Về quan điểm nghiên cứu, tôi tuyệt đối đồng ý với quan điểm của bác VFOR và bạn. Học gì thì học, nhưng tất cả đều phải xuất phát từ nguồn gốc tinh đẩu, phải bám sát vào khía cạnh tại sao người ta phát minh ra chúng, còn nếu không thì tất cả chỉ là nói nhăng nói càn. Có cái khác biệt, bạn thì làm với bác VFOR, còn tôi thì independent research nên chắc chắn sẽ chịu bất lợi hơn.
Tôi đồng ý rằng NDTTP này sở trường là về kiếm chiêu, là đại diện cho trường phái kiếm tông, về lý thì tôi không dành thời gian để quan tâm. Tuy vậy, cái lợi thế của nó là đưa ra một quan điểm độc lập để tránh bị tình trạng ôm lấy một mớ man thư rồi tưởng mình biết tất cả, sau đó thì người làm về nguồn gốc tinh đẩu và có hiểu biết và tư duy logic sẽ sử dụng chúng như gợi ý để chứng minh độc lập, để tự động hiểu ra cái gì là đúng, cái gì là sai, cái gì có thể chứng minh, cái gì là niềm tin. Tất nhiên, Sơn Đông Mãi Võ phái thì mãi mãi đi vào mê đạo, hoặc mất khoảng 50 năm cho việc nghiệm lý một vài tính chất, đó là chuyện của họ.
Tử Vi Đài Cảng không nhất thiết phát triển kiếm chiêu, mà cũng có nhiều người quan tâm đến việc đi vào nguồn gốc, có điều ít được biết đến (vd Tạ Phồn Trị mà VDTT tiên sinh xiển dương). Tuy nhiên, đa phần nhân loại thiểu trí, những sách vở tài liệu như thế thường không bán được, không được hoan nghênh bằng những thứ nhanh nhiều tốt rẻ, tử vi ứng dụng, hàng chợ, chích kim thấy máu, Lịch Vạn Sự, Tử Vi tuổi nhâm tý, Sơn Đông Mãi Võ ...
Ngay như những kỹ thuật của ông VFOR, hỏi thật là được bao nhiêu người đọc, ngoài ông VDTT, tôi và một số ít người khác, còn lại đa phần thì chỉ chăm chăm xem có cái gì nhanh nhiều tốt rẻ để SĐMV cho nó sướng?
Theo BH, thì nguồn gốc của tinh đẩu theo quan điểm của VFOR có khác biệt gì với lý thuyết VDTT trong TVHTKH 1?
____________________________________________________
Lạm bàn về Linh Xương Đà Vũ.Bất cứ một ai học về Tử Vi Đẩu Số đều biết về cách cục này. Sách nói rất nhiều, đại khái toàn là đâm đầu xuống sông chết với cả cuộc sống bí bách. Hỏi thực sự có vậy hay không?
TS VDTT đã bàn trong Tử Vi Biệt Cách.
Đây là một trường hợp mà lý ngũ hành hoàn toàn phù hợp với lý âm dương, và dễ áp dụng hơn.
Vũ Khúc ở cung dương hoặc cùng Tham Lang ở Sửu Mùi hội họp Văn Xương tương đối tốt đẹp, nhưng vì hai sao cùng thuộc kim có tính sát nên hàm chứa nguy hiểm. Đà Linh là hai sao sát có tính âm hàn (Đà là sao âm của cặp Kình Đà, Linh là sao âm của cặp Hỏa Linh). Đà thuộc kim, Linh thuộc hỏa nhưng đới thêm tính kim. Cái đẹp mong manh gặp tính sát âm hàn đã kém đi nhiều; cả bốn sao lại đều mang tính sát của kim nên hội họp trở thành cực xấu, ứng với nguy hiểm hoặc khó khăn to lớn.
Vũ Phá Tỵ Hợi, Vũ Sát Mão Dậu vốn đã không hợp với Xương Khúc nên càng xấu hơn nữa.
Theo lý ngũ hành, kim quá dư tất phải sinh thủy để lấy lại quân bình. Thủy ứng với nước nên phú để lại có câu “Linh Xương Đà Vũ hạn đáo đầu hà” nghĩa là đến hạn Linh Xương Đà Vũ tất gieo mình xuống sông tự tử, ý nói là gặp quá nhiều khó khăn bế tắc, chỉ còn cách chết cho rảnh nợ. Sự thật gặp hạn Linh Xương Đà Vũ không nhất thiết tự tử, nhưng chắc chắn có sự bất xứng ý. Linh Xương Đà Vũ ở phúc đức cũng luận tương tự.
Chú ý: Vũ Khúc bản chất lạnh lẽo, bất cận nhân tình.
Thật ra, tuy sách vở đều đề cập bốn sao, đủ cả bốn sao: Linh tinh, Văn xương, Đà la, Vũ khúc. Nhưng thật ra, cái bộ này, nhân của nó là Linh Xương Đà. Mà hạt nhân trung tâm lại chỉ có Xương Đà mà thôi !. Thực ra Vũ khúc không phải là cái nhân họa của bộ này. Người ta có thể thấy, nếu không phải là Vũ khúc, có thể là một sao khác. Chẳng hạn như thế Vũ khúc bằng Kiếp sát, hoặc cả bộ như Cơ Lộc Mã cũng vẫn nguy hiểm như là với Vũ khúc. Nhưng cái cách bức tử con người ta sẽ khác nhau, cũng như nguyên nhân kích hoạt cái bộ Linh Xương Đà sẽ khác nhau mà thôi.
Điểm đặc biệt, nếu là Vũ khúc, thì bất kể Vũ có thể miếu vượng, vẫn hung hiểm như thường. Bởi vì đó là do khả năng chế giải của Vũ khúc với Linh Đà, đặc biệt là Đà la âm hiểm và tàn độc, khi Vũ khúc gặp nó, khác nào Chuột gặp Mèo đang đói. Thế nhưng Linh Xương Đà mà gặp phải Thiên phủ thì đương số chỉ lao đao thôi, chứ sức mấy mà bức tử nổi đương số. Tùy mỗi cách cục gặp Linh Xương Đà, mà gia giảm hung họa khác nhau.
Vũ khúc thì bị bức tử vì cùng quẫn. Âm Dương thì bị bức tử vì tuyệt vọng, bế tắc không tìm thấy ánh sáng cuối đường hầm. Cơ Lộc Mã thì bế tắc, tuyệt đường sinh nhai, chứ không phải là cứ đi ăn mày là thoát. … Như đã nói, cái Nhân của nó là Linh Xương Đà. Nhưng cái Hạt nhân trung tâm, chính là Đà Xương. Có điều, nó liên quan đến sự thành cách. Không phải cứ thấy Xương Đà là tá hỏa tam tinh.
Việc thành cách, kiểu gì cũng có những dạng sau đây:
-Mệnh – Thân hay trong tam hợp có cả Xương lẫn Đà, và chỉ khi chúng thực là sao bản mệnh mới đúng là thành cách Xương Đà. Khi ấy, vào Vận, chỉ cần gặp Linh, các cách cục tham gia hội họp ra sao, đều là ở vị thế thay cho Vũ khúc mà thôi, đó gọi là biến cách. Gặp một Linh, là đủ quyết đoán rồi. Nếu ngay trong mệnh thân không có sao hay cách cục hóa giải Xương Đà, hay có sao ngăn chặn Đà la. Thì Họa tất sẽ xảy ra.
-Gặp cả ba sao này trong mệnh – thân và tam hợp, mà không có sao hay cách cục khác chia cắt chúng, thì cách này thành với điều kiện Đà Xương phải là sao bản mệnh, còn nếu chỉ có Linh là sao bản mệnh thì cũng không sợ, cho dù cách cục đã thành.
-Nếu chỉ có một sao Xương hay Đà, dù là sao bản mệnh, khi nhập vận gặp Đà hay Xương, thì cũng không thành cách. Nhưng trái lại, gặp Linh thì vẫn hung hiểm như thường, nhưng khi ấy không phải là hung hiểm của bộ Linh Xương Đà. Vì thế, dù có thấy cả bộ, chớ có đoán rằng đương số sẽ bị bức tử !. Đoán như thế, mu rùa có thể bị đập bể có ngày đó.
-Xương và Đà gặp nhau kết thành hạt nhân trung tâm của cách, cũng phải xét đoán cho tinh. Đừng thấy khi Đà la độc thủ Dần – Thân là miếu địa mà đã vội cho hạt nhân này là cách cục tốt. Đừng tưởng Văn xương yếu liễu đào tơ, khuê các mà gặp được người anh Hùng – Đà la độc thủ cung VCD tại Dần – Thân là miếu địa, dẫu có gia thêm Bắc đẩu bội tinh (Ấn Tướng) để trở thành anh hùng QDND mà đã vội mừng. Các bậc phụ mẫu chớ có đem gả bán con gái mình vào những nơi như vậy. Đừng tưởng đó là trai anh hùng, gái thuyền quyên gặp nhau. Nhầm to đấy. Ây là đưa con gái mình vào chỗ chết. Sướng cũng chết, mà khổ cũng chết. Còn khi Đà la hãm địa, thì khỏi nói rồi.
-Sợ nhất là khi Xương gặp Kỵ. Nó mà thành cách Xương Đà, thì chả cần gặp Linh. Đơn sơ như vậy cũng đủ hồn về chín suối rồi, bởi khi ấy cả hai đứa đều “tranh nhau” làm sao bản mệnh. Còn nhiều biến cách nữa, từ cái hạt nhân này. Mỗi biến cách đều có những luận giải khác nhau. Cần cẩn thận xét đoán, không thì nó tốt lại tưởng là xấu và ngược lại. Đơn cử như Linh Xương Đà hội đủ thành cách là cách cực xấu. Nhưng nếu có thấy Vũ được thay bằng Cự – cho dù là hãm địa – mà hóa Quyền thì trước cùng cực, nhưng sau đại phát, cách này là phản vi kỳ cách, người có cách này, làm quân nhân thì lên tướng, cầm quân đánh đông dẹp bắc, uy quyền khét tiếng. Đi buôn thì lỗ lên lỗ xuống, trốn chui trốn lủi, cuối cùng hanh thông, độc bá thiên hạ (đây chỉ là cách dùng hình ảnh thôi nhé, đừng tưởng thành vua thành chúa, rồi khi không được làm vua, làm chúa đến đòi đập mu rùa thì oan khiên lắm).
Xem thế, bộ Linh Xương Đà thật vi diệu, nhiêu khê. Phải tường tận thì mới mong cải được số do nó gây ra.
Không phải cứ thấy Linh Xương Đà, thầy bói kê đơn Cải số, là cứ cho một toa thuốc là sẽ giải được đâu. Có khi uống nhằm thuốc độc, nặng thêm, đẩy con người ta tới chỗ cùng cực hơn đó.
Linh Xương Đà Vũ hoàn toàn không xấu, thậm chí trong nhiều trường hợp nó còn tốt. Đó là khi hành Kim/ Thủy hợp với ngũ hành Hỉ Kỵ Thần theo nghĩa của Thienkyquy về khía cạnh Lý Khí, được cát hóa bằng cách gia thêm LQK ( ba mức thời gian) xét theo khía cạnh tứ hóa, và khi chính tinh đắc cách theo khía cạnh Loan Đầu ).
VD: lá số phan nhật vượng đại vận đẹp nhất và giàu nhất lại chính là làm maphia ở Nga, đắc cách. (xin không bàn ở topic này).
NDTTP và ông Lâm Canh Phàm thì có cùng quan điểm với tôi về khía cạnh tứ hóa. Tuy nhiên, họ còn cho rằng, không chỉ có vậy, các cách cục như Hình Tù giáp ấn, Mã đầu đới tiễn (Kình ở ngọ, song lộc 2 bên), Hỏa Kình không, Hỏa Đà Không, Hỏa Kình Kiếp, Hỏa Đà Kiếp, Kình Linh Không, Linh Đà Không, Linh Kình Kiếp, Linh Đà Kiếp, 4 sát hội họp,Cự Linh Kình, Cự Hỏa KÌnh... nếu gia hội song lộc thì trở thành đại cát, có điều nếu có Kỵ gia vào thì sẽ trở thành đại họa.
Cuối cùng, bàn về ngày sinh/kỳ cục số, có người cho rằng Thái Âm đắc cách nếu người đó sinh vào Trung Huyền, tức là tầm giữa của tháng, vào đầu và cuối sáng thì độ số sẽ giảm đi nhiều. Tôi không biết điều này có đúng không, nhưng có cùng lập luận về việc dựa vào kỳ cục số để nghiên cứu.
Sửa bởi NhuThangThai: 27/02/2012 - 09:12