Jump to content

Advertisements




Tiết Khí


8 replies to this topic

#1 tyty

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 180 Bài viết:
  • 31 thanks

Gửi vào 28/04/2011 - 19:22

Vừa rồi Bạn Van_Basten đã chuyễn mục "Dụng thần ngũ pháp" từ TVLS số qua đây . Xin cám ơn.
Lại cũng có người hỏi tôi về vấn đề Cường Nhược nên nay tôi viết tiếp phần Tiết Khí tức là xem xét Vượng Nhược Chế Hóa trong Tiết khí để các Bạn ham thích Tử Bình tiện nghiên cứu .
Những phần đã viết trong Tuvilyso cũ và mới nầy không liên quan gì đến những sách khác hay nói theo kiểu bình dân "không đụng hàng" .
Phần nầy rất dài tôi sẽ viết từng bài cho đến khi hết .

VƯỢNG NHƯỢC CHẾ HÓA
1.- Luận Vượng Suy Cường Nhược .
4 chữ Vượng Suy Cường Nhược người xưa dùng lẫn lộn , không giới hạn rõ ràng sao nên nói "Đắc thời bất vượng, thất thời bất suy" . Luận lý suy tính nên người học mới dễ lầm lộn cho nên xin nói rõ thêm :

- Vượng Suy là nói theo thời lịnh .
(Cùng hành với tháng là vượng, không đúng là suy).

- Cường Nhược là nói theo sinh trợ; nếu được sinh trợ nhiều là cường, ít là nhược . Vượng Suy chuyên nói về khí của ngũ hành nguyệt lệnh . Còn Cường Nhược là thâu tóm cả Tứ trụ xem xét rồi mới nói được . Hữu vượng mà cường là Nhật nguyên đắc thời nắm lệnh mà Tú trụ lại có nhiêu sinh trợ thần (Ấn Kiếp) là vậy .

Hữu Vượng nhưng Nhược là Nhật nguyên đắc thời nắm lệnh nhưng Tú trụ nhiều khắc tiết thần (quan sát, thực thuơng) là vậy .

Hữu Suy nhưng Cường, Nhật nguyên hưu tù thất thời mà Tú trụ có nhiều sinh trợ thần .

Hữu Sưy nhưng Nhược, Nhật nguyên hưu tù thất thời, Tứ trụ có nhiều khắc tiết thần .

Cách Thủ Dụng (lấy mà dùng) .
- Vượng mà Cường thì hỉ Ức .
- Suy mà Nhược thì hỉ Phùng
Đó là lý thường vậy .

Vượng mà Nhược tất nhiên vì quan sát hoặc thực thuơng quá nhiều , trong đó quan sát nhiều thì nên thực thuơng úc nó . Thực thuơng mà nhiều thì nên lấy tài mà tiết nó . Nghĩa là Nhật nguyên nắm khí vốn vượng nhưng vì thần khắc tiết TA quá nhiều, bị nó áp bức , khí chẳng được giãn nỡ ra,
chỉ nên ức chế thần khắc tiết tức là vô được đạo trung- hòa vậy . Nếu lại phù nó thì thái quá vậy . Cho nên quan sát mà nhiều nên lấy thục thuơng mà chế nó . Thực thuơng nhiều nên lấy Tài mà tiết nó . Ấn tuy có thể dẫn hóa quan sát, khắc chế thực thuơng nhưng trái lại hiềm vì sinh phù
Nhật nguyên chẳng phải thượng cách .

... tiếp theo .
Suy mà Nhược : Nhật nguyên hưu tù nhưng lại bị khắc tiết quá nhiều cho nên trong ức chế khắc tiết cũng cần mang thêm sinh phù Nhật nguyên, hai mặt cùng xem xét mới là tân lợi . Cho nên quan sát mà nhiều tất nhiên dùng Ấn để tiết chế cái bạo của quan sát mà sinh Nhật nguyên cua Ta
. Thực thuơng mà nhiều cũng nên dùng Ấn chế cái tiết mà sinh Nhật nguyên của Ta . Tài mà nhiều nên Kiếp để chế tài mà bang Thân . Đó là cái nghĩa Đồng loại nhờ nhau (đồng loại tuơng y chi nghĩa) . Nếu không Thần khắc tiết Ta, tuy cáo lui ba bước, không làm hại Ta, nhưng bản thân
ta khí loãng lực nhược,chẳng đủ vận dụng phát triển được Cái lý Cường Nhược của Can Chi . Chi trọng mà Can khinh.

Lực của Chi thì thực, mà khí của Can thì phù (nỗ) cho Can tất phải không căn ở Chi mới là hữu lực . Mà Nhật nguyên ở trong Chi cũng phải thất xuất ở Can mới làm hiệu đến cái Dụng của nó . Can lấy Chi làm gốc . Trường sinh, Lâm quan, đế vượng là cái trọng của gốc rễ vậy . Mộ khố dư
khí là cái khinh của gốc vậy (đây là lấy ngũ hành mà nói).

Giáp Ất là một mộc, sinh ở Hợi, lộc vượng ở Dần Mão, mộ khố ở Mùi, dư khí ở Thìn, nghĩ cũng như thế mà sinh suy ra (không nói đến âm trường sinh) . Trân chứng nói :Thiên Can được một ở tỷ kiếp, không bằng Đia chi được một ở mộ khố . Được hai Tỷ kiếp không bằng một cái dư khí . Được ba cái Tỷ kiếp không bằng một Trường sinh hoặc Lâm quan, so sánh rất xứng đáng . Nếu chỉ có Tỷ kiếp của Can mà không có thông căn được gọi là "Hào vô lực lượng khả" (nghĩa là không có một lực lượng nào được cả" . Trong đia chi lấy Lâm quan, Đế vượng là tối trọng, trường sinh tiếp thụ không bằng , dư khí mộ khố cũng là thứ yếu .

Đính chính bài trước .
Trích dẫn:

Trích dẫn

Cái lý Cường Nhược của Can Chi . Chi trọng mà Can khinh.
Lực của Chi thì thực, mà khí của Can thì phù (nỗ) cho Can
tất phải không căn ở Chi mới là hữu lực .

xin đọc là ...thông căn ở chi mới là hữu lực .

..... tiếp theo .
Trong tứ trụ Nguyệt chi là mốc giữ của Vượng Suy gọi là Nguyệt viên (khu vực của tháng) cũng gọi là đề cuơng, quan hệ tối trọng . Thứ đến là chi của Nhật và Thời, dính gần vào Nhật chủ, khí thế mật tiếp quan hệ cũng trọng . Dù niên chi có cách nhau khá xa, quan hệ hơi nhẹ, nhưng so
với Thiên Can cũng là trọng vậy . Nhật chủ như thế, can chi khác, có thể lấy đó mà suy ra, nhưng Âm can chẳng ky suy lắm, tại sao vậy . Vì Duong can là khí hưng vượng ở suy địa thì nghịch với bản tính, nếu không có sinh trợ không thể tự tồn . Còn Âm Can là khí hướng suy, ở hưu tù
là bản phận của nó, tuy kiến khắc tiết, cũng chẳng phải là điều đáng sợ . Trái lại, duơng Can hỉ vượng mà âm Can chẳng nên quá vượng . Đó là bản tính cuơng nhu của chúng khiến ra như vậy . Vạn vật nhất lý cùng suy ra cả .

.....tiếp theo.
Thí dụ như dương Can suy nhược mà kiến quan sát đa, tất phải lấy Ấn làm Dụng, lại nên hành ấn tỹ đia chi. Âm Can suy nhược mà kiến quan sát đa, chỉ cần nguyên Cục có ấn, thì có hành khác tiết chi vận cũng chẳng sao. Cái đó gọi là "Âm Can bất kỵ suy nhược" là thế đấy .

2.- Ngũ hành sinh khắc và phản sinh khắc.

Ngũ hành Kim Mộc Thủy Hõa Thổ là thứ tự của Xuân Hạ Thu Đông thuận tự, cho tương xung, đối xung, cho nên tương khắc.
- Thu Kim sinh Dông Thủy - Đông Thủy sinh Mộc Xuân.
- Xuân Mộc sinh Hạ Hõa - Hạ Thu ở giữa phân cách . Thổ do Thổ sinh Kim đây gọi là Thổ cư trung ương . Nếu nói về một Năm, Mộc Hõa là cương, Kim Thủy là âm . Mộc là chổ tiệm của Hõa, Kim là chổ tiệm của Thủy . Giữa Hõa và Kim tất cần lấy Thổ gián cách . Lúc Hõa vượng đồng thời Thổ
vượng, đó là thứ tự tương sinh vậy . Cách bộ đôi xung là tương khắc, cho nên Xuân Mộc Thu Kim là tương khắc . Hạ hõa Đông Thủy là tương khắc . Thổ ở trung ương cho nên cùng Mộc tương khắc . Thổ cùng Thủy tương khắc, đó là thứ tự tương khắc .

Lại còn phân sinh phân Khắc nữa . Đó là cái diễn nghĩa của Ngũ hành sinh khắc điên đảo và cũng là căn cứ của sự biến hóa trong Mệnh Lý học .

....tiếp theo.
Sách nói :
-Kim dựa vào thổ mà sinh nhưng thổ đa kim mai.
-Thổ dựa vào hõa mà sinh nhưng hõa đa thổ tiêu.
-Hõa dựa vào mộc mà sinh nhưng mộc đa hõa tắc
-Mộc dựa vào thủy mà sinh nhưng nhưng thủy đa mộc trôi.
-Thủy dựa vào kim mà sinh nhưng kim đa thủy đục.
Đó là phân sinh và phân khắc.

Cứu nó chỉ có phép :
Phãn ngã khắc dĩ vi sinh
(ngược lại lấy cái ta khắc là sinh)
Ấn vượng thái quá nên lấy tài chế ấn làm trọng.
-Kim sinh thủy, nhưng thủy đa kim chìm.
-Thủy sinh mộc, nhưng mộc đa thủy co rút lại.
-Mộc sinh hõa, nhưng hõa đa mộc cháy bùng lên.
-Hõa sinh thổ, nhưng thổ đa hõa bị che lấp.
-Thổ sinh kim, nhưng kim đa thổ rỗng.

Đó là ta sinh ngược lại thành khắc ta cũng gọi là "Tử vượng mẫu sinh" như đã nói lúc đầu, đáng lý ra là phải Giúp mẹ mới phải .

Phép cứu :
Tùy tính chất của ngũ hành mà có sự khác nhau, nhưng cũng không ngoài ý nghĩa : Ấn kiếp sinh trợ .
-Thủy đa kim trầm, lấy kim để trợ không lấy mà chế.
-Mộc mạnh thủy súc, được kim chế mộc đồng thời có thể sinh thủy . Được thủy trợ còn đẹp .
-Hõa đa mộc phàn, dùng thủy chế hõa đồng thời cũng để sinh Mộc . Không lấy mộc để trọ .
-Thổ đa hõa bối, dùng mộc chế thổ đồng thời để sinh hõa, hoặc dùng kim tiết thổ . Không dùng hõa để trợ .
-Kim đa thổ hư, dùng hõa chế kim đồng thời để sinh thổ . Thổ trợ cũng đẹp .
Đó là Ngã sinh phãn vi khắc ngã .

.... tiếp theo .
Lại còn : Ngã sinh phản vi sinh ngã.
Kim có thể sinh Thủy nhưng lúc Hõa vượng làm chảy Kim ra, được Thủy chế Hõa, mới có thể tồn Kim.
(Kim dựa vào Thủy mà sinh).
- Thủy có thê sinh Mộc, nhưng lúc Thổ vượng làm cho Thủy ngưng đọng lại, được Mộc sơ Thổ, mới có thể tồn Kim .
(Thủy dựa vào Mộc mà sinh)
- Mộc có thể sinh Hõa nhưng lúc trời giá lạnh, đất đông cứng lại, được Hõa dung hòa, mới có thể sinh Mộc được.
(Mộc dựa Hõa mà sinh).
- Hõa có thê sinh Thổ, nhưng khi thế nước minh mông, được Thổ chế Thủy, mới có thể tồn Hõa được.
(Hõa dựa vào Thổ mà sinh).
- Thổ có thê sinh Kim, nhưng lúc Mộc vượng Thổ hư, được Kim chế Mộc, mới có thể tồn Thổ.
(Thổ nhờ Kim sinh vậy).
- Kim khắc Mộc nhưng Mộc kiện thì Kim khuyết (gổ cứng thì mẽ dao).
- Mộc khắc Thổ nhưng Thổ trọng thì Mộc chiết (đất cằn cổi thì cây không lên được).
- Thổ khắc Thủy nhưng Thủy đa thì Thổ đọng (Nước chảy xiết thì vỡ đê).
- Thủy khắc Hõa nhưng Hõa vượng thì Thủy cam (Cháy lớn quá thì nước tưới vô khô liền) .
- Hõa khắc Kim nhưng Kim đa thì Hõa tức (Sắt cứng quá thì lữa tắt).

Phép cứu :
Chỉ có Tỷ Kiếp tức là Tài đa dụng Kiếp . Như các Cục Mộc kiện, Kim khuyết, ngoài trừ Kim lai tỷ trợ không còn cách
nào khác (Lấy búa chẽ củi, củi cứng quá phải thay bứa khác lớn hơn không còn cách nào khác).
- Kim suy phùng Hõa tất kiến tiêu dung (chảy ra nước)
- Hõa nhược phùng Thủy tất vi tức diệt (lữa tắt ngúm)
- Thủy nhược phùng Thổ tất vi ứ tắc .
- Thổ nhược phùng Mộc tất tào khuynh hãm .
- Mộc nhược phùng Kim tất tào phá triết .

Đó là lý chính Sinh Khắc mà Thân nhược yểu bị khắc mạnh .
Quan sát là như thế, chỉ nên Ấn thụ sinh Thân hóa Quan sát, mới có thể phản khắc vi sinh .

.... tiếp theo .
Cường Kim đắc thủy, phuơng tõa kỳ nhuệ.
Cường Thủy đắc Mộc, phuơng tiết kỳ thế.
Cường Mộc đắc Hõa, phuơng hóa kỳ ngoan (ngoan cố).
Cường Hõa đắc Thổ, phuơng chỉ kỳ diện (ngăn bốc cháy).
Cường Thổ đắc Kim, phuơng truyện kỳ trệ (ứ đọng).
Cường Kim d0a81c Hõa là chính khắc, nhưng khắc nó cũng chẳng bằng tiết nó, đó là dĩ tiết vi khắc.
Mộc vốn sinh Hõa, Mộc nhiều Hõa tắt, nhờ Kim kha91c Mộc ngược lại mới có thể sinh Hõa (cây chẻ thành củi dễ cháy
hơn cây).
Hõa vốn sinh Thổ, Hõa đa Thổ tiêu, nhờ Thủy khắc Hõa, ngược lại mới sinh Thổ được (tro trở lại thành đất) .
Thổ vốn sinh Kim, Thổ đa Kim mai, nhờ Mộc khắc Thổ, bản năng sinh Kim .
Kim vốn sinh Thủy, Kim đa Thủy nhược, nhờ Hõa khắc Kim , bản năng sinh Thủy (Kim đặc nhờ Hõa nung chảy ra thành
nước).
Thủy vốn sinh Mộc, Thủy đa Mộc phù (nổi), nhở Thổ khắc Thủy, bản năng sinh Mộc .
Đó là cái lý Mẫu đa diệt Tử . Chế được mẹ thì sinh được Con mà không thái quá .

Thí dụ như : Trụ trung Ấn vượng sinh Thân thái quá, nên dụng Tài phá Ấn, mới thành được cái thế Thân vượng nhiệm Tài . Cho nên Thân vượng thì kỵ Ấn sinh, nên lấy Tài làm dụng, khử Ấn thì đuôc Trung Hòa làm đẹp .

#2 Đinh Văn Tân

    Ban Điều Hành

  • Ban Điều Hành
  • 7791 Bài viết:
  • 17737 thanks

Gửi vào 06/05/2011 - 20:42

Chưa thấy bài "Dụng Thần ngũ Pháp" được mang qua đây .
Có ai có thiện chí nhờ đem tất cả những bài về Tử Bình bên TVLS (cũ) qua đây giùm .

#3 G-R-E-E-N

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 99 Bài viết:
  • 12 thanks

Gửi vào 08/05/2011 - 17:31

Xin chuyển tiếp bài "Dụng thần ngũ pháp" vào mục này. Thiết nghĩ đây là 2 kiếm chiêu thượng thặng của Tử Bình, cho nên xin post chung 1 topic


Để gìn giữ kiến thức chính phái (tiêu chuẩn) về Tử bình được các cao thủ trên diễn đàn cũ chia sẻ qua các bài viết, tiếp theo đây Van Basten xin được tiếp tục post lại các bài viết của bác Đinh Văn Tân về “Dụng thần thủ pháp”. Kính mong Ban QL diễn đàn “neo” chủ đề này ở trên để mọi người tiện tham khảo, nghiên cứu.



Thân ái,



Van Basten.

Sửa bởi G-R-E-E-N: 08/05/2011 - 20:22


#4 G-R-E-E-N

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 99 Bài viết:
  • 12 thanks

Gửi vào 08/05/2011 - 17:31

Trong khoa Tử Bình cái khó nhất là tìm dụng thần hay gọi là "Dụng Thần thủ pháp".
Dụng Thần tức là những gì ẩn tàng trong tháng sinh. Nhật can phối hợp nguyệt lệnh mà thành thể tính; hợp với nhu yếu của thể tính là Dụng Thần.
Cái khó nhất trong Mệnh Lý là 12 cách thủ đoán dụng thần : Đối với thập can phối họp 12 tháng , cùng với mỗi tháng , mọi nhân nguyên dụng sự đều nhất nhất phân biệt và đưa thí dụ . Thủ dụng cũng có phương thức không ngoài lý do chế hoá sinh khắc, gôp lại có thể chia thành 5 loại:

#5 G-R-E-E-N

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 99 Bài viết:
  • 12 thanks

Gửi vào 08/05/2011 - 17:32

I, II – Phù, ức nhật nguyên thủ dụng pháp:


Mệnh lý cần nhất là trung hòa mà trung hòa do ở "phù ức". Bất cập cần sinh phù, thái quá cần ức chế.

Phù có 2 cách: ấn thụ để sinh, tỷ kiếp để trợ.
Ức cũng có 2 cách: quan sát để khắc , thực thương để tiết chế .

Nhật nguyên sao có lúc nên phù, lúc nên ức; nguyên do là do ở thể tính.

Xuân mộc, Hạ hỏa, Thu kim, Đông thủy, thể tính thái vượng, lấy quan sát để khắc, thực thương để tiết. Đó là lấy ức làm dụng.

Xuân kim, Hạ thủy, Thu mộc, Đông hỏa thể tính thái nhược, lấy ấn thụ để sinh, hoặc tỷ kiếp để trợ . Đó là lấy phù làm dụng .

a/ Phù nhật nguyên thủ dụng pháp:
Phù nhật nguyên không ngòai dụng Ấn, Kiếp , nhưng cái gì nên dụng Ấn, cái gì nên dụng Kíếp nên cần phải xét kỹ.

- Tài quan vượng, dụng Ấn.
Ví dụ:

Đinh hợi - Bính ngọ - Nhâm Dần - Kỷ Dậu.
Nhâm thủy sinh ở Ngọ nguyệt tính cực nhược, kiến thời chi Dậu kim, như tử đắc mẫu, chuyên dụng Ấn thụ sinh Thân, nhưng Dần Ngọ hội cục , Bính Đinh xuất Can, Tài vượng phá Ấn cho nên lấy Nhâm thủy trong Hợi để chế hỏa mới có thể hiểu được cái Dụng của Kim.
Tạo nầy là lấy hạ thủy làm thể, Ấn làm dụng.

- Quan sát vượng dụng Ấn.
Ví dụ:
Đinh mão - Qúi Sửu - Bính Thân - Mậu Tý .
Bính hỏa sinh ở Sửu nguyệt, tuy nói khí tiến nhị dương mà Tý Thân hội cục (thủy) , Qúy thủy xuất Can là đông vận tể nhật, Bính hỏa cực nhược hỷ được Mậu Qúi, Đinh hỏa ôn ất, mới có thể lấy Ất mộc trong Mão sinh Bính.
Tạo nầy lấy Đông hỏa làm thể, Ấn làm dụng.

Cả hai tạo trên (Tài quan vượng) và (Quan sát vượng) , tuy cùng lấy kiếp ấn vì quan sát thái vượng cho nên lấy Ấn là chủ, lấy Kiếp làm phụ tá .

- Tài vượng dụng Kiếp.
Ví dụ:
Quý Dậu - Quý Hợi - Mậu Tý - Đinh Tỵ .
Mậu thổ sinh ở Hợi nguyệt , Tài tinh đương vượng , lưỡng Quý xuất Can, thủy vượng thổ đảng , Ấn bị Tài phá cho nên không thể dụng Ấn, chỉ có thể dụng Kiếp .
Tài vượng dụng Kiếp bèn là Phú cách .
Nguyên lý phú có nói :
"Qui Lộc cách đắc tài thu họach được phúc,
Không gặp tài mà qui lộc tất là bần"
Tạo nầy lấy đông thổ làm thể, tỵ lộc làm dụng .

I, II – Phù, ức nhật nguyên thủ dụng pháp:

b/ Ức dụng thần thủ dụng pháp
Dụng thần thái quá cũng thuộc trường hợp chẳng nên . Ức
cái hữu dư, thích ứng được khả năng của nó .
Ấn vượng dụng Tài.
Mậu Thìn - Giáp Dần - Đinh Mão - Mậu Thân
Đinh hõa sinh ở Dần nguyệt, chẳng vượng chẳng liệt . Dần
Mão Thìn chi tụ đông phuơng mà thấu Giáp, có cái tai nạn
Mộc đa Hõa tắc, Ấn thành trọng mài thái cường, lấy Tài
phá Ấn làm dụng . Hỉ trong Thân một điểm Canh kim đẩy
Giáp mới có thể dẫn Đinh .
Tạo nầy lấy Xuân hõa làm Thể, Tài vượng phá Ấn làm Dụng .
Thực thần chế Sát .
Quý Mùi - Tân Dậu - Ất Dâu - Đinh hợi .
Ất mộc sinh ở Dậu nguyệt, sinh khí nội liệm, ngoại tượng
khô táo, Ất được tính nhu, nhưng chi được Hợi Mùi hội
cục, lại phùng Quý thấu . Tân kim thất sát thừa quyền.
Tạo nầy thu mộc là Thể, Thực thần chế sát là Dụng.
Ấn tiết Quan sát .
Nhâm Thân - Nhâm Dần - Bính Tý - Ất Mùi
Bính hõa sinh ở Dần nguyệt cho nên dụng Nhâm là quý,
nhưng lưỡng Nhân tinh thấu. Tý Thân hội cục, xuân thủy
uông duơng, khi Bính Hõa làm nó lóa thì hỷ sinh ở chính
nguyệt . Giáp Mộc đắc Lộc. Ất Mộc xuất Can, thủ Ấn hóa
Sát làm Dụng, tiết Nhâm thủy mà sinh Bính hõa .
Tạo nầy lấy Xuân hõa làm Thể, môc Ấn làm Dụng .
Tạo nầy cùng với tạo trước lấy Quan sát vượng Ấn cùng là
Sát Ấn tuơng sinh . Đặc biệt Sát vượng mà dụng Ấn phải là
Nhật nguyên thái nhược . Nếu không thể Ấn để cứu thì
không thể được, cho nên là tiết Ấn làm Dụng.
Ấn chế Thực thuơng .
Đinh Dậu - Mậu Thân - Mậu Thân - Mậu Ngọ
Mậu thổ sinh ở Thân nguyệt lúc Canh kim bĩnh linh là khi
thu Kim tiết thổ, tử vượng mẫu suy, hỷ Ngọ cung Đinh hõa
xuất Can, lấy Đinh hõa chế Kim noãn thổ là cách Dụng thần
bội Ấn . Lấy thu thổ thể, hõa Ấn dụng . Thổ Kim thuơng
quan làm thể . Thực thần bội Ấn cùng Thuơng quan bội ấn
đồng nghĩa .
Tài tiết Thực thuơng .
Mậu Tuất - Kỷ Mùi - Bính Tý - Canh Dần
Bính sinh Mùi nguyệt, viêm y chưa lùi, khí thế Dần suy .
Thời gặp Dần trường sinh, niên chi Tuất mộ khố, ba chổ
thông quan cho nên không cho là nhược . Không như trụ
kiến bốn thổ, Thục thuơng thái trọng, Mậu Kỷ tinh thấu
hối hõa chi quang (che lấp ánh sáng), chuyên thủ một
niên, Canh kim tiết khí của thổ, đó gọi là Dụng thần mà
nhiều thì nên tiết mà không nên khắc ,
Tạo nầy lấy Hạ hõa làm thể . Hõa Thổ thuơng quan mà lấy
Canh Tài tiết thuơng làm Dụng .

Sửa bởi G-R-E-E-N: 08/05/2011 - 17:34


#6 G-R-E-E-N

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 99 Bài viết:
  • 12 thanks

Gửi vào 08/05/2011 - 17:32

III - Điều hậu thủ dụng pháp:

Trích ý kiến của TrucPhu trong đề tài "Xin được chỉ giáo".
-----
"theo Điều hậu của Uyên Hải Tử Bình thì Nhật Quý sinh tháng Tuất nên dùng Tân, Giáp, Nhâm, Quý
Kết luận nên dùng dụng thần Giáp là an toàn hơn cả .Hỷ thần Nhâm Quý."

Điều hậu thủ dụng pháp là một trong 5 "Dụng thần thủ pháp.

Điều hậu như thế nào?
- Thổ sinh Kim, nhưng mùa hạ thổ táo, cần phải có thủy nhuận thổ mới sinh kim.
- Kim sinh thủy mà thu đông hàn đống chi kim chẳng thể sinh thủy được cần được hõa ôn kim mới sinh thủy.
- Mộc sinh hỏa, xuân mộc dương tráng, mộc hỏa tự phàn, cần có thủy nhuận căn bèn là mộc hỏa thông minh.
- Thủy sinh mộc, hàn đông băng đống chi thủy, thủy chẳng thể sinh mộc cần hỏa chiêu nõan mộc mới phu vinh.

Về thể chất mà nói, hạ lệnh chẳng thể không có thủy, đông lệnh chẳng thể không có hõa. Chẳng phải tương sinh mới là sinh, khắc tiết cũng là sinh, đó là điều Trích thiên tủy nói: "Nhi năng sinh mẫu".


Chỉ lúc cần điều hậu lấy điều hậu làm trọng, mấy cái khác tạm thời gác bỏ một bên, hoãn luận.

Ví dụ:
Quý Mão - Ất Sửu - Kỷ Hợi - Kỷ Tỵ.
Kỷ sinh sửu nguyệt băng đống trì đường, đống thủy, khô mộc. Cái gì có thể khắc Thổ được - có Tỵ cung Bính hỏa ám tàng không chỉ có công nõan thổ mà nhân đó là một điểm dương hỏa, tài quan mới có thể sinh, cho nên không dùng Bính hõa chẳng thể được. Đông thổ kiến Bính, hàn cốc hồi xuân. Điều hậu là cấp, Tài quan hõan luận.

Sửa bởi G-R-E-E-N: 08/05/2011 - 17:36


#7 G-R-E-E-N

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 99 Bài viết:
  • 12 thanks

Gửi vào 08/05/2011 - 17:33

IV - Thông quan thủ dụng pháp:

Thông quan là ngoài Nhật chủ ra, lưỡng đầu đối trĩ (đối đầu với nhau), thế quan lực địch, khinh trọng thân sơ ngang nhau chẳng lẽ có chổ lấy có chổ bỏ , duy có cách quan thông cái khí của nó mới có thể là cái Dụng của ta được.


Nghi kỵ cần thiết, tạm thời hoãn bàn không phải là không luận mà phải để ý đến cái khẩn cấp trước đã.

- Thương - Quan lưỡng đình dụng Tài.

Mâu Dần - Canh Thân – Kỷ Sửu - Giáp Tý

Thu thổ khí hàn nên dụng Bính hỏa không như Dần Thân lưỡng xung , Ấn bị Tài phá chẳng thể là Dụng. Canh kim là khí đương vượng của nguyệt lệnh thấu xuất thiên can Giáp mộc tọa Tý, lâm quan tại Dần và cùng Nhật chủ tương hợp. Quan, Thương thế sức ngang ngửa chẳng thể lấy chẳng thể bỏ. Duy có thể dụng Nhâm thủy trong Thân, tiết kim khí để sinh Mộc, vận hành Thủy Mộc tối mỹ.
Đây là lấy thu thổ làm Thể. Tài quan làm Dụng.

- Tài Ấn lưỡng đình dụng Quan.


Kỷ Hợi - Bính Tý – Kỷ Tỵ - Canh Ngọ

Kỷ thổ sinh ở trọng đông, thổ đóng băng cho nên đương nhiên dụng Bính. Tỵ Ngọ thành phương , Bính hỏa xuất can dương hòa đã tràn lan mặt đất. Nguyệt lịnh Tài tinh bĩnh lịnh. Hợi Tý thành phương, Tài vượng tổn Ấn . Duy chỉ có Hợi cung Giáp mộc, Quan tinh thông với khí Tài Ấn .
Lấy đông thổ làm Thể. Quan ẩn là Dụng.

#8 G-R-E-E-N

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 99 Bài viết:
  • 12 thanks

Gửi vào 08/05/2011 - 17:33

V - Bịnh Dược thủ dụng pháp:

Bịnh Dược (dược ở đây là thuốc) thủ dụng pháp là một trong năm Dụng thần thủ pháp.

Trước khi đi vào chi tiết . Đọc lại sách "Dự đoán theo tứ trụ" của Thiệu Vĩ Hoa , trong toàn quyển sách Ông chỉ nói có phần nầy (trang 186) mà Ông không đề cập đến các Thủ pháp - (có chú thích thêm phần "điều hậu dụng thần (trang 191) , chứng tõ Ông đã bỏ bớt đi , cũng có tác giả viết là Ông đã dấu đi , không viết ra hết.
Trong khi đó thì Ông lại lái qua cách chọn dụng thần của 4 cách : chính tài , chính quan, chính ấn và thương quan mà thôi . Phần giống như vậy tôi có thể trình bày trong mục "Thời cục Dụng Thần Tổng Đàm" nếu có thể được
.

Ngũ ngôn Độc Bộ có nói :
"Có bịnh mới là qúy , không tỗn chẳng là kỳ,
Trong cách mà khữ bịnh , tài lộc lưỡng tương trì".
Thần Phong diễn ra thành thuyết Bịnh Dược , sự thực ra là cái ý doanh hư tiêu trưởng phối hợp hỷ kỵ . Muố thế tứ trụ cần phải trung hòa , qúy tiện há chỉ ở chổ bịnh dược . Cái ý của Độc bộ là nói : "Có bịnh chưa đủ là hại, được thuốc cứu không trở ngại cho cái quý của nó , há có phải thực sự lấy bịnh cho là qúy đâu".

Thái cường, thái nhược đều là bịnh , phù nó ức nó là dược. Tác dụng của phù ức đã luận rõ ở trên rồi. Đây chỉ nói cái Dụng của bịnh và Dược.
Là nguyên cục có dụng thần thích hợp nhu yếu mà bị Can khác ức chế khiến cho nó thành bịnh. Chẳng thể dụng cái thần nhu yếu mà cần khử đi cái thần gây bịnh làm dụng thì nó làm được.

Như hạ Mộc hỷ Ấn , nguyên cục kiến Nhâm Qúy cực hợp nhu yếu của hạ Mộc không như biệt can thấu Mậu. Cái Mậu thổ nầy là bịnh thần cho nên chẳng thể lấy Nhâm thủy làm dụng mà cần phải lấy Giáp Mộc có khả năng khử Mậu thổ làm dụng. Giáp mộc bèn là dược vậy . Có Giáp chế Mậu , Nhâm Qúy mới hiển được cái công nhuận trạch.

Cách dược khử bịnh nầy, nguyên cục có nó chung thân hoạch phúc. Đại vận có nó thì trọn vận đó thâu hoạch được lợi ích. Như ví dụ:

Nhâm Tuất – Kỷ Dậu - Đinh Sửu - Giáp Thìn.

Đinh hỏa chiêu dụng tuy sinh Dậu nguyệt chẳng lấy suy kiệt làm kỵ. Nguyên cục có Ấn tương sinh, nguyệt lịnh Tài vượng sinh Quan là mệnh phú qúy song toàn. Không như Kỷ thổ xuất xuất can hổn trọc Nhâm thủy. Chỉ có thể thủ Giáp mộc chế Kỷ làm dụng mà chẳng thể lấy Tài quan làm dụng. Tốt ở chổ cách vị bất hợp đủ để tương chế Sửu Dậu hội cục , phú trong quý khinh.

Ví dụ 2.

Mậu Tý - Nhâm Tuất - Giáp Dần - Canh Ngọ.

Thu mộc khô điêu , Dần Ngọ Tuất hội hõa cục Mộc thành tro bay . Mộc khô hư , cần được Nhâm thủy phá hõa cục khả dĩ mới phú qúy được . Không như Mậu thổ xuất can chế thủy là bịnh tất cần Giáp mộc tỷ kiên khữ Mậu làm cứu . Nguyên cục vô Tỷ gọi là hữu bịnh vô dược . Hành Tỷ Kiếp vận khá tốt . Quá về sau gặp nhiều trở trệ là vì nguyên cục bịnh trọng vô dược cho nên Dụng thần thụ chế.

Sửa bởi G-R-E-E-N: 08/05/2011 - 17:37


#9 G-R-E-E-N

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 99 Bài viết:
  • 12 thanks

Gửi vào 08/05/2011 - 20:29

dinhvantan said:

Dụng Thần tức là những gì ẩn tàng trong tháng sinh. Nhật can phối hợp nguyệt lệnh mà thành thể tính; hợp với nhu yếu của thể tính là Dụng Thần.

case 1: Ấn chế Thực thuơng .
Đinh Dậu - Mậu Thân - Mậu Thân - Mậu Ngọ
Mậu thổ sinh ở Thân nguyệt lúc Canh kim bĩnh linh là khi
thu Kim tiết thổ, tử vượng mẫu suy, hỷ Ngọ cung Đinh hõa
xuất Can, lấy Đinh hõa chế Kim noãn thổ là cách Dụng thần
bội Ấn . Lấy thu thổ thể, hõa Ấn dụng . Thổ Kim thuơng
quan làm thể . Thực thần bội Ấn cùng Thuơng quan bội ấn
đồng nghĩa .

case 2: Tài tiết Thực thuơng .

Mậu Tuất - Kỷ Mùi - Bính Tý - Canh Dần
Bính sinh Mùi nguyệt, viêm y chưa lùi, khí thế Dần suy .
Thời gặp Dần trường sinh, niên chi Tuất mộ khố, ba chổ
thông quan cho nên không cho là nhược . Không như trụ
kiến bốn thổ, Thục thuơng thái trọng, Mậu Kỷ tinh thấu
hối hõa chi quang (che lấp ánh sáng), chuyên thủ một
niên, Canh kim tiết khí của thổ, đó gọi là Dụng thần mà
nhiều thì nên tiết mà không nên khắc ,
Tạo nầy lấy Hạ hõa làm thể . Hõa Thổ thuơng quan mà lấy
Canh Tài tiết thuơng làm Dụng .

Bình case 2: "Hỏa sinh thổ, nhưng thổ đa hỏa bị che lấp". Cứu nó chỉ có cách "dùng mộc chế thổ đồng thời để sinh hỏa, hoặc dùng kim tiết thổ . Không dùng hỏa để trợ ".
Thân nhược Thực Thương nhiều ắt Dụng Ấn làm DT. Nhưng ngặt nỗi lệnh tháng không có Ấn. bởi vậy mới dụng Tài

Đúng là ”dụng thần tài tinh không nên gặp kiếp tài, dụng thần quan tinh không nên gặp thương quan, dụng thần ấn tinh không nên gặp tài, dụng thần thương thực không nên gặp kiêu”, bốn câu trên thật chí lý, cốt yếu ở một chử “dụng”.
Người học mệnh không hiểu biết, không nghiên cứu căn nguyên cho tường tận, chuyên lấy tài quan làm trọng, mà không biết rắng: ”chẳng dụng tài tinh có thể dụng kiếp, chẳng dụng quan tinh có thể dụng thương quan, chẳng dụng ấn tinh có thể dụng tài, chẳng dụng thương thực có thể dụng kiêu”.
TRÍCH THIÊN TỦY


Tiền bối nào có cuốn BÁT TỰ KHÍ SỐ của QUANG LIÊN CƯ SĨ thì cho Green chép với

Sửa bởi G-R-E-E-N: 08/05/2011 - 20:47







Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |