Jump to content

Advertisements




CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG


48 replies to this topic

#46 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 17/02/2012 - 13:44

Có một câu chuyện tôi đã nghe ở đâu đó về người thợ rèn. Câu chuyện như sau: Có một chàng trai ở xa đến, làm quen và yêu cô con gái của bác thợ rèn Sau một thời gian, cô gái con bác thợ rèn đó có mang ,thấy vậy chàng kia liền tìm cách quất ngựa truy phong, cô gái buồn lắm khóc suốt ngày bỏ cả ăn ngủ. Bác thợ rèn hận chàng trai kia lắm, trong việc làm lúc, bác quai búa mà tâm cứ tưởng tượng ra cái đầu kia của chàng. Mỗi nhát búa gõ xuống bác lại cộng thêm một câu rủa độc. Ở địa phương xa chàng trai kia tự nhiên đau đầu như búa bổ, đau đến không chịu nổi bệnh của chàng ta mỗi nặng, một ngày khi chàng trai sắp chết, người nhà mới đi coi bói và biết rõ nguyên nhân vì đâu. Cha mẹ chàng trai kia mới vội vàng sắm sửa lễ vật đến nhà bác thợ rèn ta xin lỗi và xin cưới cô gái. Từ đó căn bệnh của chàng trai thuyên giảm dần rồi khỏi hẳn.

Dienbatn chỉ nhớ đại khái như vậy, song sự thù hận của con người có thể biến cốc nước lạnh bình thường trở thành thuốc độc là hoàn toàn có thật. Do vậy, khuyên các bà nội trợ, khi thấy trong người không được thoải mái về tinh thần hay đang có chuyện buồn phiền, xin đừng làm cho cơm gia đình keo lại lợi bất cập hại. Người Trung Quốc thường xử dụng những hình nhân bằng vải hay gỗ, ghi tên người cần hại, dán vào đó một lá Bùa và đọc Thần chú để cho người bị hại đau bệnh hay chết. Có một số trường hợp người ta dùng cung dâu, bắn vào hình nhân, dùng kim đâm vào tim của hình nhân và nhỏ vào đó các giọt máu. Một cách khác là họ chọn thời gian nữa đêm, các giờ Sát tử, giờ Trùng tang liên táng mà kêu tên tuổi của người cần hại, rồi đọc chú sai những Linh hồn vất vưởng mà họ đã luyện phép đi hại người.

Trong các nghề, có nghề thợ mộc cũng hay dùng ếm các nhà của người ta. Khi gặp chủ nhà nào đối xử tốt không, họ dùng cách đeo lộn đầu kèo nhà, vẽ hình nhân trên đầu cột cái, hoặc đóng đinh vào trên đấu cột cái. Người Chàm ếm thường dùng là cách dùng một mảnh giấy đỏ, viết tên tuổi kẻ định hại và đặt dưới chân ông Táo sau đó đọc câu Thần chú nhất định. Người sẽ bị ếm cảm thấy nóng này, điên cuồng mà chết. Người Việt thi đơn giản hơn là dùng ngay hinh ảnh của kẻ đó mà đọc chú và yếm dưới chân ông Táo. Ngoài ra con người Chàm cách dùng: Lấy hình của kẻ ếm cần, nhét vào bụng một con cá lóc và đọc chú rồi đem thả xuống sông.

Bất cứ Môn phái nào cũng có cách ếm đối, trù rủa của họ, chuyện thiện làm thì cần công sức nhọc thân chứ chuyện ác thì dễ lắm, cứu người thì khó mà hại người thi dễ quá cũng như xây cái nhà lên thi tốn thời gian chứ đập nó xuống thi chỉ Tíc Tắc thôi, vì Hưng thần lúc nào cũng ở gần ta hơn Phúc, Hỷ thần. Phái hội (Lâm ấp, Chiêm thành) ở Phan Rang, Phan Rí... có môn ếm rất ghê rợn và linh nghiệm, khi muốn giết hết nhà người nào đó thì họ đếm coi bao nhiêu người trong nhà tất cả, sau đó chạng vạng tối họ ra rừng kiếm một nhánh cây có số lá tương xứng với số đó có người nhà, sau đó cầm nhánh cây đó hướng về hướng nhà kẻ thù có cùng họ đó mà niệm chú nguyền rửa bằng những lời vô cùng độc địa tàn khốc bảy lần hoặc chín lần, rồi nín thở dùng tay tuột nhánh lá cây đó, bao nhiêu cái lá rụng là bấy nhiêu người chết, nếu rụng là hết không còn người nào sống sót. Phái Lổ ban sát thần phù khi muốn ếm chết (tử sát em) thi ông thầy đó phải cắt lấy máu mình vẽ Bừa, rồi chôn trước nhà người đó hay ếm vô họng kèo, đơn vòng...hoặc kiếm cách nhét dấu kín trong nhà.

Về phần thư, thuốc đa số người Miên (kho-me krom) và Chà châu giang ở miền tây và miệt bảy núi đều tinh thâm, ở miệt Thất sơn từ núi Bà (núi Sam) qua ông Cấm, ông Tô, núi Tượng, núi Dài...Tri tôn, và tấn Xà tiên xuống cả Hà miền, Lục sơn qua Miên đều có xử dụng. Bùa phép của người Khơ-me dùng tiếng Nam Phạn (pali) bắt nguồn từ miền Nam Ấn độ, làm ảnh hưởng du nhập của Phật giáo nguyên thủy giống như các nước lân bang: Lào, Thái, Tích lan... và cộng thêm tín ngưỡng balamôn giáo thời các vương quốc Phù Nam, Champa nên huyền thuật của họ rất đa dạng, kỳ bí và lắm tông nhiều phái được người Miên gọi chung nôm na là Bà Lây (pali). Những chuyện như: nuôi một cái râu cọp cắm măng vào mục trong khắp da bò chôn dưới đất thời gian sau vài tuần sẽ biến thành con sâu rồi lấy nó làm phân thuốc độc, hoặc lấy ba con hơn lan đục thân cây đu đủ bỏ vào đọc thần chú nhét lại thân cây sau trăm ngày đến lấy tán bột phơi khô dùng làm thuốc độc giết người trong vô sắc vô vị quả là có thật, và còn nhiều và rất nhiều cách thức trong thiên nhiên có thể giết người cũng như cứu người, có người còn sai được con ruồi, lan xanh chân tẩm độc dược bay đến nhà kẻ mình muốn giết mà đậu vào đồ ăn mà đầu độc kẻ ấy...

Còn rất nhiều loại khác như: Bùa thương thi các phái đều như nhau Chà, Miên, Xiêm, Mẹ sanh, Lổ ban, Lào, Mới, Hội (Chăm pa) đều có phép thương và bí phương bản môn tu luyện, ông thầy nào chịu khổ luyện thi sắc, ví dụ như bữa thương phái Chà luyện trăm ngày, sau đó dùng lưỡi họa bóng vô tay đến nắm tay cô nào thì cô say đắm đó mà theo, nếu luyện cao hơn nữa chỉ cần vẽ vô giấy vo lại Liệng thì trúng nàng nàng nào đó cũng cuốn gói đi theo luôn, còn Bừa thương phái Mẹ sanh luyện trăm ngày đọc vuốt con gà mái đang ấp mê ổ cũng chạy theo mình huống gi con gái.

Tuy nhiên, theo bà Bảy, không phải ai cũng chịu ảnh hưởng của các việc Thư, Trù, ếm. Những người có chân mạng là vĩ nhân, những người tu hành Đạo cao đức trọng, những người thật thà lương thiện có bầu Phước lớn thì mọi việc Thư, Trù, ếm đều không có kết quả. Người bình thường, vốn trong Nghiệp Duyên đã có cái kết cục vay trả, thì việc bị trúng những cái đó cũng là một cách phải trả nghiệp. Còn những người tu hành Đạo cao đức trọng, những người thật thà lương thiện có lớn bầu Phước, người có chân mạng là vĩ nhân...thường là có Long Thần Hộ Pháp đi theo hộ trì. Lúc đó, tác hại độc ác của Thư, Trù, ếm giống như một quả bóng quăng vào bức tường, phản lực sẽ khiển quả bóng bật ngược trở lại, nếu ném lực mạnh sẽ phản càng mạnh. Lúc đó người lãnh hậu quả lại chính là người thực hiện các việc xấu trên.

Dù với ai cũng vậy cái chữ Nghiệp Duyên luôn luôn theo đuổi trong suốt cuộc đời và vô vàn kiếp về sau này. Gieo gió thì phải gặt bão. Người có tâm địa làm điều ác, trước sau cũng phải gánh chịu những hậu quả do mình gây ra. Và cái lãi suất phải chịu đựng khi vay để làm ác thật là kinh khủng. Có thể không chỉ riêng người đó, mà nhiều khi cả con cháu, dòng họ của người đó cũng phải chịu sự trả Quả một cách thê thảm. Lưới Trời tuy thưa nhưng không thể thoát được. Có thể những việc làm ác của mình không ai biết được, nhưng có Trời Đất và vô số các cảnh giới khác đều biết, làm sao chạy được đây????



Sửa bởi hiendde: 17/02/2012 - 14:09


Thanked by 2 Members:

#47 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/02/2012 - 10:53

CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG

NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN

PHẦN HAI

Sống là động mà không xáo động

Sống là thương mà lòng chẳng vấn vương

Sống hiên ngang danh lợi chẳng màng

Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến.

(Bảng thư pháp của Tuệ Chiếu)

Ngày Giỗ Tổ của môn phái sát vào dịp Tết Nguyên Đán. Cách ngày giờ của ngày tổ chức, đám Đệ tử của ông bà Bảy đã lục tục kéo về. Người nào người ấy tay xách nách mang đủ thứ đồ lễ, chất gần kín cả một căn phòng. Những người hàm ơn cứu mạng của ông, bà Bảy từ khắp các tỉnh thành cũng kéo về đông như hội khay. Lúc này, tất cả các cây cột trong nhà đều kín giăng những tấm võng dù, la liệt. Người ta phải chôn ngoài vườn thêm những cây cột để thêm mắc võng mà vẫn còn thiếu. Những người đến sau phải sang ở đậu những nhà kế bên.

Gần Tết, lại đang vào mùa khô, Tây Ninh nắng chang chang như đổ lửa. Từng nhánh điều nặng trĩu những chùm quả đỏ chót lúc lỉu trên cành đong đưa theo những cơn gió. Người ta dựng tạm một lan can bằng khung tre và những tấm lợp lên tăng khách để làm tiếp chỗ. Chỉ những dịp như thế này, người ta mới có thể đánh giá hết những công đức mà ông, bà Bảy hành thiện trong suốt những năm qua. Đang lui cui kê những chiếc bàn tròn trong lan để làm chỗ đãi tiệc, bỗng nghe thầy Bảy cao giọng:

- Hòa ơi, lên đây thầy biểu.

Tôi ngơ ngạc một chút mới biết là thầy Bảy gọi mình. Nhớ lại ngày đầu nhập môn, thầy Bảy đặt cho tôi cái tên theo họ của thầy là: Lê Văn Hòa. Thầy bảo tôi:

- Tao thấy ánh mắt của mày còn nhiều sát khí lắm, mày gặp gì cũng hung hăng, nông nổi là dễ thất bại ơi con lắm. Ta đặt tên cho con Hòa là luôn muốn con lấy hòa làm đầu. Phải biết nhịn con ạ.

Tôi nghe thầy kêu vội chạy lên trên nhà, thấy ông, bà Bảy và thầy Chàm, cùng trưởng Tràng vị đang ngồi bàn tính. Thì ra họ đang lên kế hoạch mời khách trong dịp Giỗ Tổ. Thấy tôi lên, thầy Bảy bảo tôi cùng ông và vị trưởng Tràng đi mời các vị trưởng môn trong ngày vùng nhân về Giỗ Tổ của ông. Chúng tôi cùng lên chiếc Zeep lùn tôi chạy từ Công ty sang từ sớm. Ông Bảy và vị trưởng Tràng xúng xính trong bộ quần áo vạt hò mới cáo, cứ thấy ngưỡng ấy ngưỡng thế nào. Bình thường, tôi chỉ thấy ông bận có cái quần xà lớn màu nâu muôn thủa, nay thấy ông bận đồ lớn tôi chợt bật cười. Ông Bảy cũng như hiểu ý tôi, chỉ lầm bấm trong miệng:

- Thằng mắc dịch, cười chi mà cười.

Thế là tất cả cùng phá lên cười như vỡ chợ. Nơi chúng tôi ghé đầu tiên là Miếu thờ Quan lớn Trà Vong tại Suối Vàng, ngay chân của Núi Bà Tây Ninh. Tại Tây Ninh có nhiều nơi lập Miếu thờ Quan lớn Trà Vong. Tham khảo các sách viết về Tây Ninh thấy viết như sau:

Ngôi mộ ông Huỳnh Công Giản, tức Quan Lớn Trà Vong, được nhân dân chôn cất tại ấp Trà Hiệp xã Trà Vong, Tân Biên. Đền thờ ông được nhân dân xây dựng ở nhiều nơi như: Tân Phong, Trà Vong, Tân Biên, Cay Xiêng, Đồng Khởi, Châu Thành, Thái Vĩnh Đông, Phường một (Thị xã), Thạnh Tân, Hoà Thành. Huỳnh Công Giản là một vị võ quan có tài, quê ở làng Nhật Tảo. Năm 1749 Kỷ Tỵ. Triều đình Huế cử ba anh em nhà họ Huỳnh: Huỳnh Công Giản, Huỳnh Công Thắng, và Huỳnh Công Nghệ là các quan đại thần vào trấn nhậm vùng đất Tây Ninh. Ba ông cùng với đội binh mã của Triều đình thực hiện việc di dân khai hoang lập ấp và giữ gìn an ninh ở vùng đất biên cương.

Vùng Tây Ninh vào thế kỷ mười bảy còn hoang vu, người Miên đến đây đầu tiên, sau người Việt đến. Cao Miên lúc đó còn là thuộc địa của Xiêm, họ không chỉ thích chung với người Việt. Do đó họ nổi dậy đánh nhau với người Việt nhiều lần giữa thế kỷ mười bảy. Lúc đó đền đài của vua Miên là Nạc Ông Chân đóng tại xã Thanh Điền, huyện Châu Thành, gần ngọn Rạch Tây Ninh ngày nay, dân chúng địa phương quen gọi là Phủ Cũ. Sau nhiều lần đánh, quân Miên đã bị đẩy lui.

Huỳnh Công Giản đã cùng em trai là Huỳnh Công Nghệ lập căn cứ kháng Miên, đóng đồn tại Bến Thứ, Rạch gần ngọn Sóc Om, xã Hảo Đước, huyện Châu Thành. Ông chiếm một cánh đồng rộng cứ gọi là đồn Trà Vong, xã Thái Bình. Bờ thành vô cùng kiên cố. Bây giờ, những trận đụng độ giữa người Việt và Miên diễn ra kéo dài suốt mấy mươi năm với vũ khí rất thô sơ: gươm, đao, giáo mác, cung tên.

Một buổi sáng, quân Miên dùng chiến thuật biển người ồ ạt tấn công tại đồn Trà Vọng. Bị tấn công bốn mặt nhưng quân của ông Huỳnh Công Giản cũng kịp thời phản công mãnh liệt. Tuy nhiên vì quân địch quá đông, ông đã cho quân liên lạc với Huỳnh Công Nghệ kêu viện binh. Huỳnh Công Giản tướng tả xung hữu đột dưới vòng vây của kẻ địch. Khi ông đã thấm mệt, nhìn lại thì số quân sĩ hy sinh quá nhiều, trong lúc viện binh chưa đến kịp. Ông chiến vung gươm tử cùng quân Miên đến lúc kiệt sức rồi quay guom tự cắt đầu tuẩn tiết.



#48 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/02/2012 - 11:58

Đền ở Suối Vàng huyện Hòa Thành. Đây là khu lòng chảo nằm sát chân núi Bà Đen, tương truyền đây là nơi tập luyện tập binh mã ngày xưa của Quan Lớn Trà Vong. Đền xây dựng khá lâu, đến năm 1995 để mở rộng lộ giới tỉnh lộ bốn, nhân dân địa phương đã xây dựng ngôi đền mới khang trang tường gạch, cột bê tông, mái lợp ngói, kiến trúc theo hình chữ tam. Đây là ngôi đền ông lớn Trà Vong lớn nhất hiện nay so với các đền hiện hữu thờ ông lớn Trà Vong trên đất Tây Ninh.

Ngoài ra còn có các đền thờ ông Huỳnh Công Nghệ và ông Huỳnh Công Thắng ở những nơi khác. Tại Vàm Bảo, Bến Thứ Rạch Vịnh xã Hảo Đước, huyện Châu Thành có mộ và đền thờ ông Huỳnh Công Nghệ nằm cạnh khu dân cư thưa thớt hiện đang xuống cấp nặng. Tại thành Bảo Quang Hoá, xã Cẩm Giang, Gò Dầu có ngôi đền thờ ông Huỳnh Công Thắng. Ngôi đền kiến trúc hai lớp hình chữ nhị, tường gạch, mái lợp ngói có diện tích 8m×16m. Trong đền thờ bài vị và tượng Huỳnh Công Thắng.

Trên vùng đất phía Tây Bắc Tây Ninh nhân dân xây dựng nhiều đền thờ Quan Lớn Trà Vong. Tuy nhiên, do chiến tranh kéo dài nên nhiều ngôi đền bị tàn phá mà nhân dân chưa có điều kiện xây dựng lại. Hàng năm vào các ngày 16 và 17 tháng 3 âm lịch tại các đền nhân dân địa phương tổ chức lễ cúng tưởng nhớ đến ông lớn Trà Vong rất trang trọng. Nhiều nơi tổ chức cả hát bội và các hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian phong phú mang đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.

Theo thầy Bảy cho biết, tại những nơi có đền thờ Quan lớn Trà Vong, các cao thủ của các môn phái hay về tụ tập rất đông, vừa là lấy chốn nương thân, vừa là nơi họ tu luyện và truyền Pháp cho nhau. Chúng tôi đến nơi đã thấy rất nhiều người đang hành lễ tại đây. Thầy Bảy biểu chúng tôi mang đồ lễ vào bàn thờ trên bày và quỳ tại hàng cuối cùng hành lễ cùng mọi người. Mãi hơn một tiếng sau, việc hành lễ mới chấm dứt, tất cả ra ngoài hàng ba ngồi uống nước. Thấy cái mặt tôi lạ hoắc, mọi người nhào nhào hỏi ông Bảy. Bây giờ ông thầy Bảy mới điềm nhiên bảo:

- Cái thằng đó là thằng con nuôi của bà nhà tôi.

Chỉ mới nghe đến đó, tôi thấy mấy cậu thanh niên trạc tuổi tôi nhấm nháy nhau và một cậu bưng ra cho tôi một tô chè nấu bằng mè đen. Đang vừa đói vừa khát, thấy tô chè thơm phức, tôi điềm nhiên làm một cái đánh xoạt hết nhẵn. Chỉ sau khi tất cả tô chè vào tới dạ dày tôi mới chú ý cái nhìn cau có của thầy Bảy và cái ngón tay ngoắc ngoắc của anh trưởng tràng. Không hiểu mọi người muốn nói gì, vả lại không tiện hỏi trong đám đông, tôi ra xe, bật ghế nằm chờ. Chỉ độ mười lăm phút sau, tôi bất thần thấy người choáng váng và cha mẹ ơi, đau bụng thì quặn và sôi như một cái lẩu, vớ một tờ báo trên xe tôi phóng như bay vào một bụi cây gần đó và gần như tíc tắc xổ gần như hết tất cả những chất lỏng chứa đựng trong người, miệng nôn trôn tháo tôi gần như muốn ngất xỉu đi. Cố lê về đến xe tôi nằm thiếp đi giữa trời nắng chói chang.

Khi đầu óc bắt đầu hoạt động lại, tôi mới hiểu thái độ của thầy Bảy và anh trưởng tràng. Thì ra, nghe tôi là con nuôi của bà Bảy, một cao thủ chuyên về hạ độc, mọi người đùa rỡn muốn thử tài tôi. Nhớ lại những gì bà Bảy đã dạy, tôi đoán chắc họ cho tôi ăn chè có pha nước của lá cây Dầu Bóng. Dầu Bóng loại cây này mà ăn phải một chút nước vắt ra từ lá của nó sẽ bị Tào Tháo đuổi chạy không kịp. Lục tìm trong chiếc ba lô để trên xe, tôi lấy ra hai cái lọ nhỏ xíu mà bà Bảy đưa cho từ trước để phòng hờ. Một chiếc màu xanh lá cây, tôi trút cả vào miệng. Khi chất lỏng vừa qua khỏi cổ, một làn hơi ấm từ Huyệt Đan Điền bốc lên, nóng và rực ngay lập tức cơn đau biến mất.

Ngồi điều Khí một lúc, thấy vòng Châu Thiên vẫn hoạt động trơn tru, tôi mới thở đánh phào một cái. Máy vẫn chạy tốt. Tuy nhiên, cái điều mà mấy cậu thanh niên gây ra cho tôi thì không thể tha thứ được, mặc dù biết họ chỉ đùa và muốn thử tài học trò của bà Bảy theo thói quen trên giang hồ. Lại khạp nước mưa múc một chén đầy nước, bưng ra bộ ván mấy cậu thanh niên ban độ này đang ngồi uống nước, tôi cố làm ra vẻ từ tốn và nói:

- Tôi mới nhập môn, chưa có học hành chi cả. Cảm ơn các anh đã mời tôi chén chè vừa rồi. Nay lấy nước thay rượu, xin các anh uống với một chén nước gọi là làm quen.

Từ lệnh cấm này, tôi đã lấy móng ngón tay út nhúng vào lọ chất lỏng màu trong vắt mà bà Bảy đã đưa. Lúc để chén nước trước mặt mấy cậu thanh niên, tôi dùng móng tay ngón út đó vạch một đường ngang qua bát nước đó. Thật kỳ lạ, chén nước trong vắt là vậy, bây giờ một bên đỏ như máu, một bên vàng như mật ong. Tôi nâng chén nước mời lại câu lệnh cấm thanh niên độ này đưa chén chè cho tôi. Lúc này mặt cậu ta tái dại và cúi xuống luống cuống. Các cậu khác nhìn vào chén nước hai màu người nào người nấy sững sờ. Lúc này đám người lớn mới để ý và lần lượt kéo sang xem chúng tôi tỷ thí.

Tôi bảo cậu thanh niên:

- Tôi mời cậu uống trước, cậu muốn uống nữa nào cũng được, còn lại bao nhiêu tôi xin cạn chén.

Sở dĩ tôi dám làm vậy là tôi đã có uống thuốc giải trước mà bà Bảy đã cho. Lúc này thấy phần thắng đã nghiêng về mình tôi hết sức khoan khoái. Đám người già bên ngoài xì xầm về sự tuyệt độc ngón nghề của bà Bảy. Mọi người thấy vậy lo lắng ra mặt. Bình thường, nếu chỉ là chơi đùa thì không nói làm gì, nhưng ở đây là sự hơn thua, cao thấp giữa các môn phái nên tất cả đều phải cẩn trọng. Danh dự của môn phái là cao hơn hết, thậm chí có phải chết, người ta cũng phải bảo vệ danh dự của môn phái mình. Tuổi trẻ ngông cuồng, vô tình tôi đã đẩy các môn phái khác vào thế phải mất mặt.

Từ nãy giờ thầy Bảy vẫn giả tảng ngồi uống nước, bây giờ vội đến bên tôi vờ giả lả:

- Cái thằng nhóc này, bày đặt làm cái trò ảo thuật làm chi cho anh em sợ.

Nói rồi, ông bung tiếng đánh một cái tách từ hai ngón tay, cái chén nước bể ra làm đôi, chất lỏng trong chén chảy ra ngoài đất bốc lên một làn khói xanh cho phép. Tôi nhìn thấy rất rõ những cái rùng mình của mọi người. Thật ra, động tác của thầy Bảy đơn giản nhưng một phát tên bắn trúng hai cái đích. Thứ nhất là tránh cho các môn phái khác khỏi cái thế mất mặt bầu cua, thứ hai là nâng cao uy tín của bà Bảy.

Một thằng nhóc mới nhập môn như tôi đã thế, nếu gặp phải bà Bảy thì còn đến nước nào... Tất cả gần như thở phào nhẹ nhõm và tôi thấy trong ánh mắt mọi người một sự trọng thị thấy rõ. Mọi người lại quay về chỗ của mình. Tôi ra ngoài xe nằm, kệ để cho thấy Bảy và anh trưởng tràng ở trong mời mọi người đến ăn Giỗ Tổ. Ngồi ngoài xe, tôi lâng lâng như vừa mới uống rượu. Lần đầu ra quân toàn thắng, tôi đã tự khẳng định mình được trước cả đám quần hùng. Bây giờ mỗi khi ngồi nhớ lại, tôi thấy thật mắc cỡ cho cái tính hiếu thắng của mình ngày ấy.


Tác Giả: Dienbatn
Điện Bà Tây Ninh



#49 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/02/2012 - 22:18


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Dienbatn








Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |