Jump to content

Advertisements




CHẾT AN LẠC TÁI SINH HOAN HỶ


75 replies to this topic

#16 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 11/12/2011 - 10:23

NHỮNG ĐIỀM CHO BIẾT TRƯỚC VỀ KIẾP SAU

Trong những giai đoạn cuối của cõi trung ấm bardo, chúng ta sẽ trông thấy những ánh sáng có nhiều màu sắc khác nhau. Những ánh sáng này phát sanh từ nghiệp và cảm xúc của chúng ta, và cho ta thấy cõi tái sanh đang chờ đợi chúng ta ở phía trước. Chúng ta sẽ trông thấy ánh sáng màu trắng, nếu đã tạo nghiệp tốt nhưng đã có cảm xúc chính yếu là ngạo mạn hay tham dục, và như vậy chúng ta sẽ tái sanh trong cõi trời hay cõi người theo thứ tự đã định sẵn. Chúng ta sẽ trông thấy ánh sáng vàng nhạt, nếu đã có cảm xúc ganh tị hay si mê, khiến ta tái sanh vào cõi bán thần hay vào loài cầm thú theo thứ tự đã có sẵn. Cũng có những người trông thấy ánh sáng như màu đỏ để rồi bị đẩy vào cõi súc sanh và trông thấy màu giống như bão tuyết hay mưa bão và tái sanh vào cõi bán thần. Chúng ta sẽ thấy ánh sáng màu khói, nếu đã tạo ác nghiệp và đã có cảm xúc tham muốn hay keo kiệt, sẽ đẩy chúng ta tái sanh vào loài quỷ đói. Sau cùng, chúng ta có thể trông thấy ánh sáng màu đen giống như một khúc gỗ hay một lông cừu đen trôi nổi, nếu cảm xúc thù hận thì chúng ta sẽ bị đọa vào địa ngục.

Tuy nhiên, những sách khác nhau mô tả những màu ánh sáng khác nhau như dấu hiệu tái sanh vào các cõi luân hồi. Đại Sư Tsele viết rằng những màu ánh sáng của các cõi có thể không giống nhau trong tất cả các trường hợp. Cõi tái sanh của chúng ta cũng có thể hiển lộ trong những hình ảnh biểu tượng. Nếu tái sanh vào cõi trời, chúng ta có thể cảm thấy mình ở trên một tầng cao của một tòa nhà. Nếu sẽ tái sanh vào cõi bán thần, chúng ta cảm thấy mình đang ở trong một bánh xe có những ngọn lửa. Nếu tái sanh làm người, chúng ta sẽ cảm thấy mình đang ở giữa nhiều người. Hoặc có thể cảm thấy đang đến một hồ nước với những con thiên nga, ngựa hay bò, hay đi vô một căn nhà, thành phố, hoặc một đám đông. Nếu rơi vào loài súc sanh, chúng ta cảm thấy mình đang ở trong một cái hang hay một cái lều trống không. Nếu đọa vào loài quỷ đói, chúng ta sẽ thấy mình đang ở trong một hang động khô khan. Những người phải rớt xuống địa ngục có thể ngay tức khắc nếu họ đã phạm những trọng tội, như vậy họ không thể trông thấy .

Khi đến thời điểm thọ thai vào cõi người. Nếu tái sanh làm nam tử, chúng ta có thể cảm thấy ganh tị với người cha tương lai của mình và tham muốn người mẹ tương lai của mình. Nếu kiếp sau sanh làm nữ nhân, chúng ta sẽ tham muốn người cha và ganh tị với người mẹ. Cảm xúc đó sẽ là điểm kích hoạt đưa chúng ta đi vào trong thai bào. Sanh ra trong thai bào là một trong bốn cách sanh thành. Những cách khác là noãn sanh (sanh ra bằng trứng như gà vịt), thấp sinh (sanh nơi ẩm ướt như loài côn trùng) và hóa sanh (sanh ra bằng sự biến hóa như ở cõi trời và ở địa ngục). Nếu tin vào cõi Cực Lạc và có thể trì niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà Vô Lượng Quang, chúng ta có thể thác sanh vào cõi tịnh độ ngay tức khắc, giống như chim đại bàng bay qua bầu trời ngay khi chúng ta rời khỏi thể xác. Lúc đó, chúng ta có thể trông thấy những người thân hay kẻ thù gọi mình trở lại. Họ không phải là những người thực sự, mà chính là những cảm xúc của chúng ta, đánh lừa chúng ta như những chướng ngại.Vì vậy, chúng ta phải hoàn toàn tập trung tâm trí vào cõi tịnh độ.

Đại Sư Chagme Rinpoche khai thị:

Khi con ở trên đường đến cõi tịnh độ.
Con có thể nghe cha mẹ, thân nhân hay bạn bè gọi.
“Chúng tôi đây. Đừng rời bỏ tôi. Hãy trở lại"
Họ có thể gọi tên con, kêu khóc và than thở.
Nhưng thực ra họ là những thế lực xấu cản trở sự giải thoát của con.
Đừng nhìn lại hay trả lời họ gì cả.
Ngoài Đức Phật Vô Lượng Quang.
Đừng quán niệm ai cả.
Ngoài cõi Tịnh Độ Cực Lạc.
Đừng bám giữ một cái gì cả.
Như vậy chắc chắn con sẽ vãng sanh Tịnh Độ.

Chúng ta nên làm gì trong cõi Trung Ấm Bardo?

Chúng ta nên hành xử ra sao trong cõi trung ấm bardo? Trước hết, việc quan trọng nhất là xét kỹ để biết mình đã chết thật hay chưa, bằng cách quan sát một số dấu hiệu sau đây:

- Nhìn vào một tấm gương hay nhìn xuống mặt nước, nếu không thấy hình ảnh phản chiếu của mình, như vậy bạn đã chết rồi.
- Đi trên cát hay trên tuyết. Nếu không có dấu chân, bạn đã chết.
- Đi trong ánh nắng mặt trời hay trong ánh sáng. Nếu không thấy có bóng bên cạnh, bạn đã chết.
- Nếu bạn nói chuyện với người khác, họ không ngó nhìn bạn, hoặc họ không dọn đồ ăn cho bạn, đó không phải lỗi của họ, cũng không phải họ giận bạn. Đó là vì bạn đã chết rồi.

Sau khi biết là mình đã chết rồi, hãy cố gắng đừng buồn hay xúc động, vì như vậy sẽ không ích lợi gì mà chỉ có hại thêm mà thôi. Cố gắng phản ứng với cái chết theo ba cách sau đây:

1. Biết rằng mình đang ở trong một khúc quanh quan trọng nhất của cuộc đời bạn. Vì tương lai của mình, bạn không thể bỏ phí một khoảnh khắc nào cả. Đây là cơ hội thăng tiến lớn nhất của mình.

2. Nhớ đến và cảm thấy an vui về bất cứ con đường tâm linh nào mà mình đã theo đuổi trong cuộc đời. Đó sẽ là sức mạnh, hoan hỷ và an lạc lớn nhất của bạn.

3. Nhớ đến một pháp trong ba pháp tu tập sau đây, tùy theo khả năng và kinh nghiệm của mình. Rồi cố gắng an trụ trong pháp đó mà tu tập không xao lãng.

a. Khi trông thấy những hình ảnh người nam hay người nữ, như được nói đến trong "Sự giải thoát bằng việc nghe" (Liberation by Hearing), hãy nhận ra các vị này là các bộ phái Phật nam, nữ và các cõi tịnh độ. Biết rằng các vị là sự phản chiếu của Phật tâm của chính mình. Nếu cố gắng có cảm nhận tốt về các Ngài, bạn sẽ thấy các Ngài là nguồn gia hộ, vì tất cả các vị này chỉ là những ấn tượng của tâm trong cõi trung ấm bardo. Hãy nhớ đến niềm tôn kính đối với chư Phật, các vị Thầy tâm linh, và các pháp tu tập của mình. Nếu bạn có một kinh nghiệm nào đó về pháp tu Mật giáo, cố gắng chứng ngộ tánh nhất như của mọi sự vật diễn ra, vì theo giáo lý của Mật tông, tất cả những sự kiện đều là một trong chơn tánh của chúng. Bạn phải cố gắng thấy và cảm nhận rằng tất cả hình dạng hiền hòa hay phẫn nộ, mọi âm thanh và cảm giác mà mình có thể gặp phải chỉ là năng lực biểu lộ của tánh nhất như đó. Thấy những ánh sáng như ánh sáng-trí tuệ, hay chuyển chúng thành ánh sáng trí tuệ bằng những kỹ thuật tham thiền nào mà mình quen thuộc. Đừng bám giữ hay chống lại chúng với thái độ của chủ thể phản ứng với vật đối tượng, mà hãy rộng mở và hợp nhất với chúng. Hãy an tĩnh trong trạng thái nhất như đó. An trụ trong trạng thái đó nhiều lần.

b. Nếu không phải là một hành giả có kinh nghiệm hay chứng ngộ, mà chỉ là một người có đạo tâm, trước hết bạn nên cố gắng cho tâm được an tĩnh và ổn định. Rồi cố gắng nhớ lại sự hỗ trợ tâm linh của mình, dù đó là một sự hiện diện thiêng liêng, một vị Thầy, hay một kinh nghiệm tốt hiện diện với mình và ở trong tâm mình. Hãy cố gắng giữ sự tập trung tâm trí vào đó liên tiếp, thay vì bị xao lãng đến chỗ khác. Cố gắng trải lòng từ bi đến với người khác thay vì chống lại họ. Cố gắng nhìn thấy tất cả là những sự biểu hiện thiêng liêng thay vì những nguồn gây sợ hãi và khổ đau. Cố gắng cầu nguyện, trì chú và nghe mọi âm thanh như những lời tôn kính và từ bi thay vì những lời than khóc. Chúng ta phải cố gắng an trụ trong bầu không khí tâm linh như vậy trong suốt cuộc hành trình trong cõi chuyển tiếp vào trung ấm bardo này. Những ký ức tốt, những cầu nguyện thành tâm, và lòng từ bi rộng mở sẽ trở thành một nguồn bảo hộ mạnh mẽ, kinh nghiệm êm dịu, và trí tuệ ánh sáng làm cho chuyến hành trình chuyển tiếp trở thành một chuyến đi đầy hoan hỷ.

Người có đạo tâm và có kinh nghiệm tâm linh có thể làm công việc hộ niệm cho người khác. Qua oai lực của những lời cầu nguyện, tạo công đức, thờ cúng, hoặc tham thiền, có thể gợi lên trong tâm của chúng ta một hình ảnh và làm cho tâm ta an tĩnh. Rồi các Ngài có thể ban giáo lý cho chúng ta, khẩn cầu sự gia hộ từ bi của các vị Thần, và gia trì lực để hướng dẫn tâm chúng ta đến Phật quả hay ít nhất cũng dẫn dắt thần thức của chúng ta tái sanh vào các cõi an lành. Nếu chúng ta đã tạo một số thiện nghiệp nào đó thì sự hộ niệm này sẽ là những điều kiện đưa tới kết quả cho chúng ta và như vậy việc hộ niệm sẽ có lợi ích lớn cho cuộc hành trình chuyển tiếp trong cõi giới trung ấm bardo của chúng ta.

Tất cả những ký ức tốt hay những kinh nghiệm tốt mà chúng ta có thể tập hợp lại được sẽ phát sanh và tăng cường nguồn năng lực an lạc, tôn kính, từ bi, nhận thức thanh tịnh và trí tuệ. Nguồn năng lực đó sẽ đưa đến giác ngộ hay sự tái sanh tốt, cũng giống như lực của cảm xúc tiêu cực khiến chúng ta đọa vào cõi địa ngục. Một lực tốt như vậy có thể giúp chúng ta tránh được sự tái sanh vào địa ngục, ngay cả khi chúng ta đã tạo nghiệp xấu. Những kinh nghiệm và sức mạnh tâm linh nào mà chúng ta đã có được trong cuộc đời chắc chắn sẽ mang lại kết quả đúng lúc. Vì lẽ đó chúng ta hãy nên cẩn thận vận động lực thiện nghiệp thay vì những ác nghiệp, chính năng lực của thiện nghiệp này mà chúng ta có cơ hội quyết định vận mạng tương lai của mình.

Ngài Longchen Rabjam khai thị:

Dù chơn tánh đã xuất hiện như vậy nếu con không nhận ra nó.
Cõi chuyển tiếp bardo giống như ảo mộng sẽ xuất hiện.
Rồi do nhớ lại những cõi tịnh độ của chư Phật, và
Nương tựa nơi vị Thầy tâm linh và các vị Thần giáo hóa.
Con có thể tái sanh vào cõi tịnh độ và đạt đến giải thoát.
Cũng có nhiều người tái sanh làm người với bảy đức tính, và
Trong kiếp sau sẽ chắc chắn đạt đến giải thoát.

c. Nếu bạn không có kinh nghiệm tâm linh và kinh nghiệm thiền quán, khi trải qua những ảo giác trong cõi bardo, bạn phải nhớ không nên tức giận, bối rối hay sợ hãi, mà hãy cố gắng xem tất cả những gì xuất hiện với mình đều là huyền ảo, giống như những sắc tướng trong một giấc mộng. Chúng chỉ là những hình ảnh tưởng tượng có nguồn gốc là những thói quen tinh thần hay tính xấu và thêm vào là những cảm xúc phiền não của chính mình. Cố gắng làm tâm của mình rộng mở, tích cực, và an tĩnh, thay vì có thái độ bám giữ, hay cảm nhận xấu với những cảm xúc của tham, sân, và si. Cố gắng khởi lòng từ bi đối với người khác, những người cũng bị đầy đọa trong cuộc hành trình chuyển tiếp đáng sợ này. Nếu có thể gây dựng và duy trì một trạng thái tâm thức tích cực như vậy, được tịnh hóa bằng năng lực tôn kính, từ bi, tâm của bạn sẽ đạt đến nguồn đại an lạc, giống như bầu trời trong sáng không mây. Những lực nghiệp xấu nào đến gây mê loạn hay đau khổ sẽ bị xua tan. Niềm an lạc sẽ ngự trị trên tất cả những gì bạn trải qua trong cõi giới trung ấm này, bảo đảm một hành trình đầy hoan hỷ.

Ngoài ba pháp thực hành nói trên, chúng ta cũng có thể nhớ đến cách “đảo ngược” tiến trình tái sanh vào những cõi thấp, nếu phải gặp một tiến trình tái sanh như vậy. Nếu bạn thấy những điềm báo của một nơi tái sanh thấp, như những ánh sáng nhẹ và những dấu hiệu, nơi sinh hay Cha Mẹ trong tương lai, điều quan trọng nhất là không rơi vào ý nghĩ hay cảm xúc tiêu cực, ví dụ như bám giữ, thèm muốn, sân hận, ganh tị, lo sợ hay mê muội. Hãy cố gắng nhìn thấy chúng với một tâm an tĩnh bằng cách nhận biết chúng chỉ là những sắc tướng tạo ra từ tâm của chúng ta. Hoặc bạn có thể xem những hình ảnh những vị đó là các vị Thần nam nữ và cõi tịnh độ của các Ngài. Hãy cầu nguyện các vị Thần và vị Thầy tâm linh để được gia hộ và hướng dẫn.



#17 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 11/12/2011 - 10:24

SỬA SOẠN CHO HÀNH TRÌNH TƯƠNG LAI CỦA MÌNH

Trong cuộc đời này, tâm của chúng ta tương đối ổn định, vì nó trụ ở trong cấu trúc vật chất thô kệch và phàm tục tức là thể xác này. Điều làm cho chúng ta dễ đạt được tri kiến và thói quen tâm linh qua thiền quán. Nhưng cũng khó để làm những thay đổi hay cải thiện lớn lao, vì tâm bị kẹt và bị điều kiện hóa thân xác trần tục này. Nhưng trong hành trình chuyển tiếp trong cõi trung ấm bardo, tâm biến đổi nhanh chóng vì không có những chướng ngại của thân xác. Vì vậy, hành trình tương lai của chúng ta sẽ dễ dàng thay đổi và cải thiện. Nhưng chúng ta cũng sẽ khó tìm được đường đạo và tập trung tâm trí vào đó, vì không có một thân vật chất để an trụ vào. Trong cõi trung ấm, thần thức của chúng ta tiếp tục sống với những thói quen đã có từ trước và trôi nổi nhanh đến vận mạng tương lai của mình.

May mắn thay, hiện tại chúng ta đang sống và có một thân vật chất để trụ vào và như vậy có thể sửa soạn cho cõi trung ấm bardo và kiếp kế tiếp của mình. Nếu có thể thọ hưởng an lạc, sức mạnh và trí tuệ trong lúc còn sống, thì khi qua đời, chúng ta sẽ thực sự vui mừng nghĩ rằng, “Mình thật là hạnh phúc, vì mình đã chuẩn bị tất cả cho lúc này. Mình đã không bỏ phí một cơ hội tốt nào”. Trong cõi trung ấm bardo tâm của chúng ta sẽ trong sáng và mạnh mẽ hơn hiện tại. Những kinh nghiệm của tâm sẽ rõ rệt và nhạy bén hơn. Nếu chúng ta đã có những kinh nghiệm tốt khi còn sống, chúng ta sẽ thọ hưởng kết quả của chúng ta trong giai đoạn chuyển tiếp này một cách dễ dàng, rõ rệt và hiệu quả. Nhưng sẽ rất khó để gây dựng tinh thần mới và kinh nghiệm mới, vì chúng ta cần phải có sự ổn định để tạo những thói quen mới cho tâm trí ta.

Nếu ý thức về sự an tĩnh, hoan hỷ, và rộng mở đã trở thành một phần trong tâm thức của chúng ta khi còn sống, thì ở trong cõi trung ấm, tất cả những trạng thái tâm và những hiện tượng xung quanh chúng ta sẽ xuất hiện như những sắc tướng và kinh nghiệm tốt. Ngay cả năm cảm xúc phiền não của tâm cũng sẽ xuất hiện như năm trí tuệ, và năm nguyên tố vật chất xuất hiện như năm ánh sáng nguyên thủy, vốn là năng lượng ánh sáng trí tuệ hiện diện tự nhiên. Nhiều vị Thần nam nữ sẽ hướng dẫn chúng ta đi trên con đường của mình. Thân tâm trí của chúng ta sẽ bay đi như một chim ưng qua bầu trời xanh trong không mây vô tận với nhiều lễ vật kỳ diệu xuất hiện, tiếng nhạc và vũ điệu hoan hỷ khắp trong không gian. Chúng ta sẽ được chào đón đến những cõi tịnh độ hay cõi trời an lạc, đẹp đẽ và hỷ lạc nhất. Chúng ta cũng sẽ có năng lực tiếp dẫn nhiều người khác đến những cõi tịnh độ này với những nghi thức huy hoàng như vậy. Nếu tất cả chúng ta có sự sửa soạn tâm linh khi còn sống ở thế gian thì tất cả những sự nói trên sẽ diễn ra đối với chúng ta.



#18 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 11/12/2011 - 10:46

Chương Năm

CHUYỆN KỂ VỀ CÕI TRUNG ẤM BARDO

Kinh nghiệm sau khi chết của các vị Delog người Tây Tạng

Vì phần lớn những lời kể của các vị delog là về cõi trung ấm bardo, nên tôi dành trọn vẹn chương này cho những chuyện được tuyển chọn của họ. Mục đích của chương này là trình bày những nghiệp báo không thể tránh được mà mọi người sẽ phải đối diện. Tôi hy vọng chương này sẽ giúp mọi người cư xử đúng cách và cải thiện tương lai của mình.

Người ta thường hỏi tại sao những delog chỉ nói về những lời cầu nguyện, pháp tu thiền quán, các vị Thần, các vị Thầy tâm linh. Tôi nghĩ rằng điều này là một vấn đề. Theo ý tôi thì những ý nghĩ, những cảm giác an lạc và sự biểu hiện của họ trong những lời nói và hành động đều trở thành những nguồn tạo lợi ích và giải thoát, dù chúng được trình bày qua Phật Giáo hay một tín ngưỡng nào khác. Bất cứ ai đã đạt được trí tuệ an lạc vô thượng thì đều có năng lực giải thoát cho người khác, dù vị ấy mang hình dạng thuộc Phật Giáo hay không. Tuy nhiên, các delog Tây Tạng đã chứng kiến năng lực của những vị Thần và giáo lý Phật Giáo vì chính họ là những tín đồ Phật Giáo, thói quen tinh thần và nhân duyên của họ liên quan đến các vị Thần và giáo lý của Phật Giáo. Như đã nói ở phần trước, người Phật tử tin rằng mọi sắc tướng chúng ta và mọi kinh nghiệm mà chúng ta trải qua chỉ là những hình ảnh phản chiếu của những thói quen tinh thần của chúng ta. Vậy dù chúng ta có tin theo bất cứ tôn giáo nào, nếu có trí tuệ về an lạc vô thượng, thì nó sẽ là nguồn lợi ích thực trong cuộc sống và trong lúc chết. Chúng ta sẽ xem và thấy tín ngưỡng của mình là nguồn giải thoát. Danh hiệu và hình tướng bên ngoài không thực sự là vấn đề, vì chúng chỉ là những phương tiện để đạt đến cứu cánh. Chỉ có phẩm chất bên trong mới là đáng kể.

Khi đọc những chuyện kể này, nên nhớ rằng các nhân chứng khác nhau có kinh nghiệm về âm thanh, hình ảnh và những hoạt động của cõi trung ấm một cách khác nhau, vì những hiện tượng này là những ảo giác hay những phản chiếu tinh thần của riêng họ. Ví dụ, một người có thể thấy vị Pháp Vương trong hình dạng phẫn nộ, trong khi một người khác thấy các vị này trong hình dạng hiền hòa. Một số có thể trông thấy vị Thần Mặt Khỉ (Monkey-Face One) đang ghi chép, trong khi người khác thấy vị này đang xét những hành vi tốt và xấu của một người được phản chiếu trong tấm gương ở Tòa Phán Xét. Dù có những khác biệt giữa những cá nhân, nhưng điều đáng chú ý là vẫn có rất nhiều điểm tương đồng trong những lời kể của các vị delog.

NHỚ LẠI TẤT CẢ NHỮNG GÌ MÌNH TRÔNG THẤY: KINH NGHIỆM CỦA BÀ LINGZA CHOKYI

Mỗi câu chuyện của delog đều có một loại trí tuệ hay minh triết khác nhau. Chuyện kể của bà Lingza Chokyi có thể giống những kinh nghiệm mà phần lớn người bình thường có thể có vào lúc chết và sau khi chết. Bà Chokyi thấy chính bà nhìn vào giường mình và trông thấy xác chết của một con rắn lớn mặc y phục của bà, bốc mùi hôi thối kinh khiếp. Con rắn chết đang mục rữa là thể xác của bà, nhưng bà không nhận ra nó. Người chết thường không nhận biết xác chết của chính mình trong hình dạng thật, ngay cả khi họ nhìn thấy nó.

Khi những người con của bà Chokyi bắt đầu khóc, ôm và hôn con rắn, thì tất cả những nhận thức của bà đột ngột biến đổi. Bà bắt đầu nghe thấy những âm thanh rền vang như sấm sét cùng lúc. Bà trông thấy một cơn mưa máu và những cục mủ lớn cở quả trứng rơi xuống mình. Bà không thể chịu đựng nổi! Nhưng ngay khi các con của bà ngừng khóc, tiếng sấm sét và âm thanh của cơn mưa ngừng lại tức khắc. Không gian trở nên yên tĩnh, và tất cả mọi sự đau đớn và sợ hãi chấm dứt. Những nhận thức của bà đã trở lại bình thường trong một lúc. Người Phật tử Tây Tạng thường tin rằng sự khóc lóc kể lể sẽ làm tổn hại cho người chết. Đó là lý do mà đại hành giả Milarepa đã nói lên những ý nguyện sau đây:

"Không có ai hỏi về bệnh tật của tôi.
Không có ai khóc cho tôi khi tôi chết.
Nếu tôi có thể chết trong sự cô đơn như vậy.
Thì ý nguyện của hành giả này sẽ trở thành sự thật.

Không có dấu chân của người thân ở cửa hang.
Không có vết máu ở bên trong do tranh chấp quyền thừa kế.
Nếu tôi có thể chết trong sự cô đơn như vậy.
Thì ý nguyện của hành giả này đã được thực hiện".

Chokyi nghe thấy em trai của mình nói với những người thân trong gia đình: “than khóc không ích lợi gì cả. Tốt hơn nên tổ chức tang lễ. Chúng ta phải cung thỉnh một vị lạt ma để làm pháp chuyển di thần thức phowa, Chúng ta phải thỉnh Đại Sư Thugje Rinpoche và hai mươi hoặc ba mươi vị Tăng sĩ để làm lễ cầu siêu.” (Một tang lễ có thể kéo dài nhiều tuần hoặc suốt bốn mươi chín ngày tùy theo khả năng của gia đình người quá cố). Chúng ta cũng phải thỉnh Đại Sư Gomchen, một Lạt Ma Đại Hành Giả chủ trì cho lễ tang, vì bà ấy tin tưởng nơi vị Tăng này”. Bà Chokyi có thể trông thấy và nghe thấy gia đình đang sửa soạn tang lễ cho mình, nhưng bà lại nghĩ rằng họ đang làm một buổi lễ gì đó khác. Khi một vị Lạt ma bắt đầu tụng kinh Kim Cương (Vajracchedika Sutra/Diamond Sutra), bà Chokyi chỉ nghe thôi cũng cảm thấy hoan hỷ. Buổi chiều hôm đó, Đại Sư Gomchen và khoảng hai mươi vị Tăng đến nhà. Bà đảnh lễ đến Ngài Gomchen cùng những vị khác và đến gần để nhận sự gia hộ từ các Ngài. Nhưng các vị này không đáp ứng gì cả, bà nghĩ có lẽ họ giận mình chăng. Bà hỏi: “Nếu quý Thầy giận con thì quý Ngài đến đây làm gì?” Không ai trả lời gì cả. Bà Chokyi không thể hiểu tại sao họ cũng không nhìn thấy mình.

Bà Chokyi thấy Đại Sư Gomchen đặt tay lên đầu của “con rắn” và nói, “Chokyi, cái chết đã đến với con. Đừng luyến ái đến con cái, tài sản, hay đồ ăn. Hãy hòa nhập thần thức của con vào tâm thức của ta. Rồi chúng ta sẽ cùng lên đường về cõi Cực Lạc của Phật Vô Lượng Quang. Chúng ta sẽ đi đến đó!” Bà Chokyi nghĩ, “Mình đâu có chết. Mình vẫn còn thể xác đây mà.” Cùng lúc đó, bà muốn hòa nhập như lời khai thị của vị lama. Nhưng vì sợ con rắn nên bà lui lại. Lúc đó, bà nghe Đại Sư Gomchen hô lớn PHAT, bà cảm thấy vui mừng và an lạc. Rồi Ngài Gomchen nói với gia đình của bà. “Việc làm pháp chuyển di thần thức bây giờ là đã quá trễ, vì Chokyi đã rời khỏi thể xác rồi.”

Sau đó mọi người ăn tối, nhưng không có dọn thức ăn cho Chokyi. Đại Sư Gomchen nói với con gái của Chokyi, “Hãy dọn thức ăn cho Mẹ của con”. Con gái của bà liền làm một đĩa thức ăn với một miếng thịt và một tách trà. Đặt những món này gần con rắn, cô bé nói, “Mẹ ơi, con mời Mẹ ăn.” Dù đang đói và khát, bà Chokyi không thể ăn được, vì con rắn làm cho bà cảm thấy gớm ghiếc. Chokyi giận con gái của mình vì cô bé đặt đĩa thức ăn ở gần con rắn. Sau bữa ăn chiều, Đại Sư Gomchen vừa cầu nguyện vừa đốt các món ăn của bà trong lửa để làm lễ cúng hiến phạn cho người chết. Chỉ đến lúc đó bà Chokyi mới cảm thấy thỏa mãn cứ như thể bà mới ăn uống xong. Sur là một nghi thức truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, cúng dường thức ăn, nước uống, và của cải cho người chết hay những vong linh khác. Những lễ vật "sur" được gia hộ bằng những lời cầu nguyện và thiền quán, rồi sau đó hiến cúng cho những vong linh đó. Đồ cúng được thiêu đốt để tỏa ra mùi, vì sinh linh trong cõi trung ấm chỉ có thể hưởng những mùi hương. Sau nghi lễ này, bà Chokyi không còn cảm thấy đói khát nữa.

Ngay sau khi vị lama thiết trí xong bàn thờ, các vị bắt đầu cử hành tang lễ. Đại Sư Gomchen tham thiền một mình. Bà Chokyi tiếp tục cảm thấy buồn vì bà nghĩ mọi người bất mãn với mình; Vì họ không tiếp món ăn cho bà; Và vì bà không còn thân xác vật chất nên bà không thể ở yên một chỗ và duy trì một cảm xúc. Rồi bà nảy ra một ý tưởng “Mình sẽ lấy những món nữ trang của mình và bỏ đi.” Đúng lúc đó, các con của bà lại òa lên khóc và một cơn mưa máu và mủ bắt đầu dội lên người của bà Chokyi. Bà không thể nhìn thấy gì cả, và thần thức của bà bắt đầu nhảy quanh quẩn nhiều hơn nữa. Bà Chokyi muốn chạy đến chỗ Đại Sư Bangar Rinpoche đang làm chủ lễ, nhưng bà nghĩ, “Ngài là một vị Tăng, có lẽ không thích hợp cho một phụ nữ đến gần.” Vì vậy bà đứng nấp ở phía sau lưng Ngài. Buổi lễ mang lại sự an ủi êm dịu cho bà nhưng bà vẫn cảm thấy sợ. Sau đó bà chạy đến chỗ Đại Sư Gomchen. Bà thấy Ngài có hình dạng trong suốt như Bồ Tát Quán Thế Âm (Avalokiteshvara). Ngài đang nói, “tội nghiệp! tội nghiệp! (Nyingje! Nyingje!). Bà Chokyi hiểu rằng Đại Sư Gomchen đang hợp nhất thần thức của bà với tâm Ngài, vốn an trụ trong trạng thái thiền quán định tĩnh. Bấy giờ bà cảm thấy bớt sợ và tâm trí xao động của bà nhập vào một an lạc kỳ lạ.

Một lúc sau, bà trở lại với những suy nghĩ trôi nổi thông thường. Bà thấy người ta có bữa ăn. Ngài Gomchen lại làm lễ sur, bà hưởng thức ăn đã được hồi hướng cho bà trong dạng mùi. Sau một lúc, bà nghe một giọng nói từ bên ngoài, “Chokyi, lại đây!” bà đi ra. Một người nào đó đang ở bên ngoài mà bà nghĩ là Cha mình. Ông nói, “Hãy ra ngoài, ta có cái này muốn cho con thấy. Ta sẽ để cho con trở về sớm thôi.” Nghe thấy vậy, bà lại nghĩ, “Nhà mình có đầy những vị lama. Nhưng tất cả các vị này đều giận mình. chồng và con không dọn đồ ăn cho mình. Vậy mình sẽ đi theo Cha.”

Ngay sau khi nghĩ như vậy, bà thấy mình ở trên một con đường khô cằn xám xịt, không có một cọng cỏ hay một cái cây nào. Từ chỗ đó bà có thể thấy những vật ở rất xa, và bà thấy một cánh đồng cát bằng phẳng, rộng lớn. Ở giữa cánh đồng có một con sông lớn đang chảy, nhưng khó có thể nói là nó chảy theo hướng nào. Bà thấy một chiếc cầu rộng. Bên này của chiếc cầu, ở chân núi là một thành phố lớn. Người đã gọi Chokyi ra, bây giờ đưa bà đến thành phố đó và nói với bà, “Hãy nhìn quanh đây xem có người nào mà con quen biết hay không. Ta sẽ đi qua bên kia sông. Con cũng nên qua bên đó.”

Thành phố này có nhiều người đến mức bà thấy giống như một tổ kiến. Một số người mặc y phục nhiều màu và có diện mạo đẹp đẽ. Số khác mặc quần áo xấu xí và dơ bẩn. Nhưng tất cả đều buồn bã, khóc lóc và có nét mặt u ám. Chokya nghĩ “Có lẽ mình cũng ở trong tình trạng giống như những người này,” Chokyi bắt đầu run sợ. Trong đám người đó, Chokyi nhận ra Chogon, là người trước kia thường trông coi đàn gia súc cho bà. Anh ta nhìn Chokyi và nói với vẻ quan tâm, “Ủa, chị đã đến đây rồi sao?” bà đáp “phải, tôi vừa đến.” Sau đó Chokyi hỏi dồn dập, “Anh sống ở đây à? Những người này là ai? Tại sao họ có vẻ không vui? Có người bảo tôi qua bên kia cầu, tôi nghĩ phải đi đến đó. Vậy có ai ở bên đó không ?".

Chogon nói, “Đây là thành phố chuyển tiếp, vùng biên cương giữa người sống và người chết. Mọi người đang đợi ở đây vì tuổi thọ trên trần gian này chưa hết. Những người mặc quần áo đẹp và có khuôn mặt đẹp là những người đã tích lũy công đức trong quá khứ. Họ đang đợi để có thêm công đức mà gia đình của họ ở cõi người tạo lập và hồi hướng cho họ. Những người mặc quần áo dơ bẩn và nước da xấu là những người không có công đức nào cả, cũng không có ai tạo công đức cho họ. Ngay sau khi tuổi thọ chấm dứt, mỗi người trong chúng ta sẽ đi qua bờ sông bên kia. Ở bên đó có vị Pháp Vương của Tử Thần và các đao phủ của Ngài. các vị này sẽ xét bản công và tội của mọi người. Những người có công đức sẽ được các Ngài cho đi lên các cõi cao hơn hoặc được giải thoát. Những người đã tạo ác nghiệp sẽ bị đọa xuống địa ngục. Ở trong địa ngục họ sẽ bị thiêu đốt và bị luộc trong nước sôi không thể tưởng tượng được. Ngày đêm tôi lo nghĩ về số phận đang đợi chờ mình. Tôi đã đến bên kia mấy lần rồi, nhưng họ bảo tôi cứ đợi ở đây, vì tuổi thọ của tôi chưa hết. Chị có thể đi qua bên kia để xem mấy vị Thần Chết nói gì. Nếu phải đợi ở đây, thì chị cứ trở lại.”



#19 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 15/12/2011 - 07:43

Sự Phán Xét của các Thần Chết

Không bao lâu sau đó, bà Chokyi được gọi đến bên kia sông. Ở đó bà thấy một bức tường lớn. Phía bên kia của bức tường là một ngai lớn bằng vàng. Ngồi trên ngai là vị Pháp Vương của những Thần Chết. Diện mạo của Ngài màu vàng, và mặc áo tu sĩ thêu chỉ vàng. Hai tay Ngài đặt trong tư thế thiền quán. Trên đỉnh đầu Ngài có một chỗ lồi lên. Có những tấm màn lụa bao quanh và những lọng thêu kim tuyến che trên đầu Ngài. Đủ loại trang trí và lễ vật dâng cúng được thiết bày chung quanh Ngài. Vì vậy bà Chokyi thấy vị Pháp Vương trong hình dạng của Đức Phật.

Ở bên phải của Pháp Vương là một vị Thần Chết có thân người và đầu bò, tay đang cầm một tấm gương. Ở bên trái là một Thần Chết đầu khỉ trong tay cầm một cái cân. Ở phía trước Pháp Vương là Thần Chết đầu hươu, đang viết và đọc một cuốn sổ. Ngoài họ ra còn có nhiều vị Thần Chết với những đầu thú khác nhau. Mặc những loại trang phục đáng sợ, họ nhe nanh, trợn mắt, vung đủ loại khí cụ và la lớn “Giết! Giết! Đánh! Đánh! Ha! Ha! Hung! Hung!”. Họ chạy, nhảy khắp nơi. Thật là một cảnh tượng đáng sợ. Tòa Phán Xét đang định đoạt số phận của khoảng ba trăm người. Trong số những người này có một vị tu sĩ tay cầm chuỗi hạt. Pháp Vương đang hỏi vị Tăng này chi tiết về những gì đã làm trong lúc còn sống trên thế gian. Vị này kể ra nhiều việc tốt. Về việc xấu thì vị này chỉ nói đến một điều là ăn thịt.

Pháp Vương ra lệnh cho Thần Đầu Bò Awa và Thần Đầu Khỉ kiểm tra lại trong sổ. Họ tường trình với Pháp Vương rằng, ngoài những điểm khác biệt không quan trọng, vị tu sĩ đã nói đúng sự thật. Lúc đó, Vị Thần Bảo Hộ Trắng xuất hiện và biện hộ cho vị tu sĩ, “Người này đã tạo lập công đức lớn và đã không làm điều gì xấu. Vị này không đáng bị đưa vào cõi người hay cõi trời, mà xứng đáng đưa về một cõi tịnh độ của đức Phật.” Rồi Ngài trình ra một túi đựng những hòn sỏi trắng, tượng trưng cho những công đức của vị tu sĩ.

Sau đó, Quỷ Đen hiện ra và chống lại "người này đã tạo nhiều nghiệp xấu trong nhiều kiếp trước, vì vậy phải đầy y xuống địa ngục ". Quỷ Đen trình lên một cái chén đầy những viên sỏi đen biểu trưng cho những bất thiện nghiệp của vị tu sĩ. Sau khi so sánh hai bên, các vị này thấy thiện nghiệp nặng hơn nhiều so với bất thiện nghiệp. Vị Pháp Vương tuyên bố “tất cả những nghiệp xấu của người này đã được những nghiệp tốt giải trừ rồi". Sau đó Pháp Vương phán quyết: “Ngươi đã thành tựu bổn phận làm người. Được sanh ra làm người tốt hơn sanh vào cõi trời. Vậy Ta gởi ngươi đến làm con của một gia đình giàu có. Ở đó ngươi sẽ tiếp tục theo đuổi con đường đạo và tu tập tinh tấn”. Ngay sau đó, vị tu sĩ biến mất theo một con đường màu vàng lốm đốm.

Tiếp đó, Thần Chết tra hỏi một người khác. Người này nói, “Tôi không có chi tiết gì để kể về những việc làm tốt cho các Ngài. Tôi là một người nghèo khổ, thiếu ăn. Vợ tôi cũng không có đạo tâm. Vậy, ngoài việc đóng thuế, tôi đã không bố thí nhiều, tôi cũng không tu tập gì về thân và tâm. Tôi đã sát sanh một số cá, gà, dê, và cừu. Do ảnh hưởng những người xấu, tôi đã ăn trộm đồ vật của những vị ẩn tu, tôi rất hối hận!”. Người này run rẩy và tự đánh mình. Những Thần Chết cầm khí cụ lên và cười vui vẻ. Còn bà Chokyi thì sợ hãi. Sau khi kiểm tra lại, những Thần Chết trình tâu với Pháp Vương, “Làm sao có thể đếm số cá mà người này đã bắt giết? y cũng đã giết hai mươi chín con gà, bốn mươi bảy con heo, bốn mươi ba con cừu, và sáu mươi con bò. Hãy xem con số côn trùng đã bị y giết hại khi đốt một quả núi! Cùng với bốn người khác, y đã đánh và ăn cắp của bốn người đi hành hương.”

Nghe đến đây, Pháp Vương nói, “Ngươi đã làm những việc xấu như vậy, ngươi đã có lòng dạ hư thối, ngươi không lo cho bản thân mình một chút nào hay sao? Cướp bóc và làm hại những người có đạo tâm là tội còn nặng hơn giết các loài thú.” Ngài nói với các Thần Chết, “Bây giờ hãy cho y chịu đau khổ trong những địa ngục khác nhau. Y sẽ thọ hưởng những quả báo vô đạo đức của những việc cướp bóc, nên y phải chịu ăn uống bằng những hòn sắt nấu chảy.” Vị Thần Bảo Hộ Trắng hiện ra xin giảm án và đưa ra hai mươi hòn sỏi trắng để tiêu biểu cho việc làm thiện của người đó. Rồi Quỷ Đen xuất hiện và đòi phải giam người đó vào địa ngục thấp nhất, vị này trình lên một số lượng lớn sỏi đen như Núi Tu Di (Sumeru). Lập tức, các vị Thần Chết tròng một sợi dây thòng lọng quanh cổ người đó, dùng móc sắt móc vào ngực và lôi y vào khu phòng sắt nóng cháy.

Kế tiếp là một tu sĩ đang mang một túi thuốc trên vai. Khi được tra hỏi, vị ấy kể ra tất cả những kinh sách mà mình đã tụng niệm và tất cả những lễ cúng mà mình đã làm. Vị ấy cho biết chưa bao giờ để cho một hành giả nghèo (poor yogis) ra đi tay không. Vị ấy là thầy thuốc và chữa bệnh cho tất cả mọi người với khả năng tốt nhất của mình. Vị ấy không bao giờ đòi trả lệ phí mà chỉ nhận những gì người bệnh đem biếu cho. Vị ấy không bao giờ cho ai dùng lầm thuốc. Vị ấy không bao giờ giết một con gia súc nào, vì là một gia chủ, ông chỉ liên quan gián tiếp sát sanh.

Sau đó những vị Thần Chết kiểm tra lại trong tấm gương và nói, “Ngươi đã nói thật về những nghiệp tốt của mình. Nhưng khi anh của người là Chongthar ngã bệnh. Ông ta đến để nhờ ngươi chữa bệnh. Vì ganh tị với sự giàu có của người anh mà ngươi đã cố tình cho ông ta uống không đúng thuốc, và ông ta đã bệnh nặng hơn trong tám tháng. Cuối cùng ngươi cũng chữa lành bệnh cho ông ta nhưng lại lấy một bộ áo giáp chất lượng tốt để bù vào công chữa bệnh của ngươi. Ngươi cũng đã giết một trăm bảy mươi ba gia súc.”

#20 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 15/12/2011 - 07:49

Khi đếm sỏi, các vị thần thấy số lượng sỏi trắng nhiều hơn một chút, nhưng khi cân thì nghiệp xấu lại nặng hơn.

Vị Pháp Vương nói với vị tu sĩ, “Nếu không cho uống sai thuốc, ngươi có thể được tái sanh vào cõi trời hay cõi người.” Rồi Ngài ra lệnh cho Thần Chết, “Hãy đưa người này đến hồ nước độc nóng sôi, lúc nào cũng cho y uống nước độc đang sôi đó. Đóng một ngàn gai sắt lên cơ thể của người này. Khi nghiệp bất thiện đã được giải trừ, sẽ cho y đi lên". Các vị Thần Chết lấy móc sắt móc vào ngực lôi đi giữa sự rúng động của mọi người.

Tiếp đó, một người đàn ông mặc quần áo len xanh thú tội, “Khi người vợ thứ nhất bỏ tôi, tôi mất đi tất cả hai trăm gia súc. Để trả thù, tôi đốt trụi hai ngôi nhà của cha mẹ cô ta, thiêu chết bảy mươi lăm gia súc, bắn và giết một người đàn ông và một phụ nữ khi họ đang cố chạy trốn. Sau đó tôi tái hôn và trở nên giàu có. Để thanh lọc những ác nghiệp của mình, tôi đi hành hương lễ bái khắp đất nước Tây Tạng trong hai năm và đã gặp nhiều vị lạt ma thành tựu. Tôi đã khóc lóc và sám hối tội lỗi của mình trước mọi người. Tôi đã tiếp nhận được gia trì lực và truyền pháp thiền quán về chơn tánh, về sự hợp nhất của quang minh, trí tuệ và chơn không. Tôi đã tuyệt thực nhiều lần và đã thọ trì nhiều kinh điển.”

Vị Pháp Vương nói, “Có nhiều người làm điều tội lỗi, nhưng rất ít người thanh lọc ác nghiệp. Nếu biết thanh lọc thì ác nghiệp có thể được giải trừ. Nếu ngươi đã tạo nghiệp tốt mà không có nghiệp xấu thì ngươi sẽ là người hướng dẫn những ai có liên hệ với mình đạt đến giải thoát. Nhưng ngươi sẽ tái sanh lại cõi người và sẽ tu tập theo Kim Cương Thừa hay Mật Tông, và trong bốn kiếp nữa ngươi sẽ thành tựu trong việc đạt đến Phật quả. Vậy ngươi hãy đi theo con đường màu vàng, là con đường đến cõi người và cõi trời”.

Một lúc sau, nhiều người đến Tòa Phán Xét Pháp Vương cùng lượt với bà Lingza Chokyi đã được đi lên hay đi xuống các cõi tái sanh khác nhau. Nhiều người được các vị Thầy của họ đưa lên các cõi cao. Nhưng rồi vẫn có những người mới được đưa vào. Bỗng vị Pháp Vương đứng dậy nói, “đó, ông ta đã đến kìa”. Bà Chokyi thấy trên đường đèo ở xa đi đến một vị Tăng với vóc dáng khỏe mạnh to lớn, với ba trăm người vây quanh. Đi sau đoàn người này là khoảng ba ngàn người nữa. Tất cả đều nhảy múa và niệm Thần chú OM MANI PADME HUNG.

Sau đó vị tu sĩ tuyên bố: “Tôi là Jechung, người niệm OM MANI PADME HUNG. Đây là cõi trung ấm và địa ngục. Tất cả những ai có liên hệ với tôi, hãy đi theo tôi. Tôi sẽ hướng dẫn các vị đến cõi tịnh độ". Những cánh cửa của địa ngục đột ngột mở ra một cách tự nhiên. Các vị Thần Chết ngất xỉu và những khí cụ rơi khỏi tay họ. Dòng người đông đảo đi theo vị tu sĩ. Những vị Thần Chết đứng dậy với vẻ tôn kính và ra lệnh, “nhiều người trong các ngươi có thể rời nơi đây nhưng không phải tất cả.” Có khoảng ba trăm người bị bắt lại trong dòng người đó và đưa họ trở lại địa ngục.

Bà Chokyi không có mối liện hệ gì với vị tu sĩ này, nên không đi theo vị ấy. Bà hỏi vị Pháp Vương, “Vị tu sĩ đó đem theo nhiều người mà không cần hỏi han gì tòa án này. Ngài đã giải thoát cho những người đó khỏi luật lệ nghiêm khắc của tóa án này. Làm sao vị ấy có oai lực lớn như vậy?” Vị Pháp Vương giải thích, “Vị tu sĩ đó được gọi là Jochung Ma-we Seng-ge, người trì niệm OM MANI PADME HUNG. Ngài đi tu từ hồi còn nhỏ. Ngài có lòng tin tưởng nơi Bồ Tát Quán Thế Âm (Avalokiteshvara), lúc nào cũng trì niệm OM MANI PADME HUNG và có lòng từ đối với tất cả chúng sanh. Ngài thực hành và tuyên dương phép tuyệt thực. Ba trăm người đến với Ngài là những người đã tạo nghiệp tốt thực hành phép tuyệt thực cùng với Ngài. Những người mà Ngài đưa đi là những người tin tưởng, thấy, tiếp xúc, nghe giáo lý, cúng dường Ngài hoặc nhận sự gia trì, của Ngài. Những người bị bắt lại là những người không có nhân duyên nào với Ngài hoặc đã có mối liên hệ tiêu cực đối với Ngài.

Người kế tiếp là một nữ tu có vẻ đẹp hấp dẫn. Tòa án nhận thấy cô ta chỉ tham muốn những thú vui của trần gian. Cô không có tín tâm, không bố thí, và tạo nhiều nghiệp xấu. Cô van xin được trở lại trần gian để tu tập theo Giáo Pháp. Nhưng cô đã bị đẩy xuống địa ngục. Tiếp đó, một cô gái cầm xâu chuỗi trong tay đang niệm OM MANI PADME HUNG đi đến gần. Cô tên là Marza Chodron. Cô đã học giáo lý và được gia hộ. Cô giữ gìn niềm tin, cúng dường, phụng sự các tu sĩ, và chết ở tuổi ba mươi ba.

Cô ta nói, “Tôi đã được các vị lạt ma chỉ dạy rằng bất cứ những sắc tướng và âm thanh tốt hay xấu nào của thế giới bên ngoài xuất hiện, cũng là những ảo giác của tâm thức. Không có gì là thật cả. Vì vậy tất cả các vị mà tôi thấy ở đây là những sắc tướng tự xuất hiện trong tâm của tôi. Thực tế thì không có một vật nào có sự hiện hữu thực sự. Tôi không nghĩ rằng thân xác của tôi là có thật. Dù những hình thể hay màu sắc nào xuất hiện với tâm tôi, thì tôi cũng không có gì để nắm giữ cả. Vì vậy không có gì bị luộc hay bị thiêu đốt trong địa ngục cả".

Trong tấm gương của các vị Thần Chết thấy có nhiều nghiệp tốt hơn là cô đã kể. Nhưng họ cũng nhận thấy cô đã gián tiếp can dự vào những nghiệp bất thiện như giết một số côn trùng. Cô cũng gián tiếp đến việc cho phép làm thịt bảy con gia súc cho tiệc cưới của cô. Một phần tư nghiệp quả của việc sát sanh này sẽ thuộc về Cha Mẹ của cô dâu và chú rể, một phần tư thuộc về cô, một phần tư thuộc về chồng của cô, và một phần tư thuộc về người đồ tể. Tuy vậy Pháp Vương đã ngợi khen về những việc mà cô đã làm trong đời sống nói chung: “Nhờ thiền quán về thật tánh của tâm, ngươi đã nhận ra được tánh Không của vạn vật. Tất cả chúng đều xuất hiện từ tâm của chính ngươi. Ngươi đã đạt được trí tuệ về tánh Không, về mọi huyền ảo, Ngươi đã tu tập trong ý nghĩa của tâm bất khả phân và những vật đối tượng xuất hiện đến tâm. Đó là công đức vô thượng.

Dù người chưa chứng ngộ chân lý tối thượng, vì quá trình tu tập của ngươi chưa bao lâu, nhưng những gì ngươi đã đạt được cũng có sức mạnh. Tất cả những nghiệp xấu mà ngươi đã tạo đã được giải trừ. Nhưng trước khi ngươi chứng ngộ được chơn tâm, linh thị về các cõi tịnh độ sẽ chưa xuất hiện. Bây giờ ngươi sẽ tái sanh vào xứ Oddiyana (ở miền Tây Bắc Ấn Độ, giáp giới với Pakistan & Afghanistan) và sẽ tu tập theo mật giáo trong tám mươi năm. Sau đó người sẽ thác sanh về thế giới Cực Lạc và đắc Phật quả ở đó”. Lúc đó vị Thầy của cô, Đại Sư Gomchen Kunga Yeshe đến cùng với nhiều người có nhân duyên với vị Thầy này. Cô đã đi theo con đường màu trắng.

Một ông già khoảng bảy mươi tuổi vừa đến, tay cầm xâu chuỗi và bánh xe pháp luân cầu nguyện, được tháp tùng bởi sáu mươi người nam và nữ. Họ đang trì niệm OM MANI PADME HUNG. Ông ta nói: “Tôi là Sherab Rinchen, người khắc câu Thần chú OM MANI PADME HUNG trên đá. Tất cả những người nào có nhân duyên thì hãy đến đây với tôi. Tôi đã được mời về cõi tịnh độ của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm”. Có khoảng bốn trăm người đi theo ông. Nhưng ba người bị những vị Thần Chết kéo lại.

Vị Pháp Vương nói, “Ông ấy đã trì niệm gần một trăm triệu biến OM MANI PADME HUNG. Ông cũng đã khắc câu Thần chú OM MANI PADME HUNG lên nhiều tảng đá và ông đã đặt bên lề đường để mọi người có thể bái lạy và thọ trì. Ông có một vợ và ba con. Những người đi theo ông là những người đã tin tưởng nơi ông. Ông có thể giải thoát cho nhiều người khác, nhưng vì người Tây Tạng nghĩ rằng đời sống hôn nhân là không phù hợp với một lạt ma nên nhiều người đã không tin tưởng ở ông ta”.

#21 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 15/12/2011 - 07:52

Vào thăm Địa Ngục

Đến lúc này, những người đã đến Tòa Án cùng với bà Chokyi đều đã được đưa đi lên hay xuống sau khi thẩm vấn. Ngoại trừ Chokyi, trong những người đến trước đây, bây giờ đều không còn ai ở lại. Nhưng nhiều người mới vẫn tiếp tục đến và chờ đợi. Bà Chokyi tự nghĩ, “Mình không có nhiều nghiệp tốt để kể ra, mà ở đây lại không thể nói dối được. Vậy mình phải làm sao đây?”. Bà bắt đầu run lên vì sợ hãi. Ngay lúc đó, vị Pháp Vương nhắm mắt lại để suy nghĩ. Rồi Ngài bảo các vị Thần Chết, “Hãy cho bà này vào một cõi của người chết, làm cho bà ta nhớ lại tất cả những gì đã thấy, sau đó đưa bà trở lại đây ngay.”

Một vị Thần Chết đầu-cọp đặt xuống bên dưới một thang màu đen. Khi leo xuống, vị Thần yêu cầu Chokyi đi theo mình vào thăm cõi địa ngục. Khi xuống đến nơi, bà thấy mình trên mặt đất bằng nền sắt đang bốc cháy, xung quanh là những bức tường sắt khổng lồ đang bốc lửa khoảng tám tầng. Ở mỗi tầng, bà Chokyi chứng kiến nhiều chúng sanh đang trải qua những loại đau khổ khác nhau. Trong số những địa ngục mà bà Chokyi, Tsophu Dorlo, và những delog khác đã đi qua là tám địa ngục nóng và tám địa ngục lạnh cùng với những địa ngục phụ. Chúng sanh trong những cõi địa ngục này phải chịu những mức độ tra tấn hành hạ khác nhau tùy thuộc vào mức độ nghiệp bất thiện từ thân, miệng, ý khác nhau. chính yếu là dựa trên nghiệp sân hận hay thù ghét mà họ đã tạo trong quá khứ.

Ở tầng thứ nhất, tính từ trên xuống dưới, nhiều người bị liệng nằm ngửa trên nền đất nóng cháy và bị những đao phủ khác nhau cắt ra từng mảnh. Tất cả những sinh linh này đều xem nhau như kẻ thù và giết hại lẫn nhau với vẻ đầy sân hận. Khi nào họ ngất xỉu, một tiếng nói sẽ vang lên “tỉnh lại.” Tức khắc họ tỉnh dậy và lại chịu những hành hạ đó. Những người này trong đời sống thế gian trước kia đã làm hại Cha Mẹ và bạn bè của mình với sự thù hận.

Ở tầng thứ hai, quân đao phủ đang liệng nhiều người xuống đất nóng cháy. Họ vạch những đường lằn trên thân thể của những người này rồi cắt thành từng mảnh theo đường lằn đó bằng lưỡi cưa nóng cháy. Những chúng sanh này trước kia là thợ săn, đồ tể hay những kẻ chuyên hạ độc người khác.

Ở tầng thứ ba, nhiều người bị ném vào cối sắt nóng cháy và bị giã nát bằng chày nóng bỏng. Nhiều sinh linh khác cũng bị ép lại giữa những ngọn núi đang cháy. Những tội đồ này là những thợ săn, đồ tể, những kẻ làm thịt gia súc, và thợ làm vũ khí.

Ở tầng thứ tư, nhiều người đang bị nướng trên lửa, và đang kêu la khủng khiếp. Họ là những người buôn bán thuốc và những kẻ giết người, ngựa, hay chó. Cũng có những người đã mắng chửi người tu hành và làm vũ khí.

Ở tầng thứ năm, trong một tòa nhà khổng lồ nóng bỏng, các sinh linh bị thiêu đốt bên trong lẫn bên ngoài. Tất cả đều kêu khóc như tiếng sấm rền. Họ là những người đã xúc phạm đến ba ngôi Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng, tà kiến và trộm cắp của những người có đạo tâm.

Ở tầng thứ sáu, các sinh linh bị thiêu đốt trong đống lửa lớn, thỉnh thoảng quân đao phủ lại lấy họ ra rồi đập nát họ bằng những búa nóng cháy, sau đó liệng vào ngọn lửa trở lại. Đây là những người đã không tin luật nhân quả và những hành vi thiện, ác; những người đã giết hại chúng sanh khác như cá, rắn với sự độc ác và xem thường nghiệp quả.

Ở tầng thứ bảy, nhiều người đang bị nấu trong sắt nóng chảy, với tiếng sắt sôi và tiếng bể thổi lửa vang lớn như tiếng sấm. Họ đã tạo nhiều nghiệp ác như đốt rừng khiến nhiều sinh linh bị chết và hủy diệt những kiến trúc tôn giáo.

Ở tầng thứ tám, các tội đồ bị đóng đinh vào nền đất nóng cháy và thân thể của họ bị cắt xẻ, bị hành hạ với những khí cụ khác nhau. Khi bị thiêu đốt, những ngọn lửa phụt ra từ những lỗ trên thân thể của họ. Họ là những người đã không làm một công đức nào cả, đã phạm ngũ nghịch tội (giết Cha, giết Mẹ, giết Thánh Nhơn, phá hòa hợp Tăng và làm thân Phật ra máu) và những tội khác cũng như phá hủy những công trình kiến trúc tôn giáo và những nguồn lợi chung của mọi người. Họ cũng là những người vi phạm giới nguyện mật giáo, tà kiến và phá hủy niềm tín tâm và mục đích tu tập theo chánh đạo.

Bà Chokyi cũng đến thăm những địa ngục phụ, được gọi là “bốn địa ngục kế cận”. Trong những địa ngục này, nhiều người đang chìm trong bãi bùn lầy dơ bẩn và bị côn trùng rỉa róc. Nhiều người bị kéo lưỡi bằng móc sắt và bị cày bằng những lưỡi cày nóng cháy. Nhiều người liên tục làm cho mình bị thương khi họ trèo lên và leo xuống những ngọn núi mọc đầy những cây cối có hình thù như đao kiếm bén nhọn và nóng bỏng, hoặc họ đi trong một cánh đồng đầy lưỡi dao. Những hình thức hành hạ này là hậu quả của việc làm ô uế nơi thanh tịnh và thiêng liêng, vu khống người vô tội, tham dục, và hưởng lợi bất chính từ những tài sản của tôn giáo và của Cha Mẹ.

Sau đó Chokyi đi thăm tám địa ngục lạnh, nơi vô số sinh linh không có y phục che thân đang bị đông lạnh và run rẩy trên một nền băng giá với những luồng gió rét. Thân thể của họ bị nứt ra từng mảnh và nhiều màu sắc khác nhau, và họ thốt ra đủ mọi tiếng kêu la.

#22 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 15/12/2011 - 07:59

Thông Điệp cho người còn sống

Sau cùng, bà Chokyi trở lại Tòa Phán Xét của vị Pháp Vương. Ngài nói với bà, “Ngươi là một trong những người bị đưa lầm vào đây, vì có sự lầm lẫn về tên tuổi và gia tộc. Thân xác của ngươi vẫn còn nằm ở nhà an toàn. Ta đã xem trong tấm gương, nhưng không thấy có điều hạnh phúc nào đang chờ đợi ngươi, vậy lần này ngươi có thể trở về nhà. Lần tới khi trở lại đây, ngươi hãy làm sao để chắc chắn là không có lý do gì để lo sợ vì đã không tu tập theo Chánh Pháp. Ngươi đã chính mắt mình trông thấy quả báo của những thiện nghiệp và ác nghiệp”. Rồi Ngài nhắn gởi bức thông điệp sau đây cho những người còn sống trên thế gian:

Có nhiều người đang thọ hưởng đời sống trọn vẹn của thế gian,
Nhưng họ qua đời với hai bàn tay trắng, không có công đức tu tập nào cả.
Hãy nhắn lại với những người không có đạo tâm đó với thông điệp sau:
Nói với họ rằng chính ngươi đã đến cõi giới của người Chết
Nói với họ rằng ngươi đã gặp Pháp Vương.
Nói với họ rằng ngươi đã thấy mười sáu địa ngục.
Nói với họ rằng biển sanh tử luân hồi rộng lớn.
Dù số người nam nữ là vô lượng
Khi họ bị nghiệp quả theo đuổi
Họ sẽ không có nơi nào để đi ngoài Tòa Phán Xét
Khi nghiệp quả xấu đến với ngươi
Mọi sắc tướng sẽ xuất hiện như những kẻ thù địch
Sẽ không có gì không có tính cách chống đối
Ví dụ như, một ngọn lửa xuất phát từ ngươi sẽ đốt ngươi.
Ngọn lửa này không phát sinh từ nơi nào khác.
Sự phát sinh của những nhận thức của ngươi như những kẻ địch,
Là kẻ thù hơn bất cứ một thế lực nào khác.
Ai làm ra những vũ khí đáng sợ đó?
Làm sao họ có những vũ khí đó? Ai đã làm và được trao cho ai?
Ai là Cha Mẹ đã nuôi dưỡng
Những đao phủ quái dị đó của các Thần Chết ?
Hiện tượng địa ngục cũng huyễn ảo giống như những giấc mộng của ngươi
Ngươi sẽ không chứng ngộ tâm mình là Phật
Trừ khi học cách chứng ngộ tánh Không của vạn hữu.
Khi biết cách giải thoát mọi cảm nhận của mình
Dù đi tìm ngươi cũng sẽ không thấy có địa ngục nào cả
Dù ngươi tìm địa ngục, địa ngục cũng sẽ là Tịnh Độ an lạc
Người ngu si vô trí lại lo sợ
Những hình ảnh tự tạo của chính tâm mình
Thì thật ra họ sợ cái bóng của chính mình.
Không có gì là có thật, nhưng mọi vật xuất hiện trong mọi hình dạng.
Mọi vật xuất hiện nhưng không hiện hữu theo tính chất thật của chúng.
Đó là tính chất của sự hợp nhất sắc tướng và chơn không.
Những người nào đã biết về tính chất đó,
Nên thiền quán về tính chất đó
Quyết định rằng tất cả đều là những hình ảnh tự xuất hiện
Tất cả chính là mình, không phân cách với mình.
Vậy hãy quyết định rằng luân hồi và Niết Bàn chính ngay nơi tâm của chính mình.
Hãy tinh tấn trì niệm OM MANI PADME HUNG.
Ngươi đã thấy ở đây oai lực của việc trì niệm Thần chú này chưa?
Đừng quên tất cả những lời nhắn nhủ này.
Hãy kể cho mọi người biết những gì mà ngươi đã chứng kiến ở đây.

Vị Pháp Vương bảo bà Chokyi trở về nhà. Rồi bà hướng về con đường đèo tuyết phủ. Bà Chokyi bước đi với ý nghĩ mình trở về nhà. Tức khắc bà thấy mình đang ở nhà. Giường bà bị ngăn bằng một tấm chăn. Trong giường bà thấy xác một con rắn, như bà đã trông thấy lúc trước đó. Bực bội với gia đình của mình, Chokyi nghĩ rằng, “Họ biết mình sợ rắn, vậy mà họ lấy xác một con rắn đặt lên giường của mình rồi lấy y phục của mình mặc cho nó”. Rồi bà quyết định, “Bây giờ, dù sợ hay không, mình phải lôi con rắn cùng với mớ quần áo rồi liệng nó ra ngoài cửa". Bà nhắm mắt lại, hai tay nắm vào lớp vải áo rồi kéo. Bà có cảm giác như thể mình đang bị té ngửa, nhưng tức khắc bà thấy mình đang ở trong thể xác này, giống như vừa thức dậy sau một giấc ngủ.

Chokyi thở một hơi dài, và người con trai trưởng gọi bà “Ama! Ama!” bà đáp “Ah.” Con bà la lớn, “Ama đã sống lại. Mọi người hãy đến đây!” Tất cả họ hàng chạy đến chỗ bà. Bà Chokyi kể lại mọi sự kiện mà bà đã trải qua, và mọi người đều khóc. Nhớ lại những đau khổ ở địa ngục, bà cũng khóc. Dần dần sức khỏe của bà phục hồi. Những người trong gia tộc của bà cúng dường các vị lạt ma rồi trở về nhà của họ. Đến mùa thu, bà tổ chức một cuộc họp mặt để thọ trì một tỷ biến thần chú OM MANI PADME HUNG. Bà cũng cúng dường cho nhiều tu viện. Bà Chokyi lo cho chồng và các con những hành trang cần thiết để đi tới một nơi mà ở đó họ có thể tu tập theo Giáo Pháp. Bà và con gái trở thành nữ tu và đi hành hương nhiều nơi cũng như dành trọn cuộc đời của mình cho việc tu học và từ bỏ mọi sinh hoạt của thế gian.

Bà Lingza Chokyi kết luận chuyện kể delog của mình với những lời sau đây:

"Tôi đã đích thân chứng kiến địa ngục trong con người. Hạnh phúc và đau khổ ở ngay trong tầm tay để chúng ta tự chọn. Khi tự ý chọn trong bàn tay của mình, xin đừng lo nghĩ quá nhiều về những gì mình muốn có trong cuộc sống này, mà phải cố gắng làm những việc gì tốt đẹp nhất cho kiếp sau của mình. Điều tốt nhất để làm là buông bỏ những thú vui của cuộc sống này. Hãy cố gắng chứng ngộ tính chất thật của tâm mình. Nó có oai lực thật kỳ diệu. Điều tốt thứ hai là không tạo nghiệp xấu qua thân, miệng, ý, và dành tất cả những nỗ lực cho những sinh hoạt trong Chánh Pháp. Ít nhất cũng nên cúng dường một số tài sản cho những vị Thầy và các tu sĩ và cũng chia sẻ với những người nghèo khó".

#23 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 15/12/2011 - 08:07

Những phán xét nào đang chờ đợi tôi? Kinh nghiệm của Karma Wangdzin

Sau khi có kinh nghiệm thoáng thấy về chơn tánh tối thượng một chút, như chúng ta đã thấy ở chương 3, Karma Wangdzin đã trôi nổi đây đó như một lông chim trong không khí, vì bà không còn thân xác thô kệch để thần thức của mình trụ vào nữa. Bây giờ tâm của bà trong sáng hơn nhiều lần so với lúc còn sống. Một ý nghĩ lóe lên trong tâm của Karma: “Mình đã thực sự chết rồi sao?” bà nhìn quanh một cách tuyệt vọng để tìm kiếm những người bạn nhưng không thấy ai cả. Rồi tức khắc bà quên câu hỏi là mình đã chết hay chưa. Bà cảm thấy cô đơn và nghĩ rằng đó là vì sống ẩn cư trong tu viện lâu rồi. Vì vậy bà tự nhủ, “Chỉ từ bỏ thức ăn ngon, quần áo đẹp, và trò chuyện vặt với mọi người thì như vậy chưa phải là tu hành. Mình nên trở về nhà hơn là ở lại tu viện này với cảm giác buồn chán”. Ngay khi có ý định trở về nhà, bà Karma thấy mình đang ở Ogtro, thị trấn quê hương của bà và không còn ở tu viện nơi bà ẩn cư nữa.

Chồng của bà Karma, là Trưởng Làng của thung lũng không có ở nhà, vì ông đã đến Tu viện Traphu cùng với nhiều người khác. Những người còn ở nhà đang than khóc và kêu tên của Karma “Ôi, Lhawang Putri! Ôi Lhawang Putri!” Karma cố nhấc cánh tay của một số người, và hỏi, “Bạn bị ông Trưởng Làng mắng chửi hả?” nhưng không ai trả lời hay nhìn bà. Rồi bà nghe thấy một tiếng la lớn ở bên ngoài. Ở ngoài đường, người ta nói với nhau, “Lhawang Putri đã chết rồi!” nhiều người đang khóc lóc cũng nói, “Bà ấy thật khiêm nhường và rộng lượng.” Những người khác thì nói nhỏ với nhau “Bà ta to xương mà vai lại hẹp”. Ý họ muốn nói là bà có con tim cứng rắn và có tánh ganh tị.

Rồi bà trở về nhà mình. Những người trong gia đình bà đang kêu khóc “bà của chúng ta đã đi rồi!” “thật là tội nghiệp cho bà!” “Buồn thay cho Trưởng Làng!” bà thấy những người thân nhỏ những giọt nước mắt đau đớn. Họ vô tình làm cho bà hứng một trận mưa máu và mủ rơi xuống bà trong hình dạng lớn cở quả trứng. Cơn mưa những giọt nước mắt này đi kèm với tiếng động sấm sét cứ đâm vào da, và làm gãy xương của bà. Phần lớn thời gian, bà thấy mình vẫn mặc y phục như thường lệ, nhưng trong cơn mưa bão như vậy, bà cảm thấy thân thể của mình bị đụng chạm và trần trụi.

Từ một nguồn vô hình nào đó, bà Karma nghe thấy một giọng nói, “Hãy đến Tu viện Traphu.” Chỉ bằng ý định thôi, bà đã đến Traphu ngay lập tức. Chồng của bà và những người khác đang bận rộn tổ chức một lễ hội. Hai vị tu sĩ nhanh nhẹn thiết trí một án thờ với những bức tranh tôn giáo thangka và nhiều lễ vật cúng dường. Bà nghĩ, “Ồ, thì ra họ đang làm lễ cúng dường Ngày thứ Bảy,” (Seventh-Day Offering) một nghi lễ hàng năm của Tu viện. Nhiều người lần lượt từ Ogtro đến chia buồn với chồng bà và mời ông ta những món đồ uống truyền thống.

Người quản gia của ông Làng Trưởng cũng đến, mang theo những món trang sức của bà Karma và đặt những món này lên bàn thờ, sau đó chào vị trưởng làng và nói, “xin ông đừng khóc, quả thật đây là bi kịch. Đây là lúc ông đau buồn nhất, nhưng bà ấy không giữ nhiệm vụ như một vị chủ nhân của ngôi nhà vùng Pagro nữa. Bà ấy còn nói đến việc giúp đỡ nhiều cô gái trong vùng bỏ nhà đi xuất gia. Người dân chúng tôi xem bị đau ngón tay trỏ của mình nghiêm trọng hơn là sự ra đi của bà. Bây giờ chúng ta phải tập trung vào việc chuẩn bị làm tang lễ”. Một dòng nước mắt rơi xuống, vị Trưởng Làng nói, “Mặt trời đã lặn ở giữa ban ngày. Chúng tôi chỉ được sống với nhau một thời gian rất ngắn, mà tôi thì không có Cha Mẹ. Bà ấy là người bạn thật sự độc nhất mà tôi có. Giờ đây tôi cũng đã mất bà ấy rồi.”

Rồi ông Trưởng Làng bảo “Cho đến khi xong lễ chung thất bốn mươi chín ngày, nên bảo quản thi hài của bà ấy còn nguyên vẹn mà không ướp xác. Bà là hạng người có thể sống lại như một delog. Chẳng hạn như bà Lingza Chokyi, đã trở về thế gian với nhiều chuyện kể về kinh nghiệm sau khi chết. Lúc đó bà Karma đang khóc và nghĩ, “Mình chết thật rồi sao?”. Nhưng ngay sau đó, bà Karma lại vẫn tin là mình còn sống. Nắm lấy tay chồng, bà cố gắng nói với ông ta là bà còn sống và ông ta không có lý do gì để buồn về điều gọi là cái chết của bà. Nhưng ông ta cũng như tất cả những người khác đều không đáp lại lời phân bua của bà. Bà cho rằng mọi người đang giận mình.

Chồng bà yêu cầu một người giúp việc dùng một con trâu yak chở những bánh trà cho một số người. Nhưng bà Karma thấy trên đường đi, người giúp việc đã lặng lẽ ăn cắp một số bánh trà và giấu trong một cái túi để xài riêng. Bà thấy xấu hổ cho anh ta vì hành vi thủ lợi nhỏ mọn như vậy. Khi những người hầu dọn thức ăn cho ông Trưởng Làng, bà Karma nghĩ là mình sẽ ăn chung với chồng như thường lệ, nhưng không ai tiếp thức ăn cho bà, và cả chồng bà cũng không mời bà gì cả. Bà khóc và nghĩ, “Bây giờ thì một bữa ăn nhỏ mình cũng không được tham dự.” Bà giận dỗi và nghĩ về chồng, “Chính ông đã không cho tôi ở với Cha Mẹ thân yêu của tôi và không cho tôi đi tu, lại còn nói "anh sẽ lo tất cả mọi nhu cầu cho em.” Nhưng bây giờ ông đã cư xử giống như bọn người hầu của ông. Tôi còn không có quyền ăn với ông một bữa ăn nhỏ. Thôi tôi trở về tu viện của tôi đây".

Trước khi đi, bà lại nghĩ về chồng mình “Khi tôi còn là đứa con cưng của Cha Mẹ tôi và được tự do đi tu, ông đã dụ dỗ với tôi với những lời hứa này nọ. Bây giờ thì tôi cũng không được ăn uống dù chỉ một chút. Ông đã lấy những món trang sức mà Cha Mẹ tôi đã cho tôi. Trước đây ông xem tôi như một Thiên nữ. Giờ đây ông bắt tôi lang thang như một con chó hoang, không ai thèm nhìn ngó. Tôi không thể tin cậy nơi ông một việc gì nữa. Tất cả hy vọng của tôi và lời hứa của ông giống như vẽ trên nước. Bây giờ tôi đã hiểu hết ý nghĩa của câu nói thời xưa“Cho đến khi bị thòng lọng xiết cổ, người đàn bà không biết lo nghĩ một chuyện gì hết". Tôi sẽ cảnh báo cho tất cả những cô gái chưa chồng biết và khuyên nhủ họ buông bỏ mọi thứ và đi xuất gia theo Chánh Pháp”.

Sau đó bà hét lớn: “Ông Trưởng Làng và tất cả mọi người, hãy nghe tôi nói. Tôi ở đây làm phiền mấy người. Ông cứ vui hưởng của cải và quyền lợi của ông. Tôi sẽ vui sống với Chánh Pháp. Ông đừng ân hận gì cả nhé!”. Không một ai mời bà đi trong khi họ than khóc. Bà bèn bỏ đi khỏi nơi đó. Trong thung lũng, bà trông thấy một nhóm vong linh đang hạ xuống từ vùng đất cao của thung lũng. Họ nói với nhau “Có một lễ cúng ở thung lũng Gechu. Chúng ta hãy đến đó.” Bà Karma cũng đi theo họ đến Tu viện Kunga Ling. Mấy con chó vốn quen thuộc với Karma, bây giờ lại sủa vang và nhào tới bà. Bà chạy ra và đợi ở bên ngoài. Sau đó một tu sĩ dâng cúng nước và bánh "torma", rồi liệng những đồ cúng ra ngoài. Đủ loại sinh linh bu tới như ruồi đen để hưởng những món đó. Những vong linh được người ta dâng cúng thì hưởng những món đồ cúng chính yếu, trong khi những vong linh khác thì chia nhau những đồ cúng còn lại. Nhiều vong linh yếu ớt hay bệnh tật không tranh dành được gì cả, họ đau khổ nhào xuống đất kêu khóc ầm ĩ vì đói khát. Có những vong linh vừa khóc vừa ôm nhau. Karma cảm thấy ngượng vì bà có hoàn cảnh tốt hơn họ. Bà rất thương xót nhưng không thể làm gì được cho những vong linh đau khổ đó, giống như người đui giúp kẻ mù. Bà khóc rống lên vì họ và ngay lúc ấy bà nghe một giọng nói rất rõ ràng:

"Thứ nhất, họ không tạo lập công đức nào cả trong quá khứ.
Thứ hai, sự đau khổ đó là do hậu quả của những nghiệp xấu của họ.
Thứ ba, ở đây những vong linh như vậy chỉ là thiểu số.
Buồn thương cho họ cũng không ích lợi gì. Vậy hãy bình tĩnh".

Rồi bà Karma muốn đến Zagrum để thăm Cha Mẹ. Tức khắc bà thấy mình đang ở Zagrum. Mẹ Karma đang đi kinh hành quanh một chùa để làm lễ. Karma nói ngay với mẹ, “Amala ơi, cho con xin một chút gì để ăn.” Mẹ của bà không nói gì cả mà cứ tiếp tục đi nhiễu. Karma nghĩ, “Trước đây khi mình đi ngựa đến với mấy người bưng quà biếu, Mẹ mình sẽ khen ngợi, “Ôi, con gái của tôi đã về” và vui vẻ đón tiếp mình với bia "chang". Giờ đây thì bà cũng giống như những người khác, làm lơ với mình. Chắc bà đã nhận được một lá thư của ông Trưởng Làng than phiền về mình chăng. Mẹ phải quan tâm nhiều cho chồng mình, con trai của người khác, hơn là lo cho con gái ruột của bà”.

Karma nắm áo mẹ và van xin “Vì con lấy vị Trưởng Làng theo sự sắp đặt của Cha Mẹ, con đã nghĩ là dù chuyện gì xảy ra đi chăng nữa thì con đây cũng phải chấp nhận số phận của mình". Trưởng Làng đã đi lại với một cô gái ở Shar, nhưng con lại là người bị bắt lỗi vì vụ đó và bị đánh đập. Con không muốn cho Cha Mẹ biết sự việc này. Vì con không sinh đẻ gì nên một chút đồ ăn thức uống người ta cũng không chia phần cho con. Xin Mẹ hãy cho con chút gì để ăn, rồi con sẽ đi khỏi nơi đây để tu học”. Không nhìn Karma mà cũng không nói một lời nào, Mẹ của bà đi vào nhà. Bà Karma vẫn đi theo dù không được mời. Trong nhà Cha Mẹ, cả nhà tụ lại để ăn trưa. Karma đang đói và ngồi phía sau Mẹ mình, chờ đợi để được mời ăn, nhưng không có ai để ý tiếp cho bà cái gì. Sau bữa ăn, mọi người ra ngoài và Karma cũng đi. Tưởng là tất cả mọi người đều giận dỗi mình, bà lăn ra đất khóc lóc thê thảm.

Trong giây lát, bỗng bà nhớ lại rõ ràng những hướng dẫn về việc kiểm nghiệm những dấu hiệu của cái chết, do vị Thầy nổi tiếng là Đại Sư Norbu Trashi đã ban cho bà. Trước tiên bà kiểm tra xem mình có bóng đen hay không, không có bóng gì cả. Rồi bà lắng nghe tiếng bước chân của mình, không có tiếng gì cả. Bà nghĩ, “trời ơi! Chắc mình đã chết rồi! tất nhiên là đúng như vậy! Cuộc đời của mình trải qua nhanh như chớp. Cảnh đời nhỏ bé như nhìn qua một cọng rơm. Mình chưa từng đạt được một sự tự tin nào trong việc tu tập. Mình không nhớ là đã bố thí cho ai bao giờ chưa. Bây giờ mình sẽ bị các sứ giả của Thần Chết bắt đi". Với sự đau buồn và than khóc cho thân phận mình, bà té xuống đất bất tỉnh.

#24 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 15/12/2011 - 08:17

Sự hướng dẫn của một vị Thần, Tara Trắng

Khi bà Karma tỉnh lại, một người mặc áo trắng, tóc cột ở phía sau lưng đang đứng trước bà, tay cầm một cái trống nhỏ. Ngài là Tara Trắng, vị Thần bảo hộ của Karma, vị nữ thần nắm tay Karma và nói những lời an ủi:

"Than ôi ! Đừng buồn. Hãy đứng dậy đi con
Khi còn những phiền não và không giác ngộ thật tánh của các pháp
Mà lại nói là mình đã chứng ngộ thì mình nói dối và độc ác.
Đức Phật dạy “Sinh và tử là nghiệp của đời người.
Và chúng diễn ra liên tiếp”.
Cái chết không chỉ xảy ra với con.
Tất cả các sinh linh khác đều phải đi qua con đường này
Ta sẽ phù hộ để cho con ra đi trong bình an"

Trong hành trình chuyển tiếp của bà Karma, không phải lúc nào cũng trông thấy Đức Tara Trắng, nhưng khi gặp phải tình trạng khó khăn thì nữ thần liền hiện ra hướng dẫn bà. Tara Trắng là một vị Phật trong thân tướng người nữ, và Karma có liên hệ với Ngài vì bà cầu nguyện Ngài và thiền quán về Ngài như hình ảnh của Đức Phật. Nhưng dù có sự hướng dẫn của Tara Trắng, bà Karma vẫn phải đối diện với những nghiệp quả xấu của mình.

Trước khi đi với Ngài Tara Trắng, bà Karma nói với Mẹ " khi con còn ở đây Mẹ không cho con ăn gì cả, sau khi con đi rồi, Mẹ đừng có ân hận nhé.” Tuy vậy, bà vẫn còn quyến luyến Mẹ mình, nên khi chia ly thật không thể chịu nổi. Bà nghĩ là Mẹ mình sẽ đi theo sau mình, nhưng Mẹ bà không làm vậy.

Trong khi bà Karma đi mỗi lúc mỗi xa hơn, thung lũng quê hương của bà dần dần khuất sau một quả núi khổng lồ. Bà khóc rấm rứt với nỗi buồn, đến một ngả ba đường. Bà chọn đi đường ở giữa. Lúc đó, trên đỉnh một quả núi sắc nhọn ở hướng Tây, bà trông thấy một tu sĩ mà bà nhận ra đó là chú của mình. Ông có mái tóc bạc và tay đang cầm xâu chuỗi hạt màu đen. Tay và chân ông ta chuyển động như thể đang nhảy múa. Ông lớn tiếng cảnh báo Karma rằng bà đã đi lầm đường. Ông chỉ dẫn đường đi và những ánh sáng mà bà sẽ trải qua trên hành trình chuyển tiếp này. Rồi bà nghĩ đến việc leo lên núi, nhưng bất ngờ một cơn bão mạnh phát ra, cuốn bà lên trời rồi liệng bà xuống mặt đất nhiều lần.

Cuối cùng, bà thấy mình đang ở giữa một đám đông những sinh linh có hình dạng và mặt mũi đáng sợ. Những con mắt trợn trừng của họ nhìn bà và những răng nanh như tảng băng nhe ra đe dọa bà. Họ mặc đồ da cọp và da beo hay da người với đồ trang sức bằng xương, họ đang ăn món canh óc đựng trong những chén sọ người và tay cầm những chùm ruột. Những người khác đang vung cao nhiều loại vũ khí ở trên đầu họ. Tất cả đều hô lớn “HUNG! HUNG! PHAT! PHAT! Đánh! Đánh! Giết! Giết!” Karma hoảng sợ đến mức không thể nghĩ hay nhớ đến gia đình hay bạn bè nữa. Rồi bà thấy mình ở bên rìa của một cánh đồng bao la. Cơn bão khủng khiếp bây giờ đã ngớt. Từ đâu đó những tiếng la "Giết! Giết!” vẫn còn vọng đến chỗ bà, giống như tiếng sấm ở xa. Từ những đau khổ và sợ hãi tệ hại nhất có phần dịu đi, ít nhất thì cũng trong lúc này.

Nhưng bà Karma lại nhớ đến Cha Mẹ, gia đình, bạn bè và gọi tên của họ. Lăn lộn trên đất, bà khóc lớn và than rằng “Tại sao mấy người lại để cho tôi cô đơn như thế này mà lại không cho tôi biết về những sự nguy hiểm này".Lúc đó, Nữ Thần Tara Trắng lại xuất hiện và bà Karma nắm lấy áo của Ngài khóc và hỏi, “Cô ơi, cánh đồng này có tên là gì? Thành phố lớn ở đằng xa đó gọi là gì? Tên cô là gì? Con có cha mẹ, chồng và nhiều người thân, nhưng con không nói gì về chuyến đi này với ai cả. Con chỉ bất ngờ tới đây không thể cưỡng lại được. Xin cô nhận các món trang sức này rồi giúp đưa con về nhà.”

Đức Tara Trắng đáp “Vì sự mê lầm lớn của con, những ý tưởng của chính con đã xuất hiện trong hình dạng những kẻ thù địch. Cánh đồng này rộng lớn như bầu trời và được gọi là Cánh Đồng Hoang Lưỡi Dao, đây là lối đi vào địa ngục của những người đã tạo ác nghiệp. Thành phố đó là thành phố lớn của người chết. Nếu con không nhận ra ta thì ta sẽ nói tên bí mật của Ta là Kim Cương Du Già Nữ (Vajrayogini). Chúng ta là những người bạn bất khả phân ly, giống như hình với bóng. Con có gia đình và bè bạn, nhưng con đã rời bỏ kể cả thân xác của con. Không có sự lựa chọn, con đã phải rời khỏi những người thân và của cải mà mình đã có. Bây giờ con đã đến cõi trung ấm bardo, con đang mang cả gánh nặng nghiệp quả trên vai. Nếu con muốn trở về đời sống con người thì con nên tu học theo Chánh Pháp; Con nên rộng lượng bố thí cho những người túng thiếu; Con nên đi hành hương chiêm bái những nơi thiêng liêng; Con nên buông bỏ mọi tham dục thế gian và tăng trưởng sức mạnh quán chiếu về chơn tánh.”

Bỗng nhiên bà Karma bắt đầu thấy một cơn mưa lưỡi dao từ trời rơi xuống và một rừng gươm từ dưới đất mọc lên. Những phần thân thể và những mảnh thịt phủ đầy cánh đồng. Karma kinh hoàng và té xuống đất bất tỉnh. Khi tỉnh lại, bà nghĩ, “Mình đã thực sự chết chưa?” Một lần nữa, Đức Tara Trắng giải thích “Con đã để lại thân xác ở thế giới người sống. Một số người thân và bạn bè đang thức canh chung quanh thi hài của con. Có vài người đang khóc và gọi tên con. Những người khác đang bận rộn sửa soạn tang lễ. Cũng có những người đang nói “Ồ, bà ấy là một vị Phật ẩn mình.”

Cuối cùng, bà Karma nhận ra sự thật, bà nói, “Than ôi, bây giờ mình đã chết rồi!”. Điều này khiến cho bà chấn động. Tâm tư của bà tràn ngập sự ân hận vì cả đời bà đã không cống hiến cho việc tu tập. Khi bà bắt đầu nghĩ về những nghiệp xấu mà mình đã tạo tác lúc còn sống, tất cả những hành vi xấu này vùn vụt hiện ra một cách sống động trước mắt bà. Bà không thể thấy bất cứ thứ gì ngoại trừ những nghiệp xấu của mình. Bà nghĩ, “Bây giờ mình không thể thoát khỏi đây được nữa” bà than thở:

Hởi những bè bạn của tôi, hãy cống hiến đời sống của bạn cho Chánh Pháp linh thiêng khi bạn còn tự do.
Tài sản mà các bạn ra sức tích chứa không có giá trị gì cả.
Hãy cúng dường chúng cho Tam Bảo.
Những hoạt động mà các bạn quá chú tâm không có mục đích nào cả.
Hãy buông bỏ chúng để siêng năng tham thiền và cầu nguyện.
Những cuộc họp mặt của người thân và bạn bè cũng giống như những lữ khách tụ họp.
Hãy cắt đứt liên hệ với họ và về tu viện.
Trong khi còn hưởng kiếp sống con người, các người nên cống hiến cuộc đời mình cho Chánh Pháp.
Vì bạn không thể tin cậy một thứ gì khác.
Hãy loại bỏ sân hận, tham dục và ganh tỵ.
Hãy tụng kinh và trì Thần chú Lục Tự.
Để thanh lọc thân, miệng và ý.
Nguyện cầu cho tâm bạn an trụ trong thiền định!

Không thể kiểm soát mình bà hối hận, khóc lóc và tự đánh mình, bà Karma nói với ĐứcTara Trắng, “Cô ơi! Con không tu tập theo giáo pháp nhiều, cũng không tạo nhiều ác nghiệp. Vậy mà con vẫn bị cơn bão lớn hành hạ. Con đã bị kẹt ở giữa những tia chớp nhiều màu với tiếng la hét ‘Đánh! Đánh! Giết! Giết!’ giống như hàng ngàn tiếng sấm sét cùng lúc. Con đã đối diện với đủ loại quái đản không thể tưởng tượng được. Tất cả những cái đó là gì?”

Đức Tara Trắng trả lời:

Cơn bão xuất hiện là sự chào mừng dành cho con của các sứ giả Thần Chết. Những sinh linh trong những hình dạng khác nhau là sự hiển lộ của các vị thần hiền hòa và phẫn nộ ở bên trong chính con. Họ phát ra những âm thanh vô thượng, nhưng vì những cảm nhận xấu của con, nên con nghe thành “Giết! Giết!”. Hình ảnh họ vung lên nhiều vũ khí khác nhau là dấu hiệu cho thấy những phiền não của con đã được giải trừ tận gốc rễ. Nhưng con lại trông thấy chúng như một cơn mưa vũ khí, vì những nhận thức của con đã biểu hiện như những kẻ thù địch. Từ bây giờ trở đi con phải nghĩ là mình an trú trong những hình ảnh và âm thanh đó, xem chúng như những hình ảnh và âm thanh của Đức Phật.

Sự xuất hiện của ánh sáng nhiều màu là ánh sáng của các vị thần hiền hòa và phẫn nộ của chính tâm con. Những ánh sáng năm màu là ánh sáng của năm bộ phái Phật. Vậy hãy nghĩ rằng mình an trú trong những ánh sáng của các Ngài. Tất cả những âm thanh là âm thanh tự nhiên. Chúng không phải là một thực thể riêng rẽ mà là sự biểu lộ của tính nhất như. Tất cả âm thanh, ánh sáng và tia sáng này xuất hiện như sự tự xuất hiện của chính tâm con. Đừng xem những cảm nhận của chính mình là kẻ thù địch.

Con không tạo nhiều nghiệp xấu. Nhưng nhiều người trong thời đại suy thoái này có nguy cơ đọa vào địa ngục vì họ tích lũy nhiều cảm xúc tiêu cực như tham, sân, si, ganh tị, kiêu ngạo và tạo quá nhiều bất thiện nghiệp trong kiếp sống của họ. Con sẽ tái nhập thể xác của con trong cõi người sống như một sứ giả trở về từ cõi chết. Vậy con phải dũng mãnh lên để quan sát một cách cẩn thận những gì diễn ra ở đây. Con phải ghi nhớ tất cả những gì mình trông thấy và nghe thấy, không được quên. Bây giờ chúng ta hãy cùng qua bên đó.



#25 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 15/12/2011 - 08:23

Thoáng thấy Địa Ngục và những sứ giả của Thần Chết

Tại một góc hướng Tây của cánh đồng lớn, bà Karma trông thấy một người đầu nai kinh khủng, tay cầm dây thòng lọng màu đen, với hai mắt trợn trừng, người đó đang đuổi theo một bà già đeo đồ trang sức trên đầu. Bà Karma hỏi Đức Tara Trắng “Trời ơi! Người đầu nai kia là ai? Người phụ nữ bí ẩn đó là ai?”

Đức Tara Trắng đáp “Đừng sợ người đầu nai đó. Vị ấy là một trong những biểu hiện các các vị Thần cung điện ở trong đầu óc của chính mình. Các vị Thần có màu sắc, hình dạng và kích cở khác nhau xuất hiện tùy theo tâm tánh của con người. Bà già đó là người xứ Chenying thuộc tỉnh Kham, bà ta là vợ của viên thị trưởng và đã âm mưu với chồng trong việc cướp của, giết người và săn bắn thú vật. Đây là sự cảm nhận của bà ta về cõi chuyển tiếp này. Sau sự kiện này bà ta sẽ bị xét xử và sẽ bị đày xuống địa ngục.”

Kế tiếp, bà Karma trông thấy một chiếc cầu sắt khổng lồ bắt ngang qua một con sông chảy xiết được gọi là Sông Lớn Luân Hồi (Great River of Samsara). Ở đầu phía đông của chiếc cầu là một thành phố kỳ lạ, một phần của dân thành phố mà trong đó có các Tăng, Ni, và những người tại gia, tất cả đều hoan hỷ, giàu có và đẹp đẽ. Họ sống trong những lâu đài kỳ diệu được trang hoàng rực rỡ. Một số người dành thời gian của mình để ca hát và nhảy múa một cách hoan lạc. Những người khác thì dành thời gian của họ để cầu nguyện và trì Thần chú OM MANI PADME HUNG. Nhưng lại có một số người lại bố thí không mệt mỏi cho những người khác. Không ai có vẻ lo nghĩ hay đau khổ.

Tuy nhiên, phần còn lại của cư dân trong thành phố này thì ngược lại, họ không có nơi để trú ẩn, và không có thực phẩm để ăn. Họ liên tục khốn khổ vì đói và khát. Nhiều người đặt hai tay lên trán như đang tìm kiếm thứ gì ở tận chân trời. Họ đang tuyệt vọng để tìm dấu hiệu tốt nào đó cho thấy người thân của họ sẽ hồi hướng công đức cho họ trong tang lễ để họ được gặp những tốt lành trong tương lai. Thỉnh thoảng lại xuất hiện những vị Thần Chết đến đưa nhiều người đi khỏi nơi này.

Đây là địa điểm mà nhiều người chết chờ đợi trước khi bị đưa đến Tòa Án của Đức Pháp Vương để được phán xét.

Nhìn những sinh linh ở nơi này, một Thần Chết giải thích cho Karma “Trong những người này, nhiều người vui vẻ vì họ đã sống trong sạch và biết tôn trọng người khác. Nhiều người tụng niệm và cảm thấy an lạc vì họ có năng lực kinh nghiệm tâm linh mà họ đã đạt được khi còn sống ở thế gian. Ngay cả các vị Thần Chết cũng không dám nhìn họ. Nhiều người có của cải vô tận và vẫn tiếp tục cho và nhận, vì họ đã bố thí tất cả những gì họ có khi còn ở trên trần gian.

“Những người khác phải chịu đói khát vì họ đã không giúp đỡ hay tôn trọng người khác hoặc không bố thí gì cả. Thay vào đó, họ phỉ báng, cướp bóc, và tấn công người khác trong lúc còn sống. Họ đang chờ đợi hay tìm kiếm, mong người thân của mình sẽ hồi hướng công đức cho mình. Không bao lâu nữa họ sẽ bị đưa đến tòa án của Pháp Vương, nơi một số người sẽ được giải thoát và một số bị đưa vào những cõi thấp.” Sau đó, bà Karma đến thăm cõi ngạ quỷ. Tất cả những sinh linh ở đây đều không y phục, bao tử của họ lớn như thung lũng, tay và chân lại nhỏ như cọng rơm, cổ họng của họ hẹp như một sợi lông đuôi ngựa. Vì quá khát nên lửa bốc ra ngoài miệng của họ, cái đói không thể chịu nổi đang hành hạ họ.

Nhìn họ, một vị Thần Chết giải thích với bà Karma “Những người này chưa từng có lòng quảng đại trong cuộc đời của họ. Họ chưa từng cúng dường một cái gì hay bố thí cho những người túng thiếu một cái gì. Họ chưa từng có những ý nghĩ cao thượng mà chỉ có tâm tham dục sôi sục, tâm sân hận nóng cháy, tâm kiêu ngạo tràn ngập, tâm si mê tối tăm, và tâm ganh tị bão táp. Họ cản trở người khác cúng dường, bố thí, và họ không thể ăn uống, tất cả là vì sự keo kiệt của họ.”

Bà Karma thấy Đức Phật Từ Bi đang thăm các ma đói. Từ tay của Ngài, những dòng cam lồ tuôn chảy làm mát dịu những sự khốn khổ của họ. Nhưng nhiều người trong số họ không thể hưởng được dòng Cam lồ mà cũng không thể nhìn thấy vị Phật hay an trụ được trước sự hiện diện của Ngài. Sau đó, tại cổng của một chiếc cầu, một cô gái trẻ hấp dẫn lúc múa hát lúc lại khóc lóc. Nữ Thần Tara Trắng hỏi cô ta:“cô gái xinh đẹp kia, sinh quán và gia đình cô ở đâu? Tại sao múa hát mà lại khóc? Cô sắp đi đâu, lên hay xuống?”

Cô gái đáp “Than ôi, con là người ở vùng cao nguyên ở phía Nam Tây Tạng, thành phố nơi con ở là Neudong. Cha con là Chogyal Tsering và Mẹ là Sechung. Tên của con là Dorje Gyalmo, thung lũng quê con bị người Mông Cổ cướp phá, họ bắt con về Mông Cổ, con chết vì bệnh nặng. Con đến đây và không còn cơ hội gặp lại Cha Mẹ lần nữa. Đức Pháp Vương nói với con, “Con là người thuộc một gia đình danh giá, có trí thông minh và không vị kỷ. Nhưng con quá quyến luyến Cha Mẹ và tài sản của mình, thêm nữa, con vẫn còn tuổi thọ để được hưởng. Vậy con hãy trở về để tái sanh là một "manmo" ( một loại vong linh nữ)".

Đức Tara Trắng lại hỏi cô, “Tại sao tâm con lại quá quyến luyến?” cô gái đáp, “Sau khi con chết, thay vì những tài sản của con đem bố thí để tạo công đức, người ta lại lấy bán cho một người đàn bà. Cho nên khi nhìn thấy sự khủng khiếp của Thần Chết, con vẫn nghĩ về sự đau khổ này. Do luyến ái đó, vị Pháp Vương truyền lệnh cho con tái sanh như một manmo.”

Cô gái khóc và xin Karma gởi những lời sau đây cho Cha Mẹ mình: "Con là Dorje Gyalmo. Con quyến luyến Cha Mẹ và đồ trang sức của mình. Thưa Cha Mẹ, xin Cha Mẹ cúng dường tất cả của cải của con cho một vị Lạt ma để làm lễ cầu siêu và làm hàng trăm lễ bánh "torma". Xin Cha Mẹ đãi mọi người bia "chang" và nhờ họ cầu nguyện. Nếu có thể làm như vậy, con sẽ được tái sinh làm người thay vì làm "manmo". Trong lời kể của bà, Karma không nhắc về chuyến đi xuống những địa ngục, nhưng thật sự bà có trông thấy vô số sinh linh đang chịu những sự đau đớn không thể tưởng tượng được. Bà đã nhận được một số lời nhắn của vài người gởi cho người thân còn sống của họ ở thế gian.



#26 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 15/12/2011 - 08:25

Bị gọi đến Tòa Phán Xét

Sau đó Đức Tara Trắng đưa bà Karma đến cung điện của Pháp Vương của những Thần Chết. Năm bức tường bằng đồng tâm bao quanh cung điện này. Có bốn cổng ở mỗi hướng, và tám quân với hình dạng khủng khiếp bảo vệ mỗi cổng. Họ cầm những món vũ khí đáng sợ và hét lớn: “HUNG! HUNG! PHAT! PHAT! Đánh! Đánh! Giết! Giết!” Ở trước cổng phía bắc có một cái đài lớn bằng đá, ở trên đó bà Karma thấy những đống bộ phận thân thể. Các tội đồ bị cắt thành từng mảnh bởi những bánh xe sắt có gắn vũ khí bén nhọn, xoay tròn, từ trên trời rơi xuống người họ. Họ bị dập nát thành đất bằng những thứ khí cụ mà quân đao phủ sử dụng theo lệnh của các Thần Chết. Hoảng sợ và đau đớn, bà Karma gục xuống đất, Đức Tara Trắng đỡ bà dậy và an ủi:

Những sinh linh này đang lãnh thọ những quả báo của mình.
Nếu Đức Phật đích thân đến đây, Ngài cũng không làm gì được.
Vì họ đang chịu hậu quả nghiệp báo của họ, con đừng có buồn lo như vậy.

Con tim bà Karma đau đớn và ân hận, bà thầm nghĩ, “Mình đã không nghiêm chỉnh tu học theo Chánh Pháp khi còn sống ở nhân gian. Bây giờ Pháp Vương sẽ hỏi mình điều gì ? Lời phán xét nào đang đợi mình đây ? Nếu có cơ hội trở lại cõi người, mình sẽ giải thích cho mọi người biết về sự nghiêm khắc của luật nhân quả, bằng cách kể cho họ chính xác những gì mình đã chứng kiến, mà không tô vẽ thêm thắt . Mình sẽ hiến tặng tất cả những gì có cho mọi người, không tích trữ nữa. Mình sẽ buông bỏ tất cả những hoạt động thế gian, mình sẽ thiền quán về chơn tâm. Không luyến ái một người nào nữa. Mình sẽ hành hương chiêm bái từ Tu viện này đến những am thất ẩn cư khác. Lúc nào mình cũng sẽ quán tưởng trong tâm về vị Thầy của mình và sẽ liên tục cầu nguyện đến Tam Bảo. Mình sẽ không bám giữ vào người thân và bạn bè nữa”.

Đúng lúc đó, bà Karma nghe một tiếng nói lớn từ cung điện của Pháp Vương. Một quân canh đến và nói với bà Karma và Đức Tara Trắng: “đó là dấu hiệu gọi bà đến Tòa Phán xét của Pháp Vương.” Trái tim của bà Karma đau nhói như thể bị trúng một mũi tên. Bà bị sự ân hận hối tiếc của mình hành hạ vì đã không chịu tu tập nghiêm chỉnh. Bà vừa khóc vừa nghĩ, “nhưng mình đã không ngừng nghỉ nguyện cầu chư Phật, xin chư Phật từ bi để mắt đến con”. Đức Tara Trắng lau nước mắt cho Karma rồi nói: “Con chưa từng bố thí tài vật nào cả, cũng chưa đạt được chứng nghiệm thiền quán vững chắc. Nhưng tâm con trong sáng như một tấm gương, không bị hoen ố vì ác nghiệp, con và Ta đã không tách rời nhau trong một thời gian dài, vì cộng nghiệp và ý nguyện của chúng ta.”

Nắm tay bà Karma, Đức Tara Trắng đưa bà đi qua cổng. Họ đi lên một cầu thang bằng đá lớn. Bà Karma run rẩy sợ hãi, rồi họ bước vào một đại sảnh. Ở giữa đại sảnh là vị Pháp Vương, bà Karma trông thấy vị Pháp Vương trong hình dạng của Guru Rinpoche, Padmasambhava (Đại Sư Liên Hoa Sanh ). Ngồi trên một cái ngai được nâng bởi bốn sư tử. Ngài mặc trang phục, đeo nhiều món trang sức và cầm những khí cụ giống như Karma đã thấy trong bức tranh. Vừa trông thấy Guru Rinpoche, thân và tâm Karma lập tức tràn ngập niềm tôn kính. Bà thấy mình nổi gai ốc, những giọt nước mắt vui mừng trào ra, bà muốn nhào tới sụp lạy trước Guru Rinpoche, nhưng kịp dừng lại vì sợ các vị Thần phẫn nộ nam nữ đang đứng chung quanh Ngài.

Những vị Thần phẫn nộ này có hình dạng đáng sợ, mặc những y phục gây sợ hãi và vung lên những khí cụ kinh khủng. Ở dưới chân Guru Rinpoche và ở bên phải, là một vị Thần Chết có thân người đầu bò. Vị này cầm tấm gương phản chiếu mọi hành động của những sinh linh được trình bày trước Pháp Vương. Đứng bên cạnh vị đó là Thần Chết Đầu Cọp cầm sổ ghi công và tội của các sinh linh. Ở bên trái của Guru Rinpoche là Thần Chết Đầu Rắn, vị này giám sát hết tất cả những người có mặt tại phiên tòa. Ở phía trước Guru Rinpoche là Thần Chết Đầu Heo, vị này giữ sổ kết toán và thời biểu. Còn có nhiều Thần Chết có đầu của những loài thú khác nhau và cầm đủ loại khí cụ.

Đức Tara Trắng nói với Karma, “Ở bên ngoài vị ngồi giữa là Pháp Vương nhưng ở bên trong là Guru Rinpoche. Ở bên ngoài, vị đứng bên phải Guru Rinpoche đang nhìn chúng ta với đôi mắt lồi và la hét như sấm, “HUNG! HUNG! PHAT! PHAT!” là một Thần Chết, bên trong Ngài là hình dạng phẫn nộ của Ngài Văn Thù (Manjushri) vị Phật của Trí tuệ. Nếu con thành tâm cầu nguyện đến các Ngài, con sẽ thoát khỏi nguy hiểm và lo sợ. Tất cả các vị Thần Chết nam và nữ là các vị Phật hiền hòa và phẫn nộ. Nếu con thành tâm cầu nguyện đến các Ngài, con sẽ được tái sanh vào những cõi cao. Con phải ghi nhớ những điều trọng yếu này. Con đã không tạo nghiệp xấu nghiêm trọng nào, nên đừng lo sợ. Hãy đứng dậy và làm lễ các Ngài, và phát nguyện cho mình và tất cả chúng sanh”.

Bà Karma đảnh lễ một lạy với lòng tôn kính, nhưng trước khi đảnh lễ lạy thứ hai hay phát nguyện, vị Thần Chết Đầu-Rắn cản bà lại. Vị này ra hiệu cho bà ngồi xuống ở một góc. Ngay sau đó vị Pháp Vương lớn tiếng bảo các vị Thần Chết đang đứng trong sân của cung điện, “Một người mới chết từ cõi người đang đến. Hãy đưa người ấy lại đây ngay.” Trong sân vô số Thần cầm mọi loại khí cụ đứng dậy hô lớn "HUNG! HUNG! PHAT! PHAT!".

Ngay lúc đó có một người đàn bà xuất hiện trong sân. Khi mới nhìn thấy cảnh tượng đáng sợ này, bà ta cố bỏ chạy, nhưng không có đường nào để thoát. Rồi bà tay vung gậy và trì niệm Thần chú Lục tự: OM MAINI PADME HUNG. Ngay khi nghe tiếng niệm lục tự đại minh chơn ngôn này, tất cả Thần Chết đều an tĩnh đứng tại chỗ. Đi cùng với người đàn bà đó là một phụ nữ mặc áo choàng màu trắng. Tóc vị ấy cột búi bằng một dây lụa đỏ và cầm một chuỗi hạt pha lê. Nắm tay người đàn bà, vị ấy đưa bà vào cung điện. Bà được trả tự do, có vẻ các vị thần chết không có quyền hạn gì để bắt giữ hay đe dọa bà. Nhưng khi kiểm lại, các vị này thấy bà ta đã có nhiều công đức, như cầu nguyện Phật Từ Bi, nhưng bà ta cũng đã tức giận lối cai trị bất công của chính quyền. Vì lý do đó, bà ta sẽ tái sanh làm một con chim và sau đó mới được tái sanh trong cõi làm người.

Rồi bà Karma nghe thấy một tiếng nói lớn, Bà nhìn về hướng có tiếng nói và thấy một vị tu sĩ đội mũ. Vị ấy nói với bà, “Giờ đây bà đã hiểu luật nhân quả; Bà đã trông thấy mặt mũi của Pháp Vương; Bà đã chứng kiến những sự đe dọa của Thần Chết. Ngươi phải nhớ chắc chắn những nghiệp quả và những lời dạy của Pháp Vương. Bây giờ bà phải trở về cõi người. Những người của bà sắp bỏ cái xác chết của bà rồi". Nói xong, ông biến mất trong làn gió nhẹ.



#27 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 15/12/2011 - 08:29

Sau đó Đức Tara Trắng thỉnh cầu với Pháp Vương:

"Thưa Đức Pháp Vương, xin nghe tôi nói
Karma đã thức tỉnh đến với Chánh Pháp
Do vì nhân duyên kết nối, bà ta đã thấy Ngài là Đức Guru Rinpoche.
Thể xác và thần thức của bà đã phân ly trước khi tuổi thọ chấm dứt
Vì những sự chấp thủ bà ta đã phải trải qua cõi chuyển tiếp này.
Bà ta đã thấy Pháp Vương vì ý nguyện trong quá khứ.
Bà đã chứng kiến sự sợ hãi về những Thần Chết, sự thật của luật nhân quả.
Bà đã sống bảy của loài người ở đây
Thể xác giống như căn nhà trống của bà đã chết ở thế gian
Nên bà được trả về như sứ giả của Ngài đối với những người dân của lục địa Jamphu (Nam Thiện Bộ Châu)
Hoặc tái sanh trong cõi người
Hoặc được xếp vào hàng trí giả
Thưa Pháp Vương, bà ta sẽ đi đâu, xin Ngài hãy ban lệnh".

Đức Pháp Vương nhìn Karma và suy nghĩ một hồi rồi nhìn vào tấm gương, Ngài kiểm lại những hành vi quá khứ của bà và nói "Trước đây, Lingza Chokyi đã chết và sống lại vì các Thần Chết bắt bà đến đây do lầm tên và lầm bộ tộc. Hai cô gái khác là Samten, người thị trấn Dartsedo và Yungtrung, người tỉnh Kham, cũng được trở về thế gian. Samten được trả về với lời dạy nghiêm khắc là cô phải tu tập theo Chánh Pháp và không tạo ác nghiệp. Yungtrung được cho sống lại vì cô ấy có thể tu tập chứng ngộ chơn tâm. Bây giờ ngươi sẽ được trở về Jambu để làm cho người dân ở đó biết đến Chánh Pháp và cũng để chuyển những lời nhắn của của các sinh linh trong Cõi Người Chết (World of Death) cho những thân nhân của họ trong Cõi Người Sống (World of Living). Vì công đức và ý nguyện của ngươi trong quá khứ, ngươi sẽ thành tựu những lợi ích lớn sau khi tái nhập vào thể xác". Đức Pháp Vương ban cho Karma những lời dạy chi tiết và tiên tri với thông điệp sau đây cho người dân lục địa Jambu:

Nói với họ rằng, Ta là Pháp Vương đang ngự ở đây.
Nói với họ rằng ở đây chúng ta có những cách thức kỳ diệu
Để biết người nào đã tạo nghiệp xấu hay nghiệp tốt.
Nói với họ rằng những người tôn kính Chánh Pháp sẽ thác sinh về cõi cao hơn.
Nói với họ rằng những người tạo ác nghiệp sẽ đọa xuống địa ngục.
Các người ở lục địa Jambu,
Nói chung, phải tu tập theo giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
Và đặc biệt làm theo những lời dạy này của Ta,
Bên ngoài, Ta là Pháp Vương
Bên trong, Ta là Quán Thế Âm ( Avalokiteshvara), Đức Phật Từ Bi
Hãy trì niệm OM MANI PADME HUNG, tâm chú của Bồ Tát Quán Thế Âm
Bên ngoài, Ta là Pháp Vương,
Bên trong, Ta là Guru Rinpoche.
Trì niệm OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG.
Bên ngoài, Ta là Pháp Vương;
Bên trong, Ta là Phật Thích Ca Mâu Ni.
Hãy tu tập theo giáo lý của Đức Phật.
Hãy luôn làm mạnh tâm trí bằng những thiện nghiệp.
Bỏ ngay những nghiệp xấu dù là nhỏ nhất.
Quán tưởng vị Thầy của mình trên đỉnh đầu.
Phụng sự cho hết thảy chúng sanh
Bây giờ đã là giữa trưa (ở nhà của ngươi)
Với ý nguyện thanh tịnh, hãy nghĩ về nhà của ngươi.

Đến lúc này, nhiều người chết đã được quân đao phủ đưa đến Tòa Phán Xét cầu xin bà Karma: “Bà là người may mắn. Nếu bà trở về thế giới loài người, xin chuyển lời nhắn gửi của tôi đến với người thân của tôi. Bảo họ hãy vì tôi mà tạo lập công đức và phụng sự Tam Bảo, để giúp tôi giải trừ những đau khổ ở địa ngục, không có Thần chú nào linh nghiệm như là Lục Tự Đại Minh Chơn ngôn: OM MANI PADME HUNG. Vì vậy, xin hãy trì niệm hay thỉnh cầu người khác cùng trì niệm thần chú này mười ngàn biến. Xin khắc thần chú này trên đá và chồng lên nhau thành một đống. In thần chú này lên trên vải và treo chúng như cờ phướng. In thần chú này lên giấy và quay chúng như những bánh xe cầu nguyện.”

Bà Karma tái nhập thể xác

Tiếp đó, bà Karma nghĩ: “Bây giờ mình nên trở về thung lũng của mình.” Tức khắc bà thấy mình tại Traphu, quê hương của bà. Tại cửa nhà của mình, bà trông thấy xác chết một con chó già. Mắt của nó lõm sâu xuống, và nước dãi đóng quanh mõm nó. Bà Karma vừa sợ vừa kinh tởm. Thoạt tiên bà muốn bỏ chạy, nhưng rồi bà nghĩ, “Mình có thể vào nhà bằng cách bước qua xác con chó. Khi bà bước qua nó, thần thức của bà tức khắc nhập vào thể xác của mình và bà trụ lại trong đó. Bà đã trông thấy thi hài của mình như xác chết của một con chó.

Lúc đầu bà bất tỉnh và có cảm giác như bóng tối lúc hoàng hôn. Sau một lúc bà từ từ tỉnh lại, nhưng không thể cử động được, vì thể xác của bà không còn sức mạnh. Dần dần trí nhớ của bà trở nên sắc bén hơn một chút. Khi cử động được một ít, người ngồi canh xác bên cạnh bà thấy được cử động đó và ông la lớn "PHAT!" ba lần một cách kích động. Tâm thức của bà vẫn còn bị ám ảnh bởi những hình ảnh và những cảm xúc về nổi đau khổ ở địa ngục, nhưng tiếng la " PHAT" làm cho chúng biến mất. Miếng vải che mặt bà rung động một chút. Người đó tự hỏi, “Có khi nào ma nhập vào xác của Karma và khiến bà trở thành quỷ nhập tràng không?” Ông mở tấm mạng và nhấn vào đầu bà nhiều lần. Rồi ông bóp hai bàn tay bà nhiều lần, nhưng bà không đủ sức để nhấn lại hay nói rằng mình vẫn còn sống. Sau đó kiểm tra vùng ngực và thấy rằng hơi ấm vẫn còn ở đó. Ông gọi những người thân của gia đình Karma: “lại đây! bà chủ đã sống lại rồi!”

Mẹ của bà Karma chạy đến, khóc và nói, “Con gái của tôi, con đã trở về rồi phải không?” mọi người nhanh chóng mở tấm vải liệm trên người của bà Karma. Vào lúc đó, ông Trưởng Làng cũng đến, Ông ra lệnh đưa vợ mình sang chỗ khác và cho bà uống sửa và mật ong, nhưng bà Karma không thể ăn hay uống một chút gì trong một tuần. Người nhà nhỏ từng giọt nước vào miệng bà trong những ngày kế tiếp, dần dần bà phục hồi sức khỏe và sắc diện.

Sau đó bà Karma và gia đình thuê hai người thư ký để viết lại và chia làm làm hai phần tất cả những lời nhắn mà những người chết đã nhờ Karma chuyển đến những người thân của họ. Phần một, bao gồm những lời nhắn cho người thân ở tỉnh U (trung ương), Tsang (miền Tây), và Lotrag (miềnNam) là những tỉnh của Tây Tạng. Phần hai là những lời nhắn cho người thân ở Mông Cổ và ở tỉnh Mon. Bà Karma cũng định đi khắp xứ để phổ biến bức thông điệp của vị Pháp Vương cho quần chúng.

Nhưng không may, một phụ nữ quý tộc có quyền lực và là Mẹ của Choje’i Trung, nói “Karma là người thuộc gia đình hạ tiện. Bà ta trở về từ cõi chết là để bắt sinh mạng của người khác". Một người tin vào lời của bà Choje’i Trung và cùng nhau nói, “Karma là quỷ!” Thay vì nghe những gì Karma kể, họ lại tấn công bà. Lúc đó, ông Trưởng Làng quyết định, “trong thời điểm này, tốt hơn nên giữ bí mật việc chết đi sống lại này" và mọi người đồng ý như vậy.

Sau đó một, bà Karma học giáo lý từ một đại sư cao đức là lạt ma Ponlob Jetrung Rinpoche. Khi thấy bà Karna tu tập có kết quả, Ngài ngạc nhiên nói: "Ngay cả một người đã tu học lâu năm cũng không dễ đạt được những chứng nghiệm như vậy”. Nghe Ngài nói thế, người hầu Karma vô tình tiết lộ “Lẽ tất nhiên là bà ấy dễ chứng nghiệm chơn tánh tối thượng, vì bà ấy trở về từ Cõi Chết mà". Vị lạt ma đáp, “Tôi cũng đã ba lần trở về từ Cõi Chết. Chúng ta hãy so sánh xem những kinh nghiệm của chúng ta có giống hay không. Xin bà hãy kể cho chúng tôi biết những gì bà đã trải qua.”

Bà Karma liền kể lại những kinh nghiệm của mình. Những người đang học giáo lý từ lạt ma, cũng đến nghe bà kể chuyện. Vị lạt ma cũng như mọi người đều rớt nước mắt khi nghe câu chuyện của bà. Trọn một ngày thay vì nghe lạt ma giảng giáo lý như thường lệ, mọi người lại lắng nghe bà Karma kể lại chuyến viếng thăm Cõi Người Chết của mình. Hoàn toàn tin lời kể của bà Karma, vị Thầy nói, “Tất cả những điều bà kể đều đáng tin cậy. Trong thung lũng này, người ta không biết giá trị của bà. Con phải đi khắp nơi để làm lợi ích cho mọi người. Tôi sẽ cung cấp cho bà phương tiện di chuyển, người hầu và vật dụng. Con nên đi khắp nước.”

Tuy nhiên, bà Karma vẫn dành phần lớn thời gian ở với Mẹ của mình. Khi đến trước vị Pháp Vương, bà sợ hãi những Thần Chết đến mức trong lúc bối rối, đã chỉ cầu mong cho mình sớm đắc Phật mà không nhớ đến việc cầu nguyện cho lợi ích của hết thảy mọi người, thêm nữa, bà quá quyến luyến người Mẹ của mình. Vì hai lý do này mà bà Karma không tạo được công đức lớn trong việc phụng sự chúng sanh.



#28 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 15/12/2011 - 08:34

Không sợ hãi kẻ thù: kinh nghiệm của Denma Sangye Seng-Ge

Chuyện delog của Denma Sangye seng-ge đáng chú ý về những ý kiến cho rằng chúng ta có thể làm nhẹ bớt những sự sợ hãi, ảo giác và nhớ đến việc an trụ trong trạng thái thiền định. Denma kể rằng sau khi rời khỏi thể xác, ông du hành khắp vũ trụ chỉ trong một khoảnh khắc. Ông cảm thấy mình chứng kiến tất cả những sự kiện của quá khứ, hiện tại, và vị lai cùng một lúc. Dường như ông có một thân ánh sáng và có thể đi lại bằng ánh sáng của thân thể. Ông cảm thấy mình được bao bọc trong những tia sáng năm màu. Ông di chuyển thật dễ dàng với tốc độ của ánh sáng và có thể đến bất cứ nơi nào mình muốn.

Nắm chặt một luồng ánh sáng năm màu xuất hiện ở đằng trước mình, Denma hô lớn "HIK" bảy lần. Ông bay lên trên không. Ông thấy mình có mặt ở Cõi Cực Lạc của Đức Phật. Ở đó ông thấy một cảnh đẹp nhất với những tòa lâu đài kỳ diệu mà trong đó có vô số các bậc trí giả giác ngộ. Ông được một lạt ma đón tiếp và hướng dẫn.Vị tu sĩ này nói: “Con đã không tạo tác các ác nghiệp trong bảy kiếp.
Người may mắn, đừng xao lãng mà hãy nhìn vào bản chất của tánh giác tuyệt đối.

Trong một lúc, Denma nhìn thấy năm bộ phái Phật và những cõi tịnh độ của các Ngài. Kế đó năm vị Phật nguyên thủy xuất hiện thành vị Pháp Vương và các Thần Chết. Ông rơi vào những ảo giác nhiều lần. Có lúc ông thấy những người dân làng của mình và không biết là mình đã chết hay còn sống. Ông thấy có một tháp bằng pha lê, mà thật ra là thể xác của mình, ở trên đó bám đầy những con ếch. Mọi người vừa khóc vừa nhiễu quanh tháp pha lê. Do sự khóc than của họ, ông cảm thấy những trận mưa máu và mủ đang rơi xuống mình. Denma trông thấy hai bộ những vòng hình quả cầu, mỗi bộ có năm vòng, mỗi vòng có màu ánh sáng khác nhau. Một bộ chứa năm vòng tròn lớn, và bộ kia chứa năm vòng nhỏ. Chúng là biểu trưng cho năm trí tuệ nguyên thủy, vốn là sự nhận ra chơn tánh từ năm loại phiền não tham, sân, si, ganh tỵ và kiêu mạn.

Sau đó, Denma cố gắng tìm hiểu mình đã chết thật hay chưa. Cuối cùng ông đi đến kết luận rằng mình đã chết vì trông thấy những dấu hiệu sau đây: Ông có thể đi qua một lỗ kim và qua những lỗ rất nhỏ trong một căn lều; Những bước chân của ông không để lại dấu vết trên cát ở bờ sông; Thân thể của ông không có bóng phản chiếu trong nước, cũng không có bóng đen trong ánh sáng mặt trời, mặt trăng; Ông muốn được ăn nhưng không ai quan tâm tiếp thức ăn cho ông; Ông đến gần những người thân và gọi tên họ nhưng không ai trả lời; Khi nhìn vào mặt người khác, dường như mặt họ bị một mạng mỏng và tối che lại; Ông thấy Mẹ của mình trào nước mắt và đây là điều bất thường đối với cá tính của bà, và bà nói “Bây giờ tôi chỉ muốn chết.”

Biết là mình đã chết rồi, buồn bã và sợ hãi, Denma cầu nguyện đến Đức Phật Từ Bi (Quán Thế Âm). Tức khắc vị Phật xuất hiện trước mắt ông, dạy giáo lý chi tiết và gia hộ cho ông. Tuy nhiên tâm thức của Denma trở nên xao lãng với những ảo tưởng phàm tục, và ông đã gặp thêm những chướng ngại trên chuyến hành trình của mình. Ông cảm thấy mình bị một cơn bão nghiệp quả xô đẩy dồn dập. Ông nghe tiếng rống của những dã thú nổi giận. Nhưng cuối cùng ông nhớ ra rằng những ảo giác này chỉ là năng lực biểu lộ của tánh Không.

Kế đó, ông thấy ánh sáng trắng và đỏ cản đường mình, từ phía sau, một cơn mưa vũ khí ập đến. Khi ông nhớ ra rằng chúng là ảo ảnh, chúng liền trở thành năng lực tự có của tánh giác nội tại của mình. Kế tiếp, ông thấy mình đi theo một con đường núi cao, dốc và hẹp với những tảng đá đỏ và dài vô tận. Ông thấy bên dưới là một dòng sông cuốn những tảng đá trôi đi. Ông đi dọc theo đường núi bằng cách bám lấy những bụi cỏ. Nhiều người đã rơi xuống sông và ông nghe tiếng kêu khóc của họ. Một lần nữa, ông nghĩ về tánh Không của mọi sự vật, những hình ảnh đáng sợ này lại biến đi.

Sau đó, ông cảm thấy mình ở một nơi tối tăm và có đầy những con cầm thú. Ông nghe một giọng nói, “Đừng xao lãng! Đây là cõi súc sinh.” Ông niệm “OM MANI PADME HUNG”. Bỗng nhiên các vị Phật và các vị lama hiện ra đầy trong không gian chào đón ông. Dường như khắp nơi vang tiếng tụng niệm. Kế tiếp, ông thấy mình quyến luyến người thân và tài sản trong cõi sống. Ngay lúc đó, ông nghe giọng nói của Đức Phật Từ Bi, “Đây là cõi chết. Không có người thân hay tài sản nào có thể giúp được con nữa. Đó là sự biểu lộ của tánh Không. Hãy quán niệm tánh Không và không để cho tâm con bị xao lãng. ”Khi ông nghe được điều này, tất cả mọi chấp thủ nơi ông liền tan biến.

Một lần nữa, ông lại thấy mình đi qua một con đường đá hẹp, đầy nước lũ, lửa và bão tố. Ông đi tới đỉnh của con đường, nhưng vì mưa bão nên ông không thể đi lên hay lui lại được. Ông đi vào một ngôi đền và trông thấy nhiều người ở đó, gồm nhiều người ông đã quen biết khi ông còn sống. Có một số người hạnh phúc và đang thụ hưởng cuộc sống họ, một số khác thì đói khát và đau khổ. Nhiều người đang ca hát và người khác thì than khóc. Vì một số người từ thế gian bị đưa đến đây do các vị sứ giả Thần Chết bởi sự nhầm lẫn nên phải đợi chờ cho đến khi tuổi thọ của họ chấm dứt trước khi họ có thể được tái sanh. Những người khác đến đây sớm vị họ chết trong những tai nạn bất ngờ. Cũng có những người cố bám vào đời sống hay bị kẹt ở đây thay vì đi đến nơi kế tiếp của họ, vì họ còn quyến luyến đời sống thế gian của mình. Người giàu có bám vào đời sống ở đây vì họ quyến luyến tài sản của họ. Những người yêu nhau còn bám ở đây vì quyến luyến vào những người yêu của họ.

Các nhà cai trị còn bám ở đây vì họ còn chấp thủ vào quyền lực của mình. Người nghèo bám ở đây vì họ bám luyến vào túp lều và bát ăn xin của họ. Người sân hận bám ở đây vì họ muốn trả thù những kẻ địch của họ. Những người khác đợi chờ ở đây để người thân và bạn bè trong cõi người tạo công đức và hồi hướng cho họ trong những lễ cúng và do đó giúp cho hành trình của họ trong cõi chuyển tiếp này được dễ dàng. Tất cả những người này đã không tạo những nghiệp tốt lắm hoặc xấu lắm để có thể đưa họ nhanh chóng đến nơi cuối cùng của họ.

Sau đó Denma cảm thấy mình lên đến đỉnh Đèo Phủ Cát của cái chết, nơi được trang trí với những đống sọ người và sọ súc vật. Ông nghe những tiếng nói báo thù phát ra từ những chiếc sọ này. Từ đó ông thấy phía trước là Cánh Đồng Chết (Field of the Death) bao la và kinh khủng. Rồi ông cảm thấy mình đang rời khỏi Cõi Người Sống ở phía sau. Ông bỗng bị chấn động và đau đớn, sợ hãi và buồn khổ, cứ như thể tim và phổi ông rớt xuống đất. Một lần nữa, ông nghe thấy một tiếng nói từ rất xa vọng lại, “hãy quán niệm vào chơn tánh chớ nên xao lãng.”

Kế đó, Denma cảm thấy mình đang đi qua Cánh Đồng Chết Nhiều Màu (Colorful Field of the Death), một cánh đồng cát với những cơn bão cát. Cánh đồng có đầy những hình ảnh đáng sợ và những âm thanh đau đớn. Ở phía trước ông trông thấy con đường ánh sáng nhiều màu khác nhau. Từ phía sau, ông cảm thấy mình bị cơn bão nghiệp đẩy đi tới trước, ở bên phải ông thấy bóng tối, ở bên trái ông thấy ánh sáng hơi trắng. Một lần nữa ông lại nghe giọng nói của Đức Phật Từ Bi, “Đây là Cánh Đồng Chết nhiều Màu. Những sinh linh ở đây chịu đau khổ vì đã tạo nghiệp xấu trộm cướp.”

Rồi ông cảm thấy mình băng qua Dòng Sông Đỏ Đáng Sợ của Cái Chết, cuồn cuộn những đợt sóng tia chớp. Trên dòng sông có sáu chiếc cầu đáng sợ. Ở hai bên bờ sông các sinh linh đứng chen chúc nhau, họ ở dưới quyền chỉ huy của các Thần Chết đang cầm đủ loại vũ khí. Ông lại nghe thấy tiếng nói của Phật Từ Bi “Con đừng xao lãng, hãy quán niệm về chơn tâm”. Tức khắc ông bay qua bên kia sông như một chim đại bàng.

Ở bờ sông bên kia ông thấy Awa Đầu-Bò, một trong những vị phụ tá chính của Đức Pháp Vương của những Thần Chết. Vị Thần này đang ngồi trên một ngai bằng những sọ người và sọ thú vật ở giữa những quân đao phủ. Họ có thân người với đầu của những loại thú khác nhau, xung quanh là những đám đông sinh linh, nhiều người đang hoảng sợ và kêu khóc hoặc bị tra tấn, những người khác thì lại vui vẻ và di chuyển đây đó bằng phương tiện kỳ diệu.

Cuối cùng, Denma đi tới một cung điện được làm bằng vật liệu quý báu đặt giữa một vầng hào quang, trong đó các vị Thần xuất hiện. Ông nghe thấy tiếng nhạc của chư thiên biểu diễn. Vị Pháp Vương của những Thần Chết đang ngồi trên ngai được nâng bởi một con voi, một con ngựa, một con công, và một con chim hai đầu được gọi là shang-shang. Pháp Vương có bốn đầu và bốn tay, Ngài mặc y phục Báo Thân, hai tay ở trên của Ngài cầm một tấm gương và một cuốn số, hai tay ở dưới bắt ấn thiền định và cầm Bánh Xe Luân Hồi. Đứng xung quanh Ngài là các vị Thần Chết với thân người và đầu thú.

Sau đó Pháp Vương hỏi Denma về cuộc đời và việc làm của ông. Để trình bày sơ lược về mình, ông hát bài ca vô úy như sau:

"OM MANI PADME HUNG!
Tôi là một hành giả đã nhận ra trạng thái bất nhị.
Không còn sợ kẻ địch, những kẻ thù chấp thủ nhị nguyên.
Tôi là một hành giả đã nhận ra chơn tánh tối thượng
Không còn sợ kẻ địch, những kẻ thù vũ khí phát sinh từ chơn không
Tôi là một hành giả đã nhận ra trí tuệ được thành tựu tự nhiên.
Không còn sợ hãi kẻ thù, những kẻ thù của các Thần Chết được tạo ra từ năm cảm xúc độc hại của tôi.
Tôi là một hành giả đã thoát khỏi mọi mong cầu và nghi ngờ.
Không còn sợ hãi kẻ thù, những kẻ thù của Thần Chết
Tôi là một hành giả đã nhận ra thật tánh.
Không còn sợ hãi kẻ thù, những kẻ thù của sắc tướng huyễn ảo của cõi trung ấm".

Đến đây, vị Thần Awa Đầu-Bò liền chém Denma bằng thanh gươm của mình. Nhưng lưỡi gươm đi xuyên qua người của Denma mà không gây thương tích nào cả, giống như thể chém vào không khí vậy. Ngạc nhiên, tất cả các vị Thần Chết lên tiếng ngợi khen ông: “Ha! Ha!” Đức Pháp Vương cũng khen Denma rằng: “Vị hành giả tuyệt hảo này nói đúng chân lý”. Sau đó Demma đi qua nhiều địa ngục khác để giúp giảm bớt những đau khổ cho những sinh linh ở đó rồi tái nhập về thể xác để chuyển những lời nhắn cho những người ở trần gian.



#29 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 15/12/2011 - 09:43

Vào thăm 18 Cõi Địa Ngục: Kinh nghiệm của Tagla Konchog Gyaltsen

Khi Tagla Konchog Gyaltsen rời khỏi thể xác mình, ông thấy bầu trời hướng Tây có đầy những đám mây màu đỏ nhạt. Vị Thần Bảo Hộ Trắng nói, “Đó không phải là mây, đó là cơn bão của Đèo Núi Sa Mạc Đỏ phân chia Thế giới của người Sống và Thế giới của người Chết. Con có thể vượt qua nó dễ dàng bằng năng lực tâm linh của chính con.” Tagla cầu lực gia hộ của chư Phật và các vị đạo sư để vượt qua đường đèo dễ dàng. Tức khắc, một thảm ánh sáng trắng từ hướng Nam trải dài đến chỗ ông. Trên đó, ông thấy Đức Phật Từ Bi và hình dạng phẫn nộ của Đức Guru Rinpoche cùng với nhiều vị Thần. Vị Thần Phẫn Nộ đập đèo núi ba lần bằng một lá cờ cầu nguyện khổng lồ và đường đèo sụp xuống.

Tagla lại trông thấy lửa che phủ bầu trời. Đất đầy máu tuôn trào và sắt nóng chảy. Vị Thần Bảo Hộ Trắng nói, “Đây là Dòng Sông Nâu Không Thể Vượt Qua của Người Chết. hãy cầu nguyện vị Thần Bảo Hộ của mình". Tagla cầu khẩn các vị Thần Bảo Hộ và các vị Lạt Ma của mình. Bỗng ông nghe một tiếng sấm lớn ở hướng Nam. Ở đó ông thấy Đức Phật Từ Bi, sáng rực như núi tuyết được rọi sáng từ hàng ngàn tia sáng của mặt trời và ở giữa một vầng hào quang ánh sáng cầu vồng cùng một trận mưa hoa nhiều màu khác nhau. Tagla thấy mình ở trên một chiếc thuyền cùng với nhiều người trẻ đang cầm những lá cờ cầu nguyện và niệm chú OM MANI PADME HUNG. Tức khắc ông hoan hỷ vượt qua bên kia sông cùng với họ. Tagla cảm thấy Đức Phật Từ Bi, Guru Rinpoche, những lá cờ cầu nguyện, và những vị Lạt Ma đều hợp nhất bất khả phân. Nhờ chứng kiến những oai lực kỳ diệu như vậy mà thân và tâm của Tagla tràn ngập niềm tôn kính vô biên.

Một lần nữa, Tagla bị đẩy về phía trước bằng nghiệp lực của mình, và ông bị đưa đến một cánh đồng lớn chìm trong bóng tối. Bóng tối này được điểm xuyết bằng những tia chớp và những tia lửa đỏ. Đây là Cánh Đồng Xám Bao La của Người Chết. Như vị Thần Bảo Hộ Trắng đã dạy, Tagla cầu nguyện để có thể vượt qua cánh đồng một cách dễ dàng. Ông thấy một hành giả ẩn tu cao cấp đi tới cùng với một đoàn hành giả và tu sĩ, tay họ cầm những lá cờ cầu nguyện khổng lồ và miệng niệm “OM MANI PADME HUNG”. Đi theo họ, Tagla vượt qua cánh đồng trong một khoảnh khắc.

Sau đó Tagla cảm thấy mình đang ở bên ngoài bức tường khổng lồ, kỳ lạ của cõi địa ngục. Vị Thầy chính của Tagla là Đại Sư Pema Dechen cùng với nhiều vị Lạt Ma trong hình dạng tu sĩ và hành giả ẩn tu xuất hiện trước ông. Các vị này đang quay bánh xe cầu nguyện với bàn tay phải và cầm những là cờ cầu nguyện to lớn bên tay trái. Thần Bảo Hộ Trắng và Hắc Quỷ đều đã biến mất.

Đại Sư Pema Dechen nói với Tagla, “Con phải vào thăm địa ngục để có thể kể lại cho mọi người biết về địa ngục khi con trở về Cõi Người Sống. Người ta sẽ tìm hiểu và tin tưởng rằng địa ngục có thật, và sẽ có cảm hứng để tu tập theo Chánh Pháp. Nhưng con không thể tự mình đến địa ngục mà không dựa vào oai lực của Ta. Hãy cầu nguyện Đức Phật Từ Bi và đi theo Ta.” Với sự hướng dẫn của vị Thầy, Tagla vào thăm mười tám địa ngục khác nhau, trong mỗi địa ngục, vô số sinh linh bị hành hạ đủ loại đau khổ. Những sự đau khổ này là hậu quả của những cảm xúc tiêu cực và những ác nghiệp mà họ đã tạo tác trong lúc còn sống.

Trong mười tám địa ngục này, tám địa ngục đầu tiên là những địa ngục nóng (hỏa ngục):

1. Trong địa ngục sống lại: trên nền sắt nóng cháy, các sinh linh không ngừng giết lẫn nhau với lòng sân hận, sau đó sống lại và chịu đau khổ như vậy bất tận.
2. Trong địa ngục đường vạch đen: trên nền nóng bỏng, những đao phủ vẽ những đường lằn trên thân thể của những tội đồ rồi cưa thân thể của họ theo đường vạch đó thành từng mảnh bằng những lưỡi cưa nóng cháy, và các tội đồ bị cưa như thế vô số lần.
3. Trong địa ngục giã nát: các sinh linh bị liệng vào những cối sắt nóng khổng lồ và bị giã bằng chày nóng cháy không ngừng.
4. Trong địa ngục gào thét: các tội đồ bị nướng trong những bức tường sắt nóng cháy và gào thét không ngừng nghỉ.
5. Trong địa ngục gào thét lớn: các sinh linh bị giam trong bức tường kép nóng bốc lửa, liên tục gào thét vì quá đau khổ.
6. Trong địa ngục nung nấu: các sinh linh bị nấu trong nước đồng sôi.
7. Trong địa ngục nung nấu nhiều: các sinh linh bị thiêu đốt trong những nhà bằng sắt và bị đâm bằng chĩa ba nóng bốc lửa và bị gói lại bằng những miếng sắt nóng.
8. Trong địa ngục đau khổ cùng cực: các tội đồ bị thiêu đốt trong một quả núi sắt nóng cháy, và miệng của họ bị rót nước đồng sôi. Người ta chỉ nghe thấy những tiếng kêu la đau đớn của họ mà không thể nhìn thấy họ ở giữa những ngọn lửa nóng.

Kế tiếp là tám địa ngục lạnh, nơi những tội đồ phải trần truồng để chịu cái lạnh khủng khiếp: (1) địa ngục lạnh phồng da, (2) địa ngục phồng nổ, (3) địa ngục răng đập vào nhau, (4) địa ngục than khóc, (5) địa ngục la khóc, (6) địa ngục thân thể nứt nẻ giống như hoa súng, (7) địa ngục thân thể nứt nẻ giống như hoa sen, (8) địa ngục thân thể nứt nẻ giống như hoa sen lớn. Cuối cùng là hai loại địa ngục phụ: (1) trong những địa ngục bên cạnh này, các tội đồ rơi vào những hố than nóng hay những vũng lầy dơ bẩn, đi qua những cánh đồng lưỡi dao hay rừng lưỡi gươm, và bị đâm bằng những vũ khí sắc nhọn của Đồi Cây Sắt, và bị những con kên kên, hay những người nam nữ ăn thịt. (2) Trong địa ngục ảo ảnh, các sinh linh tái sanh vào những nơi và những vật khác nhau, như đá, cột nhà, bức tường, và cả những món đồ đạc và bị kẹt ở đó trong một thời gian dài.

Trong mỗi cõi địa ngục, Đại Sư Pema Dechen nhìn thấy nguyên nhân của sự chịu khổ của mỗi chúng sanh và giải thích cho Tagla biết. Ngài cũng nói về thời gian mỗi chúng sanh phải chịu khổ và cách giảm bớt nỗi khổ của mình. Trước khi nghiệp quả xấu của họ chấm dứt họ phải sống trong địa ngục, những tội đồ chịu khổ ở đây sẽ không chết vì sự hành hạ, vì sự chịu đau đớn là số phận mà họ phải chịu.

Do oai lực của Đức Phật Từ Bi và Đại Sư Pema Dechen, nhiều sinh linh có thể nhớ lại kiếp trước của mình ở trên thế gian. Tagla khuyến khích nhiều người gởi lời nhắn về hoàn cảnh đau khổ của mình cho những người thân ở thế gian và cầu xin thân nhân tạo lập công đức để giải trừ nghiệp quả xấu cho cả kẻ còn người mất.

Trong lời kể của ông, Tagla đã nói ra tên của nhiều người ở miền Đông Tây Tạng, đang chịu khổ trong những địa ngục khác nhau. Ông mô tả sự đau khổ của họ và những lời nhắn gởi người thân của họ. Có những trường hợp Tagla không trông thấy người gởi lời nhắn mà chỉ nghe tiếng của họ nói với mình.

Ví dụ, một nhóm tội đồ nói, “Làm ơn chuyển những lời nhắn sau đây cho những người thân của chúng tôi. Xin hãy thân cận với người thật sự có đạo tâm tu hành. Xin bố thí thực phẩm và vật dụng cho những người và thú vật đói khổ và nghèo túng. Xin khắc chạm câu Thần chú OM MANI PADME HUNG trên những tảng đá và in trên những tấm vải, rồi trương lên làm những lá cờ cầu nguyện. Xin hãy mua chuộc sinh mạng của những con vật ở lò sát sinh để phóng sanh chúng. Xin làm lễ cúng và thiêu các món ăn và nước cho các sinh linh đang chịu khổ trong cõi âm. Xin hãy cúng dường nhang đèn cho các vị Phật và làm bánh xe cầu nguyện. Xin hãy trì niệm OM MANI PADME HUNG bất cứ khi nào nói đến tên hay nhớ đến chúng tôi.”

Rồi một vị Thầy khác của Tagla là Ngài Tendzin Dargye xuất hiện và nói, “Bây giờ con nên đi đến Toà Phán Xét của vị Pháp Vương của các Thần Chết.” Ngay lúc đó Thần Bảo Hộ Trắng và Quỷ Đen xuất hiện trở lại hai bên ông và mỗi vị cầm một tay ông. Họ đưa ông qua một cổng sắt lớn được những con thú đáng sợ canh phòng. Ở bên trong, Tagla thấy Vị Pháp Vương ở trong một khối cầu lửa khổng lồ. Ngài có bốn mặt đen với hai tay, tay phải cầm một tấm bảng, tay trái cầm một thòng lọng đen, đứng trên một con trâu có vẻ dữ tợn, Ngài trông thật khủng khiếp. Tháp tùng với Ngài có mấy trăm ngàn Thần Chết, kể cả Awa Đầu-Bò, vị Thần giữ tấm bảng. Thần Ác Đầu Rắn giữ cái cân; và Thần Đầu-Khỉ giữ sổ sách. Tất cả các vị đều la to: “HUNG! HUNG! PHAT! PHAT!”

Thần Bảo Hộ Trắng và Quỷ Đen đưa Tagla đến trình diện vị Pháp Vương và hướng dẫn ông kể lại những việc làm của mình ở thể gian cho Pháp Vương nghe. Tagla kể ra những công đức mà mình đã tạo lập. Pháp Vương nói, “Loài người các ngươi chỉ giỏi nói dối. Làm sao biết được ngươi đang nói sự thật ?”

Rồi vị Pháp Vương ra lệnh cho Awa Đầu-Bò kiểm lại những hành vi của Tagla qua tấm gương, trong đó những hành động của mỗi sinh linh đều xuất hiện một cách rõ ràng. Thần Ác Đầu-Rắn cân nghiệp tốt và nghiệp xấu của Tagla trên một cái cân. Thần Trẻ Mặt Khỉ kiểm tra lại những hành động của ông bằng cách đọc bản liệt kê trong cuốn sổ. Tất cả họ đều hỗ trợ lời khai của Tagla.

Vào lúc đó, bỗng Quỷ Đen đứng dậy và la lớn, “Ha! Ha! Ta phản đối kết quả tìm được của mấy ông”, rồi vị này dốc ngược cái túi đeo trên vai của mình đựng những viên sỏi tượng trưng cho ác nghiệp của Tagla. Nhưng chỉ có tám viên sỏi đen rơi ra ngoài. Đến lượt Thần Bảo Hộ Trắng hô lớn Ha! Ha! và xuất trình một núi sỏi trắng làm bằng chứng cho những thiện nghiệp của Tagla.

Lúc đó, Tagla thấy Pháp Vương xuất hiện trong hình dạng Đức Phật Từ Bi. Tám vị Thần Chết chính yếu của Tòa Phán Xét cũng xuất hiện như tám vị Bồ tát.

Từ bên phải của Pháp Vương, một thảm ánh sáng trắng trải dài về hướng Tây. Pháp Vương nói, “Theo con đường ánh sáng này, con có thể đi đến cõi Cực Lạc. Nhưng con phải trở về thế gian như một sứ giả của Ta để làm lợi ích cho mọi người.” Vị Pháp Vương bảo Tagla kể cho người thế gian biết những gì ông đã thấy trong cõi trung ấm và chuyển những lời nhắn của các sinh linh ở địa ngục cho mọi người thân của họ ở cõi thế gian. Tagla không muốn trở về vì ông đã già rồi, nhưng cuối cùng ông cũng tuân lệnh Pháp Vương.

Bỗng nhiên ông thấy một tháp màu trắng phủ tuyết và ông nhập vào trong đó. Cái tháp này thật ra chính là thể xác của ông. Tức khắc sự cảm nhận thế gian trở nên sống động đối với ông. Dần dần sức khỏe của ông phục hồi và ông trở lại với đời sống bình thường.

Tagla đã mang lợi ích đến cho nhiều người bằng việc dạy đạo và hướng dẫn cầu nguyện cũng như hành thiền trong nhiều năm. Rồi trong một lễ cưới của một người thân, khi nghe tin một ngàn năm trăm con thú bị làm thịt để thếch đãi, Tagla quá đau buồn và đột ngột qua đời. Lần này ông không trở về thế gian nữa.

#30 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 15/12/2011 - 09:50

Xao lãng với những ảo ảnh: Kinh nghiệm của Dagpo Trashi Namgyal

Câu chuyện delog của Dagpo Trashi Namgyal minh họa một cách sống động về sự kiện trong cõi trung ấm, sự chú tâm có thể biển đổi đột ngột và nhanh chóng.

Dagpo tự làm phép chuyển di thần thức phowa cho mình và thần thức của ông đã thoát qua đỉnh đầu. Rồi ông trông thấy một ánh sáng giống như một tấm mền đang trải rộng ra. Ông đã thác sanh đến một cõi tịnh độ. Trong cõi tịnh độ này ông thấy chư Phật, các Thiên nữ dakini, và các vị lạt ma. Ông được hưởng những món ăn và đồ uống thanh tịnh, âm nhạc du dương và những vũ điệu hỷ lạc.

Trong cõi tịnh độ này, ông gặp một lạt ma, vốn là một vị Thần bảo hộ của mình. Vị lạt ma hỏi những câu hỏi và ông trả lời. Nhưng tâm của Dagpo bất ngờ xao lãng và ông trông thấy một đường đèo núi cao không thể tưởng tượng với những lá cờ cầu nguyện ở trên đỉnh. Ông trông thấy một cánh đồng khổng lồ, và ở phía dưới cánh đồng là một dòng sông nâu đen to lớn đang chảy xiết. Trên con sông có sáu cây cầu, và bờ bên kia là một thành phố lớn.

Rồi ông cảm thấy mình đang nói chuyện với vị lạt ma. Nhưng tâm ông trở nên xao lãng, và ông bắt đầu thấy những ảo ảnh về sự đau khổ trong địa ngục. Ông trở lại với cảm giác mình đang nói chuyện với vị lạt ma bảo hộ của mình, nhưng một lần nữa tâm ông lại, bị xao lãng. Ông thấy những Thần Chết đưa nhiều sinh linh vào địa ngục. Có những lúc đang thảo luận về giáo lý, ý thức của ông bỗng đột ngột biến đổi thành ảo ảnh. Kinh nghiệm này của ông cho thấy chúng ta phải thiết lập thói quen giữ tâm trí mình ổn định trong lúc còn sống ở thế gian này.

Sau cùng, Dagpo ở trong tòa Phán Xét của vị Pháp Vương. Chỉ vào các vị Thần Chết chính yếu, vị lạt ma bảo hộ ông nói, “Con không thể giấu giếm những ác nghiệp mà chính mình đã phạm. Những Luật lệ của Pháp Vương rất nghiêm khắc. Trong các vị Thần Chết thì Thần Awa Đầu Bò, có tài năng tính toán; Vị Đầu Sư Tử có tài ghi nhận nghiệp tốt và nghiệp xấu; Vị Thần Trẻ Mặt Khỉ có tài xem tấm gương; Vị Đầu Cọp có tài cân nghiệp tốt nghiệp xấu trên bàn cân; Vị Đầu Beo có tài xem sổ sách ghi công và tội; Vị Đầu Gấu có tài quyết định nghiệp nào thiện và nghiệp nào xấu; Vị Đầu Gấu Nâu có tài sử dụng vũ khí. Nói chung các vị Thần Chết tài năng này giỏi phân biệt giữa thiện nghiệp và ác nghiệp".

Vị lama bảo hộ tiếp tục, “Con phải thiền quán về chơn tánh trí tuệ không xao lãng. Tất cả chúng sanh đều bị trôi lăn trong vòng luân hồi là vì quên mất chơn tánh của mình. Những chúng sanh vô minh trong vòng luân hồi thì không thể chấm dứt đau khổ. Chư Phật có tâm thanh tịnh nên thấy mọi sự như là một cõi cực lạc. Chúng sanh có tâm bất tịnh nên nhìn thấy mọi vật là nền sắt nóng cháy của địa ngục. Các hiện tượng phàm tục là thói quen nhận thức huyễn ảo của chính chúng ta. Những ai có nhận thức này làm họ thấy mọi sự như cõi tịnh độ sẽ không phải đối mặt với các Thần Chết, mà ngược lại sẽ thấy chư Phật, vì trong chơn tánh của các vị Thần Chết là các vị Phật.”

Rồi Pháp Vương ra lệnh cho Thần Chết Đầu Gấu, “Hãy cho vị hành giả này thấy chi tiết của những gì diễn ra ở địa ngục. Người này nên được đưa về Cõi Người Sống.” Thần Chết Đầu Gấu bảo Dagpo, “Đừng để tâm tán loạn, hãy an trụ trong trạng thái chơn không, vốn là chơn tánh trí tuệ của tâm, xin hãy theo Ta.” Thần Chết đưa Dagpo đi qua các địa ngục đau khổ không thể tưởng tượng được và những cõi thấp khác. Rồi vị này đưa Dagpo trở lại Tòa Phán Xét.

Đức Pháp Vương nói với Dagpo, “Ngươi phải hiểu rằng tất cả những giáo lý trong Kinh, Luật, Luận là dạy về cách luyện tâm. Nhận ra chơn tánh của tâm là trí tuệ vô sanh. Trụ thăng bằng trong chơn không vô lượng An trụ vững vàng trong trạng thái chơn như.”

Vị Pháp Vương ra lệnh cho ba Thần Chết đưa Dagpo trở về Cõi Người Sống. Vị lama bảo hộ giải thích, “Ta là một hóa thân của Phật Quán Âm (Avalokiteshvara Buddha)". Vị Awa Đầu Bò nói, “Ta là một hiện thân của Phật Kim Cương Tát Đoả (Vajrasattva).”Vị Thần Trẻ Đầu Khỉ nói, “Ta là một hiện thân của Phật Bảo Sanh (Ratnasambhava)”. Vị La Sát Đầu Heo nói, “Ta là một hiện thân của Phật Vô Lượng Quang”. Rồi các vị cùng nói: “Bây giờ ngươi trở về tái nhập thể xác của ngươi, vốn là cảnh giới ( mandala) của chư Phật.”

Sau sáu ngày đi qua các địa ngục, Dagpo cảm thấy như vừa mới thức dậy sau một giấc ngủ. Vị lama bảo hộ của ông và các vị Thần Chết đã biến mất. Ông thấy mình đang ở trước động tu của mình, nơi đó có một Tăng, một Sư cô và một cư sĩ đang canh chừng xác chết của ông. Ông cố nhìn quanh nhưng không thể thấy bất cứ một vật gì. Phải mất một thời gian sau thể xác của ông mới phục hồi sức khỏe trở lại.

Vượt qua cánh đồng người chết: kinh nghiệm của Gyalwa Yungtrung

Yungtrung là một tín đồ đạo Bon, tôn giáo bản địa của Tây Tạng. Chuyện kể delog này cho chúng ta thấy những lời cầu nguyện thành tâm của bất cứ tín ngưỡng nào cũng sẽ có ích vào lúc chết. Yungtrung từng biết về Phật Giáo, vì vậy ông chứng kiến các vị Thần và các vị Thầy của Phật Giáo cũng như đạo Bon cứu độ các sinh linh trong cõi trung ấm. Điều đáng chú ý ở đây là giống như những Phật tử tu theo Mật tông, Yungtrung cũng xem Tòa Phán Xét của vị Pháp Vương, là một phần của sự nhận thức con đường đạo và mục tiêu sâu xa của tôn giáo. Đối với ông, tòa phán xét không chỉ là một nơi xét xử để quyết định nơi tái sanh của các sinh linh. Nếu người ta hiểu như vậy thì đây là là một tỉnh thức tâm linh của tánh giác nội tại, chơn tánh của tâm trí.

Sau khi ra khỏi thể xác, Yungtrung bỗng cảm thấy mình bay như một con chim, ông bay qua nhiều núi non và thung lũng. Ông trông thấy một con đường đèo trên núi cao được thiết trí bằng những đống xương người và thú vật. Những đống xương này gây tiếng động ồn ào. Bỗng một vị Thiên Nữ vốn là vị Thần Bảo Hộ của ông xuất hiện trong một trang phục áo vải với ba lông chim công trên đầu. Bà nói, “Ha! Ha! Ta không biết chắc con sẽ gặp Mẹ của con.” Nhưng bà cũng ban cho ông một lời hướng dẫn, và Yungtrung làm theo, vượt qua đường đèo và thấy một ngả ba đường. Một ngả đường màu đỏ đi về hướng Tây, một ngả đường màu xanh dẫn về hướng Đông, và ngả đường nhiều màu ở giữa đi đến Tòa Phán Xét của vị Pháp Vương, là nơi sẽ đạt giải thoát hoặc đi lạc vào luân hồi. Yungtrung chọn con đường giữa, có nhiều màu sắc giống như một con rắn, ông đi nhanh trên con đường này.

Con đường trở nên hẹp đến mức dường như núi và đá ở hai bên con đường này chạm vào nhau. Một lần nữa, Yungtrung lại thấy hai con đường nhỏ như một sợi tóc. Con đường màu trắng ở bên tay phải và con đường màu đen ở bên trái. Nhiều người cố gắng chạy theo hai con đường này và nhiều người đang té.

Yungtrung chọn con đường màu trắng, nhưng không bao lâu con đường hoàn toàn bị bít lấp. Sau đó một tu sĩ đạo Bon trong y phục như người thường với mái tóc dài đi tới từ phía bên kia, dẫn khoảng một trăm người đến giải thoát. Vị này nói với Yungtrung, “Con đường màu trắng là con đường dành cho những người làm lợi ích cho chúng sanh. Con đường màu đen là dành cho mọi người nói chung, và nó dẫn đến nơi ở của vị Pháp Vương.”

Rồi Yungtrung thấy mình đang ở trước cửa một cái hang. Cửa hang có một lỗ nhỏ, chỉ vừa với nắm tay ông lọt qua. Tất cả những con đường đều dẫn đến cái hang này, và không có lối ra nào khác. Ông nghĩ, “Bây giờ mình không có thân vật chất nữa. Thần thức của mình có thể đi xuyên qua bất cứ cái gì.” Ông lớn tiếng lập lại câu này ba lần cho đám đông biết. Đột nhiên ông thấy mình ở phía bên kia cửa hang đá.

Ông đang đứng trên một cánh đồng lớn màu xám, từ đó ông không trông thấy núi hay thung lũng nào nữa. Ông nghĩ, “Cánh đồng này lớn vô cùng, nhưng vượt qua nó không phải là việc bất khả, vì mình là rỗng không.” Tức khắc ông thấy mình ở rìa bên kia của cánh đồng.

Ở đó có ba dòng sông chảy cuồn cuộn dữ dội hợp lại thành một. Dòng sông màu đỏ chảy đến từ hướng Đông. Dòng sông màu đen chảy tới từ hướng Nam. Dòng sông màu nâu chảy đến từ hướng Bắc. Chỉ có một chiếc cầu dài và hẹp bắt ngang trên con sông lớn này. Ở gần chiếc cầu, nhiều người nam và nữ đang kêu khóc vì họ phải vượt qua sông nhưng không thể được. Với tâm từ bi, ông nói với họ rằng, “Tất cả mọi người hãy cầu nguyện với tôi. Tôi sẽ cầu nguyện cho các vị” Tất cả họ đều lắng nghe ông với sự kính trọng. Phát tín tâm mạnh mẽ, Yungtrung cầu nguyện các vị Thầy tổ của đạo Bon và của Đạo Phật:

HRI! Con cầu nguyện Đạo Sư Tranpa Namkha
Con cầu nguyện Đạo Sư Tshewang Rigdzin.
Con cầu nguyện Đạo Sư Padmasambhava.
Con cầu nguyện Montul Tenpa Wangyal.
Con cầu nguyện vị Thầy chính của con
Xin dẫn thần thức của những người chết đến giải thoát.
Xin gia hộ cho chúng con và làm cho nỗi sợ hãi cõi trung ấm biến mất
Xin gia hộ cho chúng con thành tựu pháp chuyển di thần thức phowa.
Xin gia hộ cho chúng con đắc quả an lạc của con đường giải thoát.

Rồi ông nhập vào trạng thái thiền định, và kết quả là tất cả những người hiện diện ở đó đều được tái sanh vào những cõi phúc lạc.

Đến đây vị Thần Bảo Hộ của Yungtrung lại xuất hiện một lần nữa. Ông trông thấy một tòa lâu đài lớn trong suốt, cao như thể đụng đến bầu trời. Ông hỏi vị Nữ thần, “Tòa lâu đài này có tên là gì? Ai sống ở trong đó?” Nữ thần nói, “Đây là sự đại hợp nhất của sắc tướng và chơn không, lâu đài của các Thần Chết. Vị Pháp Vương của Thần Chết ở trong đó. Lúc này, vi Pháp Vương đang có thái độ hiền hòa, tốt nhất chúng ta nên đến gặp Ngài ngay"

Yungtrung nghe thấy những tiếng động kinh khủng vang khắp đất trời. Mới đầu ông hoảng sợ, nhưng rồi ông tự nhủ, “Tất cả âm thanh đều là âm thanh tự nhiên của trí tuệ. Tất cả ánh sáng là ánh sáng của trí tuệ. Tất cả những tia sáng đều là tia sáng tự nhiên của trí tuệ. Không có gì phải sợ hãi cả.” Với sự tự tin mới, ông tiếp tục đi.

Trong tòa lâu đài khổng lồ này có một ngai lớn làm bằng vật liệu quý. Cái ngai được tám con thú hùng mạnh khác nhau nâng lên. Ngồi trên ngai là một người khổng lồ trông đáng sợ có mặt màu hơi đỏ, to lớn như Núi Tu Di (Sumeru). Nét mặt của Ngài mang dáng dấp nửa hiền hòa nửa phẫn nộ, với ba mắt và bốn răng nanh, mái tóc hơi đỏ bồng bềnh xung quanh đầu Ngài như ngọn lửa đang cháy. Ngài mặt áo lông thú, đội mão và đeo chuỗi hạt bằng xương. Tay phải của Ngài cầm một quyền trượng với dấu ấn của chữ Vạn (Svastika) và tay trái cầm một tấm gương giống như trăng tròn, trong đó Ngài có thể trông thấy tất cả những sự vật hiện tượng của thế gian. Ngài gầm lên một tiếng lớn “HUNG” làm rung chuyển cả ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Yungtrung tin chắc vị thần khổng lồ này là Pháp Vương của những Thần Chết.

Yungtrung đảnh lễ ba lần và nói, "kính thưa Pháp Vương, con là Latri Lama Gyalwa Yungtrung, người xứ Kham. Mẹ con tên là Adron, hiện giờ đang ở đâu?” Thay vì trả lời thẳng câu hỏi này, vị Pháp Vương nói, “Ha! Ha! Ngươi đến đây để giúp giải thoát cho những sinh linh của ba cõi đã bị đày xuống đây vì ác nghiệp của họ. Vậy, với sức mạnh của mình, ngươi phải giải thoát tất cả những ai từng có nhân duyên với ngươi. Nhưng nếu ngươi không thể làm được như vậy, Ta sẽ thật hổ thẹn cho ngươi.”

Ngay lúc đó, Yungtrung trông thấy một trưởng lão đạo Bon đến Tòa Phán Xét. Ông đi với một người có sắc diện trắng mặc áo trắng, và một người sắc diện đen mặc áo đen. Người mặt trắng biện hộ cho ông già, đưa ra một túi đựng những viên sỏi trắng tượng trưng cho những thiện nghiệp của ông già. Người mặc áo đen trình ra một túi đựng những viên sỏi đen và biện luận chống lại ông già đó. Theo lệnh của Pháp Vương, Thần Chết Đầu Khỉ và Thần Chết Đầu Sư Tử cân nghiệp tốt và nghiệp xấu của ông già. Nghiệp tốt của ông già nặng hơn nghiệp xấu một chút. Thần Chết Đầu Khỉ kiểm tra lại trong tấm gương và chỉ thấy ánh sáng. Pháp Vương nói với người tu sĩ già, “Ngươi đã tạo được nhiều thiện nghiệp to lớn. Nhưng điều quan trọng hơn là ngươi đã duy trì tâm thanh tịnh và tôn kính vị Thầy của ngươi. Vì vậy, ngươi có thể đi đến Shambala, vương quốc của bậc thánh nhân ở rặng Tuyết Sơn".

Nhiều người bắt đầu trải qua sự phán xét của Pháp Vương. Các vị đạo sư cũng đến đó và giúp giải thoát cho nhiều người trong số họ. Yungtrung đi thăm nhiều nơi và cầu nguyện cho các sinh linh ở đó. Nhiều sự đau khổ của địa ngục biến mất ngay khi ông hô lớn "PHAT" trong khi nhập định. Sau khi thăm viếng các địa ngục, ông trở lại tòa lâu đài. Pháp Vương ra lệnh cho Thần Chết Mặt Khỉ đưa ông đi khỏi nơi đó. Ông đã không tìm thấy Mẹ của mình.

Trên đường trở về, ông gặp hai vị lạt ma bị kẹt ở dưới một chiếc cầu. Khi còn sống trong loài người, một vị đã làm phép trừ tà với mục đích xấu, và vị kia đã lạm dụng ngân quỹ của cộng đồng. Nhưng vì hai vị lạt ma này có niềm tin nơi Chánh Pháp, nên Yungtrung cầu nguyện chư Phật và chư Tổ với lòng thành kính và làm phép chuyển di phowa. Kết quả hai vị lạt ma đã được giải thoát khỏi nơi đó.

Sau đó Yungtrung qua cầu trở lại, đi qua Cánh Đồng Chết, đi dọc theo con đường hẹp, và đường đèo của người chết. Ông về đến nhà khi mặt trời đang lên đỉnh núi. Sau đó Yungtrung có một kinh nghiệm cận tử lần thứ hai, trong đó ông đi qua con đường dẫn vào cõi trung ấm, bằng năng lực thiền quán về sự hợp nhất của trí tuệ và tánh Không, giống như ông đã từng làm trong kinh nghiệm delog lần thứ nhất. Lần này ông đến nhiều nơi khác nhau trong cõi người và cõi A tu la.

Bỗng có một Thiên nữ dakini xinh đẹp xuất hiện phía trước ông. Yungtrung thỉnh cầu vị này đưa ông đến chỗ của Mẹ mình. Vị dakini không trả lời mà biến thành một chim đại bàng bay lên bầu trời. Nhận ra mình không có thân xác thô kệch. Yungtrung cũng biến thành chim đại bàng chỉ bằng ý muốn và bay theo sau vị dakini. Sau đó, ở phía bắc của Núi Tu Di, hai người đáp xuống một cánh đồng đầy hoa. Ở đó trong một cái lều làm bằng những bông hoa, Yungtrung trông thấy một vị thánh.

Vị dakini bảo, “Hãy lại đây. Ở đó có một bông hoa thấp hơn bông khác, và vừa mới nở. Ở bên trong là ba đứa bé sơ sanh". Chỉ vào một em bé, vị dakini nói, “Bé trai này là Mẹ của ngươi. Ngươi có nhận ra không?” Bé trai đó nhận ra Yungtrung và nói, “Apho, tại sao con đến đây?”. Mẹ của ông trong kiếp tái sanh mới là một bé trai, không nhớ gì về gia đình trước đây của mình, nhưng bà đã nhận biết con trai Yungtrung này. Sau đó, theo lời khuyên của dakini, họ đi đến chỗ vị thánh. Vị dakini yêu cầu vị thánh giảng giáo lý cho Mẹ Yungtrung trong thân tái sanh mới. Vị thánh ưng thuận lời thỉnh cầu. Sau đó vị dakini dẫn Yungtrung đến cõi Thiên giới. Sau khi ban những lời tiên tri, bà bay về Oddiyana. Còn Yungtrung thấy mình tái nhập về thể xác ở trong nhà của mình.







Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |