Jump to content

Advertisements




THIỀN TÔNG


53 replies to this topic

#46 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 09/09/2011 - 08:51

KHAI THỊ
Ngày 13 tháng 11 (thất tư ngày thứ bảy)

Đả được bốn thất rồi, công phu của các ông đương nhiên đã có chỗ thâm nhập. Thất đầu không biết dụng công, thất hai biết dụng công, thất ba thì dụng công phu được, thất tư đương nhiên có thâm nhập. Lúc khởi thất nầy có vài vị phải bận: Sư ban thủ của thiền đường mỗi giờ mỗi khắc chiếu cố các ông, nói nhiều rồi sợ các ông động niệm; giảm rồi lại giảm nữa, rất sợ nói thêm một câu lại làm động niệm các ông. Giảng khai thị, công án, điển chương, không mang một câu kinh điển, ngữ lục, cho đến bất cứ cảnh huống nào bên ngoài đều chẳng nói lấy một câu với các ông. Tại sao vậy? Bởi vì cái các ông tham là câu thoại đầu, thành thử tất cả các câu nói khác đều không hợp với pháp nầy, đó chính là điều khổ tâm của họ. Cho đến thấy các ông chỗ nầy cũng không đúng, chỗ kia cũng không đúng, cưỡng trong lòng không được, muốn nói, muốn tỏ bày, nói ra lại e các ông động niệm nên chỉ cho tự mình buông bỏ đi thôi. Điều nầy cũng là thành tựu đạo niệm của các ông. Vị duy na chiếu cố trong và ngoài thiền đường cho đến đi nhiễu hương dài càng sợ các ông ảnh hưởng đến sức khỏe, nhiễu hương ngắn lại sợ tinh thần các ông bất túc, lúc tọa hương thì dễ buồn ngủ, thôi thúc chạy hương thì sợ đánh nhằm lỗ tai các ông, hoặc đánh bị thương làm cho đạo tâm của các ông lui sụt. Suốt ngày cứ để hết tinh thần mà lo cho các ông. Tất cả sư giám hương, hương đăng, tự thủy duyệt chúng, hộ thất trong ngoài, nhà kho, khách đường (tư pháp của nhà chùa) đều là lo cho các ông dụng công hành đạo thành tựu cho các ông đả thất. Hôm nay đả đã được bốn thất rồi mà còn nói chuyện công phu chưa thâm nhập! Quy củ của việc khảo công phu cũng giống như trên, một khi hỏi thì cần phải trả lời, nhưng khi đáp ra thì sẽ làm trời lay, đất động mới được; đã giao hẹn lúc trước rồi: nếu không thì không hỏa táng tức phải thủy táng! (Lược bỏ phần khảo công phu và giải thất)

KHAI THỊ
Ngày 15 tháng 11 (thất năm ngày thứ hai)

Những điều ta nói trong bốn thất trước đều là dạy các ông dụng công. Ban đầu không biết dụng công để làm gì, lại cũng chẳng biết cái gì gọi là dụng công, dần dần biết cần dụng công, lại chẳng biết được pháp dụng công như thế nào, hạ thủ nơi nào? Lại nữa, lúc mới biết câu thoại đầu cũng chẳng tin lắm, đây đều là trình tự đã qua của các ông. Cho nên từ trước tới nay cứ nói vì sao mà phải dụng công. Nhưng con đường hạ thủ công phu, đường lối nhiều lắm cho nên cần phải dẫn dắt các ông đi con đường chính nầy, vì các ông mà quét dọn sạch sẽ các chông gai trên đường đi, bảo các ông đi con đường nầy, không cho có tí chướng ngại nào, nói ra từng lớp lang một cho các ông nghe. Hôm nay thì đã đả được bốn thất, các ông không biết cũng biết rồi, không dụng công cũng muốn dụng công, người không chịu đi trên con đường nầy thì cũng theo con đường nầy mà đi đến; mọi người đều đã lên đường không thể có chuyện nói là chưa lên đường được. Muốn vì các ông mà nói chuyện công phu. Nhưng trong lúc các ông còn có một số đông người ngay cả câu thoại đầu cũng không tin tưởng thì làm sao tham, làm sao nổi nghi tình được, một lần cũng chẳng làm lấy một tí gì, người ta bước ông cũng theo đó mà bước, người ta ngồi ông cũng theo đó mà ngồi, căn bản chẳng động đến gót chân thì đâu nói được là đã lên đường và đi con đường chính được? Nếu các ông như vậy thì cái chuyện của công phu có còn muốn nói không? Nếu nói thì cũng chẳng được tác dụng gì. Đáng lẽ thì không mở miệng, nhưng không nói không được; đại khái có một vị lại cần ta nói trình tự công phu, dẫu cho một người cũng không có, ta cũng chẳng vì không có mà không nói. Các ông cho rằng ta chẳng mở miệng được ấy là các ông đã dụng công phu đến chỗ không mở miệng được rồi; các ông thực đã dụng công phu đến chỗ không mở miệng được. Ta đi ba vòng, ta nói cái chẳng nói, các ông nghe cái không nghe: nói cái chẳng nói ấy là chân ngôn, nghe cái không nghe ấy là chân thính, thế thì tốt lắm! Chỉ sợ chẳng phải cái không mở miệng được đó thôi! Bởi vì trình độ công phu của các ông không có tí nào cả. Có thể lời của ta nói ở phía trước, các ông lại theo lời ta nói mà đi ở phía sau, tỷ như đi đường, ta ở trước một dặm, ông ở sau một dặm;

Các ông thấy được ta, ta cũng thấy được các ông, như thế mới đúng. Hôm nay chỉ có mình ta nói ở phía trước, các ông ở phía sau theo không kịp, ta giảng được mười dặm, tám dặm rồi các ông một dặm cũng chưa đi được; các ông không thấy được ta, ta cũng không thấy được các ông. Ta giảng về hướng nam, các ông lại đi về phía bắc, như thế còn đúng được chăng? Lời ta nói ra có còn được gọi là ngôn hành tương ứng chăng? Đã không tương ứng được thì không cần mở miệng sao? Vì công phu các ông không theo kịp ta nên ta không cần mở miệng. Hoặc giả có người nói: "Thầy nói công phu như thế e là nói oan cho người ta", cũng cho là nói oan người đi, nhưng dù ta nói oan ông thì cũng là chuyện rất tốt, chỉ sợ là không nói oan đó thôi. Các ông có cho là: "Thầy đâu biết được trong lòng người ta". Tuy tâm ông nằm ở trong bụng ông, người các ông đứng ở nơi nầy, ta nhìn qua một cái thì thấy rõ ràng hết, như cái bình pha lê vậy; thấy rõ tim gan ngũ tạng bên trong chẳng sai tí nào, việc ở trong tâm ngươi, thế ta còn không thấy được chăng? Ta còn nó oan các ông chăng? Việc chốn thiền tông không phải nỏi qua là xong, cũng chẳng phải phó thác cho ngày sau được. Giáo môn khi khai tòa giảng kinh, khi xuống tòa giảng có thể ngủ nghỉ, bước ra ngoài đi tản bộ, bởi vì ngày hôm nay giảng qua rồi thì sự hành để đến ngày sau cũng được. Thiền tông không như vậy, hôm nay phải nói cái hành của ngày hôm nay, ngày mai nói cái hành của ngày mai, điều ta nói lại là điều các ông hành; điều các ông hành lại là điều ta nói, ngôn hành cần tương ứng với nhau; nếu ngôn hành không tương ứng thì đây không phải là việc trong thiền tông. Trong các ông còn nhiều người từ trước khi chưa vào thiền đường tưởng rằng thiền đường rất là cao quý, là nơi xuất thân của pháp của thập phương Chư Phật, Bồ Tát, Chư Tổ Sư, phương pháp của thiền tông rất huyền diệu rất đáng tin tưởng. Hôm nay ở thiền đường thì trái ngược laị, cảm thấy: "Không tốt, bên ngoài nói thiền đường hay tốt thế nào mà từ lúc vào thiền đường đến nay, thất cũng đả được ba, bốn kỳ mà cũng chẳng có gì là đáng kể, thì ra chẳng qua chỉ có thế mà thôi! Ở bên ngoài nghe chuyện người ta nói e là người ta gạt mình! Nay phải tính đến cái việc gì khác để cho mình làm mới được." Loại người các ông như thế thì thật đáng tiếc, đáng buồn! Đúng là không thể nói được. Ta cũng muốn chỉ cho các ông cái nguyên nhân của loại bệnh này, làm cho các ông biết là bệnh để có thể tiến tới trước được; loại người nầy thì hình bóng câu thoại đầu cũng không có. Ta hỏi ông: Thế câu thoại đầu các ông còn hình bóng nào của nó không? Không những không còn mà còn cho là: "không tốt đâu! những việc tôi học được, điều tôi lãnh hội được v.v... trước kia hễ đề lên một vấn đề gì thì dường như các câu nói đều có thể cuồn cuộn tuôn ra. Hôm nay, ở nơi thiền đường đả thất, thì trái lại văn chương nghĩ không ra như trống trong bụng tựa hồ chẳng tương ứng. Vậy không thể đả thất được nữa! Đả nữa thì sợ biết bao nhiêu điều tôi đã phí công học được ở các Kinh Lăng Nghiêm, Pháp Hoa đều quên đi mất hết! E rằng phải uổng phí biết bao kinh tế, bao nhiêu khốn khổ, như vậy thì thất chẳng mong đả rồi! Chỉ đả làm cho bụng trống không thôi!". Ông còn có loại tâm lý nầy; ta nói các ông không được làm sai! Đây là việc tốt không phải việc hỏng, các ông có tin không? Ta nói sự học được các ông hãy quên hết, sự lãnh hội các ông hãy quên hết, còn là việc không đáng kể, còn muốn các ông quên luôn cả người học là người gì, ngay cả người lãnh hội được là người gì cũng quên hết luôn. Mọi người các ông hãy lãnh hội ý của ta một chút, cần phải thâm nhập ý của ta thêm một lớp, quên luôn cả câu hỏi của ta về cái các ông học được, có quên người học được chưa? Tiếc thay! Điều học được hãy còn đầy bụng thì nào chịu quên đi được! Ngày ngày ngồi xuống còn muốn dò đi dò lại cứ sợ quên mất, quên cả người học thì làm sao nói cho xong! Trong thiền tông việc đầu tiên là cần các ông quét cho trống rỗng, cần các ông quên hết. Hãy quét cho trống đi, hãy quên hết đi! lúc bấy giờ ta sẽ cùng các ông thương lượng. Vì sao các ông chẳng quét cho trống rỗng? Không chịu quên? Trên thế giới việc gì cũng muốn nói cầu tiến bộ, cho là các ông học theo giáo môn thì cũng muốn tiến bộ. Hôm nay các ông ở thiền đường vì sanh tử đại sự, cầu thành Phật, làm Tổ thì làm sao không nói tiến bộ được? Điều đã học đã lãnh hội quên đi chút ít còn không muốn; các ông tự mình hãy nghĩ xem có đang tiếc không? Vì thế cho nên muốn tất cả các ông nhận thức được, có thể quên đi cái năng học sở học của mình đó là việc tốt, chẳng quên thì còn phải mạnh dạn quên đi mới đúng. Vậy là người các ông không dụng công, chỉ biết đả thất thấy rất tốt, ngồi ngồi, đi đi, ngủ ngủ một chút cũng không sợ, rất là thọ dụng. Người dụng công trái lại nội tâm phiền toái thân tâm chẳng yên. Vì sao vậy? Bởi vì người dụng công ấy biết rằng việc sanh tử chưa liễu thoát thì không được; sanh tử của ta là khổ, sanh tử của chúng sanh ở chốn đại địa lại càng khổ hơn. Nếu muốn làm cho họ lìa khổ ta tất cần lìa khổ trước đã, rồi sau mới độ cái khổ của họ. Ta muốn lìa khổ mà không dụng công thì không được, ta muốn độ chúng sanh thoát khổ mà không dụng công cũng không được. Cho nên từ sáng tới tối khắc khắc công phu, thời thời thực hiện công phu, rất sợ đánh mất công phu. Nói chung, muốn công phu thành phiến, vì không được thành phiến thì phải cứ tự mình trách mình, vì việc đại sự chưa rõ thì như thế chẳng yên. Nhưng mà, mọi người các ông ở đây có còn được nửa số người như thế không? hay là một phần ba! E rằng cũng chẳng có: Giả sử có được một hai thì cũng tốt! Còn kể được là đạo tràng. Nếu một người cũng không có thì câu nầy làm sao nói ra được? Bảo ta mở miệng nói thì có ý vị gì chăng? Các ông hãy nghĩ xem, ta thấy các ông đều có ý nói: "Nhà chùa thật làm khó chúng tôi lắm! Đả được tám thất thì thôi, vì sao phải thêm hai thất nữa! Đây không phải là làm khó chúng tôi sao? Còn nói cho dễ nghe là thành tựu cho chúng tôi! Thành thực chẳng cần nhà chùa thành tựu, giải thất sớm được chút ít để cho chúng tôi được nghỉ ngơi còn sướng hơn". Đâu còn đòi chuyện tinh tấn, dũng mãnh nữa! Muốn cho sung sướng, thích ý mới đúng. Đúng không? Các ông nghĩ xem như thế còn là người hành đạo chăng? Các ông còn phải thành thực chịu thêm một phen khổ sở, sự ham sung sướng, thích ý, tuyệt đối là không được. Hãy đề lên câu thoại đầu mà tham đi thì mới được sự thọ dụng. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 16 tháng 11 (thất năm ngày thứ ba)

"Một niệm bất giác sanh tam tế, cảnh duyên mới động thành lục thô!" Chuyện trong thiền tông chẳng cần hỏi đến, căn trần, ngũ thức, lục thức, thất thức, bát thức, mà chỉ cần nói đến thô và tế. Đối với câu thoại đầu thì đương nhiên phải nói rồi: vì đây là phương pháp phát minh cái bản hữu của chúng ta. Mặc dù nó có thể phát minh được cái bản hữu không; không nói cũng không làm cho chúng ta hành theo cách nầy được. Hoặc giả có người nói: "Đã có nói, có giảng không phải là giáo môn sao?" Các ông nghĩ thế là sai rồi! Điều mà trong thiền tông có nói, có giảng không giống như của giáo môn, cũng không giống với thiền tông; trái lại thì cũng giống với giáo môn, cũng giống với thiền tông, giống như Phật, như Tổ, giống thì hết thảy đều giốg, đồng thì hết thảy đều đồng. Hôm nay giảng về sự "thô" với các ông: trong thiền tông vốn cái "tế" cũng còn bất khả đắc thì còn nói gì đến "thô"? Kỳ thực là phương tiện của phương tiện, vì các ông là người trung hạ căn cho nên không giảng không được; người thượng căn lợi trí thì mau chóng nhập thẳng vào chẳng nhờ nói "thô" với "tế". Thế nào là người trung hạ căn? bởi vì so với người thượng căn thì kém một tí cho nên gọi là người trung hạ căn. E rằng gọi là người trung hạ căn là còn khách sáo với các ông. Tại sao vậy? Cái thô nầy các ông có biết chăng? Nó là cái gì? Lớn hay nhỏ? Tròn hay vuông! Các ông có hiểu được chăng? Các ông hiểu được thì nói cho ta biết! Các ông có được người như thế ta cho ông là người trung hạ căn; sợ các ông không có một người nào biết, luôn cả cái hình bóng "thô" nầy cũng không hiểu được thì đâu còn nói được là người trung hạ căn? Nói là người hạ hạ căn còn là miễn cưỡng, nói là trung hạ căn là khách sáo đấy! Nhưng mà cứu cánh cái "thô" nầy là cái thế nào? Được bao to? Sợ còn không dễ gì biết được. Ta cho các ông biết, sợ không dễ gì biết được rõ. Nói sơ lược để các ông nghe: Hôm nay các ông dụng công mà dụng không xong ấy là thô, không tin dụng công ấy là thô, không tin câu thoại đầu là thô, nghi tình không nổi lên được cũng là thô, sợ chịu khổ là thô, muốn sung sướng cũng là thô, ông nói có được bao lớn? Loài hữu tình lớn nhất là Kim-Xí-Điểu cũng chẳng to được như nó. Nó đã có cái to như vậy thì làm sao không thấy? Bởi vì tất cả chúng ta đều ở trong cái thô. Tỷ như mặt trời trên không tuy có mây trắng che lấp, nhưng cũng có ít nhiều ánh sáng; giả sử có một đám mây đen che khuất cả, đưa bàn tay ra cũng nhìn không thấy gì; giả sử có một người suốt đời ở trong chốn tối tăm nầy sống qua ngày, một chân bùn, một chân cứt chó, hỏi đến anh ta "dưới chân là bùn lầy chăng?". Anh ta đáp "phải". Lại hỏi "còn có cứt chó hay không?". Anh ta đáp: "Không có, đấy là bùn". Chân đạp cứt chó mà cho là đất bùn cũng không biết rốt cuộc hỏi anh ta đất bùn là cái gì thì anh ta lại không mở miệng được. Tại sao vậy? Vì từ trước đến giờ chưa thấy được qua thì làm sao biết được là cái gì? Cũng bằng sự tham thiền trong chúng ta, như mặt trời trên hư không, vì bị nghiệp chướng che khuất mới tựa như một đám mây mù. Ngày nay đã tạo nghiệp, gnày mai cũng tạo nghiệp, lâu dần đi rồi thì cũng như mây đen thôi, giống như mây đen làm cho ánh sáng bổn lai của chúng ta bị che khuất hết. Hôm nay hỏi đến ông: "thô là cái gì?", không mở miệng được vì không thấy qua thì đâu có biết được? Cũng như thấy bùn ở chỗ đen tối vậy. Các ông nghĩ xem: bị cái thô chướng nầy làm cho ánh sáng bổn lai của các ông bị chướng ngại hết. Hôm nay ở tại nơi nẩy còn cứ cho là: "tốt lắm". Từ trước đến nay ông đều ở trong cái chướng nầy, ngay cả cái chướng nầy cũng không hiểu được, còn đâu mà nói thô với chẳng thô! câu nói trong thô ngoài thô nầy còn ổn được chăng? Hôm nay bảo các ông việc thiên hạ không cần tin, cần tin cái tự nơi mình, các ông tại sao không tin chính mình? Ấy là bị thô chướng nó làm chướng ngại rồi! Bất cứ pháp môn nào cũng không cần ông tin, chỉ cần các ông tin cái phương pháp của câu thoại đầu nầy. Các ông còn không chịu tin, tại sao vậy? Cũng là bị thô chướng làm cho chướng ngại rồi! Nếu các ông là người có chút ít tri thức hướng thượng, có lòng kiêm quyết thoát sanh tử, nói rằng: "thiên hạ bị nó làm chướng ngại thì có thể được chứ ta thì không thể nào bị nó làm cho chướng ngại; nếu ta bị nó làm cho chướng ngại thì ta còn được kể là người tham thiền sao?" Cứ tự mình thương lượng kế hoạch với mình, cũng không phải là việc kỳ lạ, cũng chẳng phải là việc khó, ấy là không tin vào mình, không tin vào câu thoại đầu. Hôm nay ta không tin không được, cho ông có bị rất nhiều chướng ngại đi nữa, ta vẫn muốn đả phá ông; không có việc khác, chỉ cần tin câu thoại đầu thì có thể đả phá được sự chướng ngại. Bị nó làm cho chướng ngại rồi thì chẳng tin, không bị chướng ngại thì tin liền, điều nầy thật rõ ràng. Ta nói như vậy các ông người có đạo tâm đương nhiên có chỗ lãnh hội. Ta nói các ông không tin câu thoại đầu, xin các ông hãy tin lấy câu thoại đầu chốc lát, đề lên mà tham, đợi đến khi các ông biết được ít mùi vị thì biết là khác rồi! Tại sao vậy? Nếu ông tham câu thoại đầu chốc lát, chẳng minh bạch thì cứ truy cứu chỗ nầy: là người nào? Đáo để là ai? À! Dường như có món đồ vậy, đại khái tức là chính ta vậy! Lại tham cứu nữa, không sai! Chính là ta! Tuy không hoàn toàn tin song chung quy bị ta thấy một tí cũng như mặt trời bị mây đen che trên không, bỗng đâu mây đen tan đi chỉ còn mây trắng vậy. Như thế thì mặt trời bị mây trắng che còn có thể thấy được thì cái bản lai diện mục của ta đã bị cái chướng che khuất cả; ngày hôm nay có dẹp được chút ít chướng ngại đương nhiên sẽ thấy được chút ít, không được hoàn toàn rõ ràng cũng như có một chút mây trắng vậy. Từ sau khi tự mình thấy được, ấy mới là thực tế, từ vô lượng kiếp đến nay chưa từng thấy qua lần nào, các ông hôm nay đã thấy được "mình" rồi. Ta hỏi ông lần nữa: "Có tin câu thoại đâu chăng?" Các ông lại sai rồi! Các ông thấy được mình, tại sao mà thấy được? Các ông phải hiểu: tham câu thoại đầu một phen chịu khổ sở, hôm nay cũng mài, ngày mai cũng giũa; bản thân các ông là do cái khổ của tham câu thoại đầu mới thấy được. Nếu các ông không tin nó thì chẳng phải là vong bản sao? Các ông hãy nghĩ: đúng hay không đúng? Chứng tỏ câu thoại đầu là phương pháp trừ bỏ cái thô chướng của chúng ta. Ấy là phương pháp làm rõ bản lai diện mục của chúng ta. Nếu muốn phát minh cái bản hữu liễu thoát sanh tử mà không nhờ tham thoại đầu thì không được. Các ông hãy phát tâm! Tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 17 tháng 11 (thất năm ngày thứ tư)

Việc lúc sống mọi người đều biết, đều tin; việc sau khi chết, ai cũng chẳng biết, chẳng tin. Vì việc lúc sống đều tự mình mắt thấy thì không thể không tin. Việc sau khi chết vì chưa thấy đến cho nên không tin. Các ông cho là: "Cái xác thân nầy của ta là rất tốt, không thể không yêu qúy nó. Tương lai có được sự thọ dụng bảy, tám chục năm". Đây là điều các ông tin tưởng nhứt: "Việc sau khi chết tôi chưa thấy thì thầy bảo tôi tin cái gì?" Đại khái người người đều có cái tri kiến ấy. Các ông cho bảy, tám chục năm là dài lắm; các ông phải hiểu được là: quả báo sau khi chết so với bảy, tám chục năm trường của các ông thì chỉ bằng thời gian một tích tắc sau khi chết dù cho ông sống được bảy, tám chục năm. Khảo cứu đến điểm nầy ta thử so sánh một chút: có thể kể cái thời gian bảy, tám chục năm nầy như chớp mắt còn thời gian sau khi chết mới là trường kỳ. Nhưng sự sinh hoạt trường kỳ là do ta ở trong thời gian chớp mắt nầy tạo thành, tạo ra cái sinh hoạt gì thì phải hỏi một niệm hiện tiền của chúng ta là niệm gì. Niệm cố nhiên rất nhiều chúng ta không cần nói nhiều nữa, chỉ nói đến một niệm thôi! Cái niệm nầy cảm được quả gì? Người xưa nói:

"Tơ hào hệ niệm, tam đồ nghiệp nhân" tam đồ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Các ông nghĩ xem: nổi lên một chút xíu hệ niệm thì phải chiệu lấy cái quả to lớn như vậy, còn nói suốt ngày nổi vọng tưởng, nổi nghiệp thức thì sao? Cái cảm quả như vậy ta thực không muốn nói. Hơn nữa, các ông hãy nghĩ qua bảy, tám chục năm suốt ngày cứ nổi nghiệp chướng diêm vương đâu còn tha ông nữa. Diêm vương gọi các ông đi, các ông phải đi liền, trể một phút vào mũi các ông, đầu kia thì ở tay Diêm vương. Diêm vương nắm lấy dây lôi thì các ông phải bước, lúc ấy thì kh-ong còn khách sáo nữa, sợ khi so với chúng ta lôi trâu còn lợi hại gấp mấy chục lần! Diêm vương lôi các ông đi, bảo các ông biến thành trâu thì phải thành trâu, bảo biến thành ngựa các ông phải nhanh chóng biến ngựa; các ông có bản lĩnh bao nhiêu đi nữa cũng không được tự do. Kêu ông đi ông phải đi, tạm dừng một chút không được, muốn không đi càng không được nữa. Tiếc thay! Lúc bấy giờ chúng ta chịu khổ chẳng phải do mình nữa. Nhưng biến thành trâu một lần thì cũng chịu được, sợ rằng biến rồi lại biến nữa cho đến xương chất thành núi, sau khi thoát khỏi hình trâu thì mới biến ra cái khác được; Kỳ hạn dài vô cùng, không phải ta nói ra để dọa các ông! Ngày xưa có một vị tỳ kheo già tụng Kinh Kim Cang, tiếng tụng nghe không hay, vị nầy đã chứng được bốn quả, tiếng người lớn tuổi đương nhiên là nghe không hay. Một vị Tỳ kheo trẻ đứng bên nói: "Tiếng thầy tụng Kinh nghe như tiếng chó sủa vậy!" Vị Tỳ kheo già ngay lúc ấy nói: "Thầy nói câu nầy, tương lai sẽ đọa địa ngục rồi, còn phải biến thành chó nữa". Vị Tỳ kheo trẻ nghe nói kinh sợ quá bèn nhanh chóng cầu sám hối, khóc than khôn xiết. Vị Tỳ kheo già nói: "Thầy sám hối như vậy thì có thể thoát được địa ngục, nhưng không thoát thân làm chó được". Qua bảy ngày sau vị Tỳ kheo trẻ chết. Diêm vương bắt ông ta làm chó, ông ta còn hỏi Diêm vương: "Tại sao tôi phải biến thành chó?" Câu nói chưa dứt thì ông đã biến thành chó rồi; về sau xương của các kiếp làm chó chất thành đống cao lớn bằng núi Tu Di. Các ông hãy nghĩ xem: "Quả báo của câu nói như thế đấy! Đây không phải là chuyện ta đặt, đó là sách vở người xưa chứng minh các ông không thể không tin được. Mọi người các ông hãy nghĩ: cái sợi dây của Diêm vương buộc vào mũi chúng ta có lợi hại không? Cho các ông có bản lĩnh to bằng trời phỏng có thể đào thoát được không? Các ông quả có muốn tránh khỏi, quyết không muốn đến chỗ của Diêm vương cũng không phải là việc khó, muốn không đi thì không đi, việc thật dễ dàng; sợ các ông còn có điểm không tin: "Diêm vương lợi hại như thế, bản lĩnh ngất trời cũng không thoát được tay ông ta, thầy còn bảo dễ thì tôi còn tin vào đâu được?" Ta muốn nói một bằng chứng xác thật cho các ông nghe thì biết: Về trước có Kim Bích Phong bản lĩnh thật lớn, mùa hè đến nghỉ ở núi Thanh Lương mùa đông đến nghỉ ở phương nam, sung sướng lắm. Ngày nọ Diêm vương gọi tiểu quỷ đến bắt, phải mất nhiều thời gian mới bắt được, ông ta là người có bản lĩnh, bèn hỏi tiểu quỷ: "ngươi bắt ta để làm gì?" Tiểu quỷ nói: "Diêm vương bảo ta đến bắt ngươi" Kim Bích Phong nói: "Ngươi có thể từ bi cho ta được bảy ngày không? Khi ngươi trở lại thì ta sẽ đi cùng". Tiểu quỷ nói: "Không được!" Khẩn cầu ba lần, tiểu quỷ cũng có lòng từ bi, nói:

"Được, có thể tha cho ngươi được bảy ngày, hãy đi đi, bảy ngày sau ta sẽ trở lại". Thấy tiểu quỷ đi rồi, sau ông ta liền đề câu thoại đầu lên, ra sức tham cứu "Cứu cánh là ai? Đáo để là ai?", cho có bỏ mạng cũng không buông. Đến ngày thứ bảy, tiểu quỷ trở lại, chỗ nào cũng tìm, trên trời, dưới đất, trong ngoài hư không đều tìm khắp mà tìm không ra. Ông ta ở trên hư không nói: "Diêm vương bắt ta Kim Bích Phong như lấy xích sắt xích hư không, xích sắt xích được hư không rồi thì mới bắt được ta Kim Bích Phong." Hay thực, các ông thử nghĩ: bản lĩnh các ông có lớn hơn nữa thì trên trời tránh không được, dưới đất thì khỏi nói; không tránh được trong hư không, ngoài hư không cũng tránh không được, duy có câu thoại đầu mới có thể tránh được. Tránh trong câu thoại đầu mặc cho bản lĩnh của Diêm vương có to lớn hơn nữa cũng chẳng làm gì được. Phật Thích Ca cũng chẳng làm gì được! Như thế câu thoại đầu có phải là cần thiết chăng? Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 18 tháng 11 (thất năm ngày thứ năm)

Mới phát tâm dụng công thì sợ vọng tưởng dụng công lâu rồi thì sợ hôn trầm, đó là lý lẽ gì vậy? Bởi vì các ông hoàn toàn sống trong hôn trầm và vọng tưởng, nói sợ hôn trầm vọng tưởng thì cái "sợ" ấy cũng do hôn trầm vọng tưởng tạo ra. Sợ vọng tưởng mà không nổi vọng tưởng thì vọng tưởng hãy còn! Sợ hôn trầm mà không rơi vào hôn trầm thì hôn trầm vẫn còn là hôn trầm! Các ông có hiểu không? Đại khái không phải là chuyện dễ! Dẫu có thể nói các ông hiện tại dụng công đả thất một cái thất đả hơn lúc bình thường ba năm, nhưng cái câu nói dụng công thì đủ thứ sai khác. Có bốn thứ sai khác: thân tinh tấn tâm chẳng tinh tấn, tâm tinh tấn thân chẳng tinh tấn, thân tâm đều tinh tấn, thân tâm đều chẳng tinh tấn. Thế nào là thân tinh tấn? Ấy là đi nhiễu hương và tọa hương không giống nhau: nhiễu hương thì chạy như bay, tọa hương thì bên ngoài tốt lắm nhưng trong tâm lại hôn trầm, vọng tưởng. Tâm tinh tấn thì trên tâm suốt ngày câu thoại đầu sáng sủa rõ ràng, bề ngoài thì cứ nhiễu hương, tọa hương rất bình thường. Cái loại người thân tâm đều chẳng tinh tấn nầy không cần nói nhiều, lục đạo luân hồi là hang ra mãi. Trước khi chưa đả thất tựa hồ như có chỗ nắm lấy; khi dụng công trong lòng nổi vọng tưởng lên còn có chỗ dứt. Đừng hỏi đến chuyện khai ngộ, đối với sự công phu một tí cũng chẳng có thì cái vọng tưởng nầy còn có dứt được chăng? Nếu các ông cứ mãi như thế thì ta thật tiếc cho các ông! tiếc đến tràn nước mắt! Trước khi chưa dụng công, nghiệp chướng cao như núi Tu Di, dầy như đại địa, hiện tại lấy câu thoại đầu hôm nay cũng dùi, ngày mai cũng mài tựa như bớt đi một tí; hôm nay bỗng nổi mạnh lên một cái được như thế sợ so với trước còn cao, còn dầy hơn. Thí dụ như một người mắc nợ lâu, hôm nay nghĩ cách trả, ngày mai cũng nghĩ cách trả, trả nhiều lần rồi chỉ còn chút ít, thình lình đi cờ bạc thua hết một số lớn thì nợ nầy so với nợ trước còn lớn hơn, có đúng không? Vọng tưởng nghiệp chướng còn được cho nó nổi lên không? Dụng công phu không xong còn được mặc kệ nó không? Nhưng hiện tại các ông nổi nghiệp chướng lên mà quên cả bổn phận tham thiền, một ngày kia cũng có thể quày đều trở lại; đã lâu đi rồi, nổi lâu đi rồi thì một ngày kia nổi đã thôi; quày đầu lại mới biết ra ta là một người xuất gia, là ở thiền đường Chùa Cao Mân! Người đến lúc ấy mới hiểu được thì đã trể quá rồi, cho nên muốn các ông giác ngộ sớm một chút thì mới tốt, nợ kéo dài thì phải trả nhiều, nghiệp chướng nổi nhiều thì phải thêm nhiều sanh tử. Còn có chuyện gì khác để nói nữa! Lại nữa, vọng tưởng, nghiệp chướng lúc nầy không cho nổi thì đến trong tương lai sẽ có một thời kỳ còn muốn cho các ông nổi, không nổi không được, bây giờ nổi thì có tội, lúc bấy giờ nổi thì không có tội, lại còn có công. Tại sao vậy? Đây là trình tự công phu của các ông, hành đến chỗ ấy là việc của chỗ ấy. Lúc nào thì có thể nổi vọng tưởng được? Là lúc các ông cần công phu đến chỗ "Lạc đường tự tại" (công phu thành khối), lúc ấy các ông không nổi còn muốn các ông nổi, không nổi không được. Giả như không nổi cũng không đúng, không phải là việc của Thiền tông rồi. Tại sao vậy? Công phu của các ông dụng đến lúc ấy nếu chẳng nổi thì bị công phu làm chướng ngại đi. Các ông có hiểu được chăng? Cái công phu gọi là "lạc đường tự tại" ấy là cảnh giới gì? Ấy là đem câu thoại đầu đề lên giống như nổi vọng tưởng trong hiện tại vậy. Hiện nay suốt ngày cứ ở trong vọng tưởng, không nổi vọng tưởng cũng ở trong vọng tưởng. Lúc ông công phu đến chỗ lạc đường tự tại, nhô đầu ra cũng là câu thoại đầu, cứ nhấc chân cũng là câu thoại đầu, cử tâm là câu thoại đầu, động niệm cũng là thoại đầu v.v... Nói chung, muốn khởi lên một niệm, khác cũng làm không được: công phu đến chỗ nầy, vọng tưởng muốn nổi, nổi không được, nghiệp chướng muốn nổi, nổi không được, cho dù trời xoay đất sụp muốn rời câu thoại đầu cũng rời không được. Nếu trụ ở chỗ nầy cũng không đúng mà cần phải hướng về phía trước mà tiến lên. "Tại sao hướng về phía trước, trời xoay đất sụp muốn động cái niệm thoại đầu cũng không được thì sao tiến vè phía trước được?" Nếu không có chỗ đi không cần các ông đi, lúc bấy giờ mới cho các ông nổi vọng tưởng, nổi nghiệp chướng; nổi cho gấp cho nhanh lên, càng nhiều càng tốt. Tại sao vậy? Lúc nầy nổi một vọng tưởng thì bớt một vọng tưởng, nổi một nghiệp chướng thì bớt một nghiệp chướng. Vọng tưởng nghiệp chướng nếu không nổi thì bị công phu che lấp, như thế là không được, cần phải nổi cho hết rồi mới được vô sự. Tỷ như một ổ trộm lớn có năm, sáu tên suốt năm ăn trộm đồ của ngừơi ta; hôm nay ăn cắp một bình trà bỏ trong nhà, ngày mai ăn cắp một hũ rượu bỏ trong nhà, kẻ ăn cắp dù, kẻ ăn cắp nón; tất cả đều chất đầy trong ổ. Ăn cắp lâu rồi có một ngày bị người ta hàng phục; đầu hàng xong thì rất tốt, rất thái bình. Dầu cho tốt nhưng tang vật vẫn còn, hang ổ cũng còn. Nếu không lôi ra tất cả tang vật, đập bể hang ổ thì không lâu bọn kẻ cắp sẽ muốn trở về nữa. Các ông đem tang vật quăng đi hết rồi đốt rụi cả hang ổ, bọn kẻ cắp có trở lại cũng không có chỗ nào để ở cả, đó chẳng phải là được vĩnh viễn thái bình sao? Công phu cũng như việc tiểu trừ bọn kẻ cắp. Bọn kẻ cắp là gì? Là nhân, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý của các ông, đồ ăn cắp là vọng tưởng, nghiệp chướng, người tiểu trừ kẻ cắp là câu thoại đầu. Hôm nay cũng tham, ngày mai cũng tham; đầu tiên, lực lựơng của cảnh giới bên ngoài và vọng tưởng bên trong rất lớn, mắt hễ động thì đánh mất câu thoại đầu, lỗ tai hễ động cũng đánh mất câu thoại đầu cho đến tỷ, thiệt, thân, ý hễ động thì cũng như vậy. Dụng công lâu rồi con mắt dầu cho động thế nào câu thoại đầu cũng còn, lỗ tai động thoại đầu cũng còn, cho đến thân ý động, thoại đầu cũng còn, cũng như bọn cướp hàng rồi thì công phu "lạc đường tự tại". Mặc dù công phu "lạc đường tự tại" kẻ trộm đã hàng nhưng tang vật còn đó, hang ổ cũng còn đó, cho nên muốn các ông nổi vọng tưởng, nổi nghiệp chướng nữa, nổi một cái bớt một cái cũng như đem tang vật từng món từng món một bỏ ra ngoài. Đem bỏ hết rồi thì có thể đập phá ổ hang, lúc phá xong rồi thì mới là thật sự thái bình. Nhưng ta muốn hỏi các ông: sau khi thái bình còn có việc làm chăng? Sợ các ông lại không hiểu được nữa! Thế thì cái công phu "lạc đường tự tại" các ông còn chưa dùng đến thì việc phá hang ổ hết tang vật lại càng chưa dùng đến được thì cho có nói thêm việc gì về sau cũng vô dụng. Đợi khi công phu các ông dụng đến chỗ đó rồi thì ta mới nói cho các ông biết. Bây giờ trở lại nói về công phu hiện tại của các ông, ấy là công phu dụng không được, vọng tưởng không nổi không được, nghiệp chướng nổi rồi còn nổi nữa, lấy câu thoại đầu hàng phục nó mà hàng phục không xong; một lần, hai lần không xong, kết cuộc không có biện pháp. Các ông muốn hàng nó; một khi cái tâm muốn hàng phục nó nổi lên thì lại là vọng càng thêm vọng, nghiệp càng thêm nghiệp thì làm sao hàng phục nó được? Nay chỉ cần các ông không ngó tới nó, không hỏi nó, không hàng phục nó, không đè ép nó, chung qui cứ lấy câu thoại đầu của ta mà tham, cứ tham mãi tự nhiên sẽ được lên đường. Đây là việc rất cần! Rất cần! Các ông hãy phát tâm tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 19 tháng 11 (thất năm ngày thứ sáu)

Theo quá trình công phu đại khái có ba thứ: thứ nhất là cực lạ, thứ nhì là cực quen, thứ ba là phi phàm phi thánh. Ba cái nầy bao gồm tất cả quá trình dụng công của các ông. Dù công phu dụng đến thế nào cũng không ngoài ba thứ nầy. Công phu cực lạ các ông đều rõ thấy được rồi. Thoại đầu tham không vô, muốn tham thoại đầu thì các ông bị vọng tưởng ngăn chận, đề một câu nữa thì vọng tưởng nổi mạnh lên, bị sức mạnh của vọng tưởng nổi lên cướp đoạt một hai cây hương, cho đến liên tiếp cả một ngày cũng không chấm dứt. Bất chợt nhớ lại câu thoại đầu, đề lên được một hai lần thì hôn trầm lại nổi lên, ngủ quên cả nửa ngày mới biết, khi sực tỉnh đề lại câu thoại đầu thì nghiệp chướng, âm thanh, sắc tướng và nhức ngứa trên người v.v... đều là nghịch cảnh làm cho câu thoại đầu bị đánh mất. Đó là lý gì? Bởi vì chúng nó quá quen thuộc còn công phu thì xa lạ quá; kỳ thực tham thiền không có gì kỳ lạ, chỉ cần lấy câu thoại đầu đề lên thường xuyên và khởi nghi tình tham liên tục. Hiện nay đã đả được năm thất rồi, không được bảo là cực lạ, nhất định phải có chút tiến bộ, dù chưa đạt đến chỗ cực quen, hưng công phu đã dụng như vậy dẫu cho là lạ cũng cứ đề lên thoại đầu, đừng buông thả, lâu dần trong một ngày thì có nửa ngày công phu, trong nửa ngày còn lại dù cho màu sắc, âm thanh, vọng tưởng làm đối nghịch, nhưng nửa ngày kia đã được nắm chặt lại trên công phu xét kỹ xem đắc lực hay chẳng đắc lực, cũng như "Niệm Phật là ai", không hiểu rõ phải hỏi nữa. Đáo để là ai? Truy cứu không xong không thể bỏ qua, phải tự hỏi cho đến minh bạch mới buông tay. Cứ như vậy mà hỏi thẳng, không minh bạch nhất định không ngừng nghỉ. Hỏi mãi như thế, khi quay đầu nhìn lại sẽ thấy công phu có phần đắc lực, lại tiếp tục kiểm điểm cái thân nầy còn có hay không? Tựa như chuyện trong thân mình và ngoài thân mình đều không có liên hệ. Xét kỹ thêm một tí sẽ thấy hình như thân thể không có, vậy thân thể tôi không có thì âm thanh, sắc tướng, nhức ngứa làm sao có được. Công phu hành trì thỉnh thoảng có lúc dẫu thấy trên thân thể không có nhưng hình như còn có một hai cái vọng tưởng nghiệp chướng thình lình xảy ra, vậy thì thế nào? Vì tâm chưa bỏ được, cần ôm câu thoại đầu, không được buông. Cứ tham mãi mãi vọng tưởng nổi lên không được thì hình ảnh của nghiệp chướng cũng mất tiêu luôn. Chỉ có cái chỗ không minh bạch của câu thoại đầu, đến được chỗ nầy rồi thì tâm cũng bất khả đắc, thân quên hẳn, tâm cũng quên hẳn; thân tâm đều quên dù cho sắc tướng đẹp thế nào, âm thanh hay thế nào, nếu không có thân thể thì nó dung thân ở đâu? Tình ái sâu thế nào, nhiều đến đâu mà không có tâm thì nó nương vào đâu để an thân? Thân tâm đều bất khả đắc có thể gọi là công phu hiện tiền còn gọi là công phu cực quen. Cực lạ là phàm phu, nhưng cực quen không phải là hiền thánh, cũng không phải đến chỗ phi phàm phi thánh. Công phu hiện tiền là cảnh giới gì các ông tự mình đều cần đạt đến chỗ đó thì mới thấy được, ta nói mà các ông không đi đến thì cũng bằng không. Thật tội nghiệp cho các ông, đối với việc dụng công mà không nắm chắc tí gì; nếu ta không nói sơ cho các ông biết một chút cũng không được. Sự công phu hiện tiền, tức câu thoại đầu hiện tiền, dù đi đứng nằm ngồi, nổi vọng tưởng nổi nghiệp chướng đều là câu thoại đầu, cũng như lúc cực lạ của các ông suốt ngày chỉ có nổi vọng tưởng, đi đứng nằm ngồi đều trong vọng tưởng, cử tâm động niệm ở trong vọng tưởng, mặc áo ăn cơm ở trong vọng tưởng, đề câu thoại đầu cũng là vọng tưởng, sợ vọng tưởng, trừ vọng tưởng lại là thêm vọng tưởng. Hôm nay, công phu hiện tiền tất cả chỗ nào cũng đều là công phu, dù nổi vọng tưởng nổi nghiệp chướng cũng đều là công phu, cái nầy tức là công phu hiện tiền cũng là cực quen, chưa được kể là xong việc, còn phải là lạ bất khả đắc, quen cũng bất khả đắc, lạ quen đều bất khả đắc mới được gọi là đến chỗ phi phàm phi thánh. Vậy thì trong khi công phu hiện tiền chỉ có câu thoại đầu; các ông đừng tưởng sai lầm đi đến chỗ nầy rồi chỉ có chỗ không hiểu câu thoại đầu, chỉ có cái không minh bạch, không cho có chỗ suy nghĩ, cũng không phải cái không minh bạch mơ mơ hồ hồ, cũng không phải cái không minh bạch cho qua loa; như thế mới thực là công phu hiện tiền. Đó là lý gì? Triệu Châu Thiền Sư nói: "Lão tăng ba mươi năm chẳng tạp dụng tâm. Hễ biết mặc áo ăn cơm là chỗ tạp dụng tâm. Người trong thiên hạ ở chỗ minh bạch, chỉ có lão tăng một mình không ở trong chỗ minh bạch", đây là một bằng chứng xác thực. Vậy đến đây gọi là đến đích chưa? Chưa, chỉ có thể nói là cái bánh xe sanh tử ngưng lại rồi, không xoay chuyển chứ chưa đạt được đến cuối cùng, cần phải tiến thêm một bước, đến lúc ấy ta mới nói được chuyện bình thường trong gia đình, kể được việc trong nhà, nhưng việc đáng nói bây giờ không phải là việc trong mà mà coi là việc đang đi đường. Các ông vẫn chưa hiểu được sự việc dưới cửa Thiền tông, chuyện phàm phu thành thánh nhơn; đó không phải là việc cứu cánh, không phải là chỗ đặc biệt của Thiền tông. Sao vậy? Địa vị thánh nhơn là việc ở giữa đường, việc đến nhà vẫn còn cách xa một khoảng đường, các ông có hiểu tí nào không? Nếu đi được đến chỗ nầy mới cho là đúng việc của Thiền tông, là chỗ đặc sắc của Thiền tông. Lời nầy chỉ có Thiền tông được nói, ngoài ra không pháp môn nào được nói. Vậy sau khi cực quen rồi dẹp từng lớp từng lớp mãi, dù nói các ông nghe đại khái không dễ gì lãnh hội được, chỉ là từ lạ chuyển thành quen, người ít thiện căn sẽ còn chút ít ngại khi nghe như vậy. Ta nói thêm một thí dụ: chúng ta ở trong thiền đường lâu ngày, nhiễu hương, tọa hương không còn lạ gì, bỗng có người ngoại quốc lỗ mũi cao, mắt sâu, đầu tóc đỏ, thân to lớn, tất cả đều khác với chúng ta; ta nhìn nó, nó lại nhìn ta, ta thấy nó quái lạ, nó thấy ta cũng quái lạ. Mình đi vào, nó cũng đi theo vào; ra, nó cũng theo ra, mình không nói chuyện được với nó, nó cũng không nói chuyện được với mình. Một mình nó, nó không dám ngồi, không dám ăn cơm. Thời gian lâu mình nhìn nó mĩm cười, nó cũng nhìn mình cười; lâu hơn nữa trao đổi được một vài câu qua lại, dần dần quen rồi không còn quái lạ, lâu ngày cùng nhau tham thiền. Lâu nữa, không xong! Nó lại sanh khi dễ chúng ta, rồi mỗi cử động đều phải nghe nó chỉ huy. Lâu ngày ngược lại mình phải lễ lạy nó, các ông tưởng tượng xem trên thế gian có chuyện như vậy chăng? Tình trạng thông thường hiện nay cũng đều như vậy, sự công phu hạ thủ cũng giống vậy. Người ở trong thiền đường cũng như vọng tưởng, nghiệp chướng từ lâu đã quen thuộc, câu thoại đầu như người ngoại quốc xa lạ, khi hạ thủ dụng công đề lên câu thoại đầu thì vọng tưởng xông lên cũng như các ông nhìn nhau với người ngoại quốc, lâu ngày quen thuộc đương nhiên cũng có thể tham được, lâu thêm nữa tham cũng được, không tham cũng được, nổi vọng tưởng cũng được, không nổi vọng tưởng cũng được, đó là cùng tham với nhau rồi, lâu nữa vọng tưởng đứng không yên vì câu thoại đầu đã làm chủ, làm vua. Trên đời phải có cái lý như vậy, dụng công phu cũng là như vậy. Các ông thật đáng thương! Chỉ có một câu thoại đầu đến nay vẫn có người không tin, có phải khổ không? Chúng ta đều là người sáng suốt, ta khuyên các ông ở trên câu thoại đầu dụng khổ công thêm một phen, chịu thêm nhiều oan ức, đối với sự hành đạo mới có thể có chút ít tương ứng nào đó, hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 20 tháng 11 (thất năm ngày thứ bảy)

"Một niệm sai rồi trăm việc đều sai", ta nói một niệm sai không những trăm việc đều sai mà ngàn việc, muôn việc, tất cả đều sai. Tại sao vậy? Cái căn bản sai thì cái chi nhánh làm sao không sai được! căn bản tức là hiện tiền một niệm của chúng ta nếu một niệm nầy đúng thì ngàn muôn việc đều đúng, nếu một niệm sai thì ngàn muôn việc đều sai. Lục Tổ dạy: "Tự tâm bất ly giả, vô chân hà xứ chân?" (tự tâm không rời cái giả, không chân thì còn chỗ nào chân) đủ có thể chứng minh cái niệm hiện tiền của chúng ta có thể đúng có thể sai, nếu cái niệm nầy của chúng ta đã sai đi rồi thì sẽ tiếp tục mãi không ngừng. Phải biết từ vô lượng kiếp đã sai đến ngày nay, hôm nay được cái sắc thân nầy thì thực là khó lắm! Trong kiếp xưa không biết đã chịu bao nhiêu khổ, nếu mở mắt ra xem thì phải khóc than biết bao nhiêu? Cái sắc thân ở trong lục đạo, tứ sanh, cái sắc thân nào mình chẳng có làm qua? Cái đó đều do một niệm sai mới có. Nầy các thầy! Nếu hôm nay không giải quyết chữ sai nầy đi thì cái khổ ở tương lai còn dài lắm, con mắt nhắm lại, một chân cao, một chân thấp, con đường đi nầy không phải dễ đi, thực là xa xôi khó đến! E rằng cái câu xa xôi khó đến nầy cũng chẳng xong nữa! Tại sao vậy? Nếu các ông biết con đường nầy là xa xôi khó đến mới có thể nói là xa xôi khó đến. Căn bản con đường nầy không biết thì câu xa xôi khó đến ấy để vào đâu? Vậy thì chữ "sai" nầy là không tốt, thì các ông sẽ quay đầu lại nói cữ "đúng" (thị), bởi vì cái sai (phi) đã không tốt rồi, nhứt định dứt nó đi; không có mùi vị gì thì hãy tìm lấy cái đúng mà làm đại khái là tốt rồi. Đúng đấy! Bởi vì đúng là tốt. Đại khái đối với chữ "đúng" nầy các ông không dễ gì hiểu được, nên mới có sự so lường như vậy. Ta hỏi các ông: Tại sao nói rằng đúng là sự tốt? Trong Thiền tông thì không phải vậy, dù không phải vậy nhưng cũng là một con đường phải đi ngang qua. Tại sao Thiền tông nói không phải vậy? Sai tuy không phải là việc tốt, đúng đối với sai mà nói cho là tốt. Nhưng Thiền tông không cho lấy sai làm đúng cũng không cho lấy đúng làm đúng, đúng với sai đều không trụ mới là sự việc trong Thiền tông. Đã là đúng sai đều không trụ thì về sau còn có việc gì không? Có hay không, cần các ông phải tự mình lãnh hội, ta nói không được, tại sao vậy? Nếu ta nói hữu sự thì các ông sẽ hướng về cái hữu mà dụng công, hễ ta nói vô sự thì các ông sẽ hướng trên vô sự mà dụng công, cũng như người xưa nói; "như người uống nước lạnh ấm tự biết". Vậy thì làm một người như vậy cứu kính là người nào, cái người nầy ta có thể chỉ ra cho các ông: các ông công phu đến chỗ nầy là rất thanh cao, có thể nói là "không cùng với vạn pháp làm bạn". Một người không làm bạn với hữu tình, cũng không làm bạn với vô tình, thực hành được như vậy là từ chỗ nào làm đến được? Là một niệm hiện tiền; cái một niệm nầy đúng thì toàn thể đều đúng, cái một niệm nầy sai thì toàn thể đều sai, cái nầy các ông sợ còn chưa được rõ, vậy ta cần phải nói qua cho các ông biết; việc thiên hạ đều không đúng! Chỉ có câu thoại đầu mới là "thiệt đúng". Tại sao nói câu thoại đầu là "thiệt đúng?" Không nhưng ta dám nói mà ta còn dám bảo đảm, các ông sợ còn có điểm không tin. Ta dám nói bảo đảm, không phải chỉ là nói suông thôi đâu, đương nhiên là cần phải có bình luận. Người trên đời không đủ kể thí dụ: Phật Thích Ca, Phật quá khứ đều thỉnh đến đây! Bất cứ vị nào nói chuyện với ta, ta hỏi: "Nầy Phật Thích Ca, câu thoại đầu còn "đúng" hay không? Thí dụ Phật trả lời "không đúng"! Câu thoại đầu nầy chỗ nào nói là đúng được". Nầy Phật Thích Ca ta nói câu thoại đầu là đúng là nói với người đúng, hay nói với người không đúng hay nói với người lìa đúng lìa sai? "Ta hỏi như vậy thì e rằng Phật Thích Ca trả lời không được. Tai sao vậy? Tùy theo trình độ căn cơ của chúng sanh mà giáo hóa, không như vậy không được. Nếu nói người trong nhà (ý nói người đã kiến tánh) ta hỏi Phật Thích Ca thì đương nhiên Phật trả lời được. Nếu Phật Thích Ca hỏi ta, ta cũng trả lời được. Vậy nếu Phật Thích Ca không trả lời được thì còn ai có thể trả lời được nữa? Không phải vậy! Tuy là không phải, nhưng còn muốn các ông niệm niệm đều có, tâm tâm đều có thì mới có thể kể là đúng được; cái chữ "đúng" nầy, chúng ta nói đến đây là kết thúc. Chúng ta dù nói niệm niệm có được tham, tâm tâm có được tham, muốn tham đến trạng thái nào mới nói được là niệm niệm có, tâm tâm có? Nếu có thể lấy câu thoại đầu để trên tâm mình thì chỉ là một cái không minh bạch mãi, không minh bạch thì không buông tay; thình lình người ta tọa hương, ông thì không biết ngồi, khi đánh dấu hiệu đi cầu mọi người đi cầu tiêu thì ông lại không biết hướng về chỗ nào đi, đây gọi là đi mà không biết đi, ngồi mà không biết ngồi. Cái không biết nầy của ông không phải là cái không biết mơ hồ, không minh bạch, mà trong tâm lại minh minh bạch bạch. Người niệm Phật không biết là người nào cứ một mạch mà tham đi; cũng như tham niệm Phật là ai, niệm Phật là người nào niệm? Đáo để là ai? Cứu cánh là người nào? Đều qui tựu vào chỗ không minh bạch, lấy đại ngộ làm kỳ hạn, không ngộ thì cứ tham. Các ông hãy phát tâm. Hãy tham đi!

#47 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 10/09/2011 - 08:09

KHAI THỊ
Ngày 21 tháng 11 (Thất 6 ngày thứ nhất).
Người dụng công phu tưởng rằng công phu của mình tốt lắm, có thể nắm vững được rồi; lúc thân ngồi xuống, tâm cảm thấy nhẹ nhàng, công phu thì thanh thanh tịnh tịnh. Trong lòng cứ cho là: “Tốt lắm rồi! Công phu của ta đã nắm được rồi”. Nhưng theo ta nói thì còn khổ não lắm! Trong chiêm bao cũng còn chưa thể mộng thấy! Đối với người có công phu để dụng thì còn có thể nói là “đắc thiểu vi túc” nhưng ông phải hành đến chỗ đắc thiểu mới có thể nói như vậy được; chỗ thiểu còn chưa đến thì làm sao gọi được là túc? Cái hành này của ông chẳng được gọi là người dụng công phu thì nói gì đến túc? Vậy thì phải làm sao mới là người dụng công phu? Cần phải trong tịnh có công phu, lúc động cũng có công phu, động tịnh đều có công phu. Cái hành này phải thực hành ra làm sao vậy? Nếu mà muốn công phu ở trong tịnh cho tốt xong rồi mới bắt đầu dụng công phu ở trong lúc động thì như thế ba mươi năm, năm mươi năm cũng làm không tốt. Tại sao vậy? Tại ông lấy động, tịnh chia làm hai phần riêng biệt thì làm sao cho tốt được? Lúc động, lúc tịnh, ở giữa động và tịnh công phu đều phải được nắm vững mới có thể nói là động tịnh không chướng ngại cho ông, ông cũng không bị động tịnh chướng ngại. Nếu không nắm vững được chỗ này thì khi tịnh dụng thì bị tịnh chuyển, khi động dụng thì bị động chuyển; làm sao ở giữa hai cửa động tịnh mà công phu không đánh mất thì mới có thể nói: động cũng không động được ông, tịnh cũng không tịnh được ông; dù cho là đỏ, là xanh, là nam, là nữ đều không bị nó chuyển thì mới cho ông là động tịnh nhất như. Mặc dù có công phu như vậy vẫn còn phải khảo sát một tí; một ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ còn có thể dụng công hoàn toàn như vậy được không? Giả sử không hoàn toàn dụng công được như vậy, xin hỏi: “Có mấy tiếng đồng hồ dụng công như vậy?”. Nếu muốn có trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ có hai, ba tiếng không ở trong công phu thì ta không dám bảo đảm cho ông được liễu thoát sinh tử, cũng không nói được ông có hy vọng khai ngộ. Không những ta không dám bảo đảm mà Phật Thích Ca cũng không dám bảo đảm; dù cho Phật Thích Ca đứng ngay chỗ này mà các ông có hỏi Phật: “Công phu cần phải một ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ dụng công không gán đoạn chăng?”. Giả sử Phật Thích Ca nói: “Không cần! Một ngày có mười tiếng để nghỉ ngơi, để nói chuyện”. Đúng lắm! Ta muốn hỏi Phật: “Hai mươi tiếng dụng công là trồng cái nhân gì? Năm, sáu tiếng nghỉ ngơi là trồng cái nhân gì?” thì Phật Thích Ca có còn gì để mở miệng? Cho nên ta nói công phu cần phải dụng như vậy! Phật Thích Ca nhất định cũng nói phải dụng như vậy!

Vậy thì trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ công phu không gián đoạn, cái công phu này có thể kể được là đã đến nhà chưa? Chưa được đâu, còn sớm lắm! Mười phần công phu mới có được một phần. Ta nói như thế các ông lại tưởng rằng: Công phu dụng đến chỗ này còn nói chỉ có một phần, việc trong Thiền tông thực khó quá! Đúng thế! Bởi vì ông không có tri thức dụng công cho nên nói khó, nếu là người có ít trí thức đương nhiên không nói khó, cần phải dụng công như thế. Tại sao cần phải dụng công như thế? Tại sao nói mười phần chỉ có một? Bởi vì suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ dù công phu của ông được thật đứng đắn, nhưng hễ có bệnh thì hỏng việc rồi! Các ông nghĩ xem! Lúc có bệnh đã dụng qua công phu chưa? Công phu còn được đứng đắn không? Bệnh thì chúng ta đều đã có bị qua rồi, đang lúc bệnh thì có dụng công hay không? Sợ ngay cả cái hình bóng cũng không có! Chúng ta nghiên cứu thử xem: trong khi bệnh có cần dụng công hay không? Nếu nói lúc bệnh không cần dụng công, các ông nói thì được chứ ta thì không dám nói. Theo ta, các ông muốn dụng công phu thì lúc bệnh cần phải dụng công phu đứng đắn hơn ngày thường chút ít mới được. Tại sao cần phải đứng đắn hơn? Đau nhức không biết đau nhức, khổ không biết khổ, chết ta không hiểu được, công phu rõ ràng minh bạch, dù cho trời có nóng hay là lạnh, ta một tí cũng không biết đến, chỉ biết sao công phu còn phải tốt hơn ngày thường, công phu ngày thường tuy là tốt nhưng không có thống khổ thì công phu vẫn chưa được cho là đắc lực. Vậy thì có thể nói: Động không đến ông, tịnh không đến ông, bệnh nặng cũng không đến ông mới gọi là tốt!

Công phu này được đến chỗ cực điểm chưa? Cũng còn chưa đâu, chỉ mới có hai phần thôi. Nói như thế thì ra làm sao? Thực làm cho người ta không biết làm sao mà rờ! Thực khó thay! Ta muốn nói cho các ông biết, muốn các ông được thấy đến nơi đến chốn mới đúng: dù cho động tịnh nhất như, bệnh cũng không động đến ông, ông còn ngủ hay không? Ngủ quên rồi lúc nằm chiêm bao thì công phu ra như thế nào? Các ông tưởng tượng xem: công phu có được đứng đắn không? Ta tuyệt đối không phải nói để làm khó cho các ông! Chiêm bao mọi người đều có trải qua, nếu trong khi ngủ quên mà nằm chiêm bao thì không còn dụng công. Ta cho các ông biết, người xưa có nói: “Nghiệp thức mang mang, vô bản khả cứ” (Nghiệp thức mênh mông, không chỗ căn cứ vào được). Hai câu này thế nào? Cứ theo lời nói như vậy thì lúc nằm chiêm bao nhất định cần phải dụng công. Nếu được trong khi ngủ mà không biết có sự ngủ thì làm sao nằm chiêm bao được? Chiêm bao cũng là câu thoại đầu, không kể ngủ hay không ngủ, tất cả đều không rời công phu mới cho là nắm vững được phần nào, nhưng vẫn chưa thể nói là được mười phần. Tại sao vậy? Người xưa có nói: “Lúc tịnh công phu được mười phần thì lúc tịnh chỉ còn một phần, lúc động công phu được mười phần thì lúc ngủ quên nằm chiêm bao ngủ quên chỉ còn một phần, lúc chiêm bao có được mười phần thì lúc đủ thứ khổ đều tụ lại, sinh tử đến ngay trước mắt thì lại chỉ còn một phần”. Đấy chẳng phải là lời ta nói ra đâu. Công phu tất cần phải dụng đến sự lâm nguy cuối cùng có nắm được mược mười phần, liễu sinh thoát tử mới có phần của ông. Công phu dụng lúc sống không thể dụng thẳng đến sau khi chết, cho nên trước khi chết phải giải quyết cho xong sự sanh tử của chính mình. Ta nói như thế các ông cảm thấy sự việc trong Thiền tông thực khó, thực khó muốn đến lắc đầu, hình như thực hành không được, thực khó lắm rồi! Ta nói không phải vậy, các ông thấy có sự thâm sâu như thế nhưng chúng ta chỉ cần một câu thoại đầu thì xong thôi! Câu thoại đầu ra sao mà lại có lực lượng to lớn như thế?

Chúng ta thí nghiệm thử một tí xem: Đề lên câu thoại đầu rồi thì nghi tình còn, buông thoại đầu xuống thì nghi tình không còn nữa. Các ông làm như thế này thử xem: Đề cầu thoại đầu lên đừng buông nó; trong lúc ấy các ông nghiên cứu thử xem, xem xét thử xem, động còn chướng ngại được nó không? Tịnh còn chướng ngại được nó không? Bệnh còn chướng ngại được nó không? Chiêm bao còn chướng ngại được nó không? Dù cho đủ thứ khổ tụ lại cũng đâu còn sợ gì? Chỉ cần một câu thoại đầu thì đưa ông đến được nhà. Ấy tức là “Nhất siêu trực nhập”. Mặc dù dễ như thế, trực tiếp như thế, rốt cuộc muốn các ông làm đến nơi: đề khởi lên có nghi tình, buông xuống cũng có nghi tình. Công phu dụng đến chỗ này mới đúng. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 22 tháng 11 (Thất 6 ngày thứ hai).

Trong lúc vận chuyển làm việc, công phu phải nắm cho vững, suốt cả ngày đêm công phu phải nắm cho vững. Nếu có được công phu như vậy thì mới có được một tí tương ứng với bổn phận của các ông. Tại sao phải dụng công như thế? Cần phải hiểu: Khi đang công phu có buông bỏ một tí tức là có một tí trống rỗng, cái trống rỗng này tức là kẽ hở thì sinh tử của chúng ta sẽ từ kẽ hở mà trỗi dậy, cái kẽ hở này tức là căn cứ địa phát sinh lục đạo luân hồi.

Các ông tưởng tượng xem: Trong khi công phu có một tí trống rỗng như vậy ấy là chỗ sanh ra sinh tử luân hồi; vậy thì há có lý nào ban ngày dụng công phu còn ban đêm thì khỏi dụng công? Tọa hương thì dụng công, còn đi kinh hành thì khỏi dụng công? Lại nói đến ngủ quên khỏi dụng công thì lại càng không xong rồi; người có cái tri kiến như vậy cũng không phải là ít: ấy là chỗ hiểu lầm lớn của các ông. Cái hiểu lầm này người lầm cũng không ít! Thời gian lầm lẫn cũng không ít! Ta thấy các ông cứ sai lầm mãi như vậy đến ngày nào mới dứt?

Theo sự đả thiền thất thì cần phải dụng công tinh tấn, nên sư Ban Thủ, sư Duy Na đều là những người giúp cho các ông nỗ lực tinh tấn, các ông lại không thèm để ý đến việc đi kinh hành, cứ chạy như bay, mà không có nghi tình, vậy gọi là sự tinh tấn của các ông sao? Vậy còn muốn đả thiền thất làm chi nữa? Nếu lúc đi kinh hành mà không thèm để ý đi như thế nào, chạy như thế nào, vậy thì Hòa Thượng, Ban Thủ, Duy Na chẳng phải là vô dụng sao? Như thế thì ta còn cho phép các ông làm như vậy được sao? Theo quy củ: Kêu đi thì phải đi, kêu chạy thì phải chạy như bay, không được nhầm lẫn một chữ! Ta chỉ dạy các ông dụng công phu, các ông cụng hay không dụng ta còn có thể tha thứ một tí chứ còn quy củ của ta các ông không được sai chạy một chữ nào cả. Cứ theo như các ông: Kêu đi ông không đi, ông còn muốn sống không? Cái thân xác của các ông còn muốn ở thiền đường thêm mấy ngày? Hôm nay ta cho các ông biết: Từ nay về sau người chấp sự kêu các ông đi thì các ông đi, kêu chạy thì phải chạy như bay. Sai suyển một chút mà ta thấy được thì phải đánh ba hương bảng, đánh cho ông gãy xương, có mất mạng hay không ta không cần biết. Các ông cần phải lưu ý cho kỹ! Ta không nói trước cho các ông nghe thì khi hương bảng đánh xuống, các ông sẽ lấy làm lạ mà nói rằng: “Thực vô lý quá, phạm cái quy củ nhỏ này làm sao đến phải bị đánh hương bảng nặng như thế? Thật lợi hại quá! Quy củ Thầy chưa nói cho tôi nghe, nếu Thầy đã nói cho chúng tôi nghe rồi, biết sự lợi hại của quy củ rồi, đương nhiên sẽ nghe lời gọi, bảo chạy thì chạy như bay, ấy cũng có gì đáng kể.” Đúng thế! Các ông phải lưu ý cho kỹ.

Tại sao lại phải như thế? Cần phải hiểu: các ông từ đầu năm đến cuối năm chỉ hy vọng thời trong kỳ đả thiền thất được liễu sinh tử. Trong thời kỳ thiền thất dụng công hoàn toàn nhớ cái tinh tiến. Tinh tiến dũng mãnh sợ còn không thể liễu được sinh tử, lười biếng thì làm sao hữu dụng được? Ngày thường chỉ hy vọng trong thời kỳ đả thất, nay trong thời kỳ thiền thất mà không như vậy thì còn hy vọng thời kỳ nào nữa? Vậy ta đem ông đem ông đánh chết thì còn có tội không? Nhưng mà bảo ông chạy như bay, không phải chạy để chơi, phải làm sao bước chân nào cũng rời công phu, niệm niệm không rời công phu, nếu mà chạy không thì chẳng bằng không chạy! Các ông phải lưu tâm ghi nhớ cho kỹ!

Hiện tại người dụng công phu đều phải nghiên cứu cho thuần thục, cũng như trâu rừng trên núi, muốn trâu rừng làm việc, trước hết phải dạy cho nó thuần thục rồi sau mới có thể dùng được. Các ông xem: Lúc ban đầu mới buộc, nó chạy bên Đông nhảy bên Tây không chịu theo khuôn phép tí nào. Hôm nay dạy nó, ngày mai cũng dạy thì dần dần có thể cùng ông lên đường được rồi; lâu nữa thì có thể theo ông mà chạy. Sau khi đã thuần thục thì khỏi cần buộc dây, nó còn có thể đi trước ông nữa Dụng công phu như thế, ban đầu câu thoại đầu giống như trâu rừng, ông muốn dụng công nó không theo ông dụng, không chỗ này hỏng thì chỗ kia hỏng. Lâu đi rồi thì dụng được tốt thôi, thêm lâu nữa thì sẽ thuần thục, chỉ có một câu thoại đầu cứ dụng thẳng đến. Trước kia thoại đầu đề không được, tất cả là chỉ nổi vọng tưởng; hiện nay vọng tưởng nổi không lên, tất cả chỉ là câu thoại đầu: ban ngày ban đêm đều là công phu, muốn nổi một cái vọng tưởng cũng không được, nếu dụng công được như thế thì có thể gọi là thuần thục rồi.

Tại sao phải dụng như thế? Công phu của chúng ta muốn được thành khối tất nhiên cần phải lên con đường này, theo con đường này mà chạy thẳng đi thì mới có thể đến được công phu thành khối; nếu không theo con đường này chạy đi thì công phu không được thành khối.

Thế nào là công phu không thành khối? Thế nào là công phu thành khối? Hai thứ công phu trên đường đi này, các ông phải thấy cho triệt để thì lúc dụng công phu mới được đúng. Hai chữ thành khối tuyệt không phải là có đồ vật gì, không phải là cục đất hay khúc cây gì, nếu hiểu như vậy thì là sai rồi! Đừng có tưởng lầm. Cái khối này, là khi tham thoại đầu được đắc lực, tâm là thoại đầu, nổi vọng tưởng cũng là thoại đầu, nổi nghiệp chướng đều là thoại đầu, trên thân thể đều là thoại đầu, ở dưới chân là thoại đầu, trong tay đều là thoại đầu, nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân v,v… đều là thoại đầu, ngay chỗ này, chỗ đứng cũng là thoại đầu, ngước lên nhìn trời, trời cũng là thoại đầu; tâm như vậy, thân như vậy, hư không cũng như vậy, tất cả cộng chung thành một thoại đầu, tức là thành một khối, không phải khúc cây, cục đất là khối. Cái khối của câu thoại đầu này lan tới chỗ nào cũng là cái khối này, ông muốn đập nó, lấy miếng gỗ đánh nó một cái, miếng gỗ đó cũng thành thoại đầu, lấy cục đá đập nó một cái, cục đá cũng thành thoại đầu luôn. Ta nói như thế là một thí dụ, trong tâm của ông cần phải có một tí lĩnh hội mới được! Công phu như thế tức là công phu thành khối.

Đối với công phu thành khối: thoại đầu đề lên, nghi tình đắc lực, nghi tình cũng là thoại đầu, thoại đầu cũng là nghi tình; sơn hà đại địa là tự thân ta, tự thân lại là tâm, tâm cũng là thân, thân cũng là sơn hà đại địa; giả sử cho cục gạch, miếng gỗ đánh đập một cái, một tí động tịnh cũng không có. Nếu dụng công phu được như vậy là công phu thành khối và dễ đến được quê nhà.

Ta nói như thế, vậy công phu của các ông đã đến chỗ này chưa? Không cần các ông nói ta cũng biết các ông còn chưa dụng công phu được như vậy, các ông chưa dụng đến nơi thì không cần giảng mới phải; nếu không giảng thì các ông khổ não quá? Một tí tri thức dụng công cũng không có; dù cho các ông chưa dụng đến nơi, ta ở phía trước từ từ dẫn các ông đi, các ông cũng có thể theo đến, dù cho ông dụng công chưa đến được thì cũng gieo được một hạt giống đạo.

Các ông người có chí hướng công phu này muốn làm cho đến cũng không có gì, chỉ cần nhận thức là suốt ngày chẳng kể kinh hành, tọa hương, đi ngủ đều phải chiếu cố đến công phu cho tốt, không cho nó bỏ trống chút nào, lúc đi phải nhận chân mà đi, bước nào cũng không rời câu thoại đầu, đang lúc ngồi, nghi tình rõ ràng trong sáng thì tương lai có thể đạt đến công phu thành khối, thành phiến. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 23 tháng 11 (Thất 6 ngày thứ ba).

Người dụng công phu hình như trong tịnh thì dụng được, khi ngồi xuống mà dụng thì công phu trước mắt, muốn nói trong khi động mà dụng công phu thì không dễ đâu! Lúc công phu đứng đắn thì hình như không động được, hễ động một cái thì công phu mất tiêu; còn muốn nói trong động trong tịnh nghi tình thành khối, đập thành phiến lại càng không dễ gì làm được. Đúng thế! Vậy thì nói thực một câu: trong khi động, công phu không dễ gì mà dụng. Tại sao vậy? “Một động, hai động” cái động này chưa hết thì cái động kia đã đến rồi, về sau cứ tiếp tục xong lên mãi mãi như vậy: “Một động, hai động, ba động”, cũng như các ông tọa hương, công phu thấy được lắm, gặp khi khai tịnh thì không phải là động rồi sao? Sau khi khai tịnh thì phải buông chân ra; đã khởi hương rồi thì phải đi tiểu tiện; những chuyện này có thể nói: Khai tịnh buông chân ra là một động hai động, khởi hương tiểu tiện là ba động. Các ông nghĩ xem: Niệm niệm không ngừng động như vậy, cho đến chưa từng ở trong động dụng tâm qua, vì vậy hôm nay muốn trong động dụng công thì sao mà các ông làm được.

Hiện tại chúng ta đã đả được năm, sáu thất, công phu trong khi tịnh các ông đương nhiên đã dụng được rồi. Nay muốn các ông dụng công phu trong khi động thì không dễ gì mà dụng được, tại sao vậy? Bởi vì các ông từ lâu chưa có lưu tâm. Các ông phải hiểu: công phu trong khi tịnh mặc dù đắc lực, hễ có một tí động tác thì lập tức mất liền; giả sử các ông trong khi động mà dụng công phu được thì dù cho tất cả động cũng không động được đến chỗ công phu của các ông, bởi vì công phu của các ông là từ trong khi động mà được thì đâu có sợ gì động nữa?

Các ông cho rằng lúc động thì khó, ta nói không khó! Thứ nhất là muốn các ông có tri thức này, muốn liễu sinh thoát tử tất cần phải dụng công phu trong lúc động, khi trong động mà dụng công được tốt rồi thì mới có thể động tịnh nhất như được. Cái trường kỳ của sinh tử, lợi hại của sinh tử, sinh tử khổ não, nếu không dụng công phu đến động tịnh nhất như thì không thể liễu được: đây là tri thức thức thứ nhất. Thứ hai là phải biết muốn dụng công phu thì bất luận trong động trong tịnh, không được rời khỏi công phu: muốn liễu sinh tử thì tất phải dụng công phu cho đến thành khối thành phiến: đây tức là tri thức thứ hai của các ông. Có được hai tri thức, lập định chí hướng không làm đến thì không được; nếu không công phu cho tốt thì ta không thể là người tham thiền được! Nào là đi, đứng, nằm, ngồi, không hỏi động tịnh, chung qui cứ ôm chặt lấy câu thoại đầu đến chết cũng không buông. Ông có được quyết chí như vậy mà còn sợ làm không tốt sao?

Nhưng mà có quyết chí rồi còn phải biết phương tiện, không hiểu phương tiện thì sẽ làm hỏng việc. Thế nào là hiểu phương tiện? Trước tiên phải biết: Sinh tử không phải một ngày là làm xong, hôm nay muốn hiểu sinh tử cũng không phải là việc gấp được. Vậy phải làm thế nào? Ba năm, năm năm công phu dụng không đến được nhà thì ta cũng dụng, ba mươi năm, năm mưoi năm cho đến kiếp này không xong, kiếp sau làm nữa, kiếp sau làm không xong ta cũng không sửa đổi chí hướng ban đầu; chung qui lấy việc làm cho xong làm kỳ hạn. Lâu cũng được, mau cũng được, lâu hay mau ta không quan tâm, cái tâm rộng lớn tuyệt đối không có tí do dự; làm như vậy mới gọi là biết các phương tiện. Người không hiểu phương tiện, dụng công phu ba ngày không thấy mùi vị gì hoặc là khi tịnh thì dụng, khi động thì không thể dụng; cảm thấy không có mùi vị, thì dụng hay không dụng đâu cần gì nữa? Ấy là không hiểu phương tiện. Đại đa số các ông có còn cái tri thức này không?

Công phu hiện nay, ta thử hỏi các ông: “Công phu trong khi động, tịnh ra như thế nào?”. Các ông nhất định trả lời rằng: “Tiếng bảng buổi sáng lúc tịnh còn có thể được, tiếng bảng buổi trưa có hôn trầm, đến nén hương dưỡng tức, nửa nén hương trên còn khá”. E rằng các ông đều trả lời giống nhau (chúng khẩu đồng âm). Nói như thế thì trong khi tịnh còn chưa hoàn toàn làm cho tốt được còn nói gì đến trong khi động? Không có được một người nào nói: “Tôi mỗi nén hương đều nắm được chắc, chỉ trừ lúc động là không đắc lực thôi”, còn có được người như vậy không? Lại nữa: “Tôi lúc tịnh cũng có công phu dụng, chỉ khi tiếng mõ đánh cho đi cầu mới làm cho công phu của tôi bị đánh mất thôi”. Các ông còn có người nào như vậy không? Có được người như vậy cũng gọi là tốt rồi.

Công phu các ông không làm đến nơi, bịnh tại chỗ nào? Ấy là ở chỗ sợ bị mất mặt, từ sáng đến chiều sợ chạm mặt người, sợ chướng ngại người, chỉ lo sao cho đối với việc này việc nọ không để sai phạm, nếu có sai phạm một chút thì lập tức bị đánh hương bảng, bộ mặt sẽ coi không được, thấy khó chịu! Các ông tưởng tượng xem có phải không, có phải suốt ngày cứ ở trong nhân và ngã mà lưu tâm không? Bởi vì “ngã” sợ bị mất mặt, không được phạm quy củ của người ta, cái cửa này lại nhốt kín ông ở trong. Còn có người nào nói: “Tôi không thể quy củ hay không quy củ! Quy củ là cái thứ hai, câu thoại đầu là thứ nhất, nếu câu thoại đầu của tôi có mảy may bị mất thì cái mạng của tôi cũng mất luôn rồi; tôi có chỗ nào sai lạc thì cứ đánh đi, la rầy cho một trận đi, nhưng cái công phu của tôi thì không thể bị đánh mất được!”. Các ông thực có công phu này thì khi hương bảng có đánh xuống thân ông sẽ không biết đau đớn, la lối ông cũng không cảm thấy khó chịu; đánh chửi đều không hiểu được thì làm sao còn biết đến sợ bị mất mặt? Không phải là an nhiên đi qua cái cửa ngõ khó khăn này hay sao? Nhưng nói không cần quy củ cũng không phải, nếu không cần quy củ thì ông đến thành phóng túng thôi. Kỳ thực người có công phu chân thật, công phu đứng đắn chừng nào thì quy củ giữ tốt chừng đó.

Các ông cho rằng: “Cái chỗ rất khó khăn của công phu là câu thoại đầu dụng đến chỗ thật khó, vậy làm sao đi qua được chỗ cực khó đó?”. Các ông thực dụng đến chỗ khó, muốn qua khỏi chỗ khó đó vốn không phải là việc dễ dàng đâu. Thí dụ câu thoại đầu dụng lên bước tới không được, bước lui cũng không được, bên trái bên phải đều không đi được, đứng ngay chỗ đó cũng không yên ổn. Như trước mặt có người cầm dao, nếu ông bước tới thì họ sẽ cho ông một dao, sau lưng có người cầm súng, hễ lui thì họ bắn ông một phát, bên trái là lửa lớn, bên phải là nước mênh mông, bốn bên đều là hiểm địa, hễ nhúc nhích một cái là mất mạng! Hễ đứng ngay đó bất động thì bốn phía đều gom sát lại cũng phải bị mất mạng. Ta hỏi các ông phải chạy đi đâu? Cái cửa này làm sao qua được? Các ông tịnh tâm để lĩnh hội thử xem. Đây là thí dụ: Các ông lấy cái ý nghĩa thí dụ này để trong tâm mà xem xét thử, lấy câu thoại đầu để chứng minh thử xem phải làm sao mới qua được? Đấy không phải là việc nhỏ đâu! Trong tâm các ông hãy trả lời ta một câu. Nếu trả lời được, nghĩa là trước có dao, sau có súng, bên trái lửa, bên phải nước mà qua được, thì dù cho kiếm thụ đao sơn (rừng kiếm núi đao) cũng qua được, chảo dầu sôi, lò lửa than cũng qua được. Nếu không qua được chỗ này thì chỗ nào cũng không qua khỏi được! Ta lại muốn thảo luận với các ông thêm nữa, người cầm dao trước mặt thật hung dữ chạy đến, dao chỉ cách đầu có hai tấc, súng sau lưng cũng muốn chạm tới thân mình, bên trái lửa cháy ầm ầm, bên phải thì nước như muôn ngựa tràn tới, đến lúc ấy thì cái thân mạng của ông còn muốn giữ được không? Nếu muốn thì phải qua khỏi chỗ đó mới được. Các ông có cách nào qua khỏi được chỗ đó không? Hãy nghĩ trong bụng thử xem. Các ông nếu không có biện pháp nào thì còn có thể gọi là một người dụng công để liễu sinh thoát tử sao? Đáng tiếc thay! Các ông sợ không có biện pháp nào có can đảm mà nói là qua được?

Cái cửa này ta muốn đi giùm cho các ông, không thôi các ông đều qua không được; cái cửa ngõ này không qua được thì dụng công để liễu sinh tử không có phần của ông. Các ông hãy đề công phu lên đi! Ta hỏi các ông: Các ông đang lúc qua không được, lúc đang sợ hãi quá sức, ông lại hỏi: Niệm Phật là ai? Cứu cánh là ai? Đáo để là người nào? Các ông hỏi như thế rồi, ta lại hỏi các ông nữa: Thân của ông ở chỗ nào? Tâm ở chỗ nào? Các ông nghiên cứu thử xem: hỏi như thế đương nhiên thân tâm đều không còn, thân tân đã không còn thì các ông còn sợ dao súng chỗ nào nữa? Cái tướng nước tướng lửa còn hay không? Dù cho hoàn cảnh khó hơn nữa, ta cứ lấy công phu truy cứu thì không phải ngay khi ấy mọi cái đều tan rã, tiêu diệt hết rồi sao?

Vậy cái cửa này qua được rồi thì tất cả hoàn cảnh nào cũng qua được. Cái cửa này ta đã đi qua giùm cho các ông rồi, nhưng việc về sau thì các ông phải tự mình đi. Thí dụ như: Từ Nam Kinh đến Bắc Kinh có xa, Trung Quốc với nước ngoài không sợ ngăn sông cách núi, ta hôm nay đi máy bay một lát thì qua khỏi, có phải là hết sức dễ dàng không! Các ông hãy phát tâm tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 24 tháng 11 (Thất 6 ngày thứ 4).

“Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, nói năng, im lặng, động tịnh thể an nhiên”. Mấy lời này là nói việc trên tâm hạnh từ sáng đến tối của người dụng công phu, tức là muốn các ông động tịnh nhất như, không phân biệt đêm ngày, dụng công đều cần phải như thế. Tai sao cần phải như thế? Không được nghỉ ngơi chăng? Cần phải hiểu: Các ông có công phu chân thật như thế tương lai mới được chỗ ngộ chân thật, nếu các ông có một chỗ nào chưa làm tới nơi thì tương lai chỗ ngộ cũng có một chỗ chưa tới. Chân ngộ là nhất ngộ nhất thiết ngộ, nếu có một tí chưa ngộ thì không được gọi là chân ngộ, cho nên cần cái chân hạnh hiện tại của các ông, cái ngộ tương lai nhất định sẽ được chân.

Nhưng mà ngộ này tuyệt không phải là cầu ngộ, cũng không phải là suy nghĩ ngộ, cũng không phải tùy cái miệng nói ngộ. Muốn chân ngộ cần phải chân hạnh, hành đến nơi thì tự mình sẽ được ngộ. Nhưng các ông cần phải ôm chặt lấy câu thoại đầu, đi cũng tham, ngồi cũng tham, công phu đứng đắc cũng tham, không đứng đắn cũng tham, có vọng tưởng cũng tham, có hôn trầm cũng tham; các ông có tha thiết chịu khổ chịu tham như thế, công phu chân thật bất hư thì còn muốn khai ngộ làm chi nữa? Ta nói không ngộ cũng còn được. Tại sao vậy? Các ông có thiết tha chịu khổ mà tham như thế, chân thật bất hư mà làm thì còn sợ gì tam tai bát nạn? Sợ gì tứ sanh lục đạo? Sanh tử luân hồi? Tất cả đều không sợ!

Vậy không phải là không khai ngộ cũng được chăng? Công phu các ông dụng đến nhà rồi, đâu có lý nào không khai ngộ? Thí dụ: đường đi đến Trấn Giang, Qua Châu, ra cửa chùa đi thẳng về hướng Nam, nhắm mắt phóng chân mà chạy, trên đường có người, ta cũng không hỏi, đến hay không đến cũng không hỏi, chạy suốt một ngày thì đến nơi rồi. Đã đến Qua Châu thì có được nói là chưa đến Qua Châu chăng? Hay là bảo ông chạy về hướng Nam, ông chạy thì phải rồi, nhưng ông mới lên đường, nhìn bên Đông một cái, ngó bên Tây một cái, kiếm người ngồi xuống nói chuyện, uống chén trà rồi hỏi: “Còn được bao xa?”. Các ông như thế thì có còn được đến chăng? Dụng công phu cũng như đi đường, bảo ông đề câu thoại đầu cứ thẳng mà tham đi, đắc lực cũng tham, không đắc lực cũng tham, khai ngộ ta cũng không hỏi, không khai ngộ ta cũng không hỏi, chung quy khi ta đến nơi rồi không khai ngộ cũng không được, công phu của các ông chưa đi đến chỗ, muốn khai ngộ cũng không được. Cũng như đi đường đến Qua Châu rồi, ông nói không phải Qua Châu thì không được! Chưa đến Qua Châu ông nói là qua Châu cũng không được!

Trong các ông có một số đông người bảo cứ thẳng tay mà dụng công, các ông chịu dụng thì cũng như người đi đường đó vậy, nhìn bên Đông, ngó bên Tây như thế tức là vọng tưởng, hôn trầm, hỏi thăm chỗ này có phải là Qua Châu không, sự thật giống y như thế! Các ông dụng công cũng như vậy. “Tôi đã ngộ rồi chứ?”. Thấy thần, thấy quỷ, tự mình xuyên tạc bậy bạ, tự mình bày đặt này nọ, suy nghĩ phân biệt, tự mình làm hỏng mình, còn đổ thừa ai? Các ông còn tưởng gạt người ta là xong, gạt người ta thì được chứ tự gạt mình thì đến lúc chịu quả báo có kêu khổ cũng vô ích! Bởi vì các ông làm nhân không thật, đương nhiên phải chịu quả báo. Cho nên bảo các ông đừng có cầu ngộ, thay vì cầu ngộ thì lấy tâm đó để dụng công phu thì tốt hơn biết bao! Đề câu thoại đầu này, các ông không dụng đến chỗ đi không biết đi, ngồi không biết ngồi mà muốn được một tí thọ dụng thì không thể được, không phải ba ngày, năm ngày, ba tháng, năm tháng thì được đến nhà đâu! Muốn các ông không hỏi đến ngày tháng, cứ đề một câu thoại đầu mà tham thẳng đi, hai ba chục năm mà còn chưa ngộ cũng đừng có nghỉ ngơi. Ta hỏi ông: Niệm Phật là ai? Niệm Phật là người nào? Các ông không ai mở miệng trả lời được. Người thiên hạ đều bị nhốt trong cửa này, các ông có người nào nói: “Người thiên hạ bị nhốt ở trong thì được chứ tôi thì không!”, còn có người nào được như vậy không? Nếu được như vậy thì công phu dụng công trong ba mươi năm của ông, ta hỏi đến niệm Phật là ai, ông hẳn có lời nói rồi. Ta mới hỏi thì ông lập tức trả lời được. Các ông tưởng xem: Người thiên hạ đều bị nó nhốt hết, không mở miệng ra được, chỉ vì “Niệm Phật là người nào?” không thể trả lời được. Khi công phu dụng đến nơi rồi ta hỏi thì ông đáp được, còn công phu của các ông chưa dụng được, thiền cũng không biết tham, mở miệng lại muốn giữ bộ mặt giả: “Ta ngộ rồi, ta biết rồi, ta lĩnh hội rồi!”. Các ông như thế này thì chỉ là kẻ đứng ngoài, chỉ là kẻ nói suông! Có chỗ nào tốt đâu? Ông gạt người ta thì được chứ tự gạt mình thì phải chịu khổ não lắm! Từ hôm nay trở đi có thỉnh khai thị, bất cứ đến phòng của ta hoặc liêu phòng của sư Ban Thủ, không cho nói chuyện gì khác, hể cứ đến thì nói “Niệm Phật là ai?”. Trước kia thỉnh khai thị là các ông hỏi ta, hôm nay ta muốn sửa đổi lại quy củ, không cho các ông mở miệng, hễ ông đến ta hỏi các ông liền: Niệm Phật là người nào? Ông phải nói ngay, ông nói không ra thì ta cho ông một trận hương bảng. Hoặc giả ông không dám mở miệng, trong bụng ông không muốn đi, hễ ta tra xét đến người nào không đi ta sẽ đến thiền đường hối thúc chạy hương, ít nhất cũng phải đánh năm, ba cái hương bảng. Bởi vì công phu không ép buộc không được, không ép thì không tiến bộ được. Nhưng ta hỏi các ông, nếu như các ông nhất định muốn đáp, giả sử đáp sai, không đúng, ta nói cho các ông biết: hương bảng của ta đánh xuống sẽ làm cho các ông chịu không nổi đâu! Nếu thấy mình chưa nắm vững được thì đừng mở miệng, ăn hai cái hương bảng là xong; Nếu mở miệng nói bậy thì ta sẽ chẳng khứng đâu! Các ông hãy phát tâm tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 25 tháng 11 (Thất 6 ngày thứ năm).

Người trong Thiền tông không được mở miệng nói bậy, giả sử nói sai một câu thì phải bị hư thân mất mạng. Thân ông hư rồi, mạng mất rồi còn kể là việc nhỏ. Vậy thế nào là việc lớn? Trả lời bậy một chữ là đọa xuống địa ngục A tỳ. Ông thấy việc này có còn nhỏ chăng? Tại sao lợi hại như thế? Không phải là ta nói mà lời vàng Phật đã nói: “Chưa chứng nói là chứng, chưa được nói là được, chưa minh nói là minh, chưa ngộ nói là ngộ, là đại vọng ngữ phải đọa địa ngục A tỳ”. Đây là Phật không thể nói sai được. Nói chứng là chứng cái gì? Chưa chứng được Sơ quả, Nhị quả, Tam quả, Tứ quả mà nói đã chứng được rồi. Nói đắc là chưa đắc được Tam minh, Lục thông, Bát giải thoát mà tự mình đã đắc được. Nói minh là chưa có Thiên nhĩ minh, Thiên nhãn minh mà tự nói đã minh, cũng như nói niệm Phật là người nào mà không biết tức là chưa minh, đáp lại được một câu tức là đã minh; vốn đáp không được mà mở miệng đáp một câu tức là tự nói mình đã minh. Nói ngộ là đối với bách thiên tam muội của thập phương chư Phật, vô lượng diệu nghĩa của hết thảy Tổ Sư, một tí chưa ngộ mà tự nói là đã ngộ. Nếu tham câu thoại đầu được ngộ rồi, thì nói trần nói sát vô cùng vô tận, câu thoại đầu này chưa ngộ thì mở miệng không được, như trả lời một câu thì tức là đã nói. Cứ theo như thế thì có phải chăng cứ đáp sai một câu thì phải đọa xuống địa ngục A tỳ? Đại khiếu hoán địa ngục, tiểu khiếu hoán địa ngục đều có phần của ông, cũng như trái cân rớt xuống nước chìm thẳng tận đáy.

Hôm nay các ông có vị tùy tiện đáp bậy một câu, bởi vì ông không hiểu cái thứ nhân này rất lợi hại, ta thấy ông rất đáng thương! Cái câu nói này không phải nói rồi là xong việc! Người xưa đáp sai một câu đọa thân làm cáo chồn năm trăm kiếp – Công án trước Bách Trượng với sau Bách trượng - Nếu các ông thực lấy câu thoại đầu mà tham cho thông suốt rồi thì tự nhiên được miệng chứ không phải không được mở miệng mãi. Khi ông đã đi đến nơi, không những miệng có thể nói chuyện được, mà tai cũng có thể nói chuyện được, mũi cũng nói chuyện được, người xưa đã chẳng nói: “Tận cùng đại địa là miệng của ta”. Vậy so với hư không còn lớn hơn! Ta hỏi ông nữa: Hư không ông có thể nuốt được chăng? Ông đương nhiên đáp: “Tôi đã nuốt xuống rồi!” . Ta lại hỏi nữa: Hư không nuốt xuống rồi thì thân để tại chỗ nào? Phải rặn cho ra, ông phải trả lời ta một câu, không mở miệng không được! Hãy tham!

KHAI THỊ
Ngày 26 tháng 11 (Thất 6 ngày thứ sáu).

Người tham thiền công phu đến lúc thâm nhập thì tự nhiên thân tâm đều mất, động tịnh quên cả, cho nên bảo các ông lúc động dụng như thế, lúc tịnh cũng dụng như thế.

Công phu lúc tịnh dụng cách nào, công phu lúc động dụng cách nào. Sở dĩ chia ra động tịnh là vì thực tại đối với các ông là người sơ dụng công, nên bất đắc dĩ mới nói như vậy. Chỉ cần đề câu thoại đầu lên, không minh bạch, nhận chân mà nắm chắc lấy, không cho có một tí ti gián đoạn; ông quả được chân thật bất hư mà dụng công như thế thì ông thử mở mắt ra xem, tâm để chỗ nào? Đương nhiên tâm bất khả đắc. Tâm đã bất khả đắc thì thân cũng đương nhiên bất khả đắc. Tại sao vậy? Vì tâm trụ nơi thân, thân do nơi tâm mà có, có thân thì có tâm, thân với tâm không thể rời nhau. Hôm nay công phu đứng đắn, tâm bất khả đắc, thân cũng bất khả đắc, cái này chẳng phải là làm công phu đến chỗ thân tâm đều mất ư? Động phải do thân động, tịnh cũng phải do tâm tịnh. Trên thân tâm có động, có tịnh tất cần phải phân biệt mới biết. Công phu của ông đến thân tâm bất khả đắc, lấy cái gì mà phân biệt? Đã có phân biệt thì không phải là đã có tâm rồi sao? Tâm đã có thì tất cả đều có, thế còn nói công phu gì nữa? Có công phu thì không có tâm như thế. Đã không có tâm thì quyết định không có phân biệt, đã không phân biệt thì cái tướng động tịnh lại càng bất khả đắc, cho nên nói động tịnh đều quên cả.

Nay các ông đã đả năm, sáu thất rồi mà công phu chưa đến chỗ này, nếu công phu không dụng được đến chỗ này mà trong kỳ thiền thất này muốn được một ít tin tức, muốn được hiểu biết một chút xíu thì cũng không có phần của ông rồi! Nếu liễu sinh thoát tử lại không có phần của ông nữa! Theo như thế thì không phải là đã chịu một phen cực khổ mà cũng như không sao? Hoặc có người từ thiên sơn vạn thủy đến đây, suốt năm chỉ hy vọng trong kỳ đả thất được liễu thoát sinh tử, được khai ngộ cuối cùng (đáy thùng rơi ra). Ta thấy các ông chẳng có người nào làm được cả, cho nên muốn giúp các ông, bắt các ông ở trong thiền đường, muốn các ông chân thật dụng công không có một tí phóng túng, nếu có một tí lười biếng thì lập tức phải thúc hối chạy hương, các chạy hương này thì sẽ làm cho các ông mất mạng! Bảo các ông đi đến liêu phòng, muốn các ông nói, nói không ra thì đánh cho một trần loạn hương bảng! Thế nào là loạn hương bảng? Quy củ hương bảng là: hai, năm, tám, ba, sáu, chín cái này là theo quy củ; loạn hương bảng là lấy hết sức ra mà đánh không hỏi mười cái hay tám cái, đó là loạn hương bảng. Cần phải hiểu cái loạn hương bảng này thật làm cho người ta mất mặt, bị đánh loạn hương bảng rồi mặt mày trông khó coi lắm! Các ông còn có người nào thấy sự đánh loạn hương bảng bị mất mặt là việc không đáng kể chăng?

Trong bụng các ông lại nói: “Cái đánh hương bảng của thúc chạy hương thật nặng quá! Không bằng đến liêu phòng một chút, có bị đánh một trận hương bảng cũng chẳng ăn thua gì, chỉ trôi qua rồi là xong, ngoài ra còn có gì khác đâu?”. Dụng tâm của các ông đều ở những chỗ này. Hoặc là: “Còn có phòng của sư Ban Thủ nào chưa đến thì phải đi cho có lễ phép một chút! Nếu không đi thì sợ Sư sẽ không vui”. Các ông đều ở những nơi này dụng công phu. Còn có người nào nói: “Không đúng! Đến liêu phòng mà bị một trận loạn hương bảng thì thật còn ý nghĩa gì cả? Người chân tu thì chẳng chịu như vậy. Người thiên hạ bị đánh thì được, chứ tôi không chịu như vậy. Tôi muốn đi chẳng những không bị đánh mà còn muốn nói chuyện ung dung thong thả, người ta còn phải cung kính tôi, đó không phải người nào cũng làm được đâu!” Ta nói với các ông như thế chẳng phải là gạt các ông mà nói cho dễ nghe đâu! Các ông không mở miệng được là tại công phu các ông chưa đến chỗ này; nếu công phu các ông dụng đến nơi rồi thì tự nhiên sẽ nói được.

Lúc ta ở chùa Kim Sơn chưa được bao lâu, chỉ mới hơn một năm, nhưng “Niệm Phật là ai?” đã sớm tin rồi. Lúc tại gia đã dùng cách này để tham nhưng chưa được thâm nhập, cho đến khi ở Kim Sơn được một năm thô vọng đều hết, rồi hai mươi ngày nữa tế vọng cũng hết luôn, cảm thấy thanh thanh tịnh tịnh (cảnh giới vô thủy vô minh), rồi bảy tám ngày sau cảnh giới ấy vẫn y như cũ. Tại sao vậy? Đó là cái cảnh giới trên công phu ắt phải có; công phu của các ông dụng đến chỗ đó cũng sẽ có như thế; thập phương chư Phật, lịch đại Tổ sư cũng đều đã đi qua giai đoạn này. Thô vọng ngưng rồi thì thế nào? Tế vọng ngưng rồi là cảnh giới chi? Ta đã tự mình thấy được, có nói ra cho các ông nghe cũng như không! Vì các ông không biết chỉ làm cho các ông tăng thêm vọng tưởng. Các ông chỉ cần chân thực khẩn thiết lấy câu thoại đầu mà tham, thà chết cũng không buông, các ông hành đến chỗ này thì sẽ tự mình thấy được thôi. Khi ta thô vọng tế vọng đều dứt hết thì khoảng một tháng sau, ngày ấy chính là ngày 26 tháng 9 năm Quang Tự thứ 34 (1900 T. L), trong khi đả thiền thất, vào nén hương thứ sáu buổi tối chợt nghe một tiếng mõ đánh, ta đột nhiên “ồ” lên một tiếng, lúc đó ta cảm thấy giống như nhào lộn trong hư không, từ dười đất lộn lên trời, từ trên trời lộn xuống đất, rồi ta buột miệng than rằng: Cái tự tánh vốn sẵn sàng này, không ngăn cách với ta một chút nào mà sao lại để bị chôn vùi đến nỗi ta phải chịu đau khổ mãi từ xưa cho đến ngày nay? Thực là oan uổng! Còn cảm thấy buồn cười nữa! Cái tốt khác thì ta không dám nói, nhưng sự tự do tự tại thì đã đạt được rồi. Tương lai nói sanh lên cõi trời, ta thích sanh thì đi, không thích thì không đi; giả sử xuống địa ngục, ta chịu đi thì đi, không chịu đi thì thôi, tất cả ta đều có thể tự chủ được. Đối với ngộ thì không có ngộ.

Từ đấy về sau có một vị Thủ Tọa Hòa Thượng, vị này tu hành rất tốt, ông ấy thấy ta cử chỉ khác thường bèn gọi ta đến hỏi: “Niệm Phật là ai?”, rồi bảo ta nói. Ta biết ông ấy muốn thử thách ta rồi đó! Ví như có người hỏi ta việc trong thiền đường liệu ta còn không hiểu chăng? Giả sử ông chưa ở qua thiền đường, nếu có người hỏi ông việc ở trong thiền đường thì ông làm sao biết được? Cứ thế ông ấy với ta một hỏi một trả lời. Ông ta nói: “Ông ngộ rồi!”, ta nói: “Chưa có ngộ”, ông ta nói: “Không phải ngộ thì là do học mà biết được chăng?”, ta nói: “Học cũng không có học”. Lúc ấy do sự vấn đáp như thế làm kinh động cả đại chúng, nên tất cả đều tán thán không thôi. Lúc bấy giờ ta cảm thấy không đúng bèn đắp y mặc áo đi thỉnh họ đừng làm ồn như thế. Ta nói: “Sự tu hành của tôi chưa có thâm nhập đến chỗ cuối cùng, xin các vị thứ lỗi cho tôi mới phải”.

Về sau có một vị sư Tây đường là Từ Bản lão nhân, vị lão nhân này việc tu hành của ông cũng rất tốt, ông rất thích lấy “hoạt cú” tiếp người hậu học. Hoạt tức là cơ phong chuyển ngữ của Thiền Tông; ta thì xưa nay không muốn dùng hoạt cú, bởi vì người thời nay căn tính không bằng người xưa, bảo họ ôm chặt câu thoại đầu tử tham dẫu có chết cũng không rời mà còn không tử được cái tâm, mà dùng hoạt cú thì lại càng tử không được cái tâm nữa, cho nên ta không muốn là vậy. Nhưng trái lại vị sư Tây Đường này lại muốn nói chuyện với ta. Một ngày nọ bấy giờ ông ta đang rửa mặt, đưa cái khăn tay lên, hỏi ta: “đây là cái gì?”, ta nói: “Buông xuống đi”, ông ta nói: “Tôi muốn rửa mặt”, ta nói: “Cũng phải buông xuống!”. Làm cho ông ta không mở miệng được. Những lời nói này các ông nghe rồi chẳng phải bảo các ông học lấy đâu, đừng có tưởng lầm! Chỉ nói cho các ông nghe thôi, muốn các ông biết được việc này là có thể mở miệng được, chứ chẳng phải không mở miệng được mãi mãi. Các ông phải nghe cho rõ, lúc ấy ta chẳng phải giành hơn thua với ông ta, chỉ vì muốn ông ta bỏ cái thói quen ham dùng “hoạt cú” mà thôi, vì căn tánh người đời nay không thích hợp dùng hoạt cú. Nhưng ông ta vẫn không chịu sửa đổi, lại một ngày kia ta đến liêu phòng ông ta uống nước trà, ông ta lấy một quả nhãn lột ra, cái thì đưa ta ăn còn vỏ thì cầm trong tay mà nói: “Cả mười phương hư không đều ở trong cái vỏ này, nói một câu đi!”. Ta nói: “Mười phương hư không đều ở trong cái vỏ này, thế còn thân ông ở chỗ nào? Xin nói một câu đi!”. Một lần nữa lại làm cho ông ta không trả lời được. Các ông nghĩ xem: người đã ngộ thì làm sao không mở miệng được?

Nay ta sở dĩ ép buộc các ông: Ở trong thiền phải đến liêu phòng để cho ta hỏi, nếu không đi thì không được, nếu đi mà nói không ra cũng không được, ép buộc các ông trước hết tuy cảm thấy cái thân này không có chỗ buông nhưng vẫn phải buông, buông mãi cho đến lúc sự buông cũng không còn, tâm cũng không còn có chỗ để, cứ thẳng tay ép buộc cho đến lúc thân tâm các ông buông đến chỗ không còn gì để buông, còn phải ép buộc các ông đến chỗ sơn cùng thủy tận. Đến lúc ấy nếu các ông mở miệng không được ta đương nhiên còn phải lấy luôn mạng của các ông nữa! Các hãy lưu tâm nhớ cho kỹ! Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 27 tháng 11 (Thất 6 ngày thứ bảy).

Có đạo hay không có đạo tự mình biết mà người ta cũng biết. Hiện nay muốn các ông mỗi ngày đều đi đến liêu phòng, để trả lời câu niệm Phật là người nào, công phu của mình dụng đến chỗ nào. Nói được hay không nói được, nói ra đúng hay không đúng, tự mình đâu có lý nào lại không biết? Nếu quả thực là không biết, ấy là tại công phu của các ông chưa dụng đến.

Giả sử công phu của các ông chưa dụng đến mà muốn làm bộ mặt giả dối đoán này đoán nọ, kiếm một hai câu nói của người xưa đem ra cho là lời của mình; hễ người ta nghe ông mở miệng ra, đúng hay không đúng, phỏng người ta còn không biết được chăng? Tại sao người ta biết? Dù cho ông ta nói thế nào đi nữa cũng không ra ngoài bốn thứ này, ấy là: Ý đến cú (lời nói) không đến, cú đến ý không đến, ý cú đều đến, ý cú đều không đến. Dù cho các ông có đoán rất hay cũng đều vô dụng, chung quy không ra khỏi bốn thứ này. Cần phải cơ phong ăn khớp, vừa vặn khít khao. Dù cho lời nói của ông là đúng mà đối với chỗ hỏi của ta không ăn khớp, hoặc là chần chừ suy nghĩ một chút thì đều là không đúng rồi. Thế là lý lẽ gì vậy? Người xưa có như thế không? Triệt Tổ Thiên Tuệ là đời thứ nhất chùa Cao Mân gặp vua Ung Chính, cùng là một lời nói mà cái đúng, có cái không đúng. Cái công án này ta kể cho các ông nghe:

Đời Thanh Hoàng đế Ung Chính sau mười năm cầm quyền, chuyên xem kinh điển, nghĩ đến việc đức Thế Tổ (vua Khang Hi) có lạy Ngọc Lâm Quốc sư làm thầy, thắc mắc sư này có sở trường gì đặc biệt mà được làm sư phụ của vua? Nên Ngài bèn tìm Ngữ Lục của Ngọc Lâm Quốc sư để xem; xem rồi mới biết Ngọc Lâm Quốc sư quả đáng làm thầy của cả nước. Vậy thì đã có thầy tất phải có trò nên Ngài bèn phái quan Khâm Sai đại thần tìm kiếm khắp nơi, về sau tìm được Triệt Tổ Thiên Tuệ ở núi Khánh Sơn, lúc ấy Tổ đang làm thư ký ở đó. Mặc dù công phu đã đắc dụng, khẩu đầu thiền cũng học được một tí nhưng gót chân còn chưa chấm đất, lúc ấy Tổ không dám đi nhưng sau trải qua nhiều sự khuyến khích của chư sơn Hòa Thượng nên mới cùng vị Khâm Sai tiến kinh.

Đương thời bấy giờ Hoàng đế Ung Chính muốn hội kiến người xuất gia nên đặc biêt xây dựng một vườn hoa gọi là Viên Minh viên. Cái ý nghĩa vấn đáp sau khi gặp vua, các ông hãy nghe kỹ! Vua hỏi: “Khi cha mẹ chưa sinh ra, mặt mũi bổn lai của ông ra sao?”. Thiên Tổ lúc ấy hình như suy nghĩ chút ít liền đưa nắm tay lên. Các ông còn lĩnh hội chăng? Hôm nay ta ý theo đó mà hỏi các ông, các ông còn có người nào đáp lại ta chăng? Cũng đưa nắm tay lên, đưa lên như thế, không đúng! Các ông còn biết được chăng? Sợ các ông không biết rồi. Hoàng đế thấy Tổ có chút suy nghĩ thì không chịu khứng cho, biết Thiên Tổ gót chân chưa chấm đất cho nên không khứng. Tại sao vậy? “Thiếu thất đình trì, bạch vân vạn lý” (chậm trể một chút, muôn dặm mây trắng), tức là muốn nói chậm trể một chút thì mây trắng đã che khuất hết muôn dặm trời. Vậy muốn làm thế nào mới đúng? Lời hỏi gần dứt thì ông đưa nắm tay lên liền mới là đúng, ngừng lại một tí thì không đúng đâu. Vua Ung Chính thấy Thiên Tổ cũng là bậc pháp khí, có tâm muốn thành cho người bèn nói: “Ông hỏi lại tôi để tôi đáp”. Thiên Tổ lại hỏi: “Muôn tâu bệ hạ, khi cha mẹ chưa sinh ra, mặt mũi bổn lai của Ngài ra sao?”. Vua Ung Chính đưa nắm tay lên thì Thiên Tổ ngộ ngay. Vua Ung Chính quay đầu lại hỏi Thiên Tổ nữa: “Khi cha mẹ chưa sinh ra, mặt mũi bổn lai của ông ra sao?” Thiên Tổ đáp lại bằng bốn câu kệ:

Quyền đầu bất hoàn tác quyền đầu
Hoán tác quyền đầu nhãn nội mâu
Nhất thiết Thánh hiền như điện phất
Đại thiên sa giới hải trung âu.

Nghĩa là:

Nắm tay không gọi là nắm tay
Gọi là nắm tay mắt kéo mây
Hết thảy Thánh hiền như điện chớp
Thế giới chỉ như bọt biển thôi.

Vua Ung Chính lúc ấy nói liền: “Kỳ này như ý, kỳ này như ý”, nói xong liền ban cho hai cây như ý, xuống chiếu cho Tổ phụng chỉ về núi, ban cho y, bát, tích trượng v.v…

Các ông tưởng tượng xem: đáp ra một câu nói, trể một tí thì chưa ngộ; cũng là một lời nói, không trễ tức là ngộ. các ông hôm nay có thể đáp ra được một câu, dù không được phụng chỉ vua nhưng thanh danh cũng là có. Một câu nói này nói ra rồi thì biết được công phu ông đúng hay không, có thể nói là “Ngôn tiền kiến đạo”. Một câu nói vừa ra khỏi miệng thì ông ngộ liền, ấy tức là “Cú hạ thừa đương”. Cho nên muốn các ông đề câu thoại đầu chân thật tham cứu, đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, ngủ nghỉ, đều không rời câu thoại đầu này (nghi tình). Có nghi tình tức là có công phu, không có nghi tình tức là không có công phu. Hiện tại các ông muốn khởi nghi tình phải đề câu thoại đầu này, tương lai minh tâm là minh câu này, ngộ là ngộ câu này, liễu cũng là liễu câu này. Chung quy nếu câu này chưa liễu thì sanh tử chưa liễu, cầu này chưa minh thì tâm địa chưa minh. Muốn minh, muốn ngộ, muốn liễu cần phải lấy câu thoại đầu này mà tham cứu đi. Hãy tham!

KHAI THỊ
Ngày 1 tháng 12 (Thất thứ 7 ngày thứ ba).

Chỗ ngộ của Thiền Tông có hai thứ: Đại nghi đại ngộ, tiểu nghi tiểu ngộ, không nghi thì không thể nói đến ngộ.

Hai chỗ đại và tiểu ngộ này trước hết phải tạm mượn thí dụ để nói qua thì các ông sẽ rõ đại ngộ ra làm sao, tiểu ngộ ra làm sao, trình tự của đại và tiểu ngộ cần phải rõ ràng một chút. Tiểu ngộ ví như chuột chui vào sừng trâu, đại ngộ ví như chó bò qua vách tường. Các ông có biết không?

Lại nói thêm một thí dụ nữa: như lúc người xưa đi học, tiểu ngộ là kẻ học được ba năm thì đỗ vào đại học, đại ngộ như người học được ba mươi năm mới vào trường đại học. Lý như thế này: học ba năm thi vào được đại học ấy là do sức tinh tiến, nhưng thực tế chưa đọc được hết sách vở, vì vậy tuy ở đại học mà vẫn còn có sách chưa hiểu. Trái lại người học được ba mươi năm rồi thì Ngũ Kinh, Tứ Thư, Chư Tử Bách Gia, quyển nào cũng đều hiểu được hết. Cả hai người này tuy cùng là tú tài nhưng trình độ học vấn đương nhiên khác nhau. Người học được ba mươi năm thì trong bụng cái gì cũng biết, dù không vào đại học cũng hơn người học được ba năm. Nếu so như vậy lại càng hiểu rõ quá trình của đại và tiểu ngộ.

Ta so sánh tiểu ngộ như chuột khoét sừng trâu, kể cho ông biết cách chui như thế nào? Các ông xem, cái sừng ấy hết sức lớn, trong sừng còn có từng lớp, từng lớp thịt, chuột cắn từng lớp, từng lớp cảm thấy rất có mùi vị, chỗ lớn nhỏ gì cũng cắn tới từng lớp, từng lớp một, tuy có mùi vị nhưng nơi càng vào càng nhỏ lại, nhỏ thì nhỏ nhưng càng cắn càng có mùi vị, mặc dù vào trong càng chật hẹp mà lại rất có mùi vị, không chịu bỏ đi được. Thêm nữa, lớn nhỏ gì chuột càng muốn ăn không thể không cắn được. Nơi cắn vào nhỏ lại càng muốn cắn, cắn cho đến lúc cùng muốn xoay người cũng xoay không được; cắn nữa lại càng cắn không được, lớn nhỏ gì cũng muốn ăn, tâm gấp như lửa cháy tràn, cứ liều mạng mà cắn. Các ông thấy đó vỏ sừng vừa dày, vừa cứng, cắn thì cắn không nổi, cắn nữa thì lại cắn không nổi mà không cắn thì không qua được. Trước thì miệng cắn, chân trước bò, sau nữa thì chân sau bò; bỗng nhiên cắn được một chỗ hơi lớn, quay mình lại tưởng là cắn thông rồi có lối rộng tốt để đi. Tốt! Thông rồi! Khai tiểu ngộ là như vậy tức là chưa thông tưởng là thông. Câu thoại đầu không hiểu được, lại truy cứu nữa; đáo để là ai, còn không minh bạch, cứu cánh là ai? Hình như có chút ít mùi vị. Truy cứu nữa lại thấy có ít mùi vị, đã nếm được ít mùi vị đương nhiên sẽ không quăng bỏ. Lại truy cứu nữa: đáo để là ai, phấn khởi tinh thần không truy cho thông thì không thôi. Cứ dụng công phu như vậy ba ngày, năm ngày, ba tháng, nửa năm đương nhiên có chỗ quay đầu lại.

Người xưa có nói: “Dụng đáo sơn cùng thủy tận thời, tự nhiên hữu cá chuyển thân xứ” (dụng công đến chỗ sơn cùng thủy tận, đương nhiên sẽ có chỗ chuyển thân). Khi chuyển được thân này thì sẽ khác rồi; mặc dù lúc đi cũng đi còn đường này, về cũng về con đường này, đường tuy có một nhưng cách đi có khác. Có thể nói là tìm được bổn lai diện mục rồi đấy. Tiểu ngộ này đã khai rồi, có loại người tưởng là vô sự: “Chỗ này là rất tốt lắm, xong cả rồi, hãy ở lại đây thôi!”. Đó là trình tự của tiểu ngộ. Họ tưởng là đường đi mình đã trải qua rồi, dù là đường núi hay đường sông đều đã đi hết, đâu còn đường nào đi nữa! Có phải họ đương nhiên muốn nghỉ không? Cứ tưởng rằng: “Bổn lai diện mục cũng tìm được rồi, còn có việc gì đâu!”. Đúng đấy, nhưng ngộ này là do thân tâm họ dùng sức phấn dũng mà được ngộ; cũng như người mới học được ba năm, không phải nhờ đã học được nhiều mà vào trường đại học, mà là nhờ sức tinh tiến của họ vậy. Công phu này của họ thô và tế đều có. Tại sao? Do sự dũng mãnh của thân thể và công phu tinh vi trong tâm; công phu trên tâm là tế, dũng mãnh trên thân là thô, họ nhờ dụng cả thô và tế nên được ngộ. Cái ngộ này đã đúng chưa? Không đúng! Chưa tới nhà! Tại sao lại không đúng? Giáo môn nói: “Đắc thiểu vi túc” (được ít cho là đủ), Thiền Tông lại nói: “Nhận tặc tác tử” (nhận giặc làm con), hai câu này so sánh rất đúng. Tại sao vậy? Vì ngộ này của họ chưa đến nhà, họ cứ tưởng cái diện mục này là đúng. Cái tiểu ngộ này chỉ là phương tiện quyền, nói cho triệt để là “được ít cho là đủ”. Tại sao Thiền Tông nói “nhận giặc giặc làm con”? Dù tiểu ngộ không nên cho là giặc, mà cũng không nên cho là con; vì họ có được có chút thọ dụng thì đã ngưng nghỉ, chút ít thọ dụng này tuy cũng đúng đấy, nhưng cứ ngỡ mình đã hết khổ nên dừng lại ở chỗ này, lấy đó làm thỏa mãn. Cho nên Phật đã trách rằng: “Tiêu nha bại chủng” (Hạt lúa đã cháy thì không còn làm giống được nữa). Vậy nếu lấy hạt lúa này để gieo thì tương lai sẽ thu hoạch được gì? Nếu các ông muốn lấy tiểu ngộ này cho là đủ, một mình lo việc giải thoát, trên không cầu thành Phật đạo, dưới không nghĩ độ chúng sanh, cho là đủ, thế không phải nhận giặc làm con sao?

Tiểu ngộ đã không tốt thì còn muốn hay không muốn ngộ nữa? Đương nhiên phải muốn! Tại sao vậy? Vì đại tiểu đồng một lý nhưng sự thì khác nhau. Thể của đại ngộ và tiểu ngộ chẳng có hai, thể của tiểu ngộ, ngộ rồi với thể của đại ngộ là đồng. Sự thì lại không. Sự của đại ngộ lầy khổ của chúng sinh làm khổ của mình, tà kiến điên đảo của chúng sinh là gốc chiêu khổ, cần phải nhổ bỏ giùm họ; tùy loại tùy hình, đồng trần tiếp vật, đầy là sự của đại ngộ. Sự của tiểu ngộ là chán sinh tử, sợ mọi ô nhiễm nên tu đạo ở thâm sơn, xa lìa thế gian sinh tử, xem sinh tử như oan gia, xem thế giới như tù ngục, đó là sự của tiểu ngộ. Đại ngộ, tiểu ngộ thể đã đồng thì sao lại có chỗ khác như vậy? Vì trước khi chưa ngộ, công hạnh trên công phu có chỗ khác nhau, như người học ba mươi năm mới vào đại học với người học ba năm cũng vào đại học, hai người này cũng là tú tài, nhưng đối với việc làm thì đương nhiên trỉnh độ có chỗ khác nhau. Vì sao? Người học nhiều dù ông hỏi thế nào, chỗ nào họ cũng đều biết hết, kẻ học ít thì vấn đáp không được chu đáo như họ, tú tài thì đồng nhưng việc làm thì không. Sự của đại, tiểu ngộ có khác biệt là lý lẽ như thế.

Tại sao nói được tiểu ngộ rồi cần phải ngộ nữa? Vì người sau khi tiểu ngộ việc làm tuy có hơn người chưa ngộ nhiều (người chưa ngộ đi đường một chân cao cũng không biết, một chân thấp cũng không biết, một chân đạp nhầm cứt chó, một chân dẫm nhầm cầu tiêu cũng hoàn tòn không biết, đi xuôi, đi ngang như người mù; người khai tiểu ngộ thì khác, dù con mắt đã sáng nhưng chưa thật sáng mà hình ảnh con đường đều thấy được cả, cứt chó, hầm cầu sẽ không đạp phải, đi đường so với người chưa ngộ mau hơn mấy lần), nhưng so với người đại ngộ thì khác nhau như người ở đất bằng nhìn sơn hà đại địa, một người trên đỉnh núi Tu Di xem sơn hà đại địa; sự thấy của hai người đương nhiên khác nhau, nên người tiểu ngộ cần phải ngộ nữa.

Người khai ngộ tại sao ví như con chó bò qua đầu tường? Con chó nhốt trong sân, bốn phía là vách cao lắm không bò qua được. Ông đem chó nhốt vào trong, đương nhiên nó cần phải ăn, lâu không có ăn thì có phải sẽ bị chết đói không? Nó đương nhiên phải trèo, trèo không ra cũng phải trèo, trèo ra thì mới sống, trèo không ra thì bỏ mạng, vậy cứ trèo mãi rồi cũng có thể trèo ra được không? Nhưng người đại ngộ trước khi chưa ngộ, hạnh dụng công thì hành như thế nào? Họ đề lên câu thoại đầu cũng có nghi tình mà không đề lên câu thoại đầu cũng có nghi tình. Đương nhiên trên nghi tình mà dụng công; không dụng công, thôi dụng công cũng ở trong nghi tình. Cái tri thức của họ hiểu được cái đại nghi thuần nhất bất tạp này, từ cái đại nghi này cứ thẳng một đường mà nghi, thời gian lâu thì sẽ đạt đến “trần tận quang sinh!”. Đến khi ấy hoặc không ngộ, nhưng hễ ngộ thì quán triệt khắp cùng trời đất. Cái hành này cách dụng như thế nào? Cần phải hiểu câu thoại đầu này họ không dùng lời nói của người ta đâu. Ta cho các ông biết: Câu thoại đầu này là câu ta giảng, cái dụng công của họ không phải theo câu của ta mà dụng đâu, mà là câu phát xuất từ trong tâm chính họ ra. Trong tâm họ biết câu thoại đầu, cần phải biết trở về với chính mình, muốn từ trong tâm mình phát xuất ra câu thoại đầu, do chỗ này mà phát sinh nghi tình, nghi tức không hiểu niệm Phật là người nào? Chung quy “nghi” này không buông. Lúc đầu hoàn toàn ông không buông nó, dụng lâu rồi các ông tình buông nó cũng không buông được. Nếu các ông không dụng thì cảm thấy trong mình khó chịu, dụng công thì thân tâm dễ chịu. Từ chỗ này buông xuống cũng là công phu, dụng công lại lại càng có công phu; đi, đứng, ngồi, nằm, mặc áo, ăn cơm, tất cả chỉ là công phu. Dụng công được như thế là họ có tri thức khai được đại ngộ, không dụng như vậy thì không được; công đáo tự nhiên thành “qua thục đế lạc, thủy đáo cừ thành” (dưa chín cuống rụng, nước chảy thành dòng), không cần mượn sức dũng mãnh, cho nên công phu của họ là thuần tế vô thô. Họ có cái tri thức này rồi họ cứ một mạch đi thẳng trên đường này thì đương nhiên sẽ có kết quả. Công phu dụng đến chỗ này “chạm nhằm”, “đụng phải” đều được khai đại ngộ. Cũng như con chó muốn trèo qua chỗ ấy, muốn mãi thì bốn chân, mắt, mũi, tai, toàn thân, toàn tâm đều muốn trèo, trèo một lần, hai lần, ba lần thì có thể bò qua được. Đại ngộ cũng vậy, bởi công phu của họ dụng đến lúc này thì tự nhiên sẽ ngộ thôi.

Vậy thì tiểu ngộ như chuột chui sừng trâu, quay đầu trở lại, đường tuy có lớn nhưng vẫn còn là con đường, có đường ấy là có người, cho nên còn người là còn đường đi. Đại ngộ như con chó bò qua vách tường, bò ra được thì xong ngay. Nhưng cái việc bò qua thì từ từ từ ta sẽ giảng cho các ông nghe. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 2 tháng 12 (Thất 7 ngày thứ tư).

“Chính ngay lúc dụng tâm, ngay đó không tâm dụng; không tâm ngay đó dụng, thường dụng ngay đó không”. Bốn câu này là Vĩnh Gia đại sư nói ra. Người dụng công đối với công phu của mấy câu nói nói này cần phải lĩnh hội. Các ông có hiểu được công phu của mấy câu nói này đến chỗ nào không? Để ở chỗ nào không? Các ông đều là người dụng công chẳng lẽ mấy câu nói về công phu này mà không lĩnh hội được sao? E rằng các ông thật chẳng biết. Nay ta giải thích qua cho các ông: Câu thoại đầu đề lên đứng đắn, ngay khi dụng tâm quay lại xem thì thấy chẳng có tâm để mà dụng, lúc không có nổi tâm dụng thì ngay đó đang được dụng, dụng lâu rồi thì cái đang đó cũng không có. Nói như vậy đại khái các ông có thể hiểu rõ được một chút. Nhưng ta nói thế muốn các ông công phu đến chỗ này thì mới có thể lĩnh hội được, nếu không, ông chỉ nghe ta nói mà lĩnh hội được hoặc từ chỗ học mà lĩnh hội thì đều vô dụng cả. Tại sao vậy? Vì việc người ta có dính dáng gì với ông đâu? Thí dụ ra cửa chùa đi Dương Châu trên đường có miếu Long Vương, đền Thổ Địa, có cầu có cống v.v… người đi qua mà không hiểu được chăng? Cái mình học được, cái nghe người ta nói lại thì nói chung chẳng thể nào đáp cho trót lọt cả được. Cái chỗ hành của công phu chân chưa chạm đất đó, ta giảng sơ cho các ông nghe: ngay khi có tâm dụng, ngay đó không có tâm biết, đều không ngoài cái hữu tâm dụng, vô tâm dụng.

Thế nào hữu tâm dụng? Thế nào là vô tâm dụng? Trước hết phải biết câu thoại đầu ta tham là của chính ta, nếu là từ người mà đến thì hữu tâm và vô tâm đều dùng không được. Tại sao vậy? Câu “Niệm Phật là ai?” là câu của người ta, không phải thứ công phu này, đối với cái vô tâm hữu tâm thì còn xa lắm! Cho nên mới nói là không dùng được. Vậy làm sao mới được tương ưng? Trước tiên phải từ trong tâm mình phát xuất cái không biết niệm Phật là người nào, nếu không tìm ra người ấy thì khổ hải vô biên rồi (khổ lắm); có tìm được người đó thì mới ra khỏi biển khổ này được. Cái khẩn thiết này, cái niệm không lo không được, câu thoại đầu ở chỗ này đương nhiên sẽ đắc dụng; cái không rõ ràng (nghi tình) này, niệm niệm có đắc dụng, tâm tâm có đắc dụng thì đều xuất phát từ trong tâm của chính mình ra cả. Đó là cái công phu do chính mình hành đến thì sẽ có công phu thâm nhập. Nếu muốn nghe ta hoặc sư Ban Thủ giảng “người niệm Phật là ai” thì phải tham, tham cho thông, tìm đến được người này thì được ra khỏi biển khổ, nếu tham không thông, người này không tìm được thì biển không ra được. Các ông tưởng tham như thế là đúng, chúng ta tham như vậy thì chỉ là bề ngoài thôi, cái tham như thế không là hôn trâm thì là vọng tưởng. Vì ông là người dụng công ngoài mặt, chính mình thì chẳng làm việc gì, đương nhiên muốn nổi vọng tưởng; trong tâm không có dụng công khẩn thiết, dụng công ngoài mặt thì làm sao kéo dài được? Cho nên không từ tâm của phát xuất ra thì là của người ta thôi. Giả sử là do tâm của các ông phát xuất ra thì đương nhiên sẽ đắc dụng, còn dùng không hết nữa.

Giống như mượn tiền tiêu vậy; mình không có tiền thì muốn mượn tiền của người ta, mình có tiền rồi khổi đi mượn. Tự mình có tiền tiêu là trường hợp nào? Mượn tiền người ta là trường hợp nào? Có thể nói tóm lại lại như vầy: Tham câu thoại đầu không có nghi tình thì cũng giống như niệm thoại đầu, đó tức là dùng câu thoại đầu của người ta. Nếu khi tham câu thoại đầu trong tâm cảm thấy thắc mắc nổi lên nghi tình thì đây mới là câu thoại đầu của chính mình. Tham câu thoại đầu của chính mình tức là tiêu tiền của chính, tham câu thoại đầu của người ta tức là mượn tiền của người ta tiêu vậy. Vì vậy nói: Sai một ly thì cách xa như trời với đất.

Vậy công phu của mình đắc dụng rồi thì các ông còn chịu buông tay ư? Đương nhiên cứ thẳng một đường hướng về phía trước mà dụng đi, thời gian dụng công lâu đi rồi, lúc đó các ông muốn nghỉ một chút cũng không được. Việc nghỉ ấy không phải do ông nữa, vẫn còn câu thoại đầu, muốn buông mà buông không được; không cần các ông tìm nó niệm niệm đều hỏi không dứt; buông cũng không được mà đề cũng không cần đề, công phu không bị gián đoạn chút nào; hữu tâm cũng là dụng mà vô tâm cũng là dụng, hoàn toàn không cần ông có tâm. Có được công phu như vậy thì mới kể là ông đến được lúc vô tâm dụng, cũng gọi là đến thoại đầu. Cái vô tâm này lấy gì mà nghiệm được? Ví dụ như đi cầu, lúc vào cầu tiêu, hay khi bước đi vẫn còn có công phu, chưa mở nắp hầm cầu cũng còn có công phu, kéo quần thì công phu bị mơ hồ rồi, đến khi ngồi xuống thì luôn cả cái mơ hồ cũng không còn. Đến đây thì nghi tình không còn nữa, chỉ còn biết mình ngồi trên bàn cầu. “Cái biết” này… còn kể ông là vô tâm sao? Vô tâm thì không có tâm để biết. Tại sao vậy? “Chẳng thể dùng trí biết, chẳng thể dùng thức hiểu”. Nếu cứ có tâm để biết thì ấy là tâm sinh diệt. Việc từ vô tâm về sau, từ từ ta sẽ giảng cho các ông sau. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 3 tháng 12 (Thất thứ 7 ngày thứ 5).

“Hữu tâm dụng đến chỗ vô tâm, vô tâm không cho hữu tâm biết”. Hai câu nói về công phu này nếu các ông hành đến được thì đối với giai đoạn công phu này mới là thấy được xác thật. Con đường đi này đã gần đến đích, đã sắp ngộ rồi. Dụng công chưa đến chỗ này thì đương nhiên nói đến tâm. Chữ tâm là tổng danh, nói sơ lược có ba thứ ấy là: tán loạn tâm, hữu tâm và vô tâm; dù ông nói thế nào, người dụng công cũng chẳng thể lìa ba thứ tâm này. Thế nào là tán loạn tâm? Ấy là trước khi chúng ta dụng công, nào là tham, sân, si, nào là nhân ngã, nghiệp thức, phiền não v.v… những tâm này gọi chung là tán loạn tâm. Nhưng khi ông ở trong tán loạn tâm này ông lại không biết đó là tán loạn tâm. Thứ tâm này vì quá nhiều như cát vãi chẳng thể kết tụ lại. Hạt cát này không dính với hạt cát kia, tâm niệm chúng ta cũng giống như những hạt cát ấy, không dễ gì bóp dính thành một cục được. Nếu ông có quyết chí không bóp không được thì lâu ngày cũng có thể bóp thành một cục vậy. (Mồ hôi nước mắt ra nhiều thì cũng có thể dính thành một cục được). Ví như công phu của chúng ta ban sơ không hiểu dụng công, cứ ở trong tán loạn tâm cho qua ngày giờ. Những tán loạn tâm này tức là nghiệp thức trần lao thiện ác biến hóa, tạo thành những thứ nghiệp thế gian như sanh tử, thiên đường, địa ngục v.v… Hôm nay tham câu thoại đầu muốn đem cái tâm tạo nghiệp sanh tử thế gian đều ngưng nghỉ hết, chỉ dùng cái pháp thiền xuất thế gian này để lìa khỏi sanh tử, ban sơ không dễ gì làm được cũng như muốn bóp cát thành một cục vậy. Dụng công tham lâu ngày những tạp niệm tán loạn sẽ bớt đi, tham lâu nữa sẽ hết, chỉ còn một câu thoại đầu cũng như cát vãi đã được bóp thánh một cục vậy. Những tán loạn tâm đó đều thu nhiếp lại vào câu thoại đầu này, câu thoại đầu này tức là hữu tâm. Lúc hữu tâm, chỉ thấy được lúc trước đó là tán loạn tâm, chẳng thể thấy được cái vô tâm sau này. Tại sao vậy? Nếu ông không dụng công đương nhiên chẳng biết được hữu tâm. Có tán loạn hay không có tán loạn tất cả đều do chữ “hữu” này mới biết.

Hôm nay dụng công đề lên câu thoại đầu, vọng tưởng liền đến, theo đó mà xem thì chỉ khi dụng công mới biết được cái tâm niệm trước kia là tán loạn lăng xăng, tức là nhờ câu thoại đầu này mới thấy được cái tâm tán loạn kia. Ví như một người xuất thân là kẻ cướp, ở trong hang ổ bọn cướp suốt ngày chỉ nghĩ cách cướp giựt tài sản của người ta, họ đâu có nghĩ mình là kẻ ăn cướp không tốt. Cần phải bảo họ lìa khỏi hang ổ cướp rồi họ mới biết được trước kia họ là ăn cướp, về sau đương nhiên không chịu đi làm việc cướp giựt nữa, cũng như trước kia chưa dụng công không biết tâm mình là tán loạn tâm, tham câu thoại đầu rồi mới biết trước kia là tán loạn tâm không tốt vậy.

Tại sa nói vô tâm chẳng cho hữu tâm biết? Cũng như kẻ ăn cướp này đã biết không tốt, không muốn đi cướp giựt nữa thì phải xa lìa cái hang ổ của bọn cướp mới được. Nếu ông không xa lìa họ, ông muốn làm người tốt cũng không được. Bởi vì họ thấy ông không đi làm ăn cướp cũng muốn ông đi, ông không đi họ cũng không cho ông tự do. Nếu ông xa lìa họ, họ không thấy ông đương nhiên được bình an vô sự. Giả sử bị họ thấy được ông thì ông muốn làm người tốt cũng không được. Ông đã xa lìa hang ổ, bọn cướp không thấy ông, ông mới có thể làm người tốt. Cũng thế, vô tâm ví như người tốt, nếu muốn biết họ là người tốt thì cái năng biết này của ông, tức là hữu tâm, chính là thằng ăn cướp. Cho nên nói là vô tâm chẳng cho hữu tâm biết là vậy. Tóm lại có cái hữu tâm để biết thì không kể ông là vô tâm.

Vậy hiện tại các ông đều là lúc hữu tâm, công phu vô tâm thì chưa đạt đến, nhưng cũng không thể bảo nó là tán loạn tâm được, đây là lời nói sát với thực tế. Nếu nói các ông hãy còn là tán loạn tâm thì chèn ép các ông; dù có vài vị tán loạn tâm cũng không cần nói đến họ. Chúng ta chỉ mới nói đến cái hữu tâm hiện tại này thôi; câu thoại đầu vừa đề lên thì vọng tưởng cũng nổi lên, đã vọng tưởng thì đương nhiên phải có tướng mạo của vọng tưởng cũng như nổi vọng tưởng Thượng Hải thì tướng Thượng Hải hiện ra. Hôm nay bảo các ông tham câu thoại đầu, muốn các ông tự hỏi lại câu thoại đầu trong tâm mình, khởi lên nghi tình, thì không tướng, thực tướng, phi không thực tướng, diệc không diệc thực tướng, tất cả đều không có. Lời nói của Giáo môn hoặc chân như, hoặc nhất chân pháp giới v.v… Thiền tông thì không nói như vậy, câu thoại đầu thì không có nhất thiết tướng. Ta nói thêm để cho các ông nghe, muốn các ông dễ dàng biết được về trình tự của công phu này: trước khi đề lên câu thoại đầu, vọng tưởng cũng có, nghiệp chướng cũng có, lần lần vọng tưởng cũng không nổi mà nghiệp chướng cũng khởi ra, công phu không ngừng đắc dụng, thuần thục thêm nữa, công phu thành phiến, thì mới có thể gọi là “Lạc đường tự tại” được. Nếu các ông đến được mức này, ta có bảo các ông buông bỏ công phu để nổi vọng tưởng thì dù các ông có muốn nổi vọng tưởng cũng không nổi lên được. Chỉ còn thuần một nghi tình miên miên mật mật (liên lục không gián đoạn), tất cả niệm khác đều bặt, có muốn nổi cũng nổi không được. Như thế chân nghi hiện tiền đương nhiên tất cả tướng đều không còn. Chẳng những quỷ thần không thấy ông, Diêm La Vương cũng không thấy ông. Diêm Vương đã không thấy ông thì sanh tử đặt ở chỗ nào? E rằng Phật Thích Ca cũng không thấy, nếu bị Phật Thích Ca thấy đến thì chẳng những có sinh tử lại còn có Niết bàn nữa. Khi chúng ta chân nghi hiện tiền thì sanh tử chẳng trụ, Niết bàn cũng chẳng trụ vậy. Các ông hãy phát tâm, tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 4 tháng 12 (Thất 7 ngày thứ 6).

“Chớ nói vô tâm tức là đạo, vô tâm vẫn cách khoảng đường xa”. Mấy lời nói này với các ông thì thật không có gì để giảng, vì các ông cũng hoàn toàn muốn nghe nữa, bởi trên tâm hạnh các ông còn thiếu xa lắm. Nhưng ta không thể không hết thiên chức của mình để giảng thứ tự lớp lang cho các ông nghe.

Người dụng công đối với danh lợi, vinh quang, oán thân, tham ái, sân hận trên đời v.v… gọi chung là việc thể gian sự cần phải cho nó chết, một tí cũng không còn. Người xưa có đại tử đại hoạt, tiểu tử tiểu hoạt tức là lý này. Sao gọi là tiểu tử? Đó là biệt danh của tiểu ngộ. Đại hoạt là biệt danh của đại ngộ. Vậy tiểu tử là thế nào? Thân tử là tiểu tử, tất cả đau ngứa trên thân mình đều không biết, cũng giống như một “hoạt tử nhân”, thân tuy chết nhưng tâm không chết, tâm vẫn còn sống động, ấy tức là tiểu tử. Thế nào là đại tử? Tức thân tâm đều chết; tâm chết, chỉ cho câu thoại đầu tâm tâm dụng, niệm niệm dụng, bận rộn cũng dụng. Tuy dụng như vậy mà không cho biết là ở trong cái dụng như thế; nếu biết được có câu thoại đầu, có cái dụng trong lúc bận rộn thì tâm chưa chết. Vậy lấy gì chứng cớ rõ ràng được? Tâm ông đại tử rồi ta sẽ hỏi ông: Ông tên gì? Nếu ông trả lời được thì ông chưa chết, nếu ông trả lời không được, không hiểu mình tên gì mới kể là tâm của ông chết rồi. Ta hỏi các ông: đại tử có không? Nay đã được bảy thất rồi, công phu không dụng đến đại tử thì làm sao đạt đến đại hoạt được? Đứng ngay đây các ông hãy tự hỏi lòng xem, cái chết đến được trình độ nào? Nhưng những lời này không phải ta nói bậy, chính ta từng đi qua trên con đường này rồi.

Lời nói người xưa các ông không tin, ta cũng không tin, tại sao vậy? Vì chưa thấy làm sao mà tin được? Nay ta đem việc chính ta đã đi qua, nói cho các ông nghe, đại khái các ông sẽ tin. Khi ta ở chùa Kim Sơn, bốn người cùng ở một căn phòng, gặp đúng tên bốn người đều chữ “Diệu”, trong đó có sư đệ ta là Diệu Phong. Ta một mình nằm dưới đất, ba người kia ngủ trên giường, họ cảm thấy ngại, thường bào ta: “Này thầy! Thầy lên giường nằm đi”. Ta cũng không để ý đến lời họ kêu ta hay không, ta cứ nằm dưới đất. Sư đệ của ta muốn nói chuyện với ta mãi, ta cũng không để ý đến. Ông ấy nói: “Thầy là người Hồ Bắc phải không?”. Ta nói: “Niệm Phật là ai?”. Ông ta nói: “Thầy là Diệu Thọ, pháp hiệu Tịnh Như phải không?”. Ta nói: “Niệm Phật đáo để là ai?”. Ông ta nói: “Ông đại khái là sư huynh tôi!”. Ta nói: “Niệm Phật cứu kính là ai?”. Làm cho ông ta không biết làm thế nào, một mùa Đông hỏi ta mấy lần như vậy, ta đều trả lời như thế, ông ta muốn ta nói một câu khác hơn, nhưng vẫn không được. Đến kỳ nghỉ tháng giêng ta trở về tiểu miếu (chùa Sư phụ), Sư phụ hỏi đến ông ta: “Sư huynh ông ở chùa Kim Sơn ông có biết không?”. Ông ta nói: “Con biết, khi nói chuyện với Sư huynh thì Sư huynh không trả lời đúng câu hỏi nên con không biết đích xác có phải hay không?”. Sư phụ nói: “Hãy mau kêu nó về đây!”. Ông ta lúc đến Kim Sơn nắm chặt tay ta nói: “Tôi nói thầy là Sư huynh của tôi sao thầy không trả lời cho tôi biết? Đúng thầy là Sư huynh của tôi!”. Ta nói: “Niệm Phật là ai?”, ông ta nói: “Không cần biết ai hay không ai, thầy hãy theo tôi về chùa!”. Ta nói: “Niệm Phật là ai?”, ông ta nói: “Sư phụ bảo tôi đến kêu thầy về, thầy không thể không về được”, ta nói: “Niệm Phật là ai?” làm cho ông ta không biết làm cách nào, chỉ lôi cánh ta mà nói: “Thầy sao kỳ cục quá! Bảo về thăm Sư phụ đâu có bao xa, ở Câu Dung thôi, sao không chịu về?”, ta nói: “Niệm Phật là ai?”, ông ta thả ta ra nói: “Thôi! Thôi đi!”, rồi bỏ đi về.

Các ông thử ta lúc ấy những việc cần thiết trong việc giao thiệp nhất đều làm chết tiệt hết, không còn có ta nữa. Các ông được mấy ai hành giống như ta? E rằng các ông không những biết tên người ở quảng đơn phía Đông, phía Tây nữa. Các ông thử nghĩ: Ta làm người như thế này đến nay đã bốn mươi năm vẫn còn là người thường, các ông công phu chưa đạt đến chỗ này thì làm sao khai ngộ được? Thật đáng tiếc! Các ông chưa có một ai bám chặt đến chết câu thoại đầu mà nhận chân ôm chặt tử cú này (thoại đầu) mà cắn mãi; không hỏi khai ngộ hay không, cứ chỉ là dụng công phu, một mạch đi thẳng, chết với câu thoại đầu, chết đến cùng còn sợ không hoạt ư? Nay các ông không những không chịu chết mà còn muốn suy nghĩ này nọ, suy nghĩ một vài câu để sắp đặt, thí dụ như tưởng rằng: “Đúng rồi! Đây chính là công phu của ta!”. Các ông có khổ không? Lại nữa, hoặc có thể chết được một lát, sáng chết đi, tối nghĩ lại: “Không phải! Chết chẳng được danh giá gì, cũng chẳng thích gì câu thoại đầu, cần phải sửa lại câu thoại đầu!”. Ví như sáng gieo mạ, tối muốn gặt lúa ngay, không có lúa gặt, lại cày tiếp rồi lại trồng đậu thì cũng như vậy. Các ông xem! Công phu như vậy mà còn kể được là tham thiền sao? Đại đa số các ông là như vậy. Tự các ông hỏi lại mình xem có đúng hay không đúng.

Theo công phu các ông như vậy, ta còn muốn giảng gì cho các ông nghe nữa không? Tại sao vậy? Ta giảng đến chỗ nào thì muốn các ông hành đến chỗ đó. Cái hành của các ông tức là lời ta giảng, các ông phải hành như vậy mới đúng, mới gọi là “ngôn hành tương ứng”. Ta giảng đến đâu các ông theo không kịp, đó không phải là phí công ta giảng sao? Tuy nói như vậy các ông mấy chục người cũng phải có một vài người công phu thâm nhập; không cần nhiều, chỉ có một người công phu được đến chỗ ta giảng thì chẳng thể nói là không có người nào, đã có một người như thế, đương nhiên ta phải giảng tới nữa cho người đó nghe.

Các ông phải sống chết với câu thoại đầu này, đến cả tên mình cũng không biết, có công hạnh như vậy thì hành ra sao? Muốn các ông dụng câu thoại đầu cho đến lúc không biết luôn là có câu thoại đầu, người không biết, ta cũng không biết. Nhân ngã tại sao cũng không biết? Nhân tức là thế giới hư không, ngã là cái thân bằng xương, bằng thịt này. Giáo môn nói: “Ngoài lục trần, trong lục căn, ở giữa là lục thức”. Thiền tông thì không như vậy, đầu tiên cả thế giới hư không đều quên hết, chết hết. Vậy thì thế giới hư không đã không có thì ta ở chỗ nào? Thân thể này của ta đã chết rồi thì sự đau ngứa trên thân, mặc áo ăn cơm, đói lạnh có còn chăng? Đã không có nhưng cái đó thì nhất định tất cả đều không có. Vậy tên có còn không? Các ông nghĩ xem có đúng không?

Vậy thì trong cũng quên, ngoài cũng quên, chỉ còn câu thoại đầu ở giữa trong chúng ta. Thoại đầu thì cần phải tham, trước thì lịch lịch, minh minh mà tham, sau lại thanh thanh, triệt triệt mà tham, rồi thêm tinh tiến dũng mãnh mà tham.

Các ông tham đến lúc này liên tục không gián đoạn, ta hỏi các ông: “Thế giới, nhân ngã, hư không có còn chăng?”. Ông nói: “Không có”. Tốt lắm! Ta lại hỏi: “Ngã có còn không?”. Ông nói: “Cũng không có!”. Ta nói: “Tốt lắm!”. Ta lại hỏi thêm: “Tâm ông có còn không?”. Ông trả lời: “Không có”. Ta lại hỏi: “Tâm đã không có thì lời nói trong miệng từ đâu lại?”. Nếu ông nói: “có”, thì ta sẽ hỏi ông: “Cái chữ ‘có’ này là ở trên câu thoại đầu hay là câu thoại đầu ở trên chữ ‘có’?”. Các ông thử nghĩ trả lời ta một câu xem! Ta muốn xem công phu của các ông đạt đến trình độ nào? Hãy phát tâm tham đi!

#48 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 12/09/2011 - 12:12

KHAI THỊ
Ngày 5 tháng 12 (Thất 7 ngày thứ 7).
Căn trần thức đều bỏ, tâm ý thức đều quên, mười phương hư không đoạn dứt, chẳng còn tên gọi thánh phàm”. Bốn câu này có liên hệ đến việc khai ngộ và tin tức khai ngộ trên đường dụng công phu, chúng ta nghiên cứu thử xem. Nếu người có chút công phu nghe rồi sẽ hiểu ngay. Còn những người không dụng công hoặc không nghe có thâm nhập tí gì, nghe những lời này thì một chút mùi vị cũng không có.

Theo các ông suy nghĩ thì: “Căn trần thức, tâm ý thức đều bỏ hết, quên hết rồi thì không làm gì được nữa”. Các ông nghĩ xem đúng hay không? Khi căn trần thức quên rồi thì lúc ấy các ông sợ rằng đâu thể làm gì được nữa? Các ông không những không muốn quên mà không chịu quên. Vậy đối với loại người như các ông không nên nói những lời này.

Cần giải thích cho các ông: Trong Thiền tông căn là thân, trần là ngoại cảnh. Trong Giáo môn căn là lục căn, trần là lục trần, mỗi căn đối với một trần, trong đó lại có một thức. Thiền tông nói tâm ý thức tức là tâm biết khởi niệm, phân biệt tất cả; nói tóm lại là tâm ý thức. Giáo môn lại không nói như vậy mà nói là tiền ngũ thức, rồi lục thức, thất thức, bát thức. Người dụng công tại sao cần phải bỏ, cần phải quên? Vì những thứ này đã làm ta bị bó buộc từ vô thủy kiếp đến nay; nếu ta không chịu bỏ hết, quên hết thì không biết bị bó buộc đến ngày nào nữa! Nên cần phải bỏ cho sạch hết thì mới có thể làm việc trong nhà mình, mới có thể đi con đường về nhà của ta. Những thứ này đối ta rốt cuộc có quan hệ như thế nào? Cần phải biết rõ: Chúng ta sinh tử không dứt, bởi vì cáí tâm phàm phu hiện nay, vì có tâm nên có thân, có tâm thân nên mới có thế giới, lại bị thân tâm thế giới bó buộc chúng ta quá chặt chẽ. Cho nên muốn dứt thân, tâm, thế giới thì cần phải dứt nhãn, tỹ, thiệt, thân, ý (đây là căn mà căn ở trên thân mình), dứt sắc, thinh, hương, vị xúc, pháp (là trần mà trần lại ở trên thế giới), và dứt luôn thức (thức do tâm mà có), dứt được căn trần là dứt (liễu) được thân, tâm và thế giới. Trong Giáo môn vậy là rất tốt và rất cao, trong Thiền tông thì là việc chưa đáng kể.

Cái ta giảng hôm nay là của Thiền tông chứ không phải Giáo môn. Tại sao? Thiền tông còn có gì đặc biệt khác hơn? Khác ở chỗ nào? Sự liễu của Giáo môn là cho họ đã dứt được rồi, nay Thiền tông muốn liễu cái liễu của Giáo môn. Thí dụ họ dùng tay để liễu thì ta cần liễu cái tay của họ, họ dùng chân để liễu thì ta cần liễu cái chân của họ. Tại sao? Cần phải biết: Dù lực lượng thân, tâm, thế giới có lớn thế nào cũng không lớn bằng lực lượng “liễu” của thân, tâm, thế giới; chữ “liễu” này của các ông không dễ gì hiểu được. Thí dụ: Tất cả đường đi đều như như thân tâm và thế giới, muốn liễu những con đường này thì cứ dùng chân đi đến cùng tột thì liễu được thôi! Những con đường liễu được đó là do chân đi mà liễu, hai chân này tức là chân để liễu con đường, cũng là chân để liễu thân tâm và thế giới. Lực lượng của hai chân này rất lớn, thiên đường địa ngục cũng do nó, thành Phật làm Tổ cũng là nó, luân hồi lục đạo cũng do nó, làm trâu biến ngựa, thành côn trùng cũng không ngoài nó. Trong Thiền tông muốn liễu thì trước tiên phải liễu hai chân này. Các ông xem: Sự “liễu” này có phải đoạn dứt mười phương hư không? Các ông nghĩ xem công phu như vậy đã đến nhà được chưa? Theo ta thì chưa được. Tại sao? Công phu tuy có nhưng vẫn chưa khai ngộ, gọi là giữa đường. Những lời này vốn chẳng muốn giảng, có giảng cho các ông nghe là vô vị. Nếu như ta nói đến đâu các ôn hành được thì ta cũng nói được, mới có thể nói là thuyết đến đâu hành đến đó. Ta thuyết được các ông hành không được thì còn đâu là tốt được? Tuy nói như thế, nhưng các ông tuy chưa hành đến, ta nói như vậy cho các ông nghe, tương lai các ông cũng sẽ y theo lời ta mà nói cho người khác nghe. Khi các ông hành đến chỗ lời ta giảng thì mới biết được tâm can của ta! Nếu không thì ông nói ta là Diệu Thọ, ta nói không phải, ông nói ta là Lai Quả, ta cũng nói không phải, có thể nói là gặp mặt mà không biết người, vậy các ông còn biết chăng? Đối với Thiền tông những việc này cũng không coi là kỳ lạ.

Nay ta theo thứ tự giảng cho các ông nghe. Sự thật thì không có thứ lớp, không cần đôi chân để đi mới đúng, luôn cả chân cũng không cần đi đầu còn thứ lớp gì nữa? Không phải bốn mươi bốn cấp bực hay năm mươi lăm cấp bực của Giáo môn, tu đến cấp bực nào chứng quả cấp bực đó, từ bước một mà bước, nếu muốn một bước lên hai cấp cũng không được. Thiền tông chẳng những không có cấp bực mà luôn cả chân cũng không cần, nhưng vẫn ngồi trên cao được, so với họ vẫn cao hơn nhiều. Vậy đoạn dứt mười phương bằng cách nào? Cần phải biết nếu có thế giới thân tâm để liễu thì phải có ta năng liễu. Ấy đều là lời nói của Giáo môn: “Có năng có sở, năng sở đều liễu, chính giữa cũng không trụ”, gọi là Tam luân thể không. Thiền tông thì không phải vậy, chỉ cần câu thoại đầu một mạch tiến đến, không rơi vào cấp bực.

Trong Thiền tông có công phu được như vậy có thể gọi là đoạn dứt mười phương chưa? Chưa đâu! Trong Thiền tông cho đó là chưa vào cổng, còn ở giữa đường, còn là kẻ đứng ở ngoài cửa. Tại sao Thiền tông lại có chỗ sâu xa kỳ lạ như vậy? Các ông phải biết người sức yếu mà đến chỗ ngân sơn thiết bích (núi bạc vách sắt) thì không có cách nào vượt qua! Cứ cho ngân sơn thiết bích này không có ngày mở ra được! Nhưng những người có sức mạnh thì ngân sơn thiết bích chẳng thể nhốt được, khi họ đến chỗ đó thì một tay đập bỏ ngân sơn, một chân nhảy qua thiết bích mới là việc của họ. Đợi khi các ông đập bể ngân sơn, nhảy qua thiết bích rồi thì ta mới nói chuyện đoạn dứt mười phương cho các ông nghe! Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 6 tháng 12 (thất 8 ngày đầu).

Người dụng công phải có công phu để dụng mới gọi là đạo nhân. Giả sử nói là người dụng công, nhưng đối với sự thực hành của chính mình thì lại không được công phu, sao gọi là đạo nhân được?

Hành đạo cũng như đường, lúc đầu ở ngã tư đường đi qua đi lại thấy đông đảo, tốt quá, người đi lại thì nhiều, cái gì cũng có, lần lần hình như kẻ qua lại ít đi thì bớt náo nhiệt rồi. Đi nữa thì đến chỗ ven vùng sơn dã khó mà thấy được một người, vắng vẻ cả rồi, càng đi nữa thì đến chỗ thâm sơn cùng cốc, một người cũng chẳng có, cảnh vật thanh vắng, đường đi càng nhỏ. Các ông người có dụng công đối với lời nói này ắt thấy rất tương ứng với mình, một điểm, một chữ cũng không sai. Người không dụng công được không biết lời của ta nói là gì, đường phố cũng không biết đường phố ở thị trấn nào, núi cũng không biết núi gì, đường nào cũng chẳng biết đường nào hết, thiệt làm cho người ta mò chẳng ra được! Đại khái các ông có loại tri kiến này. Ta phải nói rõ cho các ông biết: Đây là lời nói về sự công phu, các ông đừng làm ở bề ngoài. Vậy đường đi đã hết, lần lần đến chỗ thâm sơn cùng cốc, đến chỗ này rồi thì còn đường đi nữa không? Đường thì không có để đi, nhưng trên công phu làm sao lãnh hội được? Lúc mới đầu đề lên câu thoại đầu thì vọng tưởng, phiền não, tham ái, si mê v.v… so với ngã tư thành phố còn náo nhiệt hơn, bởi vì quá nhiều; hôm nay cũng câu thoại đầu ngày mai cũng câu thoại đầu, cũng như đi đường vậy, cứ tham chậm chậm; cầu thoại đầu tham lâu ngày rồi thì dần dần vọng tưởng, sân ái, phiền não v.v… đều bớt đi. Lại nữa nghi tình biết đề lên rồi thì lần lần quen thuộc thôi! Nghi tình khi đã quen thuộc thì giống như đến nơi sơn dã vậy, vọng tưởng phiền não khó mà khởi lên được. Tham nữa, khởi nghi tình nữa thì nghi tình này sẽ thành khối thôi. Con đường trước mặt ban đầu càng đi càng nhỏ lại, thanh vắng im lặng; đến bây giờ khi nghi tình thành khối thì cũng không còn đường để đi nữa mà một chút mùi vị cũng không có, cô đơn thanh vắng, nhưng tri kiến các ông tưởng là: “Không đúng! Làm sao người dụng công trên công phu lại tạo thanh vắng làm gì? Náo nhiệt thì tốt biết bao, tại sao lại muốn cô đơn thanh vắng, một chút mùi vị cũng chẳng có làm gì?”.

Đúng vậy! Nhưng ta nói: muốn náo nhiệt để làm gì? Đường đi đã không có, náo nhiệt để chỗ nào? Không có mùi vị thì còn có miệng không? Miệng đã không có thì lưỡi ở đâu? Còn mùi vị hay không? Không có lưỡi thì không thể nào biết được, lưỡi đã không thì mùi vị từ đâu đến? Đối với chữ Thiền đương nhiên cần phải tham. Nhưng công phu hành đến nơi còn nói chi là Thiền? Thí dụ có bệnh mới uống thuốc, bệnh hết rồi còn uống làm gì? Nếu bệnh hết mà còn uống thuốc thì không đúng rồi! Bệnh hết, thuốc nhất định phải bỏ. Lời này các ông có hiểu được chăng? Nếu những lời nói về công phu lúc mới đầu này có chút lĩnh hội thì cũng không cô phụ các ông là người đả thiền thất. Như thế đường ta nói đã đi xong chưa, có còn đứng tại chỗ này hay đã lùi về phía sau rồi? Còn đứng tại chỗ này thì không đúng, không thể xong việc, người đứng trên đường đã không đúng, sụt lùi lại càng không đúng nữa. Đến thì cứ đến! Muốn các ông thối lui phía sau thì phía sau là lửa cháy mạnh, đương nhiên không lùi được, không lùi nhất định phải tiến về phía trước, không tiến cũng phải tiến, đây không phải là việc dễ gì làm được. Muốn duỗi chân ra thì chân không có chỗ để duỗi, muốn đưa tay ra cũng không có chỗ mà đưa, các ông hãy nghĩ xem: cũng như con dòi trong lu mặc dù bò ra không được cũng ráng sức mà bò, chỉ muốn đi trốn, bò qua bò lại còn có thể lăn lộn vài lần. Các ông công phu nghi tình đã thành khối rồi, trong khối này còn được lăn lộn không? Sợ không dễ gì? Bởi vì cái khối này lớn quá, muốn duỗi chân ra thì một tí chỗ hở cũng không có. Trong hư không cũng ở trong khối này, ngoài hư không cũng ở trong khối này, thập phương chư Phật cũng ở trong khối này. Các ông thử nghĩ xem: Chân này duỗi ra chỗ nào? Tay đưa ra chỗ nào? Nhô đầu ra đâu? Muốn duỗi chân một chút thì chỗ đưa chân cũng ở trong khối này, và nhô đầu ra cũng vậy. Không những tay chân, chúng ta còn phải nghiên cứu xem xét rốt cuộc khối này là bao lớn? Con người của ta ở trong hay ở ngoài cái khối này? Bên ngoài còn có chỗ nào, mà ở trong thì tướng mạo ra sao? Các ông đều cần phải thấy được một tí mới tốt, cần phải rõ ràng thấy đến mới đúng; chỉ nghe nói thôi thì vẫn còn là của ta.

Cái khối này lớn lắm, không những hư không bị nó lôi cuốn vào trong mà ngay cả Phật Thích Ca, các đại Bồ Tát, Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm cho đến thập phương chư Phật đều bị khối này bao gồm vào trong. Thiên đường, địa ngục, sâu bọ con kiến cũng đều ở trong khối này, các ông hiểu hay không? Cần nghiên cứu xem, đây không phải là việc nhỏ đâu. Tại sao? Các ông không nghiên cứu nó cho rõ thì nói làm sao đập bể khối nghi? Làm sao đập vỡ được khối nghi? Nếu nói khối nghi đập bể đích thân nhìn thấy bản lai diện mục là nói bậy! Ông nói ông thấy bản lai diện mục của ông, như vậy còn có bản lai diện mục của ta chăng? Diện mục của người khác có hay không? Cái diện mục này so với nghi tình thì lớn hay nhỏ hơn? Nói câu: “Đập bể khối nghi, đích thân thấy bổn lai diện mục”, đó đều là do các ông học từ bên ngoài mà thôi. Ta hỏi câu thứ nhất thì các ông đều đáp không nổi. Sở dĩ muốn các ông tự mình thấy được, muốn thiết thực thảo luận qua; nếu không thấy được như vậy, thân thiết như vậy, dù cho các ông nói thật đập bể khối nghi thì vẫn còn là kẻ mang mặt nạ (bộ mặt giả)! Phải hiểu là “Vạn lý trình đồ thủy chung bất ly sơ bộ” (đường đi vạn dặm thủy chung không rời bước đầu tiên). Nếu không thấy được rõ ràng thì cứ sai mãi, ngàn sai muôn sai đều do cái sai này. Rất cần yếu là tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 7 tháng 12 (Thất 8 ngày thừ).

(Giảng sự tích Phật Thích Ca nửa đêm trông thấy sao sáng mà thành đạo và thuyết pháp v.v… Nay lược bỏ).

KHAI THỊ
Ngày 8 tháng 12 (Thất 8 ngày thứ 3).

Người hành đạo như trên đường vạn dặm trở về nhà, mà nay đã đi được chín ngàn dặm rồi, chẳng bao lâu nữa thì về đến nhà. Tỷ như đỉnh núi muôn trượng, chúng ta từ chân núi mà trèo lên ngọn, một chân cứt chó, một chân gai góc, muốn tìm một con đường lớn để đi mà không có, chẳng hỏi có đường hay không có đường mà chỉ hướng đi lên; hôm nay cũng trèo, ngày mai cũng trèo thì trèo lên được thôi. Trèo lên thì được rồi, đến đầu ngọn núi chỉ có chỗ để đặt một chân thôi, nhìn xuống là vách núi muôn trượng, động chân thì bước vào hư không, chung quanh đều không còn chỗ. Đến chỗ này rồi đứng lại, dường như là tốt lắm, có thể nói: “Đỉnh núi muôn trượng”, “Đầu sào trăm thước”. Đến nơi này rồi tốt thì tốt nhưng còn thiếu một bước đường, một vạn dặm đi được 99.999 dặm rồi, chỉ thiếu một dặm nữa thì đến cái nhà bản lai của chúng ta; đến được nơi này rồi thì hy vọng vô cùng. Một dặm đường này chỉ cần các ông bước chân là có thể đến nhà, chỉ cần bước chân một chút thôi thì có thể hy vọng thành Phật, hy vọng làm Tổ, cho đến hy vọng siêu Phật việt Tổ cũng ở cái bước này. Tại sao lại phải bước thêm một bước? Chỗ này đương nhiên là không tốt mà người xưa đã nói như thế rồi. Tại sao vậy? Người xưa nói: “Người ngồi trên đầu sào trăm thước tuy là được nhập nhưng mà chưa chân thật”. Ấy là muốn nói: Lúc mà các ông đến đầu sào trăm thước rồi ngồi xuống tại chỗ đó không bước thêm về trước nữa, thì chẳng thể kể là người chân thật về đến nhà. Ta hôm nay muốn hỏi các ông: Công phu có đến được chỗ này chưa? Những lời này là vì các ông cần công phu đến được chỗ này thì mới giảng cho các ông nghe; trong kỳ thất thứ ba giảng mấy lời này là vô dụng vì công phu các ông không dụng đến được nơi này, nếu ở vào lúc bình thường lại càng không xong. Hôm nay đã được bảy, tám thất rồi, công phu đương nhiên phải đến chỗ này, các ông hãy nhủ lòng tự hỏi: Có hay không có? Nếu công phu đến được chỗ này thì tốt lắm! Ta nói như thế thì các ông nhất định lĩnh hội được; bảo các ông bước thêm bước nữa, các ông cũng có thể tin chắc mà bước tới, ấy chẳng phải là rất tốt sao? Không có được công phu như thế thì ta uổng công nói rồi! Còn chỗ nào là có ích đâu? Nhưng không thể vì các ông như vậy mà không nói ra; công phu các ông không dụng đến, thất đả được bảy, tám kỳ rồi, đương nhiên muốn giảng đến chỗ này cho các ông, công phu các không dụng đến, ấy là các ông phụ ta, không phải ta phụ các ông. Nhưng mà “đỉnh núi muôn trượng” chỉ là một ví dụ, về công phu của chúng ta thì lại là như thế nào? Cần các ông lĩnh hội một chút, từ chỗ không biết mà dụng công, một chân cứt chó, hôn trầm vọng tưởng, dụng đến thuần thục cho đến thành khối tự tại, cho đến đỉnh núi muôn trượng. Nhưng mức công phu này làm sao đến được? Lúc công phu đến mức thành khối thì quét bỏ cả tâm, ý, thức mới có thể đạt đến mức này.

Nói cho rõ ràng một chút: Tâm là cái năng tri, tất cả thiện ác, thế gian xuất thế gian là sở tri của tâm, cái tâm này phải lìa bỏ. Ý, nghĩa là tất cả pháp, chẳng kể là pháp Đại thừa hay Tiểu thừa, nếu dùng bộ nào suy nghĩ một chút thì liền rơi vào ý thức, cho nên cũng cần phải lìa bỏ. Đó là chuyện trong Thiền tông, tuyệt không phải là chuyện trong Giáo môn đâu, mọi người cần nhận biết cho rõ ràng. Giáo môn không có chuyện như thế đâu!

Nói đến chữ Thức tức là muốn các ôn nhận chân mà tham thiền! Vậy thế nào là chân tham? Chân tham là vô tham. Ý nghĩa câu nói này ta phải phân biệt dùm cho các ông một chút, vì câu nói này người hiểu lầm rất nhiều. Tại sao vậy? Người không biết dụng công nghe câu nói này rồi bèn nghĩ: “Tốt lắm! Chân tham là vô tham, ta quả không biết tham tức là vô tham, ấy chẳng phải chân vô tham sao? Vậy không cần dụng công nữa rồi!”. Ông cứ cho đấy là rất đúng: “Ta là vô tham”. Kỳ thực cái vô tham này của ông là cái vô tham của lục đạo luân hồi, không phải cái vô tham siêu Phật việt Tổ! Cái vô tham đó là công phu dụng được đến thành khối mà chẳng biết có sự tham chứ chẳng phải là không có tham. Ta hôm trước đã giảng về nghi tình thành khối rồi, thập phương chư Phật, hết thảy Bồ Tát, lịch đại Tổ Sư đều ở trong cái khối nghi này, không cho các ông biết công phu của cái nghi tình thành khối này, tham cho đến chỗ này không biết mình đang tham, đó mới là vô tham. Cái vô tham này của các vị ấy có giống cái vô tham của người hiểu lầm không? Nếu mọi người đã tham và chân tham cái vô tham này, như thế thì cái vô tham này do chân thật dụng công tự nhiên đến chỗ không còn tự biết, còn cho các ông phân biệt chăng? Hễ cứ muốn phân biệt thì rơi vào cái thức ngay! Cho nên không cho tâm biết, không cho ý suy nghĩ, không cho thức hiểu thì mới kể là đến được “đỉnh núi muôn trượng” cũng là “đầu sào trăm thước”.

Ta muốn hỏi các ông công phu có đến chỗ này chưa? Các ông cứ cho việc này là khó lắm, ta bảo là không khó. Các ông cứ tự mở mắt ra xem, nơi các ông đứng là nơi nào? Công phu đến nơi này, há có lẽ nào mà không thấy được chăng? Nhưng mà ta muốn hỏi các ông: “Công phu có dụng đến chỗ này chăng?”. Các ông đáp: “Tôi đến rồi!”. Ta lại hỏi: “Nơi này mở mắt ra xem còn có gì nữa không?”. Các ông cần trả lời ta mới đúng. Còn có người không? Còn có ta không? Còn có Phật không? Còn có Pháp không? Còn có Tăng không? Các ông nếu trả lời ta: “có”, đã nói có thì cái có từ đâu mà có? Nếu nói không có thì các ông ở chỗ nào? Đây không phải là việc nhỏ đâu, ta hỏi các ông, các ông phải biết thật rõ ràng mới đúng. Nếu các ông có thể dụng công phu đến chỗ “đầu sào trăm thước” thì nhất định biết thôi.

Phải hiểu được rằng: “Công phu đến chỗ này thì rất có hy vọng; hễ tiến thêm một bước thì thọ dụng vô cùng”. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 9 tháng 12 (Thất 8 ngày thứ 4).

“Vực thẳm buông tay, chết rồi sống lại” (huyền nhai tán thủ, tuyệt hậu tái tô), hai câu nói này người đã ở chốn thiền lâm đại khái đều có nghe qua. Nhưng mà nghe thì cho ông đã nghe qua, mà hành thì không không cho là các ông hành qua. Tại sao vậy? Nếu ông đã từ chỗ này hành qua một chút, thì hôm nay các ông chẳng phải là một người như thế này.

Đối với công phu hai câu là công phu gì? Cần phải giải thích rõ rệt cho các ông một chút: Thiền tông vốn không mượn lời nói nhưng vì dẫn dắt các ông hành đạo, nếu không nhờ lời nói thì lại chẳng có đường để đi, cho nên ở phía trước ta nói, các ông có thể theo lời ta nói mà hành cho đến, cái lời nói phương tiện này thì không thể hiểu được. Cũng như hôm qua ta nói đến đỉnh nhọn ở trên đầu núi, từ chỗ này mà bước thêm một bước nữa thì lọt vào hư không, thế không phải là vực thằm buông tay sao? Nhưng cái bước này rất là quan trọng. Tại sao vậy? Trước mũi chân là hư không, vậy muốn bước chân này phải bước như thế nào? Cái bước này động được thì phỏng có đường đi không? Không thể bước đi trong hư không được, vậy có người nào làm được cái chuyện bước đi trong hư không chăng? Quả chẳng phải là chuyện chơi! Đối với người công phu đến được chỗ này thì họ tự biết rõ là có con đường này, họ không những buông tay đi mà còn buông chân để chạy nữa, đi qua Đông qua Tây, đi lên đi xuống, tùy họ đi như thế nào cũng có đường đi cả. Người không có được công phu như vậy thì đáng tiếc lắm! Nghe ta nói thì muốn chết đi! Làm sao một người lại một mình đứng được ở chỗ cao như thế, bốn phía đều trống không, nghiêng một chút thì mất mạng liền. Nếu như ta đem các ông đặt lên chỗ ấy, các ông nhất định sợ chết, đâu còn biết được trong hư không có đường đi hay không? Các ông hãy nghĩ đúng không? Nhưng mà thí dụ ở trên không có đường đi thì phải dùng biện pháp nào để có thể đi được? Há chẳng phải là phép thí dụ không hợp chăng? “Thí dụ” thì có nhiều lắm, nói nữa thì lại quá dài. Nhưng mà từ chỗ này cứ bước một bước thì té xuống ngay! Theo ta nói không những phải bước cho té xuống mà còn phải té cho chết nữa, cho đến cái xác tan nát thành bột, một mảy lông cũng không còn mới đúng. Nếu không té cho chết thì cũng chẳng khác như chưa té! Như vậy thì cái công phu này của các ông còn chưa đúng! Tại sao vậy? Ấy là nửa chết mà chưa chết, chỉ thành một kẻ chết giả! Nếu như vậy lại thành quỉ giữ xác. Cho nên cần phải té cho thật nát! Từ chỗ này mới cho các ông được tuyệt hậu tái tô. Khi sống lại rồi thì khác hẳn, không phải như người trước nữa.

Ngày hôm qua ta nói vế tâm, ý, thức cần phải quên đi, nhưng tâm, ý, thức quên rồi thì vẫn còn ở cái ổ tâm, ý, thức, công phu đến chỗ này rồi thì phải lôi cái ổ này đập bể nó đi. Cái ồ là thức thứ bảy và thức thứ tám đó. Có thể bỏ rời thức thứ bảy và thức thứ tám ra thì công phu mới có thể đến chỗ sống lại này được. Nếu không thể lìa bỏ cái ổ này, thành Phật cũng là cái ổ này, làm Tổ cũng là cái ổ này, thiên đường, địa ngục, cầm thú… cũng từ cái ổ này ra, do vậy công phu nhất định phải đến chỗ này. Ổ một khi đã phá tan thì mới bật ra một tiếng “ồ” (tả sự ngộ). Đáy thùng rơi ra, chuyển mình triệt để, quay đầu chuyển óc, chết rồi sống lại đều là cái “ồ” này. Nhưng cái chỗ này không phải chỉ có nói như thế, người xưa đã từng có những lời nói ra làm bằng chứng vững chắc. Như thế nào vậy? Ấy là: “Đầu sào trăm thước lại bước tới, thập phương thế giới hiện toàn thân”. Đầu sào trăm thước, vách núi muôn trượng đều như nhau cả, như các ông lên đến ngọn sào cao mười trượng cũng như đứng trên đầu ngọn núi đó vậy; trên đầu ngọn núi này lại bước tới một bước nữa; giống như trên đầu sào trăm thước lại bước tới một bước nữa, chết rồi sống lại cũng như thập phương thế giới hiện toàn thân thôi. Hai câu nói này có thể chứng minh công phu chúng ta đến chỗ này rồi thì về đến nhà vậy. Nhìn trở lại thì có còn con người trước chăng? Còn là cái tâm trước không? Các ông nghĩ xem: có phải là con người trước không? Đại khái người là người trước đi, nhưng tâm thì không vậy đâu. Người ta nói: “Ngộ cũng bằng như ngộ”. Nếu nói người cũng như vậy, tâm như vậy là phế bỏ nhân quả rồi! Trước khi chưa ngộ ăn ba chén cơm, ngộ rồi thì vẫn là ba chén cơm, cơm thì vẫn nhự vậy nhưng tâm trước với tâm sau khi ngộ rồi thì khác xa như trời với đất.

Từ nay về sau điều ta nói là hay lắm! E các ông lại tưởng rằng: “Có cái gì tốt đâu? Chẳng đả thất thì mới tốt! Còn như muốn chúng tôi đả hai thất nữa thì làm người ta khổ chết đi thôi! Mà lại nói là tốt chứ!”. Đúng đấy! Ta nói: Trở về sau năm là năm tốt, tháng là tháng tốt, ngày là ngày tốt, các ông còn có người biết không? Không kể các ông công phu hành đến chỗ này hay không đến chỗ này nhưng lời ta nói thì có giảng đến. Trở về sau nữa thì ta chẳng nói như vậy nữa mà lại nói khác đi. Người chưa ngộ trong số các ông, công phu chưa đến, nghe ta nói khác đi thì thấy có điểm không tương ứng, bởi vì trở về sau nữa ta sẽ không nói với loại người như các ông đâu, vậy thì làm gì có sự tương ứng được. Ta giảng với ngộ, ta chiếu cố toàn như vậy, cứ giảng đường đi cho các ông nghe mãi thì thành ra dẹp bỏ người đã ngộ rồi sao? Đối với các ông bất cứ là ta giảng đến nơi nào, mặc dù công phu các ông không dụng đến, nhưng hôm nay ta giảng đến chỗ này thì các ông tất phải hành theo, thế nào cũng phải hành đến chỗ này mới được buông tay. Nếu không hành đến chỗ này, không được cho là cái lời giảng của ta nói và cái sự hành của các ông không giống nhau mà rồi buông bỏ đi, như thế không đúng đâu! Còn cần phải hướng về phía trước mà dụng công. Nếu không lại phụ cái phen công phu khổ tâm này của mình đi thôi. Các ông hãy phát tâm. Tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 10 tháng 12 (Thất 8 ngày 5).

“Trước khi chưa ngộ việc còn ít, sau khi đã ngộ việc lại nhiều thêm”. Hai câu này câu nói trong Thiền tông, muốn tìm nát ba Tạng, mười hai bộ Kinh cũng tìm không ra.

Lời nói trong Thiền tông và Giáo môn khác nhau chỗ nào? Giáo môn thì không kể tâm hạnh các ông như thế nào mà chỉ cứ nói thẳng đi thôi. Lời nói trong Thiền tông thì lại theo tâm của ông đi đến chỗ nào thì nói chỗ ấy, cái không giống nhau là ở chỗ này.

Các ông hảy đề một câu thoại đầu mà tham cho đến u u nhã nhã, thanh thanh tịnh tịnh không biết đến có người có ta thì còn nói chi đến chuyện khác? Chỉ có câu thoại đầu chẳng có gì khác, như thế thì suốt ngày tự tự tại tại, tịch tịch tỉnh tỉnh. Các ông nghĩ xem: Có phải như vậy không? Đã ngộ rồi thì lại không như thế. Tại sao vậy? Các ông mở mắt ra nhìn một cái thì phải than lớn một tiếng, chẳng ngộ thì thôi, một khi ngộ rồi còn có nhiểu chuyện như thế: nhiều, nhiều lắm! Thí dụ như thế nào? Cũng như: một cái nhà cũ mà chúng ta đã ở ba mươi năm trước, là một căn phòng nho nhỏ, bên trong có đạc, hôm nay đã xa nhà ba mươi năm rồi chưa hề trở lại một lần nào. Bỗng nhiên, hôm nay đến nhà cũ, một chân đạp cửa mở ra, nhìn vào một cái, thấy không được rồi: khói bụi trên bàn, rêu xanh dưới đất dầy cộm! Trong nồi chuột làm tổ, cứt mèo, màng nhện v.v… trước bàn thờ Phật không biết là bao nhiêu! Nhìn thấy như thế còn có muốn nói là một căn phòng chăng? Chỗ nào cũng không ở được, mặc kệ thì không được, cần từ quét dọn từng món một. Còn may mắn là hai con mắt đã mở ra, nếu không phải là mở mắt thì làm sao biết được nhiều việc không tốt như thế? Đây là ví dụ, còn lãnh hội về cái pháp thì sao? Người chưa ngộ suốt ngày cứ ở trong sinh tử, phiền não, nghiệp chướng, vọng tưởng, chẳng có tri giác gì; dù cho biết thì chỉ là nghe người ta nói hoặc thấy được trong Kinh điển, chứ chưa tự bước chân vào chỗ thực tế; thấy được từ bên ngoài, tuy thấy mà cũng như thấy, cho nên khi họ dụng công thì có công phu thôi. Hôm nay bỗng nhiên khai ngộ thì cũng như xa căn phòng trong ngôi nhà cũ đã ba mươi năm rồi, hôm nay mới có một bước mà về nhà vậy; mở mắt ra nhìn một cái thì mới biết ra là còn có nhiều việc như thế! Mà có việc thì đương nhiên phải giải quyết từng việc một.

Cổ nhân đã có câu nói là để chứng minh cái công phu của chúng ta đến được nơi này, cổ nhân nói: “Khi chưa đến ngõ còn mặc ý, khi đến ngõ rồi việc càng nhiều”, ý nghĩa hai câu nói này thì giống như việc ta nói ngày hôm nay thôi. Đối với những ta giảng cùng các ông như thế thì thực không cần phải giảng, chẳng qua trong Thiền tông những lời nói như thế đều là viên nhân, viên chủng cả, các ông tuy công phu chưa đến mà đem cái loại viên chủng này gieo xuống thì việc gặt hái trong tương lai sẽ vô cùng tốt đẹp. Nhưng người trong số các ông nhiều như vậy thì làm sao lại không có người biết đường biết lối? Bắt gió, nắm bóng, những cái không thực mà biết được một tí, hiểu một tí thì cũng không phải là không khó. Vậy thì nhốt gió lại được, nắm bóng lại được cũng kể là việc hiếm có. Thí dụ như khi ta nói chuyện ở trong nhà, các ông tuy chưa vào nhưng nếu đứng ngay ở ngoài cổng cũng có thể nghe được vậy, giả sử có động một bước chân thì đương nhiên sẽ vào được nhà. Sợ các ông cách xa ba ngàn dặm, còn chưa đủ tư cách làm người đứng ở ngoài cổng, ngay cả đến loại này không đủ tư cách thì ông biết còn dụng được gì chăng? Người đến được chỗ này thì có cái thọ dụng này, ông đến được chỗ này rồi, tuy có lắm việc như thế, còn không được cho là nhiều; ông đến được chỗ này rồi không những không sợ nhiều mà muốn càng nhiều càng tốt nữa. Nếu sợ nhiều việc thì lại trở thành một người vác bảng thôi! Đâu còn kể được là người mắt sáng? Người mắt sáng làm việc toàn thể là sự lý viên dung. Người có sức lực xuất chúng nhất khi ngộ như thế thì sự lý không còn trụ, tâm cảnh không còn trụ, Phật cũng không trụ, Tổ lại càng không trụ. Cổ nhân có câu nói: “Đi trên đầu Phật”, trên cái ngộ này thì mới có thần thông, tuy có thần thông nhưng cũng chưa phải là toàn thông, hãy xem các ông căn nào bồi đắp được nhiều thì thông cái căn đó trước.

Nói sơ lược thì có ba loại cửa ải là Sơ Quan, Trùng Quan và Mạt Hậu Lao Quan:

(1) Giai đoạn phá Sơ Quan: Cũng gọi là phá Bản tham tức là kiến tánh. Chưa kiến tánh là mắt mù, nay kiến tánh là người mắt sáng. Đến cửa này lý thì ngộ rồi, sự thì chưa liễu. Sự tức là tập khí.

(2) Giai đoạn phá Trùng Quan: Tập khí là cấu bẩn. Ví như một phẩn lâu ngày, múc từng gáo đổ ra ngoài hết rồi rửa sạch cái thùng nhưng hôi thúi vẫn còn, nên phải cạo cho sạch, cạo sạch rồi vẫn còn hôi thúi vì hôi thúi thấm sâu vào gỗ thùng lâu ngày rồi. Nên phải bỏ luôn cả cái thùng. Tất cả phẩn và hôi thúi đều là bệnh của tâm, bệnh tâm cạo sạch rồi còn phải bỏ luôn cái tâm (vọng tâm) mới được gọi là liễu sự.

Vậy khi tâm sạch rồi, sự liễu rồi, lý cũng thông, sự cũng dung, nên nói: “Sự lý song dung, tâm cảnh vô ngại”. Đây tức là phá Trùng Quan.

(3) Giai đoạn phá Mạt Hậu Lao Quan: Phật, Tổ chẳng trụ, Niết Bàn chẳng trụ, không còn gì để trụ nữa, đến đây thì: “Trên đầu có mắt, sau não đập chùy”, tác dụng của bộ não sạch hết, dụng của Tự tánh hiện tiền, gọi là phá Mạt Hậu Lao Quan tức là cửa ải kiên cố cuối cùng. Đây là sự giải thích đứng đắn về tam quan của tổ Hoàng Long trong Thiền tông vậy.

Nếu thật người có con mắt sáng thì đương nhiên việc càng nhiều càng càng tốt. Tại sao vậy? Vì cái chỗ của người mắt sáng thấy, người khác không thấy được cho nên mới gọi là mắt sáng. Vậy thì, mắt sáng thì mũi có thể sáng được không? Tai cũng có thể sáng được không? Sáng thì tất cả đều sáng mới đúng! Lỗ tai cũng có thể thấy được vật, mắt cũng biết được thơm thối. Năng sở hỗ dung (dung thông với nhau), sự là lý, lý là sự, dụng là thể, thể là dụng, dụng cũng lại là tâm, tâm cũng lại là sự. Cầm hương bảng vào tay là tâm, tâm là hương bảng, tiểu tiện là tâm, tâm cũng là tiểu tiện. Các ông nghĩ xem: Có được cái hỗ dụng này thì còn sợ nhiều việc gì nữa? Nhưng hôm nay các ông là người dụng công phu chưa đến được chỗ này thì cần phải nhận chân tham cứu. Nói chung cần phải dụng công cho đến sau khi đại ngộ rồi thì mới kể là mục đích của các ông. Nếu chưa đến chỗ đó thì không thể buông bỏ công phu đi được. Hiện tại các ông đứng ở nơi đây, ta hỏi các ông: “Đứng ở chỗ nào?”. Các ông nhất định sẽ đáp: “Đứng ở trên gạch”. Đợi các ông đến lúc đó ta lại hỏi các ông: “Đứng ở chỗ nào?”. Các ông nhất định sẽ đáp: “Chẳng phải đứng trên gạch”. Không đứng ở trên gạch thì đứng ở chỗ nào? Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 11 tháng 12 (Thất 8 ngày thứ 6).

“Ngộ lý nhất thời, liễu sự xa xôi”, ngộ lý thì trong sát na có thể ngộ được, ngộ rồi thì thời gian liễu sự rất dài, không phải là một ngày, hai ngày mà liễu được. Nhưng ba cái cửa ải của chỗ ngộ trong Thiền tông từ thời Đường, Tống trở về trước không có chuyện Tam quan gì cả, đến thời Tống mới có Thiền sư Hoàng Long lập ra cửa ải Tam quan; Thiền tông thật không có ba cửa này: thứ nhất là Sơ Quan, thứ nhì là Trùng Quan, thứ ba là Lao Quan. Danh từ (tên) của ba cửa ải này tuy trên phương diện dụng công thì có trước sau, nhưng không phải là có thứ công phu nào đặc biệt dùng để phá Sơ Quan, phá Sơ Quan rồi cũng chẳng phải có thứ công phu đặc biệt nào để phá Trùng Quan, cũng chẳng phải phá Trùng Quan xong rồi lại có công phu đặc biệt nào để phá Lao Quan sau chót được, tất cả không phải như vậy. Cần biết là quan thì có ba lớp, sâu cạn chẳng đồng, mà công phu thì chỉ có một câu thoại đầu, sâu cạn là do lực lượng câu thoại đầu lớn hay nhỏ. Tỷ như bắn tên, người lực lượng nhỏ bắn phát tên qua được một mặt trống, người lực lượng mạnh hơn chút ít, một phát tên bắn qua hai mặt trống, người có lực lượng đặc biệt, lực lượng siêu quần xuất chúng thì một phát tên bắn qua được ba mặt trống, tức là lý lẽ này. Phật Thích Ca lực lượng to lớn nhất, một phát tên bắn qua được chín mặt trống. Ba cái mặt trống này cũng giống như ba cái quan ải, dụng công thì tựa như bắn tên vậy. Đối với cái công phu Tam quan này của Thiền tông thì cách thức dụng công như thế nào? Cửa ải làm sao phá? Phá đến cửa nào thì có cảnh giới gì? Tất cần phải nói rõ ràng cho các ông nghe. Nhưng thân tâm ta thật tiếc cho các ông trong thời kỳ đả thất chẳng có người nào công phu được chút tiến bộ sâu xa nào, chẳng từng có được người nào công phu khai được tiểu ngộ, đó là điều ta thật tiếc vô cùng! Ví như nếu trên công phu giống như trên song cửa sổ có một lớp giấy, như mặt trời chiếu qua giấy, tuy cách một lớp giấy nhưng ánh sáng còn có thể chiếu qua được, có được một người như thế thì cũng tốt. Tuy tiếc lắm nhưng ta không thể không vì các ông mà giảng đến. Các ông chỉ cần tham một câu thoại đầu đến khi công phu cùng cực, cái hôm trước ta đã nói qua, cái “chết rồi sống lại” đó, người tương đối có lực lượng hễ ngộ thì phá được bản tham. Nhưng cái ngộ cho là kiến tánh; sinh tử thì cũng cho họ biết sinh từ đâu đến, chết đi về đâu. Tuy tánh thì kiến rồi, nhưng cấu bẩn thì chưa trừ, sinh tử thì cho các ông biết nhưng sự thì chưa liễu. Người có lực lượng lớn một chút thì từ cái ngộ này tánh cũng kiến rồi, tâm cũng minh rồi, lý cũng liễu rồi, sự cũng liễu rồi, tâm cảnh đều quên, cứ như thế mà lần lượt phá ba cửa ải. Chúng ta người hành giả tham thiền thứ nhất cần phải có chánh tri kiến, sinh lòng tin chân chính, một câu thoại đầu lấy ngộ tâm làm kỳ hạn. Các ông hãy phát tâm tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 12 tháng 12 (Thất 8 ngày thứ 7).

Người chưa khai ngộ cử tâm động niệm đều là vọng tưởng, khai ngộ rồi cử tâm động niệm đều là chân như. Người phá Bản tham rồi đương nhiên là rõ ràng thôi; muốn vì những người các ông công phu chưa đến mà phân biệt rõ rệt một chút, nếu không thì sợ các ông đều lẫn lộn: chúng tôi khi chưa ngộ, cứ vọng tưởng động là một tướng, nổi vọng tưởng Nam Kinh thì tướng Nam Kinh hiện ra ngay, lại nổi vọng tưởng Thượng Hải thì tướng Nam Kinh diệt liền và rồi tướng Thượng Hải theo đó mà hiện ra. Theo đấy suy ra, tướng này sinh tướng kia diệt, tướng này diệt tướng kia sinh, cái kia sinh cái này diệt không bao giờ tạm dừng, ấy là vọng tưởng. Nếu các ông trong lúc vọng tưởng không dừng mà đề lên câu thoại đầu, khi đã đề lên, nghi tình hiện tiền thì tất vọng tưởng tự nhiên bị quét sạch. Vì nghi tình vốn vô tướng và tâm của con người chỉ có một cái, cho nên hễ khởi lên cái vô tướng của nghi tình thì cái hữu tướng của vọng tưởng liền tiêu diệt. Dụng công dần dần sẽ đến cái vô tướng thuần nhất, cái công phu thuần nhất này sẽ tự phá Bản tham. Phá Bản tham rồi tức là vô tướng thuần nhất vậy, sẽ không còn có tí hình bóng vọng tưởng nào cả. Phá Bản tham rồi muốn tìm một chút vọng tưởng cũng không có! Công phu đến bước này thì cử tâm động niệm đều ở trên cái công phu vô tướng này, ăn cơm cũng không rời, mặc áo cũng không bớt một chút, dù cho có nhiều việc khác nữa thì công phu này cũng không bớt giảm; ở nơi này mà lập nên một danh từ gọi là “Chân như”. Hai chữ Chân như mà đối với vọng tưởng mà nói, vì rời vọng tưởng rồi mới nói đến Chân như; không đặt cái danh từ này thì làm sao nói? Tuy miễn cưỡng gọi nó là Chân như, Bản lai diện mục của Chân như đâu phải như vậy? Cứu kính ra sao? Muốn các ông phải tự mình dụng công phu đến chỗ này thì tự mình sẽ biết được; cứ nghe lời ta nói thôi là vô dụng, không những vô dụng, mà dù cho ta nói ra, các ông cũng không tin nữa. Tại sao vậy?

Trước kia có một học giả muốn ta đem Chân như ra giảng cho ông ta nghe, ta nói: “Giảng cho ông nghe, ông có tin chăng?”, ông ta nói: “Tôi tin”. Ông đã tin rồi ta nói cho ông nghe: “Trên đầu Chân như có bốn sừng, trước hai sau hai, có hai cái đuôi, một cái trên mông một cái trên bụng, ông tin chăng?”. Ông ta nói: “Không đúng, đâu có lý như thế? Chân như đâu lại có sừng có đuôi? Dù cho có sừng thì đâu có đến bốn cái, phía trước có mà phía sau lại có nữa? Ở mông có đuôi mà trước bụng lại có đuôi nữa. Há có lý này sao? Tôi không tin”. Ta nói: “Cái này là Chân như thiệt; cái Chân như này ông không tin thì ta nói một cái giả cho ông nghe: Chân như dựng khắp tam tế, ngang khắp mười phương, ở chư Phật không tăng, ở chúng sinh không giảm, vô tịnh, vô nhiễm”. Ông ta nghe rồi nói: “Cái này đại khái là đúng, bảo tôi thì còn được!”. Các ông nghĩ xem: Ta nói chân thật, ông ta không tin, ta nói giả, ông ta lại tin. Hôm nay ta giảng cho các ông nghe, các ông có người nào tin chăng? Các ông không tin rồi! Chung quy phá Bản tham rồi là không còn vọng tưởng. Không có vọng tưởng tức là không có tất cả niệm sinh diệt, niệm có sinh diệt thì có tướng, có tướng thì Diêm Vương có thể bắt được, bắt biến thành trâu thành ngựa thì cũng nghe theo lệnh của ông ta thôi. Chúng ta không có vọng tưởng thì không có tướng, vậy thì Diêm Vương bắt cái gì? Cho nên người phá Bản tham thì nhất định dứt sinh tử; người phá Trùng Quan nhất định không có mộng tưởng, ngủ nghỉ thì vẫn là ngủ nghỉ, chiêm bao thì không có. Tưởng có người nói: “Người khai ngộ của Thiền tông còn có hôn trầm”. Kỳ thực họ chẳng biết Thiền tông cần phải đạt đến một mức nào đó thì mới không có hôn trầm. Vậy cần phải biết người phá Trùng Quan không có mộng tưởng thì còn có cái gì? Phải biết mộng tưởng từ đâu mà ra? Dù cho các ông mộng như thế nào thì cũng không ra khỏi sự tướng thế gian. Người phá Trùng Quan thì lý sự đều liễu, tâm cảnh song dung thì chỗ nào còn thế gian sự? Cho nên người phá Trùng Quan quyết định không có mộng tưởng, có tướng để Diêm Vương thấy được là có sinh tử. Có Chân như thì Diêm Vương không thấy được, mặc dù Diêm Vương không thấy được nhưng Phật Thích Ca thấy được, Phật Thích Ca còn thấy thì có Niết bàn; liễu sinh tử còn phải liễu được Niết bàn. Người phá Lao Quan sau chót thì hôn vọng đều trừ, mộng tưởng diệt sạch; đến chỗ này rồi người ấy không còn hôn trầm, họ đến chỗ này thì sinh tử không còn, Niết bàn cũng không trụ. Nói nhất chân pháp giới thì ngay cái nhất chân pháp giới cũng phải vượt qua. Lại nữa, phá Bản tham là kiến Pháp thân, phá Trùng Quan là chứng Pháp thân. Tại sao nói kiến? Tại sao nói chứng vậy? Thí dụ như thiền đường: người kiến Pháp thân như đứng ở cửa thiền đường, việc trong thiền đường đều thấy được rõ ràng cả nhưng chưa bước vào. Chứng Pháp thân là bước vào thiền đường. Thấu Pháp thân là đi thẳng vào trong khám Duy Ma Cật mà ngồi. Cho nên nói phá bản tham kiến Pháp thân, phá Trùng Quan chứng Pháp thân, phá Lao Quan thấu Pháp thân. Tất cả pháp môn khác công phu cùng tột chỉ có thể đến chỗ chứng Pháp thân thôi, duy có Thiền tông cần phải tiến thêm một bước thấu qua Pháp thân thì mới đúng việc của Thiền tông.

Những lời nói của ta đối với các ông lúc này dù chẳng có ý nghĩa gì cả, bất quá ta giảng như thế các ông dùng tai nghe qua nhưng cũng có thể nói là: “Một khi đã vào tai thì vĩnh viễn là hạt giống đạo”. Có được cái hạt giống này thì tương lai nhất định sẽ được nảy mầm, nảy mầm thì sẽ có kết quả.

Phật dạy: “Nhân nào quả nấy”. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 15 tháng 12 (Thất 9 ngày thứ 3).

“Ta thấy người khác chết, lòng ta nóng như lửa; không phải nóng người khác, nóng sẽ đến phiên ta!”. Đây là lời nói người xưa. Hôm nay sư Đô Giám trong chùa bệnh chưa đầy một ngày mà chết làm mọi người rất thương tiếc! Ông ấy đã làm việc trong chùa mười mấy năm, trước mắt ta không hề sai phạm tí gì. Người khác tuy cũng có được hành trì như thế nhưng cũng có khi không đúng pháp; duy có ông ấy mới được kể hoàn toàn! Ở đây người ta gán cho ta cái biệt hiệu là: “Đối với thanh chúng như Bồ Tát, đối với chức sự như La Sát”. Hai câu này ta cũng thừa nhận là không sai. Nhưng cái khổ tâm của ta sợ mọi người khó biết được! Thật sự cái lập trường của ta đối với thanh chúng và chức sự trong chùa chẳng phải là ý riêng của ta mà là cách đối xử của người xưa. Tỷ như một cái thùng nước bị chảy, chỗ hở thật to thì đương nhiên không đựng nước được lại chẳng bao lâu rồi sẽ vỡ luôn. Ta hỏi các ông: có cách nào làm cho thùng nước khỏi vỡ chăng? Mà còn đựng nước được? Các ông nghĩ xem có cách nào không? Nếu không vượt qua hoặc bằng với cách đối xử của ta thì không được nói cách của ta là không phải. Cách của ta là: “Niêm vòng cho chặt lại”. Cách của các ông có hơn được cách nêm vòng cho chặt lại của ta không? Đừng nói là bọc ván vỏ thùng, bọc đáy thùng hay lấy bùn trét lại phỏng có được không? Có hơn cách nêm vòng cho chặt của ta không? Nếu thùng lại chảy nữa thì nêm vòng thêm một lần thì tự nhiên sẽ thành một cái thùng tốt lại còn đựng nước được! Phải biết là: búa đập lên đục, đục đập lên vòng nêm thì đương nhiên vòng bị thiệt thòi, nhưng thùng thì được thành tựu hoàn hảo. Đây là lý lẽ nhất định: ta ác, ta độc thì cứ mặc kệ cho ta ác ta độc đi! Nếu mà các ông ác thì không được đâu! Tại sao vậy? Cái ác của các ông không phải như cái ác của ta. Các ông là tạo ác nhân, hoặc phá giới, hoặc phá nhà chùa; cái ác nhân các ông tạo ra về sau phải đọa địa ngục. Cái ác của ta là không cho các ông tạo ác nhân, tương lai sẽ không thọ lấy ác quả địa ngục, cho nên hãy cầu cho ta ác, ta ác là việc tốt, các ông ác là việc không tốt. Tại sao hôm nay ta lại nói cái chỗ tốt của vị sư Đô Giám này? Vị sư ấy đã làm việc với ta hơn mười năm, việc cần thiết gì của nhà chùa sư không hề có tí lầm lỗi nào; vẽ một cái vòng, bảo sư đứng vào trong, sư cũng chẳng sai phạm lấy một tí một ly nào, việc thu tô đất ruộng của nhà chùa không được tốt, hễ sư cứ đi là xong, cho có xa nữa thì cũng lo xong tốt đẹp như thế. Ta có ngầm điều tra sư, thấy sư chẳng có tí thói xấu nào, sư không hề hút thuốc, đánh bạc. Có nhiều người rời nhà chùa cứ cho là trong nhà không biết, thuốc cũng hút, bài cũng đánh, như thế thì lúc xuống địa ngục có hối thì cũng đã muộn rồi! Cứ cho là ta không biết, thế còn lẽ nào ta lại không biết chăng? Dù ta không biết được đi thì cái nhân quả còn trốn lánh được không? Cho nên vị sư Đô Giám này ta phải ca tụng là một người tốt. Người tốt là người làm trọn vẹn lúc bình thường. Muốn ta gọi các ông là người tốt thì không dễ đâu! Hôm nay sư bệnh được nửa ngày thì chết, trong lòng ta rất thương tiếc! Loại người này, ta hôm nay tán thán, người đã vì các ông làm việc, ta hy vọng đời sau sẽ còn cộng tác với ta mới tốt! Nhưng thọ mệnh vô thường! Các sư phải biết là người nào phận nấy. Các ông hãy phát tâm tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 16 tháng 12 (Thất 9 ngày thứ tư).

Trong chúng ta thật rất nhiều người chẳng biết xuất gia vì việc gì, cần phải làm việc gì. Phải hiểu được là: việc của chúng ta thì nhiều lắm, một là phải bố thí, hai phải trì giới, ba phải nhẫn nhục, bốn phải tinh tấn, năm phải thiền định, sáu phải trí tuệ. Lại còn từ bi, hỷ xả v.v… (giảng ý nghĩa lục độ lược bỏ).

KHAI THỊ
Ngày 17 tháng 12 (Thất 9 ngày thứ năm).

“Tâm thường chiếu soi đạo lý, niệm niệm đều khế hợp chân thường”. Người ngộ rồi thì tất cả động tác đều hợp lý. Người chưa ngộ nhất định làm không đến được, bởi vì họ chưa ngộ tức là tâm địa chưa minh, lý đương nhiên không thể đạt đến được hoàn toàn. Người chưa ngộ cho mình là mình, lấy người là người. Người ngộ rồi thì không thế, lấy mình làm người, lấy người thiên hạ làm mình, vì thế không giống nhau. Các ông hãy nghĩ xem: Lấy ta làm ta thì đương nhiên trước hết chỗ nào cũng đến ta, mặc áo ăn cơm trước hết phải có ta; đương cũng muốn có được mặc áo tốt, ăn uống được ngon; cái gì trước hết cũng phải có ta rồi sau mới đến người. Người ngộ rồi không như vậy, họ tương phản triệt để, mặc áo thì trước hết muốn người mặc, ông không có quần thì họ có thể không lo cho họ mà cởi của họ cho ông mặc; không có áo, họ cũng cởi cho ông; ăn thì cũng muốn người ăn trước cho no, còn mình thì đói, chẳng gấp gáp tí nào. Vì sao vậy? Vì họ ngộ rồi, tâm của họ không giống như tâm ông, tâm của họ là tâm Bồ Tát, người chưa ngộ là tâm phàm phu. Cho nên kẻ phàm phu, người Bồ Tát, trên trời dưới đất sai khác nhau, ấy là do ngộ với chưa ngộ. Nhưng Bồ Tát và phàm phu không giống nhau chỗ nào? Ta nói một thí dụ thì các ông sẽ dễ hiểu. Thí dụ như người nấu cơm là Bồ Tát, người đun bếp là phàm phu; Bồ Tát và phàm phu cùng lo chung một việc, cùng ở một liều, chỗ hành của họ đương nhiên không giống nhau, phàm phu thì muốn sướng một chút, làm việc thì muốn làm bớt đi một ít, chỗ nào thì cũng muốn chiếm lấy tiện nghi, họ chẳng cần để ý đến người khác có động phiền não hay không, động niệm hay không động niệm, tổn phúc hay không tổn phúc, họ chẳng hỏi đến. Bồ Tát không như thế, việc chịu khổ thì tự mình đi làm, nhường cho người phần tiện nghi, ông sung sướng thì họ mới có khổ để chịu, rất sợ người khác động niệm, động phiền não, thà để tự mình tổn phúc. Cũng như người nấu cơm đến lúc nấu muốn người đun bếp nhóm lửa, khi ấy người đun bếp lại đi nói chuyện với người khác, người nấu cơm tính muốn tự mình nhóm lửa thì không kịp mà không dám kêu người đun bếp về, chẳng thà chắp tay lạy người khác nhóm hộ, chứ không chịu để người đun bếp bị động niệm, sợ người ấy không vui. Người đun bếp về thấy đã có người nhóm lửa hộ rồi mà không nói cám ơn, người nấu cơm còn phải an ủi người đun bếp, nói những lời dễ nghe cho người ấy vui. Các ông nghĩ xem: Bồ Tát làm như thế đó, không dám như kẻ phàm phu đâu! Hiện nay chúng ta đều là phàm phu, chưa có vị nào là Bồ Tát, muốn học làm Bồ Tát cũng có thể học cái hạnh của người nấu cơm này.

Năm Tuyên Thống thứ 2 (1910), chúng tôi ba người đều là người bị thỉnh làm Ban Thủ nhưng không làm, mà phát tâm làm việc khổ trong bếp để đền ơn nhà chùa cho nên xin làm chức hành đơn (lo việc bếp núc). Tôi là Tây đơn ba (lo cơm nước), hai vị kia là Tây đơn nhất (lo thức ăn) và Tây đơn nhì (lo việc củi lửa). Chúng tôi khi mới phát tâm làm khổ hạnh, ba người có hẹn với nhau rằng: “Chúng ta đều là người không nhận chức Ban Thủ, nay làm trong nhà bếp không để xảy ra sự rầy ra than vãn gì. Đừng nói đến việc phải sang khách đường (tư pháp của nhà chùa) để cho người ta xử, nói một câu lớn tiếng để khách đường biết đã là không phải rồi”. Hai người kia đều tán thành. Vào kỳ truyền giới, năm trước có ba người nấu cơm, năm ấy thì chỉ có một mình ta. Năm trước ở đại liêu (nhà bếp lớn) có bốn cái lu lớn để đựng cơm thừa cháo thừa, đến ta thì chẳng còn cái lu nào. Một hôm Tăng lên đến hai trăm người đều là những người đến thọ giới Tỳ Kheo. Một hôm nọ, thúng của ta không đủ dùng bèn đi đến người làm rau mượn, anh ta không chịu, ta mượn đi mượn lại đến ba lần mà anh ta cũng không cho. Vừa khi anh ta có việc đi ra ngoài, ta nhân lúc cần phải nấu cơm bất đắc dĩ mới lấy thúng của anh ta vo gạo, còn chưa vo được thì anh ta trở lại nắm vạt áo của ta giật mà nói: “Chúng ta xuống khách đường đi!”. Ta không chịu đi, anh ta cứ lôi mà không nhúc nhích, ta hướng về anh ta rập đầu nói: “Đồng tham! Đồng tham! Đừng xuống khách đường. Chúng ta khi ra khỏi thiền đường đã có hẹn là không bao giờ xuống khách đường để người ta cười chúng ta”, lại rập đầu thêm ba cái nữa, anh ta mới thả ta ra. Một ngày sau anh ta đắp y mang tọa cụ đến liêu phòng ta cầu sám hối. Các ông nghĩ xem: muốn thành Bồ Tát đạo có phải hành cái nhẫn nhục chăng? Các ông hãy phát tâm! Tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 18 tháng 12 (thất 9 ngày thứ sáu).

Người chưa ngộ so với người đã đại ngộ thì tiền đồ khác nhau. Nay nói sơ qua cho các ông nghe, nếu không thì mơ hồ không dễ gì phân biệt. Người chưa ngộ thì mắt chưa mở, như người mù vậy. Các ông thử nghĩ: người có tốt gì đâu? Một chân đạp cứt chó, lấy tay mò lấy còn cho là đồ tốt hay đồ ăn ngon. Trái lại đem một chén cơm lại cho anh ta, anh ta lại sợ các ông trêu chọc, nghi ngờ trong cơm có đồ không sạch. Đưa anh ta vào nhà tiêu, anh ta lại cho là rất tốt, ngồi cũng tiện, đứng lên đưa tay ra thì đều có chỗ tựa, đại tiểu tiện đều tiện lợi, thật là tốt. Đưa anh ta lên chánh điện, anh ta lại nói: “Không đúng!” Bốn bề không chỗ dựa, không biết là nơi nào cả. Lại còn cho đó là chỗ đồng trống, chẳng có chỗ để nương tựa vào. “Không tốt! Không tốt! Hãy tìm cho tôi một chỗ tốt để thân đi!”. Các ông nghĩ xem có đáng tiếc không! Có khổ não không? Đem đồ ngon cho anh ta lại sợ là không sạch, để ở chỗ tốt anh ta lại chê là đồng trống. Vì sao? Vì là người không biết được tốt xấu; ấy là điều khổ não thứ nhất của người chưa khai ngộ.

Lại nữa, đến không biết từ đâu đến, đi không biết đi về đâu, việc này là cho nó là không quan trọng, không nói đến nó. Nhưng hiện tiền cái sắc thân này hôm nay chẳng biết việc ngày mai, muốn lo việc yên ổn trong tương lai thì không làm được. Xác thân này sẽ đến nơi nào cũng không làm chủ được. Sau khi chết lại mịt mù không biết chỗ về. Các ông thử nghĩ: Chết rồi đi về đâu, các ông còn biết chăng? Lên thiên đường cũng không biết, xuống địa ngục cũng chẳng hay, biến trâu biến ngựa cho đến biến cái gì cũng không biết, đó là cái khổ não thứ nhì của người chưa khai ngộ. Nói sơ hai loại này, nói thêm nhiều thì không đủ thì giờ. Các ông nghĩ xem: hai cái khổ não này cũng đủ cho các ông chịu khổ rồi! Nếu không tự ngộ thì ai sẽ giúp mình mở mắt ra đây!

Không khai ngộ thì giống như kẻ mù sau trước đều chẳng có chỗ đi. Nguời đã khai ngộ thì khác, lúc ngộ mới biết: “Trước kia ta là người mù mà chẳng biết mình là người mù, hôm nay mới hiểu ra được. Ta đã biết rồi, mở mắt ra nhìn mọi người đều là người mù tối thì ôi quả đáng sợ!”. Các ông nghĩ xem: Người ấy một khi đã mở mắt rồi thì đâu còn chịu ở trong cầu tiêu nữa? Cứt trâu phân chó đâu còn không biết sao? Đến lúc này thì về có đường, đi có chân chẳng phải như lúc mịt mù không biết chỗ về. Nay thấy chúng sinh vẫn là kẻ mù trong biển khổ, bản thân mình đã từng như thế, cho nên mới phát đại tâm cứu độ cho họ. Đến lúc này mới biết thương tiếc và quý cái sắc thân này.

Đối với các ông nay đang dụng công phu mà chưa ngộ thì cho cái thân này là đồ gì? Là “đồ hôi thúi! Đau thì cứ cho nó đau, đói nó lạnh ấm không có gì quan trọng, hư hoại thì cho nó hư hoại, cùng lắm là đổi một thân khác cũng được. Muốn ta buông bỏ công phu để săn sóc cái thân này thì không thể được!”. Vậy mà tại sao ở trên nói đến lúc ngộ còn muốn thương tiếc thân thể, quý trọng thân thể? Vì muốn thân thể này vun trồng cái vạn đức trang nghiêm của chúng ta, cần phải thực hành cái lục độ vạn hạnh của chúng ta. Vì chúng sinh khổ, ông muốn cứu họ, ông không hành cái hạnh Bồ Tát thì làm sao cứu được họ? Không kết duyên với họ thì đâu tin ông hành động Bồ Tát? Kết duyên với chúng sinh có dễ được chăng? Tỷ như: Người đã ngộ rồi hành đạo Bồ Tát, đi đến một nơi kia thấy một người nữ bèn nói: “Chị hai, chị niệm Phật không”. Người nữ ấy quày đầu trở lại nhìn và nói: “Cái ông thầy chùa xấu này, ai là chị hai của ông? Ông còn gọi tôi nữa tôi sẽ cho một trận!”. Người hành đạo Bồ Tát nói: “Tốt! Mời chị đánh cho, mà xin đánh cho mạnh một tí, đánh mỏi tay thì xin nghỉ mệt rồi hãy đánh nữa!” . Bị cô ta đánh cho một trận rồi mừng rỡ mà đi, lại đến một nơi khác hành đạo Bồ Tát. Tóm lại suốt ngày bị ba người đánh, năm người mắng đó là việc tốt, là có lời. Giả sử suốt ngày không ai đánh, không ai mắng là không tốt rồi, là lỗ vốn rồi! Hành đạo Bồ Tát phải như thế, nếu không như thế làm sao kết duyên với chúng sinh? Nếu không có duyên với chúng sinh thì muốn độ họ cũng không được? Điều này chẳng phải ta đặt ra, lúc đức Phật còn tại thế, chúng sinh vô duyên, Ngài cũng chẳng độ được nữa huống là Bồ Tát? Lúc Phật còn tại thế có chúng sinh ở quốc độ nọ, Phật ở nhân địa lâu nay chưa kết duyên với họ, Phật ở trên trời, họ ở dưới đất, Phật xuống đất họ lại xuống nước, chung qui chẳng có lúc nào họ gặp được Phật. Phật ra đời độ chúng sinh cũng chẳng độ được họ, Phật đi đến quốc độ họ, họ cũng chẳng chịu biết đến Phật. Nhưng mà Tôn giả Ca Diếp trong kiếp xưa lúc làm tiều phu thì họ làm ong. Tôn giả đã từng đứng trước ổ ong niệm Phật một tiếng, nên với họ có chút duyên ấy, cho nên Phật bảo Tôn giả Ca Diếp đi độ họ, bấy giờ họ mới được thọ pháp. Mọi người các ông hãy nghĩ: Kết duyên với chúng sinh có phải là việc rất cần chăng? Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 20 tháng 12 (Thất 10 ngày đầu).

Chánh pháp của Phật rất khó gặp. Chúng ta là chúng sinh khổ não, nay có thiện căn được thọ làm thân người, lại phát chút đạo tâm tin tưởng đạo pháp chăm lo tu đạo, như thế ắt có sự vun trồng, bồi đắp từ nhiều kiếp rồi, nếu không thì quyết chẳng thế nào đến được nơi này. Nhưng thiện căn tuy có mà cảm không được chánh pháp, lại nhầm lẫn nhận lấy những pháp ngoại đạo, ta thấy khổ lắm! Thật chẳng bằng một người không tu tâm. Tại sao vậy? Người không tu tâm, hiện tại tuy không tu, tương lai một khi gặp cơ duyên cảm thọ chánh pháp, lại có thể phát tâm tu hành thì nhanh chóng có thể chứng quả. Một số ngoại đạo kia tuy cũng có dụng công, cái dụng của họ là tinh, khí, thần; tu là tu tiên đạo như: Địa hành tiên, Phi hành tiên, Không hành tiên, Thiên hành tiên, Tuyệt hành tiên v.v… có mười loại tiên. Trong đó hai thứ Cửu công đạo, Tiên thiên đạo là có thể gần với Thiên đạo, cảm quả tuy được Thiên đạo, nhưng họ cầu thọ chứ không cầu lạc; ấy là ở trời mà bỏ trời, không giống tám thứ tiên kia. Cho đến khi tu thành rồi, nơi ở là trong động Thất Kim Sơn là vùng núi non không người đến, thọ được mười vạn năm. Tại sao lại ở nơi này vậy? Bởi vì, cái tu được họ không cho mọi người biết, sợ ở chung một chỗ với người, truyền đạo thì lại cứ một thầy một trò, không có người thứ ba, ấy là tại không truyền đạo, họ dụng công chỉ là một mình họ mà không cùng tu với người khác, vì vậy tu thành công rồi mà vẫn còn người sống một mình trong Thất Kim Sơn. Hai thứ đạo này tại sao lại tu thành công gần với trời vậy? Khi họ tu nhân thì có tâm lợi người, có tâm làm công đức nhưng chỉ cầu được trường thọ mà dứt dục, vì vậy tu thành công so với cõi trời dục giới cùng thọ mà không cùng vui. Kết quả của họ trong Thất Kim Sơn trên trời lục đạo, thọ mệnh nếu hết vẫn phải đọa lạc và cũng có thể xuống địa ngục. Tại sao vậy? Vì họ chỉ tin đạo họ tốt mà không tin đạo khác. Bảo họ tin Tam bảo họ không những không tin mà lại còn muốn hủy báng, vì nếu họ không báng Tam bảo thì họ không đứng vững được, cho nên họ gieo cái nhân hủy báng này tương lai nhất định chịu lấy quả báo. Những người như thế kiếp xưa gieo nhân tốt, kiếp này không gặp chánh pháp, lại lầm nhận đủ thứ tà kiến thì tương lai sẽ cảm quả không tốt. Ta thật thương tiếc cho họ đến chảy nước mắt. Tu tâm như thế không bằng chẳng tu. Quý thầy hôm nay ở đây tham Tối thượng thừa thiền, tu chánh pháp của thập phương chư Phật, hành tâm hạnh của thập phương chư Phật. Chẳng cầu khai ngộ cứ hành như thế này, cái chánh phạm chánh nhân này rất quý, dùng miệng ta tán thán cũng không hết được! (Tiếp theo là giảng một công án về giáo hóa ngoại đạo đã có ghi trong Tự Hành Lục của Ngài nên lược bỏ).

KHAI THỊ
Ngày 21 tháng 12 (Thất 10 ngày thứ nhì).

Thất đã đả được chín kỳ rồi. Việc này trong Thiền tông nói ra rất khó, lại không có tướng để thấy được, không hình để biểu lộ được; việc thế gian thì có tướng để thấy, có hình để khảo sát thì tự nhiên dễ làm.

Nhưng nói việc thế gian dễ cũng chẳng phải dễ, các ông xem: người học làm thợ mộc phải học ba năm, năm năm mới thành, lại học thành rồi có khi còn không ai mướn. Lại nữa học làm thợ mộc nhất định phải cầm búa không được cầm kéo, học thợ may thì nhất định phải cầm kéo không được cầm búa. Lại học thợ may cũng phải học đến ba năm, nếu không cũng học không tốt, ấy cũng là việc khó vậy!

Các ông xem việc của Thiền tông mới thực là dễ dàng! Thấy là thiền, không thấy cũng là thiền, nắm được là thiền, không nắm được cũng là thiền, chân bước tới là thiền, bước lui cũng là thiền. bất cứ dụng công hay chẳng dụng công đều là thiền, thiện niệm ác niệm đều không rời thiền.

Như nói ăn cơm mặc áo là việc rất dễ, nhưng tham thiền so với mặc áo ăn cơm còn dễ hơn nhiều. Hễ cứ tiếp xúc chỗ nào thì chỗ đó là thiền! Chỉ trong khoảng một khảy móng tay là đã dư thời gian để ngộ rồi! Từ nghi đến ngộ không cách đến bề dày của một tờ giấy thì làm sao nói xa?
Các ông nghĩ xem: Cái việc dễ như vậy mà các ông lại xem nó là việc khó. Việc này các ông chỉ cần ngay đó thừa đương là được!

Cũng như cầm búa cũng có thể làm thợ may, cầm kéo cũng có thể làm thợ mộc được, thế thì dễ biết bao! Giản tiện biết bao! Nhưng các ông trái lại cứ cho nó là việc khó quá sức, rồi lại lấy việc khó của thế gian mà cho là việc dễ.

Thường thường có người cống cao chẳng chịu việc thực hành của họ, cứ cho người nào cũng chẳng bằng mình, ta so với người đều giỏi hơn; loại người như thế không thể được xem là người trong Thiền tông đâu! Nếu muốn là người chân thật trong Thiền tông thì họ tuyệt không được lấy việc đánh chuông bảng cho hay, đánh hương bảng cho giỏi mà cho là người trong Thiền tông đâu! Như thế là làm sai lạc rồi! Thế lấy gì làm việc trong Thiền tông?

Đối với người căn cơ trung đẳng mà nói, thì trước tiên từ chỗ không biết dụng câu thoại đầu mà nói, thí dụ như: Câu thoại đầu chẳng biết dụng thì cách dụng như thế nào? Đến khi biết dụng rồi thì cách dụng như thế nào? Dụng quen rồi thì cách dụng như thế nào? Cho đến công phu đắc lực, bắt đầu chuyển vào giai đoạn thâm sâu thì cách dụng như thế nào? Tóm lại tất cả các giai đoạn dụng công kể trên đều phải minh bạch rõ ràng.

Đối với người căn cơ thượng đẳng thì từ địa vị phàm phu phải làm việc gì, đến địa vị bậc Thánh phải làm việc gì, chưa ngộ phải làm việc gì, ngộ rồi phải làm việc gì, cũng đều phải thật rõ ràng thì mới kể là người trong Thiền tông được.

Thuở trước ta làm thanh chúng thấy có nhiều người “làm đầu bỏ đuôi”, nói chuyện với nhau phê bình: Ban Thủ này quy củ không thuộc, Ban Thủ kia giảng khai thị không hay, lại còn dây dưa lề mề, Duy Na là người sơ tham, khinh khi người ta đủ thứ, họ tự cho mình hơn hẳn người khác. Đến khi nhà mời họ nhận chức sự thì họ làm rối bời lộn xộn, suốt ngày làm người ta phải phì cười. Ta thấy nhiều lắm! Cái loại người này có còn được xem là nhân tài của Thiền tông không? Đại khái các ông cũng còn khá nhiều người có cái tâm lý này. Loại người này ta xin hỏi: các ông khinh rẻ người ta, các ông biết hai chữ “cảnh sách” của hương bảng lớn như thế nào chăng? Cái bình trà phải cầm như thế nào chăng? Các ông còn biết chăng? Những việc này mặc dù chẳng phải chánh hạnh của Thiền tông cũng là pháp trợ đạo của Thiền tông. Tại sao vậy? Đánh hương bảng được hay, người bị đánh ngay đó liền khai ngộ. Cái cách cầm bình trà người ta nhìn thấy cũng được ngộ. Mắt thấy, tai nghe, thân xúc chạm đều là nhân duyên ngộ đạo. Xưa kia Linh Vân thấy hoa đào nở mà ngộ đạo, Hương Nghiêm nghe tiếng trúc mà ngộ đạo. Những phép tắc lớn nhỏ trong Thiền tông còn có thể điểm nào qua quýt chăng? Ngày trước ta ở chùa Thiên Đồng là Duy Na, trong Thiền đường có một hai người “làm đầu bỏ đuôi”, sớm đã nghe họ nói: “Ồ thiền đường có gì hay đâu? Lời Ban Thủ giảng không hay, quy củ Duy Na lại không thuôc, thực là làm hỏng việc của người ta! Vậy những phép tắc này có cần phải học nữa không? Chỉ là việc không đáng kể!”. Ta biết họ có lòng dạ này. Ta hỏi họ: “Còn thích ở thiền đường không?”. Họ nói: “Tôi thích ở”. Ta nói: “Quy củ ông còn giữ được không?”. Họ nói: “Giữ được!”. Ta nói: “Tốt lắm!”. Hôm ấy lúc đánh hương bảng vào giờ ngọ để khai tịnh uống trà, chén trà đưa vào tay họ, họ nhìn qua hai bên, ta bèn đến đánh cho một trận hương bảng mà chẳng nói một lời với họ. Ấm trà đến rồi họ cũng không biết làm sao nhận trà, ta lại đập thêm một trận hương bảng nữa; uống trà thì gục đầu xuống uống, ta lại cho thêm một trận hương bảng; uống xong một tuần trà đánh được năm, sáu chục hương bảng. Ta quay đầu lại hỏi: “Ông còn thích ăn thêm hương bảng nữa không?”. Họ vô cùng hổ thẹn nói: “Xin Duy Na từ bi cho, nhờ trận hương bảng này của thầy, tôi mới thấy được chỗ thâm sâu của thiền đường, tôi mới thấy được về lúc trước là không đúng; từ nay về sau phép tắc lớn nhỏ gì tôi cũng phải thành thực mà học lấy”. Các ông nghĩ: Loại người này có đáng thương hay không? Họ đã chịu lấy một phen thống khổ này của ta thì mới biết được chỗ đáng quý của thiền đường, mới từ bỏ cái bụng trống rỗng mà kiêu căng ấy của họ đi: quả là một kẻ đại khổ não! Vì sao họ như thế? Phải biết là: Người mới phát tâm ở thiền đường nếu không bỏ cái “ngã kiến” đi thì đều có tâm này; cũng không có gì lạ họ cả, hoàn toàn không phải chỉ có người đó mới là như vậy, tôi xưa kia mới vào thiền đường cũng thấy nhiều người như thế.

Ta thọ giới rồi vào thiền đường, tự mình cứ cho là ở thiền đường nhất định phải liễu sinh thoát tử mới ra khỏi cổng thiền đường. Không ngờ tới chốn thiền đường thấy người ta chỗ này cũng sai chỗ kia cũng sai, ngồi hương buồn ngủ, khai tịnh rồi hoặc là nghỉ hoặc là như học trò gặp lúc thầy đi vắng, không ba hoa thì cũng lên mặt làm thầy, hôm nay thấy như thế, ngày mai cũng thấy như thế, ngày thứ ba lại chẳng thích thấy nữa, không muốn thấy lại, bấy giờ trong tâm phiền toái thật là khó chịu. Cách làm người này của ta không giống cách làm người của người khác. Lúc ở ngoài đời thấy người ta còn nhiều điều không tốt nên ta mới xuất gia; sau đến Phổ Đà Sơn thấy một số người xuất gia mặc quần áo trắng, vớ trắng, dù tây, ta lại thấy không tốt bèn đến Phạm Âm động xả thân (tự tử), ở trên đời ta thấy không tốt nên ta mới không ở đời, ta là loại người như thế. Đến chốn thiền đường lại thấy những điều không tốt như vậy mới tự mình nghĩ lại: “Ta vì sao mà xuất gia? Có phải vì xem lỗi của người ta mà xuất gia, hay là kiếm ăn không được mà xuất gia?”. Tự mình hỏi mình, rồi tự mình nói: “Tất cả đều không phải, vì đạo mà xuất gia”. Ta lại tự mình khảo cứu: “Đã vì đạo mà xuất gia thì phải lo việc đạo! Tại sao phải đi nhìn lỗi của người khác?”. Tự hỏi như thế mới tự mình trách cứ mình, cái này không đúng, cái kia không đúng, tất cả đều tự mình không đúng, tự mình làm quấy làm chướng ngại chính mình. Cho nên người mới phát tâm đều có cái không đúng này; mặc dù là có nhưng cần phải tự mình giác ngộ, nếu không giác ngộ thì suốt đời không thể làm người được. Nếu quả các ông cố giữ lấy cái “ngã kiến” mà không bỏ đi, ta nói: các ông không phải nhân tài của Thiền tông mà là kẻ “làm đầu bỏ đuôi”, sợ nhất định chẳng sai đâu. Mọi người hãy phát tâm tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 22 tháng 12 (Thất 10 ngày thứ 3).

Chúng ta đều là người đã thọ qua ba đại giới (gồm Sa Di giới, Tỳ Kheo giới, Bồ Tát giới) thì phải gánh vác trách nhiệm đối với sự nghiệp của Bồ Tát mới đúng. Bồ Tát thì hành việc gì? Bồ Tát lấy lục độ vạn hạnh làm sự nghiệp của mình. Hạnh Bồ Tát có lục độ gồm: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ.

Bố thí độ là độ cái tham vì thân, khẩu, ý đều tham. Tỷ như: thấy một cái áo của người quá đẹp, trong lòng muốn có cái áo ấy là ý tham; miệng nói “anh bán cho tôi cái áo này đi!”, đấy là khẩu tham; lấy tay sờ một cái, ấy là thân tham; cái loại thân, khẩu, ý tham này không có bố thí độ thì không độ được. Tại sao vậy? Khi thấy cái tốt của người ta, người hành hạnh bố thí không những không nài hỏi người ta mà tự mình xem có cái gì tốt, hoặc áo hay quần, mà có người muốn thì họ còn mang đến bố thí nữa, họ có tâm bố thí nên cái thân, khẩu, ý tham lúc đó tiêu diệt ngay, bố thí có cái công hiệu như vậy.

Nhưng tham và yêu không giống nhau. Tại sao không giống? Yêu vì tham không được nên thành yêu, cái yêu ở trong lòng như keo như sơn, bố thí không thể trừ được, không có giới thì không có cái gì trừ được nó.

Nói đến chữ giới này thì lại càng tiếc cho người đời nay! Chỉ biết tham lam lấy một lúc sung sướng, mà không biết phải chịu khổ bao nhiêu đại kiếp. Phải hiểu được: chúng ta không thể phạm Thánh giới. Tất cả sát, đạo, dâm, vọng đều là Thánh giới. Tại sao gọi là Thánh giới? Phải biết thân thể của ta là Phật thể. Tại sao vậy? Phật dạy: “Hết thảy địa, thủy, hỏa, phong là thân của ta”. Hết thảy địa, thủy, hỏa, phong đã là Phật thể thì cái thân thể của ta cũng do địa, thủy, hỏa, phong mà thành, nên cũng là Phật thể vậy. Giới của Phật chế ra chính là giới của ta. Cho nên gọi là Thánh giới vậy. Thí dụ như phạm dâm giới là phải dùng thân phạm, thân ta là thân Phật, ta phạm giới là phạm Phật giới.

Các ông nên biết: Cái Thánh giới này một khi đã phạm rồi thì quả báo của nó thật đáng sợ! Không phải nói để dọa các ông, phạm giới sát, đạo, dâm, vọng thì ít nhất cũng một đại kiếp ở địa ngục A tỳ, nặng một tí thì ba đại kiếp. Các ông nghĩ xem: Thời phạm giới không quá nữa khắc mà thọ báo cả ba đại kiếp, vậy là có ít không? Tỷ như phạm giới sát, một dao thôi thì có bao lâu đâu? Ăn trộm đồ của người ta thường không quá một tiếng đồng hồ? Phạm giới dâm thì có sung sướng được bao lâu đâu? Giới vọng thì một câu nói có được bao nhiêu thì giờ? Mà chiêu lấy quả báo từ một đại kiếp, cho đến ba đại kiếp ở địa ngục A tỳ; một ngày một đêm ở ngục này bằng tám vạn đại kiếp ở cõi trời Phi phi tưởng, một ngày một đêm ở cõi trời Phi phi tưởng bằng tám vạn kiếp ở nhân gian, tính như thế thì có đáng sợ chăng? Như phạm giới một tiếng đồng hồ mà chịu tội một tiếng đồng hồ thì còn được, nhưng sung sướng một tiếng đồng hồ mà chịu quả báo lâu dài như thế, người có chút tri thức nghe ta nói thế rồi còn có người chảy nước mắt không? Ta thật thương hại các ông! Chảy nước mắt vì các ông! Vì các ông chỉ biết sung sướng mà không biết tương lai phải chịu quả báo đau khổ, đáng thương cũng là ở chỗ ấy.

Giới tại sao có thể độ được cái khổ của bao đại kiếp này? Tỷ như có một người nữ trước mặt ông, tâm ông động rồi thì nhanh chóng phạm thôi; nhưng ở chính hai người lại lấy một miếng ván ngăn cách ra thì có muốn phạm cũng chẳng được. Miếng ván này cũng giống như giới vậy, cho nên trì giới được thì có thể tách rời mọi tội lỗi và lúc ấy tội lỗi liền tiêu diệt. Cho nên dù cái yêu đắm đuối nhất, đừng sợ như keo như sơn, có giới rồi thì có thể độ nó được. Cho nên các ông có thể trì giới thì chẳng phạm giới và rồi chẳng phải chịu lấy cái quả khổ. Lại còn có nhẫn nhục độ sự sân hận, tinh tiến độ biến nhác, thiền định độ tán loạn, trí tuệ độ ngu si. Lục độ này là hạnh nên làm của Bồ Tát. Các ông là người đã thụ đại giới Bồ Tát rồi, tuy không hoàn toàn là Bồ Tát thì cũng nên học làm Bồ Tát. Đây là điều rất cần thiết! Nếu các ông phát tâm thực hành thì phải tham thiền, hễ công phu thành khối tức là trì hết tất cả Thánh giới vậy. Trong giới luật gọi là Thiền giới. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 23 tháng 12 (thất 10 ngày thứ 4).

(Giảng công án Phật Thích Ca xuống biển lấy ngọc Như ý. Lược bỏ).

KHAI THỊ
Ngày 24 tháng 12 (thất 10 ngày thứ 5).

(Giảng công án tự mình phát nguyện. Đã ghi trong Tự Hành Lục. Lược bỏ).

KHAI THỊ
Ngày 25 tháng 12 (Thất 10 ngày thứ 6).

(Giảng những truyện tích ở chốn Tùng Lâm và Kỳ Viên. Lược bỏ).

KHAI THỊ
Ngày 26 tháng 12 (Thất 10 ngày thứ 7).

(Giảng nguồn gốc chính pháp. Tổ 24 Tây Trúc gặp nạn, Sơ Tổ, Nhị Tổ và Lục Tổ Đông Độ gặp nạn. Lược bỏ).

KHAI THỊ
Ngày 27 tháng 12.

KHẢO CÔNG PHU VÀ GIẢI THẤT:

Sư cầm roi trúc nói: “Mười thất đã xong, triệt ngộ chuẩn đích, nhốt lại thả đi, tuyệt gốc tuyệt tích. Thử hỏi: Trong kỳ thất còn có người nào chiêm bao chăng? Nếu không, ấy là kẻ chết; nếu có, ấy là người tục, mọi người kiểm điểm xem!” (Độc giả chớ nên đuổi theo lời nói, cần phải tự ngộ mới được).

Một lúc sau Sư hét lên rằng: “Đại sự chưa minh tâm đã nhác! Lúc nào tu lại thuyết vô sinh? Nếu được chẳng bị thường tình chuyển, uyên nguyên biển đạo càng thấy sâu. Nếu mà không ngộ thì hãy thượng điện (tụng niệm 2 khóa sớm chiều), quả đường đi!”. (Ý nói là cứ tiếp tục làm việc sống thường ngày đi!) GIẢI THẤT!

HẾT

(Nguồn:http://quangduc.com)

#49 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 13/09/2011 - 19:05

TIỂU SỬ THIỀN SƯ LAI QUẢ
Sư tên Diệu Thọ tự Lai Quả, hiệu là Tịnh Như, con nhà nông họ Lưu, quê ở huyện Hoàng-Cương, tỉnh Hồ Bắc.

Năm lên bảy, Sư nghe vị Tăng bên cạnh tụng câu "Vô trí diệc vô đắc" trong Tâm Kinh, Sư có tỉnh ngộ.

Năm 12 tuổi, Sư có chí thoát trần, trốn đi xuất gia, bị người anh tìm bắt trở về.

Năm 15 tuổi, Hòa Thượng Đại Trí dạy lấy niệm Phật để liễu thoát sanh tử, Sư bèn niệm Phật thành phiến, cho đến ngủ chiêm bao cũng vẫn lớn tiếng niệm Phật. Hòa Thượng nói: "Đây là chân thật niệm Phật. Vậy niệm Phật là người nào? Ông biết không?". Sư không đáp được. Hòa Thượng nói:

"Đợi ông tìm ra người niệm Phật, ta sẽ nói chuyện với ông."

Năm 18 tuổi, Sư cắt gan trị bịnh cho cha.

Năm Ất-Tî (1905 TL) Sư 25 tuổi đi hành hương ở núi Phổ Đà, gặp một vị tăng khổ hạnh, Sư cảm kích bèn xuống tóc ở núi Bảo Hoa, Sư bị Chư Tăng trong Chùa hành hạ khổ sở chẳng xiết, trốn đến bờ sông, nhiều ngày bị nhịn đói, cùng với chó hoang ở chung, muốn đâm đầu xuống sông tự vận, bỗng gặp vị Tăng ở Chùa Di Đà ở Kinh Khẩu cứu kịp. Sư theo vị Tăng ấy đến Chùa Kim Sơn, song vì chưa thông thuộc quy củ nên một hôm bị đánh hơn bốn trăm hương bản.

Ngày 26-9 năm Quang Tự thứ 34 (1908 TL), Sư nghe tiếng mõ khai tịnh sau thời khóa công phu buổi chiều tối, hoát nhiên thoát-lạc như buông gánh nặng ngàn cân, đánh mất cái mũi mẹ sanh, khóc to chẳng nín, hư không trên trời, nước chảy dưới đất, tất cả trệ ngại hoàn toàn tiêu hết, cơ dụng hiện tiền có hỏi liền có đáp. Hòa Thượng, Ban Thủ đến tận nơi khen ngợi.

Một hôm Từ Bản lão nhân đưa cái khăn tay ra làm thế rửa mặt, hỏi Sư:

"Là cái gì?". Sư nói: "Đã dư chiếc khăn tay rồi.". Từ lão nhân chẳng đáp mà lui. Sư từ đấy càng thận trọng.

Sư từng được sung chức phạn đầu, hết sức phụng sự nhà Chùa một cách tiết kiệm. Thủ-tọa khuyên Sư đảm nhiệm chức vụ ban thủ. Sư tự thấy mình còn kém bèn trốn sang Chùa Cao-Mân, cũng bị đảm nhiệm chức vụ ban thủ. Sư bỗng có ý du phương di ẩn tu ở núi Chung Nam, gặp Cư Sĩ Cao Hạt Niên hối thúc trở về Nam.

Sư trở về Chùa Cao Mân, Tổ Nguyệt Lãng sai Minh Hiên lão nhân chọn ngày truyền pháp cho Sư. Lúc lâm chung, Tổ nắm tay buộc Sư phải phát nguyện:

"Sấng làm người Cao Mân, chết làm quỷ Cao Mân".

Sau khi nhậm chức trụ trì, Sư khôi phục lại quy chế cũ, lấy việc kiến thiết sửa sang bảo tháp, đại điện, thiền đường, diên thọ đường, như ý liêu, năm công trình lớn nầy làm chí nguyện, song cho đến khi tịch mà chưa viên mãn. Sư mong ước thừa nguyện lực tái lai để tiếp tục công trình cho hoàn tất. Chỉ có Cổ Lương Đình là làm xong, phong cảnh thanh-u, làm tăng thêm pháp hỷ cho người.

Sư thuận theo lời khẩn thiết thỉnh cầu của các nơi, y theo lệ trước của Triệt Tổ Thiền Tuệ soạn quyển Tự Hành Lục ghi lại đầy đủ hành trạng cả một cuộc đời khôi-vĩ dị thường của Sư. Quyển sách nầy đã được ấn hành phục trong bộ Ngữ Lục.

Sư thân hình cao lớn trắng trẻo, mắt nhỏ, tiếng to. Từ 50 tuổi về sau, Sư hành hạnh đầu đà, và nếu chí mình chưa toại thì chẳng cạo bỏ râu tóc để đau đáu nhớ mãi chí nguyện của mình, nhưng nghi biểu lại càng oai nghiêm, tánh tình cứng cỏi chân thật, gặp việc thì cố gắng hết sức làm, khiến cho ý không tốt của người tự tiêu tan. Cả đời Sư chỉ lấy hoằng pháp, ngộ đạo làm nhiệm vụ, đánh hét đều dung, chuông trống xen nhau, chưa từng có chút lười mỏi. Đương thời, Hòa Thượng Hư Vân là người được sự trọng vọng trong Tông Môn, tuy lớn tuổi hơn Sư mà cùng với Sư khế hợp không gián cách.

Có một lần, nhà Chùa cần muốn hóa duyên để sửa tháp, Sư nhóm họp đồ chúng lại luận bàn, trong số chúng có mấy người phát nguyện lãnh trách nhiệm đi các nơi hóa duyên. Có một vị Tăng đến Vũ Hán cảm động sự phát tâm của thí chủ bèn tự chặt cánh tay để đền đáp, mọi người xa gần đều kinh ngạc ngợi khen.

Sư tịch ở Thượng Hải, linh cữu đưa về Chùa Cao Mân, làng lân cận có một bà lão Phật tử tự chặt một ngón tay sai con mang đến trước linh cữu cúng dường. Chánh pháp cảm người vừa sâu rộng vừa lâu dài nên người nhờ sự giáo hóa của Sư mà làm được như vậy.

Sư sanh vào giờ dần, ngày 2-7 năm Tân-Ty (1881 TL) nhằm năm Quang Tự thứ bảy, diệt độ vào giờ dần, ngày 17-10 năm Quý Tî (1953 TL). Sư thọ 75 tuổi, tăng lạp 49 xuân, giới lạp 49 hạ, pháp lạp 39 thu, trụ trì 35 đống.

Ngày mùng một tháng 11, linh cữu từ tinh thất ở Thượng Hải được đưa về Chùa, mùng 8 tháng chạp trà tỳ, bốn chúng vân tập đau buồn thương tiếc như đưa đám ma cha mẹ. Xá-lợi rất nhiều, sáng như lưu ly năm màu chói lọi. Giờ Thìn ngày 4-4 năm sau nhập tháp rồi cất đình ở bổn tự (Cao Mân) để thờ tháp Xá Lợi.

(Nguồn:tuvien.com)

#50 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 14/09/2011 - 12:29

TRUNG PHONG PHÁP NGỮ
LỜI ĐẦU SÁCH
Quyển TRUNG PHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ của Thiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, in trong Tục Tạng Kinh, tập số 122.

Nội dung sách tấn người học lập chí lâu bền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghi bùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử. Vì thế, Ngài cực lực bài xích cái thói quen tai hại của người học muốn dùng tri giải để hiểu Phật pháp, thiền đạo, làm chướng cửa ngộ, nhất định không thể nào giải quyết được việc lớn sanh tử, mà trái lại còn thêm lớn ngã kiến, kết chặt gốc rễ luân hồi. Lời khai thị thống thiết đầy nhiệt tình của Ngài có sức thúc giục cảnh tỉnh rất là mãnh liệt khiến người học vừa phấn chí mình, vừa cảm tấm lòng từ bi chỉ dạy của Ngài, mà dốc lòng tinh tấn hành đạo.
Thiền Sư Trung Phong, tên Minh Bổn, họ Tôn, quê ở Tiền-Đường, Hàng Châu, sanh năm Cảnh-Định thứ tư (1263 T.L.) đời vua Lý-Tông triều Nam-Tống.
Sư nối pháp thiền-sư Cao-Phong Nguyên-Diệu. Vua Nhân-Tông nhà Nguyên phong hiệu cho Sư là Phật-Từ Quảng-Huệ thiền-sư và ban cho cà sa Kim-Lan.
Ngày 14 tháng 8 năm Chí-Trị thứ ba (1323 T.L.) đời vua Anh-Tông, Sư thị tịch. Vua Văn-Tông ban thụy là Trí-Giác Thiền-sư. Vua Thuận-Tông ban thêm hiệu là Phổ-Ứng Quốc-Sư.
Sư có trước tác bộ Quảng Lục 30 quyển, đã được biên vào Tích-Sa Đại Tạng Kinh tập số 599.
PHẦN I:
1. KHAI THI ĐỔ CHÚNG

Thiền-sư Phật-Ấn Liễu-Nguyên thống thiết dạy sơ lược như sau:
"Một niệm tịnh tâm cuối cùng thành chánh-giác. Từng bước chẳng nghỉ, ba-ba què đi xa ngàn dặm. Căn khí tuy có lợi độn cạn sâu, song sự thành công chỉ ở tại chỗ phát phẫn lập chí. Tôi nay thống thiết dạy đạo tục nên biết bốn điều dễ, và bốn điều khó.
Cái gì là bốn điều dễ?
1. Chính mình là Phật, chẳng cần cầu thầy khác. Nếu muốn cúng dường Phật, chỉ cúng dường chính mình, là điều dễ thứ nhất.
2. Vô-vi (vô tác) là Phật, chẳng cần xem Kinh, lễ Phật, hành đạo, tọa thiền. Đói ăn mệt ngủ, tùy duyên nhậm vận, là điều dễ thứ hai.
3. Vô-trước là Phật, chẳng cần hủy bỏ hình thể, xa lìa quyến thuộc, núi rừng, chợ búa, nơi nào cũng tự tại, là điều dễ thứ ba.
4. Vô-cầu là Phật, chẳng cần lập công bồi đức,
siêng tu khổ hạnh, hai thứ phước huệ trang nghiêm đều không dính dáng, là điều dễ thứ tư.
Cái gì là bốn điều khó?
1. Tin được là điều khó thứ nhất,
2. Niệm được là điều khó thứ hai,
3. Ngộ được là điều khó thứ ba,
4. Tu được là điều khó thứ tư.
Tin nhân quả có thể nói là niềm tin nhỏ, chẳng thể cho là niềm tin lớn. Vậy mà người nghi vẫn nhiều, người tin lại ít. Người tin mà chẳng nghi, trong trăm ngàn người chỉ có một hai người. Huống chi chóng thấy tự-tánh, nhất siêu trực nhập vào việc Như-Lai. Ngàn kinh muôn luận, các thứ tông tích dị kỳ để lại ở thế gian chỉ vì người không có lòng tin. Chư Thánh từ bi rộng lập phương tiện mở sáng bọn mê khiến họ từ cửa tín mà vào. Bởi vì người có niềm tin mới lập hạnh, do đó niềm tin là một điều khó.
Trong suốt ngày đêm chỉ muốn niệm niệm chẳng quên, lúc đi thì đi niệm, lúc ngồi thì ngồi niệm, lúc cử động, nói nín, nằm xuống, đứng dậy đều niệm, lúc làm việc, tiếp vật cho đến khốn khổ hoạn nạn hiểm nguy cũng đều niệm. Thân như cây khô, như tảng đá, như thây chết, như tượng đất, chỉ tâm tâm ở tại đạo; ứng đáp với người như si, như say; nghe tiếng thấy sắc như điếc như đui. Vì thế dụ như mèo rình bắt chuột, tâm và mắt chăm chú nhìn vào một chỗ, lơ đễnh một chút ắt chuột chạy mất; như gà ấp trứng, hơi ấm cần phải liên tục, gián đoạn một chút là không thể thành gà con được. Vì thế niệm nầy là một điều khó.
Niệm đạo vốn phải gìn giữ lâu ngày, còn ngộ đạo ở tại khoảnh khắc. Lúc nhân duyên chưa chín mùi thời tiết chưa đến cơ hội sa#n sàng nên không thấy được. Nhân duyên đã chín mùi, thời tiết đã đến, tuy hình dáng chẳng tiếp xúc mà bỗng nhiên hiện tiền. Khó nói cái thấy của người đã ngộ cho người chưa ngộ nghe, như người mù từ thuở sơ sanh nói cho họ nghe về ánh sáng mặt trời, họ tuy nghe nhưng chẳng thể biết. Người ngộ không còn đạp dấu của lúc chưa ngộ; như người ngủ thức dậy, bảo người ấy làm lại việc trong mộng, tuy người ấy nhớ mà chẳng tìm lại được. Người tham học phải lấy ngộ làm tiêu chuẩn,vì thế cái ngộ nầy lại là một điều khó.
Chưa ngộ phải thường lo niệm,đã ngộ càng phải giữ gìn như bưng dĩa nước, như cầm vật báu, như giữ tròng con mắt, như đi chỗ nguy hiểm, như đối trước vua, trước thầy. Đây là giữ gìn đạo vậy. Giữ gìn tức là tu vậy. Thấy đạo mới tu đạo, chẳng thấy làm sao tu.
Có người hỏi : Đã ngộ rồi đâu cần tu.
Đáp rằng: Tập khí do nhiều kiếp huân tập không thể nhất thời sạch hết, nên cần phải tu. Tu đến vô-tu sau đó mới đồng với Chư Phật. Vì thế cái tu nầy lại là một điều khó.
Cho nên người chẳng biết bốn điều dễ thì có thể làm lành, mà chẳng thể nhập đạo. Người chẳng biết bốn điều khó thì có thể nói về đạo, mà chẳng thể tiến trên đường đạo".
Trong văn trên Thiền-sư Phật-Ấn nói niệm đạo, tức ngày nay nói tham, nói khán.
Trong bốn điều khó, đầu tiên nói niềm tin là khó. Nói tin là muốn người học đạo tin bốn điều dễ ở trước và bốn điều khó ở sau. Vậy niềm tin nầy chẳng phải dễ được. Thứ nhất là nhờ sức Bát-Nhã sâu dày nhiều đời của chính mình, kế đến là nhờ chánh niệm hằng ngày luôn luôn thống thiết vì việc lớn sanh tử thâm nhập vào xương tủy không có khoảnh khắc gián đoạn. Lòng tin đã như vậy thì câu thoại đầu sở tham như người đói được thức ăn, người rét được áo mặc, dẫu ép buộc buông bỏ trọn chẳng thể được. Tâm tham cứu đạo miên mật thì không có lẽ nào không ngộ, ví như đi đường miệt mài đi mãi ngày đêm có lý nào chẳng đến. Ngộ đó là ngộ bốn điều dễ ở trước. Bốn điều dễ này nếu chẳng phải ngộ nhập thì đều gọi là vọng-giải. Người đời nay có chút tư chất thông minh chẳng đợi ngộ nhập, cứ đem tình thức lãnh hội bốn điều dễ nầy rồi tự cho là thật chứng, bèn bỏ hai thứ phước huệ trang nghiêm, vì cho rằng không dính dáng. Luận đàm lý tột chưa từng chẳng đúng, song chẳng dè chưa từng ngộ nhập nên rơi ở trong tình thức phân biệt, suốt ngày nói ăn mà không no bụng. Vả lại, ngộ đã chẳng chân như người chưa đến nhà, muốn ở giữa đường cất nhà để ở, thì nên hay chẳng nên?
Do đó nên biết, đạo đã chẳng ngộ thì tu rất khó vậy.
Hôm nay, khai thị hậu học chỉ dùng thuyết bốn điều dễ, bốn điều khó của hòa thượng Phật-Ấn thống thiết trình bày. Các Bồ-Tát học Bát-Nhã ở thiền-đường đều là người xa lìa các thứ thụ hưởng thế gian đến đây cam chịu khổ hạnh, ai mà chẳng nói vì việc lớn sanh tử vô thường, thì nỡ nào để năm tháng trôi qua vô ích.
Trong văn nói như mèo rình bắt chuột, lơ đễnh một chút ắt chuột chạy mất, như gà ấp trứng nếu gián đoạn một chút ắt chẳng thành gà con. Lời nầy đáng tin. Mong mọi người đồng phấn chí sớm ngộ. Minh Bổn tôi hạ nầy ngọa bệnh chẳng thể cùng các huynh đệ luận đạo, cho nên dẫn lời nầy để nhắc nhở. Thời gian qua mau như nước chảy, chớ để về sau hối hận.
2. THỊ CHÚNG
Động Sơn qua cầu, Huyền Sa qua núi, Thái Nguyên nghe tiếng tù và, cùng với Thích Ca nửa đêm thấy sao mai mọc đồng một thời tiết, hiện nay ở trên phần các ông không thiếu chút nào!
Xưa hai Tổ Lâm Tế và Đức Sơn, hễ thấy người tham thiền đến, không nỡ lòng dạy bảo, chỉ dùng thủ đoạn (cơ xảo) hét to đánh mạnh, sau nầy thủ đoạn ấy lưu hành chốn tòng lâm, trở thành thường lệ. Thiên hạ tòng lâm nói thiền thao thao mà thật ra chỉ lấy thủ đoạn của Tổ truyền thừa lừa gạt lẫn nhau, khiến cho thuốc hay đến nay thành ra không linh nghiệm.
Tiên sư (Ngài Cao Phong) ba mươi năm thân đứng như vách chỉ lo chữa trị cái việc nầy cho người học, bóp chặt cổ họng không cho ông nói, không cho ông hiểu, cũng không cho ông sanh một niệm thứ hai nào khác. Chỉ hướng lên trên câu thoại đầu, đứng vững gót chân chăm bẳm tham cứu, như kẻ gặp oán địch, như cứu lửa cháy đầu, ngoài bặt cảnh duyên, trong quên tình thức, hầu đợi ông như hạt đậu nổ trong tro lạnh, chết đi sống lại. Ông nếu chưa đến thời tiết nầy, thì quyết chẳng chịu đem ngữ ngôn tương tợ dẫn người đi lầm đường. Phải biết sanh tử vô thường là việc lớn, há người căn khí cạn cợt có thể vượt nổi ư? Người đời nay chẳng hiểu chỗ kiến lập của Phật Tổ thuở xưa, luôn luôn đuổi theo tình cuồng, thức vọng, mở miệng bèn muốn vượt qua Phật Tổ, khi xem đến chí hướng đạo của họ thì không có nửa điểm chân thật chủ tể. Mới đề được câu thoại đầu trong chốc lát, được chút thuần thục liền tự vui mừng, vừa bị hôn trầm, tán loạn cướp đoạt bèn nói căn độn nghiệp sâu. Tình cờ gặp phải vài điều trái ý trước mắt thì tức giận nghiến răng, niệm niệm chẳng dứt. Hoặc nghĩ bậy, tưởng xằng, khởi diệt muôn thứ mà tự chẳng biết, cuồng loạn nằm trong tâm mà tự cho rằng người hành đạo, lý phải như vậy. Trải qua ba năm, năm năm đã chẳng tương ưng, liền sanh tâm lui sụt, bỏ vào trong cái vỏ vô sự cam chịu luân hồi, hạng người như thế rất nhiều. Hoặc chẳng như thế, bèn đem ý thức săn lấy những lời của các thiền sư giả mạo từ xưa đến nay lừa dối hiền thánh, muôn điều tạo tác đều là hư-giả đọa-lạc biên kiến, trọn chẳng tự giác.
Muốn cầu một chỗ ổn thỏa, thì hai mươi năm, ba mươi năm chẳng biến chẳng đổi, hướng vào trong bổn tham, chẳng dính với thức trần, lấy ngộ làm cực tắc (cùng tột) như đãi cát tìm vàng. Tòng lâm pháp đạo ngày càng suy đồi, ông có biết chăng? Hôm nay mở to đôi mắt hướng lên tuyệt đỉnh cô phong, thọ người tín thí cúng dường, huống là tự mình cô phụ cái danh tự người hành đạo mà còn cuồng vọng biếng nhác chẳng tự kiểm điểm, đâu biết mai kia trôi giạt vào loài súc sanh chẳng ăn nuốt lẫn nhau kết nghiệp vô gián ư? Người xưa nói: "Tam đồ lục đạo từ vô lượng kiếp đến nay chẳng phải không từng trải qua, đời nay không biết trồng hạnh lành gì mà được gặp nhau dưới chiếc ca-sa, nếu chẳng sớm ly tình tuyệt lự bỏ ngủ quên ăn, thời giờ trôi qua, lấy gì nương cậy".
Núi này từ thuở khai mở đạo tràng đến nay, vào mùa đông lạnh lập kỳ hạn tham thiền. Các ông vào thiền kỳ nầy ắt muốn tìm cái lộn ngược (ý nói là triệt ngộ), chẳng phải môn đình bày đặt ra, cũng chẳng phải cố tự chỉ bày mà là phương thức hiệu nghiệm của tiên-đức dùng để giải quyết xong cái việc của các ông sa#n đủ. Trong giáo nói: "Ta chẳng tiếc thân mạng, chỉ muốn đạo vô thượng". Ông chỉ thấy tiền bối qua núi, nghe tù-và ngộ một cách dễ dàng, trái lại chẳng biết cái khó của lúc chưa qua núi, chưa nghe tù-và cùng với người bây giờ không khác chút nào vậy. Nếu biết được cái khó ấy thì đạo nào ta cũng hành được.
Đường-chủ, duy-na vì thấy tâm chúng giải đãi, thỉnh tôi khuyến khích. Minh Bổn tôi nói hoàn toàn không có lỗ mũi để cho người nắm lấy, chỉ đem việc lớn sanh tử vô thường cho người chân thật vì đạo cố gắng. Nếu không tin, cứ đi hỏi nơi khác.
3. KIẾT HẠ
KHAI THỊ ĐỔ CHÚNG TẠI THUẬN TÂM AM.
Hôm nay ngày rằm tháng tư, là ngày kiết hạ, phải biết hai ngàn năm trước, trên hội Linh Sơn cũng có ngày rằm tháng tư kiết hạ. Từ đó cho đến ngày nay, tòng lâm các nơi chẳng trái lệ cũ. Chín mươi ngày không dây tự trói, nói là cấm túc, nói là an-cư, lại chẳng biết người chân thật học đạo từ một niệm đầu tiên cương quyết liễu thoát việc lớn sanh tử vô-thường thì "túc" nầy ngay nơi đây liền cấm, hạ nầy do đó mà kiết, đem hết năm tháng của trọn cuộc đời làm chín mươi ngày chẳng nhiều, chẳng ít, chẳng bớt, chẳng thêm, để mong cùng việc nầy tương ưng. Về sau gọi đó là thời tiết Phật hoan hỷ, Tăng tự-tứ. Bằng chẳng như thế, chỉ muốn bắt chước thường tình thế gian theo quy củ lễ nhạc chẳng dám vượt qua cho là nhập hạ, chẳng những cô phụ Phật Tổ mà cũng vùi chôn chính mình.
Hôm nay chúng ở am hơn mười người, ai cũng biết có việc nầy, chẳng chịu tự cô phụ, tự chôn vùi, huống là ngay lúc pháp nầy vừa đến, thừa cơ hội nầy phấn khởi một tấm lòng chân thật mạnh mẽ không gián đoạn quyết định chẳng lui sụt, chỉ đề khởi một câu thoại đầu vô nghĩa vô vị. Từ một ngày đầu tiên bắt đầu đứng vững gót chân chẳng được nhúc nhích một chút, kín đáo hạ thủ hướng tới trước, một ngày phải thấy công trình một ngày, một giờ phải thấy ứng nghiệm một giờ. Từ người trên đến kẻ dưới cảnh sách lẫn nhau, mài giũa cho nhau, chẳng tạp duyên, chẳng vọng niệm, chẳng theo vật chuyển, chẳng đuổi theo cảnh, chẳng theo quy củ xưa, chẳng còn phép tắc mới, chẳng chán phàm, chẳng mộ thánh, cho đến tất cả đều chẳng làm. Chỉ muốn một cái ấy của mình minh bạch. Hốt nhiên bị ông lạnh lùng thấu thoát mới biết chín mươi ngày là cả cuộc đời, cả cuộc đời chính là chín mươi ngày, cho đến hai ngàn năm trước chẳng khác ngày hôm nay, ngày hôm nay chẳng khác hai ngàn năm trước, mắt xích liền nhau trọn không gián đoạn, đây là trường tuyển Phật, tâm không thi đậu về. Ví như chẳng được như vậy thì cái am Thuận-Tâm nầy đâu khác hai hòn núi Thiết-Vi. Đừng cho rằng an-cư vô sự bỏ trôi mùa hạ, biết trước chí nguyện bình-sanh chẳng toại, ở đây có thể thấy vậy.
Am-chủ gởi thư đến thỉnh lời cảnh sách cho chúng, lấy đại sự tham cứu thoại đầu, chẳng những chúng-nhân mà am-chủ cũng phải tự chiếu cố.
* * *
Thiền là bổn lai diện mục của các ông, trừ ngoài cái nầy không có thiền nào có thể tham, cũng không thể thấy, cũng không thể nghe. Ngay cái thấy nghe nầy toàn thể là thiền, lìa ngoài thiền cũng không riêng có thấy nghe cho mình đắc được. Các ông tụ họp nơi đây, mỗi người riêng có một công án chẳng liễu ngộ chứa ở trong gan phổi, chẳng phải là duyên nhỏ đâu! Trong suốt ngày đêm chớ lầm dụng tâm thì tốt. Người xưa nói: "Tham thiền học đạo là lầm dụng tâm, thành Phật làm Tổ là lầm dụng tâm. Trừ ngoài cái nầy ra, lại làm cái gì mới chẳng gọi là lầm dụng tâm?". Việc nầy hãy gác lại.
Chỉ như các ông mỗi người trong lòng đều vốn có một bổn cổ-thanh-quy (quyển ghi qui củ xưa), chẳng nên phạm vào lúa mạ người. Như canh năm, khi thiền đường đánh bảng khởi tham, chẳng kịp rửa mặt cũng phải theo chúng xuống đất chạy một vòng rồi đợi đại chúng vào thiền đường thì lên tọa cụ ngồi thẳng, hễ nghe bảng khai tịnh đánh thì xếp tọa cụ, đắp ca-sa mang bát đi ăn cháo. Phàm ăn cơm cháo phải xem trên dưới, chúng mau thì mau, chúng chậm thì chậm để chẳng làm động tâm niệm người khác. Huống là cử chỉ động tịnh mỗi mỗi đều có oai nghi phải tuân theo, chớ nói ta là người hành đạo đại ngộ chẳng chấp tiểu-tiết; ngặt vì ông chưa ngộ, đâu thể nói chẳng tuân theo quy củ. Bởi do cái chánh niệm vì đạo chẳng thiết tha vì thế cử chỉ không đàng hoàng cho đến phá phạm luật-nghi, tự mất chánh-nhân, bị người khinh mạn.
Các ông đây mỗi người hãy tự xét kỹ, như pháp tuần thiền đường, thống thiết vì việc lớn sanh tử chưa được rõ ràng, sợ năm tháng trôi suông, bị người đánh một cái chẳng hỏi mình có đau hay không đau đều coi như uống nước cam-lồ, phải phấn khởi dũng mãnh cực lực hướng tới trước, há có thể trở lại sanh giận hờn mà ôm lòng báo oán ư? Sanh tử vô thường là một tập quán tai hại muôn kiếp dao cắt chẳng ra, cưa xẻ chẳng đứt. Ngày nay đã chịu bắt đầu phát tâm chân thật, ở cao trên đảnh lạnh lùng, hận chẳng được kéo dài một ngày ra làm mười ngày, đứng vững gót chân để hạ thủ đi! Hễ thấy mặt trời lặn sau núi thì sanh lòng than tiếc lại qua mất một ngày, đạo nghiệp chưa xong, nhãn quang lạc địa (ý nói là chết) rốt cuộc lấy gì báo đáp ân Phật Tổ, đàn việt! Đợi chi đến lúc tay chân rối loạn; ngày hôm nay lúc bệnh chưa đến thân hãy sớm tìm lấy cái lộn ngược (ngộ) đi!.
Minh Bổn tôi chỗ thấy như thế, lại chẳng từng đem việc dây dưa vô ích dạy bảo cho người, chỉ thực lòng cho biết như thế từ sự chân thật bảo nhau. Tôi muốn thuận theo lời thỉnh của các ông qua am nói chuyện, vì sa#n có việc đi Tây-Sơn, nên phiền Đường-Chủ thay thế tôi bạch với chúng. Mọi người hãy tự tham cứu, chớ nên dễ dãi. Ước mong mọi người chấn chỉnh tinh thần sớm cầu giải thoát, cũng chẳng cho luôn luôn qua sông qua núi tìm nhau, đối với đạo vô ích.
4. KHAI THỊ CHÚNG PHÁT BỔ-ĐỀ-TÂM
Bồ-đề-tâm là tiếng Phạn, ở đây gọi là đạo tâm. Các ông nếu không có tâm hướng về đạo thì ngày nay quyết chẳng chịu đến đảnh núi cao nầy mài đũng quần ngày đêm siêng năng cực khổ tham cứu sanh tử. Phải biết cái đạo tâm nầy xa từ nhiều kiếp trước kia đã từng phát khởi, chỉ vì tâm nhiều biếng nhác, ý chạy đuổi phan duyên nên chưa thủ chứng. Đến hôm nay cần phải cắt đứt các duyên, thôi dứt muôn lự, chỉ đề khởi một câu thoại đầu sở tham liều mạng một đời giải quyết cho xong, chẳng phải là việc ngoài bổn phận. Chánh niệm nầy chẳng thể kiên cố miên mật dằng dặc bảo nhậm, lại muốn chợt sanh tình vọng, rồi muốn phát bồ-đề-tâm. Đây là hư vọng điên đảo, mất chánh niệm, hướng ra ngoài tìm cầu, trái ngược với chân-tâm, cùng đạo cách tuyệt. Đừng nói phát bồ-đề-tâm một lần, mà một ngày phát ngàn lần muôn lần cũng chẳng bằng một niệm chánh niệm bảo nhậm thoại đầu sở tham. Lại muốn tụng kinh, lễ bái, phát lồ sám hối v.v.. đều theo vọng theo tà, há chẳng thấy trong kinh nói: "Nếu người muốn sám hối nên ngồi thẳng niệm thật tướng". Phải biết thật tướng cũng là vô niệm. Chỉ cần ông tin được có việc lớn sanh tử, trong suốt ngày đêm đề khởi câu thoại đầu sở tham như cứu lửa cháy đầu là niệm thật tướng vậy. Người huyễn (Ngài Minh Bổn tự xưng) như có một chữ dối gạt các ông, tự cam chịu hằng đọa địa ngục rút lưỡi. Xin duyệt-chúng hãy nói cho những người muốn phát bồ-đề-tâm biết, nên bỏ ý định đó đi, mà phải dốc lòng hành đạo mới đúng!
5. THỊ CHÚNG
Chiều tối hôm trước, Thủ-tọa cùng Duy-na đến am nói gần đến ngày kiết hạ thỉnh tôi nói chuyện với chúng. Tôi nhận lời mời thỉnh, hứa hai ba hôm có rảnh sẽ qua am uống chén trà cùng nhau nói chuyện giây lát để cảnh sách nhau. Chẳng ngờ mưa tầm tã mấy ngày liên tiếp, đường sá trơn trợt bất tiện. Qua đến ngày 12 thì nhân sự hai núi rộn ràng, giao tiếp như thế chẳng toại lòng tránh xa của người huyễn nầy.
Tôi nghĩ rằng, đại chúng của cả thiền đường đều là hàng lão-tham, lúc bình thường đến gõ cửa chưa từng có ai chẳng đem việc trên bồ đoàn tham vấn, thì đâu có lấy kiết hạ giải hạ làm thời tiết hành đạo. Nếu nói về chí lý, lúc bắt đầu mới phát tâm hướng về đạo, hạ nầy đã từng kiết rồi. Trong suốt ngày đêm khán câu thoại đầu vô nghĩa vô vị chưa được liễu ngộ tức là thời gian ở trong hạ. Hai ba mươi năm thôi thúc đến chỗ tình thức tiêu hết, hốt nhiên mãnh tỉnh (ngộ) được cái ấy, tức là lúc giải hạ, ngày tự-tứ. Há chỉ lấy có chín mươi ngày làm hạn ư?
Tham thiền chẳng linh nghiệm, thường thường chỉ là tâm trộm cắp chưa chết, vì thế năm tháng trôi suông, chứ không phải bệnh nào khác. Nếu tâm trộm cắp nầy chết ở ngày hôm nay thì ngày hôm nay liền tương ưng, chết ở ngày mai t
Cái gì là tâm trộm cắp? hì ngày mai bèn tương ưng.
Hễ lìa câu thoại đầu sở tham ra, riêng thấy có tự kỷ, là tâm trộm cắp; ngoài cái tự kỷ thấy có nhân, có ngã, là tâm trộm cắp; lúc tham được thuần thục biết thuần thục, ấy là tâm trộm cắp; lúc tham chẳng thuần thục biết là chẳng thuần thục, ấy là tâm trộm cắp; lúc thấy có hôn trầm tán loạn, ấy là tâm trộm cắp; lúc chẳng thấy có hôn trầm tán loạn, chỉ có câu thoại đầu sở tham cùng nghi tình giao kết chẳng gián đoạn, ấy là tâm trộm cắp; hễ ở chỗ khán thoại đầu chợt sanh một niệm biết, bất luận là phàm, là thánh, là chân, là ngụy, nói chung đều là tâm trộm cắp; bỗng có người linh lợi hướng vào chỗ tôi nói để đàm luận dẫn chứng giúp cho một con đường là đạo, là lý, là kiến, là văn, đều cho là chẳng dính dáng đây là trong tâm trộm cắp thêm tâm trộm cắp, Phật cũng chẳng thể cứu chữa. Chỉ cần hết được những tâm trộm cắp, chỉ thế ấy y bổn phận nắm chắc câu thoại đầu sở tham như tượng gỗ tượng đất, như người chết có hơi thở, ngoài chẳng thấy có đại chúng, trong chẳng thấy có tự kỷ, lạnh băng băng, tuyệt kiến văn, như vậy giữ đi, lâu ngày sẽ được tâm không thi đậu về.
Viết dối mấy lời nầy để đền lại lời hứa uống trà nói chuyện trong am. Minh Bổn tôi qua núi tránh nhân sự mấy ngày, chẳng nên tìm hỏi dấu huyễn ở chỗ nào. Dẫu cho tìm thấy cũng không cùng nhau nói chuyện. Mong Thủ-tọa, Duy-na bạch cho chúng biết.
6. KHAI THỊ THIỀN NHÂN CHÁNH VĂN
I. Bổn phận của người xuất gia phải đắc tọa phi y (có chân thật tu hành) mới đáng thọ nhận Trời người cúng dường.
Trong kinh nói tọa nghĩa là các pháp không, nói y tức là nhu hòa nhẫn nhục. Thiền Tông nói tọa tức là một niệm chẳng lui sụt, nói y nghĩa là ngộ suốt tự tâm, chẳng mang nhánh lá. Ví như chẳng được như vậy thì sợi chỉ giọt nước chắc chắn phải bồi thường cho thí chủ. Phật Tổ thưở xưa mắt chẳng nỡ thấy, nên khai mở pháp môn cam lồ nầy, chẳng phải cầu an dật, cũng chẳng phải cầu nhàn tản, cũng chẳng phải cầu cao thượng việc ấy để được nổi danh, chẳng phải cầu tích tụ của cải cho nhiều để mưu toan lợi lộc một cách xấu xa. Người xưa ba y một bát, ngoài ra đều coi là vật thừa phải luôn luôn thuyết tịnh (giao cho người khác) mà chẳng cất chứa. Chỉ thanh bần tự luyện lọc chẳng dám phạm vào lúa mạ, động tâm niệm của người khác, kín đáo dẹp bỏ vọng tình, sâu vào thiền vị thì biện luận giỏi thấy dường như câm, rất khéo thấy dường như vụng, thề ở dưới muôn người, chẳng cao hơn một người. Khiêm tốn hạ mình chẳng ỷ vào sở trường của mình mà xem thường người không có khả năng. Chỉ sợ một niệm chẳng đặt nơi đạo, chẳng khắc kỷ, chẳng lợi vật, chẳng tham cứu tâm. Chánh niệm tham học luôn luôn cố gắng, chẳng đến chỗ ruộng đất của người xưa thì dầu có gặp cảnh thuận chẳng biến, cảnh nghịch chẳng đổi, ắt hy vọng sau nầy vượt lên cao, đến chỗ xa. Được như vậy thì suốt đời chẳng động mà cũng được dạo đi khắp nơi, cũng được đều không gián đoạn.
Thiền nhân Chánh-Văn viết thư đến cầu lời cảnh sách. Tôi thuận tay viết vài lời khai thị. Nếu thật có thể chẳng trái lời nầy ắt chẳng nhục cái danh người tham thiền.
II. Người xưa học đạo có linh nghiệm là vì tâm trộm cắp chết hết.
Tâm trộm cắp còn một mảy lông chết chẳng hết thì muôn kiếp không có lý tự thành. Nói thẳng ra, chết được một phần tâm trộm cắp thì học được một phần đạo, chết được tâm trộm cắp năm phần thì học được năm phần đạo, tâm trộm cắp hoàn toàn không thì toàn thể là đạo; bởi vì sự chướng đạo của tâm trộm cắp giống như bụi bặm che mất ánh sáng của gương.
Người thời nay chỉ biết có đạo để thành mà chẳng biết có tâm trộm cắp nên hết. Hoặc tâm trộm cắp chưa hết mà muốn đạo được thành, khác gì ngồi ở trong nước mà muốn đừng ướt, xưa nay trong thiên hạ không có lẽ đó.
Thuở xưa, hòa thượng Vĩnh Minh thống thiết nói: "Tình sanh trí cách, tưởng biến thể thù", nghĩa là: tình cảm nổi dậy thì trí huệ bị che lấp, tư tưởng biến đổi thì thân thể cũng theo đó mà biến dạng, khiến công án sa#n sàng, của báu gia truyền chẳng được thọ dụng. Tình sanh tưởng biến tức là biệt danh của tâm trộm cắp mà tôi vừa nói. Muốn cho bất cứ lúc nào tình chẳng sanh, bất cứ chỗ nào tưởng chẳng biến thì cần phải thật đem việc lớn sanh tử để ở trong lòng lấp bít ý căn, tình vừa muốn sanh thì bị nó ngăn, tưởng toan muốn biến liền bị nó đoạt. Ông nếu chẳng thiết tha vì việc lớn sanh tử, ở trong lòng khán câu thoại đầu quyết cầu ngộ chứng mà chỉ một bề đè nén cho tình tưởng kia chẳng sanh chẳng biến, khác chi người dã chết mà còn muốn thở ra hít vô để làm gì!
Người xưa có nói: "Tham thiền không bí quyết, chỉ cần sanh tử thiết". Lời nầy thật thông suốt cả ba đời, là cội gốc lớn của sự học đạo. Ví như chẳng lấy sanh tử vô thường làm trách nhiệm nặng nề của mình, nằng nặc muốn hiểu thiền, hiểu đạo, mà tham cứu việc nầy, thì giống như bảo người tịch cốc đi cấy trồng mà chẳng biết đó chẳng phải là việc của họ.
Bậc tiền bối ba mươi năm, năm mươi năm chí càng bền, niệm càng thiết, hạnh càng siêng và chẳng chịu có chút gián đoạn, chẳng phải do thầy bạn cảnh sách, tòng lâm khuyến khích, ngôn thuyết chỉ bày, phương tiện khuyến tấn mà được như vậy. Mà bởi cội gốc của các ngài chỉ là một cái chí nguyện thống niệm sanh tử chưa giải quyết xong. Giả sử đời nầy chẳng xong thì đời nào mới xong! Niệm tấn đạo nếu tự chẳng chân thật thiết tha, dẫu Phật Tổ có thần dị đổi phàm thành thánh, khiến A-La-Hán khởi tham sân si, tuy cố mà làm đó, quyết chẳng thể lâu được.
Có người vì muốn hiểu đạo mà học đạo, mà không phá được cảnh duyên phù huyễn nổi trước mắt, lại bị cảnh duyên đó làm cho vọng niệm khởi lên chẳng dừng. Vọng niệm đã khởi thì dầu sức học đạo như núi gò, sẽ thấy có ngày bị vọng niệm làm hại. Kinh Lăng Nghiêm nói: "Cuồng tâm nên ngưng nghỉ, ngưng nghỉ tức bồ đề". Cái gì là cuồng tâm? Hễ ngoài việc thống niệm sanh tử, đề câu thoại đầu sở tham ra, dù có làm trăm ngàn điều siêu việt thế gian, đều chẳng khỏi bị chê là cuồng tâm.
Tổ Thiếu-Lâm nói: "Ngoài dứt các duyên, trong không nghĩ tưởng, tâm như tường vách, có thể vào đạo". Nhưng "vào đạo" gác lại. Tâm nầy có từng như tường vách hay chưa? Nếu chưa mà mong muốn nhập đạo, đó là điều chẳng tự xét.
Tham thiền cả một đời chẳng ngộ, học đạo cả một đời chẳng rõ, chỉ cần chẳng dễ dàng buông bỏ cái chánh niệm nầy để tham để học thì chắc chắn có ngày đến được chỗ cùng tột. Nếu bỏ chánh niệm nầy vọng đem thức tình xuyên tạc, lấy lời người khác làm kiến giải của mình, dẫu hiểu hết cổ kim, tọa đoạn (quét sạch) Phật Tổ cũng đều là dối trình cuồng kiến, tự mang tội lỗi, chẳng phải là điều của người chân thật học đạo làm.
Thiền-nhân Văn gửi thư đến cầu pháp tham thiền, nhân lúc không có khách đến, thuận tay bất giác viết dây dưa như thế, ông như có chí thì lời nầy của tôi cũng chẳng hóa ra vô ích. Hãy cố gắng lên!

#51 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 15/09/2011 - 07:58

PHẦN II:
7. KHAI THỊ THIỀN NHÂN KHẢ ÔNG NHIÊN Ở HẢI ĐÔNG

I. Núi sông đất đai chẳng ngại nhãn quang, sáng tối sắc không qui về tự kỷ. Cử tâm động niệm chẳng phải người khác, thấy sắc nghe tiếng xưa nay sẵn sàng. Nay tự chẳng về, về liền được, Cảnh đẹp quê hương có ai tranh.
Những lời nói nầy, người có chút thông minh nghe qua đều biết có. Dầu cho ông ghi nhớ được nhiều, nói được thông thuộc, đối với sanh tử tình vọng của chính mình muốn hoàn toàn quét sạch thì xiết bao xa cách như trời với đất. Hiện nay ở bên bờ sanh tử, mở to đôi mắt giữa ban ngày, đối thanh đối sắc, gặp thuận gặp nghịch, hễ có một niệm khởi diệt càng thấy quét sạch chẳng nổi, mà dẫu cho đối với thị phi thuận nghịch mỗi mỗi đều quét sạch được, cái biết quét sạch ấy cũng là lấy trò đồng bóng làm chủ tể, mà sống theo nhà ma quỷ, có dùng được gì!
Hiện nay nhiều nơi dạy người tham thiền phần nhiều chỉ tham những loại thiền nầy, chỉ quý thuyết thông, chẳng cầu tâm ngộ. Nếu cái tâm chí linh này chẳng từng hướng lên trên ruộng đất chân thật triệt ngộ một phen, mặc cho ông lấy cái tư chất thông minh hướng vào trong bụng Thích Ca, Đạt Ma cho đến Lâm Tế, Đức Sơn nhất thời chạy qua trăm vòng, ngàn vòng thấy suốt tim phổi, cũng chính là si cuồng chạy ở bên ngoài vậy.
Người chân thật có chí vì sanh tử, hẳn chẳng chịu đạp bước vào lối mòn nầy. Chỉ nắm lấy một câu thoại đầu sở tham vô nghĩa vô vị đó liền tại trước mắt tương tự như người chết. Duy có một cái tâm chân tham thật cứu, không khởi một chút vọng tưởng muốn hiểu thiền, hiểu đạo. Giả sử chính ngay lúc tham, Thích Ca, Di Lặc đem hết tam muội đổ trút vào bụng ông, ngay lúc ấy ông phải mửa ra hết, tình nguyện suốt đời chẳng hiểu Phật pháp, quyết chẳng ở trước khi chưa ngộ vọng đem ý thức hướng vào sự kỳ-đặc của người khác lập bày, thấm lấy một điểm vào trong tâm thức, đó là đàm dãi con chồn (*) hay khiến cho người ta mắt thấy hoa đốm giữa hư không, si cuồng chạy bên ngoài, không giúp được gì cả! Ông nếu tham đến trăm năm sau rõ ràng ở dưới thân mình không có chỗ xu hướng, chính là người tốt thanh tịnh bậc nhất. Ông chỉ cần lòng tin chẳng lui sụt, đời sau quyết định ông có cái thời tiết chân chánh ngộ đạo. Ông nếu muốn gấp hiểu thiền, thì ngay cái gấp nầy chính là hướng vào trong lưới luân hồi rồi vậy. Ngài Qui Sơn nói: "Tông nầy khó được cái chỗ sâu mầu nhiệm của nó, rất cần phải kỹ lưỡng dụng tâm".
Lão huyễn (Ngài Minh Bổn tự xưng) nói như thế chỉ muốn người quyết liễu việc lớn sanh tử, chẳng muốn người chỉ lo đem tâm thức hướng lên con đường nghĩa lý xuyên tạc cổ kim. Ông nếu vượt qua sanh tử chẳng nổi, phải bước chân nhằm vào thực tế như vậy mà đi! Ông nếu chỉ muốn hiểu Thiền, Phật cũng chẳng giúp gì cho ông được.
Khả-Ông cầu cảnh sách, lão huyễn viết như thế.
II. Người xưa nói: "Thần quang chiếu khắp (kiến tánh) là đạo quý nhất của muôn đời, vào cửa nầy rồi, chớ còn tri giải".
Kinh Lăng Nghiêm cũng nói: "Tri kiến lập tri tức gốc vô minh, tri kiến vô kiến tức là niết bàn".
Từ xưa chư Phật, chư Tổ quét sạch tri giải của người học chẳng phải là vô cớ. Bởi vì đạo nầy là pháp môn nhất-tướng bình đẳng, dày như đất đỡ nâng, rộng như trời trùm khắp, không có chỗ nào cho ông đặt tâm, không có chỗ cho ông để ý, không có chỗ cho ông ra sức, nhẫn đến không có chỗ cho ông ngồi, chỉ quý trước lúc chưa đi ỉa (chưa ngộ), xa được liền hành, vừa muốn nghĩ suy thì chẳng dính dáng.
Người thời nay thấy nói như thế, liền đem ý thức ra lãnh hội, rơi vào trong lưới tri giải, chẳng cầu cái ngộ chân chánh. Ông nếu chẳng từng chân chánh nhắm dưới gót chân rõ ràng khai ngộ một phen thì mặc cho ông đem hết những ngữ ngôn tương tự trong Truyền Đăng Lục dùng tâm ý thức gánh vác, y theo người khác để hiểu, luôn luôn nói: "Việc nầy xưa nay đầy đủ, Phật cùng chúng sanh nguyên không thiếu kém, bình thường mặc áo ăn cơm đều là tam muội sẵn sàng, ông muốn đem tâm riêng cầu Phật pháp, trở thành thịt da lành lặn, khoét thành vết thương". Nói được cũng tương tợ, ngặt vì ông chưa hướng vào chỗ tình quên, thức hết mà ngộ. Vì ông chưa ngộ nên nói càng gần thì thức tình càng mạnh. Nếu là người muốn rõ việc lớn sanh tử thì chẳng chịu khi chưa ngộ lầm giữ lấy tri giải, lầm hiểu Phật pháp. Bất cứ lúc nào cũng chỉ nắm lấy câu thoại đầu vô nghĩa, vô vị để tham, tương tợ như gậm một thanh sắt sống. Sáng gặm chẳng đứt, chiều gặm nữa; năm nay gặm chẳng đứt, sang năm gặm nữa; càng gặm chẳng đứt thì không ngừng gặm, chẳng chịu bỏ ngang. Nói gì ba mươi năm, năm mươi năm, gặm đến chỗ cùng cực, thì có thời tiết đứt gãy. Chỉ cần có lòng tin kiên cố chẳng đổi chẳng dời, muốn gặm đứt thì đâu có lẽ nào không xong việc lớn. Chỉ vì cái chánh niệm hướng đến đạo của ông chẳng kiên cố chẳng miên mật, chưa từng đặt chân vững chắc lên câu thoại đầu sở tham nên ngẫu nhiên thấy người nói tương tợ Bát-Nhã lại đem tâm học giải. Nếu như còn giữ những thứ kiến giải lầm lạc nầy mà muốn chân chánh ngộ-minh, ấy là đi sụt lùi mà muốn tiến tới trước, không có lý nầy vậy.
Thủ-tọa Khả-Ông mang tư chất thông minh, có chí lớn quyết liễu thoát sanh tử, ban đầu vô cớ rước lấy một thứ tương tợ tri giải. Hơn ba năm ở núi, gần đây mới tin được nổi và chẳng bị tri giải làm mê hoặc. Nay khởi niệm nhớ cố hương, lập chí lớn nguyện hết những năm về chiều ra sức tham cứu đến chỗ cùng tận sâu xa để mong chánh ngộ. Ông lại viết thư xin lời cảnh sách, do đó tôi dẫn lời trước để dạy ông. Còn có một câu sau cùng hai tay xin trao gửi:
Phải nên chỗ ngộ cầu siêu việt,
Chớ nhằm bên nghe, giữ kiến tri.
Hãy nhớ lấy! nhớ lấy!
GHI CHÚ
(*) Đàm dãi con chồn là thuật ngữ của Thiền Tông, ám chỉ lời nói của bọn thiền sư giả mạo nói được mà làm không được.
8. KHAI THỊ THỦ TỌA LINH TẨU CỒ
Tham thiền phải giải quyết xong cái nghi tình sanh tử. Cái nghi nầy đã giải quyết, thì tất cả thị phi sai biệt đồng thời đều giải quyết. Đã giải quyết xong như thế mới biết xưa nay không một vật. Ở chỗ không một vật cũng không có người nghi, cũng không có người sanh tử, cũng không có người giải quyết, cũng không có người nhận lời nói như thế, tất cả đều thâu về tự kỷ, chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, pháp tánh xưa nay bình đẳng. Đến chỗ này còn nói có một tí ti như vi trần là Phật, là pháp, là thiền, là đạo đều rơi vào vọng duyên. Thiền đạo, Phật pháp còn là vọng thì há nghi cùng chẳng nghi chẳng phải là vọng ư?
Ông nếu thật chưa từng hướng về tự kỷ triệt ngộ một phen thấu suốt nguồn đáy, bèn hướng vào trong tâm trần lao hư vọng phóng túng sanh ra vọng kiến, lấy câu: "bổn lai vô nhất vật" của người khác, dùng tình ý thức hòa hội suy tính rồi nói không có tam giới để ra, không có niết bàn để chứng. Nói được cũng tương tợ, song chỉ là lời nói thôi, nên đều trở thành vọng kiến; tính đem vọng kiến để thoát sanh tử thì có khác nào ôm củi chữa lửa, lửa càng cháy mạnh, thật là vô lý.
Ông nếu chân thật muốn hạ thủ công phu, trước tiên đem cái việc lớn sanh tử vô thường đặt ở trong lòng không cho có chút gián đoạn chỉ đề một câu thoại đầu, hết một báo thân nầy hướng thẳng tới trước đi. Điều thiết yếu là chẳng được nghĩ trước tính sau, hạ thủ công phu được, cũng như thế ấy hạ thủ, hạ thủ công phu chẳng được, cũng như thế ấy hạ thủ. Lâu ngày chẳng thay chẳng đổi, công phu thuần thục, việc hay giỏi đều quên, các vọng đều tiêu, bất giác bất tri ngộ nhập.
Công phu có thuần thục hay không thuần thục, nghi tình có khởi hay không khởi. Người xưa nói: "Tham thiền không bí quyết, chỉ cần sanh tử thiết". Một cái tâm vì việc lớn sanh tử nầy của ông chí thiết chí chân, chỉ từ trên cái tâm chân thiết đều là nghi tình, tự nhiên chẳng cần buông bỏ hay bày đặt. Làm lâu ngày, cái tâm thiết tha vì sanh tử chẳng gián đoạn thì đầu đuôi xâu suốt, thì còn có pháp nào có thể làm chướng ngại!
Cái chánh niệm vì sanh tử của ông chẳng chân chẳng thiết, chỉ lo cố đề thoại đầu khởi mạnh nghi tình, quyết định chẳng thể khai ngộ. Hễ cố được một lúc thì nghi được một lúc, cái tâm cố làm đó thối một chút thì nghi tình cũng theo đó mất luôn.
Chỉ cần ở chỗ công phu chẳng thuần thục, chẳng nên cố khởi nghi tình, chỉ cần đem sanh tử vô thường suy nghĩ một bận xem, thấy đến không biết phải làm sao, không có phương tiện có thể phá trừ, duy có một câu thoại đầu. Lại mạnh mẽ đề khởi cùng nó hạ thủ đi, hạ thủ được, cũng như thế ấy hạ thủ, hạ thủ chẳng được, cũng như thế ấy hạ thủ. Hạ thủ đến chỗ chẳng biết làm thế nào, bèn là lúc công phu thuần thục, cũng chẳng nên nghĩ là thuần thục, chỉ đầu đuôi nối nhau hạ thủ đi! Hạ thủ như thế mà chẳng triệt chứng thì thật vô lý!
Nói khó nói dễ đều do người đó dùng sự suy lường của mình mà phân biệt, chứ thật ra tuyệt không có khó dễ. Như Đức Sơn thấy thổi tắt cây đuốc, liền lãnh hội, Linh Vân thấy hoa đào, ngay khi ấy lãnh hội. Cơ duyên như thế là dễ hay khó. Phải biết ở trên phần của Đức Sơn, Linh Vân là dễ, ở trên phần người khác thì chẳng phải dễ. Ông nếu chẳng lấy việc lớn sanh tử làm nhiệm vụ nặng nề của mình, quyết ý tham vấn nguyện cầu chánh ngộ, dẫu cho đem 1700 công án, mỗi mỗi chú giải để cho ông hiểu, có thể nói là dễ đấy. Song chẳng biết hiểu lời nói là dễ, thấu được sanh tử tình vọng kia thì khó đó lại khó. Chỉ cần tin được một câu thoại đầu liên tục tham cứu, cũng chẳng cần hỏi là dễ hay khó. Lâu ngày tâm tánh sáng suốt thì khó cùng với dễ chẳng cần phải nói.
Chữ "KHÔNG" và "Sau khi chết, thiêu rồi, cái gì là tánh của ta" đã là hai lớp, dù tôi có chỉ ông thoại đầu thì chẳng xiết lộn xộn, công phu càng thấy đa đoan. Hôm nay ông chỉ cần đem hai câu thoại đầu kể trên xem câu nào được thuần thục hơn, rồi chỉ lấy một câu khán được thuần thục đó, đứng vững gót chân, cứ như thế một niệm muôn năm hạ thủ đi. Hạ thủ không ngừng, một chỗ thấu thì ngàn muôn chỗ đồng thời thấu. Hạ thủ đến chỗ quên cả mê ngộ, mất hết thánh phàm, nhìn lại thấy 1700 công án đều là lời nói dư, chỉ là mạt vàng làm loà mắt mà thôi. Hãy kỹ lưỡng, hãy kỹ lưỡng!
Ba năm nay, tôi không viết chữ cũng không nói chuyện với người, vì ông từ xa đến hỏi, bất giác nói dây dưa như thế.
9. KHAI THỊ THỦ TỌA UYÊN ở HẢI ĐÔNG
Trên công phu nói khởi nghi tình, phải biết nghi tình vốn không có những việc chỉ bảo truyền thụ, cũng không có hình dạng, cũng không có tri giác cũng không có cán nắm, cũng không có xu hướng, cũng không có phương tiện, cũng không có tạo tác an bài v.v... lại không riêng có đạo lý có thể sắp đặt chỉ bảo được để làm cho ông khởi nghi.
Chỗ gọi là nghi đó, chỉ là một việc lớn sanh tử ngay nơi bản thân ông chưa từng sáng tỏ, chỉ nghi việc lớn sanh tử nầy vì sao từ vô lượng kiếp đến nay trôi lăn mãi đến ngày hôm nay là cái lỗ mũi nào. Lại vì sao từ ngày nay bị trôi vào tận đời vị lai, quyết định có ngày nào xong? Chỉ cái nầy là chỗ nghi. Từ xưa Phật Tổ đều từ cái nghi nầy nghi mãi chẳng thôi tự nhiên đường tâm bặt, tình vọng tiêu, tri giải hết, năng sở quên, bất giác hốt nhiên tương ưng, tức là thời tiết của nghi tình vỡ.
Người xưa cũng chẳng từng đi khán thoại đầu, tham công án, lên bồ đoàn làm hình thức, mà chỉ thiết tha ở trên việc lớn sanh tử khởi nghi, đi ba ngàn dặm, năm ngàn dặm tìm gặp thiện tri thức, chưa kịp cởi giày cỏ đã liền nói ngay: "Con vì việc lớn sanh tử, vô thường nhanh chóng". Ngàn người, muôn người đều như thế, xuất gia như thế, hành cước (du phương) như thế, cầu thiện tri thức như thế, học đạo như thế, chẳng làm cái việc thứ hai nào khác, giả sử có cũng chẳng làm.
Từ đời sau đến ngày nay, dưới Thiền Tông chẳng nên có những lời dây dưa phổ biến, thường thường chân chưa bước vào cửa đã bị một thứ ngữ ngôn nầy dẫn dụ đem đi vào trong hang ổ dây dưa trói buộc, gọi là Phật pháp, gọi là Thiền đạo, bị cuốn vào trong lưới tri giải chẳng được xuất đầu, chỉ thêm đa văn là sở tri chướng, đối với đạo chẳng từng có chút dính dáng. Các bậc tôn túc gần đây chẳng nỡ thấy trong tùng lâm có một tệ bệnh nầy, chưa đợi ông mở miệng, chỉ đem một câu thoại đầu vô nghĩa vô vị quăng ra trước mặt người học, chỉ muốn ông buông bỏ tất cả thân tâm, thế giới, các duyên tạp niệm và thiền đạo, Phật pháp, ngữ ngôn, văn tự v.v...Chỉ dạy ông hướng lên trên câu thoại đầu nầy khởi đại nghi tình tham cứu đi!
Chính ngay lúc tham cũng chẳng phải muốn rõ Phật pháp mà tham, cũng chẳng phải muốn hiểu thiền đạo mà tham, cũng chẳng phải muốn cầu tất cả tri giải mà tham. Chỗ dụng tâm tham chỉ là chính mình có cái việc lớn sanh tử vô thường mà không biết làm sao? Vì thế tham đến chỗ thoại đầu vỡ thì việc lớn sanh tử cũng theo đó đều vỡ. Chỗ việc lớn sanh tử rõ thì tất cả ngữ ngôn văn tự cũng theo đó đều rõ. Ngoài sanh tử ra, không riêng có thoại đầu. Ngoài thoại đầu ra không riêng có sanh tử.
Từ xưa cổ nhân chỉ nghi sanh tử mà liễu ngộ đạo, người thời nay chỉ nghi thoại đầu mà liễu ngộ đạo. Cái việc khởi nghi tình dường như có khác, nhưng cái đạo ngộ kia thật không xưa không nay, không tạp không khác.
Chính đương lúc nghi thoại đầu cũng chớ cầu phương tiện, cần phải tin tham thiền không có phương tiện; cũng chớ cầu xu hướng, phải biết tham thiền không có xu hướng; cũng chớ cầu cán nắm, phải biết tham thiền không có cán nắm. Nói phương tiện thì câu thoại đầu là phương tiện, câu thoại đầu là xu hướng, câu thoại đầu là cán nắm. Chỉ cần tin được nổi, dựa được ổn. Đời nầy tham câu thoại đầu, quyết định phải ở trên câu thoại đầu nầy thấu triệt, như chưa thấu triệt cũng không sao, chỉ vì tự mình thiếu sự gan dạ, thiếu sự kiên cố, thiếu sự bất thoái chuyển, thiếu niềm tin và sự nắm chắc mà thôi. Chỉ cần nắm được chánh niệm tham câu thoại đầu cho chắc, cũng đừng để ý đến hôn trầm tán loạn, cũng đừng để ý đến động tịnh nói nín, cũng đừng để ý đến sanh già bệnh chết, cũng đừng để ý đến khổ vui thuận nghịch, cũng đừng để ý đến thành tựu hay chẳng thành tựu v.v... cho đến trừ cái chánh niệm tham câu thoại đầu nầy ra,dẫu cho tam thế chư Phật, lịch đại Tổ Sư đồng thời hiện ra trước mặt đem pháp yếu vô thượng đệ nhất nghĩa đế trút vào trong bụng ta, cũng cần phải lập tức mửa ra, và cũng đừng để ý đến các Ngài. Bởi vì việc nầy chẳng ở trên Phật Tổ, chẳng ở trên cảnh duyên, chẳng ở trên văn tự, chẳng ở trên tri giải, chỉ ở chỗ tột cùng là ông tin được việc lớn sanh tử vô thường. Vì chẳng biết phải làm sao để giải quyết vấn đề sanh tử nên phải tham thoại đầu của cổ nhân. Trừ một cái niệm tham thoại đầu của cổ nhân nầy ra còn muốn hướng vào trong một niệm thứ hai tìm kiếm thì giống như vạch sóng tìm nước vậy. Cổ nhân nói :"Mật ở bên ông". Và đâu từng có một pháp cho người để thấy nghe, để nắm giữ. Hôm nay dạy ông khán câu thoại đầu đã là bất đắc dĩ rồi. Nếu ngoài câu thoại đầu nầy ra, lại suy nghĩ tính toán càng không dính dáng. Lâu ngày, về sau công phu thuần thục, thời tiết đến, nghi tình vỡ. Phải biết nghi đó, tham đó cho đến cùng câu thoại đầu quy về tự kỷ, lại không có một pháp có lý lẽ, cũng không có một pháp là liễu hay chẳng liễu, cho nên trong Kinh nói: " Sum-la vạn tượng, một pháp sở ấn ". Chỉ một pháp cũng không có chỗ tìm, há có câu thoại đầu ư? Chỉ cần tin nhận, quyết chẳng gạt nhau.
Thiền nhân Uyên ở Hải Đông hằng ngày ở trong tăng đường, nhân khán thoại đầu chưa xong, viết thư cầu chỉ dạy, tôi viết vài lời đáp ông như thế.
10 KHAI THỊ THIỀN NHÂN VÔ ĐỊA LẬP
Bốn chữ "hồi quang phản chiếu" là cảnh giới độc thoát phàm tình, siêu nhập lãnh vực đại ngộ. Ông công phu chưa tới chỗ nầy thì quang làm sao hồi, chiếu làm sao phản. Ông nếu chưa chân chánh ngộ minh hễ có lý để hồi để phản đều là tự dối. Vì ngộ đến chỗ triệt thì tâm quang chẳng đợi hồi mà tự hồi, giác chiếu chẳng đợi phản mà tự phản. Vì không có đối đãi nên cũng không có quang để hồi, cũng không có chiếu để phản, ấy là nhất hạnh tam muội. Từ xưa, Phật Tổ đều nhằm vào chỗ nầy đặt gót, chứ chẳng phải chỗ ý thức tình vọng có thể đến.
Hiện nay có một bọn người ngu si ở chỗ vắng lặng thâu cái thấy nghe tuyệt kiến văn tương tợ như gỗ đá, gọi là hồi quang phản chiếu, chiếu như thế ấy ba mươi năm,niệm niệm muốn thoát sanh tử chẳng được.
Chỉ cần mạnh mẽ đề khởi câu: "Triệu Châu vì sao nói chữ "KHÔNG?? ngày đêm tham cứu, đi cũng nghi, ngồi cũng nghi. Chính đương lúc khán như thế, điều thiết yếu là chẳng được tưởng là hồi quang phản chiếu. Chỗ tham cứu chẳng được, chính là lúc tán thân bỏ mạng. Lâu ngày thuần thục hốt nhiên khai ngộ, chẳng từng tự biết mà hồi quang phản chiếu hoàn tất vậy. Nếu còn cho là hồi quang phản chiếu thì vẫn y như xưa, chưa được ngộ.
Thiền nhân Vô-Địa-Lập cầu lời cảnh sách, tôi viết như thế.
11. KHAI THỊ THƯỢNG CHỦ PHÙ
Như nói trong 24 tiếng đồng hồ làm chủ chẳng được, chẳng biết lìa câu thoại đầu sở tham nầy ra, lại gọi cái gì làm chủ? Phải biết chính câu thoại đầu nầy là chủ của ông. Chỉ cần thường khiến cho câu thoại đầu sở tham nầy chẳng lìa tâm niệm, ấy là làm được chủ, cũng chẳng nên nghĩ là làm được chủ. Ý của người xưa trước kia chẳng từng nói đến "làm chủ", như Tổ Qui-Sơn nói: "Có làm chủ tể chớ theo nhân tình" là lời nói tạm thời sách phát sự tinh tấn cho người, chứ chẳng phải đạo.
Lại nói ở trên hôn trầm, tán loạn, thị phi, nghịch thuận khán thoại đầu. Lời nầy không có đạo lý khó hiểu, chỉ tại ông hiểu chẳng được, cố sanh tri kiến. Như đang khi khán thoại đầu chợt các cảnh hôn trầm, tán loạn, thuận nghịch hiện tiền thì phải phấn chấn tinh thần hướng vào trong hôn trầm, tán loạn khán, lâu ngày hôn trầm, tán loạn, tình vọng thuận nghịch tự tiêu. Có người thấy các cảnh hôn trầm, tán loạn, thuận nghịch nầy hiện tiền bèn sanh nghi, rồi lầm cho rằng chắc còn có phương tiện nào khác để trừ khử các thói quen hôn trầm, tán loạn v.v...Lại đổ lỗi cho căn khí, túc nghiệp, các thứ cảnh duyên, vừa khởi tâm nầy thì ở trên hôn trầm, tán loạn chồng thêm hôn trầm tán loạn, ở trong thuận nghịch lại thêm thuận nghịch. Vì thế dạy ông lúc hôn trầm tán loạn chỉ ở trên hôn trầm tán loạn khán, cũng chẳng phải có vật gì khác để khán, cũng chẳng phải khán hôn trầm, tán loạn là vật gì? Cũng chẳng dạy ông ở trong hôn trầm tán loạn, thuận nghịch v.v... tìm cái lỗ mũi nào khác. Chỉ dạy ông ở trên hôn trầm, tán loạn v.v...chỉ đề khởi thoại đầu tự khán, hằng chẳng buông bỏ, cũng chẳng vọng khởi niệm thứ hai phân biệt đây là hôn trầm, tán loạn, thuận nghịch v.v..., đây chẳng phải là hôn trầm, tán loạn, thuận nghịch v.v...Hạ thủ công phu chỉ cần ngộ thoại đầu, chẳng cần ông bài trừ hôn trầm, tán loạn v.v...Ông chỉ cần thống thiết nghĩ đến việc lớn sanh tử vô thường, đơn đề một câu thoại đầu khởi lên đại nghi tình để cầu chánh ngộ. Hễ niệm sanh tử thiết tha thì tự nhiên thoại đầu miên mật. Ở chỗ khán thoại đầu miên mật, hôn trầm tán loạn tự nhiên chẳng hiện. Lúc hạ thủ công phu thấy có hôn trầm tán loạn v.v...tức là cái niệm vì sanh tử của ông chẳng thống thiết, niệm khán thoại đầu chẳng miên mật.
Lại nói ở trên thoại đầu khởi nghi tình sợ rơi vào suy nghĩ. Nói vậy là sai rồi. Người xưa chỉ vì việc lớn sanh tử chưa giải quyết, hai ba mươi năm đi ba ngàn dặm, một muôn dặm, gặp thiện tri thức liền thưa: "Con vì việc lớn sanh tử", chứ đâu từng khán thoại đầu, khởi nghi tình. Tuy chẳng khán thoại đầu, khởi nghi tình mà cái tâm vì việc lớn sanh tử chưa giải quyết, chính là chỗ nghi của người xưa.
Người tham học thời gần đây có cái khổ là chẳng lấy sanh tử làm việc lớn, lại còn thêm ngữ ngôn rườm rà của Thiền Tông càng nhiều, khiến cho người học chưa bước vào cửa, trước đã lấy sự ghi nhớ ngữ ngôn làm sự nghiệp, khiến cho cái chánh niệm vì sanh tử bị ngăn cách. Cho nên các bậc tôn túc thời gần đây bất đắc dĩ đem câu thoại đầu vô nghĩa vô vị ném vào trong ruộng bát thức của ông, bảo ông bỏ đi tất cả tri giải, chỉ hướng vào chỗ chưa hiểu của câu thoại đầu nghi đi. Cái nghi tình như đụng nhằm núi bạc vách sắt trước mặt không có một bước có thể tiến, vừa khởi niệm thứ hai là rơi vào suy lường. Hễ chẳng khởi niệm thứ hai tức là nghi tình, trong nghi tình nầy tự nhiên cắt đứt tất cả các bệnh tri kiến, giải hội, hốt nhiên ông ở chỗ nghi đụng nhằm lật ngược (ngộ) mới biết như một lời nửa câu của cổ nhân thật là đống lửa lớn, là suy mao kiếm (*) chẳng thể phạm được. Hễ dốc lòng tin thì không việc gì chẳng xong.
GHI CHÚ
(*) Suy mao kiếm: tên một thứ bảo kiếm rất bén, có thể để sợi tóc lên trên lưỡi thổi một cái thì tóc đứt liền.

#52 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 16/09/2011 - 11:27

PHẦN III:
12. KHAI THỊ THIỀN NHÂN NHẬT BỒN NGUYÊN
Tâm nầy mê thành sanh tử, ngộ thành niết bàn. Vậy cái mê sanh tử hẳn là khó trừ, nhưng trái lại chẳng biết niết bàn của ngộ vẫn là mạt vàng rơi vào mắt. Phải biết Bát-Nhã như đống lửa lớn chẳng cho tất cả ghé vào. Ông hạ thủ công phu, tâm chẳng chịu chân thật thiết tha, chẳng thể ở trên một niệm đầu tiên làm mù (không biết gì hết) để tọa đoạn, trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ ngây ngây tương tợ như người chết dựa vào câu thoại đầu sở tham, tất cả đều chém đứt. Người học thường ở chỗ tọa chẳng đoạn mà sanh ra sự tính toán sai khác, cho là khó, là dễ, dẫn khởi tình vọng sai biệt lăng xăng giao tiếp, lòng chẳng thể tùy chỗ cắt đứt. Rồi lập mười điều nguyện nặng, muốn dựa vào sức của các nguyện nầy cắt đứt những suy nghĩ vẫn vơ, vọng tưởng hư huyễn như đá đè cỏ, dẫu cho có lập ngàn điều nguyện nặng cũng đè chẳng được, càng thấy xa xôi.
Ông chẳng nghĩ sanh tử vô thường là một đoạn nhân duyên lớn nhất từ vô thỉ. Ông cần muốn tương ưng thì không có phương tiện nào khác hơn là chỉ có một câu thoại đầu sở tham, ngay đây chỉ cần một phiến chánh niệm quyết định chẳng thoái chuyển, chẳng đổi dời, sống cùng nó sống, chết cùng nó chết. Giả sử khi chưa ngộ, ngàn Thích Ca, muôn Di Lặc trút cả bốn biển Phật pháp vào lỗ tai ông cũng đều là trần lao hư vọng chứ chẳng phải cứu cánh. Chỉ vì cái chánh niệm của ông chẳng vững vàng nên điên đảo cuồng vọng ngàn đường muôn lối trọn không có lúc thôi nghỉ.
Cẩn trọng! cẩn trọng!
Thiền nhân Nguyên hãy cố gắng!
13. KHAI THỊ THỊ GIẢ TỰ HẢI VĂN
Phật Tổ thuở xưa thống thiết vì việc lớn sanh tử chưa giải quyết xong, nhiều kiếp ở trong biển bồ đề huân tập sâu dầy, luyện kỹ chẳng phí phút giây cho đến ở trong pháp bồ đề bỏ trăm ngàn muôn ức thân mạng, xem phú quý ân ái chẳng khác nào bụi bay qua mắt. Một niệm chăm chăm đề khởi câu thoại đầu vô nghĩa vô vị của cổ nhân, quên lạnh quên nóng, bỏ ngủ bỏ ăn, chẳng đến chỗ đại phát minh, chỗ hoàn toàn thôi nghỉ thì chẳng thôi. Đủ thế tài như thế, mỗi mỗi thấu đảnh thấu đáy, đầu đuôi xâu suốt với nhau. Sau đó đem chỗ sở đắc đưa vào lò rèn trui đi luyện lại để cho mảy trần sạch hết, trắng trẻo thanh khiết, ở trên bờ sanh tử niết bàn dạo chơi tự tại, đây là người tâm không thi đậu về. Đâu có giống như người thời nay gót chân cạn cợt chẳng chịu tử tâm, tử chí hướng vào chỗ chân thật đứng vững gót chân để cầu chân thật giải thoát, chỉ quý ở trên sách vở ghi nhớ, bên miệng nói tai nghe, nhiễm thành thói quen chỉ muốn hiểu thiền là xong. Trái lại, chẳng biết việc lớn sanh tử ở dưới gót chân vẫn y như cũ đen như dầu hắc, chẳng những vô ích mà còn hại nữa.
Thị giả Tự-Hải-Văn cầu lời cảnh sách, tôi khai thị đường tắt nhập đạo như thế.
Hạ thủ công phu cần tin cho nổi. Từ một niệm đầu tiên tin cho nổi, như vậy ba mươi năm vĩnh viễn chẳng sanh niệm thứ hai. Càng tham chẳng được càng thêm tinh tấn, càng hạ thủ chẳng được càng thêm dũng mãnh. Ông ở chỗ hạ thủ chẳng được, tham chẳng được, chợt sanh một niệm nghi hoặc vọng kiến khởi các thứ tình giải hoặc phàm hoặc thánh v.v...đều rơi vào hầm sanh tử.
Tham thiền, nếu tham chẳng được chẳng nên nói căn khí chậm lụt, chẳng nên nói nghiệp chướng nặng, chẳng nên nói thời tiết muộn, chẳng nên nói chẳng gặp thiện tri thức. Đại ý chỉ vì một cái chánh niệm vì sanh tử của ông chẳng chân chẳng thiết. Tâm nầy nếu chân thiết, nói gì ba mươi năm, mà ba mươi đời cũng không sợ hãi, cứ mật thiết hướng tới trước tham cứu. Cổ nhân nói:
Điều can trác tận trùng tài trúc
Bất kế công trình đắc tiện hưu.
(Cần câu gãy hết trồng trúc khác
Chẳng tính công trình, được mới thôi.)
Nếu ông chẳng đủ những thể tài nầy thì tham thiền học đạo đều là kiến giải điên đảo. Người học đạo chân chánh cần phải biết.
Thị giả Văn hãy cố gắng, lão huyễn nói như thế.
14. KHAI THỊ THIỀN NHÂN Ý
Phật pháp toàn thể là ông đầy đủ, ông vừa chợt sanh một niệm muốn nhằm ở trên Phật pháp nắm lấy thì đã rơi vào ý địa, không bao giờ cùng với Phật pháp tương ưng. Ông nếu chân chánh chẳng chịu bỏ qua việc lớn sanh tử, lại chẳng hướng vào lúc một niệm chưa khởi mà gánh vác, chỉ đem câu thoại đầu :"Khi tứ đại tan rã hướng vào chỗ nào an thân lập mạng?". Tùy theo ông bất cứ ở chỗ nào đứng ngồi miên mật tham cứu. Chính đương lúc tham, tất cả những nghĩa lý của Kinh điển và ngữ ngôn, công án trong Thiền Tông từ xưa đến nay đã ghi nhớ được đều chẳng được nhớ nửa chữ trong lòng, cũng chẳng được treo nửa chữ ở bên khoé miệng. Trong 24 tiếng đồng hồ ngây ngây tương tự như xác chết biết đi. Chỉ như thế chuyên chú đề câu thoại đầu sở tham, tham cứu lâu ngày chẳng lui sụt thì tự có cái thời tiết siêu nhiên đốn ngộ. Ông nếu chưa đích thân đến cái thời tiết chánh ngộ nầy mà chỉ muốn đem tâm ý thức hướng lên trên ngữ ngôn tương tợ hoà hội tri giải, dẫu cho ông hiểu được một gánh Thiền đạo Phật pháp, đây gọi là "ăn đàm dãi con chồn", muôn kiếp ông cũng không xong việc.
Thiền nhân Ý hãy nhớ lấy!
15. KHAI THỊ THIỀN NHÂN NHÂN
1. Chỉ có niềm tin mới khiến cho mình đề khởi câu thoại đầu sở tham bất kể thời hạn, bền bỉ tham đi tự nhiên có lúc ngộ nhập. Chẳng nên ở ngay lúc tham cứu sanh ra tất cả tâm nghi ngờ, lại chẳng nên sanh tất cả tâm cầu mau khai ngộ. Ví như đi đường, gắng sức ắt tự đến nơi.
Lúc tham thoại đầu, hạ thủ công phu, hễ có tất cả kiến văn giác tri kỳ đặc, thù thắng, ứng nghiệm v.v... đều là duyên ma, chỉ cần chẳng sanh tâm chạy theo, lâu ngày tự cởi mở. Ông nếu vừa sanh một niệm tình chấp ưa thích thì rơi vào cảnh ma, tự cho là phát minh, trở thành cuồng loạn.
Ngộ đạo như người đến nhà, cảnh vật trước mắt đều là nhà cũ, mỗi mỗi tự nhiên ổn đáng rõ ràng, không còn có một mảy may nghi hoặc. Nếu như còn nửa điểm nghi hoặc quyết định chẳng phải nhà cũ thì phải tiếp tục tham cứu. Bằng không, thì vọng thành dị kiến.
Tham chữ "Không", chỉ cần hướng lên trên chữ KHÔNG khởi nghi tình tham "Triệu Châu vì sao nói chữ KHÔNG" nầy?. Trong 24 tiếng đồng hồ chỉ tham như thế. Chính đương lúc tham, chẳng hỏi có suy nghĩ phân biệt hay không suy nghĩ phân biệt. Có suy nghĩ hay không suy nghĩ đều thuộc về vọng tưởng. Hôm nay chỉ muốn ông hướng lên trên câu thoại đầu sở tham khởi nghi tình. Chẳng nên ở trên tất cả cảnh duyên khởi tưởng phân biệt. Hễ ngoài câu thoại đầu sở tham ra, khởi một niệm khác bất luận là niệm về Phật, niệm về Pháp đều là chẳng phải chánh niệm. đều là hạt giống sanh tử.
Người chân thật hạ thủ công phu trong 24 tiếng đồng hồ,niệm niệm như cứu lửa cháy đầu, như một người địch với muôn người, đâu có thì giờ rảnh mà để ý đến thân mạng thế duyên, cũng đâu có thì giờ rảnh để yêu cầu người khai phát, cũng đâu có thì giờ rảnh hỏi người để tìm ngôn cú, tìm giải hội.
Lại có một hạng người ba ngày không được khai phát thì tâm mờ mịt. Bọn nầy đều là người đuổi theo vọng lưu chuyển, chẳng phải là người hạ thủ công phu.
Đại khái, người hạ thủ công phu như kẻ ăn trộm muốn trộm vàng bạc của người, lúc đi cũng muốn trộm, lúc ngồi cũng muốn trộm, lúc rảnh cũng muốn trộm, lúc bận cũng muốn trộm, lại đâu để lộ cái tâm muốn ăn trộm nầy cho người ta thấy. Càng muốn ăn trộm thì càng giấu kín ý muốn. Tâm tâm, niệm niệm như thế lâu ngày chẳng lui sụt thì đến được địa vị của cổ nhân. Đâu giống như người trong 24 tiếng đồng hồ làm chủ không được, chỉ muốn chạy theo vọng tưởng lưu chuyển, cố làm chủ tể, chạy lên bồ đoàn làm hình thức, niệm niệm giong ruổi tìm cầu chẳng chịu thôi nghỉ, đâu tìm được thời tiết tương ưng.
Hãy ghi nhớ!
Thời giờ qua mau như nước chảy, phải nên tự tỉnh!
16. KHAI THỊ THIỀN NHÂN DIỆU NHIÊN
Tham thiền chỉ cần tin cho nổi và đến trên câu thoại đầu tham đi, chẳng cần đem ý thức hướng lên trên "nhất" cùng "vạn" suy nghĩ. Ông nếu suy nghĩ nói: "nhất" là vật gì, "vạn" là vật gì, dẫu cho ông chỉ điểm được rõ ràng minh bạch cũng chính là si cuồng chạy ở bên ngoài chẳng bao giờ cùng với đạo tương ưng.
Ông nếu tin nổi thì chẳng cần hỏi NHẤT là NHẤT ở chỗ nào? VẠN là VẠN ở chỗ nào? Ông chỉ lo NHẤT thì chỉ là NHẤT, VẠN chỉ là VẠN. Chỉ cần nhằm dưới "NHẤT quy về chỗ nào?" đứng vững gót chân một niệm vạn niên tham đi! Tham đến lúc tâm không thi đậu, đại triệt đại ngộ, thì ngay nơi NHẤT mà VẠN, ngay nơi VẠN mà NHẤT,NHẤT chẳng phải VẠN, vạn chẳng phải NHẤT rõ ràng ở trong lòng. Ông nếu chưa ngộ dù cho ông đem NHẤT cùng VẠN nói được nhiều lời hay đẹp cũng đều chẳng ra ngoài vọng tưởng điên đảo. Thượng nhân Nhiên hãy tin lấy!
17. KHAI THỊ THIỀN NHÂN HUYỀN
"Triệu Châu vì sao nói chữ KHÔNG?" Chỉ cần trong 24 tiếng đồng hồ miên mật đề khởi đại nghi tình tham đi, chẳng cần nghi câu nầy cùng với các câu thoại đầu "cây bách trước sân" và "núi Tu-Di" là đồng hay là khác. Nếu ông đem ý thức hướng lên trên thoại đầu so sánh thì sẽ dẫn vào trong lưới nghiệp thức không bao giờ ông ngộ được.
Tham thiền cần phải cắt đứt mạng căn sanh tử, không có phương tiện nào khác. Ông chỉ cần cắt đứt các thứ tri kiến giải hội, chỉ nắm chắc câu thoại đầu sở tham chẳng kể năm tháng, tận tình tham đi, chẳng sợ không ngộ. Ông nếu một niệm nắm không chắc thì thấy chỗ hạ thủ của ông chẳng tương ưng, phần nhiều sanh giải hội, đâu có lý nào cái tâm giải hội có thể cắt đứt được mạng căn sanh tử!
Ở quê hương ông, từ trước đến nay không có người nói đến cách hạ thủ công phu, phần đông chỉ hướng lên con đường nghĩa lý tri giải mà đi. Dẫu có hiểu được rõ trong bụng Phật Thích Ca cũng chỉ là nghiệp thức mênh mang. Ngài Qui Sơn nói: "Thiền Tông nầy khó được chỗ nhiệm mầu của nó, rất cần phải kỹ lưỡng dụng tâm"; thật chẳng phải dễ. Chỉ cần dốc lòng chân thật bền lâu tham đi, quyết chẳng dối gạt nhau đâu!
Ngài Triệu Châu nói : "Vì y còn nghiệp thức". Một lời nầy là con mắt kim cương của Triệu Châu, chẳng nói với người học là "có nghiệp thức". Ông nếu hướng lên trên nghiệp thức hội thì con mắt kim cương của Triệu Châu đồng thời cũng bị mù mất.
Hôm nay ông chẳng cần hỏi có nghiệp thức hay không nghiệp thức, chỉ đề khởi câu thoại đầu nói trên chẳng quày đầu, chẳng khởi niệm, tham lâu ngày tự nhiên ngộ, chẳng cần sanh một chút tri kiến nào khác; cũng chẳng cần hỏi nghi lớn nghi nhỏ, khởi cùng chẳng khởi. Vừa có tri kiến nầy là quày đầu, khởi niệm rồi vậy.
18. KHAI THỊ THƯỢNG NHÂN MỤC (trong lúc bệnh)
Kinh Di-Giáo nói: "Ví như người chăn trâu cầm roi trông nom chẳng cho nó phạm vào lúa mạ của người".
Ngài Qui Sơn nói: "Một khi vào đám cỏ, nắm mũi kéo ra". Tổ Bá Trượng khen: "Ông đúng là người chăn trâu giỏi".
Phải biết tứ đại là thân bệnh, lục căn là tâm bệnh. Một câu thoại đầu muốn ông tham cứu là thiền bệnh. Một niệm rỗng sáng ngay đó siêu việt, là Phật bệnh. Nói một cách vi tế thì hễ dính vào kiến văn giải hội đều là nguồn gốc của bệnh, huống là ăn uống thất thường, cơ thể sanh bệnh, cái nầy là bệnh ở trong bệnh. Nay muốn trị bệnh nầy cũng không khó, chỉ cần đem câu thoại đầu "Triệu Châu vì sao nói chữ KHÔNG?" đặt ở trên chiếu, bên gối. Đây là thuốc thần đáng giá ngàn vàng. Muốn cho thuốc nầy linh nghiệm, không có cách nào khác hơn là khiến cho trong lòng lạnh băng băng, rỗng lặng lặng, trăm điều chẳng nghĩ, trăm điều chẳng lo, Phật đến, Tổ đến đều để các ngài qua một bên, chẳng cần biết đến, trong lòng không nghĩ trước tính sau, trong ngoài như cây khô, tro lạnh, con quỷ vô thường giết người hiện ra trước đều tọa đoạn một lượt. Hạ thủ như vậy ấy là chăn trâu, ấy là lương y, ấy là thiền trong niết-bàn-đường, ấy là việc gốc của người xuất gia hành cước. Còn có một câu chưa chỉ bày, đợi ông thuốc bệnh đều quên sẽ nói cho ông nghe.
Thượng nhân Mục trong khi bệnh cầu cảnh sách, tôi viết như thế để cảnh sách ông.
19. KHAI THỊ THIỀN NHÂN DẬT
Nghi tình không lớn nhỏ, hễ nghi nặng thì gọi đó là đại nghi, nghi nhẹ thì gọi đó là tiểu nghi.
Sao gọi là nặng? Chỉ nghe nói đến việc lớn sanh tử liền tự mang ở trong lòng, muốn buông xuống buông chẳng được, tương tợ như người rất đói cầu miếng ăn, tự nhiên buông chẳng được, dẫu muốn chẳng khởi cũng chẳng tự do mà chẳng khởi, đây là nặng, cho nên gọi là đại nghi. Có cái đại nghi nầy thì tự nhiên bỏ ngủ quên ăn, thân tâm nhất như, cũng không biết là đại nghi, tự nhiên nghi mãi chẳng thôi. Như người xưa đứng trước sân khán chữ KHÔNG mưa to đến toàn thân đều ướt chẳng biết thân mình ướt, nhân vị tăng bên cạnh gọi, tỉnh lại mới biết trên thân bị mưa ướt. Đây là công phu thuần thục quên cảnh quên duyên, đây là đại nghi. Đương lúc đại nghi trong lòng ông vừa có một niệm biết là đại nghi thì đã lầm rồi, cũng chẳng thành đại nghi. Cảnh giới của đại nghi nầy chẳng thuộc về ông. Ông muốn được cần phải có cái chánh niệm vì sanh tử trong tâm ông chân thật thống thiết, không có một điểm sắp đặt so sánh, lâu ngày chầy tháng đều không gián đoạn tự nhiên hiện tiền. Không có chỗ để ông ra sức, ông hạ thủ công phu đều không có phương tiện, cũng không có chỗ thương lượng. Chỉ cần một cái chánh niệm vì sanh tử chân thật thống thiết lâu ngày tự nhiên siêu việt. Ông vì chẳng rõ cách hạ thủ cho nên mới sanh ra nhiều tri giải.
Hôm nay chẳng cần sanh tất cả giải hội, cũng chẳng cần nói tôi căn tánh hạ liệt, cũng chẳng cần nói tôi đối với bát nhã duyên cạn, cũng chẳng cần hỏi người khác để cầu phương tiện khéo léo uyển chuyển khai thị, hễ có một chút dị kiến đều là tà ma, ngoại đạo. Trong suốt 24 tiếng đồng hồ chỉ nắm chặt câu thoại đầu "Triệu Châu vì sao nói chữ KHÔNG?". Hôm nay tham chẳng được, hôm nay nắm chặt, ngày mai tham chẳng được, ngày mai nắm chặt, cho đến năm nay năm tới, đời nầy đời sau cũng chẳng cần hỏi bao lâu. Hễ tham chẳng thấu, chỉ thế ấy nắm chặt đi, trừ cái chánh niệm dốc cả thân tâm hạ thủ công phu lâu dài nầy ra thì dẫu Thích Ca, Đạt Ma có trút hết thiền đạo vào trong bụng ông cũng cứu ông chẳng được.
Hãy nhớ lấy! Hãy nhớ lấy!

#53 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 17/09/2011 - 07:47

PHẦN IV:
20. KHAI THỊ THIỀN NHÂN ANH
I. Thiền Tông có một hạng người thông minh linh lợi ngay dưới ngữ ngôn của cổ nhân giải hội được tương tự bèn nhận lấy. Lúc ấy cổ nhân chẳng có thời giờ nghiệm lại người ấy ngộ hay chẳng ngộ, nhất thời bỏ qua. Người ấy liền đem cái chỗ nhận của mình dạy người rằng chẳng cần tham thoại đầu chỉ quý sa#n sàng lãnh hội, kéo nhau vào trong lưới tri kiến, lúc nói thì in tuồng như đồng, chỗ làm thì trọn không dính dáng.
Có một hạng người căn cơ ngu độn, thấy nói tham thiền cần phải khán thoại đầu khởi đại nghi tình mới đốn ngộ nhập, ngay đó cứ nắm chặt câu thoại đầu sở tham hai ba mươi năm, đầu đuôi xâu suốt liền nhau chẳng chịu buông bỏ. Lâu ngày tình vọng tiêu hết, sau khi khai ngộ hễ có người học đến thỉnh-ích, ắt muốn họ hạ thủ công phu khán thoại đầu khởi nghi tình. Những bậc thầy loại nầy dạy người tuy khó thấm vào, song trước sau chẳng làm hư hỏng căn tánh người học.
Từ khi có Thiền Tông đến nay tuy nói: "Trực chỉ nhân tâm", nhưng vào cửa có muôn đường ngàn lối bất đồng. Bởi vì các bậc thầy tuy đều căn cứ vào một cái lý "trực chỉ" mà theo căn tánh người và chỗ ngộ nhập của chính mình chẳng đồng, vì thế dẫn dụ chẳng đồng, nhưng chỗ chí lý cứu cánh là một, đều là liễu thoát việc lớn sanh tử, ngoài ra không làm việc gì khác. Chúng sanh tâm thức sai khác nhau rất nhiều chẳng thể một phen ỉa (ngộ) liền thôi.
Lại có thuyết nói: "Sau khi ngộ cần phải gặp thiện tri thức", hoặc có thuyết nói: "Được chỗ ngộ nhập rồi cần phải thật tiễn bảo nhậm". Đó đều là chỗ ngộ chưa triệt để, còn kẹt ở dị chấp, chẳng thể gỡ niệm cởi trói cho người, cho nên mới có nói: "Gặp thiện tri thức và thật tiễn bảo nhậm"; nếu ngộ triệt để thì không có nói như thế. Cổ nhân tuy chẳng khán công án khởi nghi tình, chỉ vì lúc chưa ngộ, các ngài dụng tâm cùng với người thời nay khác hẳn. Nếu dạy người thời nay chẳng hạ thủ công phu, thì họ đều ngồi trong cái lưới điên đảo.
Cổ nhân có nói: "Dựa vào người khác để hiểu là làm chướng ngại cửa ngộ của mình". Kinh Viên Giác nói: "Chúng sanh đời mạt pháp hy vọng thành đạo, chẳng cho cầu ngộ, chỉ thêm đa văn, tăng trưởng ngã kiến".
II. Việc lớn sanh tử là từ vô lượng kiếp về trước trôi nổi đến ngày hôm nay, chẳng phải một sớm một chiều mà thành. Hôm nay muốn lật ngược lại cái sanh tử căn trần trôi nổi từ vô lượng kiếp nầy chẳng phải là chuyện dễ!
Phải lấy chí khí quyết định đem hết cuộc đời nầy làm kỳ hạn. Đời nầy nếu chưa xong, thì đời sau, kiếp tới tiếp tục làm nữa! Phải biết việc nầy không có chỗ cho ông ra sức, không có chỗ cho ông nôn nóng, không có chỗ cho ông dụng tình; càng ra sức càng mê muội, càng nôn nóng càng lăng xăng, càng dụng tình càng hôn trầm tán loạn. Chỉ cần tất cả chỗ đều mật mật thiết thiết nắm chắc một câu thoại đầu sở tham, tất cả chỗ chẳng được buông bỏ, chẳng được gián đoạn, chỉ như thế mật mật thiết thiết như mèo chăm rình bắt chuột mà tham cứu đi!
Thứ nhất, chẳng nên lập kỳ hạn.
Thứ hai, chẳng nên tránh huyên náo cầu yên tịnh.
Thứ ba, chẳng nên chọn lựa cảnh duyên.
Thứ tư, chẳng nên đem tâm chờ ngộ.
Thứ năm, chẳng nên tính kể công trình.
Thứ sáu, chẳng nên tìm phương tiện khác.
Thứ bảy, chẳng nên gặp chướng nạn mà lo buồn.
Thứ tám, chẳng nên gặp thuận mà vui mừng.
Thứ chín, chẳng nên sanh tâm khiếp sợ.
Thứ mười, chẳng nên lấy bỏ, nương tựa, chống trái.
Lìa mười việc nầy, chỉ thận trọng giữ lấy câu thoại đầu: "Khi tứ đại tan rã hướng vào chỗ nào an thân lập mạng?". Hết cuộc đời nầy cho đến đời vị lai, chỉ như thế cứ hướng tới trước. Nếu hiện tại tham chẳng được cũng chẳng nên đổi câu thoại đầu sở tham. Thiền nhân Anh hãy cố gắng!.
21. KHAI THỊ THƯỢNG NHÂN KHÔNG ở HẢI ĐÔNG
Phật Tổ chẳng nỡ thấy ông có sanh tử tình thức như ngọn đèn,tựa giọt nước không có lúc tạm dừng. Cái chỗ chẳng dừng ấy chẳng kẹt thanh thì kẹt sắc, chẳng kẹt không thì kẹt có, chẳng kẹt công dụng thì kẹt vô vi, chẳng kẹt thánh thì kẹt phàm, niệm niệm chẳng dừng gặp chỗ nào cũng dính mắc. Chỗ dính mắc ấy là cái sanh tử dao chặt chẳng đứt, cưa xẻ chẳng ra. Phải biết sanh tử tình thức nầy ở trong cứu cánh không biến thành cứu cánh có, tự trói, tự buộc chưa từng có chút gián đoạn.
Ngày nay thật muốn giải quyết xong một đoạn sanh tử chẳng chút gián đoạn nầy thì phải lập tức phát khởi tâm chân chánh, quyết định chẳng gián đoạn, đề khởi câu thoại đầu của cổ nhân một cách miên mật, cùng nó cứu cánh đi! Một đoạn công phu nầy thật không có chỗ cho ông suy lý, không có chỗ cho ông tìm hiểu, không có chỗ cho ông hoà hội, cũng không có chỗ cho ông trốn tránh, chỉ có lòng tin chân thật nầy đưa ông nhập vào mà thôi.
Các vị tôn túc thời gần đây phần đông chẳng lấy việc lớn sanh tử làm điều thiết yếu cho người học. Thường thường chỉ muốn cho người học chóng hiểu thiền đạo cho nên hay đem những lời thiển cận ra dẫn dụ người học, làm tăng thêm tri giải của họ. Dẫu cho biết được hoàn toàn, hiểu được minh bạch, nếu chẳng từng ở trên việc sanh tử tình thức ngộ một phen thì đều là kẻ si cuồng chạy ở bên ngoài. Huống là người học lại tự không có chí khí quyết định, thường thường hạ thủ công phu một thời gian mà không chỗ ngộ nhập bỗng khởi niệm khác mà tự không hay biết, không đủ tư cách làm Tông Sư mà muốn đi ra dạy người, chỉ biết nói sôi nước miếng trong miệng, dù nói được nhiều lời hay đẹp, cũng chỉ là cùng với đạo toàn trái, đều không có chỗ đúng.
Người tham thiền cần phải hai ba mươi năm chẳng đổi, chẳng khác, chẳng động, chẳng lay, cho đến hô hoán bất hồi đầu, la lung bất khẳng trụ (nghe réo cũng không quày đầu lại, cũi lồng cũng không trụ) nghĩa là dù cho lời nói cao siêu hơn Phật cũng chẳng nghe, đắc quả Phật cũng chẳng trụ, chẳng chấp đây, chẳng chấp kia, chẳng chấp thánh, chẳng chấp phàm. Tuy nói chẳng chấp tất cả mà cũng chẳng cho là chẳng chấp tất cả, chỉ duy nhất có một câu thoại đầu sở tham niệm trước cũng thế ấy, niệm sau cũng thế ấy, chỉ có một cái tâm muốn giải quyết xong sanh tử vô thường, dằng dặc sừng sững đuổi chẳng đi, lay chẳng động, đề khởi câu thoại đầu "Khi tứ đại tan rã, hướng vào chỗ nào an thân lập mạng. Chỉ ở ngay câu thoại đầu nầy hỏi để khởi nghi tình, quyết định muốn biết chỗ an thân lập mạng". Chính đương lúc hạ thủ như thế, nếu bỗng có người đem trăm ngàn thiền đạo Phật pháp rót vào trong tâm của ông, ông cũng phải lập tức mửa ra, thà có thể hết một báo thân nầy chẳng ngộ chứ cương quyết chẳng chịu trong lúc chưa ngộ nhiễm tập một mảy may tri kiến giải hội thiền đạo Phật pháp, cũng chẳng ở lúc chưa ngộ khởi một mảy may tâm niệm muốn hiểu thiền đạo Phật pháp. Bởi vì thiền đạo Phật pháp không có chỗ cho ông hiểu; kiến văn giác tri không có chỗ cho ông tránh; tình thức hư vọng không có chỗ cho ông dứt; sanh tử vô thường không có chỗ cho ông giải quyết xong. Ông nếu toan khởi một mảy may tâm niệm muốn hiểu, muốn tránh, muốn dứt, muốn xong thì càng chẳng tương ưng. Vì thế, việc nầy cổ nhân dụ như đống lửa lớn, trừ phi bậc đại trượng phu chân thật gan dạ chẳng màng đến tánh mạng, phóng thân thẳng vào chẳng còn do dự, cũng không có một chút dị kiến, mà chỉ muốn giải quyết xong sanh tử vô thường. Lâu ngày thuần thục bất giác bất tri nhồi thành một khối mở toang chánh nhãn thấy suốt cội nguồn, mới biết thiền đạo, Phật pháp chẳng đợi hiểu mà hiểu, kiến văn giác tri chẳng đợi quên mà quên, tình thức hư vọng chẳng đợi dứt mà dứt, sanh tử vô thường chẳng đợi xong mà xong. Đây gọi là việc tham học xong, là thời tiết buông tay đến nhà. Đến đây còn muốn ông phải lật đổ lưới kiến chấp, đập vỡ hang pháp, quét qua bên kia, ném bỏ thân ra ngoài vũ trụ mới đủ tư cách là người gieo hạt giống Thiền Tông.
Ông nếu ngộ rồi lại còn ngồi ở chỗ ngộ, tất cả chỗ dính tay buộc chân, thì ông không có phần đại giải thoát. Cổ nhân một đời xong việc. Há chịu theo duyên cảnh che giấu tâm trộm cắp (thâu-tâm), lén động biển thức mà luống qua năm tháng ư? Nói thì nhiều lời, hãy nhớ lời cổ nhân dạy:
Cố gắng đời nầy giải quyết xong, Đừng cho muôn kiếp chịu tai ương.
Là đủ rồi!
22. KHAI THỊ THIỀN NHÂN VIÊN
Giới tức là giới ở trên đạo. Đạo tức là đạo ở trong giới. Tên gọi tuy hai mà lý chẳng hai.
Tại vì sao trì giới? Vì sanh tử.
Tại vì sao học đạo? Cũng vì sanh tử.
Nếu là tâm vì sanh tử thống thiết thì chẳng mong giới mà giới tự trì, chẳng hướng đạo mà đạo tự tấn. Ông nếu thật tâm chẳng vì việc lớn sanh tử thì trì giới cũng chẳng phải, học đạo cũng chẳng phải.
23. KHAI THỊ THIỀN NHÂN VẬN
Tham thiền chỉ cần thống thiết vì việc lớn sanh tử, đơn đề câu thoại đầu sở tham, ở trong động tịnh, rảnh rang, vội gấp đều tham, quyết chẳng nên chấp ngồi làm công phu. Ông nếu chấp ngồi, chấp tịnh, lại lầm nhận cảnh giới khinh an tịch tịnh trong thân, lâu ngày ắt sanh ra trăm ngàn thứ thiền bệnh, Phật cũng chẳng thể cứu. Ông chẳng thấy cổ nhân vốn chẳng từng hướng trên bồ đoàn, chỉ lấy các duyên động dụng cùng nó đối địch. Chỉ là cái chánh niệm muốn tham cứu cho rõ việc sanh tử nầy dằng dặc chẳng bỏ, đau đáu chẳng thôi. Lúc ấy bất tri bất giác hướng vào chỗ không biết phải làm sao ấy độc thoát (ngộ), bèn là lúc tâm không thi đậu. Trừ cái nầy ra, không có phương tiện nào khác.
Thiền nhân Vận hãy như thế tham đi!
24. KHAI THỊ ĐẦU ĐÀ ĐẠO GIẢ CHÍ-THÀNH
Muốn là người học đạo chân chánh có bản sắc, cần phải chịu được sự lao nhọc, cam được sự đạm bạc, nhẫn được sự đói lạnh; giữ được sự nghèo khổ, đảm đương được nhiệm vụ nặng, quên được danh lợi, bỏ được ân ái, trì được giới luật, làm được công phu, liễu được sanh tử, tham được thiền đạo, ngộ được Phật pháp. Những sự nghiệp nầy một vai gánh vác được rồi, lại còn cần ông chẳng thấy cái dở của người, chẳng ỷ cái hay của mình, chẳng khoe kiến văn của mình, chẳng bị thanh sắc làm mê hoặc, trong 24 tiếng đồng hồ đóng hai miếng da miệng lại, dựng đứng chí nguyện muôn năm một niệm, thường giữ chánh niệm, thủ hộ thân tâm chẳng rơi vào cảnh duyên, chẳng sanh yêu ghét. Nếu như hạnh đó chẳng dời, giữ đó chẳng đổi thì một cành hoa giơ lên trong hội Linh-Sơn, sẽ chẳng nhường lão Ẩm-Quang (Ngài Ca-Diếp) mỉm cười ở trước trăm vạn đại chúng, mới chẳng cô phụ ông lìa cha mẹ, bỏ thế duyên, cạo râu tóc, mặc áo rách, hành khổ hạnh làm người học đạo. Nếu như chẳng được như vậy thì miệng ăn cơm của người, thân mặc áo của người, đầu đội mái nhà của người, chân đạp trên đất của người, ngây ngây chẳng tỉnh, ngốc ngốc chẳng biết, một báo thân nầy bỗng kết thúc phải thay hình đổi dạng trả nợ cho thí chủ, lưu chuyển, luân hồi, có ích gì đối với lý đạo đâu.
Đạo giả Chí-Thành viết thư cầu pháp ngữ để cảnh sách suốt đời.
Tôi nói kệ khai thị:
Tham thiền học đạo yếu đồ thành.
Kiếm nhẫn băng lăng túng bộ hành
Hành đáo lộ cùng hồi thủ xứ
Đường tiền tam bảng phóng thiên thanh.
Dịch nghĩa:
Tham thiền học đạo muốn mong thành
Kiếm bén băng trơn bước một mình
Đi đến cùng đường quay đầu lại
Nghe ba tiếng bảng xả tham thiền.
25. KHAI THỊ THỦ TỌA DƯỠNG TRỰC MÔNG
Sơ Tổ Thiếu-Lâm nói :"Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật". Chữ trực của trực chỉ là lìa nói năng, có nói năng ắt chẳng phải trực. Bặt suy nghĩ, vừa suy nghĩ thì chẳng phải trực. Không tạo tác, toan tạo tác thì chẳng phải trực. Diệt tu chứng, có chút dính dấp đến tu chứng thì chẳng phải trực. Từ đó truyền xuống sáu đời đến Tổ Tào Khê, Ngài bảo :"Nói đến trực chỉ đã là quanh co rồi". Ngay dưới lời nói nầy còn dung được cái đạo lý nào!
Cổ-nhân bất đắc dĩ dạy ông buông bỏ, thôi nghỉ. Lại dạy ông một niệm chẳng sanh, cho đến những lời như thiện ác đều chớ nghĩ v.v..., suy nghĩ như thế đều chẳng trực rồi.
Thủ-Toạ Mông, hiệu Dưỡng-Trực có chí muốn dưỡng cái trực của trực-chỉ chỉ cần đem câu thoại đầu "Triệu Châu vì sao nói chữ KHÔNG?" đặt ở trong lòng, chớ hỏi một niệm sanh hay chẳng sanh, đạo lý trực hay chẳng trực, đứng vững gót chân,liều một đời thật sự dốc cả thân tâm lập chí, quyết định chỉ tham cứu như thế. Nếu nghi chẳng khởi tham chẳng được, nắm chẳng chắc, dựa chẳng ổn, đều chẳng nên mống khởi một niệm thứ hai nào khác, phải ở chỗ hạ thủ chẳng được mà hạ thủ, chỗ làm chẳng được mà làm. Chỉ có cái chánh niệm chân thật thống thiết vì việc lớn sanh tử chẳng đổi chẳng khác, nói gì hai mươi năm, ba mươi năm, vách đứng muôn trượng suốt đời tham đi! Tham đến tình vọng tiêu, tri giải hết, bất tri bất giác hoát nhiên khai ngộ như người ngủ say tỉnh mộng thấy toàn thân đổ mồ hôi mới thấy Duy-Ma-Cật nói :"Trực tâm là đạo tràng vì lìa các quanh co ". Trên từ chư Phật, dưới đến chúng sanh, lớn như hư không, nhỏ như hạt bụi không có một chút lý nào chẳng trực, đó là cái hiệu Dưỡng-Trực. Cần phải một phen như thế ấy thì trực chẳng đợi dưỡng mà tự trực. Như chẳng liễu ngộ, dẫu cho ông có ngàn thứ tri kiến cũng chỉ thêm quanh co mà thôi.
Hãy cố gắng lên!
26. KHAI THỊ TÒNG THIỀN NHÂN ở NAM-TỪ
Tòng thẳng, gai cong, hạc trắng, quạ đen, nghĩ ngợi thì chẳng được ngộ, cách xa quê nhà trăm ngàn dặm.
Tăng hỏi Triệu-Châu :
Vạn pháp quy về một, một quy về chỗ nào?
Triệu-Châu đáp :
Ta ở Thanh-Châu có may một chiếc áo vải nặng bảy cân.
Toàn thể không còn chỗ che giấu
Đương cơ từng chẳng kẹt ngữ ngôn.
Chỗ nầy, ông thông minh chẳng được, học giải chẳng được, suy lý chẳng được, tính lường chẳng được. Cần phải ba tấc mạng căn của mình thình lình bị cắt đứt, bặt tri giải, quên năng sở, tự nhiên mỗi bước siêu việt, mỗi nhịp đều đúng. Nếu chưa đến chỗ chánh đáng chân thật thuần thục nầy thì chưa khỏi trong 24 tiếng đồng hồ ở trong ruộng bát thức thường có hai người làm chủ. Một người nghĩ đến sanh tử vô thường, muốn giải quyết cho xong đạo nghiệp. Còn một người bỏ cảnh giới thuận nghịch yêu ghét thế gian chẳng nổi. Muốn làm đến chỗ xong xuôi, mà hai người nầy còn ở trong tự tâm thì chỉ thấy công phu hôm nay làm chẳng được, ngày mai cũng làm chẳng được, năm nay cũng phí sức, sang năm cũng phí sức. Vì phí sức mà làm chẳng được nên dần dần thối lui. Trong thiên hạ, người hạ thủ công phu chẳng được mà thối lui phần nhiều đều như vậy. Vì thế tiên sư (Ngài Cao Phong) thường dạy người học đạo, chẳng khởi niệm thứ hai, lâu ngày tự nhiên tương ưng.
Gọi cái gì là niệm thứ hai?
Đó là ông mở to đôi mắt giữa thanh thiên bạch nhật mà ở trên thoại đầu dựa chẳng vững, nắm chẳng chắc, nên ở trên niệm tham thoại đầu, đối với các cảnh thế gian, thân tâm, tình thức v.v... chợt sanh một niệm nhỏ như hạt cải, chính đó là niệm thứ hai. Chỉ một cái niệm thứ hai nhỏ như hạt cải nầy bèn lập tức cùng với ngàn muôn ức sanh tử giao tiếp, há tham thiền là việc dễ dàng ư?
Ngày nay học đạo chính là vì mình có một thứ sanh tử vô thường, hận chẳng thể một hơi thoát ra, lại đâu chịu chần chờ năm tháng, hao phí thời giờ, lấy tánh chạy theo tình, ngồi đợi chìm đắm! Ngài Đức-Sơn nói :"Mảy may hệ niệm là nghiệp nhân của tam đồ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh), chớp mắt tình sanh là gông xiềng muôn kiếp". Lời nầy nói đến chỗ tận cùng vậy.
Ông Tòng ở Nam-Từ viết thư cầu pháp ngữ, tôi đáp như thế và nói bài kệ :
Nhất quy hà xứ thoại đầu thông
Phật Tổ tề giao lập hạ phong
Môn hộ thục vân tương dục đoạ
Tu trì sanh trụ hữu trường Tòng.
Dịch nghĩa :
Một về chỗ nào thoại đầu thông
Phật Tổ thảy đều đứng hạ phong
Tông môn ai nói sẽ suy sụp
Ra tay chống đỡ có ông Tòng.
27. KHAI THI THIỀN NHÂN VÔ-ẨN-HỐI
I. Pháp pháp chẳng ẩn tàng (che giấu), xưa nay thường hiển lộ.
Ông tính dùng mắt để thấy thì đã ẩn tàng rồi. Việc nầy cần phải ngộ mới được.
Ông nếu chưa từng chân chánh liễu ngộ, nói ẩn tàng cũng chẳng được, nói chẳng ẩn tàng cũng chẳng được. Ông nếu quả nhiên thật có ngộ thì nói ẩn mà chẳng ẩn thì cũng được, nói chẳng ẩn mà ẩn cũng được. Nói ẩn mà chẳng bị sự che giấu câu thúc. Nói chẳng ẩn mà chẳng bị sự hiển bày làm ngại. Đây gọi là cấp cho, đoạt lại tự tại, cả hai đều xong xuôi tốt đẹp. Nếu chưa từng đích thân đến chỗ nầy, điều thiết yếu là chẳng nên gấp gáp ẩn núp trong ý thức tình vọng. Chỉ cần đề khởi câu thoại đầu sở tham không nghĩa lý, không mùi vị ngay ở trước mắt, chẳng nên khởi cái niệm thứ hai nào khác. Thường khiến cho trong lòng lạnh như băng tuyết, ngốc như cây mục, rỗng như hư không, bền như vàng đá, suốt cả một đời chẳng đổi thay, chẳng buông lung, chẳng cầu bên ngoài, chẳng gián đoạn, cho đến chẳng cách một niệm hướng tới trước làm đi. Lâu ngày nắm được chắc, hướng vào chỗ bất tri bất giác hoát nhiên rỗng sáng, ấy là tâm không thi đậu. Như thế mới chẳng cô phụ cái chí nguyện xuất gia hành cước.
Người học đạo ngày nay phần nhiều chẳng chịu hạ thủ tử công phu như thế, chỉ muốn cướp giật đồ hư giả, nói càn về thiền đạo, hủy hoại chánh nhân, làm chủng tộc ngoại đạo, chẳng phải là chỗ pháp môn kỳ vọng.
Thiền nhân Hối, hiệu Vô-Ẩn hãy nói xem lúc ẩn là ẩn cái gì? Lúc chẳng ẩn là chẳng ẩn cái gì? Nếu mạng căn chưa cắt đứt, rất k# thông tin tức bướng.
II. Tận mười phương thế giới dù muốn ẩn cũng chẳng được, muốn hiển cũng chẳng được, muốn nhận cũng chẳng được, cho đến muốn bỏ chẳng màng đến cũng chẳng được, tất cả dụng tâm đều chẳng được. Cần phải liễu ngộ, toàn thân thấu nhập, chẳng kẹt phương tiện, chẳng nương tác dụng, chẳng còn tu chứng, chẳng trụ công dụng, cho đến chẳng nương tựa một vật, như nước nhập vào nước, như hư không hợp với hư không. Sau đó ngay cả cái dấu vết để nhập, để hợp cũng không có chỗ đặt để. Đây gọi là pháp môn nhất tướng tam-muội vô-công-dụng.
Ngày nay, thường thường người ta nghe nói đến vô-công-dụng, bèn muốn đem tâm lãnh hội. Nếu đem tâm lãnh hội cái vô-công-dụng thì thành ra trụ vào công dụng rồi. Ngay đó dùng một chút tâm cũng chẳng được. Duy có một câu thoại đầu vô nghĩa vô vị, chỉ muốn ông tin cho nổi, dựa cho ổn, nắm cho chắc tất cả chỗ chẳng khởi niệm thứ hai, chỉ như thế tham đi! Nếu tham chẳng thấu cũng chẳng nên khởi cái niệm thứ hai nào khác để cầu phương tiện, tìm sự trợ giúp, vì đều chẳng dính dáng! Chỉ cần tin cho nổi, cứ như thế tham đi! Lâu ngày tự nhiên bất tri bất giác ngộ nhập. Đã ngộ rồi gọi tối làm sáng cũng được, nói ẩn làm hiển cũng được, tất cả việc làm đều chẳng lầm lỗi.
Thiền nhân Hối viết thư cầu cảnh sách, tôi viết pháp ngữ nầy khai thị. Chỉ cần dốc lòng tin, quyết chẳng gạt nhau.
28. KHAI THỊ THIỀN NHÂN BÁCH-TÂY-ĐÌNH
Tăng hỏi Triệu Châu:
Thế nào là ý Tổ Sư từ Ấn Độ sang?
Triệu Châu Đáp:
Cây bách trước sân.
Thường thường người chẳng biết ý của Ngài Triệu Châu, chú giải rằng: "Ngay nơi sắc rõ tâm, dựa vào vật để hiển lý". Tự nhiên tay cầm miệng nói đều có thể đáp, ngay lúc ấy nói: "Dưới suối dòng nước dài cũng được, trên bờ hoa đào đỏ cũng được". Ý Tổ Sư từ Ấn Độ sang nếu như thế chú giải được đi, thì người có chút thông minh đều có thể đem văn tự ngữ ngôn lãnh hội qua. Ý Tổ Sư chỉ thành ngôn ngữ lưu thông, muốn giải quyết cho xong việc lớn sanh tử vô thường có khác nào ôm củi chữa lửa.
Ý Tổ Sư cần phải ngộ mới được. Nếu chưa từng chân chánh hướng dưới gót chân chân-thật ngộ đi, thì dẫu cho ông đem cái tư thất thông minh hiểu hết một ngàn bảy trăm tắc dây dưa, (công án), nói được vẹn toàn như đựng nước trong bình không rỉ chảy, người có chánh nhãn xem, quả cũng đâu khác gì kẻ si cuồng chạy ở bên ngoài.
Từ xưa, Phật Tổ mắt chẳng nỡ thấy chúng sanh bị mê vọng tự che lấp nên bất đắc dĩ thốt ra một lời nửa câu như kiếm bén thổi lông (suy mao kiếm), như vòng lửa bằng sắt nóng, chém thẳng vào mặt, muốn cắt đứt mạng mạch của người, độc thoát căn trần, sạch trọi trơn, làm người đạo nhân tự tại chứ đâu chịu dạy người hướng lên trên ngữ ngôn nhai nuốt, trở lại càng thêm mê vọng, tự trói buộc mình ở trong sanh tử, chẳng những cô phụ cổ nhân mà cũng cô phụ chính mình, há là việc nhỏ ư?
Người chân chánh tham học đem cả cuộc đời hướng đến công phu, nếu chẳng khai ngộ thì cứ tiếp tục ở đời sau, kiếp khác quyết định phải ngộ, đâu chịu bị cỏ buộc, giấy gói, miệng nói tai nghe mà thôi ư?
"Trước khi cha mẹ chưa sanh, cái gì là bản lai diện mục của ta ?". Người có chí muốn giải quyết xong việc lớn, phải lấy một đời nầy, chân đạp đến chỗ chân thật, vách cao muôn trượng tham đi! Chỉ cần tâm không duyên theo cái nào khác, ý bặt hư vọng, lâu ngày chẳng lui sụt, thì lo gì chẳng ngộ ý Tổ Sư từ Ấn Độ sang.
Thượng nhân Bách-Tây-Đình hãy cố gắng! Cẩn thận chớ tự phụ thông minh mà bị rơi vào ý thức, Phật cũng chẳng cứu được!
Lão huyễn tôi viết như thế.

#54 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 18/09/2011 - 07:49

phần v:
29. PHÁP NGỮ TRÍCH TỪ BỘ QUẢNG LỤC

Học đạo cần phải đầy đủ năm thứ chánh tín:
1. Phải tin cái ông chủ mừng giận, buồn vui trong tâm của mình toàn thể cùng với chư phật chẳng thiếu mảy may.
2. Phải tin từ vô lượng kiếp đến nay cùng sắc thanh, yêu ghét nhiễm thành tập khí lưu chuyển kết thành một thứ sanh tử vô thường, ở trong thân tứ đại niệm niệm trôi chảy, đổi mới không ngừng.
3. Phải tin người xưa chỉ dạy một lời nửa câu như thanh Ỷ-thiên trường kiếm, luôn luôn bức bách đến chỗ tận cùng để cắt đứt mạng căn của người học.
4. Phải tin công phu hằng ngày chỉ sợ không làm, chứ làm mãi không ngừng niệm niệm tinh chuyên thì chắc chắn có ngày thấu thoát.
5. Phải tin sanh tử vô thường chẳng phải là việc nhỏ. Nếu chẳng phấn chí quyết định để mong độc thoát thì không có cách nào để tự khỏi cái khổ tam đồ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh).
Lại có ba pháp làm con đường tắt để tấn đạo:
· Mắt huệ sáng
· Lý tánh thông
· Chí kiên cố
Mắt huệ sáng thì chiếu phá cảnh giới hiện lượng thân tâm thế gian, tất cả thị phi, yêu ghét, lấy bỏ, được mất, giàu nghèo, thọ yểu, khổ vui v.v... đều là duyên mộng huyễn, trọn không thật nghĩa mà chẳng khởi phân biệt.
Lý tánh thông thì đối với ngữ ngôn danh tướng của Phật Tổ thuở xưa nói ra, cho đến pháp yếu sai biệt của Thánh hiền trong tam-giáo và bách gia chư tử đều hội quy về một nguồn chẳng sanh dị kiến.
Chí kiên cố thì từ ngày hôm nay cho đến tận đời vị lai chẳng hỏi gần xa, nếu chẳng triệt chứng, quyết định chẳng thôi.
Ba pháp nầy, nếu đủ pháp thứ nhất mà thiếu pháp thứ hai và thứ ba, chỉ thành một người vô sự.
Đủ pháp thứ hai mà thiếu pháp thứ nhất và thứ ba, chỉ thành người linh lợi.
Đủ pháp thứ ba mà thiếu pháp thứ nhất và thứ hai, chỉ thành người vác bảng (*).
Phải biết đạo nầy như đi đường xa ngàn dặm, nếu đủ pháp thứ nhất và pháp thứ hai, mà thiếu pháp thứ ba là như người đi chín trăm dặm rồi dừng.
Đủ pháp thứ nhất và pháp thứ ba mà thiếu pháp thứ hai thì chẳng khỏi khóc vì lối tẽ.
Đủ pháp thứ hai và thứ ba mà thiếu pháp thứ nhất, tôi biết người nầy chạm vật bị kẹt.
Ba pháp hoàn toàn đầy đủ, tuy chưa cất bước, tôi dám bảo đảm người nầy chẳng khác gì người đã đến nhà, còn phải hỏi về đường lối nữa ư?
GHI CHÚ
(*) Người vác bảng: Người chỉ lo hạ thủ công phu một cách tích cực, nhọc mà không thông đường lối.
Người học đạo không ai chẳng nói sanh tử là việc lớn. Đến khi bị hỏi cái gì là sanh tử, thì mờ mịt không biết đường trả lời. Hoặc có người cho rằng tại người ấy chẳng biết mới hỏi, nên thong thả nói: ông đã chẳng biết sanh tử là cái gì. Nay phát tâm vì sanh tử không phải là hư vọng sao?
Luận về việc lớn sanh tử nếu chẳng biết lý của sanh tử thì gia công học đạo vô ích. Ví như người tịch cốc, bảo họ cấy cày, dù cho có miễn cưỡng nghe lời, không bao lâu cũng lười biếng bỏ bê. Sao vậy? Vì người tịch cốc đã quên đói thì lúa thóc cũng đâu có chỗ dùng, giống như người học đã không biết manh mối của sanh tử thì tham học để làm gì? Hoặc giả miễn cưỡng cho rằng: "Sanh chẳng biết từ đâu đến, chết chẳng biết đi về đâu, ấy là sanh tử". Đây thật là lời nói ngông cuồng. Dẫu cho biết được chỗ đến, chỗ đi, thì ngay cái chỗ "biết" đó rõ ràng là sanh tử. Lấy sanh tử để thoát sanh tử, không có lý ấy.
Phải biết sanh tử nguyên không có thể tánh. Nhân mê tự tâm lầm chạy theo luân hồi thành ra có sanh tử. Ví như khí lạnh kết nước thành băng, khí lạnh chợt tiêu thì băng trở lại thành nước. Chất chứa mê nơi tâm, lầm kết sanh tử cũng vậy. Chỗ mê đã ngộ thì tâm thể trạm nhiên (như nước yên lặng trong suốt), muốn tìm sanh tử như người ngủ thức dậy tìm lại việc trong mộng, đâu có lẽ nào được!
Phải biết sanh tử vốn không, nhờ ngộ mới biết niết bàn vốn có, vì mê nên không hay. Hoặc chẳng thể triệt ngộ tự tâm mà muốn giải quyết xong việc lớn sanh tử thì có khác nào chẳng rút bỏ củi lửa mà muốn nồi nước đừng sôi, lý đó làm sao có được!
Liễu thoát sanh tử không gì thân thiết hơn ngộ tâm. Ngộ tâm không gì hơn sự lập chí. Quên lạnh nóng, bỏ ăn ngủ, không tình vọng, một niệm nầy ở chỗ động tịnh như binh hùng tướng mạnh phòng thủ thành trì nghiêm ngặt, giặc chẳng thể nào xâm phạm được. Cổ nhân gọi đó là chánh chí. Như vậy tâm như tường vách, thình lình khai ngộ.Ngộ rồi chẳng những sanh tử không tịch mà Niết-Bàn cũng không có chỗ đặt để. Bằng không, thì sanh tử cùng mê vọng giao kết từ nhiều kiếp xa xưa đến tận đời vị lai, lưu chuyển không chút gián đoạn, gọi đó là việc lớn sanh tử, há là lời hư dối ư?
Tâm chẳng mê chẳng đọa sanh tử. Nghiệp chẳng buộc chẳng thọ hình hài. Ái chẳng nặng chẳng vào Ta-Bà. Niệm chẳng khởi chẳng sanh nghiệp lụy. Bởi nhân mê khởi vọng, do vọng sanh chấp. Thuận theo chỗ chấp ấy thì cái niệm yêu thích lăng xăng mống khởi. Nghịch với chỗ chấp ấy thì cái thói quen giận ghét bừng bừng nổi dậy. Tình yêu ghét phát khởi thì dấu vết sanh tử động chuyển trôi chảy đổi mới chẳng dừng, niệm niệm nối nhau, cho đến một khoảnh sát na đủ tám trăm sanh diệt, há đợi trăm năm tắt thở, sau đó mới là sanh tử ư?
Nguyên chỗ mê kia vốn không có tự tánh, cũng không có chỗ khởi, mà chính vì mình từ vô lượng kiếp lâu xa đến nay, chẳng thể hội gốc đạo, mất đi tự tâm mà ra. Ngày hôm nay, muốn được tâm nầy, chẳng bị mê vọng lôi cuốn, không có phương tiện nào khác hơn là chỉ đề khởi câu thoại đầu: "Chết rồi, thiêu xong, cái gì là tánh của ta?". Trong 24 tiếng đồng hồ như cầm thanh kiếm bén kim cương trên tay, trước hết hướng vào trong ruộng thức thứ tám, tận lực chém một nhát như chém một cuộn chỉ rối, một nhát đứt hết. Chỗ thấy của mắt đã đứt, chỗ nghe của tai cũng đứt, cho đến mũi lưỡi thân ý, hương vị xúc pháp đồng thời đều đứt. Việc quá khứ đã dứt, việc hiện tại đang dứt, việc vị lai sẽ dứt. Lục soát hết trong lòng không có cái để dứt, và cái dứt cũng dứt. Cái dứt đã dứt thì cái dứt cũng chẳng lập. Cái dứt đã chẳng lập thì cả pháp giới đều là tự tâm. Trong ấy không có cái năng dứt và sở dứt. Năng sở đã không thì thấy nghe hay biết không có chỗ đặt để. Đến chỗ nầy tức là chỗ buông bỏ thân mạng của chư Phật, Bồ Tát, thiện tri thức thuở xưa, cũng là chỗ hoàn toàn thôi nghỉ, chỗ đại giải thoát, chỗ đại an lạc, cũng là tam muội chẳng lìa thế gian mà thành tựu xuất thế gian. Tam muội nầy vào tay, tìm cái yêu cũng chẳng thể được, tìm cái ghét cũng chẳng thể được. Ở chỗ chẳng thể được (bất khả đắc) xem lại các pháp hữu vi thế gian thấy như giấc mộng đêm qua. Như trong Kinh nói:
"Cực tịnh sáng cùng khắp
Tịch chiếu trùm hư không
Trở lại xem thế gian
Giống như việc trong mộng"
Như hiện nay, người rõ biết việc nầy như mộng, chính đang lúc nói, con người nói nầy cũng là ở trong mộng, hà huống nói xong rồi, âm thanh tan mất, tình theo cảnh đổi thay!
Nhà mộng ba cõi lăn lóc chẳng dừng, nếu chẳng phấn chí ra sức đại tinh tấn gan dạ nhảy một cái ra khỏi cái nhà đại mộng nầy, ở giữa thanh thiên bạch nhật, mặc áo cả cười một tiếng khoái chí bình sanh, nếu quyết lấy mộng đi vào mộng, phan duyên lẫn nhau, chạy theo vọng trần, đọa vào địa ngục Vô-Gián, há chẳng cô phụ từ nhiều kiếp đến nay chư Phật, Bồ-Tát đã vì ông mà gieo hạt giống Bát-Nhã bồ đề ư?
Ông nếu chẳng phải đủ hạt giống sâu dày nầy, đâu được đời nầy ở chỗ giàu sang, trong nhà thập thiện, cho đến phát tâm vào đạo, cà-sa che thân, làm người nối dòng giống Phật. Ngày nay đến chỗ nầy, đã xuất gia rồi, đã làm Tăng rồi, đã gặp thiện tri thức rồi, đã nghe đạo rồi, cái điều ông còn thiếu đó, chỉ cần ra sức làm một phen để đích thân đến chỗ cứu cánh mà thôi. Huống là tuổi chưa già, sức còn sung, nếu chẳng lợi dụng lúc thân nầy còn mạnh khoẻ đi một hơi thẳng đến nhà thì chớp mắt bèn là vô thường, già bệnh đuổi gấp, đến lúc ấy tay chân rối loạn, lỗi sẽ về ai? Đem hết tất cả những cái tham, cái yêu, cái giận, cái si của cả một đời kiểm điểm qua một lượt đều dùng chẳng được. Trái lại, còn bị nó làm chướng ngại, trói buộc, che lấp, xoay chuyển, cuốn trôi, cô phụ cái nhân duyên tốt đẹp, làm người không biết hổ thẹn, bị Phật quở trách.
Phải biết, luân hồi nơi tam giới, ra vào trong bốn loài (Noãn, thai, thấp, hoá), lăn lóc lênh đênh chịu khổ liên tục. Như thế có gì đáng lưu luyến đâu, mà chẳng chịu siêu nhiên độc thoát! Người có chí lẽ nào lại làm như thế!
BÀI CA LIỀN THÔI
Đạo nhân nói thôi, lập tức thôi
Chẳng đợi sáng chiều hay xuân thu
Thôi nầy chẳng cách đệ nhị niệm
Chỉ ngay đương niệm tâm liền thôi.
Có người hỏi:
Đạo nhân vì sao thôi được chóng?
Luân hồi sanh tử, bánh xe quay
Tự hận từ lâu thôi chẳng được
Uổng bị câu thúc khổ trần lao.
Ngày nay còn chẳng chịu thôi đi
Ý mã, tình viên ngăn chẳng được
Theo thanh theo sắc nhảy như rận
Vừa chuyển cơ luân tìm chẳng được.
Hôm nay chẳng thôi, ngày nào thôi
Tuổi trẻ chẳng dừng như nước trôi
Xưa nay bao người chưa thôi nghỉ
Đầu lâu chất lại như núi đồi.
Thôi lại thôi, lại thôi thôi
Mặc kệ Bắc Uất Đơn Việt (1)
Đâu lo Nam Thiệm Bộ Châu
Chỉ đem một chữ THÔI nầy
Thiên cổ vạn cổ làm bạn lứa.
Ông thấy chăng?
Hai ngàn năm trước dòng Cam-Giá (2)
Chạy vào núi tuyết, lôi chẳng lay
Nhìn xem phú quí như hoa tuyết
Chẳng còn ở trong ba cõi ồn.
Từ đó thôi rồi thẳng đến nay
Mặt vàng ánh sáng trang nghiêm thân
Sen hồng ngàn cánh đỡ chân Phật
Chẳng nhiễm thế gian phiền não trần.
Bây giờ liền thôi còn chẳng sớm
Nếu chẳng liền thôi, luống áo não
Thế, xuất thế gian một lượt thôi
Lúc ấy mới đạt bồ đề đạo.
Thôi hết, bồ đề đạo cũng không
Mây trắng đè nát núi Tu Di
Rốt cuộc Phật cũng chẳng cần làm
Mặc tình bốn biển nổi chân-phong (3)
GHI CHÚ
(1) Là Bắc Cu Lô Châu
(2) Cam-Giá là mía. Dòng họ Thích Ca là con cháu của vua Cam-Giá.
(3) Mặc tình hoằng dương Thiền Tông ở khắp nơi.






Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |