui vẻ, Chu Tước lại giỏi về ăn nói, nếu lâm Thân Thế mà sinh hợpvới Ứng hào là làm vui cho người khác, cho nên là con em phường hát, không phải thế thì là người linh lợi.
15. 白 虎 同 父 爻 持 世 逢 金 則 柳 市 屠 人
Bạch Hổ đồng Phụ hào trì Thế phùng Kim tắc liễu thị đồ nhân
Bạch Hổ cùng hào Phụ trì Thế mà ở hào Kim là bọn đồ tể ở chợ
Phụ Mẫu thuộc Kim, mang Bạch Hổ mà trì Thế là bọn giết heo dê. Vốn Bạch Hổ thuộc Kim là dao, mà Phụ Mẫu khắc Tử Tôn, Tử Tôn là lục súc cho nên mới bảo là đồ tể.
16. 世 加 玄 武 官 爻 必 然 梁 上 之 君 子
身 帶 勾 陳 父 母 定 為 野 外 之 農 夫
Thế gia Huyền Vũ Quan hào, tất nhiên lương thượng chi quân tử
Thân đới Câu Trần Phụ Mẫu, định vi dã ngoại chi nông phu
Thế ở hào Quan có Huyền Vũ là tên ăn trộm
Thân mang Câu Trần ở Phụ Mẫu là nông phu ngoài đồng
Huyền Vũ thuộc Quan Quỷ chủ đạo tặc, nếu lâm Thân Thế là bọn trộm cướp. Câu trần chuyên coi điền thổ, ở Phụ Mẫu là hào tân khổ, nếu trì Thế là người chuyên việc cày cấy.
17. 財 福 司 權 榮 華 有 日
官 兄 秉 政 破 敗 無 常
Tài Phúc ti quyền vinh hoa hữu nhật
Quan Huynh bỉnh chính phá bại vô thường
Tài Phúc nắm quyền, có ngày vinh hoa
Quan Huynh nắm quyền, phá bại không chừng.
Nếu được hai hào Tài, Phúc vượng tướng động, nếu trước mắt trì trệ nhưng cuối cùng cũng phát đạt. Nếu có Quan, Huynh nắm quyền vượng động , tuy trước mắt hưởng lợi, cùng có lúc phá bại nghèo hèn.
18. 卦 卜 中 年 凶 煞 幸 無 挫 折
如 占 晚 景 惡 星 尤 怕 攻 冲
Quái bốc trung niên, hung sát hạnh vô toả chiết
Như chiêm vãn cảnh, ác tinh vưu phạ công xung.
Quẻ xem lúc trung niên gặp hung sát cũng may chẳng bẽ gãy được
Nếu xem lúc già cả, càng sợ ác tinh xung phá.
Nếu quẻ xem vận trung niên, như hỏi về tài lộc tất cần hai hào Tài và Phúc vượng tướng, nếu phát động sinh Thân hoặc trì Thế , được Nhật Nguyệt sinh hợp, lại không có động hào hình xung khắc hại Thế Thân, ấy tấ Thê Tài, Tử Tôn không bị hình khắc phá hao. Nếu xem công danh lúc trung niên, không nên Tử Tôn phát động, Thế trì hào Quan mà không có Nhật Nguyệt, động hào xung khắc hại, được Nhật Nguyệt, động hào sinh phò củng hợp, lại được hào cửu ngũ sinh hợp, tất đã là quan mà thăng tiến nữa. Nếu xem sinh con, không nên hào Tử Tôn Không Phục Mộ Tuyệt, Nhật Nguyệt, động hào khắc Tử Tôn; nếu lại được Nhật Nguyệt động hào sinh phò đề bạt, tất đoán năm sinh phò đề bạ sẽ sinh con.
Nếu xem kết cục lúc tuổi già, sợ nhất là Thế hào hưu tù. bị Nhật Nguyệt, động hào khắc xung. Nếu được Tử Tôn động sinh Thế, tất chủ lúc già có con có cháu, có phước được con cháu hiếu kính. Nếu hào Tài được hợp mà không bị xung, thì vợ chồng hoà thuận. Nếu Tử Tôn khắc Thế mà Thế hào vượng tướng thì tuy thọ mà con cháu ngỗ nghịch. Nếu Tử Tôn Không Tuyệt mà chẳng được cứu, hào Tài vô khí thì tuổi già cô đơn. Nếu lại hỏi về tuổi thọ, hào sinh Thế là tuổi thọ. Hào sinh Thế bị năm nào đó hình xung khắc hại, lại xem năm tháng nào xung khắc hào Thế, tất năm đó hết tuổi thọ.
Dịch Lâm Bổ Di định ra đại hạn và tiểu hạn. Với tiểu hạn, mỗi hào coi một năm. Chánh quái coi 30 năm trước, biến quái coi 30 năm sau, hỗ quái lại cọi 60 năm sau. Ta thường xem mà thấy chẳng nghiệm, nên thấy là lầm lẫn cần chỉ rõ cho người học.
19. 正 卦 不 利 李 密 髫 齡 迍 邅
Chính quái bất lợi, Lý Mật thiều linh truân chiên
Chánh quái bất lợi, Lý Mật tuổi nhỏ truân chiên
Chánh quái để đoán việc trước, nếu chánh quái hung thì quá khứ nhiều đau khổ.
20. 支 卦 有 扶 馬 援 期 頤 矍 鑠
Chi quái hữu phù, Mã Viện kỳ di quắc thước
Biến quái được phò, Mã Viện tuổi già quắc thước
Chi quái là biến quái, xem việc về sau, nếu biến ra sinh phò thì tương lai mạnh mẽ hưởng phúc.
Phúc khinh nhi phùng hung chế, ký thực vu nam bắc nhân gia
Phúc bạc mà bị hung chế, ăn nhờ nhà người ta khắp bắc nam
Hào Tử nếu bị Tử, Mộ, Tuyệt, Không ấy là Phúc kém, mà hào Thế lại bị khắc chế là bị người ta chế phục , tất chủ ăn nhờ ở người khác.
12. 子 死 妻 空 絕 俗 離 塵 之 輩
Tử Tử, Thê Không, tuyệt tục li trần chi bối
Tử gặp Tử, Thê lâm Không là bọn xa lánh cõi đời
Hào Phúc là Tử Tôn, hào Tài là Thê, nếu lâm vào Tử Mộ Tuyệt Không là điều hình táng vợ con, tất xa lánh cõi đời.
13. 貴 臨 祿 到 出 將 入 相 之 人
Quí lâm Lộc đáo, xuất tướng nhập tướng chi nhân
Quí nhân đến, Lộc Mã lâm là người xuất tướng nhập tướng[1]
Quí Nhân, Lộc Mã vượng lâm Thân Thế mà Quan Quỷ, Phụ Mẫu lại đến phò trợ, hoặc Nhật thần, Nguyệt kiến sinh hợp là điềm xuất tướng nhập tướng, là người phú quí hết sức.
[1] Ra ngoài biên cương là đại tướng, vào chốn triều đình là thừa tướng
14. 朱 雀 與 福 德 臨 身 合 應 乃 梨 園 之 子 弟
Chu Tước dữ Phúc Đức lâm Thân hợp ứng nãi lê viên tử đệ
Chu Tước với Phúc Đức lâm Thân, hợp với Ứng là con cháu phường hát
Tử Tôn là thần vui vẻ, Chu Tước lại giỏi về ăn nói, nếu lâm Thân Thế mà sinh hợpvới Ứng hào là làm vui cho người khác, cho nên là con em phường hát, không phải thế thì là người linh lợi.
15. 白 虎 同 父 爻 持 世 逢 金 則 柳 市 屠 人
Bạch Hổ đồng Phụ hào trì Thế phùng Kim tắc liễu thị đồ nhân
Bạch Hổ cùng hào Phụ trì Thế mà ở hào Kim là bọn đồ tể ở chợ
Phụ Mẫu thuộc Kim, mang Bạch Hổ mà trì Thế là bọn giết heo dê. Vốn Bạch Hổ thuộc Kim là dao, mà Phụ Mẫu khắc Tử Tôn, Tử Tôn là lục súc cho nên mới bảo là đồ tể.
16. 世 加 玄 武 官 爻 必 然 梁 上 之 君 子
身 帶 勾 陳 父 母 定 為 野 外 之 農 夫
Thế gia Huyền Vũ Quan hào, tất nhiên lương thượng chi quân tử
Thân đới Câu Trần Phụ Mẫu, định vi dã ngoại chi nông phu
Thế ở hào Quan có Huyền Vũ là tên ăn trộm
Thân mang Câu Trần ở Phụ Mẫu là nông phu ngoài đồng
Huyền Vũ thuộc Quan Quỷ chủ đạo tặc, nếu lâm Thân Thế là bọn trộm cướp. Câu trần chuyên coi điền thổ, ở Phụ Mẫu là hào tân khổ, nếu trì Thế là người chuyên việc cày cấy.
17. 財 福 司 權 榮 華 有 日
官 兄 秉 政 破 敗 無 常
Tài Phúc ti quyền vinh hoa hữu nhật
Quan Huynh bỉnh chính phá bại vô thường
Tài Phúc nắm quyền, có ngày vinh hoa
Quan Huynh nắm quyền, phá bại không chừng.
Nếu được hai hào Tài, Phúc vượng tướng động, nếu trước mắt trì trệ nhưng cuối cùng cũng phát đạt. Nếu có Quan, Huynh nắm quyền vượng động , tuy trước mắt hưởng lợi, cùng có lúc phá bại nghèo hèn.
18. 卦 卜 中 年 凶 煞 幸 無 挫 折
如 占 晚 景 惡 星 尤 怕 攻 冲
Quái bốc trung niên, hung sát hạnh vô toả chiết
Như chiêm vãn cảnh, ác tinh vưu phạ công xung.
Quẻ xem lúc trung niên gặp hung sát cũng may chẳng bẽ gãy được
Nếu xem lúc già cả, càng sợ ác tinh xung phá.
Nếu quẻ xem vận trung niên, như hỏi về tài lộc tất cần hai hào Tài và Phúc vượng tướng, nếu phát động sinh Thân hoặc trì Thế , được Nhật Nguyệt sinh hợp, lại không có động hào hình xung khắc hại Thế Thân, ấy tấ Thê Tài, Tử Tôn không bị hình khắc phá hao. Nếu xem công danh lúc trung niên, không nên Tử Tôn phát động, Thế trì hào Quan mà không có Nhật Nguyệt, động hào xung khắc hại, được Nhật Nguyệt, động hào sinh phò củng hợp, lại được hào cửu ngũ sinh hợp, tất đã là quan mà thăng tiến nữa. Nếu xem sinh con, không nên hào Tử Tôn Không Phục Mộ Tuyệt, Nhật Nguyệt, động hào khắc Tử Tôn; nếu lại được Nhật Nguyệt động hào sinh phò đề bạt, tất đoán năm sinh phò đề bạ sẽ sinh con.
Nếu xem kết cục lúc tuổi già, sợ nhất là Thế hào hưu tù. bị Nhật Nguyệt, động hào khắc xung. Nếu được Tử Tôn động sinh Thế, tất chủ lúc già có con có cháu, có phước được con cháu hiếu kính. Nếu hào Tài được hợp mà không bị xung, thì vợ chồng hoà thuận. Nếu Tử Tôn khắc Thế mà Thế hào vượng tướng thì tuy thọ mà con cháu ngỗ nghịch. Nếu Tử Tôn Không Tuyệt mà chẳng được cứu, hào Tài vô khí thì tuổi già cô đơn. Nếu lại hỏi về tuổi thọ, hào sinh Thế là tuổi thọ. Hào sinh Thế bị năm nào đó hình xung khắc hại, lại xem năm tháng nào xung khắc hào Thế, tất năm đó hết tuổi thọ.
Dịch Lâm Bổ Di định ra đại hạn và tiểu hạn. Với tiểu hạn, mỗi hào coi một năm. Chánh quái coi 30 năm trước, biến quái coi 30 năm sau, hỗ quái lại cọi 60 năm sau. Ta thường xem mà thấy chẳng nghiệm, nên thấy là lầm lẫn cần chỉ rõ cho người học.
19. 正 卦 不 利 李 密 髫 齡 迍 邅
Chính quái bất lợi, Lý Mật thiều linh truân chiên
Chánh quái bất lợi, Lý Mật tuổi nhỏ truân chiên
Chánh quái để đoán việc trước, nếu chánh quái hung thì quá khứ nhiều đau khổ.
20. 支 卦 有 扶 馬 援 期 頤 矍 鑠
Chi quái hữu phù, Mã Viện kỳ di quắc thước
Biến quái được phò, Mã Viện tuổi già quắc thước
Chi quái là biến quái, xem việc về sau, nếu biến ra sinh phò thì tương lai mạnh mẽ hưởng phúc.
Thanked by 4 Members:
|
|
#40
Gửi vào 09/04/2012 - 18:32
21. 一 卦 和 同 張 公 藝 家 門 雍 睦
Nhất quái hòa đồng, Trương Công Nghệ gia môn ung mục
Một quẻ hoà đồng, Trương Công Nghệ cửa nhà hoà thuận
Xem thân mệnh mà sáu hào an tĩnh, không xung phá khắc hại, tướng sinh tương hợp, tất cửa nhà vui vẻ, như nhà Trương Công Nghệ 9 đời cùng chung sống với nhau, trên dưới thuận hoà.
22.六 爻 同 擊 司 馬 氏 骨 肉 相 殘
Lục hào đồng kích, Tư Mã thị cốt nhục tương tàn
Sáu hào kích nhau, họ Tư Mã cốt nhục tương tàn
Sáu hào loạn động, quẻ lại xung khắc, hoặc tam hình lục hại. tất chủ người thân không hoà thuận, cốt nhục tương tàn, như tám vị vương họ Tư Mã đời Tấn, làm vua nhưng đều bị tru diệt.
23. 閔 子 騫 孝 孚 內 外 父 獲 生 身
孔 仲 尼 父 友 家 邦 兄 同 世 合
Mẫn Tử Khiên hiếu phu nội ngoại, Phụ hoạch sinh Thân
Khổng Trọng Ni phụ hữu gia bang, Huynh đồng Thế hợp
Mẫn Tử Khiên hiếu trong ngoài đều biết, nhờ Phụ được Thân sinh
Khổng Trọng Ni trong hiếu ngoài tin yêu, do Huynh hợp với Thế
Hào Phụ Mẫu là cha mẹ sinh ra ta, nếu Thế sinh hợp với hào Phụ Mẫu thì như Mẫn Tử Khiên hiếu với cha mẹ. Nếu Thế với Huynh Đệ sinh hợp thì như Không Trọng Ni trong hoà với anh em, ngoài được bạn bè tin yêu. Hào Huynh ở bản cung chỉ anh em, ở cung khác chỉ bạn bè. Xem nội ngoại Ứng hào để phân biệt thân sơ.
24. 世 應 相 生 漢 鮑 宣 娶 桓 氏 少 君 為 婦
晦 貞 相 剋 唐 郭 曦 招 升 平 公 主 為 妻
Thế Ứng tương sinh, Hán Bào Tuyên thú Hoàn thị Thiếu Quân vi phụ
Hối trinh tương khắc, Đường Quách Hy chiêu Thăng Bình Công Chúa vi thê
Thế Ứng tương sinh, Bào Tuyên đời Hán lấy Hoàng thị Thiếu Quân làm vợ,
Thế Ứng tương khắc, Quách Hy đời đường lấy Thăng Bình Công Chúa làm vợ
.
Thế là căn bản của cuộc đời, Ứng là người vợ kết tóc trăm năm. Nếu thấy sinh hợp thì phu xướng phụ tuỳ, nếu xung khắc thì sắt cầm lỗi điệu.
25. 箕 踞 鼓 盆 世 傷 應 位
Ky cứ cổ bồn ca, Thế thương Ứng vị
Ngồi xoạc gỏ bồn mà ca[1], Thế thương hào Ứng.
Thế trì Bạch Hổ, Đằng Xà, lâm Huynh Đệ mà vượng động, hình hại hào Ứng, hào Ứng lại vô khí thì hình khắc vợ, như Trang Tử thời Xuân Thu, vợ chết ngồi gỏ bồn mà hát.
26. 河 東 獅 子 吼 應 制 世 爻
Hà Đông sư tử hống, Ứng chế Thế hào
Vợ như sư tử Hà Đông vì Ứng chế hào Thế.
Hào Ứng hình xung hào Thế thì người này có vợ như chuyện Trần Quí Thường có vợ như sư tử Hà Đông.
27. 世 持 凶 而 應 剋 願 聽 雞 鳴
Thế trì hung nhi Ứng khắc, nguyện thính Kê minh
Thế trì hung mà bị Ứng khắc, mong được nghe thiên Kê minh
Nếu hào Thế ở Huynh, quan có các hung thần Hổ, Xà thì ngược lại mừng được hào Ứng khắc, ấy là khắc hung trên mình ta, trừ bệnh cho ta, chủ có vợ hiền, như Tề Tương Công bỏ phế triều chính mà được Trần hiền phi ngày đêm cảnh giới mà thành tốt, cho nên trong Kinh Thi có thiên “Kê minh”.
28. 身 帶 吉 而 子 扶 喜 聞 鶴 和
Thân đới cát nhi Tử phù, hỉ văn hạc hoạ
Thân mang cát thần mà được Tử phò, mừng được nghe hạc hoạ
Thế có cát thần mà vượng động, Tử Tôn lại sinh phò, chủ có con hiền cùng tạo sự nghiệp, làm thêm tốt đẹp. Dịch có câu:” 鶴 鳴 在 陰 其 子 和 之 Hạc minh tại âm, kỳ tử hoà chi”
29. 福 遇 旺 而 任 王 育 子 皆 賢
Phúc ngộ vượng nhi Nhậm Vương dục tử giai hiền
Phúc được vượng mà Nhậm, Vương nuôi con đều hiền.
Tử Tôn nếu vượng tướng, chẳng bị Không cùng chẳng bị thương khắc, chủ có con hiền, như Phương con của Nhậm Diêu, Giới con của Vương Hồn đều được gọi là người hiền trong nhóm Nguyễn Tịch.
30. 子 化 兄 而 房 杜 生 子 不 肖
Tử hoá Huynh nhi Phòng Đỗ sinh tử bất tiếu
Tử hoá Huynh mà Phòng Đỗ sinh con chẳng tốt.
Tử Tôn động biến Nguyệt Phá, quang quỷ với hào Huynh Đệ tương hợp, hoặc động lâm Huyền Vũ, hoặc với Quan Huyền Vũ hợp, thì người con đó chẳng ra gì. Vốn Huynh Đệ là thần phá bại, Quan Quỷ là thần mang nhiều tai hoạ, Huyền Vũ là sao gian hiểm, đạo tặc, Nguyệt Phá là thần không thành tựu. Lý Anh từng nói:”Phòng Đỗ bình sinh vất vả mà sinh con chẳng ra gì”.
[1] Tức vợ chết, Lấy tích Trang Tử lúc vợ chết gỏ bồn mà ca.
Nhất quái hòa đồng, Trương Công Nghệ gia môn ung mục
Một quẻ hoà đồng, Trương Công Nghệ cửa nhà hoà thuận
Xem thân mệnh mà sáu hào an tĩnh, không xung phá khắc hại, tướng sinh tương hợp, tất cửa nhà vui vẻ, như nhà Trương Công Nghệ 9 đời cùng chung sống với nhau, trên dưới thuận hoà.
22.六 爻 同 擊 司 馬 氏 骨 肉 相 殘
Lục hào đồng kích, Tư Mã thị cốt nhục tương tàn
Sáu hào kích nhau, họ Tư Mã cốt nhục tương tàn
Sáu hào loạn động, quẻ lại xung khắc, hoặc tam hình lục hại. tất chủ người thân không hoà thuận, cốt nhục tương tàn, như tám vị vương họ Tư Mã đời Tấn, làm vua nhưng đều bị tru diệt.
23. 閔 子 騫 孝 孚 內 外 父 獲 生 身
孔 仲 尼 父 友 家 邦 兄 同 世 合
Mẫn Tử Khiên hiếu phu nội ngoại, Phụ hoạch sinh Thân
Khổng Trọng Ni phụ hữu gia bang, Huynh đồng Thế hợp
Mẫn Tử Khiên hiếu trong ngoài đều biết, nhờ Phụ được Thân sinh
Khổng Trọng Ni trong hiếu ngoài tin yêu, do Huynh hợp với Thế
Hào Phụ Mẫu là cha mẹ sinh ra ta, nếu Thế sinh hợp với hào Phụ Mẫu thì như Mẫn Tử Khiên hiếu với cha mẹ. Nếu Thế với Huynh Đệ sinh hợp thì như Không Trọng Ni trong hoà với anh em, ngoài được bạn bè tin yêu. Hào Huynh ở bản cung chỉ anh em, ở cung khác chỉ bạn bè. Xem nội ngoại Ứng hào để phân biệt thân sơ.
24. 世 應 相 生 漢 鮑 宣 娶 桓 氏 少 君 為 婦
晦 貞 相 剋 唐 郭 曦 招 升 平 公 主 為 妻
Thế Ứng tương sinh, Hán Bào Tuyên thú Hoàn thị Thiếu Quân vi phụ
Hối trinh tương khắc, Đường Quách Hy chiêu Thăng Bình Công Chúa vi thê
Thế Ứng tương sinh, Bào Tuyên đời Hán lấy Hoàng thị Thiếu Quân làm vợ,
Thế Ứng tương khắc, Quách Hy đời đường lấy Thăng Bình Công Chúa làm vợ
.
Thế là căn bản của cuộc đời, Ứng là người vợ kết tóc trăm năm. Nếu thấy sinh hợp thì phu xướng phụ tuỳ, nếu xung khắc thì sắt cầm lỗi điệu.
25. 箕 踞 鼓 盆 世 傷 應 位
Ky cứ cổ bồn ca, Thế thương Ứng vị
Ngồi xoạc gỏ bồn mà ca[1], Thế thương hào Ứng.
Thế trì Bạch Hổ, Đằng Xà, lâm Huynh Đệ mà vượng động, hình hại hào Ứng, hào Ứng lại vô khí thì hình khắc vợ, như Trang Tử thời Xuân Thu, vợ chết ngồi gỏ bồn mà hát.
26. 河 東 獅 子 吼 應 制 世 爻
Hà Đông sư tử hống, Ứng chế Thế hào
Vợ như sư tử Hà Đông vì Ứng chế hào Thế.
Hào Ứng hình xung hào Thế thì người này có vợ như chuyện Trần Quí Thường có vợ như sư tử Hà Đông.
27. 世 持 凶 而 應 剋 願 聽 雞 鳴
Thế trì hung nhi Ứng khắc, nguyện thính Kê minh
Thế trì hung mà bị Ứng khắc, mong được nghe thiên Kê minh
Nếu hào Thế ở Huynh, quan có các hung thần Hổ, Xà thì ngược lại mừng được hào Ứng khắc, ấy là khắc hung trên mình ta, trừ bệnh cho ta, chủ có vợ hiền, như Tề Tương Công bỏ phế triều chính mà được Trần hiền phi ngày đêm cảnh giới mà thành tốt, cho nên trong Kinh Thi có thiên “Kê minh”.
28. 身 帶 吉 而 子 扶 喜 聞 鶴 和
Thân đới cát nhi Tử phù, hỉ văn hạc hoạ
Thân mang cát thần mà được Tử phò, mừng được nghe hạc hoạ
Thế có cát thần mà vượng động, Tử Tôn lại sinh phò, chủ có con hiền cùng tạo sự nghiệp, làm thêm tốt đẹp. Dịch có câu:” 鶴 鳴 在 陰 其 子 和 之 Hạc minh tại âm, kỳ tử hoà chi”
29. 福 遇 旺 而 任 王 育 子 皆 賢
Phúc ngộ vượng nhi Nhậm Vương dục tử giai hiền
Phúc được vượng mà Nhậm, Vương nuôi con đều hiền.
Tử Tôn nếu vượng tướng, chẳng bị Không cùng chẳng bị thương khắc, chủ có con hiền, như Phương con của Nhậm Diêu, Giới con của Vương Hồn đều được gọi là người hiền trong nhóm Nguyễn Tịch.
30. 子 化 兄 而 房 杜 生 子 不 肖
Tử hoá Huynh nhi Phòng Đỗ sinh tử bất tiếu
Tử hoá Huynh mà Phòng Đỗ sinh con chẳng tốt.
Tử Tôn động biến Nguyệt Phá, quang quỷ với hào Huynh Đệ tương hợp, hoặc động lâm Huyền Vũ, hoặc với Quan Huyền Vũ hợp, thì người con đó chẳng ra gì. Vốn Huynh Đệ là thần phá bại, Quan Quỷ là thần mang nhiều tai hoạ, Huyền Vũ là sao gian hiểm, đạo tặc, Nguyệt Phá là thần không thành tựu. Lý Anh từng nói:”Phòng Đỗ bình sinh vất vả mà sinh con chẳng ra gì”.
[1] Tức vợ chết, Lấy tích Trang Tử lúc vợ chết gỏ bồn mà ca.
Thanked by 4 Members:
|
|
#41
Gửi vào 09/04/2012 - 18:33
31.伯 道 無 兒 蓋 為 子 臨 空 位
卜 商 哭 子 皆 因 父 帶 刑 爻
Bá Đạo vô nhi ,cái vị Tử lâm Không vị
Bốc Thương khốc tử, giai nhân Phụ đới hình hào
Bá Đạo không con vì Tử lâm Không
Bốc Thương khóc con vì Phụ hào mang những sao hình khắc.
Tử Tôn nếu lâm Không tất chủ không con, như Quách Bá Đạo bỏ con mà không sinh được nữa. Nếu Phụ có Hổ, Xà ,động khắc Tử Tôn thì như Tử Hạ khóc con chết vậy.
32. 父 如 值 木 竇 君 生 丹 桂 五 枝 芳
Phụ như trị Mộc, Đậu quân sinh đan quế ngũ chi phương
Hào Phụ thuộc Mộc như Đậu quân sinh được năm con quí.
Nếu hỏi sinh con nhiều hay ít phải dùng số sinh thành của ngũ hành mà luận, như hào Phụ thuộc Mộc thì Tử Tôn thuộc Thổ, Thổ có số là 5, như Đậu Yến Sơn sinh được 5 con.
33. 鬼 或 依 金 田 氏 取 紫 荊 三 本 茂
Quỷ hoặc y Kim, Điền thị tụ tử kinh tam bản mậu
Quỷ thuộc Kim như ba anh em họ Điền đều tốt đẹp.
Nếu hào Quỷ thuộc Kim thì Huynh Đệ thuộc Mộc , chủ có ba anh em, như Điền Chân, Điền Quảng, điền Khánh.
34. 兄 持 金 旺 喜 看 荀 氏 之 八 龍
弟 依 水 強 驚 睹 陸 公 之 雙 璧
Huynh trì Kim vượng, hỉ khán Tuân thị chi bát long
Đệ y Thuỷ cường, kinh đổ Lục công chi song bích.
Huynh trì Kim vượng, mừng thấy tám con rồng nhà họ Tuân
Đệ thuộc Thuỷ cường, sợ thấy chỉ được hai viên ngọc của Lục công.
Nên dùng số sinh thành của Lục thân mà suy, nhừng phải phân biệt suy vượng. Nếu sinh vượng thì tăng lên gấp hai, hưu tù thì giảm còn nửa. Cho nên Huynh thuộc Kim vượng thì như con của Tuân Thục gồm 8 anh em, như tám con rồng. Nếu Huynh lâm Thuỷ vượng tướng thì như hai viên ngọc Lục Vỹ với Lục Cung. Nếu vượng tướng mà bị chế , hưu tù mà được phò, lại nên dùng bản số để đoán. Ngoài ra cứ phỏng theo như thế.
35. 若 也 爻 逢 重 叠 須 現 在 以 推詳
Nhược dã hào phùng trùng điệp, tu hiện tại dĩ suy tường.
Nếu hào gặp trùng điệp thì nên lấy số hiện có để suy đoán.
Nếu trong quẻ chỉ có một hào, có thể dùng ngũ hành để suy. Nếu hai hoặc ba hào tất lấy số hào hiện có để đoán, như hai, ba, hoặc bao nhiêu đó…
36. 財 動 剋 親 于 早 歲
兄 衰喪 偶 於 中 年
Tài động khắc thân vu tảo tuế
Huynh suy táng ngẫu vu trung niên
Tài động khắc cha mẹ lúc tuổi nhỏ
Huynh suy thì vợ chết lúc trung niên
Tài khắc Phụ Mẫu, Huynh khắc Thê Tài .
37. 化 父 生 身 柴 榮 拜 郭 威 為 父
Hoá Phụ sinh Thân, Sài Vinh bái Quách Anh vi phụ
Hoá Phụ sinh Thân, Sài Vinh nhận Quách Anh làm cha.
Quẻ có Phụ Mẫu, lại biến ra Phụ Mẫu đến sinh hợp Thế thân, tất lại nhận cha mẹ, làm con người khác, như đời Ngũ Đại, Sài Thái Tông làm con của Chu Thái Tổ.
38. 化 孫 合 世 石勒 養 季 龍 為 兒
Hoá Tôn hợp Thế, Thạch Lặc dưỡng Quí Long vi nhi
Hoá Tử Tôn mà hợp với Thế, Thạch Lặc nuôi Quí Long làm con.
Quẻ có Tử Tôn, lại ngoại cung hoá ra Tử Tôn sinh hợp với Thân Thế, chủ người này có con nuôi, như thời Tấn, quí Long nhà hậu Triệu là con nuôi của Thạch Lặc.
39. 世 陰 父 亦 陰 賈 似 道 母 非 正 室
Thế âm Phụ diệc âm , Giả Tự Đạo mẫu phi chính thất
Thế âm mà Phụ cũng âm, mẹ của Giả Tự Đạo chẳng phải là vợ chánh.
Phụ và Thế đều thuộc âm tất là con của vợ lẻ, như Giả Tự đạo đời Tống.
40. 身 旺 官 亦 旺 陳 仲 舉 器 不 凡 庸
Thân vượng Quan diệc vượng, Trần Trọng Cử khí bất phàm dung
Thân vượng mà Quan cũng vượng, Trần Trọng Cử khí phách chẳng tầm thường.
Quan hào vượng tướng, Thân Thế cũng vượng tướng, lại gặp Quí Nhân, Lộc Mã, Văn thư (Phụ) sinh hợp Thế hào, tất chủ ngày sau đề tên lên bảng vàng, như Trần Trọng Cử có khí phách chẳng tầm thường.
卜 商 哭 子 皆 因 父 帶 刑 爻
Bá Đạo vô nhi ,cái vị Tử lâm Không vị
Bốc Thương khốc tử, giai nhân Phụ đới hình hào
Bá Đạo không con vì Tử lâm Không
Bốc Thương khóc con vì Phụ hào mang những sao hình khắc.
Tử Tôn nếu lâm Không tất chủ không con, như Quách Bá Đạo bỏ con mà không sinh được nữa. Nếu Phụ có Hổ, Xà ,động khắc Tử Tôn thì như Tử Hạ khóc con chết vậy.
32. 父 如 值 木 竇 君 生 丹 桂 五 枝 芳
Phụ như trị Mộc, Đậu quân sinh đan quế ngũ chi phương
Hào Phụ thuộc Mộc như Đậu quân sinh được năm con quí.
Nếu hỏi sinh con nhiều hay ít phải dùng số sinh thành của ngũ hành mà luận, như hào Phụ thuộc Mộc thì Tử Tôn thuộc Thổ, Thổ có số là 5, như Đậu Yến Sơn sinh được 5 con.
33. 鬼 或 依 金 田 氏 取 紫 荊 三 本 茂
Quỷ hoặc y Kim, Điền thị tụ tử kinh tam bản mậu
Quỷ thuộc Kim như ba anh em họ Điền đều tốt đẹp.
Nếu hào Quỷ thuộc Kim thì Huynh Đệ thuộc Mộc , chủ có ba anh em, như Điền Chân, Điền Quảng, điền Khánh.
34. 兄 持 金 旺 喜 看 荀 氏 之 八 龍
弟 依 水 強 驚 睹 陸 公 之 雙 璧
Huynh trì Kim vượng, hỉ khán Tuân thị chi bát long
Đệ y Thuỷ cường, kinh đổ Lục công chi song bích.
Huynh trì Kim vượng, mừng thấy tám con rồng nhà họ Tuân
Đệ thuộc Thuỷ cường, sợ thấy chỉ được hai viên ngọc của Lục công.
Nên dùng số sinh thành của Lục thân mà suy, nhừng phải phân biệt suy vượng. Nếu sinh vượng thì tăng lên gấp hai, hưu tù thì giảm còn nửa. Cho nên Huynh thuộc Kim vượng thì như con của Tuân Thục gồm 8 anh em, như tám con rồng. Nếu Huynh lâm Thuỷ vượng tướng thì như hai viên ngọc Lục Vỹ với Lục Cung. Nếu vượng tướng mà bị chế , hưu tù mà được phò, lại nên dùng bản số để đoán. Ngoài ra cứ phỏng theo như thế.
35. 若 也 爻 逢 重 叠 須 現 在 以 推詳
Nhược dã hào phùng trùng điệp, tu hiện tại dĩ suy tường.
Nếu hào gặp trùng điệp thì nên lấy số hiện có để suy đoán.
Nếu trong quẻ chỉ có một hào, có thể dùng ngũ hành để suy. Nếu hai hoặc ba hào tất lấy số hào hiện có để đoán, như hai, ba, hoặc bao nhiêu đó…
36. 財 動 剋 親 于 早 歲
兄 衰喪 偶 於 中 年
Tài động khắc thân vu tảo tuế
Huynh suy táng ngẫu vu trung niên
Tài động khắc cha mẹ lúc tuổi nhỏ
Huynh suy thì vợ chết lúc trung niên
Tài khắc Phụ Mẫu, Huynh khắc Thê Tài .
37. 化 父 生 身 柴 榮 拜 郭 威 為 父
Hoá Phụ sinh Thân, Sài Vinh bái Quách Anh vi phụ
Hoá Phụ sinh Thân, Sài Vinh nhận Quách Anh làm cha.
Quẻ có Phụ Mẫu, lại biến ra Phụ Mẫu đến sinh hợp Thế thân, tất lại nhận cha mẹ, làm con người khác, như đời Ngũ Đại, Sài Thái Tông làm con của Chu Thái Tổ.
38. 化 孫 合 世 石勒 養 季 龍 為 兒
Hoá Tôn hợp Thế, Thạch Lặc dưỡng Quí Long vi nhi
Hoá Tử Tôn mà hợp với Thế, Thạch Lặc nuôi Quí Long làm con.
Quẻ có Tử Tôn, lại ngoại cung hoá ra Tử Tôn sinh hợp với Thân Thế, chủ người này có con nuôi, như thời Tấn, quí Long nhà hậu Triệu là con nuôi của Thạch Lặc.
39. 世 陰 父 亦 陰 賈 似 道 母 非 正 室
Thế âm Phụ diệc âm , Giả Tự Đạo mẫu phi chính thất
Thế âm mà Phụ cũng âm, mẹ của Giả Tự Đạo chẳng phải là vợ chánh.
Phụ và Thế đều thuộc âm tất là con của vợ lẻ, như Giả Tự đạo đời Tống.
40. 身 旺 官 亦 旺 陳 仲 舉 器 不 凡 庸
Thân vượng Quan diệc vượng, Trần Trọng Cử khí bất phàm dung
Thân vượng mà Quan cũng vượng, Trần Trọng Cử khí phách chẳng tầm thường.
Quan hào vượng tướng, Thân Thế cũng vượng tướng, lại gặp Quí Nhân, Lộc Mã, Văn thư (Phụ) sinh hợp Thế hào, tất chủ ngày sau đề tên lên bảng vàng, như Trần Trọng Cử có khí phách chẳng tầm thường.
Thanked by 4 Members:
|
|
#42
Gửi vào 09/04/2012 - 18:35
41. 子 化 合 財 唐 明 皇 有 祿 山 之 子
Tử hoá hợp Tài, Đường Minh Hoàng hữu Lộc Sơn chi tử
Hào biến là Tử hợp với Tài, Đường Minh Hoàng nhận Lộc Sơn làm con.
Hoá thành Tử ở tha cung[1] thì Tử hào là con nuôi. Nếu hợp với hào Tài mà mang Hàm Trì, Huyền Vũ tất có tình với thê thiếp của mình, như An Lộc Sơn tư thông với Dương Quí Phi.
42. 內 兄 合 應 陳 伯 常 有 孺 子 之 兄
Nội Huynh hợp Ứng, Trần Bá Thường hữu Nhụ Tử chi huynh
Hào Huynh ở nội quái hợp với Ứng, Trần Bá Thường có con với vợ của anh.
Huynh Đệ ở nội quái là anh em, không phải là bạn bè. Nếu hợp với hào Ứng hoặc hào Tài thì vợ tư thông với anh em, như Trần Bình quan hệ với chị dâu.
43.應 帶 勾 陳 兼 值 福 孟 德 耀 復 產 於 斯 時
Ứng đới Câu Trần kiêm trị Phúc, Mạnh Đức Diệu phục sản vu tư thời.
Ứng mang Câu Trần mà trị tại Phúc Đức, Mạnh Đức Diệu[2] lại sinh ra vào thời đó.
Câu Trần chủ xấu xí, thật thà. Tử Tôn chủ hiền thục. Ứng hào là vợ, vượng tướng mà lâm ở Tử Tôn, không bị thương khắc thì có vợ như nàgn Mạnh Quang, dung mạo tuy không đẹp mà thật đức hạnh.
44. 財 逢 玄 武 更 逢 刑 楊 太 真 重 生 於 今 日
Tài phùng Huyền Vũ cánh phùng hình, Dương Thái Chân trùng sinh vu kim nhật
Tài có Huyền Vũ lại bị hình, Dương Thái Chân tái sinh ở ngày nay.
Huyền Vũ là thần dâm loạn, nếu lâm Tài hào, vợ không trinh khiết, nếu phát động hợp với hào Ứng hoặc hợp với hào khác, như Dương Quí Phi nết hạnh xấu xa.
45. 合 多 而 眾 煞 爭 持 乃 許 子 和 之 錢 樹
Hợp đa nhi chúng sát tranh trì, nãi Hứa Tử Hoà chi tiền thụ
Hợp với nhiều hào mà trì nhiều sát tinh, là cây tiền của Hứa Tử Hoà.
Ứng là hào Tài được hợp quá nhiều, lại có Huyền Vũ, hình hại lâm ở đó là bọn ca kỹ, như Hứa Bình Hoà làm kỹ nữ, lúc sặp chết nói với mẹ rằng: "Cây tiền đổ rồi" .
46. 官 眾 而 諸 凶 皆 避 如 隋 煬 帝 之 採 花
Quan chúng nhi chư hung giai tị, như Tuỳ Dạng Đế chi thái hoa
Quan hào nhiều mà tránh được mọi hung, như việc cắt lụa làm hoa của Tuỳ Dạng Đế.
Phàm Nhật Nguyệt động biến, được quá nhiều hào Quan tương hợp với Tài, mà hào Tài không lâm Huyền Vũ và các sát tinh tức chủ phụ nữ trùng hôn, tái giá, như Tuỳ Dạng Đế cắt lụa làm hoa ở Tây uyển. Nếu Quan Quỷ ở bản cung khắc Tài hào, là điềm sinh li tử biệt, không phải là chồng chết mà tái giá.
47. 白 虎 刑 臨 武 后 淫 而 且 悍
Bạch Hổ hình lâm, Vũ hậu dâm nhi thả hãn
Bạch Hổ lâm hình hại, Vũ Hậu dâm mà hung tợn.
Bạch Hổ là thần cường bạo, Phụ nữ gặp phải là người hung tợn, lại mang thêm hình hại lâm Tài hào như Vũ Tắc Thiên hung hãn mà dâm.
48. 青 龍 福 到 孟 母 淑 而 又 慈
Thanh Long phúc đáo, Mạnh mẫu thục nhi hựu từ
Thanh Long là phúc đến, như Mạnh mẫu hiện thục mà nhân từ.
Thanh Long chủ nhân từ, Tử Tôn chủ đứng đắn. Nếu Tài lâm Thanh Long hoá Tử hoặc Tử lâm Thanh Long sinh Tài, thì phụ nữ này hiền hậu nhân từ như Mạnh mẫu.
49. 逢 龍 而化 敗 兄 漢 蔡 琰 聰 明 而 失 節
Phùng Long nhi hoá bại Huynh, Hán Sái Diệm thông minh nhi thất tiết
Gặp Thanh Long mà hoá thành Huynh bại hoại, như nàng Sái Diệm đời Hán, thông minh mà thất tiết.
Tài gặp Thanh Long vốn chủ thông minhnhw hoá Huynh Đệ cùng Mộc Dục đều chủ không trinh khiết, không sống lâu , như nàng Sái Diệm tuyệt thếvăn chương mà thất tiết với người Hồ.
50. 化 子 而 生 身 世 魯 伯 姬 賢 德 而 無 疵
Hoá Tử nhi sinh Thân Thế, Lỗ Bá Cơ hiền đức nhi vô tì
Hoá Tử Tôn mà sinh Thân Thế, Bá Cơ nước Lôc hiền đức mà không tì vết.
Tài động hoá thành Tử Tôn sinh hợp Thế Thân tất có đức tốt, như Bá Cơ vợ của Lỗ Trang Công ngôn hạnh đều tốt, không thể phê bình gì hết.
[1] Tha cung là chỉ Biến quái. Quẻ Dịch gồm Chính quái, có động hào thì biến thành Biến Quái.
[2] tức là nàng Mạnh Quang (tự Đức Diệu), người đời Đông Hán vợ của Lương Hồng, là người hiền thục biết tờ chồng.
Tử hoá hợp Tài, Đường Minh Hoàng hữu Lộc Sơn chi tử
Hào biến là Tử hợp với Tài, Đường Minh Hoàng nhận Lộc Sơn làm con.
Hoá thành Tử ở tha cung[1] thì Tử hào là con nuôi. Nếu hợp với hào Tài mà mang Hàm Trì, Huyền Vũ tất có tình với thê thiếp của mình, như An Lộc Sơn tư thông với Dương Quí Phi.
42. 內 兄 合 應 陳 伯 常 有 孺 子 之 兄
Nội Huynh hợp Ứng, Trần Bá Thường hữu Nhụ Tử chi huynh
Hào Huynh ở nội quái hợp với Ứng, Trần Bá Thường có con với vợ của anh.
Huynh Đệ ở nội quái là anh em, không phải là bạn bè. Nếu hợp với hào Ứng hoặc hào Tài thì vợ tư thông với anh em, như Trần Bình quan hệ với chị dâu.
43.應 帶 勾 陳 兼 值 福 孟 德 耀 復 產 於 斯 時
Ứng đới Câu Trần kiêm trị Phúc, Mạnh Đức Diệu phục sản vu tư thời.
Ứng mang Câu Trần mà trị tại Phúc Đức, Mạnh Đức Diệu[2] lại sinh ra vào thời đó.
Câu Trần chủ xấu xí, thật thà. Tử Tôn chủ hiền thục. Ứng hào là vợ, vượng tướng mà lâm ở Tử Tôn, không bị thương khắc thì có vợ như nàgn Mạnh Quang, dung mạo tuy không đẹp mà thật đức hạnh.
44. 財 逢 玄 武 更 逢 刑 楊 太 真 重 生 於 今 日
Tài phùng Huyền Vũ cánh phùng hình, Dương Thái Chân trùng sinh vu kim nhật
Tài có Huyền Vũ lại bị hình, Dương Thái Chân tái sinh ở ngày nay.
Huyền Vũ là thần dâm loạn, nếu lâm Tài hào, vợ không trinh khiết, nếu phát động hợp với hào Ứng hoặc hợp với hào khác, như Dương Quí Phi nết hạnh xấu xa.
45. 合 多 而 眾 煞 爭 持 乃 許 子 和 之 錢 樹
Hợp đa nhi chúng sát tranh trì, nãi Hứa Tử Hoà chi tiền thụ
Hợp với nhiều hào mà trì nhiều sát tinh, là cây tiền của Hứa Tử Hoà.
Ứng là hào Tài được hợp quá nhiều, lại có Huyền Vũ, hình hại lâm ở đó là bọn ca kỹ, như Hứa Bình Hoà làm kỹ nữ, lúc sặp chết nói với mẹ rằng: "Cây tiền đổ rồi" .
46. 官 眾 而 諸 凶 皆 避 如 隋 煬 帝 之 採 花
Quan chúng nhi chư hung giai tị, như Tuỳ Dạng Đế chi thái hoa
Quan hào nhiều mà tránh được mọi hung, như việc cắt lụa làm hoa của Tuỳ Dạng Đế.
Phàm Nhật Nguyệt động biến, được quá nhiều hào Quan tương hợp với Tài, mà hào Tài không lâm Huyền Vũ và các sát tinh tức chủ phụ nữ trùng hôn, tái giá, như Tuỳ Dạng Đế cắt lụa làm hoa ở Tây uyển. Nếu Quan Quỷ ở bản cung khắc Tài hào, là điềm sinh li tử biệt, không phải là chồng chết mà tái giá.
47. 白 虎 刑 臨 武 后 淫 而 且 悍
Bạch Hổ hình lâm, Vũ hậu dâm nhi thả hãn
Bạch Hổ lâm hình hại, Vũ Hậu dâm mà hung tợn.
Bạch Hổ là thần cường bạo, Phụ nữ gặp phải là người hung tợn, lại mang thêm hình hại lâm Tài hào như Vũ Tắc Thiên hung hãn mà dâm.
48. 青 龍 福 到 孟 母 淑 而 又 慈
Thanh Long phúc đáo, Mạnh mẫu thục nhi hựu từ
Thanh Long là phúc đến, như Mạnh mẫu hiện thục mà nhân từ.
Thanh Long chủ nhân từ, Tử Tôn chủ đứng đắn. Nếu Tài lâm Thanh Long hoá Tử hoặc Tử lâm Thanh Long sinh Tài, thì phụ nữ này hiền hậu nhân từ như Mạnh mẫu.
49. 逢 龍 而化 敗 兄 漢 蔡 琰 聰 明 而 失 節
Phùng Long nhi hoá bại Huynh, Hán Sái Diệm thông minh nhi thất tiết
Gặp Thanh Long mà hoá thành Huynh bại hoại, như nàng Sái Diệm đời Hán, thông minh mà thất tiết.
Tài gặp Thanh Long vốn chủ thông minhnhw hoá Huynh Đệ cùng Mộc Dục đều chủ không trinh khiết, không sống lâu , như nàng Sái Diệm tuyệt thếvăn chương mà thất tiết với người Hồ.
50. 化 子 而 生 身 世 魯 伯 姬 賢 德 而 無 疵
Hoá Tử nhi sinh Thân Thế, Lỗ Bá Cơ hiền đức nhi vô tì
Hoá Tử Tôn mà sinh Thân Thế, Bá Cơ nước Lôc hiền đức mà không tì vết.
Tài động hoá thành Tử Tôn sinh hợp Thế Thân tất có đức tốt, như Bá Cơ vợ của Lỗ Trang Công ngôn hạnh đều tốt, không thể phê bình gì hết.
[1] Tha cung là chỉ Biến quái. Quẻ Dịch gồm Chính quái, có động hào thì biến thành Biến Quái.
[2] tức là nàng Mạnh Quang (tự Đức Diệu), người đời Đông Hán vợ của Lương Hồng, là người hiền thục biết tờ chồng.
Thanked by 4 Members:
|
|
#43
Gửi vào 09/04/2012 - 18:36
51. 合 而 遇 空 竇 二 女 不 辱 于 盜 賊
Hợp nhi ngộ Không, Đậu nhị nữ bất nhục vu đạo tặc
Hợp mà gặp Không, hai con gái họ Đậu không để đạo tặc làm nhục.
Nếu hào khác đến hợp, hoặc Huyền Vũ, Hàm Trì động đến khắc hợp, nếu Tài hào lâm Không, như niên hiệu Phung Thiên đời Đường, hai con gí họ Đậu bị cướp bắt đi, nhảy núi chịu chết để khỏi mang nhục.
52. 靜 而 冲 動 卓 文 君 投 奔 于 相 如
Tĩnh nhi xung động, Trác Văn Quân đầu bôn vu Tương Như
Tĩnh mà được xung động, Trác Văn Quân bỏ trốn theo Tương Như.
Hàm Trì, Huyền Vũ trì Tài, nếu Tài suy, lâm Không, bất động thì chẳng ngại. Nếu Nhật Nguyệt động hào xung, thì như Tương Như lấy tiếng đàn khiêu động , làm ban đêm Trác Văn Quân bỏ trốn đi theo, về sau làmnghề bán rượu.
53. 福 引 刑 爻 發 動 衛 共 姜 作 誓 於 柏 舟
Phúc dẫn hình hào phát động, Vệ Cọng Khương tác thệ vu Bá Chu.
Phúc động mà hình, Vệ Cọng Khương làm thơ Bá Chu[1] để thề.
Tử Tôn vượng động chủ khắc phu, như Tử là thần trinh khiết, tượng thủ tiết, như Vệ Cọng Khương là thơ Bá Chu lấy chết mà thề.
54. 身 遭 化 鬼 剋 刑 班 婕 妤 感 傷 于 秋 扇
Thân tao hoá Quỷ khắc hình, Ban Tiệp Dư cảm thương vu thu phiến
Thân hoá Quan Quỷ khắc hình, Ban Tiệp dư cảm thương chiếc quạt vào mùa thu.
Nếu gặp quẻ lục hợp mà Thế hào hoá Quan Quỷ hình khắc, lấy hào động làm khởi đầu, hào biến làm kết cục. Như đời Hán, Ban Cơ ban đàu được Thành Đế yêu thương gần gũi mà về sau lơ là, nên thấy chiếc quạt vào mùa thu mà thương cảm, nên làm từ để tỏ ý thê lương.
55. 弭 鬼 爭 權 水 父 冲 錢 玉 蓮 逢 汝 權 于 江 滸
Nhị Quỷ tranh quyền, thuỷ Phụ xung, Tiền Ngọc Liên phùng Nhữ Quyền vu giang hử
Hai hào Quỷ tranh quyền bị Phụ thuỷ xung, Tiền Ngọc Liên gặp Nhữ Quyền trên bến nước.
Nếu có hai hào Quỷ cùng phát động đến sinh hợp hào Tài, lại gặp hào Phụ thuộc Thuỷ đến xung, mà hào Tài lại lâm Không, tất chủ có hai chồng tranh quyền, bị Phụ mẫu bức bách mà tự giữ tiết tháo nên nhập Không vong, như Tôn Nhữ Quyền gặp Tiền Ngọc Liên vậy.
56. 六 爻 兢 合 陰 财 動 秦 若 籣 遇 陶 穀 於 郵 亭
Lục hào cạnh hợp, âm Tài động, Tần Nhược Lan ngộ Đào Cốc ư bưu đình
Lục hào tranh nhau hợp, Tài hào âm mà động, Tần Nhược Lan gặp Đào Cốc ở bưu đình.
Nam có hợp thì thông minh tuấn tú, nữ có hợp thì trôi nổi dâm dật, nếu quẻ Lục hợp mà hào Tài thuộc âm, bất động thì còn được,động thì dâm đãng vô liêm sỉ, như Tần Nhược Lan gặp Đào học sĩ vậy. Nếu hào Tài tương hợp với Thế, không đoán như thế, Nữ nhân tự bói, lấy Thế làm mình mà hợp với hào khác cũng đoán như vậy.
57. 鬼 弱 而 未 獲 生 扶 朱 淑 貞 良 人 愚 蠢
Quỷ nhược nhi vị hoạch sinh phù, Chu Thục Trinh lương nhân ngu xuẩn
Quỷ yếu mà không được sinh phù, chồng của Chu Thục Trinh ngu xuẩn.
Phàm xem thân mệnh cho phụ nữ, lấy hào Quan Quỷ làm chồng, không nên bị Tuần không, gặp Không thì khó làm chủ; lại không nên suy yếu, yếu thì gặp chồng kém cỏi. Nếu hào Phu yếu mà không được sinh phò hợp trợ, mà có các sát tinh Câu Trần, Đằng Xà, thì như chồng của Chu Thục Trinh tiểu nhân mà ngu xuẩn, nên có làm bài thơ đoạn trường.
58. 官 強 而 又 連 龍 福 吳 孟 子 夫 婦 賢 明
Quan cường nhi hựu liên Long Phúc, Ngô Mạnh Tử phu chủ hiền minh
Quan hào vượngmà lại có Thanh Long, Lộc Mã , chồng của Ngô Mạnh Tử hiền minh.
Nếu hào Quan Quỷ vượng mà gặp Thanh Long, Lộc Mã, Quí Nhân chủ có chồng hiền minh quí hiển, như Ngô Mạnh Tử lấy được chồng là Lỗ Chiêu Công . Nếu suy nhược mà được sinh phù cũng đoán thế.
59. 若 卜 嬰 孩 之 造 化 乃 相 福 德 為 用 神
Nhược bốc anh hài chi tạo hoá, nãi tương Phúc Đức vi Dụng thần
Nếu bói về nuôi nấng trẻ con, thì đêm hào Phúc Đức làm Dụng thần.
Phàm xem con trẻ dễ hay khó nuôi, mừng khi được Huynh vượng, tối kỵ Phụ Mẫu vượng động. Nếu Phụ Mẫu vượng động thì thương khắc, mà Huynh Đệ động thì sinh phò. Vốn được sinh phò thì dễ nuôi.
60. 隨 官 入 墓 未 為 有 子 有 孫
助 鬼 傷 身 不 免 多 災 多 病
Tuỳ Quan nhập Mộ, vị vi hữu tử hữu tôn.
Trợ Quỷ thương Thân, bất miễn đa tai đa bệnh.
Theo Quan nhập Mộ, thì chưa có con có cháu
Giúp Quỷ hại Thân, khó tránh nhiều bệnh nhiều tai
Nếu thất Tử Tôn nhập Mộ hoặc hoá Quan nhập Mộ, hoặc hoá Quan Quỷ tất chết. Cho nên mới bảo là “chưa gọi là có con có cháu”. Nếu gặp Quỷ thương khắc hào Huynh Đệ khiến Tử Tôn không có gốc rễ, tất nhỉều bệnh khó nuôi. Tài động trợ Quỷ khắc Huynh, hoặc Quỷ trì Thế lâm Thân tất chủ nhiều bệnh.
[1] Bá Chu là tên một thiên trong Kinh Thi. Thế tử nước Vệ là Cọng Bá mất, vợ là Cọng Khương thủ tiết, cha mẹ muốn gả chồng khác, nàng không chịu làm bài thơ này để thề giữ tiết.
Hợp nhi ngộ Không, Đậu nhị nữ bất nhục vu đạo tặc
Hợp mà gặp Không, hai con gái họ Đậu không để đạo tặc làm nhục.
Nếu hào khác đến hợp, hoặc Huyền Vũ, Hàm Trì động đến khắc hợp, nếu Tài hào lâm Không, như niên hiệu Phung Thiên đời Đường, hai con gí họ Đậu bị cướp bắt đi, nhảy núi chịu chết để khỏi mang nhục.
52. 靜 而 冲 動 卓 文 君 投 奔 于 相 如
Tĩnh nhi xung động, Trác Văn Quân đầu bôn vu Tương Như
Tĩnh mà được xung động, Trác Văn Quân bỏ trốn theo Tương Như.
Hàm Trì, Huyền Vũ trì Tài, nếu Tài suy, lâm Không, bất động thì chẳng ngại. Nếu Nhật Nguyệt động hào xung, thì như Tương Như lấy tiếng đàn khiêu động , làm ban đêm Trác Văn Quân bỏ trốn đi theo, về sau làmnghề bán rượu.
53. 福 引 刑 爻 發 動 衛 共 姜 作 誓 於 柏 舟
Phúc dẫn hình hào phát động, Vệ Cọng Khương tác thệ vu Bá Chu.
Phúc động mà hình, Vệ Cọng Khương làm thơ Bá Chu[1] để thề.
Tử Tôn vượng động chủ khắc phu, như Tử là thần trinh khiết, tượng thủ tiết, như Vệ Cọng Khương là thơ Bá Chu lấy chết mà thề.
54. 身 遭 化 鬼 剋 刑 班 婕 妤 感 傷 于 秋 扇
Thân tao hoá Quỷ khắc hình, Ban Tiệp Dư cảm thương vu thu phiến
Thân hoá Quan Quỷ khắc hình, Ban Tiệp dư cảm thương chiếc quạt vào mùa thu.
Nếu gặp quẻ lục hợp mà Thế hào hoá Quan Quỷ hình khắc, lấy hào động làm khởi đầu, hào biến làm kết cục. Như đời Hán, Ban Cơ ban đàu được Thành Đế yêu thương gần gũi mà về sau lơ là, nên thấy chiếc quạt vào mùa thu mà thương cảm, nên làm từ để tỏ ý thê lương.
55. 弭 鬼 爭 權 水 父 冲 錢 玉 蓮 逢 汝 權 于 江 滸
Nhị Quỷ tranh quyền, thuỷ Phụ xung, Tiền Ngọc Liên phùng Nhữ Quyền vu giang hử
Hai hào Quỷ tranh quyền bị Phụ thuỷ xung, Tiền Ngọc Liên gặp Nhữ Quyền trên bến nước.
Nếu có hai hào Quỷ cùng phát động đến sinh hợp hào Tài, lại gặp hào Phụ thuộc Thuỷ đến xung, mà hào Tài lại lâm Không, tất chủ có hai chồng tranh quyền, bị Phụ mẫu bức bách mà tự giữ tiết tháo nên nhập Không vong, như Tôn Nhữ Quyền gặp Tiền Ngọc Liên vậy.
56. 六 爻 兢 合 陰 财 動 秦 若 籣 遇 陶 穀 於 郵 亭
Lục hào cạnh hợp, âm Tài động, Tần Nhược Lan ngộ Đào Cốc ư bưu đình
Lục hào tranh nhau hợp, Tài hào âm mà động, Tần Nhược Lan gặp Đào Cốc ở bưu đình.
Nam có hợp thì thông minh tuấn tú, nữ có hợp thì trôi nổi dâm dật, nếu quẻ Lục hợp mà hào Tài thuộc âm, bất động thì còn được,động thì dâm đãng vô liêm sỉ, như Tần Nhược Lan gặp Đào học sĩ vậy. Nếu hào Tài tương hợp với Thế, không đoán như thế, Nữ nhân tự bói, lấy Thế làm mình mà hợp với hào khác cũng đoán như vậy.
57. 鬼 弱 而 未 獲 生 扶 朱 淑 貞 良 人 愚 蠢
Quỷ nhược nhi vị hoạch sinh phù, Chu Thục Trinh lương nhân ngu xuẩn
Quỷ yếu mà không được sinh phù, chồng của Chu Thục Trinh ngu xuẩn.
Phàm xem thân mệnh cho phụ nữ, lấy hào Quan Quỷ làm chồng, không nên bị Tuần không, gặp Không thì khó làm chủ; lại không nên suy yếu, yếu thì gặp chồng kém cỏi. Nếu hào Phu yếu mà không được sinh phò hợp trợ, mà có các sát tinh Câu Trần, Đằng Xà, thì như chồng của Chu Thục Trinh tiểu nhân mà ngu xuẩn, nên có làm bài thơ đoạn trường.
58. 官 強 而 又 連 龍 福 吳 孟 子 夫 婦 賢 明
Quan cường nhi hựu liên Long Phúc, Ngô Mạnh Tử phu chủ hiền minh
Quan hào vượngmà lại có Thanh Long, Lộc Mã , chồng của Ngô Mạnh Tử hiền minh.
Nếu hào Quan Quỷ vượng mà gặp Thanh Long, Lộc Mã, Quí Nhân chủ có chồng hiền minh quí hiển, như Ngô Mạnh Tử lấy được chồng là Lỗ Chiêu Công . Nếu suy nhược mà được sinh phù cũng đoán thế.
59. 若 卜 嬰 孩 之 造 化 乃 相 福 德 為 用 神
Nhược bốc anh hài chi tạo hoá, nãi tương Phúc Đức vi Dụng thần
Nếu bói về nuôi nấng trẻ con, thì đêm hào Phúc Đức làm Dụng thần.
Phàm xem con trẻ dễ hay khó nuôi, mừng khi được Huynh vượng, tối kỵ Phụ Mẫu vượng động. Nếu Phụ Mẫu vượng động thì thương khắc, mà Huynh Đệ động thì sinh phò. Vốn được sinh phò thì dễ nuôi.
60. 隨 官 入 墓 未 為 有 子 有 孫
助 鬼 傷 身 不 免 多 災 多 病
Tuỳ Quan nhập Mộ, vị vi hữu tử hữu tôn.
Trợ Quỷ thương Thân, bất miễn đa tai đa bệnh.
Theo Quan nhập Mộ, thì chưa có con có cháu
Giúp Quỷ hại Thân, khó tránh nhiều bệnh nhiều tai
Nếu thất Tử Tôn nhập Mộ hoặc hoá Quan nhập Mộ, hoặc hoá Quan Quỷ tất chết. Cho nên mới bảo là “chưa gọi là có con có cháu”. Nếu gặp Quỷ thương khắc hào Huynh Đệ khiến Tử Tôn không có gốc rễ, tất nhỉều bệnh khó nuôi. Tài động trợ Quỷ khắc Huynh, hoặc Quỷ trì Thế lâm Thân tất chủ nhiều bệnh.
[1] Bá Chu là tên một thiên trong Kinh Thi. Thế tử nước Vệ là Cọng Bá mất, vợ là Cọng Khương thủ tiết, cha mẹ muốn gả chồng khác, nàng không chịu làm bài thơ này để thề giữ tiết.
Thanked by 4 Members:
|
|
#44
Gửi vào 09/04/2012 - 18:40
61. 胎 連 官 鬼 曾 經 落 地 之 關
Thai liên Quan Quỷ , tằng kinh lạc địa chi quan
Thai liên hệ đến Quan Quỷ là từng chết đi sống lại.
Hào Thai của Tử Tôn lâm Quan Quỷ, hoặc hoá ra hàô Quỷ, hoặc bị Quỷ xung khắc, thì khi lâm bồn chết đi sống lại, tục gọi “lạc địa quan”.
62. 子 帶 貴 人 自 有 登 天 之 日
Tử đới Quí Nhân, tự hữu đăng thiên chi nhật
Tử Tôn có Quí Nhân , tất có ngày lên trời.
Tử Tôn nếu có Lộc Mã, Quí Nhân , chủ đứa con này ngày sau quí hiển
63. 遇 令 星 如 風 搖 幹
逢 絕 地 似 雨 傾 花
Ngộ lệnh tinh như phong dao cán
Phùng Tuyệt địa tự vũ khuynh hoa
Gặp lệnh tinh như gió lay cành
Gặp tuyệt địa như mưa làm hoa đổ.
Phàm Phụ Mẫu động khắc Tử, nếu được Tử Tôn trị Nhật thần, Nguyệt kiến, tuy có hơi xấu, như gió nhẹ lay cành, không có hại. Nếu gặp Mộ Tuyệt lại bị khắc, như mưa to làm hoa rơi rụng, có hại.
64. 子 孫 化 鬼 孝 殤 十 月入 明 途
祿 貴 臨 爻 拜 住 童 年 登 相 位
Tử Tôn hoá Quỷ, Hiếu thương thập nguyệt nhập minh đồ
Lộc Quí lâm hào, Bái Trụ đồng niên đăng tướng vị.
Tử Tôn hoá Quỷ, Hiếu Thương 10 tháng đã chết - Lộc Quí lâm Tử, Bái Trụ tuổi nhỏ đã làm tướng)
Tử Tôn hưu tù hoá Quỷ, hoá Phụ đều là điềm chết, giống như Hán Thương đế sinh 10 tháng thì chết. Nếu Tử lâm Quí Nhân, Lộc Mã vương tướng như Bái Trụ đời Nguyên năm 14 tuổi đã làm tướng.
65. 凶 煞 未 攢 震 卦 李 令 伯 至 九 歲 而 能 行
Hung sát vị toàn Chấn quái Lý Lệnh Bá chí cửu tuế nhi năng hành.
Hung sát chưa phá quẻ Chấn, Lý Lệnh Bá đến chín tuổi mới đi được
Quẻ Chấn là chân, gặp Quan Quỷ, hung thần khắc hại đi lại tất chậm, như Lý Nguỵ Công chín tuổi mới đi được, đó là vì hung thần vây lấy chân.
66. 吉 神 皆 聚 乾 宮 白 居 易 未 週 年 而 識 字
Cát thần giai tụ Càn cung, Bạch Cư Dị vị chu niên nhi thức tự
Cát thần đều tụ ở cung Càn,Bạch Cư Dị chưa đầy năm đã biết chữ
Càn là qquẻ đầu Bát quái, thuộc Kim, thuần dương, số 1, dương chủ ở trên, Kim chủ thông minh , 1 là soos khởi đầu. Nếu gặp Long Đức cùng Tử Tôn tại cung này tất nhiên nhỏ mà thông minh như Bạch Lạc thiên sinh ra vừa bảy tháng đã biết hai chữ 之 Chi, 無 Vô
67. 八 純 頑 劣 晉食 我 狼 子 野 心
Bát Thuần ngoạn liệt, Tấn Thực Ngã lang tử dã tâm
Bát thuần ương ngạnh như Thực Ngã đời Tấn lòng lang dạ sói
Quẻ Bát thuần sáu hào tương xung, tiểu nhi gặp tất chủ bướng bỉnh, tính hung hãn như Thực Ngã đời Tấn lòng dạ ác độc như giống sài lang.
68. 六 合 聰 明 唐 李 白 錦 心 繡 口
Lục hợp thông minh Đường Lý Bạch cẩm tâm tú khẩu
Quẻ Lục hợp thông minh như Lý Bạch đời Đường nhả ngọc phun châu.
Đại để quẻ Lục hợp tất nửa âm nửa dương, trẻ con gặp được, trí tuệ thông minh, ngày sau văn chương quán thế, như Lý Thái Bạch có tài văn thơ.
69. 陽 象 陽 宮 后 稷 所 以 岐 嶷
Dương tượng dương cung Hậu Tắc sở dĩ kỳ nghi.
Cung dương hào dương như Hậu Tắc nhỏ mà thông minh
Dương tượng cao minh thông đạt. Tử Tôn lâm hào dương cung dương như Hậu Tắc con của bà Khương Nguyên thông minh dĩnh ngộ.
70. 陰 卦 陰 爻 晉 惠 所 以 戇 駿
Quái âm âm hào Tấn Huệ sở dĩ tráng tuấn
Quẻ âm hào âm nên Tấn Huệ ngu si.
Âm chủ thấp kém, tượng giáng xuống. Tử Tôn ở âm cung âm hào chủ ngu si, như Tấn Huệ Đế nghe tiếng ếch bảo là “công hồ tư hồ” , thấy người đói chết bảo :sao không ăn thịt nai”. Cho nên sử sácg chê là ngu si.
Thai liên Quan Quỷ , tằng kinh lạc địa chi quan
Thai liên hệ đến Quan Quỷ là từng chết đi sống lại.
Hào Thai của Tử Tôn lâm Quan Quỷ, hoặc hoá ra hàô Quỷ, hoặc bị Quỷ xung khắc, thì khi lâm bồn chết đi sống lại, tục gọi “lạc địa quan”.
62. 子 帶 貴 人 自 有 登 天 之 日
Tử đới Quí Nhân, tự hữu đăng thiên chi nhật
Tử Tôn có Quí Nhân , tất có ngày lên trời.
Tử Tôn nếu có Lộc Mã, Quí Nhân , chủ đứa con này ngày sau quí hiển
63. 遇 令 星 如 風 搖 幹
逢 絕 地 似 雨 傾 花
Ngộ lệnh tinh như phong dao cán
Phùng Tuyệt địa tự vũ khuynh hoa
Gặp lệnh tinh như gió lay cành
Gặp tuyệt địa như mưa làm hoa đổ.
Phàm Phụ Mẫu động khắc Tử, nếu được Tử Tôn trị Nhật thần, Nguyệt kiến, tuy có hơi xấu, như gió nhẹ lay cành, không có hại. Nếu gặp Mộ Tuyệt lại bị khắc, như mưa to làm hoa rơi rụng, có hại.
64. 子 孫 化 鬼 孝 殤 十 月入 明 途
祿 貴 臨 爻 拜 住 童 年 登 相 位
Tử Tôn hoá Quỷ, Hiếu thương thập nguyệt nhập minh đồ
Lộc Quí lâm hào, Bái Trụ đồng niên đăng tướng vị.
Tử Tôn hoá Quỷ, Hiếu Thương 10 tháng đã chết - Lộc Quí lâm Tử, Bái Trụ tuổi nhỏ đã làm tướng)
Tử Tôn hưu tù hoá Quỷ, hoá Phụ đều là điềm chết, giống như Hán Thương đế sinh 10 tháng thì chết. Nếu Tử lâm Quí Nhân, Lộc Mã vương tướng như Bái Trụ đời Nguyên năm 14 tuổi đã làm tướng.
65. 凶 煞 未 攢 震 卦 李 令 伯 至 九 歲 而 能 行
Hung sát vị toàn Chấn quái Lý Lệnh Bá chí cửu tuế nhi năng hành.
Hung sát chưa phá quẻ Chấn, Lý Lệnh Bá đến chín tuổi mới đi được
Quẻ Chấn là chân, gặp Quan Quỷ, hung thần khắc hại đi lại tất chậm, như Lý Nguỵ Công chín tuổi mới đi được, đó là vì hung thần vây lấy chân.
66. 吉 神 皆 聚 乾 宮 白 居 易 未 週 年 而 識 字
Cát thần giai tụ Càn cung, Bạch Cư Dị vị chu niên nhi thức tự
Cát thần đều tụ ở cung Càn,Bạch Cư Dị chưa đầy năm đã biết chữ
Càn là qquẻ đầu Bát quái, thuộc Kim, thuần dương, số 1, dương chủ ở trên, Kim chủ thông minh , 1 là soos khởi đầu. Nếu gặp Long Đức cùng Tử Tôn tại cung này tất nhiên nhỏ mà thông minh như Bạch Lạc thiên sinh ra vừa bảy tháng đã biết hai chữ 之 Chi, 無 Vô
67. 八 純 頑 劣 晉食 我 狼 子 野 心
Bát Thuần ngoạn liệt, Tấn Thực Ngã lang tử dã tâm
Bát thuần ương ngạnh như Thực Ngã đời Tấn lòng lang dạ sói
Quẻ Bát thuần sáu hào tương xung, tiểu nhi gặp tất chủ bướng bỉnh, tính hung hãn như Thực Ngã đời Tấn lòng dạ ác độc như giống sài lang.
68. 六 合 聰 明 唐 李 白 錦 心 繡 口
Lục hợp thông minh Đường Lý Bạch cẩm tâm tú khẩu
Quẻ Lục hợp thông minh như Lý Bạch đời Đường nhả ngọc phun châu.
Đại để quẻ Lục hợp tất nửa âm nửa dương, trẻ con gặp được, trí tuệ thông minh, ngày sau văn chương quán thế, như Lý Thái Bạch có tài văn thơ.
69. 陽 象 陽 宮 后 稷 所 以 岐 嶷
Dương tượng dương cung Hậu Tắc sở dĩ kỳ nghi.
Cung dương hào dương như Hậu Tắc nhỏ mà thông minh
Dương tượng cao minh thông đạt. Tử Tôn lâm hào dương cung dương như Hậu Tắc con của bà Khương Nguyên thông minh dĩnh ngộ.
70. 陰 卦 陰 爻 晉 惠 所 以 戇 駿
Quái âm âm hào Tấn Huệ sở dĩ tráng tuấn
Quẻ âm hào âm nên Tấn Huệ ngu si.
Âm chủ thấp kém, tượng giáng xuống. Tử Tôn ở âm cung âm hào chủ ngu si, như Tấn Huệ Đế nghe tiếng ếch bảo là “công hồ tư hồ” , thấy người đói chết bảo :sao không ăn thịt nai”. Cho nên sử sácg chê là ngu si.
Thanked by 4 Members:
|
|
#45
Gửi vào 09/04/2012 - 18:47
71. 龍 父 扶 身 效 藏 燈 於 祖 瑩
Long Phụ phù Thân hiệu táng đăng ư Tổ Oánh
Thanh Long ở Phụ phò Thân bắt chước Tổ Oánh giấu đèn.
Thanh Long là cát thần, Phụ Mẫu là thi thơ, là nơi học. Nếu đều lâm Thân, hoặc sinh hợp Thế Thân hoặc Phúc Đức đều chủ đứa bé hiếu học, như Tổ Oánh tám tuổi ham đọc sách, cha mẹ sợ thành bệnh nên cấm đọc, nên bí mật giấu đèn, đợi cha mẹ ngủ rồi thắp lên mà đọc.
72. 歲 君 值 福 希 投 筆 於 班 超
Tuế Quân trị Phúc hy đầu bút ư Ban Siêu
Tuế Quân ở Phúc, hiếm người ném bút như Ban Siêu
Thái Tuế tượng cho vua. Tử Tôn lâm ở đấy tất có chí lớn, như Ban Siêu đời Hán thuở nhỏ thường ném bút than rằng:” Đại trượng phu phải lập chí dựng nước,sao lại đắm mình trong nghiên bút”. Sau đi sứ Tây Vực được phong là Vạn Lý Hầu.
73. 官 鬼 無 傷曹 彬 取 印 終 封 爵
Quan Quỷ vô thương Tào Bân thủ ấn chung phong tước
Quan Quỷ không bị thương khắc, Tào Bân giữ ấn mà sau được phong tước.
Thái Tuế ở Phúc Đức là có chí lơn, nhưng Quan Quỷ bị khắc chế, hoặc lâm Không thì tuy chí lớn nhưng rốy cục chẳng toại ý, Quan Quỷ không bị thương khắc tất sẽ vừa lòng, như Tào Bân lúc đầy tuổi cầm dáo nắm ấn mà về sãuuất tướng nhập tướng được phong tước cao.
74. 父 身 有 氣 車 胤 囊 螢 卒 顯 名
Phụ Thân hữu khí Xa Dận nang huỳnh tốt hiển danh
Phụ và Thân hữu khí như Xa Dận chứa đom đóm trong túi rồi sau hiển danh
Thanh Long, Phụ Mẫu trì Thân thì biết hiếu học, nhưng Thân Thế, Dụng thần cùng Quan, Phụlâm Mộ Tuyệt phải vất vả mới hi vọng thành tựu, như Xa Dận chăm học mà cuối cùng dựng được sự nghiệp.
75. 金 爻 動 合 啼 必 無 聲
Kim hào động hợp đề tất vô thanh
Hào Kim động hợp thì khóc không ra tiếng
Trong Ngũ hành chỉ có Kim là có âm thanh, trong ngũ tạng chí có phổi là có âm thanh. Cho nênlấy hào Kim làm thanh âm của người. Kim hoặc xung hoặc Không thì âm thanh vang dội, như động bị hợp thì khóc không thành tiếng.
76. 父 母靜 冲 兒 須 缺 乳
Phụ Mẫu tĩnh xung nhi tu khuyết nhũ
Phụ Mẫu tĩnh bị xung mà trẻ thiếu sữa.
Nếu Tử Tôn vượng tướng sữa tất nhiều, hưu tù Không phá sữa tất ít. Sợ nhất là Phụ động hoặc tĩnh mà bị xung, nếu không thiếu sữa tất sẽ khắc Tử Tôn.
77. 用 旺 兒 肥 終 易 養
主 衰 兒 弱 必 難 為
Dụng vượng nhi phì chung dị dưỡng
Chủ suy nhi nhược tất nan vi.
Dụng vượng con mập mà nuôi dễ
Chủ suy con yếu mà khó nuôi.
Tử Tôn vượng tướng không bị thương khắc, con mập dễ nôi. Tử Tôn hưu tù bị khắc nhiều gầy yếu khó nuôi.
78. 身 臨 父 母 莫 逃 鞠 養 之 辛 勤
Thân lâm Phụ Mẫu mạc đào cúc dưỡng chi tân cần
Thân ở Phụ Mẫu khó tránh được săn sóc chu đáo.
Phụ Mẫu trì Thế, trẻ nhiều tai ách nên khó tránh nuôi dưỡng vất vả, vì Phụ Mẫu là thần chăm lo vất vả, là ác sát của tiểu nhi.
79. 世 遇 子 孫 終 見 劬 勞 之 報 效
Thế ngộ Tử Tôn chung kiến cù lao chi báo hiệu
Thế gặp Tử Tôn cuối cùng báo đáp ân cù lao.
Tử Tôn trì Thế, con tất hiếu thuận, sẽ báo đáp ơn nuôi dưỡng. Vốn Tử Tôn trì Thế có nghĩa gần gũi cha mẹ.
80. 若 問 榮 枯 全 在 六 親之 决 斷
要 知 壽 夭 必 須 另 卜 以 推 詳
Nhược vấn vinh khô toán tại Lục Thân chi quyết đoán
Yếu tri thọ yểu tất tu lánh bốc dĩ suy tường
Nếu hỏi thịnh suy quyết đoán ở tại Lục Thân
Cần biết thọ yếu nên bói riêng để suy rõ.
Sáu hào của một quẻ quản sự thịnh suy được mất, dùng Tài, Quan, Phụ, Tử, Huynh để quyết đoán. Còn xem thọ yểu nên bói riêng một quẻ.
Long Phụ phù Thân hiệu táng đăng ư Tổ Oánh
Thanh Long ở Phụ phò Thân bắt chước Tổ Oánh giấu đèn.
Thanh Long là cát thần, Phụ Mẫu là thi thơ, là nơi học. Nếu đều lâm Thân, hoặc sinh hợp Thế Thân hoặc Phúc Đức đều chủ đứa bé hiếu học, như Tổ Oánh tám tuổi ham đọc sách, cha mẹ sợ thành bệnh nên cấm đọc, nên bí mật giấu đèn, đợi cha mẹ ngủ rồi thắp lên mà đọc.
72. 歲 君 值 福 希 投 筆 於 班 超
Tuế Quân trị Phúc hy đầu bút ư Ban Siêu
Tuế Quân ở Phúc, hiếm người ném bút như Ban Siêu
Thái Tuế tượng cho vua. Tử Tôn lâm ở đấy tất có chí lớn, như Ban Siêu đời Hán thuở nhỏ thường ném bút than rằng:” Đại trượng phu phải lập chí dựng nước,sao lại đắm mình trong nghiên bút”. Sau đi sứ Tây Vực được phong là Vạn Lý Hầu.
73. 官 鬼 無 傷曹 彬 取 印 終 封 爵
Quan Quỷ vô thương Tào Bân thủ ấn chung phong tước
Quan Quỷ không bị thương khắc, Tào Bân giữ ấn mà sau được phong tước.
Thái Tuế ở Phúc Đức là có chí lơn, nhưng Quan Quỷ bị khắc chế, hoặc lâm Không thì tuy chí lớn nhưng rốy cục chẳng toại ý, Quan Quỷ không bị thương khắc tất sẽ vừa lòng, như Tào Bân lúc đầy tuổi cầm dáo nắm ấn mà về sãuuất tướng nhập tướng được phong tước cao.
74. 父 身 有 氣 車 胤 囊 螢 卒 顯 名
Phụ Thân hữu khí Xa Dận nang huỳnh tốt hiển danh
Phụ và Thân hữu khí như Xa Dận chứa đom đóm trong túi rồi sau hiển danh
Thanh Long, Phụ Mẫu trì Thân thì biết hiếu học, nhưng Thân Thế, Dụng thần cùng Quan, Phụlâm Mộ Tuyệt phải vất vả mới hi vọng thành tựu, như Xa Dận chăm học mà cuối cùng dựng được sự nghiệp.
75. 金 爻 動 合 啼 必 無 聲
Kim hào động hợp đề tất vô thanh
Hào Kim động hợp thì khóc không ra tiếng
Trong Ngũ hành chỉ có Kim là có âm thanh, trong ngũ tạng chí có phổi là có âm thanh. Cho nênlấy hào Kim làm thanh âm của người. Kim hoặc xung hoặc Không thì âm thanh vang dội, như động bị hợp thì khóc không thành tiếng.
76. 父 母靜 冲 兒 須 缺 乳
Phụ Mẫu tĩnh xung nhi tu khuyết nhũ
Phụ Mẫu tĩnh bị xung mà trẻ thiếu sữa.
Nếu Tử Tôn vượng tướng sữa tất nhiều, hưu tù Không phá sữa tất ít. Sợ nhất là Phụ động hoặc tĩnh mà bị xung, nếu không thiếu sữa tất sẽ khắc Tử Tôn.
77. 用 旺 兒 肥 終 易 養
主 衰 兒 弱 必 難 為
Dụng vượng nhi phì chung dị dưỡng
Chủ suy nhi nhược tất nan vi.
Dụng vượng con mập mà nuôi dễ
Chủ suy con yếu mà khó nuôi.
Tử Tôn vượng tướng không bị thương khắc, con mập dễ nôi. Tử Tôn hưu tù bị khắc nhiều gầy yếu khó nuôi.
78. 身 臨 父 母 莫 逃 鞠 養 之 辛 勤
Thân lâm Phụ Mẫu mạc đào cúc dưỡng chi tân cần
Thân ở Phụ Mẫu khó tránh được săn sóc chu đáo.
Phụ Mẫu trì Thế, trẻ nhiều tai ách nên khó tránh nuôi dưỡng vất vả, vì Phụ Mẫu là thần chăm lo vất vả, là ác sát của tiểu nhi.
79. 世 遇 子 孫 終 見 劬 勞 之 報 效
Thế ngộ Tử Tôn chung kiến cù lao chi báo hiệu
Thế gặp Tử Tôn cuối cùng báo đáp ân cù lao.
Tử Tôn trì Thế, con tất hiếu thuận, sẽ báo đáp ơn nuôi dưỡng. Vốn Tử Tôn trì Thế có nghĩa gần gũi cha mẹ.
80. 若 問 榮 枯 全 在 六 親之 决 斷
要 知 壽 夭 必 須 另 卜 以 推 詳
Nhược vấn vinh khô toán tại Lục Thân chi quyết đoán
Yếu tri thọ yểu tất tu lánh bốc dĩ suy tường
Nếu hỏi thịnh suy quyết đoán ở tại Lục Thân
Cần biết thọ yếu nên bói riêng để suy rõ.
Sáu hào của một quẻ quản sự thịnh suy được mất, dùng Tài, Quan, Phụ, Tử, Huynh để quyết đoán. Còn xem thọ yểu nên bói riêng một quẻ.
Thanked by 8 Members:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Dự đoán phối hợp nhiều môn huyền học cho chính trị & kinh tế thế giới |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
|
|
Lá số Ông Vương Hồng Sển |
Tử Vi | Đinh Văn Tân |
|
||
Bầu cử 2024: Võ đài chính trị giữa công lý và các giá trị cao quý |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
|
|
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Vương Đình Chi |
Báo Tin | huygen |
|
|
|
Lá số nào cho Phạm Nhật Vượng? |
Tử Vi | Bazilearner |
|
||
Sao Thiên vương Uranus và vòng đời 84 năm |
Thiên Văn - Lịch Pháp - Coi Ngày Tốt Xấu | Elohim |
|
6 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 6 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |