Jump to content

Advertisements




TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO - Quyển 1


68 replies to this topic

#61 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 17/06/2012 - 09:28

59. Sự Tích Con Nhái

Ngày xưa có một vị Hòa thượng trẻ tuổi nổi tiếng chân tu. Mọi “thị dục” của bản thân, Hòa thượng đều kiên quyết cắt đứt, chỉ một lòng chuyên chú vào lẽ hư vô của đạo Thiền. Nhà vua nghe tiếng, vô cùng kính trọng, vời về cung, ban tước Quốc sư và sai tu bổ một ngôi chùa ở Nam kinh thành để cho sư trụ trì. Nhưng Hòa thượng từ tạ vua, chỉ xin phép đi xem chùa chiền, cảnh đẹp trong thiên hạ.

Một hôm, Hòa thượng một mình tìm đến một ngôi chùa xa ở vùng Bắc. Ở đó có một vị sư bạn trụ trì mà Hòa thượng lâu ngày chưa gặp. Từ lâu Phật Bà Quan Âm đã nghe tiếng đồn về Hòa thượng, Phật Bà định bụng thử xem con người đó như thế nào. Nếu quả đúng là chân tu thì Phật Bà sẽ đưa về Tây Trúc, cho hóa thành Phật. Lúc Hòa thượng sắp qua một con sông rộng, Phật Bà hóa ngay làm một cô gái rất đẹp chống đò cập bến chờ khách quá giang.

Hôm ấy cũng theo phép mầu nhiệm của Phật Bà, khúc sông đó trở nên vắng vẻ, người và thuyền bè qua lại rất ít. Khi Hòa thượng chui vào trong khoang đò thì cô gái nhổ sào chèo ra giữa sông. Ðoạn nàng chèo thuyền đến một bãi cát vắng đậu lại. Hòa thượng lấy làm lạ hỏi cô lái vì sao không đi thẳng qua bờ bên kia. Cô lái chỉ đợi có câu hỏi ấy là buông chèo, cười một nụ cười rất tình tứ rồi cùng chui vào khoang, trả lời một cách trắng trợn là thấy sư đẹp trai quá nên cắm lại đấy cầu xin một chút tình yêu. Hòa thượng vốn nghe nói con gái ở vùng này có nhiều người đáo để nên nghiêm nét mặt lại:

- A Di Ðà Phật! Mong người trần giới buông tha cho kẻ tu hành này.

Nhưng cô lái đò đâu có buông tha, cô cố sán lại gần gợi tình. Hòa thượng không nói gì, lẳng lặng mở gói lấy quyển kinh Kim Cương Tam Muội ra tụng. Tiếng đọc của sư mỗi lúc mỗi lớn, át cả tiếng của cô lái đò. Nhưng cô lái đò vẫn cười cười nói nói. Rồi cô che tay lên quyển kinh. Hòa thượng ngoái cổ nhìn ra ngoài đò rồi nghiêm khắc cảnh cáo:

- A Di Ðà Phật! Trong người bần Tăng có một tờ lệnh chỉ của Hoàng đế. Trong đó Hoàng đế đã ra lệnh là hễ người nào phạm vào người bần Tăng sẽ bị án trảm quyết. Vậy bần Tăng mong người đừng phạm vào phép của thiên tử.

Lời dọa của nhà sư không làm cho cô lái nhụt một tí nào. Cô nói:

- Em đang muốn chết đây! Em chỉ mong chàng đoái thương một tí rồi chết cũng thỏa.

Nhưng hồi lâu, thấy lòng nhà sư không chuyển, cô lái đò lại thi hàng một mưu khác, cố quyến rũ cho bằng được. Cô bắt đầu cỡi áo ra. Khi chiếc yếm có đuôi nhạn bỏ xuống thì Hòa thượng nhắm mắt lại. Hòa thượng quay về cái gói lấy chiếc áo của mình khoác vào người nàng. Trong khoang đò chật chội, tay Hòa thượng vẫn lần tràng hạt, miệng vẫn lẩm nhẩm đọc kinh. Trong khi đó những tiếng cô gái như mật rót vào tai:

- Chàng thương em một tí…

Nhưng vô hiệu. Phật Bà Quan Âm rất cảm động. Những người con Phật như thế này rất xứng đáng chiếm một chỗ ngồi trên Niết bàn. Nhưng đã thử thì phải thử cho trót. Lần tấn công thứ chín, cô gái vẫn bị cự tuyệt. Hơi thở của cô gái trẻ và đẹp phảng phất ở trên má, nhưng nét mặt của Hòa thượng vẫn không thay đổi. Nhưng đến lần thứ mười, cô gái không ngờ thành lũy tưởng là kiên cố lại bị hạ một cách bất ngờ như thế. Bàn tay Hòa thượng tự nhiên bỏ lên mình nàng. Thôi thế là chỉ trong một phút, vứt bỏ hơn hai ba mươi năm tu luyện.

Thế là chuyến đó Phật Bà Quan Âm không được hài lòng. Giận vì Hòa thượng đã thiếu kiên trì trước sức cám dỗ của “thị dục”, mà đã như thế thì thanh danh cũ không còn đáng đếm xỉa nữa, nên Phật Bà lại nắm cổ Hòa thượng vứt ngay xuống sông như người ta vứt một cái xác. Như thế mà Phật Bà còn cho là chưa đáng tội, mà còn bắt hóa làm loài nhái là một động vật hạ đẳng. Cũng vì thế mà người ta nói rằng ngày nay dòng dõi của loài nhái vẫn còn giữ cái thói quen của tổ tiên, ví dụ khi chúng ta chặt đầu, chúng vẫn chắp hai chân trước lại với nhau như người đang vái.

Nguyễn Ðỗng Chi

“Giới là phao nổi để vượt qua bể khổ, nên người qua biển quý trọng phao nổi như thế nào, thì người tu hành cũng giữ gìn quý trọng giới luật như thế ấy”.





Thanked by 2 Members:

#62 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 17/06/2012 - 10:43

60. Tôn Giả A Nan

“Phật pháp như đại hải thủy

Lưu nhập A Nan tâm”

1. Tiền thân A Nan

Trong vườn Cấp Cô Ðộc, rừng cây Kỳ Ðà, bấy giờ chúng Tỳ kheo vây quanh với nhau mà bàn luận rằng: “Không rõ hiền giả A Nan vào thời quá khứ đã tu tập công đức gì, mà đời này, hiền giả hiểu sâu biết rộng, nhớ dai và đẹp đẽ quá vậy?”. Các Tỳ kheo nghĩ rồi bèn đi đến bạch Phật:

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, chúng con chẳng hiểu đời trước của hiền giả A Nan đã tu tập công đức gì mà hiền giả được làm thị giả Thế Tôn, và thông minh đĩnh ngộ quá vậy? Xin Thế Tôn ân cần chỉ giáo cho chúng con sáng tỏ.

- Này các Tỳ kheo, hãy lắng nghe kỹ. Vào thời quá khứ, có một vị Tỳ kheo, nuôi một chú Sa Di, ngày ngày bắt chú phải tụng kinh và đủ thời. Vì vậy mà khi nào chú Sa Di tụng kinh đủ thời đã qui định thì vị Tỳ kheo vui vẻ, khen thưởng cho chú Sa Di, còn khi nào bận công việc mà chú Sa Di tụng trễ hoặc thiếu thời khóa thì vị Tỳ kheo ấy buồn hiu, và quở trách chú Sa Di nữa.

Vì trách nhiệm như vậy nên lúc nào chú Sa Di cũng lo lắng và sợ sệt, vì ngoài công việc tụng kinh ra, chú còn phải đi khất thực suốt buổi sáng nữa. Có khi đàn việt vui lòng cúng dường nhiều thì được về sớm, rồi lo tụng kinh. Còn khi nào ít người cúng dường thì chú phải đi khất thực cho đủ hai phần ăn, như vậy là đã trưa rồi, làm sao tụng kinh được nữa. Vì vậy ăn thì mất tụng, được tụng thì mất ăn. Thực tế đã xảy ra là hôm nay chẳng may ít ai cúng dường quá, nên chú về trễ, đành bỏ thời tụng buổi sáng, vì vậy mà bị thầy quở trách, buồn quá sang ngày hôm sau, vừa đi khất thực vừa khóc. Khi ấy, gặp ông Trưởng giả, ông ta hỏi:

- Có việc gì mà chú lại khóc lóc vậy?

- Thưa trưởng giả, thầy tôi thật nghiêm khắc, bắt tôi phải tụng kinh đủ thời giờ thầy tôi đã qui định, nhưng khổ nỗi, tôi còn phải đi khất thực nữa, ngày nào đàn việt thương nhiều thì tôi được về sớm và tụng kinh đầy đủ, còn chẳng may ít người bố thí thì tôi phải trở về trễ, như vậy là bỏ mất thời tụng kinh và chắc chắn bị thầy quở trách, vì vậy mà tôi buồn tôi khóc.

- Tưởng gì chứ thầy muốn chú sốt sắng tu hành như vậy thì tốt quá. Ðược rồi, kể từ nay về sau, đến giờ chú cứ đến nhà tôi lấy thức ăn về cho hai thầy trò đủ dùng, còn hầu hết các thì giờ chú cứ việc lo tụng kinh niệm Phật cho đúng thời khóa đã qui định, đừng buồn việc khất thực xin ăn gì nữa.

Như vậy kể từ hôm đó, tới bữa chú Sa Di mang bình bát tới nhà ông trưởng giả để mang đồ ăn về cho hai thầy trò dùng, còn bao nhiêu thì giờ chú đều chuyên tâm trong việc tụng kinh niệm Phật tu hành đầy đủ, nhờ đó mà cả hai thầy trò đều vui vẻ. Ðến đây, Ðức Thế Tôn nhắc lại:

- Này các Tỳ kheo, các thầy biết không, vị Tỳ kheo của chú Sa Di đó chính là Ðức Phật Ðịnh Quang, ông trưởng giả cúng dường thức ăn, hàng ngày chính là Ta, còn chú Sa Di tụng niệm đó chính là A Nan bây giờ. A Nan nhờ phước báu tụng kinh đời trước mà đời này trí tuệ đa văn, nhớ rõ từng câu kinh chẳng sai một chữ và thừa Phật trùng tuyên giáo pháp.

2. Thân thế

A Nan chào đời trong đêm Phật thành đạo, nên còn có tên là Khánh Hỷ, thuộc dòng dõi quý tộc, nơi vương cung của vua Bạch Phạn, là em ruột của Ðề Bà Ðạt Ða mà cũng là anh em chú bác của Thế Tôn. Trong hạng đồng thời đó, Ngài A Nan là người nhỏ tuổi nhất, nếu so với La Hầu La thì còn nhỏ thua nữa số tuổi.

Là một Thế tử được vua cha chiều chuộng, bảo bọc, đời sống vương giả chẳng thiếu một món gì, nhưng đối với tánh tình thuần hậu, hoan hỷ đó, A Nan không quyến luyến những vật dục, sang giàu của hoàng cung, cùng chơi đùa với chúng bạn chẳng phân giai cấp. Mặc dù tuổi còn nhỏ, nhưng với tư cách một con vua, bẩm tính sẵn có lúc nào A Nan cũng vui vẻ, hiền hòa, dễ thương đáo để.

Vì đời sống của một phước báo tiền kiếp xa xưa, nên đã trưởng thành A Nan một con người khôi ngô, tuấn tú. Về sau này, có thể nói trong hàng đệ tử Phật, A Nan là người đẹp đẽ, đoan trang nhất, với thân hình cân đối, nét mặt hào hoa, tươi nhuận, lúc nào cũng tỏ ra dễ dãi với mọi người. Vì sự đẹp trai và tánh tình dễ dãi ấy mà sau này có lắm chuyện rắc rối đã đến với A Nan.

Gia nhập Tăng đoàn: Ngày Thế Tôn trở về thăm Ca Tỳ La Vệ đầu tiên, trong dáng đi trầm hùng, sắc diện trang nghiêm, dung mạo rực rỡ, chiếu diện như vầng trăng lồng lộng giữa khoảng trời bao la, đã soi sáng mọi vật, cảm hóa được lòng người. Chú bé A Nan nhìn say sưa dung nhan thậm kỳ diệu, sắc diện như núi vàng đoan nghiêm của Thế Tôn cảm thấy chấn động tâm linh, bèn vào trình vua cha xin đi xuất gia theo Phật cùng với bảy vương tử thời bấy giờ. Ðược vua cha chấp nhận, trong lòng hoan hỷ vô cùng, như vậy kể từ đây A Nan theo sát chân Phật, là một người tùy tùng thân cận với Ðức Thế Tôn, và sau này, chẳng bao lâu được đại chúng cử làm thị giả hầu hạ Phật.

3. Thị giả

Bấy giờ, các Tỳ kheo, Trưởng lão thượng tôn danh đức, đại đệ tử của Phật được mọi người hiểu biết: Tôn giả Câu Lan Nhã, Tôn giả A Nhiếp Bối, Tôn Giả Bạt Ðề Thích Ca Vương, Tôn giả Ma Ha Nam Câu Lệ, Tôn giả Hòa Phá, Tôn giả Da Xá, Tôn giả Bân Nậu, Tôn giả Duy La Ma, Tôn giả Già Hòa Ba Ðề, Tôn giả Na Ðề, Tôn giả Kim Tỳ La, Tôn giả Ly Bà Ða, Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên, Tôn giả Ðại Ca Diếp, Tôn giả Ðại Câu Hy La, Tôn giả Ðại Châu Na, Tôn giả Ðại Ca Chiên Diên, Tôn giả Bân Nậu Gia Nậu Tả Trưởng lão, Tôn giả Da Xá hành trù trưởng lão, rất nhiều các Tỳ kheo Trưởng lão, danh đức đại đệ tử cùng đi du hóa tại thành Vương Xá, tất cả đều ở xung quanh ngôi nhà lá của Phật.

Lúc ấy Ðức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo rằng:

- Này các thầy, hiện nay ta tuổi đã già, thân thể càng ngày càng suy yếu, nên ta cần có một thị giả nhất định để chăm sóc và mang y bát cho ta, làm vừa lòng ta và ghi nhớ những lời thuyết pháp rõ ràng, không quên nghĩa lý. Vậy các thầy hãy chọn giùm Ta một vị.

Nghe vậy, Tôn giả Câu Lan Nhã, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo sửa y chắp tay hướng về Thế Tôn, bạch rằng:

- Bạch Thế Tôn, con tự nguyện hầu hạ Thế Tôn, làm vừa lòng Thế Tôn và ghi nhớ rõ ràng những lời Thế Tôn dạy.

- Này Câu Lan Nhã, thầy tuổi đã già rồi thân thể chẳng hơn gì Ta, như vậy, chính thầy cũng cần có một thị giả, để chăm sóc hầu hạ thầy trong cơn bịnh hoạn, thôi được thầy hãy về chỗ cũ ngồi đi.

Bấy giờ, các Trưởng lão tôn túc lần lượt bạch Thế Tôn để xin tự nguyện làm thị giả hầu Thế Tôn, nhưng cuối cùng tất cả đều được Thế Tôn bảo hãy lui về chỗ cũ mà ngồi. Kết quả cuộc tự nguyện làm thị giả, chẳng có vị nào được Thế Tôn ghi nhận, Tôn giả Mục Kiền Liên, suy nghĩ: “Ðức Thế Tôn muốn chọn vị nào làm thị giả, ý Ngài đặt vào vị nào muốn cho ai săn sóc Ngài, tự nãy đến giờ chẳng có vị Tỳ kheo nào được diễm phúc ấy cả, có lẽ ta nên nhập “Như Kỳ Tượng Ðịnh” để quan sát tâm của đại chúng xem sao. Thế là Tôn giả nhập “Như Kỳ Tượng Ðịnh” xem từng tâm niệm của đại chúng Tỳ kheo, lần lượt, lần lượt, đến Ngài A Nan Tôn giả dừng lại, đây rồi, Thế Tôn đang hướng đến A Nan, muốn chọn A Nan làm thị giả, liền xuất định, Tôn giả Mục Kiền Liên thưa với đại chúng rằng:

- Thưa chư hiền, đức Thế Tôn muốn chọn hiền giả A Nan làm hiền giả, ý Ngài đã đặt vào A Nan để thỉnh làm thị giả.

Nói xong các vị thượng tôn trưởng lão, cùng Tôn giả Mục Kiên Liên đồng đi đến chỗ A Nan, tất cả đều chào hỏi rồi ngồi xuống. Lúc ấy, Tôn giả Mục Kiền Liên đại diện trình bày:

- Này hiền giả A Nan, thầy thật là diễm phúc, thầy có biết không đức Thế Tôn muốn chọn thầy làm thị giả đó, để săn sóc Thế Tôn, khi mang y, khi dâng bát và ghi nhớ những lời Thế Tôn giảng giải rõ ràng nghĩa lý. Cũng như ngoài thôn xóm không xa, có một tòa lâu đài to lớn, cửa sổ ở phía đông mở ra, khi mặt trời mọc lên, ánh sáng sẽ rọi thẳng vào vách phía tây, Này hiền giả A Nan, đức Thế Tôn cũng vậy, chú ý muốn thầy hầu Thế Tôn. Vậy thầy nên làm thị giả mà săn sóc Thế Tôn được phước hựu lớn.

- Thưa Tôn giả Mục Kiền Liên, tôi không thể lãnh trách nhiệm hầu hạ Thế Tôn nổi. Vì đối với các đức Thế Tôn, khó xứng ý, khó hầu hạ, nghĩa là khó làm thị giả lắm, xin Tôn giả thông cảm cho tôi. Cũng giống như con voi rất hùng mạnh, đã hơn 60 tuổi, kiêu bạo, sức mạnh cường thạnh, đủ ngà, đủ vóc, khó mà làm cho xứng ý gần gũi, chăm sóc được. Thưa Tôn giả với những bậc Như Lai Vô Sở Trước Ðẳng Chánh Giác cũng vậy, khó làm vừa lòng và gần gũi của một trách nhiệm thị giả được.

- Này hiền giả A Nan, chưa chi sao vội từ chối quá vậy, Thầy hãy nghe tôi ví dụ thì sẽ hiểu rõ ý nghĩa, cũng như hoa Ưu Ðàm Bát La đúng thời mới xuất hiện thế gian, thì đức Như Lai, bậc Vô Sở Trước Ðẳng Chánh Giác cũng vậy, đúng thời Như Lai mới thị hiện ra đời, vậy Thầy còn chần chờ gì nữa, hãy mau làm thị giả đức Thế Tôn đúng lúc?

Bị Tôn giả Mục Kiền Liên ép nài, A Nan túng thế phải chịu, nhưng với những điều kiện như sau, nếu Thế Tôn thỏa mãn:

- Thưa Tôn giả, nhờ Tôn giả bạch lại Thế Tôn, nếu Thế Tôn thỏa mãn cho ba điều nguyện của tôi, thì chừng ấy tôi mới chịu làm thị giả, bằng không thì thôi. Một, tôi nguyện không đắp y của Thế Tôn dù mới hay cũ; hai, tôi nguyện không ăn thực phẩm biệt thỉnh của Thế Tôn; ba, tôi nguyện không gặp Thế Tôn chẳng đúng lúc.

Thấy A Nan đã chịu làm thị giả rồi, Mục Kiền Liên cùng các vị trưởng lão, từ chỗ ngồi đứng dậy, nhiễu quanh Tôn giả A Nan ba vòng rồi đi về chỗ Phật, làm lễ xong, ngồi xuống một bên, Tôn giả Mục Kiền Liên liền thuật lại sự việc:

- Bạch Thế Tôn, vừa rồi con đã khuyên dụ hiền giả A Nan làm thị giả cho Thế Tôn, nhưng hiền giả A Nan đã xin Thế Tôn thỏa thuận cho ba điều tự nguyện: Không đắp y của Thế Tôn, dù mới hay cũ, không ăn thực phẩm biệt thỉnh của Thế Tôn và không gặp Thế Tôn chẳng đúng thời. Nếu Thế Tôn cho phép A Nan được ba điều ấy thì A Nan mới làm thị giả hầu Thế Tôn.

- Này Ðại Mục Kiền Liên, Tỳ kheo A Nan thông minh, trí tuệ, dự đoán biết trước có những lời tỵ hiềm, hoặc các vị đồng phạm hạnh sẽ cho rằng: “A Nan vì cơm áo mà hầu hạ đức Thế Tôn”. Ðây là pháp vị tằng hữu của A Nan. Tỳ kheo A Nan thông minh dự đoán biết trước những lời tỵ hiềm: “A Nan vì thực phẩm nên hầu hạ Thế Tôn”.

Tỳ kheo A Nan khéo biết thời, khéo phân biệt được thời, khéo biết lúc nào tự mình cần gặp đức Như Lai. Lúc nào nên cho và không nên cho Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, chúng Ưu Bà Tắc, chúng Ưu Bà Di, hay Sa môn Phạm Chí, dị học đến gặp Như Lai, thuận lợi hay không thuận lợi. Biết thức ăn loại cứng hay loại mềm mà đức Như Lai thường dùng được an ổn, và loại thức ăn nào đức Thế Tôn dùng rồi không được an ổn, nhẹ nhàng.

Tỳ kheo A Nan mặc dù chưa có tha tâm trí, nhưng có thể biết trước được đức Như Lai sẽ thuyết pháp cho ai, khi Như Lai từ chỗ tỉnh tọa dậy, vào buổi xế, hôm nay đức Như Lai sẽ làm như vậy, sẽ hiện pháp lạc thọ như vậy, nhận xét đúng lời Thế Tôn nói, chắc chắn không thể sai khác. Khi A Nan nói như vầy: “Thưa chư hiền, tôi đã hầu hạ đức Thế Tôn suốt 25 năm, trong thời gian đó tôi chưa hề khởi tâm cao ngạo bao giờ”.

Khi A Nan nói như vầy: “Thưa chư hiền, tôi đã hầu hạ đức Thế Tôn suốt 25 năm cho đến ngày hôm nay tôi chưa hề gặp đức Thế Tôn chưa phải lúc”. Khi A Nan nói như vầy: “Thưa chư hiền, tôi đã hầu hạ đức Thế Tôn suốt 25 năm, chưa hề bị Phật quở trách, trừ một lỗi, nhưng lỗi đó cũng vì người khác”. Khi A Nan nói như vầy: “Thưa chư hiền, tôi theo đức Thế Tôn thọ trì tám vạn pháp tu, thọ trì không quên, không bao giờ khởi tâm cống cao, tự đắc”. Khi A Nan nói như vầy: “Thưa chư hiền, tôi theo đức Thế Tôn thọ trì tám vạn pháp tu, chưa hề hỏi lại một lần thứ hai, trừ có một câu, câu ấy như vậy cũng không phải dễ”.

Khi A Nan nói như vầy: “Thưa chư hiền, tôi theo đức Thế Tôn thọ trì tám vạn pháp tu, trước hết không có tâm này: tôi thọ trì pháp ấy là để giáo hóa cho người khác. Này chư hiền, tôi chỉ muốn tự điều ngự, tự tịch tịnh, tự bát Niết Bàn thôi”. Khi A Nan nói như vầy: “Thưa chư hiền, có điều rất kỳ lạ này, đó là bốn bộ chúng đi đến chỗ tôi để nghe pháp, nếu tôi vì thế mà khởi tâm cống cao, điều ấy chắc chắn không thể có được. Tôi cũng không hề tác ý trước, để khi có người đến hỏi, thì tôi trả lời như vầy: này chư hiền, bây giờ tôi ngồi đây, rồi tùy theo phía của người kia hỏi mà ứng đối”.

Khi A Nan nói như vầy: “Thưa chư hiền, có điều rất kỳ lạ này: đó là có số Sa môn, Phạm Chí, dị học đến hỏi việc nơi tôi, nếu vì thế mà tôi sợ sệt, hãi hùng, lông tóc dựng đứng, không thể có sự kiện đó. Tôi cũng không hề tác ý trước để khi có người đến hỏi thì tôi sẽ trả lời như vầy: thưa chư hiền, bây giờ tôi ngồi đây, rồi theo nghĩa ấy mà ứng đối”.

Lại nữa, có một hôm Tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Mục Kiền Liên, Tôn giả A Nan, trụ tại nước Xá Vệ, trong núi Bà La Là. Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi rằng:

- Này hiền giả A Nan, thầy hầu hạ Thế Tôn suốt 25 năm, thầy nhớ có lần nào khởi dục tâm không?”

- Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất, tôi còn là hàng hữu học, chưa ly dục.

- Này A Nan, tôi không hỏi thầy là bậc hữa học hay vô học, tôi chỉ hỏi thầy suốt 25 năm qua, thầy hầu hạ bên đức Thế Tôn có khi nào Thầy khởi dục tâm không?

Xá Lợi Phất hỏi ba lần như vậy, thì A Nan cũng trả lời ba lần như vậy. Khi ấy Tôn giả Mục Kiền Liên ngồi một bên nắm chéo áo A Nan thúc mà nói:

- Hiền giả A Nan đáp nhanh đi, hiền giả đáp nhanh đi, đừng xúc nhiểu đến bậc thượng tôn trưởng lão mà tội.

- Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất, tôi hầu hạ đức Thế Tôn suốt 25 năm, tôi nhớ lại chưa hề khi nào phát khởi dục tâm, vì tôi thường hướng đến Thế Tôn và các vị đồng phạm hạnh với tâm niệm hổ thẹn. Lại nữa, có một thời đức Thế Tôn du hóa tại thành Vương Xá, trụ trong Nham Sơn. Bấy giờ Thế Tôn bảo:

- Này A Nan, thầy nên nằm như cách nằm của sư tử chúa.

- Bạch Thế Tôn, sư tử chúa nằm như thế nào?

- Sư tử chúa ban ngày đi tìm ăn, xong rồi vào hang, khi muốn ngủ, bốn chân xếp chồng lên phải. Qua đêm ấy, đến sáng hôm sau, quay ra nhìn thân thể, nếu như sư tử thấy thân thể mình không ngay ngắn thì chẳng ưng, buồn bã, còn nếu ngay ngắn tròn trịa thì hớn hở vui mừng, nó từ chỗ nằm đứng dậy, ở trong hang đi ra, đi ra rồi vươn mình, vươn mình rồi tự ngắm thân thể, tự ngắm thân thể xoay nhìn bốn hướng, xoay nhìn bốn hướng rồi liền rống lên vài ba tiếng, rồi đi tìm ăn, cách thức nằm của sư tử chúa là như vậy.

- Bạch Thế Tôn, đó là cách nằm của sư tử chúa, còn cách nằm của Tỳ kheo thế nào?

- Nếu Tỳ kheo trụ nơi thôn ấp, qua một đêm đến sáng hôm sau, khoác y ôm bát, đi vào thôn khất thực, khéo hộ trì thân thể, nhiếp thủ các căn, trụ nơi chánh niệm. Vị ấy từ thôn ấp lần lượt khất thực xong, thâu bát xếp y, rửa sạch tay chân, vắt ni sư đàn lên vai đi đến chỗ rừng vắng hoặc đến dưới gốc cây, hoặc trong nhà trống, hoặc kinh hành, hoặc tọa thiền, trừ các phép chướng ngại trong tâm.

Ban ngày đã tịnh trừ chướng ngại trong tâm, rồi lại vào đầu hôm, tinh tấn tọa thiền, tư duy để thân tâm được vắng lặng, cho đến nữa đêm, xã thiền đi vào tịnh thất đất nằm, xếp làm bốn Uất Ða La Tăng trải lên giường, gấp đôi Y Tăng Già Lê làm gối, nằm xuống phía hông bên phải, hai chân xếp chồng lên nhau, ý buộc vào mình tưởng chánh niệm, chánh trí, hằng hướng đến ý tưởng sẽ ngồi dậy. Khi đêm đã qua, mau ngồi dậy, đi kinh thành, hoặc tọa thiền để tịnh trừ sự chướng ngại của tâm. Như vậy là cách nằm sư tử của Tỳ kheo.

Kể từ đó A Nan nằm xuống như sư tử chúa không hề có lần nào nằm về hướng bên trái. Lại nữa, có lúc đức Thế Tôn du hóa Câu Thi Na Kiệt, trụ trong rừng Ta La của Hòa Bạt Ðam lực sĩ. Bây giờ là lúc tối hậu, đức Thế Tôn muốn thủ bát Niết bàn, Thế Tôn bảo:

- Này A Nan, thầy hãy đi đến giữa hai cây Ta La song thọ, trải một giường nằm, đầu quay về hướng bắc cho Như Lai, vì nữa đêm hôm nay Như Lai sẽ bát Niết bàn.

Tôn giả A Nan vâng lời, liền đến giữa hai cây Ta La, trải giường nằm, trải xong trở về đức Thế Tôn, cúi đầu lễ Phật, đứng sang một bên, bạch Thế Tôn:

- Con đã trải giường nằm, quay đầu về hướng bắc cho Như Lai, ở giữa hai cây Ta La song thọ rồi, kính mong Như Lai tự quyết.

Bất giờ Thế Tôn dẫn A Nan đến giữa hai cây Ta La song thọ, xếp làm bốn Uất Ða La Tăng trải lên giường, gấp đôi Y Tăng Già Lê làm gối, nằm về phía hông bên phải, hai chân chồng lên nhau. Lúc tối hậu, Thế Tôn sắp bát Niết bàn, Tôn giả A Nan quạt hầu Phật giơ tay gạt nước mắt, nghĩ như vầy: “Trước kia có đại chúng Tỳ kheo ở các nơi muốn đến thăm viếng đức Thế Tôn để cúng dường, lễ bái thì đều có thể tùy lúc mà được thăm viếng, cúng dường, lễ bái. Bấy giờ họ nghe được Thế Tôn sắp bát Niết bàn thì sẽ không còn đến thăm viếng, cúng dường Thế Tôn nữa”.

Khi ấy đức Thế Tôn hỏi các Tỳ kheo:

- Tỳ kheo A Nan giờ ở đâu?

- Bạch Thế Tôn, A Nan đang cầm quạt hầu Phật và khóc lóc nghĩ ngợi.

- Này A Nan, thầy chớ khóc lóc, cũng chớ buồn rầu, vì thầy hầu hạ Ta thân hành từ hòa, khẩu và ý hành từ hòa, chưa từng có hai tâm, an lạc vô lượng, vô biên, vô hạn. Này A Nan, trong đời quá khứ, các bậc Như Lai, Vô Sở Trước, Chánh Ðẳng Chánh Giác có người thị giả hầu cận, thì cũng không thể hơn thầy được, nay Ta là bậc Như Lai, Ứng Cúng trong đời hiện tại, nếu có người thị giả nào thì người thị giả đó cũng không thể hơn thầy được, vì thầy khéo biết thời, khéo phân biệt thời, điểm và hiểu biết ý Như Lai trong mọi trường hợp.

Bấy giờ Thế Tôn muốn làm cho Tôn giả A Nan vui vẻ, bèn bảo các Tỳ kheo rằng:

- Vị chuyển Luân Thánh Vương có bốn pháp vị tằng hữu, mà mỗi khi các hàng Sát đế lợi, cư sĩ hoặc Sa môn đến yết kiến, Chuyển Luân Thánh Vương dù nói hay im lặng, họ thấy mặt đều sanh tâm hoan hỷ, vui vẻ. Tỳ kheo A Nan cũng vậy, A Nan có bốn pháp vị tằng hữu mà mỗi khi chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đến tham vấn thì dù A Nan có nói hay im lặng, họ thấy A Nan rồi thì liền sanh tâm hoan hỷ, vui mừng. Lại nữa, A Nan thuyết pháp cho đại chúng có bốn điểm vị tằng hữu. Mỗi khi A Nan thuyết pháp cho chúng Tỳ kheo, Tỳ Kheo ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, bằng lời chí tâm thành kính, cả chúng nghe rồi nghĩ như vầy: “Mong Tôn giả A Nan thuyết pháp không dừng lại nữa chừng”.

Khi nghe Tôn giả A Nan thuyết pháp, các chúng hoàn toàn tâm không chán nản, và Tỳ kheo A Nan vẫn ngồi im lặng. Lại nữa thuở ấy, Thế Tôn đã bát Niết bàn chưa được bao lâu, A Nan du hóa tại Kim Cang, trụ ở thôn Kim Cang. Bấy giờ thuyết pháp cho vô lượng trăm nghìn đại chúng vây quanh. Hiện đó, có Tôn giả Kim Cang Tử cũng ở trong chúng, Tôn giả trong lòng suy nghĩ: “Hiền giả A Nan vẫn còn là bậc hữu học chưa ly dục sao, ta thử nhập Như Kỳ Tượng Ðịnh để quan sát tâm A Nan như thế nào?”. Nghĩ rồi bèn nhập định, Tôn giả biết A Nan vẫn còn là bậc hữu học chưa ly dục, Tôn giả liền xuất định hướng về A Nan, nói bài tụng:

Núi rừng vắng tư duy

Niết bàn khiến vào tâm

Thiền Cù Ðàm không loạn

Sẽ sớm chứng tịch tịnh.

Bấy giờ A Nan nghe lời dạy của Tôn giả Kim Cang Tử, rời bỏ chỗ đông người, sống một mình nơi yên tĩnh, tinh tấn không tán loạn, thời gian chẳng bao lâu các lậu dũ sạch, cho đến khi vừa mới nghiêng đầu chưa đụng gối lòng bổng nhiên khai ngộ, chứng tâm giải thoát. Nếu Tôn giả A Nan nói như vậy thì đó là pháp vị tằng hữu của A Nan. Nếu sau khi chứng tâm giải thoát rồi, A Nan nói rằng:

- Tôi sẽ ngồi kiết già để bát Niết bàn, thì đó chính là pháp vị tằng hữu của A Nan.

4. Ðối với Ni Chúng

Một con người đa cảm, giàu tình thương nên lắm lúc thấy ai đau khổ hay ý nguyện không tròn thì A Nan sẳn sàng giúp đỡ mọi cách. Với một tình thương, giàu nhân ái đó mà A Nan đã đề bạt và bạch Phật cho hàng nữ nhân được xuất gia theo học giáo pháp Phật, trong khi đó cả Thánh chúng chẳng ai dám làm. Một thời đức Thế Tôn du hóa giữa dân chúng Thích Ca, tại Ca Tỳ La Vệ, trong khu vườn Nigrodha. Ðêm đã qua, vừa tờ mờ sáng bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề đi đến Thế Tôn, lạy sát chân Phật, rồi ngồi qua một bên, bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn, hôm nay con xin làm lễ Thế Tôn, mong Thế Tôn hứa khả cho nữ nhân được xuất gia tu học theo giáo pháp Phật, sống đời không nhà để cầu đạo giải thoát.

- Thôi! Vừa rồi, Kiều Ðàm Di chớ có ưa thích mà xin cho nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống trong pháp và luật do Như Lai thuyết giảng.

Lần thứ hai rồi lần thứ ba đề nghị, nhưng rồi Ðức Thế Tôn cũng ba lần từ chối. Hiểu ý Ðức Thế Tôn chẳng muốn cho nữ nhân xuất gia, sống đời không gia đình, nên bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề quá đau khổ, sầu muộn, khóc lóc nước mắt chảy đầy mặt rồi đứng dậy đảnh lễ Ðức Thế Tôn, nhiễu quanh ba vòng rồi đi.

Khi ấy Ðức Thế Tôn rời khỏi Ca Tỳ La Vệ để đi đến Vệ Xá Ly trú tại đại lâm, trong ngôi nhà nóc nhọn. Biết được Thế Tôn hiện trú tại Vệ Xá Ly, bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề bèn tự cạo đầu đắp áo cà sa cùng với 500 nữ nhân khác kéo đến Vệ Xá Ly quyết cầu Phật cho xuất gia bằng được, trông thân thể tiều tụy, lấm lem cát bụi, đôi chân sưng vù, đôi tay ướt đẫm, đau khổ sầu muộn mặt mày ràn rụa nước mắt, khóc than, đứng ngoài cổng chính. Khi ấy A Nan thấy tình huống như vậy, bèn đến:

- Thưa Kiều Ðàm Di, vì sao lại đứng ngoài cửa, và thân thể đến nổi này? Trông thảm thương quá vậy?

- Thưa Tôn giả A Nan, Thế Tôn chẳng cho nữ nhân xuất gia, sống đời không nhà trong chánh pháp luật của Ngài, nên tôi mới làm ra việc này.

- Thưa Kiều Ðàm Di, hãy đứng chờ ở đây, Tôi sẽ vào xin phép Thế Tôn cho.

Rồi Tôn giả A Nan đi đến bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, có Kiều Ðàm Di đứng ngoài cửa, thân thể lấm lem cát bụi, tay chân sưng vù, trông thiểu não, nguyện xin Thế Tôn, nếu nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống đời không nhà trong chánh pháp luật do Thế Tôn thuyết giảng cũng tốt vậy.

- Thôi, vừa rồi A Nan, chớ có ưa thích mà xin cho nữ nhân xuất gia trong chánh pháp luật của Ta.

A Nan lại thưa đến ba lần, nhưng rồi Thế Tôn cũng từ chối ba lần. Túng thế quá, A Nan tự nghĩ: “Thế Tôn không chấp nhận cho nữ nhân xuất gia, sống trong giáo pháp, vậy ta hãy dùng phương pháp khác để xin Thế Tôn”.

- Bạch Thế Tôn, chẳng biết nữ nhân sau khi xuất gia tu học chơn chánh trong giáo pháp thì có thể chứng đắc tứ quả của bậc Thánh không?

- Này A Nan, sau khi xuất gia, sống đời không nhà, tinh tấn tu hành trong chánh pháp luật thì nữ nhân chắc chắn chứng đắc quả Dự lưu, Nhất lai hoặc A La Hán.

- Bạch Thế Tôn, như vậy, Ma Ha Ba Xà Ba Ðề đã giúp đỡ Thế Tôn còn nhỏ, trong bổn phận của một người dì, người kế mẫu, cho Thế Tôn bú sữa mẹ, khi bà mẹ Thế Tôn từ trần. Bà đã thay mẹ nâng niu nuôi nấng Thế Tôn cho đến ngày khôn lớn. Vậy Thế Tôn hãy nghĩ tình mà cho phép nữ nhân được xuất gia.

Vì sự chân thành khẩn khoản của A Nan, nên cuối cùng đức Thế Tôn đã chấp nhận. Kể từ đây, hàng nữ nhân được sống trong chánh pháp luật, cuộc đời không nhà, và tổ chức thành Giáo Hội Ni Chúng.


Thanked by 1 Member:

#63 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 18/06/2012 - 05:47

5. Bảy Điềm Mộng

Thời gian sau này, khi Ðức Thế Tôn gần bát Niết bàn, một đêm A Nan nằm mộng thấy bảy điều quái dị, trong lòng hoang mang lo sợ, sáng ngày đến bạch Thế Tôn:

- Bạch Thế Tôn, đêm vừa qua con nằm ngủ thấy bảy điều mà lâu nay con chưa hề bao giờ thấy mộng mị hay chiêm bao. Bạch Thế Tôn, bảy điềm mộng mà con thấy là:

Lữa dữ khắp nơi, thiêu đốt làm khô biển ngòi sông rạch.
Mặt trời rụng xuống, thế gian tối tăm, đầu con cao ngang núi Tu di.
Tỳ kheo bỏ giới luật, vứt áo cà sa.
Tỳ kheo y áo tả tơi, xuôi theo thế gian khổ sở.
Heo rừng kéo đến ủi bức gốc rễ cây chiên đàn to lớn.
Voi con không nghe lời voi mẹ rong chơi khắp nơi, lạc đường bị chết đói.
Sư tử chết, bị các vi trùng trong thân bò ra lúc nhúc, rúc rỉa.

- A Nan, biết rằng mộng là do tâm sanh, nhưng bảy điều vừa rồi thầy đã thấy đó chính là điềm báo trước trong tương lai Tăng đoàn sẽ suy đồi, giáo pháp sẽ bị mai một. Này A Nan, điềm thứ nhất, đó là trong đời mạt pháp có hạng Tỳ kheo được đàn na thí chủ cúng dường đầy đủ, rồi lại sanh lòng tranh cãi chia rẽ. Thứ hai, mặt trời sụp xuống, thế gian tối tăm và đầu A Nan vươn cao như núi Tu Di, đó là sau khi Ta bát Niết bàn, đại chúng, chư thiên sẽ cử thầy trùng tuyên lại giáo pháp. Thứ ba, Tỳ kheo mà vứt bỏ cà sa, hủy hoại giới pháp đó là điềm trong đời mạt pháp có hạng Tỳ kheo chỉ lý thuyết suông mà chẳng chuyên tâm tinh tấn tu hành. Thứ tư, Tỳ kheo lận đận, khốn đốn, y áo tả tơi, đó là điềm trong đời mạt pháp có Tỳ kheo bị vợ con ràng buộc, bỏ giới chạy theo thế tục.

Thứ năm, heo rừng ủi tung rễ chiên đàn, đó là điềm trong đời mạt pháp có hạng Tỳ kheo buôn bán Như Lai, xem giáo pháp như món hàng để trao đổi sự lợi dưỡng. Thứ sáu, voi con không nghe lời voi mẹ, cuối cùng phải chết đói, đó là điềm trong đời mạt pháp có hàng Tỳ kheo trẻ tuổi, hậu học, không chịu nghe lời chỉ dạy của bậc Tôn túc, không tin tội phước nhân quả, chết đều rơi vào địa ngục. Thứ bảy, dòi bọ từ trong thân sư tử chết bò ra rúc rỉa thịt xương của sư tử, đó là điềm trong đời mạt pháp chính đệ tử của Như Lai phá hoại Phật Pháp, chứ chẳng do ngoại đạo, bên ngoài có sức phá nổi. Bảy điềm mộng của A Nan, để chứng minh cho hôm nay, thực tế đã xảy ra, vậy chúng ta biết rằng giai đoạn này chính là thời mạt pháp.

6. Sáu tội Ðột Kiết La

“Các đệ tử Phật
Nếu nghĩ đến Phật
Nên báo ân Phật
Chớ nhập Niết bàn”

Một hoàn cảnh thật đau lòng, sau khi Phật diệt độ, trong hàng đệ tử vị nào đã chứng đắc A La Hán thì cũng lần lượt Niết bàn theo Phật, còn những ai chưa đạt đến quả vị tự thâu thần tịch diệt được thì ưu sầu thương tiếc. Tâm tư của hàng đệ tử bấy giờ bị chấn động mãnh liệt, ai cũng đầy ấp nỗi lòng nhớ nhung, bàng hoàng trước sự ra đi của Thế Tôn vào nơi tịch mặc, chẳng ai có lòng dạ nào để suy nghĩ việc gì hơn nữa.

Trước cảnh bi thương ấy, Ngài Ðại Ca Diếp quán xuyến tâm tư của hàng Thánh chúng bị xáo trộn, lung lay. Ngài nghĩ nếu như vậy tiếp tục diễn tiến thì chắc chắn Phật Pháp sẽ bị mau tiêu diệt, giáo pháp sẽ chóng lãng quên và chúng ta chẳng tròn bổn phận với Ðức Như Lai và đắc tội với chúng sanh, xa thời chánh Pháp. Trước một trọng trách nên làm và phải hoàn thành trước nhất, ấy là kiết tập giáo pháp của Ðức Thế Tôn, suốt thời gian 45 năm Ngài đã hoằng hóa. Tiếng kiềng chùy được gióng lên trên đỉnh núi Tu Di, vang dội khắp thế giới ba ngàn:

“Hỡi các Thánh đệ tử, những bậc vô sanh, các hàng tôn túc, hãy nhớ lời Phật dạy, thương xót chúng sanh, chớ vội thâu thần thị tịch, thế gian tăm tối hàng chúng sanh trong đời mạt pháp sẽ bơ vơ, vì con mắt trí tuệ của thế gian đã nhắm lại rồi. Vì lòng thương tưởng cho đời, mở lượng từ bi, xin các Ngài hãy kiết tập giáo pháp, xâu chuỗi viên ngọc vô giá thành từng chuỗi mà Ðức Thế Tôn đã trao truyền cho chúng ta, để sau này hàng chúng sanh được ân triêm công đức”.

Lời triệu thỉnh được truyền đi và hội chúng tụ tập, vây quanh giảng đường để báo ân Phật, kiết tập giáo pháp. Trước khi bắt tay vào công việc, Ngài Ca Diếp nhập đại định, để quán tâm đại chúng, xem ai chưa đoạn tận các lậu, và thấy A Nan hãy còn những kiết sử vụn vặt của một vị Tu Ðà Hoàn. Xuất định, Ðại Ca Diếp đi đến chỗ A Nan, thản nhiên nắm tay A Nan kéo ra khỏi đại hội và nói rằng:

- Trong hàng Thánh chúng tất cả các lậu hoặc đều đã đoạn trừ và đang làm việc thanh tịnh, ông hãy còn nhiễm ô, chưa sạch, vậy xin mời ra khỏi đại hội. Ðó là tội đột kiết la thứ nhất.

Như cả một bầu trời sụp đổ, mây đen giăng kín cả lòng, thật là một điều không ngờ, làm thị giả suốt 25 năm trời gần Phật để đến giờ phút này A Nan phải lãnh chịu hậu quả tan nát cả lòng, bị đuổi ra khỏi đại hội chẳng được duyên lành báo đáp ân Phật. Tủi phận mình, A Nan tự nghĩ: “Khi Phật còn tại thế, ta theo hầu Ngài từ khi mới xuất gia cho đến khi Ngài thị tịch, chưa có lần nào bị tủi hổ và khổ não như bây giờ”.

- Thưa Tôn giả Ðại Ca Diếp, từ khi làm thị giả cho Thế Tôn đến bây giờ, không phải tôi không đủ khả năng để hoàn thành một vị A Lan Hán, nhưng vì trong pháp Phật, một vị A Lan Hán không thể làm công việc của một thị giả, hầu cạnh Phật được, vì lý do đó nên tôi còn giữ lại một ít kiết sử nhỏ nhiệm để tròn bổn phận của mình.

Trước nỗi lòng tha thiết đó, Ngài Ca Diếp vẫn lạnh nhạt, tiếp tục hạch tội:

- Khi Ðức Thế Tôn còn ở đời, ý Ngài không muốn cho nữ nhân xuất gia sống theo pháp luật của chúng Tăng, nhưng do ông ân cần thưa thỉnh nên Ðức Thế Tôn nhận lời, để cho thời chánh pháp của Ðức Thế Tôn bị giảm 500 năm, đó là tội đột kiết la thứ hai. Rồi đến Phật sắp nhập Niết bàn, Ngài đau lưng phải trải bốn lớp áo Uất Ða La Tăng để nằm. Lúc đó, Ðức Thế Tôn nói với ông hãy múc nước cho Thế Tôn. Khi ấy sao ông không chịu múc nước, đó là tội đột kiết la thứ ba.

Một hôm nọ trong rừng Ta La, Ðức Thế Tôn hỏi: “Bậc có bốn thần túc, có thể duy trì đời sống trong một kiếp hay một phần kiếp” Ông vẫn làm thinh, Ðức Thế Tôn hỏi tới ba lần mà ông cũng không đáp. Do nhân duyên đó mà Ðức Thế Tôn quyết định nhập Niết bàn, đó là tội đột kiết la thứ tư. Trong khi trải Tăng Già Lê của Phật mà ông lại dẫm chân lên đó là tội đột kiết la thứ năm. Sau khi Ðức Thế Tôn nhập Niết bàn tại sao ông lại vén y cho nữ nhân thấy tướng mã âm tàng của Thế Tôn, một việc phi pháp, đó là tội đội kiết la thứ sáu.

Trước những lời buộc tội gay gắt, nhưng A Nan bình tĩnh, xin giải bày:

- Ðối với tội thứ nhất tôi phải đành chịu, vì thương Phật nên tôi lưu lại một ít phiền não. Còn tội thứ hai vì thấy tình cảnh của bà Kiều Ðàm Di thảm thương quá, hơn nữa lại là di mẫu của Thế Tôn, nên tôi cầu xin như vậy, vì trong chư Phật ba đời thảy đều có bốn bộ chúng, thì Ðức Thế Tôn của chúng ta cũng phải có đủ. Tội thứ ba chẳng phải tôi không dâng nước cho Phật, mà vì do ngựa voi lội trên sông làm cho nước vẩn đục. Tội thứ tư, là khi ấy ma vương muốn hại nên che kín cả tâm tôi, chứ không phải tôi có ác ý muốn Thế Tôn nhập Niết bàn sớm. Tội thứ năm, lúc ấy vì gió lớn quá, một mình tôi nắm chẳng hết nên bị gió tung và rớt y xuống chân chứ không phải tôi cố tình dẫm lên y Phật. Cuối cùng tội thứ sáu, tôi tự nghĩ rằng cho các nữ nhân thấy tướng âm tàng của Thế Tôn để tự xấu hổ thân hình nữ của mình mà siêng năng tu hành và cầu làm thân nam, tướng hảo, chứ chẳng phải làm điều phi pháp chẳng biết xấu hổ.

Sau những lời luận giải rõ ràng, nhưng Ngài Ca Diếp vẫn bắt A Nan sám hối trước đại chúng, và nói rằng:

- Khi nào ông hết các kiết sử thì mới được vào đây.

Thầm lặng A Nan bước ra khỏi giảng đường và về phòng riêng. Trong đêm đó, A Nan tọa thiền, nhập định cho đến nữa đêm, thấy mỏi quá, bèn nghiêng mình nằm xuống nghỉ, nhưng đầu chưa chấm gối thì hoát nhiên đại ngộ. Tiếp tục A Nan nhập Kim Cang định và phá đổ hết thảy các lậu hoặc vi tế, chứng đắc tam minh lục thông, trở thành vị A La Hán. Trong đêm đó, A Nan liền đến phòng riêng của Ðại Ca Diếp gõ cửa để trình bày sở đắc của mình, nhưng Ngài Ca Diếp chẳng mở cửa mà nói rằng:

- Hãy chui lỗ khóa mà vào.

A Nan bèn dùng thần thông sẳn có lách mình qua lỗ khóa vào đảnh lễ Ngài Ca Diếp. Ðại Ca Diếp. vui mừng, xoa đầu A Nan nói rằng:

- Này A Nan, hiền giả chớ giận ta nghe, mục đích ta muốn hiền giả tự đắc chứng, như vẽ hình giữa hư không, không dính mắc vào đâu cả, hơn nữa, giáo pháp của Thế Tôn tồn trữ trong tâm của hiền giả vắng lặng trong ngần như biển sâu để tuyên hoằng lại cho hàng hậu chúng.

Một lần nữa Ðại Ca Diếp vỗ đầu A Nan, tỏ một niềm kính mến thiết tha, vì A Nan sẽ chủ trì trọng trách kiết tập giáo pháp, sẽ xâu lại những lời vàng, tiếng ngọc để làm mặt trời huệ cho hậu lai. Tiếng kiềng chùy lại gióng lên và buổi kiết tập giáo pháp được bắt đầu. Ngài Ðại Ca Diếp đi trước, A Nan theo sau khoan thai tiến vào hội chúng, trong bước đi trầm hùng như sư tử, dõng dạc như tượng vương, sắc mặt rạng rỡ tươi sáng. Ðại chúng đều im lặng, cung thỉnh A Nan thăng lâm pháp tòa sư tử, và suối pháp tuôn chảy từ A Nan, như hải triều âm bất tuyệt.

7. Nhập Niết bàn

Một thời A Nan du hành tại Tỳ Xá Ly. Sau buổi du hóa, Ngài đi đến các vị Tỳ kheo đang nhóm dưới những gốc cây thanh vắng tĩnh tọa, tư duy, hay cùng nhau đàm đạo những lời Ðức Thế Tôn đã giảng thuyết. Trong nhóm Tỳ kheo trẻ đang luận bàn về đề tài thế gian vô thường Phật pháp sanh diệt, con người cũng nằm trong định luật ấy. Có kẻ sanh ra đời rồi lớn lên trải qua đôi mươi năm rồi chết đi, luống qua một kiếp người vô tích sự, không làm lành, cũng chẳng tạo phước hay ích lợi cho ai, vậy sự sống của kẻ ấy có trải qua trăm năm hay ngàn năm rồi cũng vô dụng. Khi bàn luận đến đây, có vị Tỳ kheo trẻ phát biểu:

- Thế gian vô thường, đời người chóng vánh, sinh ra đời sống hằng trăm năm mà không gặp Phật Pháp, không tạo duyên lành tô bồi cho kiếp sau thì rồi cũng luống trôi qua, chẳng bằng kẻ sống một ngày mà thấy được con hạc già đứng cạnh bờ ao. Rồi vị Tỳ kheo ấy đọc lên bài kệ:

“Như nhơn sinh bách tuế
Bất kiến thủy lão hạc
Bất như sinh nhứt nhật
Nhi đắc kiến chi”.

Bất giờ Tôn giả A Nan cũng ngồi gần đó nghe vị Tỳ kheo trẻ đọc bài kệ như vậy, Ngài thầm nghĩ: “Vị Tỳ kheo này sao đọc lạ vậy, Ðức Thế Tôn có dạy như vậy bao giờ đâu, chắc có lẽ vị ấy đã nhầm lẫn”. Nghĩ xong Tôn giả đứng dậy đi đến bên vị Tỳ kheo ấy nói rằng:

- Này hiền giả, vừa rồi hiền giả đọc bài kệ như vậy là nhầm rồi, Thế Tôn không phải dạy như vậy, mà như thế này, hiền giả hãy nghe kỹ:

“Nhược nhơn sinh bách tuế
Bất kiến sanh diệt pháp
Bất như sanh nhứt nhựt
Nhi đắc kiến chi”.

Nghe xong vị Tỳ kheo trẻ không biết đâu là sai, đâu là đúng. Sau khi trở về tịnh xá, vị Tỳ kheo trẻ ấy đem sự việc bài kệ mà Ngài A Nan đã đính chính đọc lại cho thầy nghe. Vị bổn sư của thầy Tỳ kheo trẻ nầy nghe rồi liền nói:

- Tôn giả A Nan bây giờ đã già nên sanh ra lẩm cẩm, có nhớ rõ ràng gì đâu mà nói đúng.

A Nan biết được điều này, Ngài tự nghĩ: “Hàng chúng sanh hậu học căn cơ chậm lụt chẳng nhận ra đâu là tà thuyết của ngoại đạo, của sự mê mờ, chấp giữ sai lầm, thật thương thay! Giáo pháp của đấng Thế Tôn rồi đây sẽ mai một. Thôi, giờ ta hãy vào Niết bàn, vì đã già nua lẩm cẩm”. Nghĩ vậy, A Nan quyết định nhập Niết bàn. Trước khi vào nơi tịch mặc vĩnh viễn, A Nan bèn kêu đệ tử của mình là Thương Na Hòa Tu dạy rằng:

- Này Pháp tử, khi Ðức Thế Tôn sắp nhập Niết bàn Thế Tôn đã trao truyền chánh pháp nhãn tạng lại cho Tôn giả Ðại Ca Diếp, sau đó Tôn giả cũng nhập Niết bàn nên đã trao lại cho ta, nay ta cũng nhập Niết bàn, vậy ta phó chúc lại cho ông, ông nên truyền thừa ngọn đuốc giáo pháp để soi sáng thế gian làm con mắt huệ cho đời và báo Phật ân đức, lợi lạc chúng sanh. Ông hãy giữ gìn cẩn thận.

- Kính bạch Thầy, xin Thầy hãy vì lòng từ bi thương tưởng cho đời, vì lợi ích hàng Tăng chúng, làm điểm tựa cho hàng hậu học còn đang cần Thầy, chớ vội vào Niết bàn.

- Ðã đến lúc ta vào Niết bàn, ông hãy lắng lòng nghe bài kệ mà thọ trì pháp Như Lai:

“Bản lai phó hữu pháp
Phó liễu ngôn vô pháp
Các các tu tự ngộ
Ngộ liễu vô vô pháp”.

Tin Ngài A Nan sắp vào Niết bàn, từ vua quan đến dân chúng ai nấy đều rơi lệ thương tiếc. Vòm trời trần gian mất đi bóng sáng của ánh sao mai và hàng chúng Tăng mất đi một bậc kỳ đức tôn túc. Khi ấy vua A Xà Thế và vua nước Tỳ Xá Ly rắp tâm đến dành Xá lợi đem về nước xây bảo tháp thờ. Thấy trước tình cảnh như vậy, Tôn giả A Nan đi thẳng về phía bờ sông Hằng, lên một chiếc thuyền và ngồi kiết già thả trôi ra giữa dòng sông mà nhập Niết bàn. Vua A Xà Thế liền cùng quan quân, tùy tùng tìm đến bờ sông, vua thấy Tôn giả A Nan kiết già phu tọa trên thuyền ở giữa dòng sông, liền cúi đầu đảnh lễ và đọc bài kệ:

“Khể thủ tam giới tôn
Khí ngã nhi chí thử
Tạm bằng bi nguyện lực
Thả mạc bát Niết bàn”.

Ðồng thời, vua nước Tỳ Xá Ly cũng rầm rộ voi ngựa kéo đến bờ bên kia sông Hằng, cúi đầu và đọc bài kệ:

“Tôn giả nhất hà tốc
Nhi qui tịch diệt trường
Nguyện trụ tu du gian
Nhi thọ ư cúng dường”.

Trước nổi lòng khuyến thỉnh của hai vua, Tôn giả A Nan đọc bài kệ:

“Nhị vương thiện nghiêm trụ
Vật vi khổ bi luyến
Niết bàn đương ngã tịnh
Nhi vô chư hữu cố”.

Liền khi ấy, Tôn giả A Nan nhập định và bát Niết bàn.

Giới Ðức

“Làm cho ông lưu chuyển sanh tử, là lỗi tại cái tâm cùng với con mắt, vậy nếu ông không biết cái tâm cùng con mắt ở chỗ nào? Thì ông không hàng phục được phiền não trần lao. Cũng như vị quốc vương bị giặc đến xâm chiếm, đem binh dẹp trừ, nếu không biết được giặc ở chỗ nào, thì không bao giờ dẹp trừ giặc được”.





#64 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 18/06/2012 - 05:57

61. Ðộ Đệ Tử

Lúc Phật còn tại thế, có một vị tân Tỳ kheo tên là Hòa Tiên, cùng đi với một người đệ tử đến yến kiến Ðức Thế Tôn. Ðức Phật lấy tay chỉ người cùng đi, hỏi vị tân Tỳ kheo rằng:

- Thầy là gì giới Thầy?

Vị Tân Tỳ kheo ấy tỏ vẻ sung sướng:

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, Thầy này là đệ tử của con!

Ðức Thế Tôn ngạc nhiên:

- Thầy được bao nhiêu tuổi hạ?

- Bạch Thế Tôn, con được hai tuổi hạ, vị tân Tỳ kheo trịnh trọng thưa.

Ðức Thế Tôn tiếp lời:

- Người đệ tử của Thầy đây được mấy tuổi hạ?

- Bạch Thế Tôn, Thầy này được một tuổi hạ, vị tân Tỳ kheo trả lời.

Lúc bấy giờ Ðức Thế Tôn liền kêu riêng vị Tỳ kheo ấy mà dạy rằng:

- Thầy độ người như vậy là không đúng phép, không đúng của Sa môn… Thầy không nên làm như vậy. Chính Thầy chưa biết chi, lấy chi Thầy dạy đệ tử?!

Ðức Thế Tôn la rầy quở trách ông Hòa Tiên Tỳ kheo xong, liền bảo các Thầy Tỳ kheo rằng:

- Từ nay về sau, vị nào muốn độ người xuất gia phải đủ những điều căn bản như sau đây:

1. Phải đủ mười tuổi hạ, chứ không phải tuổi đời hay tuổi thọ giới.

2. Phải thành tựu giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến...

3. Phải biết thế nào là khai, giá, trì, phạm, khinh, trọng...

Nếu không hội đủ những điều tất yếu như vậy thì không được độ người xuất gia làm đệ tử. Ngoài ra, vị nào xét thấy mình đủ những yếu tố trên nhưng trước khi bắt đầu độ người xuất gia phải (bạch nhị yết ma) và Tăng đoàn chấp thuận mới được.

Lại có một vị Tỳ kheo Ni, ham nuôi đệ tử, có năm độ đến hai ba người xuất gia, mà rồi không chu đáo được vấn đề giáo dục cho họ, nên gây ảnh hưởng không hay cho Tăng đoàn. Ðức Thế Tôn liền kêu vị Tỳ kheo Ni ấy hỏi rằng:

- Ngoài đời có ai một năm sanh hai ba người con không? Nếu có thì sự nuôi dạy có chu toàn không...

Ðức Thế Tôn quở trách vị Tỳ kheo Ni ấy xong liền khuyên bảo các Tỳ kheo rằng:

- Từ nay các vị đừng nên làm việc phi pháp, phi Sa môn... như vậy nữa!

Thích Ðổng Minh

“Giới luật là mạng mạch của Tăng già, là thuyền bè đưa chúng sanh thoát khỏi bể khổ”.





#65 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 18/06/2012 - 06:03

62. Ðạo Tràng Của Bồ Tát

Ngày xưa ở một ngôi chùa lớn tại Trung Quốc, có một vị sư nổi tiếng là khùng. Thầy không bao giờ ở chùa, quanh năm mặc cái rách đi lang thang la cà khắp các trà đình tửu điếm, bạn với những kẻ côn đồ, nghiện ngập. Những kẻ này sau khi giao thiệp với Thầy, phần lớn đâm ra hiền lương và trở thành những hiệp sĩ ưa giúp đời. Chúng tụ tập tại các bến chợ, đỡ đần gánh nặng cho những người già yếu, sản phụ, trẻ con. Sau những giờ làm việc nghĩa chúng hội họp lại ôn những lời dạy bảo của vị sư khùng. Ðược biếu món gì ngon chúng để dành cúng dường vị thầy yêu mến, vì lâu lâu chúng mới thấy được bóng dáng Thầy ngất ngưởng trở về đô thị một lần. Thầy đi đâu? Thì ra chỗ hóa duyên của Thầy là một làng đánh cá ở biển. Thầy thường ở trong làng ấy, thỉnh thoảng mới về chùa một ngày, vào các dịp giỗ lớn.

Chúng Tăng trong chùa rất bực bội về bề ngoài của Thầy khùng, thật là mất hết thể thống của một vị Tăng, nhất là khi họ thấy Thầy không trường trai như quy luật ở chùa. Thầy không đòi ăn gì khác hơn đại chúng mỗi khi về chùa, nhưng buổi sáng Thầy về thì buổi chiều họ đã thấy “bổn đạo” của Thầy ở biển gánh tới chùa một gánh cá biển, tôm, cua, đủ thứ sơn hào hải vị để cúng dường, thầy quát mắng:

- Tiên sư tụi bây, tao ăn gì hết mà gánh tới nhiều dữ vậy? Lần sau có muốn đem cho thì chỉ đem cho tao một con cá là đủ.

Một điều quái lạ, là mặc dù Thầy đối với họ có vẻ thô lỗ cộc cằn, mà những dân đánh cá xem ra rất kính trọng Thầy. Họ xoa tay cười nịnh:

- Dạ để Thầy biếu bà con trong chùa… Chúng con nghĩ là chùa đông người.

- Ý, tụi bây ngu. Các Thầy chùa không nạp thứ này, hiểu chưa? Chỉ có tao. Thôi, về đi.

Họ riu ríu kéo nhau về, hớn hở sau khi cúng dường Thầy vài con cá, và được gặp Thầy. Ðến giờ thọ trai, Thầy ngồi vào bàn chư Tăng, xách theo con cá biển mới luộc. Tăng chúng không chịu nổi mùi tanh, vác chén chạy, tránh ngồi gần Thầy. Thầy cười điềm nhiên gắp cá luộc, hề hề chấm nước tương ăn qua bữa.

Chỉ có vị Phương trượng hình như rất hiểu và thương Thầy, do đó Tăng chúng không dám bàn ra tán vào mặc dầu thái độ nghênh ngang của Thầy. Vì lâu lắm Thầy mới về chùa, nên Phương trượng cùng ngồi chung bàn với các đệ tử vào những dịp ấy. Ðó là một biểu lộ rõ rệt của lòng ưu ái nơi bậc Thầy khả kính. Có Thầy, Phương trượng vui hẳn lên. Hai Thầy trò đàm đạo rất tương đắc. Phương trượng dường như không quan tâm mảy may tới mùi tanh nồng nặc của con cá Thầy đang ăn, mặc dù chính Ngài đang dùng rau luộc.

Trong bữa ăn ấy, Thầy khùng lỡ đánh rấm kêu cái đùng. Thầy điềm nhiên bỏ đũa, ra trước đại chúng lạy ba lạy sám hối. Lạy xong, trở về chỗ cũ tiếp tục ăn. Vài người không nhịn cười được, vừa ăn vừa cười khúc khích. Thầy quắc mắt, mắng:

- Tiên sư tụi bây, ta đã lạy sám hối, còn cười cái gì? Ngồi ăn trước mặt Thầy không được cười giỡn.

Bẵng đi một dạo khá lâu, Thầy không trở về chùa. Một buổi chiều nọ Tăng chúng thấy Thầy thất thểu bước lên đồi, dẫn đến chùa, mặt mày nghiêm trang khác hẳn mọi khi. Chúng ra chào Thầy:

- Hôm nay sao sư huynh nghiêm trang thế?

- Này mai giỗ Tổ, về bái biệt Thầy đây.

- Sư huynh đi đâu.

- Về chầu Tổ.

Ðại chúng cười rộ, không tin lời Thầy. Nhưng đến giờ ngọ hôm sau tắm rửa xong Thầy vào nhà thiền lạy Phương trượng ba lạy từ biệt và bảo đại chúng:

- Hãy lên chuông trống bát nhã đi. Tây phương Tam Thánh sắp đến rước ta rồi.

Ðại chúng chưa tin hẳn, nhưng nhìn ra thì cả làng đánh cá ùn ùn kéo lên chùa tiễn đưa Sư phụ của họ về Tây phương. Một mùi hương lạ xông khắp, và trên hư không, mọi người đều trông thấy ba luồng ánh sáng chói lòa của Tây phương Tam Thánh (Di Ðà, Quán Âm, Thế Chí) đến rước người con yêu dấu của các Ngài khi vị này đã mãn duyên hóa độ.

Ba hồi chuông trống vang rền trong khi Sư khùng điềm nhiên tọa tịch trong tư thế kiết già. Ðại chúng rơi lệ sụp lạy sám hối trước con người mà họ thường báng bổ vì không thể hiểu thấu hành tung của Ngài. Sau khi Ngài thị tịch, đại chúng hỏi Phương trượng:

- Bạch Thầy, thì ra sư huynh chúng con tu mật hạnh khó nghĩ bàn. Nhưng tại sao người phải làm như vậy, sao không sống bình thường như những vị khác.

- Ðể hóa độ những dân dao búa, đệ tử ta phải làm như vậy. Nhờ ông ấy mà cả làng đánh cá mới quy y theo Phật, đa số bỏ hẳn nghề ác. Cho nên xét người, các ông chớ nên chỉ xét bề ngoài. Ðức Phật đã dạy: “Nếu thấy tướng mà không chấp tướng mới thấy được Phật”, các ông phải nhớ lấy điều ấy.

Thích Nữ Trí Hải

“Hoa nở hoa tàn việc thế gian

Ðường tu tự tại cảnh thanh nhàn

Việc gì cần đến thì ta đến

Như vậy trần gian tức Niết bàn”.

Sửa bởi hiendde: 30/07/2012 - 21:48


#66 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 05/07/2012 - 22:27

63. Lời Thề Nguyện

Ðã hơn một tuần nhật rồi, vị Thánh nữ buồn rầu ủ ê, ăn không ngon miệng, ngủ không yên giấc, vì mẹ nàng vừa từ biệt cõi đời.

Gọi nàng là Thánh nữ, bởi vì nàng là một người tu hành đoan chánh, rất hiếu thảo với cha mẹ và tử tế với mọi người. Tuy nàng thuộc dòng dõi quí tộc Bà La Môn, song lại tu theo Phật giáo, ăn ở rất phúc hậu nên được nhân dân địa phương kính nể và mến phục mà tôn xưng là Thánh nữ.

Vị Thánh nữ thương mẹ lắm, song không phải là nàng thương vì mẹ nàng không còn ở cõi đời. Vốn là bậc tu hành chân chánh, nàng đã hiểu rõ lẽ sống chết như thế nào rồi. Ðối với nàng, sự sống chết thật ra không làm cho nàng bi lụy xót xa cho lắm, nhưng nàng thương mẹ vì một lẽ khác.

Lúc còn sinh thời, mẹ nàng vốn theo ngoại đạo, tà giáo, không tin Phật pháp, không kính Tam bảo, không tin lẽ nhân quả, luân hồi, thường sát sanh hại vật, ăn ở tàn ác với mọi người, nói lời không chân thật… Ðã nhiều lần, nàng cố sức khuyên can, mong phát huy chánh kiến cho mẹ nhưng mẹ nàng không chịu tin theo.

Vì hiểu rõ lý luân hồi, nghiệp báo, nên nàng càng cảm thấy thương xót mẹ vô cùng. Nàng tin thế nào sau khi thác, mẹ nàng cũng bị đọa vào các đường ác như: Ðịa ngục, ngạ quỷ và súc sanh chứ chẳng không.

Nghĩ như vậy, rồi hai hàng nước mắt chan hòa, lòng đau như cắt. Bỗng nhiên đôi mắt vị Thánh nữ sáng ngời, trước mắt nàng hình ảnh Ðức Phật Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai hiện ra.

- Chỉ có Ðức Phật mới có thể cứu được mẹ ta. Ta hãy cầu nguyện nơi Ngài.

Sáng hôm sau, khi vầng thái dương vừa ló dạn, muôn chim ca hát vui mừng chào đón ánh bình minh, vị Thánh nữ Ba Là Môn thức dậy, nàng thu xếp hành trang và lễ vật, rồi khoan thai đi về phía chùa làng.

Sau khi dâng hương và lễ vật Thánh nữ ngước nhìn pho tượng Ðức Phật Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai oai nghi rực rỡ. Bất giác, nàng phục xuống chân Ngài, trong lòng thổn thức.

Nàng tự nghĩ: “Phật là bậc Ðại giác, đầy đủ trí tuệ. Song là bạc phước cho ta, nên không được gặp Ngài lúc Ngài còn trụ thế. Nếu lúc này Ngài còn tại thế, tất ta có thể hỏi được, mẹ ta bị đọa nơi nào?”

Còn đang suy nghĩ chưa dứt, bỗng một làn khói thổi mạnh, ngọn nến lung linh. Văng vẳng bên tai Thánh nữ, như có ai nói tiếng rất ngọt ngào:

- Hỡi Thánh nữ đang khóc lóc kia, hãy nín đi và nghe đây, ta sẽ chỉ bảo cho nơi mẹ con bị đọa.

Bàng hoàng như vừa tỉnh giấc mộng, Thánh nữ ngạc nhiên và hướng lên không trung và bạch rằng:

- Chẳng hay vị thần linh nào ứng hiện, xong rủ lòng thương xót mà giải cho con tấm lòng lo âu. Từ khi mẹ con mất đến nay, ngày đêm thương xót, không biết mẹ con bị đọa vào ngã ác nào?

Ở trên không lại có tiếng nói vang lên văng vẳng như tiếng chuông chiều:

- Hỡi Thánh nữ! Ta đây chính là Phật Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai mà con đang cúng dường và chiêm ngưỡng đó. Vì tấm lòng hiếu thảo gấp mấy thường tình của con, nên ta mới bảo cho con biết.

Thánh nữ nghe nói khôn xiết vui mừng, liền chắp tay quì lạy. Ðức Phật lại phán:

- Hỡi Thánh nữ Bà La Môn kia, sau khi cúng dường, hãy trở về tọa thiền nghiêm chỉnh mà niệm danh hiệu ta, thì sẽ thấy nơi mẹ con bị đọa.

Vì nóng lòng thương mẹ, Thánh nữ Bà La Môn vội vã làm lễ tạ Phật rồi ra về. Y theo lời phật dạy, Thánh nữ trang hoàng bàn thờ Phật và đối trước tượng Phật, nàng ngồi kiết già nghiêm chỉnh, miệng và tâm đều kính cẩn niệm danh hiệu Ðức Phật Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai luôn luôn không dứt.

Một bầu không khí mơ màng và trong ánh sáng bỗng hiện ra Thánh nữ Bà La Môn ung dung tiến bước đến một bờ biển mênh mông bát ngát. Nhưng lạ thay, nước biển lại sôi lên sùng sục. Trên mặt biển, làn sóng cuồn cuộn nhấp nhô rất nhiều thú dữ, hình dáng quái dị, hung ác, bay nhảy, bơi lặn tung tăng, tranh nhau xé xác hàng ngàn, hàng vạn người trôi nổi trong đó, đàn ông có, đàn bà có, tiếng rên la khóc lóc vô cùng thảm thiết: Những cảnh tưỡng diễn ra vô cùng tàn ác, dã man, rùng rợn, không nỡ nhìn lâu. Tuy vậy Thánh nữ chỉ thấy thương xót cho những kẻ bị thú dữ ăn thịt đó thôi, chứ lòng nàng không cảm thấy sợ hãi chút nào. Lòng Thánh nữ rất phân vân về cái cảnh tàn sát ghê rợn ấy, nàng định tâm nếu gặp người nào sẽ hỏi cho rõ nguyên do!

Bỗng từ đằng xa đi lại một người hình dáng kì dị, cổ quái. Tới gần Thánh nữ, người kia vội vã chắp tay vái chào mà rằng:

- Mô Phật! Bạch Bồ Tát, chẳng hay vì duyên gì mà Ngài lại tới đây?

- Thánh nữ vô cùng ngạc nhiên về cách xưng hô của người kì dị kia. Nàng bèn hỏi lại:

- Mô Phật! Chẳng hay Người là ai mà kêu tôi là Bồ Tát?

Người kia mỉm cười đáp lại:

- Mô Phật! Ðệ tử là Quỷ Vương Vô Ðộ, cai quản nơi này nên được biết rõ: Vào được cõi này, chỉ có các bậc Bồ Tát hoặc các tội nhân mà thôi. Cứ nhìn cốt cách ung dung của Ngài thì biết ngay Ngài là bậc Bồ Tát mới đủ thần thông để chứng kiến những cảnh ghê gớm ở chốn này mà chẳng chút sợ hãi.

Thánh nữ suy nghĩ giấy lát, rồi hỏi Quỷ Vương Vô Ðộc:

- Vậy đây là chốn nào?

- Bạch Bồ Tát! Ðây là từng bể thứ nhất vế phía Tây núi Ðại Thiết Vi.

- Phải chăng, trong núi Ðại Thiết Vi là địa ngục?

- Thưa vâng, trong núi Ðại Thiết Vi quả có địa ngục! - Tôi có việc muốn vào địa ngục có được chăng? Thánh nữ hỏi.

- Bạch Bồ Tát! Muốn vào địa ngục chỉ có hai cách: Uy thần và nghiệp lực. Ngoài hai cách ấy thì chẳng bao giờ vào được. Hiện nay Bồ Tát đang nhờ sức niệm Phật nên có uy thần, có thể vào được, song tôi muốn hỏi Bồ Tát muốn vào địa ngục có duyên cớ chứ?

Thánh nữ nghe Quỷ Vương Vô Ðộc hỏi, ngậm ngùi nhớ đến mẹ và liên tưởng đến những cực hình ghê gớm trong địa ngục. Nàng đáp:

- Tôi muốn đi tìm nơi mẹ tôi bị đọa. Mẹ tôi mới thác, không biết người bị đọa đến ngã nào?

Quỷ Vương Vô Ðộc phân vân giây lát, rồi hải Thánh nữ:

- Bạch Bồ Tát! Dám hỏi mẹ Ngài khi còn trên dương thế, hạnh nghiệp thế nào?

Thánh nữ gạt lệ đáp:

- Mẹ tôi vốn tin theo tà đạo, thường chê bai Tam bảo và tạo nhiều nghiệp dữ.

- Chẳng hay mẹ của Bồ Tát thuộc dòng dõi nào và tên họ là chi?

- Cha mẹ tôi đều thuộc dòng dõi Bà La Môn. Cha tôi tên là Thi La Thiện Kiến, mẹ tôi là Duyệt Ðế Lợi.

Thánh nữ vừa dứt lời, Quỷ Vương Vô Ðộc vội vã chắp tay đảnh lễ Thánh nữ mà rằng:

- Mô Phật! Bạch Bồ Tát! Xin Bồ Tát chớ bi lụy nữa và hãy hoan hỉ trở về cho. Bà Duyệt Ðế Lợi rất may mắn. Tuy bà có phạm nhiều tội ác bị đọa vào địa ngục Vô Gián, song nhờ lòng hiếu thảo của Bồ Tát, hết lòng tu phước, bố thí, cúng dường, nên được sanh lên cõi trời từ ba hôm nay rồi. Chẳng những một mình bà, mà tất cả những tội nhân trong địa ngục Vô Gián hôm ấy đều hưởng chung sự vui sướng ấy cả.

Quỷ Vương Vô Ðộc vừa dứt lời. Thánh nữ vui sướng quá, bất giác ra khỏi cõi tiền định. Nàng bừng tỉnh đứng dậy, chạy trước bàn thờ Phật làm lễ và phát lời thề nguyện rất to tát và chân thành:

- Con xin thề nguyện rằng mãi mãi về đời sau này, nếu còn chúng sanh nào còn có tội khổ, con sẽ mở rộng phép phương tiện mà giải thoát cho họ và con cũng thề nguyện đời đời kiếp kiếp sẽ tu theo pháp của Phật, làm hạnh của Bồ Tát để độ hết chúng sanh và chỉ thành Phật khi nào hết thảy các chúng sanh đều thành Phật.

Lời thề nguyện vang lên như tiếng sắt chạm vào nhau, cương quyết và hùng mạnh, ghi sâu vào tâm khảm vị Thánh nữ chí hiếu và dư âm còn vang dội vào tâm tư muôn triệu tín đồ của Ðức Phật trong muôn triệu thế hệ sau này.

Vị Thánh nữ nói trên là tiền thân ngài Ðịa Tạng Vương Bồ Tát.

Y Chu Nguyễn Long Tiếp

Đôi đường nhân hiếu vẹn hóa đôi,

Vằng vặc gương soi ức vạn đời.

Tích trượng phá tan bao cửa ngục,

Minh châu chiếu sáng mọi chân trời.

Ðộ sanh nhiều kiếp không sờn dạ,

Cứu mẹ hai phen thật hiếm người.

Bể khổ vì còn chưa tát cạn,

Con thuyền tế độ vẫn còn bơi.

Sửa bởi hiendde: 30/07/2012 - 21:49


#67 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/07/2012 - 09:34

64. Thọ Trì Ba Giới

Tương truyền, khi Phật còn tại thế, nơi thành Xá Vệ có một thanh niên, con một gia đình trưởng giả lương thiện, thường nghe Phật thuyết pháp, phát tâm quy y Tam Bảo và xin xuất gia học đạo.

Bấy giờ, trong hàng Tăng chúng có một vị Tôn Giả được giao cho trách nhiệm giảng về thế giới luật cho thanh niên học hỏi. Tôn Giả dạy rằng: “Này là pháp hữu, đây là loại giới thứ nhất, đây là giới thứ hai, giới thứ ba, thứ tư…thứ chín, thứ mười v.v…Ðây là tiểu giới của người xuất gia, đây là trung giới, đây là đại giới, đây là Ba La Ðề Mộc Xoa, đây là giới căn bản, đây là Tịnh giới về hành vi, đây là những thường giới để dùng hàng ngày…”. Vị Tôn Giả còn giảng nhiều hơn nữa.

Nghe xong, vị tân Tỳ kheo nghĩ rằng: “Số mục, danh từ của giới quá nhiều, một lượt mà phải thọ giữ bao nhiêu giới luật như vậy, e rằng khó bảo toàn! Ðã không giữ giới được hoàn toàn, thì sự xuất gia không lợi ích gì. Chi bằng trở về làm một trưởng giả (như cha mình trước kia) làm ít việc thiện như: Bố thí, phóng sanh… rồi nuôi dưỡng vợ con là đủ rồi”. Nghĩ vậy, vị tân Tỳ kheo mới thưa với Tôn Giả rằng: “Thưa Tôn Giả, tôi không thể giữ một lúc nhiều giới luật như vậy được! Không giữ được thì xuất gia có ích gì? Tôi sẽ hoàn tục để sinh sống, xin dâng y bát lại cho Ngài!”.

Tôn Giả đáp: “Ðành rằng ông có thể hoàn tục nếu thấy mình không kham lãnh, nhưng ông cũng phải đến đảnh lễ Ðức Phật một lần cuối đã”. Nói đoạn, Tôn Giả dẫn vị tân Tỳ kheo đến lễ Ðức Phật. Ðức Phật vừa trông thấy hai người đã hỏi rằng:

- Các ông hôm nay đến đây có việc gì?

- Bạch Thế Tôn, vị Tỳ kheo nầy nói là không thể chấp trì giới luật, giao trả y bát, và hoàn tục vì vậy chúng con hướng dẫn người đến đảnh lễ lần cuối, từ biệt Ðức Thế Tôn.

Hiểu được nguyên cớ, Ðức Phật mới dạy rằng:

- Nầy Tôn Giả, sao Tôn Giả lại giảng cho vị tân Tỳ kheo nầy nghe nhiều giới luật như thế? Ông ấy chỉ nên tùy theo sức mình mà tuân giữ chớ! Về sau Tôn Giả không nên giảng giới nhiều như vậy nữa. Bây giờ hãy để ông ấy ở lại đây với tôi…

Rồi Ðức Phật bảo vị tân Tỳ kheo kia rằng:

- Ông hãy nghe đây, ông không còn phải giữ nhiều giới như vậy chỉ có 3 giới thôi. Chừng ấy ông có nhứt định giữ được không?

Vị Tỳ kheo muốn hoàn tục kia thưa rằng:

- Bạch Ðức Thế Tôn, chỉ có 3 giới thôi, thì con có thể giữ được.

Ðức Phật mỉm cười:

- Tốt lắm! Từ nay về sau ông chỉ giữ 3 giới là ngăn ngừa 3 nghiệp Thân, Khẩu, Ý không để chúng phạm vào các điều ác. Tôi nhắc lại là ông chỉ cần giữ 3 giới ấy mà thôi, chớ nên hoàn tục làm gì.

Nghe Ðức Phật dạy như thế, vị Tỳ kheo kia hết sức vui mừng, hướng về Ðức Phật đảnh lễ và phát nguyện trọn đời giữ 3 giới mà Ðức Phật vừa trao, rồi đảnh lễ Ðức Phật theo chúng trở về tịnh xá. Ông nghĩ rằng: “Các vị Tôn Giả không được như Ðức Phật, giảng dạy giới luật cho mình mà dùng nhiều loại danh số quá, khiến cho mình trong một lúc không thể lãnh ngộ, nhưng khi đến Ðức Phật Ngài tóm thâu các danh số phiền phức của giới, chỉ còn có 3 môn để trao dạy cho mình, thì mới vỡ lẽ thấu rõ. Ðức Phật quả là một vị Pháp Vương trong thế gian không còn ai hơn nữa”.

Từ đó trí tuệ ông tăng trưởng rất mau. Sau mấy hôm, ông chứng được quả vị A La Hán.

Khi rõ được sự kiện trên, các vị Tỳ kheo mới họp nhau bàn luận: Các pháp hữu, đối với vị Tỳ kheo sắp sửa hoàn tục kia, Ðức Thế Tôn đã khéo léo phương tiện đem tất cả giới luật gồm thâu làm 3 môn học mà trao cho ông ta, làm cho ông ta sớm chứng được quả vị, Ngài thật là một người vĩ đại! Trong khi mọi người đang bàn luận về công đức của Ðức Phật, thì ngay lúc ấy Ðức Phật cũng vừa đi đến, Ngài hỏi:

- Các ông nhóm họp bàn luận việc gì?

Một vị Tôn Giả thay mặt đại chúng thưa rõ mọi việc điều vừa bàn luận, Ðức Phật nghe xong liền dạy:

- Này các Tỳ kheo, một bao to thì nặng quá nhưng khi chia thành mấy bao nhỏ, vác lên vai mà đi thì sẽ nhẹ nhàng. Xưa có một Trưởng giả được một khối vàng rất lớn không thể nhắc lên, ông bèn phân làm mấy khối nhỏ, sau đó ông lần lượt đem về nhà, không có gì gọi là nhọc sức cả.

Tiếp theo Ðức Phật thuật lại một mẫu đời như sau:

“Thuở xưa, trong thành Ba La Nại, có một nông phu một hôm ra đồng cày ruộng. Ðó là một khoảnh ruộng được di tặng bởi một phú ông trong thôn. Phú ông trước khi qua đời có đem chôn giấu một khối vàng lớn trong đám ruộng ấy. Người nông phu đang cày ruộng, thì bỗng dưng lưỡi cày chạm phải khối vàng trượt lên. Ông tưởng là cái rễ của một đại thọ, bèn moi đất lấy lên, mới biết là một khối vàng vĩ đại! Ông vui mừng trong lòng, rồi lấp đất phủ lại như cũ, đánh trâu tiếp tục cày những nơi khác. Ðến chiều, khi mặt trời vừa lặn, ông cho trâu nghỉ ngơi và đến moi lấy khối vàng. Nhưng khối vàng quá nặng, ông mới suy nghĩ: “Chỉ có cách chẻ khối vàng nầy ra làm bốn, một phần để sinh kế, một phần để dành làm vốn buôn bán về sau, và một phần đem ra bố thí làm các việc thiện”. Nghĩ như vậy ông liền chẻ khối vàng ra làm bốn, rồi lần lượt đem về nhà ba phần một cách dễ dàng không mệt sức. Ông giữ lời nguyện đem một phần ra làm việc phước thiện. Nhờ đó, đời đời kiếp kiếp được sanh vào các cảnh thiện…”.

Rồi Ðức Phật kết luận:

- Người nông phu được khối vàng lúc bấy giờ chính là tôi ngày nay đây!

Tâm Hiện

Nầy các ngươi, không có công đức gì lớn hơn cung kính và cúng dường Xá Lợi, nhưng công đức ấy hãy để lại cho các vị Quốc Vương Trưởng giả làm; nhiệm vụ cần thiết của người tu hành chúng ta là phải kết tập Pháp tạng và thanh tịnh tu hành, làm sao cho Phật pháp ở thế gian thường còn không tiêu diệt.

Sửa bởi hiendde: 30/07/2012 - 21:50


#68 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/07/2012 - 22:46

65. Thử Lòng

Vui thay sáng lạng cả trời,

Hoa đàm đã nở rạng ngời khắp nơi.

Ðại từ Ðức Phật ra đời,

Ðem thuyền Bát nhã độ người trầm luân.

Thiều quang chói lọi cõi trần.

Hỡi ai có biết Hồng Ân gần kề

Ca di Ánh sáng đã về.

Tiếng hát trong thanh ấy, gần như ở tận cõi trời xa đưa lại, bay lạc trong gió thoảng lanh lảnh dội từ rừng này sang rừng khác, từ non cao đến động thẳm, từ biển cả đến đồng bằng, chẳng chỗ nào mà không nghe đến nhạc điệu thần tiên ấy.

Từng đàn bướm cánh vàng, xanh đỏ tím bay liệng nhởn nhơ, rập rờn trên cành hoa thắm, từng đàn chim non ríu rít ở trên cành cây, từng đàn sóc xinh đẹp ranh mãnh rượt bắt nhau lẹ làng trên cổ thụ, cả thảy đều chuyền nhau cái tin mừng qua khẽ lá.

Những điệu nhạc du dương, những âm thanh đều đặn như dìu dặt ở mấy từng không vang động những làn sóng điện của bể trần.

Chúng sanh ơi! Ðấng giải thoát đã đến rồi. Ði! Ta hãy đi cùng về phía Nam dãy núi Hy Mã Lạp Sơn để nhờ Ngài giác ngộ. Tạo vật tưng bừng vừa mới tái sinh. Trên trời sương mù đã tan hẳn. Vừng thái dương ẩn hiện sau đám mây thưa chiếu ánh sáng huy hoàng trong khoảng không gian trong tạnh. Lòng người như cảm thấy một điềm lành, một ánh sáng thiêng liêng để phá tan bóng tối của cõi đời.

Những cành hoa sắp héo bỗng chuyển sang màu xanh biếc, nhưng cái ảnh hưởng huyền diệu nhất của ánh sáng này là nó biến đổi lòng người trong nháy mắt: Con người cảm thấy mình tốt đẹp hơn và cao thượng hơn. Kẻ sát nhân bỗng ghê rợn bàn tay đẫm máu của mình, bèn ăn năn hối tiếc. Chị bán hàng đang cân thiếu bỗng giựt mình không dám gian lận nữa. Người đau yếu mỉm cười trên giường bệnh, cách hẳn tiếng rên than và nghe lòng mình ấm dịu, reo nhảy một nguồn vui. Kẻ sắp lìa trần không còn sợ hãi mà được an tĩnh và đầy hi vọng. Người giàu sang vương giả không còn thiết tha cảnh vào đài ra các, đâm ra chán nản mùi phú quí hồng trần, muốn tìm đường thiêng liêng giải thoát để độ rỗi linh hồn.

*

Ngày hôm ấy, khi vầng ô vừa gác non đoài, bóng hoàng hôn hiện giữa rừng sâu rung động chập chờn trong làn gió lạnh. Rải rác ở cánh đồng cỏ lục, vài ba chú nông phu với cặp bò vàng đi về phía chân đồi xanh biếc. Giữa cảnh rừng hoang tĩnh mịch, thỉnh thoảng chìm những tiếng rủ nhau về tổ. Trên núi Tuyết, gió lạnh từ xa thổi đến ngạt ngào hương thơm của trăm thứ hoa rừng, xen lẫn mùi ngọt dịu của trái chín muồi.

Dưới cội Bồ Ðề hùng vĩ, Ðức Phật Thích Ca đang ngồi kiết già, trầm tư mặc tưởng, chân xếp bằng, tay để trên gối, đầu ngay thẳng, Ngài ngồi tham thiền yên lặng như pho tượng đá. Trong cõi âm u tĩnh mịch, hào quang Ðức Phật tỏa sáng, rực rỡ cõi trời, và ân huệ của Ngài cũng ban ra khắp chốn, thỉnh thoảng vài con sóc vàng nhảy lên vế Ngài, vài con bạch điểu xinh tươi nghiêng đầu vào cánh tay Ngài như mong chờ mơn trớn. Cái không khí thiêng liêng tràn đầy bác ái, khiến cho kẻ nào thiếu đức tin đi ngang qua đó cũng phải cúi đầu quỳ gối kính phục, như những thú rừng hung dữ kia, mà khi đến gần Ngài cũng hóa ra hiền lành và kính sợ!

Nhưng kìa con nai cái đang nằm úm con dưới áo Ngài, lại ngước mõm lên ngửi trên không một cách lạ thường, dường như có linh tính đoán trước sẽ xảy ra chuyện gì. Một tiếng động rập rềnh ở tận phương xa đưa lại. Rồi kế tiếp tiếng nện gót giày một cách vội vàng trên mặt đất rất rêu xanh. Làm xào xạc cây cỏ phá tan sự tĩnh mịch của cảnh rừng im lặng. Ði đầu là một vị thiếu niên anh tuấn, ăn mặc xênh xoang diễm lệ, đeo ngọc ngà châu báu khắp mình, xăm xăm đi lại chỗ Ðức Phật. Trước vẻ uy nghiêm, an tịnh và hiền lành của Ðức Phật, chàng bỗng khiếp sợ, vội vàng quỳ mọp xuống chân Ngài một hồi lâu. Khi đứng dậy hết sức cung kính. Trong khi đó Ðức Phật vẫn ngồi điềm nhiên như không có gì xảy ra. Nhưng trong cặp mắt Ngài cũng nẩy ra một tia sáng dịu dàng chứa chan vẻ từ bi bác ái.

Chàng thiếu niên ấy nói:

“Bạch Ðức Thế Tôn, con xin kính lạy Ngài. Con ở tận xứ xa, từ nước Cam Sa Ba, trải qua ngàn dặm xuyên sơn mới tới đây. Con là Ðông cung Thái tử Djêta đến xin Ngài một chút an lành. Ðức Thế Tôn ơi! Từ khi con nghe đặng thanh danh Ngài, con không còn an nghỉ đặng nữa. Cung điện nhà vua, kho vàng lẫm bạc, hoàng thân quốc thích cho đến mỹ nữ cung phi nhan sắc tuyệt trần cũng không làm con phi dạ. Cái bã đỉnh chung mùi phú quý hết làm cho con say đắm nữa. Con muốn tìm cái gì cao thượng hơn, trường cửu hơn và thiêng liêng hơn. Lạy Ðức Thế Tôn, con xin Ngài chỉ giáo cho con và thâu con làm đệ tử. Ơn đức ấy ngàn năm con nguyền khắc cốt ghi tâm”.

Ðức Phật vẫn điềm nhiên trầm tĩnh, không thốt một lời nào, Ngài nhìn Thái tử một cách dịu dàng hiền lành và thương xót.

Thái tử nói tiếp:

- Ðức Thế Tôn ơi! Xin Ngài huệ cố chỉ dạy cho con rõ, xin Ngài hỷ xả cho con biết, con có xứng đáng cái đặc ân này chăng?

Bạch Ðức Thế Tôn! Từ khi còn bé, con đã giữ mình tinh khiết, con tập làm lành lánh dữ thuận với luật trời. Con giữ vẹn cang thường đạo lý, sớm công phu chiều bái sám, hằng xem kinh sách trau mình. Những hành vi của con như thế Ngài cũng đã rõ lắm rồi. Vậy Ngài cho con biết: Con có đủ tư cách làm người đệ tử chăng?.

Ðức Phật chỉ đáp vỏn vẹn rằng: “Không”.

Thái tử Djêta làm thất vọng, buồn rầu bạch rằng:

- Lạy Ðức Thế Tôn, vậy con phải làm sao mới đặng? Con cúi xin Ngài phán cho con rõ, con nguyện sẽ đem tất cả bình sanh chí lực tuân theo, hầu được Ngài hạ cố thâu con làm đệ tử.

- Con tự tìm thấy… rồi con sẽ rõ.

- Ôi! Con biết tầm cái gì bây giờ?

Hoàng tử nói với giọng đau thương rung cảnh vô cảm vô ngần, nhưng Ðức Phật vẫn giữ vẽ mặt điềm nhiên lặng lẽ…

Hoàng tử mới tiếp rằng:

- Bạch Ðức Thế Tôn cao cả! Vậy thì để con tự tìm lấy. Có lẽ Ngài muốn thử lòng con?

Ðức Phật nói: “Phải”.

- Bạch Ðức Thế Tôn, bao giờ Ngài cho phép con trở lại hầu Ngài nữa?

- Bảy trăng sau mùa mưa này.

Thái tử Djêta lặng lẽ mọp xuống một lần nữa, hồi lâu rồi mới từ từ đứng dậy, chậm rãi ra đi. Ðoàn quân hộ tống khuất dạng trong đêm khuya. Thanh khí nhẹ nhàng trở lại dần tứ phía. Mảnh trăng rằm treo lơ lửng trên những chóp núi cao đầy tuyết phủ. Những dòng ánh sáng trăng màu sữa chảy láng dài trên không gian tĩnh mịch. Muôn sao nhấp nhánh kết thành ngàn chuỗi hạt kim cương… Rừng đêm khuya lặng lẽ như tờ. Dưới cội Bồ Ðề Ðức Phật cứ mãi tham thiền, đưa tâm linh lên tận cõi Niết Bàn Cực Lạc. Con nai cái hiền lành tựa đầu lên gối Ngài lim dim đôi mắt.

Bảy trăng vừa qua, ngày kỳ hạn đã đến, cũng dưới vội Bồ Ðề, cũng tại mé rừng hoang ấy, Ðức Phật đang đợi chờ…

Mặt trời đã chen lặng ửng đỏ một vùng phía tây rồi dần dần biến màu xám sậm.

Từ phương Ðông mây đen kịt nặng trĩu đủ các hành hình kỳ quái kéo đến. Bỗng chớp nhoáng, sấm sét vang động, gió thổi mỗi lúc mỗi mạnh, cành cây oằn oại lá cuốn bụi bay, cả thảy đều báo tin trận bão to sắp đến. Thú rừng xôn xao rạo rực, tìm nơi ẩn trú. Chim từng đàn bay núp dưới cội Bồ Ðề, kêu líu lo ríu rít ra dáng hãi hùng. Một con beo cái chui vào chân Phật, điểm nhiên an tĩnh như không biết cảnh giông tố bên ngoài.

Mưa bắt đầu tuôn xuống, nước chảy ào ào như lở núi, lở non gió thổi mạnh kêu vi vút xô ngã nhiều cây đại thụ. Thật là đáng khiếp. Nhưng cảnh bão bùng sấm sét hiểm nguy như thế không cưỡng chế được lực bên trong. Ðúng giờ kỳ hẹn, Thái tử Djêta đã quỳ dưới chân Phật. Rồi vì rét mướt, vì cảm động Thái tử lẳng lặng giây lâu mới bạch rằng:

- Bạch Ðức Thế Tôn, con đếm từng ngày đợi cái buổi hạnh phúc hôm nay. Ðối với lòng con mong mõi thấy thời gian qua rất chậm và hôm nay. Ôi! Giờ phút thiêng liêng đã đến sung sướng cho con biết dường nào! Bạch Ðức Thế Tôn! Từ khi con vâng lệnh Ngài về nước, con ráng dồi mài đạo đức, con giữ mình khiết bạch, chịu khổ hạnh nhiều bề: Ăn không dám no, ngủ không dám ngủ kỹ, để kiềm thân xác thân. Con buộc mình thức khuya dậy sớm, tham thiền, sửa tánh để ăn năn sám hối. Vậy hôm nay Ngài có bằng lòng thâu con làm đệ tử chăng?

Ðức Phật trả lời: “Không”.

Vừa nghe lời vắn tắt này Djêta rất đỗi kinh hoàng, nghẹn ngào rưng rưng giọt lệ vén áo lên chùi với bao nỗi thất vọng. Hoàng tử lẳng lặng một hồi lâu, mới lập cập bạch rằng:

- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Xin Ngài mở lòng từ bi bác ái thương xót con, cho con hiểu làm sao con không được Ngài thâu làm đệ tử. Ðức Thế Tôn ơi! Xin Ngài giải rõ cho con nhờ.

Trong lúc ấy, con beo cái ngẩng đầu lên ngó Hoàng tử mà hầm hừ, Ðức Phật đưa tay vuốt ve nó. Lúc bấy giờ sấm sét đã dứt, mây tan mưa tạnh, cảnh vật trở lại êm đềm như cũ, tựa hồ như để lắng nghe lời Phật dạy:

- Này Hoàng tử cao quí ơi! Những sự thử lòng mà ta mong chờ ở con chẳng phải thuộc bên ngoài, mà chính về cõi tâm tình của con. Vậy ta chẳng biểu con bỏ vợ và cung phi mỹ nữ đâu. Ta chẳng biểu con ly gia đình, cắt ái để hủy bỏ cuộc đời xuân xanh lạc thú của con đâu. Ta nào bắt con chịu khổ hạnh để ép mình trì giới.

- Không, không đâu. Ta không muốn con dứt bỏ những gì bên ngoài trong khi tâm con còn vương vấn những cái không hay.

Bởi kiếp xưa con vụng đường tu, gây ra nghiệp chướng nặng nề, kiếp này tự nhiên con phải trả… Nhưng khi con đứng trước sự thử lòng khó khăn kia, thì con không có đủ nghị lực để thắng nó! Con đã sa ngã một cách sỉ nhục, ương hèn mà con không hay. Vậy con hãy trở lại đền vua làm người đạo đời suông, chớ những cách hành thiện của con có đủ điều kiện để làm người đệ tử.

Nghe dứt mấy lời Phật nói, Hoàng tử Djêta như sét đánh vào tai, vừa thảm đạm vừa hổ thẹn mà bạch rằng:

- Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài từ bi chỉ cho con rõ: Con sa ngã ở chỗ nào? Nói ra càng thêm thẹn cho con. Nhưng con muốn biết để ăn năn sửa mình.

Ðức Phật dạy: Ðược, con hãy lắng tai nghe! -Ðiều thứ nhất: Con phẫn nộ khi người ta vu cáo con.

Này, Hoàng tử cao quí ơi ! Con hãy nhớ lại một khi kia, tại trào đình của phụ vương con có người vu cáo con một chuyện để mưu đồ đoạt ngôi vị của con. Ðó là một thử lòng đến cho con, đối phó cách nào cho xứng đáng là người đệ tử Phật. Mà rồi con không bình tĩnh đợi chờ cái ánh sáng chân lý đến chứng tỏ kẻ ngay người gian, hoặc giả con chịu ô nhục chuốc lấy sự vu oan một cách nhẫn nại và từ tâm, để trả lại cho rồi cái quả báo kiếp xưa mà con đã gây ra. Trái lại con lại thối thoát, con nhứt quyết minh oan cho bằng được và con lại còn phẫn nộ lôi đình nữa. Ðó là sự sa ngã thứ nhất của con.

Hoàng tử Djêta xanh mặt đáp rằng:

- Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu con biết đó là nghiệp chướng tiền khiên thì ắt con đã vui lòng cam chịu sự nhục ấy rồi. Nhưng vì con còn vô minh, phải có bổn phận minh oan, trước cứu danh giá cho mình, sau cho Hoàng tộc mình.

- Này Hoàng tử! Người thiện nhân ở đời bao giờ cũng có quyền phản kháng và minh oan cho mình khi mình bị vu cáo. Nhưng kẻ tu hành muốn bước chân vào đường Ðạo và muốn làm môn đồ nhà Phật thì phải làm thinh cam chịu nỗi bất công xảy đến riêng mình. Bởi vì kẻ nào sống với tinh thần rồi thì những sự vật bên ngoài như danh giá, giàu sang, thế lực… không còn trọng đãi nữa. Chúng nó chỉ có giá trị tương đối với đời sống tạm mà thôi. Con hãy tin chắc rằng: Trên đời này chẳng có sự ngẫu nhiên đâu, ta sướng hay cực, ta được người thương hay bị người ghét, ta giàu sang hay hèn hạ đều do duyên lành hay quả xấu của ta đã gây ra nghiệp báo. Bởi vì thiên hạ chí công và không bao giờ hữu nhân mà vô quả đặng. Người học đạo nên đợi một cách lãnh đạm cái mão vinh hoa hay ô nhục, và luôn luôn bình tĩnh, tâm không xáo động: Chẳng khinh bên nào mà chẳng trọng bên nào. Khi con bước chân vào nền vương giả tâm con cũng phải giữ mực quân bình như con đến chốn lều tranh vách đất. Con chớ vì ngoại cảnh mà khinh hay trọng.

Hoàng tử Djêta cúi đầu bái phục.

Ðức Phật dạy tiếp:

- Ðiều thứ hai: Con sa ngã vì cái ích kỷ. Con ích kỷ trong tình thương. Con rất yêu mến một người bạn tên là Da Sa (Jachas) chẳng khác gì con. Tình thương ấy là do nhân duyên kiếp trước mà tạo thành.

Rồi có một ngày kia, có một người lạ mặt tên là Ba Ti Ca (Batica) đến tại triều của phụ vương con cậy Da Sa làm một việc ý con không muốn. Và khi người xin kết nghĩa kim bắng với bạn con, con lại ghen tức. Ðó là cơn giông tố đã xảy ra ở trong lòng con. Ðáng lẽ con phải ôm lòng chịu lẻ loi và ráng nhổ tận gốc những cỏ xấu đang xâm chiếm lòng con. Ðáng lẽ con phải thương Da Sa chớ chẳng phải thương để chiếm lấy một mình, nhưng con lại đâm ra uất ức buồn rầu, con tìm cách ngăn cản không cho bạn con thân thiện với kẻ khác. Và từ đấy trong lòng con đã nhen nhúm lửa phiền ghen hận! Ðó là điều con sa ngã lần thứ hai vậy.

- Bạch Ðức Thế Tôn, sở dĩ con không muốn Ba Ti Ca kết bạn với Da Sa vì con biết y lợi dụng bạn con, y vì tư lợi, chứ chẳng phải vì tình thương. Con thầm nghĩ con có bổn phận bảo hộ bạn con, khỏi lâm vào cạm bẫy đó thôi.

Ðức Phật trả lời:

- Này Hoàng tử cao quí ơi! Với tai phàm mắt thịt, với thất tình lục dục của con, con làm sao đoán người trúng đặng? Làm sao con dám quả quyết rằng: Ba Ti vì tư lợi?

Con phải đề phòng sắc tướng bên ngoài nó gạt gẫm ngũ quan con, làm cho con đã vô minh càng thêm vô minh hơn nữa. Vả lại người học đạo nên biết người mà không tìm thấy tật xấu của người, chỉ lưu ý đến tánh nết mà thôi. Ví dầu con có đoán trúng đi nữa thì cái tính tư lợi sẽ không vì thời gian mà để lại tính chân chánh hay sao?

Hoàng tử ơi! Người thiện nhân ngoài xã hội có quyền bảo vệ tình yêu của họ để cho họ thưởng thức đến mãn đời, chớ người đã xả thân cầu đạo và muốn làm đệ tử Phật Tiên thì phải dứt bỏ cả mọi điều, cho chí tình yêu độc nhất cũng vậy, và phải nhớ trong lòng mình những rễ nhuộm máu của sự ghen ghét và ích kỷ. Hơn nữa, người ấy phải ôm chân, không than van phiền muộn, sự phản bội và bất trung của người thân yêu nhất đời. Con ơi! Chẳng phải người học đạo nên đặt chữ thương như nhiều người lầm tưởng mà trái lại nên rộng lòng bác ái, yêu thương một cách vị tha không mảy gì ích kỷ. Tình thương chân chính là nấc thang đưa con đến đài minh triết muôn đời.

Hỡi Hoàng tử, những của tiền phụ vương con, những sự vui sướng về nhục dục không làm cho con ưa thích nữa vì lẽ con đã hưởng rồi, con đâm ra chán ngán, chớ chẳng phải công trạng gì mà con kể.

Hoặc giả con muốn dứt bỏ cảnh phú quí để tôn mình hơn người chớ có giá trị gì. Còn trước các công đức vĩ đại này, mà duyên may đã đưa đến cho con. Con lại thiếu can đảm, thiếu nghị lực để khoác lên thân chiếc áo hy sinh thật sự, một mảnh chiến bào bác ái, cứ cho ra mãi không trông mong hồi đáp.

Hoàng tử Djêta bèn bạch rằng:

- Lạy Ðức Thế Tôn, xin Ngài mở lòng từ bi, giảng thêm cho con nghe nữa! Xin Ngài hãy làm cho con thêm thẹn nhục để con được thức tỉnh mà ăn năn những sự lầm lạc, chiếc màn vô minh tợ đám mây đang phủ kín phần hồn con, làm cho con ở trong cảnh đêm tối hơn giữa đêm khuya.

Ðức Phật dạy tiếp:

- Hỡi Hoàng tử cao quí! Ðiều con sa ngã thứ ba là vì con thiếu lòng nhân ái: Nan Ðà (NanÐa) một vị thứ phi của con đã làm nên tội trạng: Vì tánh lăng loạn, con không cảm xót sự ngây thơ khờ dại của nàng, con đành nhẫn tâm mạt sát rồi xô đuổi ra khỏi hoàng cung. Vô cùng tủi nhục, nàng van lơn khóc lóc, lạy lục xin tha thứ nhưng con cũng đành nhắm mắt trừng trị thẳng tay. Tại sao không mở rộng chút lòng nhân, để khoan dung tội lỗi. Biết đâu chừng trước sự cao thượng của con, trước dạ từ bi bác ái của con, con sẽ cảm hóa đặng nàng, và sẽ đem nàng lại con đường ngay chánh?

Thái tử bạch rằng:

- Bạch Ðức Thế Tôn! Con biết làm cách nào hơn bây giờ?

Nàng Nan Ðà đã dơ danh xú tiết, nếu con còn giữ nàng lại ngôi vị xưa, thì tự nhiên con bôi lọ danh giá của Hoàng gia và của con nữa. Nếu con cứ điềm nhiên trước sự lố lăng ấy, có phải con làm bại hoại luân thường đạo lý của xứ con chăng?

Ðức Phật nói:

- Hỡi Hoàng tử Djêta! Ta phải cần lập lại với con nữa sao?

Người thiện nhân ở đời có thể nghĩ đến quyền lợi mình và tự do thưởng phạt cùng phán đoán theo lý trí mình. Nhưng người đã bước chân vào đạo rồi, thì không được xét xử ai phải tìm hiểu để mà tha thứ, chớ chẳng phải để kết án. Con cứ tưởng con là riêng biệt với kẻ điên cuồng tội lỗi. Họ chính là con đó, mặc dầu còn ở hạng thấp kém hơn con.

Nhưng nếu con nghĩ rằng: Con không liên đới một người hoặc một vật khác, tức là con đã tạo ra một nghiệp quả, nó sẽ buộc con với vật đó, hoặc người đó cho tới chừng mà con cảm thấy sự duy nhất của vạn vật mới thôi. Con nên nhớ rằng: Tội lỗi và nhục nhã của thế gian là tội lỗi và nhục nhã của con, bởi vì con vốn là một phần tử của thế gian. Nghiệp quả của con, vốn dệt chặt với nghiệp chung của nhân loại. Và trước khi con được giác ngộ, con phải trải qua mọi chỗ dơ, cũng như mọi chỗ sạch. Cái áo dơ mà bây giờ con gớm, có thể là cái áo của con hôm qua hoặc ngày mai. Và nếu con tỏ vẻ nhờm gớm thì khi đặt lên vai con, nó sẽ siết chặt lấy con hơn nữa.

Vậy người đạo đức thật sự bao giờ cũng để ý tìm những lý do để châm chế và tha thứ, hơn là để vạch lỗi người. Cái tâm họ chứa chan nguồn bác ái, từ bi đối với nhân loại nhiều hơn là những hạt cát trên đồng sa mạc.

Sự thanh bạch là gì? Chẳng qua là một cái đức đó thôi.

Người tu hành không nên lấy sự thanh bạch làm nền đạo riêng của mình, lắm khi sự thanh bạch trở ngại bước đường tinh thần của mình, nếu nó không đi đôi với tình bác ái từ bi, và nó sẽ dẫn ta đến chỗ kiêu căn và tự phụ, đến chỗ lãnh đạm trước sự đau khổ của người đời. Như thế sự thanh bạch chỉ là một cái bóng không hồn đó thôi. Này Hoàng tử Djêta ơi! Trong khi nhàn hạ, con có bao giờ nhìn lên chót núi Hy Mã Lạp Sơn lúc mặt trời sắp lặn chăng? Con có thấy đỉnh núi đầy tuyết phủ sừng sững giữa bầu trời xanh biếc chăng? Núi thật oai nghiêm, hùng vĩ, nhưng bốn mùa lạnh như đồng.

Ôi! Cái cảnh ấy quá tiêu sơ, lạnh lùng ảm đạm. Không ngày nào khi có ánh sáng chiều ấm áp vừa dịu dàng, chiếu ngày vào, thì cái cảnh buồn tênh, não ruột kia, lại bỗng hóa ra linh động, rực rỡ và đẹp đẽ phi phàm. Tạo vật trở nên mỹ tú kỳ quan làm cho ta ngoạn mục và phơi phới tấm lòng.

Sự thanh bạch mà thiếu lòng nhân ái, thì có khác gì chót núi đầy tuyết phủ, lạnh lùng lãnh đạm, trông tẻ ngắt như xác không hồn. Còn sự thanh bạch mà đi đôi với lòng nhân ái thì có khác gì suối thần hễ chảy tới đâu là vạn vật hớn hở vui mừng tới đó.

Thái tử Djêta đem hết tinh thần nghe Phật giảng không sót một lời nào. Trong lòng rất hổ thẹn, ăn năn, cứ quỳ gối mà bạch rằng:

Lạy Ðức Chí Tôn! Con xin Ngài cho con cái đặc ân gặp Ngài một lần nữa, để con ráng sửa mình cho hợp với lý đạo. Bây giờ con đã biết làm cách nào cho Ngài vui lòng rồi.

Ðức Phật từ bi dịu dàng đáp:

- Ta bằng lòng.

Ðoạn Ngài nhìn thái tử Djêta với nụ cười tươi dịu, chứa chan tình thương…

Cặp mắt hiền lành của Ngài bỗng chói lên như ngôi tinh đẩu, lóng lánh rạng ngời, sáng khắp cả rừng, làm cỏ hoa hớn hở chim chóc líu lo giữa đêm khuya như buổi bình minh vậy.

Trời đất tối đen như mực, xa xa đoàn quân hộ giá đốt đuốc dẫn đường, theo sau là Hoàng tử Djêta lê chân chậm rãi, trong trí còn văng vẳng lời vàng tiếng ngọc của Ðức Phật từ bi. Ra khỏi rừng thì trời đã sáng. Hoàng tử cùng đoàn tùy tùng lên đường trở về nước Cam Sa Ba. Làm sương mờ đục đêm hôm đã tan dần trong không khí nhẹ. Nơi phương Ðông một dãy mây hồng nhạt nằm ngang chân trời xanh, phút chốc lại lan rộng ra và đổi màu đỏ ra màu da cam. Rồi bỗng vụt biến sau những tia sáng rực rỡ thành hình vẽ quạt. Vầng ô đã mọc, cảnh vật trở nên trong sáng tưng bừng với những màu tươi thắm, vang động những tiếng chim nuông đón chào buổi bình minh ngoạn mục.

Lúc bấy giờ trong chốn rừng xanh tĩnh mịch, dưới cội Bồ Ðề, Ðức Phật Thích Ca vẫn ngồi yên như pho tượng.

*

Khi Hoàng tử Djêta hồi trào gặp lúc vua cha lâm bệnh nặng, Ngài lên cầm quyền thống trị, lấy sự công bằng và nhân ái làm căn bản.

Trước nhất Ngài ban tước lộc cho Da Sa và Ba Ti Ca.

Ngài truyền cất cho hai người hai cái cung điện đẹp đẽ khít nhau cho đôi bạn được ở gần. Ngài lại cho người tìm vị thứ phi Nam Ðà rước về hoàng cung ở với Ngài.

Khi tất cả triều đình và các vị cựu thần hay tin thái tử Djêta phục chức nàng Nan Ðà thì như bị sét đánh ngang tai họ hết sức kinh ngạc, họ mới si tiếu dèm pha và khiển trách Ngài thậm tệ.

Thái tử Djêta còn giảm thuế cho dân và thả tội nhân. Ngài bãi bỏ những sự dị đoan mê tín. Tuy những sự cải cách sửa sang việc nước được công bình và nhân ái. Nhưng vì quá đột ngột nên Hoàng tử không tránh khỏi lời dèm siểm của triều đình và dân chúng. Họ nói Ngài quá lạm quyền bỏ chế độ quốc gia, phá hoại phong tục nước nhà, khuyến khích sự loạn luân…

Hoàng tử giả mắt ngơ, tai điếc, trầm tĩnh và yên lặng trước sự sỉ tiếu cũng như trước sự khen ngợi. Ngài thấy mình đang trải qua của sự thử lòng để tiến tới, bằng phải đọng lại thì sẽ thất bại như mấy lần kia. Ngài nhớ rằng: Nếu muốn đến chỗ toàn thắng lợi, trước nhất phải chịu lao khổ. Mỗi mũi gai đâm vào chân làm rướm máu là mỗi lần bước kề ngôi thiêng liêng. Người muốn đi xa trên con đường đạo thì phải làm chủ lòng mình và phải tìm trong thâm tâm cái gốc rễ của sự quấy, đặng diệt tân gốc nó đi. Sự quấy cũng sống và đâm chồi mọc rễ trong tâm của các bậc thượng nhân, nếu ta không cương quyết thì làm sao thắng nó đặng. Nó là một thứ cây cứ sống và cứ lớn mà kiếp này sang kiếp khác. Và nó chỉ đơm bông khi nào con người đã thu thập nhiều sự kinh nghiệm của muôn kiếp luân hồi. Vả lại trong kinh cỗ điển đã có nói như vầy: “Gốc rễ của tật xấu mọc tận thâm tâm con người, nếu ta nhổ nó đi, thì tâm ta phải rướm máu và đời sống của ta dường như ta rã! Nhưng đó là một cuộc thử lòng ta phải trải qua. Nó có thể xảy ra ở nấc đầu hay cuối thang Minh Triết để đưa ta đến con đường sống thật, ta phải tập trung tất cả lực lượng của tâm hồn vào đó mới đặng”.

Trong khi thái tử Djêta thấy đặng cái chân lý vĩ đại nầy, thì có một phái bí mật lập ra để đánh đổ Ngài do em ruột Ngài chủ mưu. Họ họp nhau để tìm mưu thần chước quỷ lật Ngài đặng đem em Ngài lên thay thế. Họ phủ dụ quần chúng: “Hoàng tử Djêta độc tài. Những sự cải cách của Ngài sẽ làm cho nước Cam Sa Ba mắc phải vòng nước lửa binh đao và sẽ đi đến chỗ diệt vong”. Họ lại còn phao rằng: “Thái tử mê tín dị đoan nghe lời một vị ác Tăng khét tiếng tại thành phố Cam Sa Ba làm cho nước nhà rối loạn và đã bãi bỏ nhiều quốc luận lưu truyền từ cổ chí kim, cốt ý để lập ra một cái tôn giáo phù thủy!”

Người ta cứ tuyên truyền như thế để gây ác cảm trong lòng dân chúng. Rồi một ngày kia, Hoàng tử Djêta nghe kẻ tâm phúc mách rằng: “Có một nhóm người định thích khách Ngài”. Cái tin sét đánh ấy không làm cho Ngài lo sợ và xao xuyến, vẫn an tĩnh như thường trong lòng cứ tưởng niệm đến đấng từ bi. Nhưng tốp quân hầu trung tín của Ngài sốt sắng hộ giá cho Ngài, ngày đêm không ngớt.

Một ngày kia, Hoàng tử Djêta vừa bước chân ra khỏi Hoàng cung, thì có người cầm dao nhảy tới toan thích khách Ngài. Người ấy là A La Da thuộc dòng Kshattryas. Ngài hô lên, thị thần nhào tới bắt trói đặng thủ phạm. Hoàng tử Djêta mới bảo dẫn tên sát nhân đến trước mặt Ngài. Hoàng tử bình tĩnh hỏi rằng:

- Này A La Da! Tại sao nhà ngươi muốn giết ta?

- Bởi vì tôi thấy Ngài là một mối hại cho đất nước. Ngài phá hoại luân thường đạo lý. Ngài muốn hủy bỏ phong tục thiêng liêng của nước nhà và đem lại cho chúng tôi một cải cách nguy hiểm, có thể đưa xứ sở đến chỗ diệt vong, tôi phải giết Ngài để trừ hậu họa mai sau.

Hoàng tử Djêta nhìn kẻ sát nhân với cặp mắt chứa chan tình thương xét nghĩ: “A La Da phạm tội chỉ vì mê tín mà thôi”.

Ðoạn Ngài day qua đám quân hộ giá mà nói rằng:

- Ờ các khanh! Các khanh có nhận thấy kẻ sát nhân này còn chút điểm lương tâm không? Vậy các khanh hãy mở trói thả nó ra!

Các quan chưng hửng, nhưng không dám cãi lệnh. Rồi Thái tử nói tiếp với một giọng oai nghiêm như vầy:

- Bây giờ đây các khanh hãy lui ra, để một mình ta với người này nói chuyện mà thôi!

Trước sự cương quyết ấy đoàn hộ giá rất kinh ngạc, nhưng bất đắc dĩ phải ríu ríu lui ra xa, không dám ngó ngoái lại, cả thẩy đều phập phồng lo sợ cho tính mạng của Hoàng tử không cùng.

A La Da ngạc nhiên và không còn hoảng sợ nữa. Y khoanh tay ưỡn ngực nhìn vào mặt thái tử như muốn khiêu khích, không để ý đến cử chỉ khinh thị ấy, Djêta bước lại gần nhẹ nhàng để tay lên vai y lẳng lặng nhìn y trân trối. Trong mắt Ngài chứa biết bao là từ bi bác ái và sẵn sàng tha thứ các tội lỗi. Ngài càng nhìn càng thầm nghĩ: “Người đời cũng vì sự tư kỷ mà gây ra lắm điều tội lỗi. Bậc chân tu hay để mắt tìm cái nguyên nhân của sự tội lỗi để tha thứ chớ không chịu tìm cái tội lỗi để mà trách phạt. Mọi việc xảy ra trước ta chẳng hung dữ, muốn tận sát người? Trời đất chí ư công bình, lưới trời tuy thưa mà mũi kim dễ lọt được nào! Tội nghiệp thay cho kẻ tàn ác! Vì vô minh mà kiếp sau phải chịu muôn vàn đau đớn”.

Rồi một tình thương không bờ bến chiếm cả tâm hồn của Thái tử và lan cùng vạn vật một sự ước muốn được cứu độ chúng sanh đến đỗi tâm tư Ngài đã thoát ra ngoài bản thể. Thình lình Thái tử Djêta tiếp xúc một cái cảm giác mới lạ và phi thường dường như Ðức Phật mà Ngài đã tôn sùng là Ðấng Tôn Sư, trong âm thầm đã ban ân bố hóa Ngài được minh tâm kiến tánh, biết rõ điều quá khứ vị lai…

Nhãn quan bậc tỏ chốc thời, Ngài thấy được kiếp trước của A La Da vốn là một Tướng sĩ hung tàn bạo ngược, tạo ra biết bao nghiệp quả nặng nề. Rồi ngày nay cũng vì sự vô minh mà nó phải lầm lạc như thế này! Nếu ta lấy oán mà báo oán thì biết bao giờ oán nọ mới tiêu! Ta phải lấy ân mà đáp oán thì oán mới dứt.

Ôi! Tội nghiệp thay cho A La Da! Chớp mắt, Hoàng tử Djêta không còn thấy A La Da nữa, Ngài thấy hiện ra chỗ A La Da đứng một cõi hồng trần với vô số sanh linh đang mê man lăn lóc trong cảnh lầm than đau khổ! Chúng sanh vì vô minh mà mắc vào bánh xe luân hồi, mãi sanh rồi tử, tử rồi sanh, chịu biết bao lần khổ não đau đớn. Khi vào các ra đài, lúc lên xe xuống ngựa, khi làm kẻ cùng đinh tàn tật… mà mỗi kiếp luân hồi đều đem sự đau khổ, nhưng con người luôn luôn muốn đầu thai, chịu sự đao đớn, mà sự đau khổ là cái kết quả của sự ham muốn vậy! Than ôi! Ðời là bể hoạn. Nghĩ đến thân phù thế mà đâu có khác gì bọt trong bể khổ. Tội nghiệp thay cho nhân loại, đang oằn oại dưới màn vô minh, mãi đắm chìm theo mùi trụy lạc, chớ nào dè: “Phú quý tợ môn tiền tuyết, công danh như thảo thượng sương!”

Hỡi thế giới đau khổ! Hỡi nhân loại đang dẫy dụa trong lưới đau thương của cuộc đời. Ta đã thấy và đã nghe hơi thở hấp hối của trần gian. Ôi! Ðời vẫn là thế sao chính ta đây cũng đã say đắm với những khoái lạc huyền hoặc của cuộc đời.

Người hiểu rõ cơ trời, thì cho cõi trần chẳng khác giấc mộng huỳnh lương, nên không tranh giành cấu xé vì bã vinh quang phú quý. Phải chi mọi người đều biết thương yêu lẫn nhau như tình huynh đệ, thì đâu có sự thống khổ này? Nếu biết chắc chúng sanh vốn một gốc mà ra và huynh đệ với nhau, thì đâu có cảnh nồi da xáo thịt?

Suy nghĩ đến đây, Thái tử Djêta cảm thấy trong lòng tràn ngập một mối yêu thương tha thiết!... Ngài muốn dang tay xiết chặt loài người vào lòng đang thổn thức của Ngài, mong đem tánh mạng, và tinh thần với một tình thương vô tận mà ấp ủ vuốt ve, những kẻ tội lỗi, rầu đau!... Ngài muốn hy sinh cái gì cao quý của lòng mình để đưa người trần tục lên một nấc thang tiến hóa…

Ðến đây Thái tử Djêta bỗng trở lại thực tế, dường như chợt tỉnh sau một giấc mộng phi thường. Rồi nhìn lại thấy A La Da gục đầu kinh khủng. Ngài bèn nói với một cách tha thiết rằng: “Anh ơi! Tôi không biết gì hơn là anh và tôi vốn thật là anh em với nhau cùng chung một đấng Cha lành. Tôi thương anh lắm. Vậy anh hãy ngã vào lòng tôi, cũng như muốn chia sự vinh quang của tôi, cũng như tôi muốn chia điều đê nhục của anh.”

Từ đàng xa quân hầu đợi đã lâu, ánh thái dương rọi xuống giữa rừng sâu, vạn vật tưng bừng cây cỏ tươi xanh, muôn hoa đua nở hương sắc thanh kỳ phô vẻ ngàn hồng muôn tía như mỉm cười duyên dáng trước ngọn gió mai. Xa xa, mấy gốc thùy dương dịu dàng nghiêng mình soi bóng bên dòng suối nhỏ trong veo. Dưới cội Bồ Ðề hùng vĩ Ðức Phật đang ngồi kiết già thiền định, Ngài đang đợi Thái tử từ đêm hôm, bởi vì Ngài đinh ninh Thái tử không bao giờ thất hẹn. Cảnh vật lúc bấy giờ như đang đón một niềm hạnh phúc thiêng liêng gì. Ðóa hoa hàm tiếu trong kẹt đá bỗng ngửng lên và khoe nhụy. Những con sóc vàng mắt sáng đang uốn mình dưới ánh thái dương, bỗng nhảy nhót lên như mừng rỡ, đợi chờ. Gió hôm nay, lại rào thổi ngạt ngào hương rừng từ cõi xa xăm đưa lại. Trên cành hoa sứ trắng tinh, bầy chim non ríu rít mà Ðức Phật thường nói là bầy con dại đang uốn lưỡi tung ra tràng nhạc thiêng liêng nghe thánh thót, xa trông những giọt sương nặng trĩu trên cành tơ liễu buông mình xanh mướt lóng lánh dưới ánh mặt trời buổi sáng như những hạt kim cương vô giá. Bởi vì, trong cảnh tĩnh mịch của núi rừng sự hoan khởi của tạo vật tức là hoan khởi của tinh sương trong sạch…

Bỗng đâu có tiếng động từ xa đưa lại và Ðức Thế Tôn bèn mỉm cười mở mắt. Thái tử Djêta đã đứng trước mặt Ngài, không một tên quân hầu, không ăn mặt xôm xuê, chỉ khoát trên mình một manh áo vàng của người hành khuất với dáng điệu mệt nhọc vì đã trải qua bao dậm xuyên sơn. Thái tử bèn quỳ mọp xuống chân Ðức Từ Bi vô cùng cảm động, chẳng thốt một lời nào! Ðức Thế Tôn xòe bàn tay mặt đưa lên khỏi đầu Thái tử để ban ân huệ rồi nói với một giọng hết sức dịu dàng:

- Ðệ tử Djêta con ơi! Ta vui mừng và hoan nghênh con vậy.

Rồi từ đấy trên con đường giải thoát rộng lớn thênh thang của Ðức Từ Bi, bên cạnh Ngài hình bóng Djêta sớm hôm luyện đạo để một ngày kia thay mặt cho Tôn Sư mà phổ độ thế gian…

Trên đường đạo nhiều khi ta khổ sở

Một lòng hăng hái tiến không thôi

Dù cho non nước có đổi dời

Ta cũng nguyện muôn đời tinh tiến mãi.

Thích Minh Chiếu

Sửa bởi hiendde: 30/07/2012 - 21:52


#69 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 26/08/2012 - 00:40

TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO - Quyển 1

Thích Minh Chiếu








Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |