Jump to content




Advertisements




VÕ BÙA TÁI XUẤT GIANG HỒ?


12 replies to this topic

#1

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 07/03/2012 - 12:03

Vào đầu những năm tám mươi của thế kỷ trước, làng võ Việt xôn xao bởi sự xuất hiện của một phái võ kỳ lạ, gọi là võ bùa hay thần quyền. Người theo môn võ ấy không cần luyện tập quyền cước mà chỉ cần thổi hương, uống bùa, gọi thần chú là có sức mạnh muôn người khôn địch...

Bởi cách thức có phần thần bí đó mà nhiều môn phái khác đã tìm các lò dạy võ bùa để tìm hiểu thực hư, phân tài cao thấp. Sự truy sát ấy, cùng nhiều lý do khác nữa nên chỉ ít thời gian sau, võ bùa phải lui vào ẩn dật.

Gần đây, trước sự nở rộ trở lại của phong trào học võ, lại có lời đồn võ bùa đang tái xuất giang hồ. Chúng tôi đã đi tìm hiểu thực hư xung quanh môn võ này.

Cao nhân ẩn tích

Sau màn ra mắt vào những năm tám mươi của thế kỷ trước, võ bùa bỗng dưng mất hút một cách khó hiểu trên chốn giang hồ. Không ai biết đệ tử của võ bùa ở đâu, hiện đang sống như thế nào, còn lao tâm khổ tứ tập luyện hay không?

Gần đây, một lần lang thang trên mạng, tôi tình cờ đọc được thông tin của một môn sinh chánh phái nói rằng, trước đây có hai cao thủ phái Thất Sơn đem võ bùa về dạy ở Hà Nội và chính họ là những sư phụ đầu tiên của môn phái ở đất Kinh kỳ. Thông tin trên mơ hồ, chỉ nói người thứ nhất tên Thành, làng võ vẫn gọi là Thành "vuông", người thứ hai tên là Chín, giang hồ gọi là Chín "cụt".

Liên hệ với một số cao thủ võ lâm ngoài Bắc thì được biết, Thành "vuông" tên đầy đủ là Nguyễn Văn Thành, từng sống ở khu vực Ô Chợ Dừa, Hà Nội, giờ đã qua Nga lập nghiệp. Người thứ hai là Chín "cụt", tên đầy đủ là Ngô Xuân Chín, là thương binh, hiện không biết phiêu dạt phương nào.

Thông tin trên làm tôi nhớ lại lần trò chuyện với võ sư Chu Há, Chủ nhiệm võ đường Hồng Gia. Võ sư Há cho biết, thủa trước, Chín có tham gia một số phong trào thể thao của người khuyết tật và ngay từ buổi đầu tiên ấy, Chín cùng đệ tử đã từng dùng võ bùa để giành huy chương vàng một hội khỏe năm 1986.

Nhờ manh mối này, tôi vội tìm đến ông Vũ Thế Phiệt, Tổng Thư ký Hiệp hội Thể thao người khuyết tật Việt Nam. Từ số điện thoại ông Phiệt cho, tôi đã tìm được cao nhân ẩn tích bấy lâu nay - ông Chín.

Phận duyên tiền định

Vợ chồng ông Xuân Chín hiện đang sống ở một khu đô thị yên ả trên đường Lạc Long Quân, Hà Nội. Trò chuyện, Xuân Chín bảo, Thất Sơn thần quyền với ông như có duyên trời định.

Thời trai trẻ, Chín là lính trinh sát đóng quân ở tỉnh biên giới Cao Bằng. Khi còn ở quê nhà, bởi hiếu động nên Chín từng theo đám trai làng lăn lộn học quyền cước của mấy võ sư vườn, cũng lận lưng dăm ba miếng phòng thân. Bởi thế, khi hay tin trong trung đoàn có một đồng đội thường diễu quyền, phóng cước sau khi xong xuôi việc nhà binh, Chín muốn tìm đến xem mặt mũi thế nào và nhân thể thử tài luôn để phân cao thấp.

Sau nhiều lần hò hẹn, "thằng cha" đó cũng nhận lời thách đấu. Thế nhưng sau hai lần tỷ thí, Chín đều thua không kịp vuốt mặt. Chín đấm, đá cật lực mà cứ như đánh vào bị bông, đối thủ chẳng hề đổi thay sắc mặt. Đánh nhiều đuối sức, chùn tay, nên đành phải xin thua.

Từ sau trận quyết đấu đó, hai người trở thành bạn. Lúc này Chín mới biết người kia theo học Thần quyền của phái Thất Sơn, từ một sư phụ ở quê nhà, xã Văn Khúc, huyện Sông Thao, tỉnh Phú Thọ. Những câu chuyện mà người bạn kể về môn phái lạ lùng đã khiến Chín mê mệt. Anh ước ao có ngày được về quê bạn bái vị sư phụ ấy làm thầy.

Và rồi cái ngày anh mong mỏi ấy cũng đến. Được sự giới thiệu, ngay đêm hôm ấy, anh đã được diện kiến kỳ nhân. Người ấy là danh sư Nguyễn Văn Lộc, một nông dân chân chất, cũng chỉ hơn anh cỡ trên chục tuổi.

Thế nhưng hôm ấy, ý nguyện, mơ ước của anh đã không thành. Dù đã cố nài nỉ hết nước hết cái nhưng vị danh sư ấy vẫn không chịu thu nạp Chín làm đệ tử. Tuy mưu sự không thành nhưng anh vẫn không thôi hy vọng của mình.

Chừng tháng sau, anh lại tay nải từ Cao Bằng tìm về Phú Thọ. Lần này, thứ mà anh nhận được vẫn chỉ là những cái lắc đầu. Thế rồi, một lần năm 1981, lúc đi làm nhiệm vụ, anh bị thương phải cắt bỏ hoàn toàn chân phải. Khi vết thương liền da, nhớ miền quê Văn Khúc và ông thầy võ... khó tính, anh lại lóc cóc tìm về.

Đi cùng anh lần này có cả Thành "vuông", một chàng trai Hà Nội, nghe tiếng vị sư phụ kỳ lạ mà háo hức muốn được tỏ tường. Gặp mặt, vị danh sư nói thẳng thừng:

- Anh lành lặn tôi còn không nhận, huống chi nay đã là người tàn phế! Anh không học võ được đâu!

Câu nói đó đã làm ruột gan Chín quặn thắt. Đau hơn khi bạn đồng hành với anh, Thành "vuông", lại được sư phụ thu nạp.

Uất ức, trước khi ra về anh... thề:

- Sư phụ nhận tôi thì sáu tháng tôi xuống một lần! Không nhận thì tháng nào tôi cũng xuống!

Tháng sau, một mình, anh xuống thật. Lần này, thấy anh lóc cóc chống nạng vượt quãng đường hơn mười lăm cây số, vị danh sư đã động lòng trắc ẩn. Ông đã đồng ý truyền võ cho anh nhưng với điều kiện chờ ngày tốt, về Bắc Giang ông mới dạy.



#2

SONGHI



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 143 Bài viết:
  • 80 thanks

 

Gửi vào 07/03/2012 - 13:09

Xin kể tiếp câu chuyện mang tính huyền thoại mà như có thực..

#3

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 07/03/2012 - 21:35

Võ phái kỳ lạ

Ngày tốt ấy là ngày 9-10-1984. Đã hẹn trước, anh Chín có mặt tại nhà một người quen của sư phụ ở làng Mỹ Độ, sát thị xã Bắc Giang. Đến được ít phút thì sư phụ anh cũng xuất hiện. Ngay chiều hôm ấy, anh đã thành người của phái Thất Sơn. Cũng ngay ngày hôm ấy, anh mới tường tận về môn phái của mình.

Theo lời thầy Lộc thì thủ phủ của Thất Sơn thần quyền nằm ở Huế, do tông sư Nguyễn Văn Cảo nắm quyền chưởng môn. Sáng tổ Nguyễn Văn Cảo học thần quyền từ một vị cao tăng người Ấn Độ. Cao tăng lưu lạc sang Việt Nam từ khi nào thì đến giờ vẫn không ai biết rõ. Tới Việt Nam, ông chọn vùng Bảy Núi, An Giang làm chốn tu hành. (Có lẽ bởi bậc thánh nhân tu luyện nơi non thiêng này nên thầy Cảo đã đặt tên môn phái của mình là Thất Sơn).

Dựa trên những căn bản mà vị tu sĩ lạ lùng ấy truyền dạy, thầy Cảo đã truyền dạy thần quyền cho nhiều người khác. Thần quyền học nhanh, do vậy chỉ trong thời gian ngắn, ở Huế đã có rất nhiều người trở thành môn đồ của võ phái này.

Khi nhập môn, môn đồ của môn phái phải đứng trước ban thờ thề đủ chín điều (Càng học cao thì số lời thề càng tăng thêm và cao nhất là mười sáu điều). Sau đó, mỗi người sẽ được sư phụ mình phát cho hai lá bùa hộ thân, một vuông, một dài. Trên những lá bùa ấy có vẽ hình đạo sĩ ngồi thiền và những thông số, mật mã riêng của môn phái.

Trước khi truyền thụ những câu thần chú, bí kíp võ công của môn phái thì hai lá bùa ấy được đem đốt, lấy tro hoà vào nước cho người mới nhập môn... uống cạn. Thần chú của môn phái thì có rất nhiều, gồm chú gồng, chú xin quyền, chú chữa thương... Đã được truyền thần chú thì môn sinh cứ tự mình gọi chú mà xin sức mạnh, mà tập quyền cước.

Tuy thế, trước khi tập, người luyện thần quyền phải được sư phụ mình khai thông tất cả các huyệt đạo trên cơ thể. Việc ấy, các sư phụ của Thất Sơn thường làm bằng cách dùng nắm nhang đang nghi ngút khói thổi vào huyệt đạo của đệ tử. Với môn sinh là nam giới thì dùng bảy nén nhang thổi bảy lần vào mỗi huyệt đạo. Môn sinh là nữ thì dùng chín nén, thổi đúng chín lần.


#4

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 07/03/2012 - 21:37

Thần chú vào... võ công ra

Anh Chín kể, hôm ấy, xong nghi thức nhập môn, sư phụ Lộc đã kéo anh ra sân và chỉ trong vòng một giờ đồng hồ, ông đã truyền thụ xong xuôi cho anh lời chú xin quyền.

Theo lời của sư phụ Lộc, lời chú ấy anh không được phép tiết lộ cho bất kỳ ai nếu chưa được phép của những người đứng đầu môn phái. Truyền chú xong, sư phụ anh bảo, cứ nhẩm theo câu chú ấy mà luyện. Chú nhập đến đâu thì công phu tự khắc...ra đến đó.

Thấy thầy dạy mình quá nhanh, anh hết sức ngạc nhiên. Cứ nghĩ, có lẽ bởi gượng ép khi thu nạp nên thầy Lộc mới dạy anh một cách sơ sài đến vậy. Sau này, khi trình độ bản thân được nâng cao, anh mới biết, với anh cuộc truyền thụ kỹ năng cơ bản của môn phái như vậy là quá lâu.

Thường thì khi truyền chú cho đệ tử khác, thầy Lộc chỉ làm trong thời gian vỏn vẹn mười lăm phút là xong. Anh cũng vậy, khi được phép dạy đệ tử, anh cũng chỉ mất ngần ấy thời gian là đã...hết bài. Còn học như thế nào, luyện như thế nào, trình độ đạt đến đâu là cơ duyên của mỗi người chứ thầy không chỉ bảo được.

Ngay chiều hôm ấy, thầy Lộc đã kéo anh ra khoảng sân rộng, bắt đầu luyện tập quyền pháp. Trước khi tập, thầy lấy nắm nhang nghi ngút khói thổi vào tất cả những huyệt đạo trên cơ thể anh. Làm xong, thầy bảo anh nhẩm đọc chú để...gọi võ về. Thật ngạc nhiên, khi vừa đọc chú xong, anh bỗng thấy mình lâng lâng như người say rượu. Lúc thì thấy tay mình nhẹ bẫng, lúc thì thấy nặng như đang khuân cả khối sắt trăm cân.

Chín kể, khi đã nhập đồng, cứ thấy nhẹ bên tay nào là chưởng đánh ra tay ấy. Trạng thái không kiểm soát ấy đã khiến anh lúc thì lăn lộn trên đất, lúc thì nhảy tưng tưng trên không, lao đầu vào tường, vào bụi gai cũng không hề hay biết.



#5

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 07/03/2012 - 21:42

Tỷ thí tranh tài

Hết nghỉ phép, Xuân Chín về nơi an dưỡng. Vì đang chờ chế độ nên anh có nhiều cơ hội để luyện tập môn võ mà mình vừa được học. Cứ đêm đến, anh lại một mình chống nạng lên quả đồi ở gần đó luyện tập. Sáu tháng sau, anh quay lại Văn Khúc để thầy Lộc kiểm tra trình độ.

Sau bữa cơm chiều, thầy Lộc bảo ông sẽ không trực tiếp kiểm tra mà nhờ thầy cao tay hơn thẩm định. Vị ấy tên Cư, ở bến phà Tình Cương, cách nhà thầy Lộc chừng hai mươi lăm cây số. Thần quyền ở Văn Khúc chính là do ông Cư mang từ trong Huế ra truyền dạy.

Tối hôm đó, hai thầy trò đã đèo nhau đến nhà ông Cư. Biết Chín muốn thử trình độ của mình, ông Cư đã gọi hai đệ tử to như hộ pháp đến. Trước khi đánh, ông Cư giới thiệu, hai đệ tử của ông được gọi là những cây đấu của Thất Sơn. Những ai muốn khẳng định thương hiệu của riêng mình thì đều phải đánh với hai cây đấu ấy.

Ngay phút khởi động, một cây đấu đã táng thẳng vào mặt Chín cú thôi sơn khiến anh nổ đom đóm mắt. Nhưng ngay sau cú đánh ấy, anh thấy mình tự dưng lùi ra, quay hẳn lưng vào đối thủ. Chẳng cần để mắt động tác khó hiểu của anh, người tấn công lại ngay lập tức lao vào. Thế nhưng, vừa vào gần đến nơi thì bỗng nhiên tay phải Chín vung ra một cú đòn cực mạnh. Một tiếng “bốp” chát chúa vang lên, cây đấu ấy bị đánh văng ra góc sân và nằm bất động.

Thấy đệ tử mình bị hạ nhanh một cách khó hiểu, ông Cư vội vàng chạy đến xem thực hư thế nào. Cậu học trò cưng nằm im, mồm miệng be bét máu. Phần thắng đã thuộc về Chín.

Sắp xếp công việc, ít lâu sau, anh Chín lại theo thầy Lộc vào Huế để nhờ tông sư môn phái kiểm tra trình độ thật sự của mình. Chưởng môn phái Nguyễn Văn Cảo, phường Phú Cát, đã đón hai thầy trò anh rất thân tình.

Hôm ấy, nhà thầy Cảo có một đệ tử học Thần quyền được mười năm, từ Quảng Bình vào thăm. Thầy Cảo bảo Chín đấu với người này. Kịch bản của trận đấu ở Phú Thọ đã được lặp lại. Vào trận, ngay màn dạo đầu, Chín dính đòn tới tấp. Thế nhưng, trong lúc nguy nan, tự nhiên anh thấy chân mình mềm oặt. Xoay lưng lại đối thủ, anh quỳ xuống như người bị trúng đòn chí mạng. Đối thủ thấy vậy thừa thắng lao lên...

Nhưng, như có phép tiên, dù chỉ còn mỗi chân trái mà anh vẫn bật vút lên, lộn trên không một vòng rồi tung cú "thiết cước" vào thẳng bụng đối thủ. Cú đá ấy đã làm vị kia văng ra, thầy Cảo ngay lập tức cho dừng trận đấu. Sau trận đấu đó, bởi quá khâm phục sự tiến bộ kỳ lạ của anh, thầy Cảo đã cân nhắc để anh được thăng đai vượt cấp.

Thế nhưng, điều đó chưa từng có tiền lệ trong môn phái nên thầy đành để anh ở đai đỏ xuất sư. Người đeo đai đó thì đã có thể làm thầy, truyền thụ võ công cho những môn sinh khác. Sáu tháng sau, vào lại Huế, lần này chưởng môn Nguyễn Văn Cảo đích thân ra chợ mua chỉ về se đai tím cho anh.


#6

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 07/03/2012 - 22:02

Dựng nghiệp bất thành

Rời quân ngũ, anh Chín về quê sinh sống, thỉnh thoảng ra Hà Nội gặp gỡ bạn bè. Những năm ấy, phong trào chấn hưng võ thuật cổ truyền ở thủ đô đang ở cao trào, thấy Thất Sơn thần quyền của mình chưa có một tên tuổi trong làng võ Việt, anh và một số người bạn đã quyết tâm gây dựng môn phái.

Để khẳng định sức mạnh của Thần quyền, Hội khoẻ Phù Đổng năm 1986 được tổ chức ở Hà Nội, các bạn anh đã tiến cử anh tham gia. Chuẩn bị cho sự kiện này Chín đã lặn lội lên Cao Bằng, tìm cậu bé mà trước đây anh đã ngẫu hứng truyền thụ võ công, đưa về Hà Nội cùng mình biểu diễn. Cậu bé ấy tên Điệp, khi ấy vừa tròn sáu tuổi.

Tại sân vận động Hàng Đẫy, với tiết mục thần quyền của mình, hai thầy trò một tàn phế, một tóc còn để chỏm đã dinh về hai tấm huy chương vàng trước sự trầm trồ, thán phục của mọi người.

Sau màn ra mắt, được sự chỉ đường mách lối của cố võ sư Đỗ Hoá, anh cùng các bạn đã tìm đến một chức sắc ở Hội Võ thuật cổ truyền Hà Nội nhằm đưa môn phái phát dương quang đại. Thế nhưng, nhiều người cho rằng Thất Sơn thần quyền là tà thuật, mê tín dị đoan nên mong ước của anh đã không thể thành hiện thực.

Dựng phái không thành, anh em tan rã mỗi người một nơi, Xuân Chín đâm nản. Tuy thế, sau này, tham gia phong trào thể thao người khuyết tật, anh vẫn đem thần quyền đi biểu diễn ở khắp nơi.

Năm 2004, tại một cuộc liên hoan võ thuật tại Hàn Quốc, anh đã được ban tổ chức trao tặng huy chương vàng cho tiết mục thần quyền độc đáo của mình. Càng hạnh phúc hơn khi ngay sau đó, hình ảnh của anh, một người cụt chân đang thăng hoa cùng quyền thuật đã được ban tổ chức in lên lịch lưu niệm tặng các vận động viên tham gia.

Cũng từ dạo ấy, bởi cuộc mưu sinh anh đã thôi không tham gia phong trào thể thao nữa. Thần quyền anh cũng ít tập hơn và cũng không truyền dạy bí kíp võ công này cho bất kỳ ai...

Sưu Tầm



Thanked by 1 Member:

#7

TanHongThuy



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 383 Bài viết:
  • 334 thanks
  • LocationHanoi

 

Gửi vào 17/03/2012 - 18:42

các trang web võ thuật có thêm các thông tin về thần quyền và các dòng phái quyền thề.

#8

CHUBBYCAT



 

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1264 Bài viết:
  • 2310 thanks

 

Gửi vào 17/03/2012 - 19:46

Võ thần quyền này trong giới võ công VN thì không phải là quá bí ẩn, nói về độ hiệu quả thì có hơi nói thái quá, bài viết còn không đề cập đến điểm yếu của môn này, biết điểm yếu nay thì trẻ con cũng không sợ thần quyền.

#9

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 18/03/2012 - 13:35

HUYỀN THOẠI THẤT SƠN THẦN QUYỀN

Năm 1859, Pháp bắt đầu đánh chiếm Nam kỳ Lục tỉnh, Nam bộ. Một giai đoạn bi thảm bắt đầu trên vùng đất mới khẩn hoang chưa lâu lắm. Triều đình nhà Nguyễn bất lực trước sự xâm lăng ngang ngược của thực dân Pháp đã lên tục nhượng bộ cắt đất, bất lực ngồi nhìn súng đạn thực dân thôn tính miền Nam, sau đó thôn tính và đặt ách đô hộ lên toàn nước Việt. Nhiều bậc trung quân ái quốc tức giận kháng mệnh triều đình. Nhiều chí sỹ tựu quân kháng chiến cứu nước.

Vùng Bảy Núi, tức Thất Sơn, hiện nay thuộc tỉnh An Giang, trở thành căn cứ địa của các lực lượng nghĩa quân Nam Bộ. Thật ra, Thất Sơn có đến mười ngọn núi nhưng thời vua Tự Đức chỉ đặt tên cho bảy ngọn tượng trưng cho bảy linh huyệt gồm: Anh Vũ Sơn (Núi Kéc), Thiên Cẩm Sơn (Núi Cấm), Ngũ Hồ Sơn (Núi Dài), Liên Hoa Sơn (Núi Tượng), Thủy Đài Sơn (Núi Nước), Ngoạ Long Sơn (Núi Dài Văn Liên), Phụng Hoàng Sơn (Núi Tô).

Do địa điểm hiểm trở, dãy nối dãy, ngọn liền ngọn, rừng rậm hoang vu nên vùng núi này có nhiều loại thực vật, động vật cực kỳ bí hiểm. Cọp beo, rắn rết cùng những loại cây ăn thịt, dân gian gọi là ngãi, đã khiến nhiều người bỏ mạng mất xác khi cố tình thâm nhập.

Trước sức mạnh vũ khí hiện đại của quân Pháp, lực lượng nghĩa quân chỉ có binh khí thô sơ và lòng quả cảm. Những người chỉ huy phải sử dụng đến “vũ khí tâm linh”. Võ phái Thất Sơn thần quyền ra đời từ đó. Để giữ bí mật nơi trú ẩn, nghĩa sỹ kháng chiến đã lợi dụng sự kỳ bí của tự nhiên, lợi dụng địa thế hoang vu hiểm trở của rừng rậm, núi cao thêu dệt nên những câu chuyện linh thiêng nhằm để tiếp thêm sức mạnh cho binh sỹ và uy hiếp kẻ thù.

Hiện nay, truyền nhân duy nhất và cuối cùng của Thất Sơn Thần Quyền là võ sư Hoàng Bá, cư ngụ tại cầu Tầm Bót, Thành Phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Đã hơn bảy mươi lăm tuổi, gần hai mươi năm nay, võ sư Hoàng Bá đóng cửa võ đường, không thu nhận đệ tử nữa. Điều đáng tiếc là võ Sư Hoàng Bá, tuy là truyền nhân nhưng không phải là chưởng môn nên không lĩnh hội được hết tuyệt chiêu của Thất Sơn Thần Quyền. Ông cho biết, người trưởng môn duy nhất và cuối cùng của võ phái, nắm giữ tất cả tuyệt chiêu là ông Đạo Ngựa tu luyện ở núi Sam, Châu Đốc.

Võ sư Hoàng Bá chỉ là truyền nhân của một bản sao Thất Sơn Thần Quyền. Vì vậy, ông chỉ lĩnh hội được một số tuyệt kỹ thuộc về phần “dương công” của Thất Sơn Thần Quyền, chứ không nắm không nhiều những bí quyết về phần “âm công”.

Võ sư Hoàng Bá đánh giá: “Thất sơn thần quyền là một môn phái cận chiến thực dụng, chỉ hữu ích trong chiến đấu thuở gươm đao xưa. Người võ sinh có những phương pháp luyện tập dị biệt. Vì bài quyền không có lời thiệu nên bị tam sao thất bổn. Ngoài quyền cước, võ sinh còn được trang bị thêm niềm tin huyền bí để tạo sự tự tin, bình tĩnh. Trong chiến đấu, sự tự tin, bình tĩnh chiếm 50% thắng lợi”.

Thất Sơn Thần Quyền chính tông là một phái võ đặc dị gồm hai phần: Quyền và Thuật. Quyền là phần “dương công” gồm những thế võ cận chiến tay không và giáp chiến binh khí. Thuật là phần “âm công” huyền bí, dùng năng lượng siêu nhiên trợ lực. Vì môn qui, người đệ tử duy nhất được chọn kế thừa trưởng môn mới được sư phụ truyền dạy phần “âm công”.

Tương truyền, võ sinh Thất Sơn Thần Quyền chính phái có tuyệt chiêu gọi hồn nhập xác. Khi giáp chiến võ sỹ chỉ sử dụng quyền thế trong dương công để tấn công đối phương. Nếu gặp đối thủ lợi hại, võ sỹ dùng huyền thuật gọi hồn một vị thần giỏi võ nhập xác vào võ sỹ trợ giúp.

Vào năm 1967, những người cao niên sinh sống dưới chân Núi Sam, Châu Đốc, An Giang, vẫn còn thấy một đạo sỹ gầy, râu tóc bạc phơ, tu luyện trong rừng sâu trên đỉnh núi. Hàng ngày, vị đạo sỹ này cưỡi ngựa xuống núi trao đổi lương thực với người dân quanh vùng.

Vị đạo sỹ này rất kiệm lời nên không ai biết thân thế, tên tuổi của ông. Ông không bao giờ rời lưng ngựa. Điều đáng quan tâm là, hình dáng ông trông rất ốm yếu, lại cưỡi ngựa không yên cương. Dốc núi gập ghềnh đá, ông phải có sức mạnh phi thường mới có thể cưỡi ngựa lên đỉnh xuống vồ. Vì thế, người dân địa phương gọi đùa là ông Đạo Ngựa.

Một lần dong ngựa xuống núi đổi rau củ lấy gạo, bắt gặp một toán cướp dùng súng uy hiếp người dân, ông xuống ngựa can thiệp. Đó là lần đầu tiên người ta thấy ông rời lưng ngựa. Toán cướp thấy ông ốm yếu xông vào toan đánh đập. Không ngờ chỉ bằng một ngón tay, ông đã khiến một tên cướp trợn dọc mắt, ngã lăn bất tỉnh. Tên cướp khác toan nổ súng. Ông rùng mình một cái rồi sau đó như điên loạn. Ông bay vèo đến cạnh tên cướp tước súng rồi vung chân múa tay đánh gục hết những tên còn lại. Ông ung dung lên ngựa trở về núi. Một ông già ốm yếu đánh gục toán cướp khỏe mạnh lại có vũ khí trong tay khiến nhiều thanh niên thán phục. Họ rủ nhau lên núi tìm ông xin học võ. Không ai tìm được nơi trú ẩn của ông.

Tuy nhiên, có một người thanh niên quyết tâm tìm ông cho được. Người thanh niên này bò lên đỉnh núi Sam tìm nơi ngồi thiền lâm râm khấn: khi nào gặp được sư phụ mới chịu xuống núi. Sau hai ngày chịu nắng mưa, đói khát giữa rừng sâu núi thẳm, người thanh niên ấy ngất xỉu. Khi tỉnh lại thì thấy mình nằm trong một hang động. Kể từ ngày đó, người thành niên ấy trở thành đệ tử chân truyền của Đại sư Đạo Ngựa. Ngoài Hoàng Sơn còn có một tiểu đồng tên Ba giúp ông Đạo Ngựa nhang khói.

Trong những ngày thụ đạo, người thanh niên ấy mới biết sư phụ mình là đệ tử kế thừa trưởng môn Thất Sơn Thần Quyền của Nam Cực Đường. Nam Cực Đường của Đại sư Bảy Do lập năm từ đầu thế kỷ hai mươi đào tạo nghĩa sỹ kháng Pháp. Năm 1917, quân Pháp bao vây bắt Đại sư Bảy Do đày ra Côn Đảo. Năm 1926, tạo nhà lao Côn Đảo, Đại sư Bảy Do cắn lưỡi cho máu chảy đến chết.

Học được gần một năm, đã hết phần “dương công” chuẩn bị bước sang phần “âm công”, người thanh niên ấy xin về nhà giỗ cha. Giỗ cha xong, khi trở lại núi Sam, người thanh niên không tài nào tìm được hang động cũ. Nghĩ rằng sư phụ muốn lẩn tránh mình, người thanh niên ấy đành lạy tạ hư không rồi xuống núi. Từ ngày đó cũng không ai còn thấy bóng dáng ông Đạo Ngựa một lần. Ông mất hút giữa rừng núi thiêng.

Người thanh niên ấy chính là lão võ sư Hoàng Sơn. Năm 1960, trong một trận thi đấu tranh giải võ thuật khu vực Đông Nam Á, võ sỹ Hoàng Sơn đại diện đoàn Việt Nam đấu với võ sỹ Kh'mer tên là Nosar. Vào hiệp một, chỉ sau vài chiêu giao đãi, võ sỹ Sonar xin dừng trận đấu vì nhận ra đồng môn.

Hóa ra, Nosar cũng là đệ tử của Thất Sơn Thần Quyền. Năm 1970, ông Nosar trở thành Phó Chủ tịch Hội đồng võ thuật Campuchia đã đào tạo ra những võ sỹ “thần quyền” nổi tiếng Campuchia như Nosar Long, Nosar Lieng. Hóa ra Nosar là truyền nhân mấy đời của ông Cử Đa ở Tà Lơn.

Thời điểm đó, đại lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh đang sưu tầm tuyệt kỹ công phu của các môn phái võ Việt Nam đã phát hiện võ sỹ Hoàng Sơn là truyền nhân của Thất Sơn Thần Quyền.

Năm 1968, đại lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh tìm đến tận nhà Hoàng Sơn đề nghị qui tựu những người hiểu biết về Thất Sơn Thần Quyền để sưu tầm một môn phái đã bế truyền.

Do chưa được truyền thụ phần “âm công” tức phần “thần” mà chỉ biết phần “dương công” tức phần “quyền” nên Hoàng Sơn chỉ dám trương cờ Thất Sơn Võ Đạo tại Long Xuyên. Lá cờ nên đó có thêu hình bảy ngọn núi màu đen. Đại lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh đứng chân tạo đó làm cố vấn cho Thất Sơn Võ Đạo.

Mục đích của Thất Sơn Võ Đạo là quy tựu các đồ đệ đồng môn tứ tán khắp nơi về để thống nhất các chiêu thức, các bí thuật “âm công” và truyền dạy lại cho thế hệ sau. Chỉ trong một thời gian ngắn, mười võ sư từ các nơi nghe tin đã quy tựu về góp sức, gồm: Nguyễn Thành Diệp, Phùng Vũ Châu (Tư Tiếp), Nguyễn Giầu, Nguyễn Thọ, Nguyễn Thôi, Lê Đình Tây, Trần Văn Tủy, Lê Minh Nho, Sáu Rẩm, Hoàng Bá (trẻ tuổi nhất).

Trong số mười hai thành viên, Đại lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh và đại lão võ sư Nguyễn Thành Diệp cao niên nhất. Đại lão võ sư Nguyễn Thành Diệp là người may mắn nắm giữ được nhiều bí quyết phần “âm công” nhất. Tiếc rằng, đại lão võ sư Nguyễn Thành Diệp chưa kịp hệ thống lại các bí quyết thì qua đời năm 1970. Những bí ẩn của Thất Sơn Thần Quyền xem như chìm vĩnh viễn vào hư vô.

Tuy không còn lưu giữ được các bí thuật huyền diệu nhưng kể từ ngày thành lập, Thất Sơn Võ Đạo cũng đào tạo được rất nhiều võ sỹ nỗi tiếng khắp Châu Á. Tất cả những trận thư hùng khu vực giữa các võ đường danh tiếng Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippine đều có mặt võ sỹ Thất Sơn Võ Đạo.

Trận giao đấu tốn nhiều giấy mực của các ký giả thể thao miền Nam lúc ấy là trận Hoàng Thọ, đệ tử của võ sư Hoàng Sơn (môn phái Thất sơn Võ Đạo) đấu với võ sỹ Tinor (Môn phái Trà Kha) vào năm 1973 trong đại hội võ thuật tại Sài Gòn. Tinor là võ sỹ Lào được báo chí đặt cho biệt danh “Cọp bay” bởi chiêu song cước. Nhiều võ sỹ đã phải đo ván bởi cú đá bay nhanh như chớp và chính xác như công thức của võ sỹ này.

Trận trước, “Cọp bay” Tinor thi đấu với võ sỹ Dương Văn Me (sau này là võ sư Huỳnh Tiền). Khi mới vào kẻng, võ sỹ Dương Văn Me chưa kịp chuẩn bị, “Cọp bay” Tinor đã bay người tung cú đá từ phía sau. Dương Văn Me bị gãy xương sườn, trọng tài xử thua.

Dưới khán đài, một cuộc ẩu đả xảy ra giữa hai phe cổ động viên. Bất phục, võ sỹ Hoàng Thọ nhảy lên võ đài thách đấu với “Cọp bay” Tinor (lúc ấy luật thi đấu võ thuật cho phép thách đấu). Cuộc thách đấu được các đại lão võ sư cả hai phía chấp nhận thiết lập để vãn hồi trật tự dưới khán đài. Do đó là trận thách đấu nên được Ban Tổ chức thu xếp vào ngày cuối cùng và năm ngoài giải đấu.

Khi võ sỹ Hoàng Thọ và “Cọp bay” Tinor thượng đài, ai cũng ái ngại cho Hoàng Thọ. Lúc đó, Hoàng Thọ chỉ là một võ sỹ chưa tên tuổi lại thấp hơn “Cọp bay” Tinor một cái đầu.

Vào hiệp một, “Cọp bay” Tinor xông lên áp đảo Hoàng Thọ vào góc đài. Chờ Hoàng Thọ lúng túng trong góc chết, “Cọp bay” Tinor tung một cú đá thốc từ dưới bụng lên. Hoàng Thọ dính đòn bật ngửa. Ai cũng tưởng Hoàng Thọ nằm vĩnh viễn trước cú đá bạt sơn của võ phái Trà Kha nỗi tiếng về chuyện mình đồng da sắt.

Không ngờ Hoàng Thọ tung mình đứng lên, mặt đỏ au, mắt trợn ngược, tóc tai dựng đứng, tay chân vung đánh loạn xạ không theo một bài bản nào. “Cọp bay” Tinor vừa chống đỡ vừa lùi ngược. Hoàng Thọ thét một tiếng rồi vung chân đá thẳng vào hàm Tinor. Tiếng xương hàm vỡ phát ra cùng lúc với tiếng kẻng kết thúc hiệp một. Tinor đầu hàng.

Ngay trong ngày, Tinor được đưa về võ quán ở Lào để điều trị rồi chết sau đó vài tháng. Hoàng Thọ trở nên nổi tiếng với bài “Thần quyền giáp chiến” của Thất Sơn Võ Đạo. Đó là một trong số ba bài quyền còn nguyên vẹn phần quyền (võ) lẫn thuật (phép).

Lần theo sử liệu

Theo hướng dẫn của võ sư Hoàng Bá, chúng tôi tìm đến Học Lãnh Sơn để gặp một đạo sỹ chỉ có cái tên duy nhất là ông Ba. Ông Ba cất một cái am u tịch giữa lưng chừng ngọn Học Lãnh Sơn để luyện đạo. Ông Ba đã chín mươi chín tuổi. Thuở thiếu niên ông Ba làm tiểu đồng cho ông Đạo Ngựa để học đạo. Sau vài câu giao đãi, ông Ba trầm ngâm lần tràng hạt, suy tưởng về quá khứ.

Ông cho biết, ông không học võ thuật mà chỉ học đạo. Ông xác nhận vào thời gian theo ông Đạo Ngựa học đạo có một người tên Sơn được ông Đạo Ngựa truyền thụ “võ thần”. Tuy không học võ nhưng ông Ba được sư phụ kể cho nghe về xuất xứ môn võ này.

Ông Ba khẳng định, những tổ sư môn võ thần này không đặt tên gọi nhưng do có xuất xứ từ vùng bảy núi linh thiêng nên người đời gọi là Thất Sơn Thần Quyền. Môn võ này có bốn phần luyện là tam đạo nhất thần: Tu tâm dưỡng tính gọi là tâm đạo, định thần dưỡng khí gọi là thể đạo, luyện thân tráng kiện gọi là quyền đạo. Phần luyện thứ tư gọi là luyện thần.

Ông cho biết thêm, tổ sư của môn phái võ này chính là Chàng Lía, một lãnh tụ kháng chiến chống triều đình trước thời kháng Pháp. Chàng Lía chỉ huấn luyện cho nghĩa binh phần tam đạo chứ chưa có phần nhất thần. Khi phong trào kháng chiến của Chàng Lía bị triều đình đàn áp, giải tán, một đại đệ tử là Hải Đề Long dẫn một số đệ tử chạy trốn từ phía Bắc vào Nam trú ở vùng núi Tô Châu lánh trần tu tịnh. Trong số đệ tử có một người tên Nguyễn Văn Đa rất giỏi.

Thời Thiệu Trị cuối cùng, Nguyễn Văn Đa thi đậu võ cử nên được gọi là Cử Đa.
Ngày 20 tháng 6 năm 1867, quân Pháp chiếm thành Vĩnh Long. Sau đó, tiến lên huy hiếp thành Châu Đốc, buộc Tổng đốc Phan Khắc Thận phải đầu hàng. Tỉnh An Giang mất vào tay Pháp vào ngày 22 tháng 6 năm 1867. Trần Văn Thành không hàng Pháp mà mang quân qua Rạch Giá, hỗ trợ kháng chiến quân của Nguyễn Trung Trực.

Trần Văn Thành sinh năm 1920 ở ấp Bình Phú, làng Bình Thạnh Đông, tổng An Lương, quận Châu Phú Hạ, tỉnh Châu Đốc, nay thuộc xã Phú Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Năm 1840, ông gia nhập quân đội nhà Nguyễn được cử làm suất đội trong chiến dịch giải giáp Nặc Ông Đôn (em vua Cao Miên, khởi quân chống lại Việt Nam). Năm 1845, ông được thăng làm Chánh quản cơ, coi năm trăm quân, đóng quân ở Châu Đốc để giữ gìn biên giới phía Tây Nam.

Tháng 6 năm 1968, Nguyễn Trung Trực đánh chiếm được đồn Kiên Giang mấy ngày, thì bị quân Pháp tổ chức phản công. Do địch được trang bị vũ khí vượt trội nên Nguyễn Trung Trực rút lui ra Hòn Chông, còn Trần Văn Thành thì dẫn lực lượng của mình vào Láng Linh, Bảy Thưa dựng trại, khai hoang, luyện quân và rèn đúc vũ khí chờ thời cơ. Đó là khoảng thời gian hình thành môn phái võ Thất Sơn Thần Quyền.

Khi triều đình nhu nhược trước quân Pháp, ông Cử Đa thất vọng từ quan về vùng Thất Sơn đứng dưới cờ kháng chiến của nghĩa quân Trần Văn Thành (quản cơ Trần Văn Thành) vào năm 1862. Lúc ấy nghĩa quân Trần Văn Thành trú đóng dưới chân núi Liên Hoa Sơn, căn cứ Láng Linh, Bãi Thưa, lập căn cứ kháng chiến lâu dài.

Láng Linh, Bãi Thưa là hai cánh đồng rộng nằm liền kề, có nhiều đầm lầy, lau sậy và vô số cây thưa um tùm tăm tối. Căn cứ chính của Trần Văn Thành có tên là Hưng Trung doanh, đặt tại trung tâm rừng Bãi Thưa, nay thuộc xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú, An Giang.

Ông Cử Đa trở thành người huấn luyện võ thuật cho quân kháng chiến. Trong khi quân Pháp sử dụng vũ khí hiện đại, quân kháng chiến chỉ có các loại đao, thương và súng tự chế. Để trấn an tinh thần nghĩa quân, thủ lĩnh nghĩa quân Trần Văn Thành giao cho Ngô Lợi huấn luyện phép thuật.

Nhằm tạo niềm tin, thu hút nhiều quần chúng tham gia kháng chiến, Ngô Lợi đem nền tảng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương lập một tôn giáo mới có tên gọi là Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Những tín đồ được Ngô Lợi phát bùa đeo nhằm... chống đạn. Ông Ngô Lợi còn dùng sấm truyền để tín đồ tin rằng sắp đến ngày tận thế (đồng khởi), ma quỷ (quân Pháp) đã hiện ra đầy đường và núi Cấm sắp mở hội “Long Hoa”.

Chỉ trong một thời gian ngắn, người dân khắp đồng bằng bồng bế gia đình kéo về vùng kháng chiến Láng Linh nườm nượp. Ngô Lợi phải chia đất cho tín đồ cất nhà, lập làng và tổ chức khai hoang lập ruộng sản xuất lấy lương thực nuôi quân. Theo lệnh của Quản cơ Trần Văn Thành, ông Ngô Lợi còn bày cách cho tín đồ đóng ghe nhiều chèo phục vụ cho chiến đấu.

Sau một thời gian dài chuẩn bị, năm 1872, Trần Văn Thành chính thức phất cờ chống Pháp, lấy hiệu là Binh Gia Nghị. Nghe tin, Pháp cử chủ tỉnh người Việt tên Trần Bá Lộc đưa mật thám xâm nhập căn cứ.

Năm 1873, sau khi nắm rõ tình hình nghĩa quân, Trần Bá Lộc dẫn quân Pháp đánh vào Bảy Thưa. Ông Trần Văn Thành tử trận. Cuộc khởi nghĩa thất bại. Quân Pháp tàn sát, giết hại, đốt làng của tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Ông Ngô Lợi thoát nạn, sau này quay trở về Láng Linh tiếp tục chiêu mộ nghĩa quân dưới danh nghĩa tôn giáo chờ thời cơ. Khi quân Pháp càn quét vào vùng căn cứ, một trong những đệ tử của Bổn sư Ngô Lợi đã dùng một chiếc ghe nhiều mái chèo theo sông Cái ra biển đào thoát về tận vùng núi Long Sơn ở Bà Rịa lập nên đạo Ông Trần.

Riêng ông Cử Đa cải trang thành một vị sư lấy tên là Sư Bảy, giả điên khùng, lưu lạc nhiều nơi để tránh sự truy lùng của quân Pháp. Có lúc ông phái lánh sang Campot, Campongtrach, đến núi Tà Lơn tức Bokor (Campuchia). Đến năm 1896, ông Cử Đa mới dám trở về vùng núi Cấm lập am ẩn danh. Năm 1896, khi rời Campuchia về nước, ông Cử Đa tìm gặp Đức Bổn sư Ngô Lợi để bàn chuyện tiếp tục đánh Pháp. Nhưng vị tu sỹ này từ chối do chưa đến thời cơ. Thất chí Cử Đa về vùng rừng Tri Tôn lập chùa Năm Căn qui ẩn.

Riêng làng An Định, nơi được xem là thủ phủ của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa với ngôi chùa Tam Bửu và Phi Lai do chính Ngô Lợi tạo dựng, quân Pháp bố ráp xóa làng năm lần nhưng không xóa được lực lượng nghĩa quân này. Sau khi Ngô Lợi bị bệnh qua đời, những kháng chiến quân trong đội ngũ tín đồ vẫn tiếp tục rèn luyện võ nghệ chờ thời cơ đánh Pháp. Nhưng do không còn người lãnh đạo, lực lượng này mai một dần.

Một thời vang bóng

Khi nhập môn, võ sinh của Thất Sơn Thần Quyền học bài vỡ lòng là bài khấn tổ: Nam mô tổ sư tam giáo đầu sư Dương Gia, Chàng Lía, chúa Nhẫn, tổ sư Hải Đề Long núi Tô về cảm ứng nhậm lễ chứng minh cho đệ tử...Sau đó, người võ sỹ được học những bài chú kêu gọi các đấng siêu nhiên nhập xác (như lên đồng) ứng chiến gọi là chú “thỉnh tổ”:

“Nam mô thập phương chư Phật, chư vị đại Thần đại Thánh đại hải, chư vị Bồ tát...Thập bát la hán, Bát quái tổ sư...Án Lỗ ban tiên sư phù, Lỗ Ban đại sát, dụng hưng yên bất dụng hương đăng hoa quả vật thực chơn hình trợ kỳ đệ tử thần tự...hội Tà Lơn Thất Sơn, năm non, bảy núi, rừng rú, tổ lục, tổ lèo, tổ xiêm, tổ mọi, tổ chà đồng lai đáo hạ hộ giá quang minh, chấp kinh trì chú cứu thế trợ dân cấp cấp như luật lịnh sắc”.

Điều này cho thấy các nghĩa quân kháng chiến ngày xưa đã áp dụng bùa Lỗ Ban có xuất xứ từ Trung Quốc vào hệ thống “âm công” của Thất Sơn Thần Quyền.

Về quyền thế, Thất Sơn Thần Quyền có nhiều bài hay như: Linh miêu đoạt thạch, Tam sơn trấn ải, Mãnh hổ tọa sơn...Vào thập niên 1960, Thất Sơn Thần Quyền kể như không tồn tại nữa mà chuyển thể thành Thất Sơn Võ Đạo. Thất Sơn Võ Đạo là những quyền thế dương công của Thất Sơn Thần Quyền. Tuy không còn yếu tố huyền linh nữa nhưng Thất Sơn Võ Đạo cũng tạo được tiếng vang trong làng võ Nam Bộ thời ấy.

Thời điểm này, phong trào võ thuật vùng Nam Bộ rất sôi động, nơi nào cũng có võ đường Thần Quyền: Sa Đéc có lò võ Sáu Cường; Lý Suol ở Châu Đốc; Bảy Biển ở Kiên Giang; Ba Hoằng ở Long Xuyên. Nhiều võ sư tạo được tiếng vang nhờ đào tạo được những võ sỹ vô địch trong các trận đấu võ đài. Đến tận ngày nay, những võ sư ấy vẫn còn được nhiều người nhắc như: Hai Diệp, Mười Nho, Nguyễn Mách, Út Dài, Thiên Đường.

Họ thường tổ chức thi đấu tại Chợ Lớn, quận năm, mang tính giao hữu với các quốc gia trong khu vực như Campuchia, Hồng Kông. Trong những cuộc đấu giao lưu ấy, nhiều võ sỹ Việt Nam đã tạo được sự thán phục của các võ sư, võ sỹ nước ngoài. Báo chí thể thao dạo ấy đã bình luận từng tuyệt chiêu của các võ sỹ Thần Quyền như: Võ sỹ Minh Sang có đường quyền vũ bão; Võ sỹ Minh Sơn có cú đấm nhanh như chớp và cú húc chỏ “hồi mã thương”, võ sỹ Chhit Sarim (người Campuchia theo học Thần Quyền).

Trong một trận thư hùng giữa võ sỹ Trần Mạnh Hiền Việt Nam đấu với võ sỹ Hồng Kông là Châu Đạt Vinh Hồng Kông, môn đệ của Vịnh Xuân Quyền xảy ra năm 1973 khiến báo chí thể thao miền Nam lúc đó tốn khá nhiều công sức bình luận. Trong đợt thi đấu này võ sỹ Trần Mạnh Hiền đã thắng tuyệt đối bằng một cú đá thần sầu ở hiệp ba khiến khán giả hâm mộ võ thuật sôi sục. Ngày nay, những võ sỹ thuở ấy đã trở thành đại võ sư.

Ngày nay, Thất Sơn Thần Quyền vẫn âm thầm lan rộng và phát triển. nhưng kín đáo. Dù không ai chứng minh được sự mầu nhiệm của môn phái này, nhưng xuất xứ của Thất Sơn Thần Quyền gắn liền với một trang sử hào hùng, bất khuất của dân tộc Việt. Đó là điều cần ghi nhận.


Nông Huyền Sơn
Sơn Huyền



#10

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 19/03/2012 - 02:48

HÙM XÁM MÃ THANH LONG

Năm lên chín tuổi, ông được cha bắt thắp nhang bái tổ học võ. Học được khoảng sáu năm, cảm thấy chưa thỏa mãn mấy bài quyền võ Tiều do cha truyền thụ, chàng thiếu niên họ Mã tạm biệt phụ thân lên đường phiêu bạt tứ xứ, mong gặp được thầy giỏi để tầm sư học đạo. Ông từng nhiều năm học võ bùa, võ gồng ở núi Thất Sơn An Giang, thậm chí lặn lội sang tận Nam Vang, Lào, Thái Lan… học võ và học nghề y trong một thời gian dài.

Trên bước đường sương gió đệ tử tầm sư nan, Mã Thanh Long may mắn thọ giáo môn Thiếu Lâm Thủy Phong với một cao thủ người Quảng Đông tại miền Tây. Tương truyền, đây là môn võ công do tổ sư Hồng Mi đạo nhân, đời nhà Nguyên bên Trung Hoa, cùng thời với phái Võ Đang của Trương Tam Phong, chế tác, thuộc Thiếu Lâm Bắc phái. Thời xưa, môn võ công trên chỉ truyền dạy cho nữ giới, sau này do chiến tranh, loạn lạc, các cao đồ Thiếu Lâm Thủy Phong đã phá lệ, dạy cho cả giới mày râu để phòng vệ. Môn võ này không dụng sức, đòn thế đơn giản nhưng cực kỳ lợi hại, bởi chỉ nhắm đánh vào yếu huyệt đối phương.

Tìm được thầy giỏi, như cá gặp nước, Mã Thanh Long ra sức khổ luyện ròng rã mười hai năm trời. Khi đã cứng nghề, ông giã biệt sư phụ vào Sài Gòn làm bảo tiêu tại xa cảng Miền Tây. Tại đây, ông đã đụng độ và khuất phục hàng trăm tên giang hồ cộm cán bằng võ thuật và nghĩa khí! Môn phái Thiếu Lâm Thủy Phong, học viên nữ không được dạy binh khí, nam môn sinh muốn học, tuổi phải từ ba mươi trở lên, trước khi đón nhận binh khí từ tay sư phụ, phải rửa mặt bằng...rượu.

Võ sư Mã Thanh Long tính tình vui vẻ nhưng rất nghiêm khắc và kỷ luật, đi đâu tay cũng luôn cầm cây ba-ton. Ông không uống cà phê, chỉ uống trà và hút thuốc lá, thường chạy xe mobylette màu vàng nhạt rảo qua các võ đường gài độ đánh đài. Ông thường đội mũ rộng vành, mặc áo ký giả bốn túi, dáng cao to khoảng 1m75, nặng bảy mươi hai kg, da trắng hồng, gương mặt chữ điền, thân hình săn chắc, vạm vỡ, có hình xăm trên ngực phải và trên cánh tay đúng dáng con nhà võ!

Võ sư Mã Thanh Long lập gia đình năm 1954, người bạn đời cũng là cao thủ Thiếu Lâm, tên Thạch Thị Thu gốc Campuchia. Có thời gian dài, bà ra tận Phan Rang Tháp Chàm mở võ đường, dạy hàng trăm môn đồ. Trong lần dự khán một trận đấu đài, phát hiện võ sĩ bị trọng tài xử ép, dù đang mặc áo dài, bà vẫn nhảy phốc lên sàn đấu, lớn tiếng phản đối trọng tài thiên vị. Cả hai vợ chồng võ sư Mã Thanh Long đều thông thạo ngoại ngữ Anh, Pháp, Hoa, Thái Lan, Campuchia.

Năm 1957, võ sư Mã Thanh Long mở lớp dạy võ gần miễu Thiên Hậu Tự,đường Hòa Hưng, sau đó võ đường dời về số 463 Lê Văn Duyệt, nhanh chóng nổi tiếng với hẻm Mã Thanh Long 463/9A, thu hút hàng ngàn môn sinh theo học, tám lớp một ngày. Thời gian này, Mã võ sư đã lần lượt tiếp chiêu và khuất phục hàng chục tên giang hồ sừng sỏ khu vực cống Bà Xếp, ga Hòa Hưng mò sang xin thử nghề. Không chỉ huấn luyện võ thuật, võ sư Mã Thanh Long còn dạy môn sinh Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Cách dạy của ông đơn giản, dễ hiểu, học trò ở xa, được thầy cho tá túc, đài thọ cơm nước ngay tại võ đường. Môn đồ của Mã võ sư thuộc nhiều giai tầng trong xã hội như cảnh sát, du đãng, tiểu thương, học sinh, sinh viên, đặc biệt có một số là chiến sĩ đặc công cách mạng, hoạt động nằm vùng.

Tháng 8-1969, ông cùng các võ sư Nguyễn Văn Mách, Kim Kê, Lê Văn Tào, Minh Sang, Phan Văn Hai, Mai Văn Phát, Liên Văn Răng, Nguyễn Nhiều, Xuân Bình, Mai Thái Hòa, Nguyễn Văn Trầm, Lê Văn Kiển, Quách Phước, Từ Thiện… thành lập Tổng hội Võ học Việt Nam, trụ sở đặt tại số bốn Duy Tân, Quận Nhứt. Võ sư Mã Thanh Long được bầu làm Trưởng ban Kiểm soát quyền thuật. Tổng cuộc Quyền thuật Việt Nam, ủy viên ban chấp hành Tổng hội Võ học Việt Nam. Võ sư Mã Thanh Long có năm người con là Thạch Thị Vân, Thạch Văn Dương, Huỳnh Ngọc Điệp, Huỳnh Ngọc Xuân, Huỳnh Ngọc Hương. Trong số đó, chỉ Huỳnh Ngọc Điệp là người duy nhất theo nghề võ và nghề y của cha. Lúc sinh thời, võ sư Mã Thanh Long chơi thân với võ sư Kim Kê và Từ Thiện.

Về bí quyết đấu võ đài, võ sư Mã Thanh Long phân tích: Một số võ sĩ Thái Lan, Lào, Campuchia thường luyện võ bùa, võ gồng, khi ra đấu, bắp tay họ đeo “cà tha” (vòng chỉ ngũ sắc), trong miệng ngậm tượng “ông Phật” làm từ nanh heo rừng. Đó là những “linh bùa” đã được yểm, muốn thắng, chỉ có cách nhập nội, nhắm đánh trúng vào yếu huyệt, đánh sao cho văng tượng “ông Phật” ra khỏi miệng họ, lập tức đối thủ sẽ bủn rủn toàn thân, chân tay rũ liệt, tinh thần bấn loạn...

Võ sư Mã Thanh Long tạ thế năm 1976 tại võ đường vào lúc 14 giờ nhằm ngày 26-4 Âm lịch, hưởng thọ sáu mươi sáu tuổi. Ông ra đi đột ngột vào cái tuổi chưa hẳn là già đối với một võ sư, để lại niềm tiếc thương cho quyến thuộc, bằng hữu, đệ tử và võ lâm đồng đạo.


Ngọc Thiện


#11

TanHongThuy



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 383 Bài viết:
  • 334 thanks
  • LocationHanoi

 

Gửi vào 01/04/2012 - 00:55

Thần quyền gắn với thần chú. Chỉ riêng điều này
thôi đã đủ rồi.

#12

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 01/04/2012 - 09:11

NHỮNG CHUYỆN SIÊU HÌNH LẠ LÙNG VỀ MÔN QUYỀN CƯỚC “THÁI LAN”

Tất cả các võ sĩ đều phải trải qua những buổi huấn luyện về tà thuật ,rồi tùy trường hợp mà áp dụng vào quyền cước :Không phải bất cứ ai muốn là đều có thể trở thành một võ sĩ .Bởi lẽ ,chỉ được liệt vào hàng võ sĩ là những ai đã được huấn luyện kỹ lưỡng về quyền và thọ lãnh những môn pháp bùa ngải ,nhằm gia tăng sự hùng mạnh trong lúc thượng đài tỉ thí .Đó là phương châm của bộ môn “Quyền cước Thái Lan”.

Sự hổ trợ của tà thuật.

Muốn học võ Thái lan ,ngoài sức khỏe còn có những phản ứng mau lẹ :từ cặp mắt cho đến chân tay ,luôn luôn nằm trong tình trạng báo động ,để khi bất chợt gặp một sơ hở nào của đối phương là lập tức nắm ngay lấy cơ hội để đi tới chiến thắng .Võ Thái Lan không có những đường quyền cước gì đặc biệt .Nghĩa là không có những bài quyền dành cho võ sinh tập luyện hay biểu diễn trước công chúng . Tuy nhiên ,võ Thái Lan lại có những thế đánh cực kỳ nguy hiểm bằng cùi chỏ ,hay những ngọn cước tuyệt luân kèm theo những cú đầu gối ác liệt.

Các ông thầy dạy võ Thái Lan rất khắc khe với môn đệ ,khi chỉ dạy cho võ sinh ,các ông ấy có thể bung toàn lực vào học trò ,để họ ý thức sự hiệu quả của ngọn đòn .Nhất là khi huấn luyện sự chịu đòn cho một đệ tử ,ông thầy có quyền xữ dụng hết các ngón đòn riêng :từ nhẹ đến nặng ,trước khi kết thúc trận đòn bằng những thế võ hiểm độc .Khi chịu đựng được những trận đòn như vậy ,võ sinh mới được chấp nhận đi lần vào con đường của một võ sĩ với sự hỗ trợ của tà thuật .Các võ sư Thái Lan đều là những tay pháp sư hay phù thủy cao tay ấn .Người nào cũng có gồng ,cũng như có ngải hộ thân và dành để triệt hạ đối phương .

Những ngọn đòn...chết người.

Thỉnh thoảng ,trong các đại hội võ thuật ,khán giả chứng kiến cảnh một võ sĩ đánh hạ đối thủ bằng một cú đá thật nhanh .Chỉ những người tinh mắt và am hiểu chút ít về quyền cước Thái Lan mới nhận thức kịp cái hay và cái dỡ của một thế đánh .Chẳng hạn như trong một pha “xáp đà” cả hai võ sĩ cùng tung ra cú đánh bằng cùi chỏ .Một âm thanh ròn gãy vang lên ,rồi một người úp mặt xuống sàn gỗ dãy đành đạch và sau đó là tắt thở .Võ sĩ sống sót cũng chẳng được yên lành ,vì mặt mày cũng bê bết máu và khuỷu tay cũng gãy lọi .Hoặc trong lúc tung ra một ngọn cước ,chỉ vì chậm phản ứng mà đang ở thế thượng phong ,một võ sĩ có thể bị địch thủ bẻ gảy chân và đá trả trúng vào chỗ nhược chết ngay lập tức.

Tóm lại ,chuyện một võ sĩ bị thiệt mạng trong lúc thượng đài ở Thái Lan là chuyện tầm thường và được khán giả yêu chuộng võ thuật coi như là một tai nạn không thể tránh được .nhưng người xem võ đài lại không biết rằng ,vì võ nghệ kém mà anh ta bị hạ ,và sở dĩ anh ta bị hạ là anh ta yếu về bùa ngải hoặc bị phản ngải mà phải lãnh lấy hậu quả tai hại .Để tránh những ngọn đòn giết người ấy ,các võ sư đều bắt buộc đạo sinh phải “vô kim” trong thân thể .Phương pháp “vô kim” của Thái Lan rất khác lạ bởi điểm chính để nhét kim là đỉnh đầu .Cả chục cây kim vàng nhỏ xíu được ấn vào đầu rồi chuyển dần xuống các yếu huyệt.

Những cây kim ấy đã được “tôi luyện” rất là kỹ lưỡng và nghe nói có công dụng biến cơ thể võ sinh cứng rắn như gang thép .Rồi ngoài những cây kim ấy ,mỗi võ sĩ đều có riêng một tượng Phật nhỏ bằng đầu ngón tay út ,ngậm trong miệng mỗi khi lâm trận .Chính vì ngậm tượng Phật mà trước tiếng gồng báo hiệu trận đấu bắt đầu ,võ sĩ phải dập đầu quỳ lạy trước ông thầy ,và há miệng đớp nhanh tượng Phật do võ sư đẩy vào một cách kín đáo sau mấy câu thần chú ,cầu cho đệ tử được bình an vô sự.

Những tượng Phật ấy đã được “Tom” rất kỹ lưỡng .Người Thái Lan hầu hết đều đeo tượng Phật để hộ thân .Tượng Phật linh hay không thì người xử dụng có quyền trắc nghiệm .Một tượng Phật linh thiêng không bao giờ được dùng các đầu ngón tay mà cầm được .Nếu làm như vậy ,tượng Phật có vẽ như bị thoa dầu mở ,cứ vuột ra ngoài .Một tượng Phật linh hiển khi được nhét vào giữa hai bàn tay chắp lại ,đưa ngay mặt và niệm danh hiệu Phật .Con người sẽ được nhấc bổng lên khỏi mặt đất ,toàn thân lạnh ngắt ,lại có cảm giác như hồn bay phách lạc.

Phật linh hiển là điều đáng mừng nhưng cũng đáng lo khi đeo vào trong mình ,bởi vì phải kiêng cử đủ thứ ,nào là cử ăn đồ sống và một vài thứ rau thơm ,nào là phải cẩn thận tháo bỏ ra ngoài khi vào phòng vệ sinh .Lại cũng không được chui qua sào hay dây phơi quần áo .Và nhất là không được để cho ai rờ tay lên đầu cũa mình...Ôi thôi !phải kiêng cử cả trăm điều ,nếu không khéo giữ gìn thì chính thân chủ sẽ phải hứng chịu những hậu quả tàn khốc.

Một võ sĩ thượng thặng ,bách chiến bách thắng nhưng vẫn có thể bị rủi trong một trận so tài với một võ sĩ dưới tay nếu có vẽ khinh khi ,thỉnh thoảng lại bật cười ngạo mạn khi thấy đối thủ đánh hụt ra ngoài mất sức vô ích .Rủi cho anh này là trong lúc chơi trò mèo vờn chuột ,anh đã làm văng tượng Phật ra khỏi miệng .Ngay lập tức ,anh bị đối thủ tung ra một cú đá nhẹ nhưng trúng vào mặt và gãy cổ chết ngắt !Những chuyện này thường được báo chí Thái Lan đưa tin là hiện tượng ngựa về ngược.

Thái Lan là quốc gia đầu tiên đưa môn tà thuật vào bộ môn quyền cước .Sau đó mới tới các nước Cao Miên ,Ai Lao...nghĩa là các quốc gia mà đạo Phật được đưa lên hàng quốc giáo .Theo sự nhận xét của một số thần học gia thì ,những hiện tượng huyền bí bắt gặp được trong võ Thái Lan ,không thể bị liệt vào hàng tà thuật ,mà chỉ coi như là một sự kiện khoa học ,mà người đời chưa thể giải thích được.

Tạp Chí Thai Charocun

Thạch Lãng Tử



#13

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

 

Gửi vào 01/04/2012 - 09:14

Cám ơn các bạn vào đọc truyện "VÕ BÙA TÁI XUẤT GIANG HỒ?"

Sửa bởi hiendde: 19/10/2012 - 04:01







Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |