Phá giải Không Vong
NgoaLong
09/05/2012
@AnKhoa và mọi người: Có nhiều cái có thể nói về bài viết trong topic này, nhưng NL cũng lười trình bày hết ra. Cũng có thể nhiều người đọc qua nghĩ là NL có lòng bắt bẻ, nhưng thực tế thì NL chỉ muốn nói cho rõ cái vấn đề theo cái nhìn của mình thôi.
Chẳng hạn như NL muốn mọi người chú ý giữa thường lý với định lý/thiên lý (NL không nghĩ ra dùng từ gì cho thích hợp). Như cung Phụ Mẫu vs Tật, thiên lý là bệnh tình của Ta có thể ảnh hưởng, di truyền từ cha mẹ, chứ không thể nói ngược lại. Còn đổi lại, cung Tật ảnh hưởng gì đến phụ mẫu ta? Nếu cho rằng khi ta mắc bệnh tật thì làm khổ cha mẹ hoặc gì gì đó thì đó là thường lý (vả lại, không chỉ ảnh hưởng tới cha mẹ [cung đối xung] mà còn vợ con). Hoặc giữa cung Phúc vs Tài thì thiên lý là có Phúc thì có cái này cái kia (như tuổi thọ, sức khỏe, ít bệnh tật tai nạn, tiền bạc, khoa cử công danh, vợ chồng con cái, v.v…) chứ không hẳn chỉ riêng về tiền; hoặc có phúc để mà thụ hưởng những thứ ở đời. Còn mang tiền làm từ thiện "tạo" phúc, cái này là thường lý rồi. Người ta đâu cần biết cung Phúc thế nào, cứ mang tiền làm từ thiện giúp người thì cũng có Phúc mà (hữu hình hoặc vô hình).
Hoặc ngược lại như nói cung Tài có Tuần Triệt thì biết được giá trị đồng tiền gì đó thì nó kiểu sao sao ấy. Sao không hiểu đại ra rằng nó có nghĩa là chậm muộn, kiếm tiền khó khăn, kiềm tiền không dễ dàng, v.v… thì không phải đơn giản, tiện gọn hơn sao. Như khó khăn "phải nhờ hỗ trợ tài chính từ họ hàng thân quen", v.v... chứ gì là dùng sự hổ trợ tài chính từ những người họ hàng thân quen để giải Triệt Tuần ở cung Tài. Hiểu rõ nghĩa đen ra là giải cứu, giúp đỡ cho nó gọn, chứ phá giải Tuần Triệt gì. Giữa các cung khác cung vậy. Nên hiểu một cách trực tiếp và tránh việc ngộ nhận.
Không thể viết hết ý được, hy vọng viết ít hiểu nhiều!
Chẳng hạn như NL muốn mọi người chú ý giữa thường lý với định lý/thiên lý (NL không nghĩ ra dùng từ gì cho thích hợp). Như cung Phụ Mẫu vs Tật, thiên lý là bệnh tình của Ta có thể ảnh hưởng, di truyền từ cha mẹ, chứ không thể nói ngược lại. Còn đổi lại, cung Tật ảnh hưởng gì đến phụ mẫu ta? Nếu cho rằng khi ta mắc bệnh tật thì làm khổ cha mẹ hoặc gì gì đó thì đó là thường lý (vả lại, không chỉ ảnh hưởng tới cha mẹ [cung đối xung] mà còn vợ con). Hoặc giữa cung Phúc vs Tài thì thiên lý là có Phúc thì có cái này cái kia (như tuổi thọ, sức khỏe, ít bệnh tật tai nạn, tiền bạc, khoa cử công danh, vợ chồng con cái, v.v…) chứ không hẳn chỉ riêng về tiền; hoặc có phúc để mà thụ hưởng những thứ ở đời. Còn mang tiền làm từ thiện "tạo" phúc, cái này là thường lý rồi. Người ta đâu cần biết cung Phúc thế nào, cứ mang tiền làm từ thiện giúp người thì cũng có Phúc mà (hữu hình hoặc vô hình).
Hoặc ngược lại như nói cung Tài có Tuần Triệt thì biết được giá trị đồng tiền gì đó thì nó kiểu sao sao ấy. Sao không hiểu đại ra rằng nó có nghĩa là chậm muộn, kiếm tiền khó khăn, kiềm tiền không dễ dàng, v.v… thì không phải đơn giản, tiện gọn hơn sao. Như khó khăn "phải nhờ hỗ trợ tài chính từ họ hàng thân quen", v.v... chứ gì là dùng sự hổ trợ tài chính từ những người họ hàng thân quen để giải Triệt Tuần ở cung Tài. Hiểu rõ nghĩa đen ra là giải cứu, giúp đỡ cho nó gọn, chứ phá giải Tuần Triệt gì. Giữa các cung khác cung vậy. Nên hiểu một cách trực tiếp và tránh việc ngộ nhận.
Không thể viết hết ý được, hy vọng viết ít hiểu nhiều!
TNK75
09/05/2012
AnKhoa
09/05/2012
TuBinhTuTru, on 09/05/2012 - 06:11, said:
Chào tất cả các bạn,
Nói về Tuần Không, thì ta dư biết đó là nói về 2 ngày không nằm ở trong cái Tuần (10 ngày) đó. Ví dụ trong Tuần từ ngày Giáp-Tí tới ngày Quý Dậu, là một Tuần thì trong mười ngày đó, không có Tuất Hợi. Do đó, ta có thể nói đến xuất không - điền thật v.v... Thế còn Triệt thì sao, nguyên lý của Triệt là thế nào? Có thuyết nói về Triệt xảy ra ở giữa Nhâm - Quý nhưng mà chỉ có 5 chổ mà thôi và giữa Tuất - Hợi thì không có.
Như vậy, thì cái lý xuất không của Tuần có thể áp dụng cho Triệt được ư?
Nói về Tuần Không, thì ta dư biết đó là nói về 2 ngày không nằm ở trong cái Tuần (10 ngày) đó. Ví dụ trong Tuần từ ngày Giáp-Tí tới ngày Quý Dậu, là một Tuần thì trong mười ngày đó, không có Tuất Hợi. Do đó, ta có thể nói đến xuất không - điền thật v.v... Thế còn Triệt thì sao, nguyên lý của Triệt là thế nào? Có thuyết nói về Triệt xảy ra ở giữa Nhâm - Quý nhưng mà chỉ có 5 chổ mà thôi và giữa Tuất - Hợi thì không có.
Như vậy, thì cái lý xuất không của Tuần có thể áp dụng cho Triệt được ư?
Hi anh TBTT,
Anh có suy nghĩ gì không khi Tử Vi và Tử Bình đều có Tuần, nhưng Triệt lại chỉ dùng trong Tử Vi, mà Tử Bình không dùng?
AnKhoa
09/05/2012
NgoaLong, on 09/05/2012 - 07:03, said:
Chẳng hạn như NL muốn mọi người chú ý giữa thường lý với định lý/thiên lý (NL không nghĩ ra dùng từ gì cho thích hợp). Như cung Phụ Mẫu vs Tật, thiên lý là bệnh tình của Ta có thể ảnh hưởng, di truyền từ cha mẹ, chứ không thể nói ngược lại. Còn đổi lại, cung Tật ảnh hưởng gì đến phụ mẫu ta? Nếu cho rằng khi ta mắc bệnh tật thì làm khổ cha mẹ hoặc gì gì đó thì đó là thường lý (vả lại, không chỉ ảnh hưởng tới cha mẹ [cung đối xung] mà còn vợ con).
Đẩu số toàn thư ghi rõ: "Phân đối cung chi Thể Dụng", nghĩa là bất kỳ cặp đối nhau nào đều có thể phân Thể Dụng, không phân thứ tự. Cái Lý của nó thì đơn giản thế, nhưng nếu suy diễn ra thì cũng nhiều lắm. Phần trên của anh cũng chỉ là một trong những suy luận đó. Và đó đều là dùng thường lý để suy luận (chứ không phải là định lý hay thiên lý).
Để làm rõ hơn, có lẽ ta phải quay lại bài toán, tại sao có 12 cung với 12 tên và được sắp xếp như vậy ?
TuBinhTuTru
09/05/2012
Chào AnKhoa,
Trong Tử Bình, can-chi Ngày được xét trong Tuần của Giáp nào thì định Tuần Không ở các chi không nằm trong Tuần Giáp đó. Còn Triệt thì dùng Thiên can Hợp để tìm Triệt ở đâu mà Triệt thì không hề xảy ra cho 2 chi Tuất Hợi; khó công bằng vậy, nên nếu muốn dùng thì cứ dùng để nghiệm lý còn không thì cũng không hại gì ...
Trong Tử Bình, can-chi Ngày được xét trong Tuần của Giáp nào thì định Tuần Không ở các chi không nằm trong Tuần Giáp đó. Còn Triệt thì dùng Thiên can Hợp để tìm Triệt ở đâu mà Triệt thì không hề xảy ra cho 2 chi Tuất Hợi; khó công bằng vậy, nên nếu muốn dùng thì cứ dùng để nghiệm lý còn không thì cũng không hại gì ...
AnKhoa, on 09/05/2012 - 08:29, said:
Hi anh TBTT,
Anh có suy nghĩ gì không khi Tử Vi và Tử Bình đều có Tuần, nhưng Triệt lại chỉ dùng trong Tử Vi, mà Tử Bình không dùng?
Anh có suy nghĩ gì không khi Tử Vi và Tử Bình đều có Tuần, nhưng Triệt lại chỉ dùng trong Tử Vi, mà Tử Bình không dùng?
TNT
09/05/2012
TuBinhTuTru, on 09/05/2012 - 06:11, said:
Chào tất cả các bạn, Nói về Tuần Không, thì ta dư biết đó là nói về 2 ngày không nằm ở trong cái Tuần (10 ngày) đó. Ví dụ trong Tuần từ ngày Giáp-Tí tới ngày Quý Dậu, là một Tuần thì trong mười ngày đó, không có Tuất Hợi. Do đó, ta có thể nói đến xuất không - điền thật v.v... Thế còn Triệt thì sao, nguyên lý của Triệt là thế nào? Có thuyết nói về Triệt xảy ra ở giữa Nhâm - Quý nhưng mà chỉ có 5 chổ mà thôi và giữa Tuất - Hợi thì không có. Như vậy, thì cái lý xuất không của Tuần có thể áp dụng cho Triệt được ư?
Gần đây, nick AnKhoa có 1 topic "Lá số Tử Vi - Bản đồ Khí sinh lý", trong topic đó, nick htruongdinh có trích dẫn 1 đoạn nói về Triệt của 1 Thầy Thuốc Đông Y là Bác Trungvov_65, TNT thấy rất hữu ích.
Triệt chỉ có tác động đến 1 Cung, chứ không phải 2 Cung như mọi người thường coi, khi ta dựa vào các Kinh, Huyệt sẽ thấy rõ điều này.
Bác có thể tham khảo ở đường link này : http://tuvilyso.org/...ly/page__st__60
TNT
10/05/2012
phusuy, on 08/05/2012 - 19:50, said:
Thực ra không phải là không trả lời..... mà đã trả lời rồi, khi đó nick DQT67 có nói về một hai trường hợp nêu trên. Tôi không còn nhớ ở chủ đề nào để đăng lại cho bạn TNT tham khảo.
Ngoại trừ một vài trường hợp đặc biệt, nếu đơn thuần lá số va phải TT ít nhiều đã bị gia giảm độ tốt cũng như xấu rồi. Nhiều trường hợp lá số không dính TT, hay hành vận không dính TT, mà những người có kinh nghiệm lão làng còn bị lóng nga lóng ngóng khi luận giải. Quan trọng là chúng ta nên nắm bắt chắc độ số, cách cục và tính lý các sao để có một cái nhìn đơn giản nhưng chính xác đã. Vì khi đã lồng TT vào rất khó giải đoán và nhận định tính thực tế có Xuất Không hay Không ? Vì một số sao hoặc cách cục khi gặp TT đã thay đổi tính lý bản thể của nó rồi.
Phù Suy.
Ngoại trừ một vài trường hợp đặc biệt, nếu đơn thuần lá số va phải TT ít nhiều đã bị gia giảm độ tốt cũng như xấu rồi. Nhiều trường hợp lá số không dính TT, hay hành vận không dính TT, mà những người có kinh nghiệm lão làng còn bị lóng nga lóng ngóng khi luận giải. Quan trọng là chúng ta nên nắm bắt chắc độ số, cách cục và tính lý các sao để có một cái nhìn đơn giản nhưng chính xác đã. Vì khi đã lồng TT vào rất khó giải đoán và nhận định tính thực tế có Xuất Không hay Không ? Vì một số sao hoặc cách cục khi gặp TT đã thay đổi tính lý bản thể của nó rồi.
Phù Suy.
Vậy Bác TKQ có giải thích Đại Hạn 10 năm gặp Tuần Triệt không ạ, có chứng minh được Tuần Triệt xuất không tại Đại Hạn 10 năm không Anh ?
TNT cũng quên mất topic nào rồi, nên không thể lục lại được.
Cảm ơn Anh nhiều!
uglybeast
10/05/2012
VuiVui
11/05/2012
Trích dẫn
Trong bài “xuất không điền thật” nick Thienkyquy của trang Tuvilyso có cho rằng khi hạn đến cung bị Tuần Triệt hoặc xung chiếu cung đó thì Tuần Triệt bị vô hiệu hóa tức là xảy ra xuất không điền thật, vấn đề tại bản cung hiện lên như nó vốn thế. Chú ý một điều là trong Tử bình cũng có Không vong, địa chi Không vong bị mất tác dụng, bị vô hiệu hóa và Tử bình nhấn mạnh nếu gặp địa chi Xung chi bị Không vong thì chi bị Không vong thành thực, không còn Không vong nữa. Từ các tiền đề này tôi đã phát hiện ra cách để phá giải cung bị Tuần Triệt trong Tử vi, đó là sử dụng cung xung chiếu.
Có thể khẳng định rất nhiều mệnh đề từ bên tử bình, hoàn toàn không tương đương, không có sự tương ứng khi phát biểu nó trong tử vi. Chúng ta có thể thấy rất rõ điều này bằng một ví dụ cụ thể:
Trong tử bình, sao Thiên mã được xác định như sau:
Thân - Tý - Thìn mã ở Dần. Dần - Ngọ - Tuất mã ở Thân. Tị - Dậu - Sửu mã ở Hợi. Hợi - Mão - Mùi mã ở Tị.
Có nghĩa là, như người có chi tuổi là thân, tý, hay thìn, nếu trong các chi của trụ tháng, ngày, giờ mà có Dần là có Mã. Cũng vậy, người chi tuổi dần, ngọ hay tuất mà các chi của trụ khác có thân là người có sao Mã, ...
Sao Mã chu động, tượng chạy. Người có sao mã chủ bôn ba, năng động, nhanh nhẹn, ... xấu thì bôn ba lao khổ, nếu mã rơi vào giờ sinh là số của người lính, hoặc những người hay đi công cán, suốt đời bôn ba ở bên ngoài. Chẳng hạn thế !
Đó là theo tứ trụ.
Nhưng ở tử vi, trên bảng số bất kỳ đều có sao thiên mã, được an theo đúng công thức trên. Song ý nghĩa đã khác đi hẳn. Bởi theo tứ trụ, phàm chi của các trụ khác mà ứng với công thứuc trên thì mới được coi là người có Mã. Còn tử vi, bảng số nào cũng có mã, không phân biệt bất cứ ai.
Sẽ xảy ra nhiều lá số mà Mệnh, hay thân, dù là xung hay tam hợp đều không thấy có Mã thủ hay chiếu. Nhưng theo tử bình, người có Mã tất thị đã có những tiêu chí đã có thể dự báo, dự báo một cách chắc chắn, bởi đặc trưng của người có Mã rất rõ rệt.
Thế nhưng khi trong bẳng số tử vi - cùng tứ trụ - lại không có Mã trong các cung có liên hệ trực tiếp với Mệnh - nên không thể luận sao Mã cho người như thế được. Vậy chả lẽ, người mà theo bảng tử vi không thấy thiên mã trong mệnh, thân hay ở cung xung hoặc tam hợp, thì sẽ không có nhữung đặc trưng của sao thiên mã hay sao ?
Xin thưa, tôi nghiệm chứng, không ít người, nhưng hễ bên tử bình đã thấy người có sao Mã, thì dù trong bảng tử vi của chính họ không thấy có Thiên mã như đã nói ở trên, thì họ vẫn có đặc trưng của người thiên mã.
Vậy thì sao đây. Không lẽ tử vi thiếu sót, trong nhiều trường hợp đã để mất sao thiên mã ?
Thưa không !!! Thiên mã không mất đi, những người đó hoàn toàn vẫn có đặc trưng của thiên mã, nhưng được lý giải bằng cách khác, không phải bằng chính sao thiên mã trong tử vi.
Như thế, mệnh đề sao thiên mã có trong tử bình, lại không ứng đúng trong tử vi hay sao ?
Điều này khẳng định rằng, không thể xem là đương nhiên là đúng khi muốn chuyển một mệnh đề bất kỳ từ môn tử bình sang tử vi, và ngược lại.
Tác giả bài này đã làm việc đó một cách vô thức, khả năng nghiệm lý lại không tốt, thiếu khách quan, nên mới thành cái chuyện vô ích cho một công trình rất kỳ vọng này.
Thân ái.
TruBatGioi
12/05/2012
TNT said:
Vậy Bác dinhquythanh67 có giải thích Đại Hạn 10 năm gặp Tuần Triệt không ạ, có chứng minh được Tuần Triệt xuất không tại Đại Hạn 10 năm không Anh ?
TNT cũng quên mất topic nào rồi, nên không thể lục lại được.
TNT cũng quên mất topic nào rồi, nên không thể lục lại được.
Có phải bài luận tử vi của bác dinhquythanh67, msg 15, trong topic Hổ Về Rừng luận giải lá số của hội viên Citizen:
LS Citizen
dinhquythanh67 said:
Kính chào bạn Citizen,
Tôi thấy lá số bạn khá đặc biệt đang nằm trong sự nghiên cứu của tôi nên mặc dù bạn không hỏi tôi, nhưng tôi không ngại nói bậy với bạn vài điều. Vì tôi muốn xem số bạn theo các môn thử có gì mâu thuẩn không, quả nhiên nghiên cứu kỹ mỗi môn thấy được thêm một góc cạnh nhưng tựu chung vẫn có cùng kết quả là khá tốt.
Số của bạn thuộc loại phú quý cách và được quý nhân giúp đỡ, về sau không phú thì quý.
Số này theo tôi Mệnh không phải là TPVT cách , nhưng Thân thì phải. Liêm Trinh là "Hùng Tinh" thủ Mệnh, được "Phủ Tướng Triều viên cách", đắc Khoa, Tả Hữu chiếu Mệnh lại thêm Văn Xương tốt vô cùng. Bấy nhiêu đấy cũng đủ là cách "Phủ Tướng Triều viên, thiên chung thực lộc" rồi. (Hóa Lộc tuy đẹp nhưng kỵ đi với Hao). Ở đây còn một cách rất đặc biệt và rất quý nữa là "Mã ám Lộc cách" mà ít người chú ý. Thân lại giáp hợp Khôi, Quyền, Ấn. Do đó số bạn được cách "Mã Tề Phong" - ngựa hí gió, khó tránh sẽ quý hiển. Số có đủ học vấn văn bằng, và phú quý. Hiềm vì Khốc Hư Tí Ngọ nên về sau mới thật tốt.
Hình như bạn có vẽ lo về cung Quan Lộc nhất là bị Tuần Triệt, tôi xin giải thích để bạn và các bạn khác hiểu rõ. Quan Lộc thời xưa được gọi là công danh, Danh được xưng hô trong chốn quan trường triều đình, như Quan nhất phẩm, nhị phẩm, tam công... Hoặc giả có kẻ thi đậu tiến sĩ mà chưa chắc có phẩm trật gì về vườn dạy học, chỉ là kẻ hàn nho... Đó là nhìn theo góc cạnh xưa. Thời nay, người như ông Bill Gate được gọi là phú quý. Bởi ai gặp cũng phải gọi bằng "ông", dưới trướng có hàng ngàn Kỷ Sử và Tiến Sĩ xách cập táp cho. Tổng Thống các nước gặp cũng phải cuối đầu chào, đa số mọi người đều quý mến thì cần gì phải có "công danh". Thời nay muốn có công danh thì phải làm việc cho chính quyền, nhưng vẫn bị bọn tài phiệt khống chế, lobby... Cho nên hai chữ Quan Lộc hay "công danh" thời nay khác thời xưa xa lắm. Thời nay nếu nói là Khoa Bảng Công Danh thì là kẻ có bằng cấp và làm nghề đúng theo bằng cấp của mình, nhưng tất cả vẫn được xem là "làm công". Quan Lộc không có gì khác hơn là công việc làm mà thôi, đối với thường dân, trừ những người làm việc với chính quyền có chức tước, hoặc đi lính thì không kể.
Nhìn với góc cạnh đó thì, Quan gặp Tuần Triệt chủ công việc làm thường dễ bị thay đổi, hoặc không vừa lòng với công việc mình làm, hoặc trong công việc làm thường gặp trục trặc. Nhưng vì trong Mệnh của bạn chủ cách Kinh Thương vì Mã ám Lộc cách, Tử Vi ngộ Đà, và Quan gặp Vũ Phủ ở cung Tài về sau sẽ tự mình làm chủ, nên bạn cần lo gì Tuần Triệt ở cung Quan.
Xem Tử Vi thấy dễ mà khó! Xem chung chung thì dễ, nhưng xem chính xác và đo lường Vận Hạn được thì hơi khó. Nhất là khi Mệnh Thân gặp Sát Tinh và Tuần Triệt thì lại càng khó xác định hơn nữa.
Ví như số bạn là người hiên ngang, quá quả quyết, cương trực, (không khéo sẽ dễ khiến người ghét, hoặc cậy thế áp chế người, hoặc chẳng thân ai, sẽ dễ sinh tai họa). Tính rất động, hơi ham chơi, thường thích du lịch hay chơi ngoài trời, khá khó tính, tính cô độc, mặt kém tươi và sẽ khó tránh cô độc, đam mê triết lý hay nghiên cứu về nội tâm, làm gì thường thích làm một mình, dễ có bệnh về máu huyết, xương gân... Những điều như thế thì đoán không khó lắm, nhưng đi vào chi tiết để đạt độ chính xác về một cái nào đó thì lại rất khó.
Như thường thường đa số khi xem số bạn đến cung Phúc Đức thì nhiều người sẽ thường cho là tốt. Hoặc có người cho rằng Thân cư Quan bị Tuần Triệt thì không được phát lắm nhưng vẫn cho la Vận tốt..., nói chung xem kiểu nào cũng được, đúng là trên hết. Tuy nhiên, theo sách vở và kinh nghiệm, thì người Liêm Trinh thủ Mệnh Vận Hạn gặp Phá Quân là xấu chứ không tốt tí nào cả, nhất là người Hỏa Mệnh. Bạn cần phải cẩn thận những năm Tí, dù Đại Vận tốt đến đâu cũng thường có chuyện không hay. (Ghi chú: Không phải chỉ mình số bạn, mà bất kỳ người nào Liêm Trinh thủ Mệnh đi Hạn gặp Phá Quân đều phải nên cẩn thận những việc phá bại bất ngờ, tuỳ theo sinh khắc chế hóa mà có độ nặng nhẹ khác nhau).
Đại Vận 23-32: Nếu hăng tranh đấu quá sẽ khó tránh chuốc oán mua hờn, cô độc lo lắng. Nếu tôi đoán không lầm thì hồi khoảng năm Nhâm Ngọ đến tháng 9 năm Quý Mùi bạn khó tránh tai bay vạ gió, hoặc kiện tụng thị phi, hoặc trước gian nan sau mới yên tĩnh. Trong Vận này muốn thành đạt chớ quá cương, mà cần phải giữ chính mới vô hại.
Đại Vận 33-42: Hẳn nhiều người sẽ cho là rất tốt, nhưng nó không phải vậy. Lý do thật đơn giản vì Hỏa Mệnh đóng ở Thân là Hỏa đã đi vào bệnh địa lại còn bị vượng Kim sinh Thuỷ khắc chế, Hỏa Mệnh chỉ dựa vào Hỏa của Liêm Trinh làm nền tảng, Hành đến Vận ở Hợi lại còn thêm Thiên Đồng Thuỷ ở Vượng địa khắc chế Mệnh nên lao đao, vất vả, hoặc do canh cải dễ lâm vào tình trạng tù túng. (Nếu đổi lại là Mệnh Mộc hay Mệnh Thuỷ thì Vận này tốt hết chỗ nói, mọi điều hanh thông, nhưng vì là Mệnh Hỏa nên bị giảm nhiều). Ở đây nếu cố chấp mê muội ham chơi thì lỡ việc, biết nghe và biết làm điều thiện sẽ thành công. (Đây là điểm chính bạn cần chú ý). Cẩn thận kẻo bị bệnh tật hay bị thương tật ở tay chân. Dĩ nhiên, đến Điền Trạch mà gặp Thiên Đồng thì sẽ canh cải nhiều, nhưng phải bôn tẩu gian nan sau mới được thành tựu. Đó là nhờ Lộc xung, Khoa Lộc ám. Nếu là số xấu thì bèo giạt mây trôi luôn, và sẽ không tránh được "rong chơi cuối trời quên lãng"! Với cung Điền như thế thì sự nghiệp của bạn về sau hẳn không phải là tầm thường.
Đại Vận 43-52 (Thân Cư Quan): Ở đây nếu bạn không bị tiểu nhân lung lạc, mọi việc thành tín nghiêm túc, thì thành công lớn có phúc dày. Nếu có điều bất chính, thiên lệch, lai thích thí ân huệ nhỏ dễ mang họa lớn. Không nên ham lợi nhỏ trước mắt. Ở đây ít ra chưa là quý nhân thì cũng gần được quý nhân.
Có lẽ sẽ có người thắc mắc tại sao gặp Tuần Triệt ở đây mà lại không đoán xấu. Sỡ dĩ vì Thân gặp Không tức là có cũng như Không, nếu gặp sao tốt thì bớt tốt, mà gặp sao xấu thì bớt xấu. Ở đây Sát Tinh đắc cách chỉ có Khốc Hư, nhưng Khốc Hư chỉ tác họa trước 43 tuổi mà thôi với những điều khổ ải buồn phiền, ngăn trở tiến trình sự nghiệp... Tuy nhiên, ở đó vì gặp cả Tuần Triệt nên có thể kìm chế. Đến khi Vận đến đó gọi là Xuất Không thì Khốc Hư lẽ ra hoàn nguyên tính phá hoại của nó, nhưng đã hết tác dụng vì sau 43 tuổi rồi. Lúc bấy giờ Khốc Hư chỉ còn lại tính chất tốt do đắc cách Tí Ngọ mà thôi. Bởi vậy Phú có câu: "Khốc Hư Tí Ngọ vị, Quan cung lai nhập tiếng thị gần xa", hoặc "Khốc Hư Tí Ngọ đồng cung, tiền bần hậu phú", hay "Tí Ngọ Khốc Hư tịnh thủ nhất thế xưng hùng"... Còn như Vũ Phủ, Hỉ Thần, Tả Phù là những sao tốt bị Tuần Triệt làm cho không tốt, nay xuất Không tính chất của nó hoàn nguyên. Hơn nữa, giờ đây Mệnh có cách Mã ám lộc Cách, Thân ám Khôi, Quyền, Ấn đâu phải số tầm thường mà có được, nên không xấu. Đây là những chỗ hóc búa của Tử Vi.
Đại Vận 53-62: khó tránh tai ách hay bệnh tật nặng, nhất là nên cẩn thận đừng để thần kinh lúc nào cũng quá căng thẳng. Đó là vì Nhật Nguyệt tối kỵ gặp Linh Hỏa, lại gia thêm Hình Riêu Không Kiếp. Tuy ở đó gian truân, nhưng cần quyết chí bổ cứu những chỗ thiếu sót sai lầm, làm gì cũng phải đúng thời, lúc cần ngừng lại thì phải lập tức ngừng lại sẽ biến khó thành dễ biến hư thành nên.
Đại Vận 63-72: làm gì cũng phải trì chí, có thuỷ có chung mới mong thành công. Nên cẩn thận vào 5 đầu, bởi do Tham Lang gặp Bạch Hổ, cần tránh xa kẻo thú vật gây hại. Lại Tham Lang Hóa Lộ mà ngộ Hao, làm mọi việc nên xét kỹ lưỡng đường tấn thối, chớ nên khinh động, rất dễ phá sản. Đồng thời cần phải kiên trì, có thuỷ có chung, mới có kết quả tốt. Nói chung nữa Vận sau mới được tốt, nhưng nhớ đừng nhỏ mọn kỹ lưỡng hay bỏn xẻn mới tốt.
Bạn có lẽ sẽ thọ được đến khoảng 79-82 tuổi! Số bạn không phải tầm thường, là người sinh gặp thời may. Nếu bạn biết nắm thời cơ, và biết tiến thủ khắc phục như tôi đã dự đoán thì chắc bạn sẽ được như "mã tề phong" - ngựa hí gió mà quý hiển.
Sỡ dĩ tôi phải nói rõ về số bạn, vì sợ bạn bị thối chí do sợ Thân cư Quan bị Tuần Triệt mà thôi, ngoài ra không có ý nào khác. Dù sao tôi cũng chỉ là dự đoán thôi và mọi người xem cho bạn cũng đều là dự đoán cả, chớ nên quá tin tưởng. Chỉ nên tin 50% thôi, khi nào thấy hoàn toàn đúng hay tin.
Vài hàng giúp vui tuỳ lòng người hiểu!
Tôi thấy lá số bạn khá đặc biệt đang nằm trong sự nghiên cứu của tôi nên mặc dù bạn không hỏi tôi, nhưng tôi không ngại nói bậy với bạn vài điều. Vì tôi muốn xem số bạn theo các môn thử có gì mâu thuẩn không, quả nhiên nghiên cứu kỹ mỗi môn thấy được thêm một góc cạnh nhưng tựu chung vẫn có cùng kết quả là khá tốt.
Số của bạn thuộc loại phú quý cách và được quý nhân giúp đỡ, về sau không phú thì quý.
Số này theo tôi Mệnh không phải là TPVT cách , nhưng Thân thì phải. Liêm Trinh là "Hùng Tinh" thủ Mệnh, được "Phủ Tướng Triều viên cách", đắc Khoa, Tả Hữu chiếu Mệnh lại thêm Văn Xương tốt vô cùng. Bấy nhiêu đấy cũng đủ là cách "Phủ Tướng Triều viên, thiên chung thực lộc" rồi. (Hóa Lộc tuy đẹp nhưng kỵ đi với Hao). Ở đây còn một cách rất đặc biệt và rất quý nữa là "Mã ám Lộc cách" mà ít người chú ý. Thân lại giáp hợp Khôi, Quyền, Ấn. Do đó số bạn được cách "Mã Tề Phong" - ngựa hí gió, khó tránh sẽ quý hiển. Số có đủ học vấn văn bằng, và phú quý. Hiềm vì Khốc Hư Tí Ngọ nên về sau mới thật tốt.
Hình như bạn có vẽ lo về cung Quan Lộc nhất là bị Tuần Triệt, tôi xin giải thích để bạn và các bạn khác hiểu rõ. Quan Lộc thời xưa được gọi là công danh, Danh được xưng hô trong chốn quan trường triều đình, như Quan nhất phẩm, nhị phẩm, tam công... Hoặc giả có kẻ thi đậu tiến sĩ mà chưa chắc có phẩm trật gì về vườn dạy học, chỉ là kẻ hàn nho... Đó là nhìn theo góc cạnh xưa. Thời nay, người như ông Bill Gate được gọi là phú quý. Bởi ai gặp cũng phải gọi bằng "ông", dưới trướng có hàng ngàn Kỷ Sử và Tiến Sĩ xách cập táp cho. Tổng Thống các nước gặp cũng phải cuối đầu chào, đa số mọi người đều quý mến thì cần gì phải có "công danh". Thời nay muốn có công danh thì phải làm việc cho chính quyền, nhưng vẫn bị bọn tài phiệt khống chế, lobby... Cho nên hai chữ Quan Lộc hay "công danh" thời nay khác thời xưa xa lắm. Thời nay nếu nói là Khoa Bảng Công Danh thì là kẻ có bằng cấp và làm nghề đúng theo bằng cấp của mình, nhưng tất cả vẫn được xem là "làm công". Quan Lộc không có gì khác hơn là công việc làm mà thôi, đối với thường dân, trừ những người làm việc với chính quyền có chức tước, hoặc đi lính thì không kể.
Nhìn với góc cạnh đó thì, Quan gặp Tuần Triệt chủ công việc làm thường dễ bị thay đổi, hoặc không vừa lòng với công việc mình làm, hoặc trong công việc làm thường gặp trục trặc. Nhưng vì trong Mệnh của bạn chủ cách Kinh Thương vì Mã ám Lộc cách, Tử Vi ngộ Đà, và Quan gặp Vũ Phủ ở cung Tài về sau sẽ tự mình làm chủ, nên bạn cần lo gì Tuần Triệt ở cung Quan.
Xem Tử Vi thấy dễ mà khó! Xem chung chung thì dễ, nhưng xem chính xác và đo lường Vận Hạn được thì hơi khó. Nhất là khi Mệnh Thân gặp Sát Tinh và Tuần Triệt thì lại càng khó xác định hơn nữa.
Ví như số bạn là người hiên ngang, quá quả quyết, cương trực, (không khéo sẽ dễ khiến người ghét, hoặc cậy thế áp chế người, hoặc chẳng thân ai, sẽ dễ sinh tai họa). Tính rất động, hơi ham chơi, thường thích du lịch hay chơi ngoài trời, khá khó tính, tính cô độc, mặt kém tươi và sẽ khó tránh cô độc, đam mê triết lý hay nghiên cứu về nội tâm, làm gì thường thích làm một mình, dễ có bệnh về máu huyết, xương gân... Những điều như thế thì đoán không khó lắm, nhưng đi vào chi tiết để đạt độ chính xác về một cái nào đó thì lại rất khó.
Như thường thường đa số khi xem số bạn đến cung Phúc Đức thì nhiều người sẽ thường cho là tốt. Hoặc có người cho rằng Thân cư Quan bị Tuần Triệt thì không được phát lắm nhưng vẫn cho la Vận tốt..., nói chung xem kiểu nào cũng được, đúng là trên hết. Tuy nhiên, theo sách vở và kinh nghiệm, thì người Liêm Trinh thủ Mệnh Vận Hạn gặp Phá Quân là xấu chứ không tốt tí nào cả, nhất là người Hỏa Mệnh. Bạn cần phải cẩn thận những năm Tí, dù Đại Vận tốt đến đâu cũng thường có chuyện không hay. (Ghi chú: Không phải chỉ mình số bạn, mà bất kỳ người nào Liêm Trinh thủ Mệnh đi Hạn gặp Phá Quân đều phải nên cẩn thận những việc phá bại bất ngờ, tuỳ theo sinh khắc chế hóa mà có độ nặng nhẹ khác nhau).
Đại Vận 23-32: Nếu hăng tranh đấu quá sẽ khó tránh chuốc oán mua hờn, cô độc lo lắng. Nếu tôi đoán không lầm thì hồi khoảng năm Nhâm Ngọ đến tháng 9 năm Quý Mùi bạn khó tránh tai bay vạ gió, hoặc kiện tụng thị phi, hoặc trước gian nan sau mới yên tĩnh. Trong Vận này muốn thành đạt chớ quá cương, mà cần phải giữ chính mới vô hại.
Đại Vận 33-42: Hẳn nhiều người sẽ cho là rất tốt, nhưng nó không phải vậy. Lý do thật đơn giản vì Hỏa Mệnh đóng ở Thân là Hỏa đã đi vào bệnh địa lại còn bị vượng Kim sinh Thuỷ khắc chế, Hỏa Mệnh chỉ dựa vào Hỏa của Liêm Trinh làm nền tảng, Hành đến Vận ở Hợi lại còn thêm Thiên Đồng Thuỷ ở Vượng địa khắc chế Mệnh nên lao đao, vất vả, hoặc do canh cải dễ lâm vào tình trạng tù túng. (Nếu đổi lại là Mệnh Mộc hay Mệnh Thuỷ thì Vận này tốt hết chỗ nói, mọi điều hanh thông, nhưng vì là Mệnh Hỏa nên bị giảm nhiều). Ở đây nếu cố chấp mê muội ham chơi thì lỡ việc, biết nghe và biết làm điều thiện sẽ thành công. (Đây là điểm chính bạn cần chú ý). Cẩn thận kẻo bị bệnh tật hay bị thương tật ở tay chân. Dĩ nhiên, đến Điền Trạch mà gặp Thiên Đồng thì sẽ canh cải nhiều, nhưng phải bôn tẩu gian nan sau mới được thành tựu. Đó là nhờ Lộc xung, Khoa Lộc ám. Nếu là số xấu thì bèo giạt mây trôi luôn, và sẽ không tránh được "rong chơi cuối trời quên lãng"! Với cung Điền như thế thì sự nghiệp của bạn về sau hẳn không phải là tầm thường.
Đại Vận 43-52 (Thân Cư Quan): Ở đây nếu bạn không bị tiểu nhân lung lạc, mọi việc thành tín nghiêm túc, thì thành công lớn có phúc dày. Nếu có điều bất chính, thiên lệch, lai thích thí ân huệ nhỏ dễ mang họa lớn. Không nên ham lợi nhỏ trước mắt. Ở đây ít ra chưa là quý nhân thì cũng gần được quý nhân.
Có lẽ sẽ có người thắc mắc tại sao gặp Tuần Triệt ở đây mà lại không đoán xấu. Sỡ dĩ vì Thân gặp Không tức là có cũng như Không, nếu gặp sao tốt thì bớt tốt, mà gặp sao xấu thì bớt xấu. Ở đây Sát Tinh đắc cách chỉ có Khốc Hư, nhưng Khốc Hư chỉ tác họa trước 43 tuổi mà thôi với những điều khổ ải buồn phiền, ngăn trở tiến trình sự nghiệp... Tuy nhiên, ở đó vì gặp cả Tuần Triệt nên có thể kìm chế. Đến khi Vận đến đó gọi là Xuất Không thì Khốc Hư lẽ ra hoàn nguyên tính phá hoại của nó, nhưng đã hết tác dụng vì sau 43 tuổi rồi. Lúc bấy giờ Khốc Hư chỉ còn lại tính chất tốt do đắc cách Tí Ngọ mà thôi. Bởi vậy Phú có câu: "Khốc Hư Tí Ngọ vị, Quan cung lai nhập tiếng thị gần xa", hoặc "Khốc Hư Tí Ngọ đồng cung, tiền bần hậu phú", hay "Tí Ngọ Khốc Hư tịnh thủ nhất thế xưng hùng"... Còn như Vũ Phủ, Hỉ Thần, Tả Phù là những sao tốt bị Tuần Triệt làm cho không tốt, nay xuất Không tính chất của nó hoàn nguyên. Hơn nữa, giờ đây Mệnh có cách Mã ám lộc Cách, Thân ám Khôi, Quyền, Ấn đâu phải số tầm thường mà có được, nên không xấu. Đây là những chỗ hóc búa của Tử Vi.
Đại Vận 53-62: khó tránh tai ách hay bệnh tật nặng, nhất là nên cẩn thận đừng để thần kinh lúc nào cũng quá căng thẳng. Đó là vì Nhật Nguyệt tối kỵ gặp Linh Hỏa, lại gia thêm Hình Riêu Không Kiếp. Tuy ở đó gian truân, nhưng cần quyết chí bổ cứu những chỗ thiếu sót sai lầm, làm gì cũng phải đúng thời, lúc cần ngừng lại thì phải lập tức ngừng lại sẽ biến khó thành dễ biến hư thành nên.
Đại Vận 63-72: làm gì cũng phải trì chí, có thuỷ có chung mới mong thành công. Nên cẩn thận vào 5 đầu, bởi do Tham Lang gặp Bạch Hổ, cần tránh xa kẻo thú vật gây hại. Lại Tham Lang Hóa Lộ mà ngộ Hao, làm mọi việc nên xét kỹ lưỡng đường tấn thối, chớ nên khinh động, rất dễ phá sản. Đồng thời cần phải kiên trì, có thuỷ có chung, mới có kết quả tốt. Nói chung nữa Vận sau mới được tốt, nhưng nhớ đừng nhỏ mọn kỹ lưỡng hay bỏn xẻn mới tốt.
Bạn có lẽ sẽ thọ được đến khoảng 79-82 tuổi! Số bạn không phải tầm thường, là người sinh gặp thời may. Nếu bạn biết nắm thời cơ, và biết tiến thủ khắc phục như tôi đã dự đoán thì chắc bạn sẽ được như "mã tề phong" - ngựa hí gió mà quý hiển.
Sỡ dĩ tôi phải nói rõ về số bạn, vì sợ bạn bị thối chí do sợ Thân cư Quan bị Tuần Triệt mà thôi, ngoài ra không có ý nào khác. Dù sao tôi cũng chỉ là dự đoán thôi và mọi người xem cho bạn cũng đều là dự đoán cả, chớ nên quá tin tưởng. Chỉ nên tin 50% thôi, khi nào thấy hoàn toàn đúng hay tin.
Vài hàng giúp vui tuỳ lòng người hiểu!
PhotonBelt
12/05/2012
vậy theo bác vuivui , thì việc dùng đối cung giải không vong là sai lầm ?
HoaiPhong
12/05/2012
giải không vong VD như mệnh gặp Tuần hay Triệt khi đến hạng gặp Tuần, triệt sẽ đuợc tháo rỡ. Trong hạng gặp nhiều may mắn nếu cung đuợc giải tốt và ngược lại .
VuiVui
12/05/2012
PhotonBelt, on 12/05/2012 - 11:37, said:
vậy theo bác vuivui , thì việc dùng đối cung giải không vong là sai lầm ?
-Về mặt lý thuyết. Như tôi đã nói, việc vận dụng các kết quả của tử bình sang lĩnh vực tử vi là cần thận trọng. Bởi sự không tương ứng như đẫ trình bày. Thế nào là sự thận trọng ?
Trước hết cần phải xem phương pháp dùng đối cung giải không vong, chỉ nên như là một Ý Tưởng. Nếu trước đó chưa có ai đề xuất, thì có thể xem đó là một ý tưởng mới. Để đi tiếp, thì cần phải chứng minh, cả về lý thuyết lẫn nghiệm lý mới được. Về lý thuyết, cần có sự chứng minh chặt chẽ cao nhất có thể được. Sau đó sẽ được phản biện để củng cố phép chứng minh, bảo đám tính đúng đắn. Đó là sự đúng đắn của lô gíc, của tư duy luận, của nhận thức.
-Về thực tế, cần được nghiệm lý. Sự nghiệm lý là rất khó vì đòi hỏi tính khách quan, mà vốn huyền học, chiêm đoán lại luôn chịu ảnh hưởng bởi các đặc tính chủ quan. Nên chuyện "gọt chân cho vừa giày" là chuyện rất dễ xảy ra. Và khi đã xảy ra, sẽ đưa nhận định của chúng ta lệch hướng. Vì thế, nghiệm lý cũng là nghệ thuật, có bản lĩnh. Do đó, nó cần có phương pháp. Chứ không thể tuỳ tiện giải đoán, phán xét cho một lá số được.
Cả hai điều trên, bài viết Phá Giải Không Vong đều không có sức thuyết phục.
Lẽ dĩ nhiên, có người sẽ nói, tử vi cũng như tử bình, làm gì có khoa học mà đòi hỏi như vậy. Vâng, cũng vì như vậy, cho nên mới phải cố gắng đến hết mức, rồi sau đó, hoan hỉ bởi mọi sự phản biện, Như tôi có nói, để mà củng cố chứng minh của mình. Chứ không phải là cãi nhau. Còn nếu như bảo rằng, làm gì có thể chứng minh ! Thì xin thưa, đã không có thể chứng minh, điều đó có nghĩa là người đưa ra ý tưởng đã không hề nắm được những lý lẽ của môn mà mình đề cập tới. Ở đây là tử vi và tử bình. Không có lý lẽ, có nghĩa là cảm tính, hoặc là nói không có cơ sở. Vậy thì dẫu chỉ là ý tưởng, thì cũng chẳng có giá trị gì. Cứ nói đại là ý tưởng thế đấy, mời mọi người nghiệm lý xem thế nào !!!
Khi ấy, thì "vạn sự sẽ tuỳ duyên", ai tới được thì tới, ai lui thì sẽ lui.
Nhưng một bài viết công phu, thì người viết cũng muốn được thấy đứa con tinh thần của mình có hiệu dụng nào đó chứ ! Phải vậy không ?
Nói chuyện đúng - sai.
Tôi không đưa ra một nhận định về đúng sai của ý tưởng này. Có hai lý do.
-Về lý thuyết, tôi không tiến hành giải trực tiếp bài toán này. Nên khi đọc Bài viết thì chỉ dám nhận định về mặt lý thuyết của tác giả có lý hay không mà thôi. Như đã biết, tôi đã có chỉ ra cụ thể chỗ bất cập. Điều này không có nghĩa, khi tác giả không chứng minh được thì ý tưởng đó là sai. Mà chỉ đơn giản là phép suy diễn của tác giả là còn phải tiếp tục nghiên cứu thêm.
-Về thực nghiệm. Quả thật, từ ý tưởng xuất không điền thật, tới việc dùng đối cung phá giải không vong cũng có nhiều trường hợp nghiệm thấy ứng đúng và có sự giải thích đơn giản như là kết quả của một mệnh đề đúng đắn - tức là, những ai giải toán hay giải quyết các vấn đề áp dụng lý thuyết với thực tiễn, một khi đúng đắn, sẽ thấy vẻ đẹp của sự ứng hợp, sự hợp lý giữa lý thuyết và thực nghiệm. Một nét đẹp quan trọng bậc nhất, đó là sự đơn giản đến diệu kỳ. Thì bài toán này, cũng có thể thấy qua nhiều trường hợp.
Thế nhưng đáng tiếc, cũng có nhiều trường hợp, mà nếu dùng, thì thấy khiên cưỡng vô cùng. Khiến cho nó, về thực tiễn, thì như một miếng xương hóc trong cổ họng. Về lý thuyết, nó cứ ngang ngang, rất khó chấp nhận. Ngay đây, tôi có thể chỉ rõ một trường hợp rất dễ gặp. Đó là mệnh tuần - thân triệt và ngược lại, thân cư ri. Như vậy, theo lý trên, đương nhiên là ta sẽ phải Vứt Bỏ tuần - triệt. Vì , để phá tuần ở mệnh, thời phải lấy thiên ri. Nhưng thiên ri lại có triệt, lại phải lấy mệnh để hoá giải. Nhưng vi thân cư ri, nên thực chất là lấy thân giải mệnh, lại lấy mệnh để hoá giải thân. Đó chính là lúc mệnh - thân tuần triệt đều bị phá giải. Về mặt lý luận, điều này không chấp nhận được. Vì ta hoàn toàn có thể khẳng định, thân giải mệnh, nhưng thân có triệt. Mệnh giải thân, nhưng mệnh có tuần. Thế có nghĩa là chúng vẫn còn nguyên. Tự nhiên, lý luận của ta đưa ta về trạng huống bất định. Thực chất là phi lô gíc, nói ngược nói xuôi cũng được. Điều này đồng nghĩa với điều là Không giải đoán được.
Chưa nói tới thực tế, như phần lý luận của lá số tân mão và trần đăng khoa. Chúng ta cũng thấy hoàn toàn không ứng đúng với thực tiễn.
Thực tế, Tôi đã thấy. Ý tưởng này, có đúng, có sai, có gượng ép. Vì thế, đứng ở góc độ người n/c, tự nhiên chúng ta phải tự hỏi:
Phải chăng, có một Luật, mà nội dung của nó hàm chứa ý tưởng trên ? Ý tưởng trên nó chỉ đúng, khi có những điều kiện và đủ cho nó. Và chỉ khi cái Luật này được phát biểu, thì ý tưởng trên sẽ được chứng minh, và nó sẽ trở thành mệnh đề có tính khẳng định. Không còn là ý tưởng nữa. Nó trở thành định luật !
Khi ấy, cái Luật tổng quát đó nó đúng với bất kỳ, hoặc là nó tự động phân loại, để cho cái mệnh đề trên có chỗ đứng.
Được như thế thì chúng ta sẽ có một phép hoá giải không vong đáng tin cậy !!!???
Thân ái.
Sửa bởi vuivui: 12/05/2012 - 21:18
BlueDragon
12/05/2012
xin được góp vài dòng
"Tuần Triệt có thể được giải khi gặp xung chiếu, tam hợp Thái Tuế, Lưu Thái Tuế đến điền thực tại bản cung Tuần Triệt"
theo LNQ - BMTVĐS
"Tuần Triệt có thể được giải khi gặp xung chiếu, tam hợp Thái Tuế, Lưu Thái Tuế đến điền thực tại bản cung Tuần Triệt"
theo LNQ - BMTVĐS
CanhTan
12/05/2012
HacLongGiangzzz, on 12/05/2012 - 21:33, said:
xin được góp vài dòng
"Tuần Triệt có thể được giải khi gặp xung chiếu, tam hợp Thái Tuế, Lưu Thái Tuế đến điền thực tại bản cung Tuần Triệt"
theo LNQ - BMTVĐS
"Tuần Triệt có thể được giải khi gặp xung chiếu, tam hợp Thái Tuế, Lưu Thái Tuế đến điền thực tại bản cung Tuần Triệt"
theo LNQ - BMTVĐS
Thời điểm này bàn về tập sách mới ra lò của người viết LNQ e là nhạy cảm,nhưng phải nói rằng :
Xưa nay trên mạng chỉ có duy nhất bác ThienKyQuy phổ biến thuyết Xuất Không Điền Thực từ cách đây khá lâu (ít nhất từ thời còn dùng nick DQT67),là thành quả do nhiều năm nghiên cứu,chiêm nghiệm,tham chiếu ở nhiều môn (khám phá hoặc tái khám phá ra),sách của ông LNQ dùng nguyên văn từ Điền thực,tôi nghĩ ông LNQ nên cho biết nguồn gốc của thuyết để hậu học sau tránh hiểu lầm ông là tác giả.
Dĩ nhiên chưa từng thấy bài nào của ông LNQ dùng đến Xuất Không Điền Thực,
HNK
Sửa bởi HoNgocKhanh: 12/05/2012 - 22:41