Jump to content

Advertisements




Con người Tiểu Thiên Địa, Kỳ Kinh Bát mạch...


2 replies to this topic

#1 minhduc

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 587 Bài viết:
  • 946 thanks

Gửi vào 31/03/2012 - 22:22

Nguồn: Tinh Hoa Các Đạo Giáo - Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ.


Hai chữ Thân Học thực ra không phải là chữ mới mẻ. Nó được rút ra từ quyển Huỳnh Đình Ngoại Cảnh do Tung Ẩn Tử chú, xuất bản năm 1793, nơi quyển Thượng, tr. 15a.

Chương này có mục đích trình bày tách bạch về con người, về cơ thể con người, để hiểu rành về con người, như vậy mới hiểu được cung cách tu luyện của đạo Lão.

Thất Chân Nhân Quả nơi đầu chương II, có thơ:


Liễu ngộ do như dạ đắc đăng,


了 悟 猶 如 夜 得 燈


Vô song, ám thất, hốt quang minh


無 窗 暗 室 忽 光 明


Thử thân bất hướng kim sinh độ,


此 身 不 向 今 生 渡


Tiện hướng hà thời độ thử thân?


便 向 何 時 渡 此 身



Dịch:

Ngộ rồi, như tối có ngọn đèn,

Nhà tuy không cửa, sáng chưng lên,

Thân này, chẳng tính kiếp này độ,

Đợi đến kiếp nào, độ cho nên?

NHÂN THÂN TIỂU THIÊN ĐỊA.

Đạo lão cho rằng con ngưỡi là tiểu thiên địa. Tiên Học Từ Điển nơi chữ Nhân, Thiên có viết:

“Nhân thân là 1 tiểu thiên địa. Trên trời, những vì tinh tú có thể đếm được là 84.000. Nhân thân có 84.000 ngàn lỗ chân lông.


Trời đất cách nhau 84.000 dặm, Tâm Thận cách nhau 8 tấc 4 phân.

Trời đất lấy 12 tháng làm 1 năm, nhân thân lấy 12 kinh làm 1 vòng.

Trời đất có Lục Khí, nhân thân có Lục Phủ.

Trời đất có Ngũ Hành, nhân thân có Ngũ Tạng.

Trời đất có Nhật Nguyệt, nhân thân có 2 mắt.

Trời đất có Gió Mây. Khí Gió Mây 1 ngày, 1 đêm lên xuống 25.500 độ. Nhân thân có khí Hô Hấp, Thổ Nạp, một ngày, một đêm tiến xuất 25.500 lần. Mỗi phút có 16 tức (hô+hấp), 24 giờ có 1440 phút. Như vậy 1 ngày, 1 đêm có 23.040 tức.

Trời đất có Thiên Hà tiếp Hoàng Hà. Con người có Thiên Căn (Nê Hoàn) tiếp Địa hộ (Hội Âm= Vĩ Lư).

Trời đất có Mây, Mưa, Nhân Thân có Khí, Dịch.


Nguyên Hoà Tử cho rằng: Nhân Thân đại để đồng Thiên địa.



Chính vì thế mà Trời đất có Tam Thanh: Ngọc Thanh, Thượng Thanh, Thái Thanh, thì trong con người cũng có Tam Đơn:


-Nê Hoàn hay Thượng Đơn Điền là Ngọc Thanh Cung.

-Giáng Cung hay Trung Đơn Điền là Thượng Thanh Cung.

-Khí Hải là Hạ Đơn Điền hay Thái Thanh Cung.



Trời có 9 cung, thì đầu con người cũng có 9 cung.

Trời có Thiên Môn, thì trong con người Nê Hoàn là Thiên Môn.



Nhập Dược Kính có thơ:


Nê Hoàn nhất khiếu đạt Thiên môn.
泥 丸一 竅 達 天 門
Trực Thượng Hư Hoàng Ngọc Đế Tôn.
直 上 虛 皇 玉 帝 尊
Thử thị Chân Nhân lai vãng lộ,
此 是 真 人 來 往 路
Thời thời khoá hạc khứ triều nguyên.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


時 時 跨 鶴 去 朝 元

Dịch:

Nê Hoàn một khiếu đạt Thiên Môn,

Thẳng tới Hư Hoàng Ngọc Đế Tôn.

Ấy chính Chân Nhân lai vãng lộ,

Cưỡi hạc băng chừng hướng phản hoàn. .


Trời có Bắc Đẩu Thất Tinh (Thiên Cương):

1. Dublé : Khu Tinh, Khôi Tinh, Tham Lang,

2. Merak : Tuyền Tinh, Cự Môn.

3. Phecda : Ky Tinh, Lộc Tồn.

4. Megrez : Quyền Tinh, Văn Khúc.

5. Alioth : Hành Tinh, Liêm Trinh.

6. Mizar: Khai Dương, Vũ Khúc.

7. Alkaid: Giao Quang, Phá Quân.


Bốn sao trên hợp lại là Khôi; ba sao dưới hợp là là Cương (Tiêu), hay Đẩu Bính (Chuôi sao Bắc Đẩu)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.


Ứng với Bắc Đẩu Thất Tinh, thì nơi con người có Thất Khiếu: 2 mắt, 2 tai, hai lỗ mũi, 1 mồm. Thất Khiếu còn được gọi là Thất Nguyên, hay Thất Khổng.


Trên trời có Tử Vi Viên là Hậu Cung hay Hậu Tẩm của Thiên Hoàng Thượng Đế. Trong con người có Nê Hoàn, Động Phòng ở trung điểm đầu não.


Ở trên trời có Thái Vi Viên . Thái Vi Viên là Minh Đường, là Thiên Đình, là nơi Thượng Đế ra thiết triều, thì nơi con người Trán cũng được gọi là Thiên Đình. Từ Trán vào 1 tấc là cung Minh Đường.


Trên Trời có Nhật, Nguyệt, Ngũ Tinh:

-Nhật = Thái Dương, Kim Ô.

-Nguyệt = Thiềm Thừ, Ngọc Thố, Thiềm Cung, Quảng Hàn, Hằng Nga.

-Hoả Tinh (Mars) = Huỳnh Hoặc, Phạt tinh, Vân Hán, Chấp Pháp, Thiên chi Sứ. Chu Kỳ: 2 năm.

-Kim Tinh (Venus) = Khải minh, Sao Mai, Trường Canh hay Sao Hôm, Huỳnh Tinh hay Thái Bạch. Chu Kỳ: 1 năm.

-Thuỷ Tinh (Mercure)= Thần Tinh, Tiểu Chính, Thuỷ Diệu. Chu Kỳ: 1 năm.

-Mộc Tinh (Jupiter)= Tuế Tinh, Trùng Hoa, Kỷ Tinh, Mộc Đức. Chu Kỳ: 12 năm.

-Thổ Tinh (Saturne) = Trấn Tinh, Thổ Tú. Chu Kỳ: 28 năm.


Nơi con người:


Mắt trái là Thái Dương, Nhật .

Mắt phải là Thái Âm, Nguyệt.

Trán là Hoả Tinh.

Mũi là Thổ Tinh.

Tai trái là Mộc Tinh.

Tai phải là Kim Tinh.

Mồm là Thuỷ Tinh.



Trên Trời có vòng Hoàng Đạo. Trên vòng Hoàng Đao đó có 28 cung sao gọi là Nhị Thập Bát Tú (Cũng ví như 28 cột Kilomet, để chỉ xem Nhật, Nguyêt, Ngũ Tinh đang di chuyển ở chổ nào trên đường Hoàng Đạo.)

Nhị Thập Bát Tú có 28 vì sao chia thành 4 chòm Thanh Long (chòm 7 sao phía Đông, Chu Tước (chòm 7 sao phía Nam), Bạch Hổ (chòm 7 sao phía Tây), Huyền Võ (chòm 7 sao phía Bắc), và có tên như sau:



Chòm sao Thanh Long


Chòm sao Huyền Vũ


Chòm sao Bạch Hổ.


Chòm sao Chu Tước


Ngày Thứ


Trong tuần








Ngũ Hành, Nhật+Nguyệt


7 sao phía đông


7 sao phía Bắc


7 sao phía Tây.


7 sao phía Nam


Ngày Thứ


Mộc


Giác M. Giao


Đẩu-M-Giải


Khuê-M-Lang


Tỉnh-M-Cang


5


Kim


Cang-K-Long


Ngưu -K-Ngưu


Lâu-K-Cẩu.


Quỉ-K-Dương


6


Thổ


Đê -T-Lạc


Nữ -T-Bức.


Vị-T--Trĩ


Liễu-T-Chương


7


Nhật


Phòng-N-Thố


Hư-N-Thử


Mão-N-Kê


Tinh-N-Mã


Chủ Nhật


Nguyệt


Tâm-N-Hồ


Nguy-N-Yến


Tất-N-Ô


Trương-N-Lộc


2


Hoả


Vĩ -H-Hổ


Thất-H-Trư


Chuỷ-H-Hầu


Dực-H-Xà


3


Thuỷ


Cơ -T-Báo


Bích-T-Du


Sâm-T-Viên


Chẩn-T-Dẫn.


4



Bị Chú: 28 con thú trong 28 tú cũng dựa vào 12 con giáp và những con thú tương tự theo thứ tự sau đây:

Giao (le crocodile), Long (le dragon); Lạc ( le hérisson, Con nhím), Thố (le lièvre) Hồ (le renard), Hổ (le tigre); Báo (le léopard), Giải ( le licorne, Con Kỳ Lân, con giải trại); Ngưu (le boeuf), Bức ( la chauve-souris); Thử (le rat)û, Yến (l’hirondelle); Trư (le porc), Du ( le pangolin, Con Tê Tê); Lang (le loup, Chó Sói), Cẩu (le chien); Trĩ (le faisan), Kê (le coq; Ô (la corneille), Hầu (le grand singe); Viên (le petit singe), Cang (le chien sauvage, Chó rừng); Dương (le bélier), Chương (le grand cerf, loại Hươu lớn); Mã (le cheval), Lộc (le petit cerf); Xà (le Serpent), Dẫn ( le ver-de-terre, Con Giun). Sách Tam

Nguyên Đại Lược của Lê Văn Nhàn, nơi trang 56 cho nhiều tên khác với bảng này, nhưng tôi không theo. Bảng của tôi theo Gustave Schlegel. Theo tôi, ai thích gọi gì, thì gọi. Không nên cố chấp.


Nhị thập bát tú là: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ. Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích. Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chuỷ, Sâm. Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Chương, Dực, Chẩn. QuyểnUranographie Chinoise cuả Gustave Schlegel, T. 1, từ tr. 583 đến tr. 595, có đề cập đến 28 con thú cuả Nhị Thập Bát Tú.

Nhìn vào đồ bản trên, sau chữ Giác chẳng hạn, có viết tắt chữ M= Mộc. Các chữ viết tắt khác là K= Kim, T= Thổ, N= Nhật, N= Nguyệt, H=Hoả, T=Thuỷ . Trông vào bảng trên, ta thấy bao giờ các Sao Phòng, Hư Mão, Tinh cũng vào Chủ Nhật. Các ngày có sao: Giác, Đẩu, Khuê, Tỉnh cũng là thứ 5 v.v..

Ở nơi con người, thì 2 mạch Nhâm, Đốc hợp lại thành vòng Hoàng Đạo, và Nhị Thập Bát Tú cũng ở trên 2 mạch đó. Ở nơi quyển Sao Kiểu Động Chương, quyển Hạ, trong 8a, có một đồ hình vẽ con người với Nhị Thập Bát Tú rải rắc trên 2 mạch Nhâm, Đốc. Ví dụ: Nơi Hội Âm là 2 sao Hư Nguy. nơi Vĩ Lư là sao Ngưu Đẩu. Nơi Giáp Tích là Đê, Phòng, Tâm, nơi đỉnh đầu là Liễu, Tinh, Trương; nơi trán là Tỉnh, Quỉ; nơi ngực là Chuỷ Sâm; nơi Tỳ là Vị, Mão, Tất; nơi Hạ Đơn Điền là Khuê, Lâu v.v...


Đằng khác, trong con ngưới cũng có Ngũ Nhạc:

-Nam Nhạc: Hành Sơn là Trán.

-Trung Nhạc: Tung Sơn là Mũi.

-Đông Nhạc: Thái Sơn là Má trái.

-Tây Nhạc: Hoa Sơn là Má phải.

-Bắc Nhạc: Hằng Sơn là Cằm.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Con người có Tứ Độc (Bốn sông ):

-Tai là Giang (sông Giang).

-Miệng là Hoài (sông Hoài).

-Mắt là Hà (sông Hà)

-Mũi là Tể. (sông Tể)

-Đốc Mạch được gọi là Hoàng Hà.

-Nhâm Mạch là Tào Khê.


Trong con người cũng không thiếu gì biền: Khí Hải, Tuỷ Hải, Huyết Hải; suối: Dũng Tuyền;hang động: Thiên Cốc, Cốc Thần, Tiến Cốc; ao: Ngọc trì, Thiên Trì; giếng: Kiên Tỉnh; ngòi lạch: Hậu Khê, Thiếu Trạch, Thuỷ Cấu; đống, gò: Thương Khưu, Lương Khưu v.v...

Quan niệm Tam Tài về con người.



Đạo Lão quan niệm con người có 3 phần chính: Đó là: TINH, KHÍ, THẦN.

Có khi TINH, KHÍ, THẦN còn được gọi bằnh danh từ khác là: THÂN, TÂM, Ý.


Đạo Lão gọi THÂN, TÂM, Ý là TAM THỂ hay TAM BẢO.

Tiên Học Từ Điển nơi câu THÂN, TÂM, Ý TAM THỂ viết: Tinh thì sinh ở Thân, Khí thì tàng ở Tim, Thần thì ẩn trong Ý.


Thân mà bất động thời TINH hoá.

Tâm mà bất động thời KHÍ hoá.

Ý mà bất động thời THẦN hoá.

NÃO BỘ VÀ NÊ HOÀN.

Khảo về Đạo Lão, ta thấy các Đạo Gia rất chú trọng đến óc não, đến Nê Hoàn.

Trong quyển Huỳnh Đình Kinh chú giải, tôi đã bàn rất nhiều về Nê Hoàn Cung và Não Bộ. Hôm nay, tôi chỉ tóm lại vắn tắt rằng:

Nê Hoàn chính là Thiên Tâm, nơi Thượng Đế ngự trị trong con người. Đó chính là nơi mà con người có thể siêu thăng, có thể hợp nhất với Thượng Đế.


Trong quyển Tham Đồng Khế phát huy, Toàn Dương Tử, Duy Diễm, khi bình về câu: Chân nhân tiềm thâm uyên, phù du thủ qui trung, đã viết:

Chân nhân là Chân Thần, Thâm Uyên là Thái Uyên, là Nê Hoàn Cung.


Có điều đáng chú ý là các Đạo Gia Ấn Độ cũng chủ trương y thức như vậy. Họ gọi Nê Hoàn Cung là Sahasrara Chakra (Bông Hoa Sen nghìn cánh). Và cho rằng, nơi Liên Hoa Tâm đó, người Đạo Sĩ có thể kết hợp với Thượng Đế.


Óc não cũng chiếm một địa vị rất quan trọng trong Đạo Lão.

Các Đạo Gia thường nói: Hoàn tinh, bổ não.

Các Đạo Gia hiện đại, dựa vào khoa học ngày nay mà suy thêm rằng: Gian Não (Diencéphale) nếu suy, thì con người sẽ già đi. Cho nên tu luyện cốt là bồi bổ Gian Não, cho con người CẢI LÃO HOÀN ĐỒNG.

Tiên học diệu tuyển, nơi trang 197 viết:


“ Phép dưỡng sinh là tiềm thần nội thị, cho khí ngũ tạng tụ về Đan Điền. Từ Đan Điền, khí được huấn tập, vào trong giữa Não. Não được gọi là Côn Lôn, ở trên tượng Trời. Bổ Thiên tức là Bổ Não, theo Huỳnh Đình Kinh. Cho nên Huỳnh Đình Ngoại Cảnh viết: Tử dục bất tử tu Côn Lôn, chính là vì vậy.


Tĩnh Trung Ngâm có câu: “Ngã tu Côn Lôn đắc Chân quyết.”

Phục Mệnh Thiên có câu:

“Hồi hướng ngã gia viên lý,

Tài bồi nhất mẫu Thiên Điền.”

Dịch:

Nhà xưa, vườn cũ quay về,

Thiên Điền một mẫu, lo bề chăm nom...

Hoàn Nguyên Thiên có câu:

Ngộ Đạo hiển nhiên minh khuếch lạc,

Nhàn nhàn đoan toạ, vận Thiên Quan.

Dịch:

Ngộ Đạo dĩ nhiên tường đoan đích,

Thung dung ngồi thẳng vận Thiên Quan.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ngày nay, thế giới có lập ra nhiều viện nghiên cứu về Não Bộ. Liên Hiệp Quốc cũng có Tổ Chức Nghiên Cứu Não Bộ Quốc Tế (International Brain Research Organisation, IBRO). Mong rằng các tổ chức này sẽ phối hợp với các Đạo Gia, để chứng minh tầm quan trọng của Gian Não (Diencéphale), của Nê Hoàn (troisième Ventricule), và của các Xoang não (Ventricules)

TAM ĐAN ĐIỀN .

Đạo Lão chủ trương nơi con người có Tam Đan Điền: Thượng Đan Điền, Trung Đan Điền, Hạ Đan Điền.

Thượng Đan Điền thì mọi người đều công nhận là Nê Hoàn. Còn Trung Đan Điền và Hạ Đan Điền thì từ danh xưng, đến vị trí đều thay đổi tuỳ theo các Đạo Sĩ.

Tầm quan trọng của Tam Đan Điền cũng vậy. Người thì cho Thượng Đan Điền là Nhất, người thì cho Hạ Đan Điền là Nhất.

Nơi đây ta sẽ bàn kỹ lại vị trí của Tam Đan Điền.

Thượng Đan Điền hay Nê Hoàn Cung:

Là nơi Luyện Thần Hoàn Hư.

Tính Mệnh Khuê Chỉ viết:

Hồn Bách Linh ư Thiên Cốc,

Lý ngũ khí ư Nê Hoàn.



Còn có những câu thông thường như: Tam hoa qui đỉnh, Ngũ khí triều nguyên tưởng đã đủ để nói lên tầm quan trọng vô song của Nê Hoàn.

Trung Đan Điền.

a-Nơi khoảng giữa 2 huyệt Chiên Trung. Tương ứng vơí Plexus cardiaque.

b-Ngay dưới tim.

c-Giáng cung. Sách Trúc Cơ Tham chủng, nơi tr. 89 coi Giáng Cung là Chấn Thủy.

-Nơi Chấn Thủy ( ngang Huyệt Trung Uyển), cũng còn gọi là Huỳnh Đình.

-Khoảng Tì (Tì Thổ trung ương chi vị)

-Giữa Tâm và Thận. Tức là cách Tim 3 tấc 6, cách Thận 3 tấc 6, còn Trung Đan Điền vuông vắn 1 tấc 2. Tổng cộng là 8 tấc 4. Tương ứng với khoảng cách giữa Trời và Đất. Khoảng này tương ứng vớí Plexus Solaire.



Hạ Đan Điền.

a-Nơi rốn.

b-Khoảng trống sau rốn và trước xương sống.

c-Dưới rốn 1 tấc 3 phân.

d-Dươí rốn 1 tấc rưỡi (Theo Châm Cứu).

e-Dưới rốn 2 tấc 4 phân (Bão Phác Tử)

g-Dưới rốn 3 tấc (Huỳnh Đình Nội Cảnh chương 3: Hoành Tân tam thốn Thần sở cư). Khoảng này tương ứng với Plexus Hypogastrique)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Theo Khoa Học ngày nay, thì các Trung Đan Điền, Hạ Đan Điền vì tương ứng vơí các Tùng Thần Kinh Tự Trị trong con người, nên có thể được coi như là những bình tụ điện (Batteries). Nếu nhờ vận khí, điều tức, mà biết tụ điện vào đó, rồi lại biết cách dẫn điện, dùng điện từ đó mà ra, thì sẽ khoẻ mạnh, sẽ chữa được bệnh cho người khác.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

HAI MẠCH NHÂM ĐỐC.

Đạo Lão chuyên chú vận khí.

Khi còn ở những giai đoạn thấp, người tu đạo chỉ biết hít thở thông thường, vận khí hô hấp thông thường, tụ khí vào Trung Đơn Điền, hay Hạ Đơn Điền. Lúc này, chỉ thở phàm khí mà thôi, qua phổi.

Nhưng tới mức Thượng Thừa, phải biết vận Chân Khí, hay Tiên Thiên Khí, qua hai mạch Nhâm Đốc. Khi đã biết vận Chân Khí qua 2 mạch Nhâm Đốc, thì phàm tức nơi phổi dần dần đình lại. Huỳnh Nguyên Kiết nói: Phàm tức đình, nhi Chân tức hiện.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Lúc ấy mới thật sự là Luyện Nội Đan.

Chính vì thế, mà hai mạch Nhâm Đốc được gọi là: Tu đan đạo lộ -Chu Thiên -Đan trình -Trường thành-CHÂN TỨC ĐẠO -Hà xa lộ -Vô tự kinh.


Mạch Đốc khởi từ huyệt Vĩ Lư, cuối xương sống, ăn thông qua tủy xương sống và Nê Hoàn, Bá Hội, vòng qua đỉng đầu và tận cùng nơi huyệt Ngân Giao (tức là nơi tiếp giáp phía trong môi trên và lợi trên.)


Mạch Nhâm khởi từ huyệt Thừa Tương, nơi chỗ lõm, phía môi dưới, chạy thẳng theo lằn giữa cổ, ngực, bụng, và tận cùng ở huyệt Hội Âm (giũa cốc đạo và Âm hành).

Mạch Đốc vận Chân Khí lên Nê Hoàn.

Mạch Nhâm vận Chân Khí từ Nê Hoàn xuống Hạ Đan Điền.


Mạch Đốc còn có những tên: Ngân Hà, Hoàng Hà, Hoàng Đạo, Hắc Đạo, Dương Đạo, Khí Lộ, Khí quản, Thiên Kinh.


Mạch Nhâm còn có những tên: Thủy cấu, Xích đạo, Thần Lộ, Hồng Khê, Tào Khê.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Hai mạch Nhâm Đốc như vậy không liền nhau: Trên thì hở nơi mồm, dưới thì hở nơi Giang Môn, cốc đạo. Nên lúc vận chân khí, phải đưa khoá lươĩ, nghĩa là đưa lưỡi lên cúa, gọi là Lập Thượng Thước Kiều, và khép chặt Giang Môn, gọi là Bắc Hạ Thước Kiều.


Tiền Tam Quan, Hậu Tam Quan. Đó là những quan ải đặt trên 2 mạch Nhâm, Đốc.

Tiền Tam Quan.

a. Thượng Quan: (nơi trán) Ấn Đường -Mi Tâm-Thiên mục -Thiên môn -Thiên Đình -Sơn căn -Hồn môn -Khuyết đình -Hoàng Khuyết -Thiên Thê -Kim Kiều-Thượng Thước Kiều.

b. Trung Quan: (nôi cồ họng, cuống họng): Trùng Lâu -Trùng đường -Trùng Hoàn -Hầu Lùng -Quan Âm.

c. Hạ Quan: (nơi tim) Giáng Cung -Tâm Điền -Tâm Cung-Giáng Thất -Chính Thất -Đan Điền-Xích Huyện -Linh Đài -Linh Thủ -Linh Khuyết -Linh Sơn Tháp -Thủ quan -Huyền Hương -Thủ Linh -Lư Gian -Ôn Khang.


Hậu Tam Quan.


a. Thượng Quan (nơi chỗ xương gồ sau ót): Ngọc Chẩm-Tú Đài -Thiết Bích -Ngọc Kinh Sơn -Thiên Cốc Quan.

b. Trung Quan (Khoảng đốt xương sống lưng, onzième dorsale): Giáp Tích -Song Quan -Tích Trung -Tích Du -Thiên Địa Quan-Lộc Lô Quan -Thượng Thiên Thê.

c. Hạ Quan (cuối xương cụt) Vĩ lư -Hàm Trì -Huyết Hải -Nhân Môn -Cấm Môn -Huyền Cốc -Trường Cốc -Trường Cường -Âm Đoan -Hội Dương -Quỉ Lộ -Cốc Đạo -Phách hộ -Đào Khang -Quyết Cốt -Tích Vĩ -Khí Khích -Quảng Hàn -Địa Dung -Địa Trục -Tam Xoá Khẩu -Bình Dị Lộ -Sinh Tử Quan -Thái Huyền Quan -Hà Xa Lộ -Tào Khê Lộ -Triều Thiên Đỉnh -Khí Hải Môn-Hạ Thước Kiều -Tàng Kim Đẩu -Tam xoá cốt -Cưủ trùng Thiết Cổ -Tam túc Kim Thiền -Âm Dương Biến Hoá chi hương.



LỤC PHỦ, NGŨ TẠNG.

Lục Phủ: Tam Tiêu (Thượng Tiêu, Trung Tiêu, Hạ Tiêu), Vị, Đại Trường, Tiểu Trường, Đởm, Bàng Quang.)

Ngũ Tạng: Tâm (tàng Thần), Phế (tàng Phách), Can (tàng Hồn), Tì (tàng Ý), Thận (tàng Trí).

Ngày nay, khi mà Khoa học đã thay Tim, cắt Gan, cắt Phôỉ, cắt Thận, thì thuyết trên ắt là đứng không vững. Trong quyển Huỳnh Đình Nội Cảnh bình giải của tôi, tôi đã chứng minh Thần, Hồn, Phách, Ý, Chí đều ở trong đầu não con người.

Thập nhị Kinh Lạc.

Trong con người có 12 Kinh 6 kinh Âm, 6 kinh Dương, 6 Kinh Thủ, 6 kinh Túc.

Ba Kinh Dương:

-Thái Dương.

-Thiếu Dương.

-Dương Minh.

Ba Kinh Âm:

-Thiếu Âm.

-Quyết Âm.

-Thái Âm.

(Ba kinh Dương xếp theo thứ tự từ Mạnh nhất đến Yếu nhất. Ba kinh Âm, xếp theo thứ tự từ Yếu nhất đến Mạnh nhất. Ta thấy hai kinh Âm Dương biểu lý với nhau bao giờ cũng theo định luật Dương Mạnh nhất đi vối Âm Yếu nhất, và ngược lại, còn Dương mạnh vừa thì đi cặp với Âm mạnh vừa, theo như đồ biêủ trên. 12 Kinh có tên như sau:


Âm



Dương



Thái Âm
xxx
Dương Minh
o
Quyết Âm
xx
Thiếu Dương
oo
Thiếu Âm
x
Thái Dương
ooo

Tên Kinh



Số Huyệt


Thịnh


Suy


Thủ Thái Âm Phế kinh


11


Dần


Mão


Thủ Dương Minh Đại Tràng Kinh.


20


Mão


Thìn


Túc Dương Minh Vị Kinh


45


Thìn


Tị


Túc Thái Âm Tì Kinh


21


Tị


Ngọ


Thủ Thiếu Âm Tâm Kinh


09


Ngọ


Mùi


Thủ Thái Dương Tiêủ Trường Kinh


19


Mùi


Thân


Túc Thái Dương Bàng Quang Kinh


67


Thân


Dậu


Túc Thiếu Âm Thận Kinh


27


Dậu


Tuất


Thủ Quyết Âm Tâm Bào Kinh


09


Tuất


Hợi


Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh


23


Hơị



Túc Thiếu Dương Đởm Kinh


44



Sửu


Túc Quyết Âm Can Kinh


14


Sửu


Dần



(Châm bổ Kinh, vào giờ Kinh thịnh, châm tả Kinh vào giờ Kinh suy. Muốn nhớ thứ tự 12 kinh, học thuộc lòng mấy câu sau: Phế, Đại, Vị, Tì, Tâm, Tiểu, Bàng, Thận, Bào, Tiêu, Đởm, Can.)

Muốn biết đường Kinh chạy ra sao, từ đâu đến đâu, ta có đồ bản sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



KỲ KINH BÁT MẠCH:

Kỳ Kinh bát mạch là Nhâm, Đốc, Dương Duy, Âm Duy, Dương Kiều, Âm Kiều, Xung mạch, Đới mạch.

Đạo Lão chỉ đề cập đến mạch Âm Kiều, và chỉ dùng Huyệt Hội Âm. Hai mạch Nhâm Đốc lại trở nên quan trọng vô cùng. Còn các mạch khác như Xung, Đới ít khi đề cập tới. Châm cứu mới chỉ vẽ tường tận Kỳ Kinh Bát Mạch.

Ít nhiều ngữ vựng Cơ Thể Học nên biết:

-Huyền ưng huyệt = Huyệt nước bọt nơi cổ họng.

-Thập nhị trùng lâu (hầu lùng) = Cuống họng, vừa thực quản, vừa khí quản.

-Ngọc Trì = Mồm.

-Ngọc Dịch, Lễ Tuyền, Ngọc Tân, Ngọc Tuyền, Đề Hồ, Tiên Tửu, Cam lộ, Kim Lễ= Nước bọt.

-Lưỡng mi gian = Khoảng giữa 2 làm mi.

-Sơn căn = Khoảng giữa 2 khoé mắt.

Bị Chú: Huỳnh Đình Kinh cho rằng đầu não, tạng phủ con người đều có thần ngự trị, cai quản. Đó cũng là một quan niệm đặc biệt cuả Đạo Lão.

Chương này dĩ nhiên không thể bàn thật kỹ lưỡng về Thân Học. Vả như ta đã thấy: Thân đây chỉ là Cơ Thể, chỉ mơí là ảo thân, là Căn Nhà. Còn Chân Nhân ngôi nhà mới là Chủ Nhân Ông. Học về xác thân, về căn nhà bên ngoài cốt là giúp cho ta tìm cho ra Chủ Nhân Ông.

Vậy có thơ rằng:

Tinh tinh nhất cá Chủ Nhân Ông,

Tịch nhiên bất động tại Linh Cung.

Đãn đắc thử trung vô quái ngại,

Thiên nhiên Bản Thể tự Hư Không.


Dịch:

Tỉnh tao một vị Chủ Nhân Ông,

Thanh Tĩnh Vô Vi tại Linh Cung.

Linh Cung thanh thản không vướng mắc,

Thiên Nhiên Bản Thể lộ chân dung.


Lại có thơ rằng:

Ngũ uẩn sơn đầu, nhất đoạn không,

Đồng môn xuất nhập, bất tương phùng.

Vô lượng kiếp lai, nhẫm ốc trú,

Đáo đầu bất thức Chủ Nhân Ông.


Dịch:

Đầu non ngũ uẩn 1 vừng không,

Vào ra cùng cửa, chẳng tương phùng,

Từ vô lượng kiếp, thuê nhà ở,

Mà nào, có biết Chủ Nhân Ông...


Chủ Nhân Ông là ai? Làm sao tìm ra được Chủ Nhân Ông?



Thanked by 1 Member:

#2 minhduc

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 587 Bài viết:
  • 946 thanks

Gửi vào 01/04/2012 - 16:39

1. Hệ Thống Kinh Lạc:


Kinh là đường dẫn khí huyết đi đến mọi chỗ trong cơ thể.
Lạc là những nhánh phân ra từ kinh, nối kết các kinh mạch với nhau.

Chữ Kinh theo người xưa có 1 ý nghĩa hết sức quan trọng. Chữ Kinh thuộc bộ Mịch ( ) có nghĩa là sợi tơ, như vậy, Kinh là những sợi tơ dệt theo chiều thẳng đứng, không đứt đoạn. Người xưa ví Kinh giống như mạch nước trong lòng đất (địa trung thủy mạch).

* Thiên 'Hải Luận' ghi: "Thập nhị Kinh Mạch, bên trong thuộc vào Tạng Phủ, bên ngoài lạc với tứ chi và cốt tiết..."

* Thiên 'Kinh Biệt' ghi: "Thập nhị Kinh Mạch là nơi con người dựa vào để sống, nơi mà bệnh dựa vào để thành, nơi mà con người dựa vào để trị, nơi mà bệnh dựa vào để khởi lên. Cái học về y bắt nguồn từ đây, sự khéo léo của thầy thuốc phải đạt đến".

Giáo sư M. Rouvière, giáo sư nổi tiếng về giải phẫu của trường đại học y khoa Paris, đã có lần chủ trì để nhà giải phẫu Perreti Della Rocca mổ xác chết để xem các đường kinh có tồn tại thực không. Sau đó, Rouvière đã tuyên bố thẳng thừng là hệ kinh lạc là 'sản phẩm' của trí tưởng tượng Đông phương chứ trong thực tế không có trong cơ thể.

đầu năm 1986, tại Pháp, bác sĩ Jean Claude Barras và các nhà nghiên cứu viện y học Neker, đã chụp được các đường kinh lạc bằng 1 máy điện tử đặc biệt. Các nhà y học tiêm vào 1 số huyệt 1 dung dịch chứa Tecnetic (1 chất hoá học có tính phóng xạ). Máy ảnh bắt được những tia Gamma phát ra từ chất này. Qua đó người ta thấy: sau khi tiêm vào các huyệt dung dịch chứa chất Tecnetic trên đã lan toả theo những kinh, phần nào trùng hợp với những đường kinh được mô tả trong các sách châm cứu xưa. Ngược lại, nếu tiêm vào 1 điểm (huyệt) khác trên cơ thể thì dung dịch chỉ tụ lại 1 chỗ, không hề lan toả. Đáng chú ý là các nhà y học đã xác định được rằng các kinh châm cứu chụp ảnh được hoàn toàn không tương ứng với đường đi của các mạch máu, đường gân hoặc đường dây thần kinh. theo các nhà y học này thì đó là các 'Kinh chức năng' chạy theo những đường mà cho đến nay khoa học chưa hề biết.

Năm 1972, tại Hội Nghị Châm Cứu Địa Trung Hải, Darras (Pháp) cho rằng hệ kinh lạc là những giải nước iôn hoá, các đường iôn hoá bao phủ khắp cơ thể đã tạo nên 1 hệ tự điều chỉnh. Vì thế, sự can thiệp của thầy thuốc lên huyệt châm cứu có thể có khả năng có tác dụng và hiệu lực hoá khi có 1 rối loạn chức năng xảy ra cho hệ kinh lạc.


Hiện nay, hầu hết các sách giáo khoa về Châm Cứu đều thống nhất về hệ thống Châm Cứu bao gồm:
12 kinh Chính. 12 kinh Cân.
12 Kinh Biệt. 15 Lạc Mạch.
Bát Mạch Kỳ Kinh. Các mạch máu.
Huyệt (Chủ yếu là 365 Kinh Huyệt, chứ không gồm Kỳ Huyệt và Tân Huyệt).
BẢNG TÓM TẮT HỆ THỐNG KINH LẠC MẠCH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi minhduc: 01/04/2012 - 16:48


Thanked by 1 Member:

#3 minhduc

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 587 Bài viết:
  • 946 thanks

Gửi vào 05/04/2012 - 08:05

Qi Gong For Academic Excellence

The qi gong for academic excellence, as the name implies, helps to enhance intelligence. This exercise is very invaluable.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



1. Sit comfortably with your legs firmly on the floor and your back upright. 2. Place your left palm about two inches in front of your zhongji vital point (about midway between your navel, and your genitals).
3. Place your right palm about two inches in front of your left nipple. Make sure that your shoulders and elbows are relaxed.
4. Breathe naturally. Silently count your inhalations 120 times. Simultaneously visualize a warm, glowing light flowing from your huiyin vital point (at your anus) to your baihui vital point (at the crown of your head).
5. Silently count your exhalations, also 120 times. Visualize qi flowing out of your yuzhen vital point (the mid-point between your ears at the back of your head). The breathing should be slow, gentle and long. Also visualize light from your palm shining on your heart.
6. After counting the inhalations and exhalations 120 times each, gently place your left hand over your baihui, and slowly rotate it in an anticlockwise direction forty-nine times. Visualize qi being drawn back from the baihui.
7. Gently bring your left hand from your head down your body to your abdomen, bringing qi from baihui to qihai (about two or three inches below the navel).
8. Place your left hand about two inches above qihai, and your right hand on your left; and visualize qi focusing at this energy field at the abdomen.
9. Complete the exercise with facial massage followed by brisk walking.
If you are a parent and you want your children to excel academically then qi gong can provide the means. If you are a student yourself, with your intellect open, you can not only expect your performance to improve, but you can reasonably aim for academic excellence.






Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |