Jump to content

  •  
  • Trình Ứng Dụng

Advertisements




NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM


37 replies to this topic

#31 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/10/2011 - 07:00

NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM

10. CHỮA BỆNH VỚI NĂNG LỰC THIÊN NHIÊN

Nguồn thật sự và mục tiêu cuối cùng của việc đánh thức tâm linh là trong tâm chúng ta, không phải ở trong thiên nhiên. Tuy vậy, thiên nhiên có thể là một nguồn giúp đỡ rất lớn lao cho ta. Một sự thưởng thức thiên nhiên cho ta một cơ hội và lập tức trực tiếp tự thoát khỏi chính mình và những mối bận tâm. Chúng ta cần cố gắng một chút để mở rộng với thiên nhiên. Chỉ cần mở rộng mắt và những giác quan, vẻ đẹp hoàn toàn của thế giới tự nhiên có thể đem chúng ta đến gần hơn với con người thực sự của mình. Khi sự tỉnh giác rộng mở, chúng ta đang được dẫn đến thật tánh của tâm ta.

Ở Tây Tạng, lúc còn rất trẻ tôi đã bắt đầu nhận biết sức mạnh xoa dịu của thiên nhiên. Ngọn gió thổi qua và cây cối thung lũng giống như bản nhạc, những con sông có âm thanh của riêng nó. Thậm chí sự im lặng hoàn toàn dường như cũng là một loại âm nhạc. Chúng ta có thể rút toàn bộ chất bổ dưỡng và sự ấm áp từ sức mạnh oai nghiêm, hùng vĩ của những núi non, ánh sáng rộng lượng của mặt trời, mặt trăng hay sự hiện diện bao la của đại dương. Thậm chí nếu chúng ta sống ở đô thị đông đúc hay ngoại ô, thiên nhiên hiện diện trong một chiếc lá cây bên lề đường hay sự ướt át của hàng rào sau cơn mưa. Bất cứ ta ở đâu, trên tất cả là sự rộng mở của bầu trời và hư không như người mẹ luôn khoan dung.

Lẽ dĩ nhiên, chúng ta không cần so sánh thiên nhiên với bất cứ cái gì. Thiên nhiên có thể xoa dịu và sưởi ấm chúng ta, nhưng một cách rốt ráo, thiên nhiên vượt trên những ẩn dụ và khái niệm. Chúng ta dùng những ngôn từ để diễn tả nó, nhưng kinh nghiệm thuần khiết nhất về thiên nhiên chỉ là nhận biết nó đúng thật như nó đang hiện hữu. Thiên nhiên vượt thoát khỏi những giới hạn, sự phân loại, áp lực hay căng thẳng. Bằng sự tận hưởng thiên nhiên một cách rộng mở, với sự tỉnh giác đơn thuần chúng ta có thể làm mềm lỏng đi những bức tường bám chấp và phân biệt của tâm thức.

Đôi khi chúng ta có thể cảm thấy cô đơn hay lẻ loi giữa thiên nhiên bao la. Điều này chỉ là “bản ngã” bé nhỏ của chúng ta tự nhắc nhở chính nó. Thay vì lo nghĩ về sự cô đơn, chúng ta có thể được êm dịu với những cảm giác của mình. Chúng ta có thể thật sự vui thích vì sự lẻ loi này. Nếu chúng ta thư giãn với sự cô đơn của mình, điều này có thể là một sự tỉnh thức. Trong nhiều cách, thiên nhiên có thể giúp chúng ta thoát khỏi sự trói buộc của bản ngã.

Theo đạo Phật, thế giới vật chất, bao gồm cả thân thể chúng ta, được tạo bởi những nguyên tố đất, nước, gió, lửa và hư không. Thiền định về những phẩm tính tốt đẹp của những nguyên tố trong thiên nhiên cho dù ở dạng cây cối, bông hoa, hoặc đại dương, đều là một loại chữa bệnh tự nhiên.

ĐẤT

Đất mẹ oai nghiêm khoan dung tất cả mọi thứ, xấu hay tốt, mạnh hay yếu... Đất đại diện cho tất cả sự thịnh vượng hay cằn cỗi. Đất an bình cho dù mặt trời chiếu sáng hay một cơn bão dữ dội, không thay đổi bởi ngày hay đêm. Nó là nền tảng vững chắc của chúng ta – nhà của chúng ta.

Với sự cẩn thận và tôn trọng, chúng ta ngồi hay nằm ngửa trên mặt đất trần trụi, cát hay đá. Hãy tiếp xúc với nó bằng tay hay chân. Cảm nhận tính chất vững chắc, mạnh mẽ và oai nghiêm. Bằng tham thiền và cảm nhận tính chất mạnh mẽ, bền vững của đất, tâm bạn tự nhiên nhận được những phẩm tính đích thực này.

Hãy tưởng tượng rằng tất cả năng lực không lành mạnh trong thân đã gây ra cho bạn những lo nghĩ, bất an và cằn cỗi sẽ được loại bỏ. Hãy trở thành một với sức mạnh vô biên của đất. Hãy cám ơn năng lực chữa bệnh này, cám ơn sự phồn thịnh và khoan dung của đất nuôi sống chúng ta.

Tập trung vào đặc tính nội tại của đất như mạnh mẽ và bền vững có lợi ích cho những người tâm thức nóng vội, mơ mộng, trôi nổi và yếu đuối hay những người thiếu cảm thức thông thường, tập trung, kỷ luật, hiểu biết thông thường hoặc thiếu phương hướng vững chắc.

NƯỚC

Hãy tham thiền về tính chất bình an, mát mẻ, sạch sẽ, tổng hợp, hài hòa của nước. Hãy thưởng thức dòng chảy của một con sông, vừa kiên định, mạnh mẽ, vừa luôn hài hòa, tổng hợp. Ở biển, hãy thưởng thức sự bao la; hãy để những giác quan của bạn thấm đầy cơn gió âm thanh khỏe khoắn và thấy những ngọn sóng không ngừng nghỉ. Hãy quan sát sự đùa giỡn của sóng, cảm nhận năng lượng, vẻ đẹp của sự đi lên, tới đỉnh và rơi xuống của nó.

Khi uống nước, hãy hoàn toàn kinh nghiệm sự hài lòng về việc dập tắt cơn khát. Khi tiếp xúc với nước, hãy cảm nhận sự tinh khiết của nó. Lúc tắm hay bơi lội, cảm nhận tính chất dịu dàng của nó. Bạn hãy tự mình cảm nhận mọi vấn đề được rửa sạch và tịnh hóa. Khi trời mưa hãy cảm thấy tính êm dịu của cơn mưa. Hãy cảm nhận cơn mưa nuôi dưỡng đời sống và tăng trưởng trong bạn.

Ngồi yên tĩnh bên mặt hồ bình lặng hay một dòng suối chảy, tâm thức bạn hoàn toàn tự nhiên lắng đọng vào sự tĩnh lặng và trong sáng. Sự thuần khiết của nước thúc đẩy sự tôn kính trong ta. Nếu bạn không thể gần được với nước, việc quán tưởng bạn đang ngồi ở trong cảnh như vậy có thể đem lại cảm giác an bình cho tâm thức.

Đối với những người không nhất quán, khó thống nhất cuộc sống, hoặc khó đưa những kế hoạch đến kết quả, có thể sẽ có ích lợi khi tham thiền về sự kiên cố, bình lặng và năng lực trôi chảy của nước – đặc tính vốn có của nước trong việc nuôi dưỡng đời sống và gắn bó sự vật với nhau.

LỬA

Lửa hủy diệt, nhưng nó cũng phát sanh. Sự ấm áp và ánh sáng cho phép đời sống phát triển, nở hoa, kết trái và trưởng thành.

Trong thiền quán, chú tâm vào đặc tính, mạnh mẽ, hùng mạnh chiếu sáng của lửa. Trong đời sống hằng ngày, hãy vui mừng vì ánh sáng, năng lượng, sự ấm áp của mặt trời tỏa khắp. Hãy tưởng tượng tất cả năng lực chết hay tiêu cực và những khó khăn trong cuộc sống được chuyển hóa hay bị đốt cháy bởi ngọn lửa chữa lành. Cảm thấy thân và tâm bạn tràn đầy sự ấm áp và năng lực chiếu sáng làm những phẩm tính tích cực của bạn được chín muồi. Hãy cảm nhận sự ấm áp và hòa nhập làm một với nó. Quán tưởng toàn thể vũ trụ tràn đầy năng lượng vô tận của lửa, và vui thích trong sức mạnh chữa lành của nó.

Thiền định về sức nóng và ấm áp nội tại của lửa là một thuận lợi đặc biệt cho những người thiếu cảm hứng và động lực để thỏa mãn những mục tiêu và hòa nhập hoàn toàn vào cuộc sống.

KHÔNG KHÍ

Không khí bao bọc nhẹ nhàng chúng ta, ban cho đời sống và hơi thở. Hãy nhận biết không khí ở tất cả biểu hiện của nó, khi bất động và khi chuyển động, những phẩm tính thay đổi. Hãy chào đón sức mạnh của những ngọn gió, như thể nó mang bạn lên bầu trời. Hãy chào đón những ngọn gió hiu hiu mơn trớn nhẹ nhàng khuôn mặt và thân thể bạn như thể nó âu yếm chạm xúc từng tế bào và bộ phận. Chú tâm trên hơi thở và nhận biết từng vận động của nó, như thể vũ trụ và bạn trở thành một trong tương tục an bình của hơi thở.

Hãy thấy và cảm nhận tính chất lạ lùng của không khí, hoàn toàn nhẹ nhàng và tỏa khắp mọi nơi. Tưởng tượng rằng với việc tiếp xúc với không khí chữa lành, tất cả năng lượng tiêu cực và những khó khăn được tan đi hay bị thổi bay ra ngoài thân và tâm không còn dấu vết. Hãy tưởng tượng bạn tràn đầy không khí nhẹ nhàng và tất cả năng lượng được tỏa khắp.

Cảm nhận sự nhẹ nhàng và vận động nội tại của không khí – trong cuộc sống hằng ngày hay trong những bài tập quán tưởng – có thể tạo cảm hứng cho những người cảm thấy nặng nề, trì độn, chậm chạp lười biếng và vô cảm. Tuy nhiên, với những ai có tâm thức nhanh nhẹn, dễ kích động, cần phải khéo léo và thăng bằng trong việc sử dụng năng lượng chữa bệnh của không khí.

HƯ KHÔNG

Bằng việc thiền định về sự rộng mở của hư không, nguyên tố duy nhất không phải vật chất, chúng ta có thể kinh nghiệm sự rộng mở rỗng rang của bản tánh mình.

Hư không thì trống không và phi vật chất. Hư không cung cấp khoảng trống cho mọi thứ, kể cả những nguyên tố vật chất khác.

Hãy nhìn ra ngoài bầu trời xanh sâu thẳm và cảm nhận tính chất không nắm bắt và phi vật chất của nó. Hãy thấy và cảm nhận phẩm tính bao la và không giới hạn, sự vô tận của bầu trời. Hãy nhận thức, trong thân thể sẽ phải chết của bạn, hư không và sự rộng mở vượt trên những chất vấn và tạo tác, thời gian hay nơi chốn. Hãy buông đi những niệm tưởng và lo nghĩ của bạn và là một với bản tánh của bầu trời.

Chúng ta có thể cảm nhận sự an bình vĩ đại khi nhìn vào bầu trời, đặc biệt ở một nơi có tầm nhìn rộng và trong một ngày trong sáng. Nhưng bất cứ một cái nhìn thoáng qua nào trong bầu trời cũng có thể đem lại an bình cho chúng ta. Nhìn vào bầu trời đêm, nhất là khi nó trong trẻo, rõ ràng, cũng sẽ khích lệ trạng thái thiền định của tâm.

Bầu trời vô hạn có thừa chỗ cho nỗi đau khổ của ta. Hãy thực hành việc giải thoát vào trong hư không tất cả đau khổ, căng thẳng và bám chấp. Quán tưởng tất cả lo nghĩ và vọng tưởng xấu biến mất vào hư không, giống như mây hay sương mù tan đi không còn một vết tích. Thưởng thức bất cứ cảm giác thoải mái hay an bình nào đến với bạn.

CÂY CỐI

Cây cối có thể là nguồn chữa lành lớn cho tâm. Đức Phật đã chứng nghiệm sự rỗng rang toàn triệt trong lúc ngồi trú dưới gốc cây.

Thiền quán về vẻ đẹp của cây cối là cách đơn giản để nối kết ta với năng lượng chữa bệnh của thiên nhiên. Thoạt tiên, hãy xem xét những phẩm tính của một cái cây: đặc tính lạ lùng của nó, mà dưới mắt ta nó không thay đổi và không có tuổi tác ngày này qua ngày khác; nó vững mạnh trong gió, bão hay mặt trời; sự chịu đựng của nó cho cả nóng hay lạnh; vẻ đẹp của nó trong tuyết giá hay mưa; sự sống động của nó.

Tham thiền với sự hoàn toàn chú tâm của bạn vào những đám lá xanh, có thể trang điểm những bông hoa nở, búp hoa, trái, hạt hay quả chín. Bạn cũng có thể nhìn thật sát một chiếc lá hay một hạt cây, thưởng thức vẻ đẹp lạ lùng và sống động của nó trong kích cỡ rất nhỏ.

Rễ cây cắm chặt vào mặt đất. Hãy thưởng thức sự khỏe mạnh và vững chãi như ngọn núi của cây. Và cũng đánh giá cao tính mềm dẻo uyển chuyển của nó. Cành nhánh của nó di động, đung đưa cả ngày và đêm, như thể trong một lễ hội khiêu vũ tôn vinh vượt trên khái niệm hay ngôn từ. Hãy mở rộng sự tỉnh giác của bạn về sự đẹp đẽ, khỏe mạnh và gây ấn tượng mạnh của cây cối như thế nào. Điều này cho phép cảm nhận sự ấm áp và khỏe mạnh phát triển tự nhiên trong bạn.

Bạn cũng có thể thu hút năng lượng chữa bệnh từ một cái cây bằng cách ngồi yên lặng ở dưới hay bên cạnh nó, hoặc ôm quanh thân cây. Cây cối nối kết với sức mạnh của đất qua bộ rễ và những lực của vũ trụ qua cành, lá. Thân cây là một nhịp cầu sống giữa những lực mặt trời ở trên và mặt đất ở dưới. Nhánh cây vươn ra phía ngoài, biểu trưng tính chất cho và nhận của cây.

Hãy thầm bảo cây hãy cho bạn kinh nghiệm năng lực tự nhiên của nó. Sau đó, khi bạn nhẹ nhàng tiếp xúc với thân cây, hãy cảm thấy bạn đang nối kết với nguồn năng lực thiên nhiên này, và năng lực tích cực đang khởi lên trong bạn. Hãy nhận ra bất cứ năng lực chữa bệnh nào mà bạn kinh nghiệm và hãy sung sướng với bất cứ cảm nhận tích cực nào bạn có được. Hãy nghỉ ngơi với những cảm giác này, để cho tất cả ý niệm và tư duy hòa tan vào năng lực của khoảnh khắc. Đáp lại, hãy cho cây tình thương và sự cảm kích.

Bạn có thể thu hút năng lượng chữa bệnh từ tất cả tạo vật của thiên nhiên đặt căn bản trên những nguyên lý trong bài tập này. Trong sự tham thiền buông xả về thế giới, chúng ta sẽ phải phát triển một sự biết ơn thiên nhiên với tất cả sức mạnh và sự vô biên của nó mà không cố bám chấp hay nắm giữ.

#32 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/10/2011 - 07:11

NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM

11.CUỘC SỐNG HẰNG NGÀY NHƯ SỰ CHỮA BỆNH

Một trong những phương tiện chữa bệnh quan trọng và hiệu quả nhất là chuyển từng bước cuộc sống hằng ngày của bạn thành những bài tập chữa bệnh. Thay vì phân chia thiền định và đời sống thành những phần tách biệt, hãy đem chúng lại với nhau. Bằng cách mang sự tỉnh giác trống trải vào bất cứ điều gì bạn làm, sự thản nhiên, trong sáng và hoan hỷ đều có cơ hội được phát triển rực rỡ. Nếu chúng ta phát triển những thói quen tốt, tất cả mọi việc đều trở thành một sự chữa lành. Vì thế chúng ta phải kiên định cố gắng thiết lập một cách nhìn, suy nghĩ và hành động đúng đắn.

Tỉnh thức là chìa khóa để chuyển hóa cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Hãy buông đi những lo nghĩ và những ghét bỏ theo thói quen, và hãy đơn giản là dòng chảy của những hoạt động của bạn. Hãy nuôi dưỡng trạng thái rộng mở và thư giãn, cho dù bạn đang suy nghĩ với trí thông minh hay hoạt động với thân thể. Khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hãy hiến mình cho điều đó. Khi bạn nhìn ngắm một cái bàn, một bức tranh, hay đang lắng nghe nhạc hoặc người khác, bạn hãy nhìn ngắm hay lắng nghe với trạng thái đó. Hãy sống trọn vẹn với bất cứ điều gì bạn làm. Điều này đem lại sự rộng mở, tỉnh giác và nới lỏng sự trói buộc của bản ngã.

Hãy tiếp cận với cuộc sống trong tinh thần vui thích ấm áp. Chỉ một số ít ngày trên tờ lịch được đánh dấu như là ngày lễ, nhưng chúng ta không cần chờ đợi chúng để được vui vẻ và hạnh phúc. Dù khi những khó khăn hay thách thức xảy đến, một thái độ rộng mở sẽ hướng dẫn chúng ta đi theo con đường tâm linh.

Những kinh văn của Phật giáo Tây Tạng cung cấp nhiều pháp tu đặc biệt để chuyển đổi những hoạt động hằng ngày thành sự thực hành tâm linh. Bao giờ cũng vậy, chúng ta cần biết lời khuyên nào thích hợp nhất với những nhu cầu của ta.

Ngài Yukhog Chatralwa, một đại sư mà tôi được biết vào khoảng năm mười tuổi, có ban cho một giáo huấn khiến hợp nhất toàn bộ cuộc sống với sự thực hành quán tưởng một bổn tôn, đó sẽ là bất cứ nguồn sức mạnh nào cho chúng ta:

Trong lúc ngồi, quán tưởng đạo sư quý báu nhân từ vô song (nguồn của năng lực)

Trên đỉnh đầu của bạn và Tiếp nhận nhiều lần sự ban phước (ánh sáng).

Điều này hợp nhất tâm bạn với tâm chứng ngộ của đạo sư.

Trong lúc bạn đang làm những hoạt động hằng ngày,

Hãy thấy những hình tướng xuất hiện như những hình tướng của đạo sư,

Tất cả những âm thanh là âm điệu của Ngài

Và tất cả những tư tưởng xấu hay tốt đều là tâm trí huệ của Ngài.

Đây là giáo huấn về những hình tướng khởi lộ như những đức hạnh của đạo sư.

Trong khi ăn, hãy quán tưởng đạo sư trong cổ họng và

Dâng cúng Ngài cam lồ của thức ăn và nước uống.

Bấy giờ thức ăn và nước uống sẽ không tạo những nhiễm ô trong bạn, và

Chúng được chuyển hóa thành một lễ cúng thiêng liêng.

Trong khi ngủ, hãy quán tưởng Ngài ở giữa ngực bạn.

Những ánh sáng của thân Ngài chiếu sáng thế gian và tất cả chúng sanh.

Chuyển hóa họ thành ánh sáng và rồi hòa tan họ vào trong bạn.

Đây là giáo huấn về chuyển đổi giấc ngủ và những giấc mơ thành sự thể nhập tánh sáng (quang minh, tịnh quang).

Khi bạn đang rời bỏ cuộc đời để đến cuộc sống kế tiếp (cái chết),

Không có xáo trộn trong quá nhiều lo nghĩ,

Hãy tham thiền về sự hợp nhất tính giác của bạn và Tâm giác ngộ của đạo sư.

THỨC DẬY

Lúc thức dậy, có thể là thời gian hết sức an bình và ấm áp. Thân và tâm sống cùng nhau một cách tự nhiên trong giấc ngủ, và rồi bình minh của sự tỉnh giác xảy đến vào buổi sáng. Thay vì lao vào sự xáo động của những bổn phận hằng ngày, hãy dành thời gian để kinh nghiệm sự hợp nhất của tâm và thân. Hãy thoải mái với cảm giác rộng mở và thư giãn.

Hãy thở sâu thư giãn, một hay hai lần, và giải phóng bất cứ những căng thẳng hay không trong sạch nào đã tích tụ suốt đêm. Hãy dành một vài phút để sống với thân và những cảm giác của bạn. Hưởng thụ sự ấm áp tự nhiên của thân bạn, từ đầu đến lòng bàn chân. Đơn giản là rộng mở một cách không giới hạn. Hãy cảm nhận cảm giác của sự ấm áp, rộng mở và hãy là một với cảm giác đó.

Sự định hướng của thân và tâm này cần là nền tảng đơn giản nhất cho phần còn lại của cả ngày. Khi bạn thức dậy để bắt đầu cho buổi sáng, bạn có thể nghĩ: "Tôi sẽ chú tâm dùng sự tỉnh thức và năng lực này như là nền tảng của những hoạt động trong ngày." Sau đó, thỉnh thoảng trong ngày hãy gợi lại sự ấm áp và bình an bạn đã cảm nhận lúc thức dậy, và hãy để nó thấm vào tâm bạn giống như năng lực và sự tĩnh lặng của đại dương bao la bên dưới những cơn sóng của nó.

Ngay cả khi bạn cảm thấy một loại đau đớn cảm xúc nào đó vào lúc thức dậy, sự khởi đầu tỉnh giác sẽ cho ta một thời điểm tốt để chữa lành. Vì sự tỉnh giác hết sức rộng mở khi chúng ta vừa thức dậy, ta có thể hòa nhập ý thức của mình với cơn đau, và rồi cảm xúc đau đớn có thể trở nên an bình hơn.

Nếu bạn cảm thấy lo âu khi bắt đầu một ngày, hãy nhẹ nhàng tự làm dịu bạn trong những sinh hoạt của mình, và tâm trạng có thể thay đổi. Hay bạn có thể sử dụng những bài tập chữa bệnh để khai thông những năng lực bị bế tắc.

Khi thức dậy, bạn cũng có thể tưởng tượng mình đang thức dậy từ vô minh của giấc ngủ và mở rộng con mắt tâm mình tới trí huệ của an bình, hoan hỷ, ánh sáng và tỉnh giác. Bạn có thể cầu nguyện như vậy cho tất cả chúng sanh.

Ngay khi chúng ta vừa thức dậy, thật khó mà không nghĩ tới những lo lắng, tham muốn và xúc cảm quen thuộc ngay trước mắt của đời sống thế tục. Tuy nhiên, nếu chúng ta quay lại với cảm giác rỗng rang thay vì bám níu vào những cảm xúc đó hoặc chạy theo tâm thức tán loạn như cơn gió lốc, dần dần chúng ta sẽ phát triển được thói quen thức dậy với thái độ này một cách tự nhiên.

Nhiều pháp môn tu tập khác nhau của đạo Phật khuyến khích thái độ này. Có một cách là quán tưởng bạn được đánh thức vào buổi sáng từ giấc ngủ của vô minh bởi giọng nói hoan hỷ của những bậc giác ngộ, người Phật tử gọi đó là "những vị thánh trí huệ", hay những âm thanh của những nhạc cụ của họ như trống cầm tay. Một cách khác nữa là tiếp nhận những ban phước từ nguồn sức mạnh của bạn.

TIẾP NHẬN NHỮNG BAN PHƯỚC

Trước khi đi vào giấc ngủ buổi tối, hãy quán tưởng nguồn sức mạnh trong trái tim hay ở trên bạn, ánh sáng ban phước chiếu sáng suốt trong giấc ngủ của bạn. Lúc đột nhiên thức dậy, hãy cảm nhận sự hiện diện của nguồn sức mạnh sẵn sàng ở trên bạn. Hoặc quán tưởng nó đi lên xuyên qua thân và sau đó ngồi trên đỉnh đầu bạn, như người thủ hộ và dẫn đạo. Hãy hưởng thụ sự ấm áp và mạnh khỏe của sự hiện diện này. Hãy chia sẻ những cảm giác của bạn với toàn thể vũ trụ, và tiếp nhận an bình, hoan hỷ với bạn trong suốt ngày.

LÀM VỆ SINH

Khi rửa mặt, đánh răng hay tắm, hãy tưởng tượng rằng tất cả những gì không trong sạch của bệnh tật, phiền não và căng thẳng được rửa sạch bởi nước tinh khiết và toàn thân bạn được chiếu sáng với năng lực chữa lành.

Khi cảm thấy căng thẳng, bạn có thể làm việc lặt vặt như một sự chữa lành, cũng như trong chuyện Tổ Lamchungpa ở chương 4. Khi bạn lau nhà, giặt quần áo, đổ rác, hình dung rằng những cảm xúc, tinh thần (tâm thức) hay những sự không trong sạch vật chất cũng được tẩy sạch hoặc được mang đi giống như bụi và rác rưởi.

THỞ

Hơi thở là sợi dây treo cuộc sống. Nó là sinh lực cơ bản mà mọi chúng sanh luôn phụ thuộc vào. Nếu có thể chuyển việc thở thành một sự trợ giúp chữa lành tâm linh, việc tu tập của chúng ta sẽ tỏa khắp vào từng phần của đời sống.

Hít thở vài hơi sâu, chậm với ý định mở thoát những lo nghĩ hay tiêu cực. Khi cảm thấy bị trói buộc hay dưới sự căng thẳng, hãy để hơi thở của bạn hoàn toàn thư thả. Hãy vui thích với bất cứ cảm nhận tích cực nào, ngay cả sự thay đổi nhỏ nhất trong tâm thức, hay cảm giác rộng mở. Hãy mong muốn rằng tất cả mọi người có thể kinh nghiệm sự an bình và thoát khỏi đau khổ.

Tỉnh giác hơi thở trong từng lúc suốt ngày đưa chúng ta về nhà của chính mình. Trong lúc luyện tập thân thể, bạn có thể phóng lớn những lợi ích tinh thần và vật chất bằng hơi thở tự do trong sự liên kết với những vận động của thân thể, hưởng thụ cảm giác của sự mở thoát và năng lực của hơi thở.

ĂN UỐNG

Vào sáng sớm, uống một tách nước nóng là có lợi cho sức khỏe. Nó thanh lọc hệ thống tiêu hóa, mở rộng các mô, cải thiện sự tuần hoàn của máu và năng lực. Điều quan trọng là dùng những thức ăn tốt và lành mạnh và uống một lượng nước vừa phải. Thực phẩm được dùng không phải như một nỗ lực vô ích để thỏa mãn những cảm xúc thèm muốn mà phải tùy theo những nhu cầu thực tế của cơ thể. Hãy xem thức ăn là để duy trì và nuôi dưỡng, và thưởng thức với sự tỉnh thức đối với mỗi vị mà bạn ăn. Hãy cố gắng nhận biết quá trình của từng ngụm chất lỏng và từng miếng thức ăn, ý thức đi theo sự di động thức ăn trong cơ thể đến chỗ xa nhất mà bạn có thể.

Hãy cảm nhận món ăn thức uống không chỉ thỏa mãn sự đói khát của bạn mà còn phát sinh sức khỏe trong thân và tâm. Hãy cầu mong niềm vui thích như vậy cho tất cả mọi người. Trân trọng và biết ơn đối với niềm vui thỏa của từng miếng ăn, hớp nước mà bạn nhận.

Một số pháp môn tu tập của đạo Phật xem thực phẩm như những phương tiện của sự chữa bệnh. Ví dụ, hãy tưởng tượng ánh sáng ban phước từ nguồn sức mạnh chuyển hóa thực phẩm thành cam lồ chữa bệnh. Sau đó hưởng thụ nó như một chất được ban phước cung cấp cho bạn sự hoan hỷ và sức khỏe.

Hoặc khi bạn thưởng thức món ăn, hãy nghĩ: "Món ăn này cho tôi sức mạnh để nâng cao cuộc sống tôi và để phục vụ những người khác."

Hoặc nghĩ đến thực phẩm như một tặng phẩm thuần khiết, tuyệt vời và cúng dường thực phẩm ấy lên nguồn sức mạnh. Hãy quán tưởng nguồn sức mạnh tiếp nhận cúng dường với sự hài lòng và ban phước cho thực phẩm vì lợi ích của bạn để đáp trả. Sau đó thưởng thức món ăn với sự tỉnh giác rằng nó đã được ban phước. Sự tu tập này phối hợp lòng sùng kính với những thực hành về sự rộng lượng và tri giác thanh tịnh.

Hoặc khởi lòng bi mẫn với vô số chúng sanh sống trong cơ thể bạn dưới dạng vi khuẩn, hãy thưởng thức món ăn và biết rằng thức ăn này cũng sẽ nuôi sống chúng.

Hoặc với tri giác thanh tịnh, hãy tự quán tưởng bạn dưới dạng một bổn tôn, hoặc thậm chí như một chúng hội hàng trăm bổn tôn. Hãy hưởng thụ thực phẩm như phẩm vật cúng dường đã được ban phước, một phương tiện thiện xảo của trí huệ đem đến sự chứng ngộ an bình và phúc lạc.

ĐI BỘ

Đi bộ là hoạt động thông thường và đơn giản nhất của con người, nhưng có thể hoàn toàn là một niềm vui sướng. Cho dù chúng ta ra ngoài tản bộ hay sải bước có ý hướng đến một nơi nào đó, thì một thái độ thoải mái và sự cảm kích chuyển việc đi bộ thành một sự tu tập trong trí huệ của chánh niệm và chữa lành.

Đi bộ tự nhiên, đem tỉnh giác trọn vẹn vào đó hay bất cứ hoạt động nào khác, có thể cần đến sự thực tập. Thoạt tiên, có thể khó khăn để nhận biết việc đi bộ như một dòng tương tục trong đó những động tác riêng biệt và những hình thái xảy ra một cách tách biệt. Vào lúc khởi đầu, hãy lựa chọn riêng biệt một hình thái đi, chẳng hạn động tác của mỗi một bước chân như là mục tiêu của sự tập trung. Khi chánh niệm phát triển, hãy mở rộng ra với năng lực ban sức mạnh chung quanh bạn: mặt đất, không khí, âm thanh, mùi vị và quang cảnh. Hãy sung sướng với sự tác động qua lại không gián đoạn giữa thân và tâm rồi cứ thế mà bước, bước, bước...

Trong số rất nhiều cách thực hành đi bộ, bạn có thể chọn cách quán tưởng nguồn sức mạnh ở trên vai phải và hình dung bước chân đưa bạn đi vòng quanh hình ảnh an bình này. Sự đi vòng quanh đó là một cử chỉ để tỏ lòng kính trọng với nguồn sức mạnh.

Khi đi vào một căn nhà, một tòa cao ốc hay một khu phố, bạn có thể tỏ lòng kính trọng đối với tất cả những người sống trong đó bằng cách niệm tưởng: "Tôi đang đi vào thế giới của những người khổ đau để giúp đỡ họ", hoặc "Tôi đang đi vào một cõi tịnh độ của chư Phật." Khi đi ra bạn có thể niệm tưởng: "Tôi đang dẫn dắt mọi người ra khỏi khổ đau", hoặc "Tôi cám ơn cơ hội được thấy những người này như các vị Phật."

NGỒI VÀ ĐỨNG

Ngồi là tư thế thân thể chủ yếu để thiền định, giúp cho tâm trí được buông lỏng và phát triển mà ít bị quấy rối nhất. Khi bạn không thiền định, tư thế tốt và vị trí thích hợp vẫn kích thích sự chú tâm chánh niệm hằng ngày. Bạn cũng có thể nhận biết tư thế ngồi vững chãi, làm phát sinh một trạng thái tâm thức có nền tảng và kiên cố.

Khi đứng, hãy mở rộng thân bạn trong một tư thế tốt, buông lỏng, như thể một sợi dây tưởng tượng tại đỉnh đầu kéo bạn đứng lên theo đường thẳng đứng với trục xương sống. Việc thực hành này có lợi ích làm giảm mệt mỏi. Nó cũng giúp bạn rộng mở hơn với những người khác trong quan hệ. Nếu bạn phải xếp hàng chờ ở siêu thị hay trạm xe buýt, cố gắng rộng mở tư thế. Thay vì phiền toái hay chán nản, việc mở rộng tư thế có thể giúp bạn hoan hỷ và rộng mở với khoảnh khắc quý báu của đời sống phơi bày khi bạn đang chờ đợi.

LÀM VIỆC

Thời gian làm việc chiếm trọn phần lớn cuộc sống của ta những khi thức tỉnh. Từ lúc còn bé đến khi bắt đầu trưởng thành, chúng ta là những học sinh làm việc siêng năng từ năm này sang năm khác. Sau đó, chúng ta bận rộn xây dựng sự nghiệp và kiếm sống. Cuối cùng chúng ta về hưu và làm việc siêng năng chỉ để sống còn, để giữ thân và tâm hòa hợp với nhau, và để xua đi nỗi buồn tẻ, cô đơn của tuổi già. Trong cuộc sống trần tục, thời gian ta làm việc và ngủ chiếm nhiều hơn bất cứ điều gì khác.

Nếu sử dụng công việc trong đời sống như một phương tiện chữa lành, ta có thể chuyển hóa cuộc sống thành một mỏ vàng tâm linh và tình cảm. Chúng ta có thể làm điều này bằng cách trau dồi một trung tâm an bình trong chính mình ở mỗi hoàn cảnh có sự làm việc của ta.

Bất cứ ta làm gì, công việc văn phòng, làm vườn, thợ mộc, vẽ hay viết... ta đều có thể sử dụng công việc như một biểu hiện của bản tánh an bình nội tại. Hãy cố gắng tìm ra công việc gì bạn tự nhiên thích thú, mà cũng cố gắng thích thú với bất cứ việc gì bạn làm.

Khi việc làm tiến triển tốt, hãy hoan hỷ và tán thưởng nó một cách chánh niệm. Khi ta cảm thấy buồn tẻ hay chán nản, ta cũng có thể đem sự tĩnh lặng và chánh niệm vào việc này. Hãy thấy tất cả việc làm là thích thú, hoặc ít nhất cũng tìm thấy một điều gì đó thích thú trong công việc. Hãy vui thích với những người bạn tiếp xúc, hãy vui mừng và hài lòng với những vấn đề đã được giải quyết. Cố gắng xem việc làm cực nhọc như một thách thức tích cực, và những kinh nghiệm xấu là một bài tập nhẫn chịu và buông xả. Nếu cảm thấy vướng mắc trong một tình huống cụ thể nào đó, chúng ta có thể tự nhủ: "Không có nơi nào khác tốt hơn chỗ tôi đang ở. Tôi thích ở ngay đây." Bằng cách tự nhủ điều này một cách tin tưởng, bản tánh trống không của ta có thể được mở ra.

Những thái độ như lòng bi mẫn, và những phương tiện thiện xảo như thiền định về ánh sáng, không hề được đưa ra như những lý thuyết hão huyền. Chúng ta có thể đem chúng vào ngay trong công việc. Đặc biệt, thái độ của sự rỗng rang, như được kinh nghiệm ngay lúc tỉnh thức hay tiếp nhận những ban phước vào buổi sáng, có thể là nền tảng cho trọn ngày làm việc của ta. Với sự rỗng rang, mỗi một hoàn cảnh có thể hòa vào kinh nghiệm tâm linh, giống như những bông tuyết rơi vào đại dương.

NHÌN

Nhìn không chỉ đơn thuần là việc thụ động nhận lấy những hình tướng và màu sắc quanh ta. Đôi mắt chúng ta là cửa sổ qua đó ta phóng chiếu năng lực tinh thần. Với một cái nhìn đơn giản thoáng qua, đôi mắt chúng ta có thể truyền thông lòng nhân ái và hoan hỷ. Đôi mắt của một người tiêu cực có thể làm tràn ngập người khác với những chua cay và đau khổ.

Với đôi mắt tươi cười và nồng ấm, hãy để lòng bi mẫn tỏa chiếu ra ngoài. Bằng cách này, hành động nhìn trở thành một sự cầu nguyện, một sự thiền định và một phương thức chữa lành. Nếu chúng ta nhìn người khác với ánh mắt nhân ái và chăm sóc, chúng ta không cần những cầu nguyện hay bài tập tâm thức nào khác. Nếu chúng ta nhìn thế giới bên ngoài một cách tĩnh lặng và trong sáng, con người bên trong chúng ta sẽ phản ảnh năng lượng tích cực này như trong một tấm gương.

NÓI

Cũng giống như với cách ta nhìn người khác, lời nói và giọng điệu của ta có thể tác động sâu sắc đến trái tim của chính ta và những người quanh ta. Vì thế, lời nói nhân từ, chăm sóc trở thành lời cầu nguyện. Giọng nói hằng ngày của ta có thể êm dịu, nhẹ nhàng, mạnh mẽ và cũng dứt khoát khi cần thiết. Nếu chúng ta cảm thấy cứng lưỡi và không thể truyền đạt với người khác, ta có thể cầu khẩn sức mạnh từ nguồn năng lực và hình dung lời nói của mình đã được tịnh hóa. Hãy để âm thanh giọng nói bạn vang ra ngoài một cách tự tin, như thể nó khởi phát tự nhiên từ nguồn sức mạnh.

Nếu chúng ta có thói quen nói một cách không suy nghĩ, điều này có thể gieo rắc mọi thứ phiền não cho chính ta và người khác. Hãy suy nghĩ trước khi nói. Và hãy học cách lắng nghe. Thay vì sử dụng việc nói chuyện như một cơ hội để thúc đẩy công việc, như một chương trình được ghi âm sẵn, tốt hơn ta hãy lắng nghe một cách cởi mở những điều người khác nói. Điều này có vẻ như quá hiển nhiên, nhưng trong chúng ta có bao nhiêu người thực sự làm như vậy? Chúng ta có thể phát triển cái lợi của lắng nghe, cũng là một cách khác nữa để buông bỏ chấp ngã.

NGỦ

Trong sự tu tập cao nhất của đạo Phật, trong giấc ngủ tâm thức hòa nhập vào trạng thái sáng tỏ quang minh (tịnh quang), và sự tỉnh thức trong đó biểu hiện như là trí huệ siêu việt của tánh giác, thoát khỏi chấp ngã. Cần có nhiều kinh nghiệm tâm linh để trải rộng thiền định vào giấc ngủ, điều này có thể được với sự tu tập thành tâm và chuyên nhất.

Ngay cả khi chúng ta không thể chuyển giấc ngủ thành tỉnh giác trong sáng của thiền định, một số những thực hành đơn giản của đạo Phật cũng giúp ta thoải mái khi rơi vào giấc ngủ, và tự thân điều này là sự chữa lành. Hãy quán tưởng ánh sáng một cách rất bình an. Hoặc quán tưởng với lòng sùng mộ nhẹ nhàng nguồn sức mạnh ở trung tâm thân hay ở trên thân bạn, chiếu sáng thân bạn và ánh sáng tỏa ra bên ngoài, thế giới và vũ trụ.

Nếu bạn thích trải rộng sự tu tập của mình vượt trên ý thức của lúc tỉnh thức, hãy có ý định mạnh mẽ rằng bạn sẽ đem tỉnh giác trong sáng của thiền định vào giấc ngủ, và duy trì sự quán tưởng ngay cả lúc tâm thức bạn bắt đầu đi vào trạng thái ngủ. Cuối cùng, nếu ta tiếp tục thực hành như vậy, sự tỉnh giác sáng suốt này có thể khởi lên tự nhiên trong giấc ngủ.

Nếu bạn thức dậy giữa đêm, hãy lặp lại sự thiền định của bạn với một cảm nhận rỗng rang. Việc cảm nhận bạn là một thân thể bằng ánh sáng cũng là một thực hành tốt nếu bạn bị mất ngủ. Hoặc tập trung những tư tưởng tán loạn của bạn bằng cách hướng sự tỉnh giác nhẹ nhàng xuống bàn chân hay vùng ngay dưới rốn và cảm nhận sự hiện diện của ánh sáng ở đó. Sự tỉnh giác buông xả của hơi thở cũng làm cho rất bình lặng và chắc chắn có thể đưa bạn trở lại giấc ngủ.

NHỮNG GIẤC MƠ NHƯ MỘT PHƯƠNG TIỆN ĐỂ TỈNH THỨC

Một tu tập khác của đạo Phật là tham thiền về những giấc mộng, trong giấc ngủ và cả khi tỉnh thức. Chúng ta thường nghĩ những giấc mơ trong đêm của mình như những ảo giác, nhưng một trí huệ sáng suốt hơn chính là nhận thức ngay cả sự hiện hữu của đời sống lúc thức tỉnh cũng là một giấc mơ và hoàn toàn ảo hóa. Tham thiền về sự thật này là một cách để làm yếu đi những ái luyến và tham dục hằng ngày của chúng ta.

Việc suy nghĩ về những giấc mộng và tính ảo mộng của đời sống như thế nào có thể mở rộng cánh cửa đến với tâm trong giấc ngủ. Lúc lên giường ngủ, hãy lặp lại nhiều lần ý nghĩ: "Tôi sẽ nhận ra những giấc mộng của tôi chỉ là những giấc mộng, và không bị vướng mắc hay sợ hãi chúng như thể chúng có thật."

Một số thiền giả có thể đem sự tỉnh giác sắc bén vào giấc ngủ. Trong lúc mộng, họ nhận ra giấc mộng như một ảo giác, và như thế họ có thể bay lượn một cách an lạc bên trên nguy hiểm hay chuyển đổi một con quỷ thành một vị Phật chẳng hạn.

Như vậy, chúng ta nhận biết những giấc mộng như là những giấc mộng, và những hình tướng xuất hiện lúc thức cũng như mộng nữa! Một sự hiểu biết sâu sắc về điều này giải thoát chúng ta khỏi sự trói buộc của những thèm muốn và bám chấp.

Với người theo đạo Phật, sự bình thản mà thực hành này đem lại được xem là sự chuẩn bị tuyệt hảo cho trạng thái chuyển đổi quan trọng giữa lúc sống sang lúc chết. Điều này cũng là một tu tập làm nhẹ đi những đau khổ của đời sống chúng ta lúc thức. Dĩ nhiên, chúng ta phải duy trì những cảm nhận thông thường và sự quân bình của mình. Ở Tây Tạng, tôi nhớ có một người bị lầm lạc đi đến cực đoan là giết mổ trâu bò rồi dùng những giáo lý về giấc mộng như một sự bào chữa. Sự tiếp cận lành mạnh là phát triển một trí huệ chơi đùa về "thực tại". Chúng ta chịu trách nhiệm về những hành vi của mình; định luật nhân quả cho ta biết điều đó. Đồng thời, sự thật cũng là đời sống luôn thay đổi, thoảng qua và như huyễn. Những cường quốc và những chế độ luôn thăng trầm, người ta sống rồi chết, sự vật hiện ra ở đây rồi biến mất...

Trong sự hiện hữu lúc thức của chúng ta, ta có thể vui đùa hơn với những tri giác về các sự kiện "có thực" đè nặng lên chúng ta. Hãy tưởng tượng chúng sẽ như thế nào trong một trăm năm nữa, hay thậm chí vài tháng, vài ngày nữa. Những chiến thắng và thảm kịch vĩ đại hôm nay có vẻ như cứng chắc và rất thật, nhưng với một ít thời gian trôi qua chúng chỉ còn tính chất của những chuyện thần thoại lý thú. Thế nên ta không cần phải quá nghiêm trọng với chính mình. Chúng ta có thể thư giãn đồng thời tiến bước trên chánh đạo của cuộc đời.

MỘT THỰC HÀNH ĐƠN GIẢN

Chúng ta có thể cảm thấy trói buộc vì bổn phận với gia đình, bạn bè và công việc ngay từ lúc ta thức dậy, đến nỗi dường như thật khó mà tu tập tâm linh. Nếu đúng là như thế, tốt hơn chúng ta hãy thực hành đơn giản trên giường trước khi thức dậy và bị rối tung bởi cuộc sống hỗn độn hằng ngày.

Thực hành tỉnh thức trong sự rộng mở, như đã mô tả ở phần đầu chương này, là một sự rèn luyện đặc biệt rất hiệu quả. Tâm thức được thoải mái trong sự ấm áp và tĩnh lặng. Hãy biết rằng bạn có thể trải rộng cảm giác trống trải đến mọi hoàn cảnh.

Bắt đầu với thực hành buổi sáng làm gia tăng ảnh hưởng của năng lượng chữa lành, giống như một buổi sáng bắt đầu với bình minh tươi đẹp.

BA ĐIỂM QUAN TRỌNG ĐỂ TẬP TRUNG VÀO

Cách tốt nhất để sống là gì? Câu trả lời rất tốt là đặt sự nhấn mạnh trên khoảnh khắc hiện tiền, chỉ ngay ở đây, ngay bây giờ, điểm chính xác trong đó chúng ta đang sống và có quyền tác động một cách trực tiếp và tức thời. Vì thế, trước hết hãy nắm lấy ngay giây phút này và sống một cách khôn ngoan, tốt đẹp trong hiện tại, không lãng phí sự tập trung của bạn vào quá khứ, tương lai hay một nơi nào khác.

Thứ hai, chúng ta phải tập trung chú ý vào cuộc sống của chính mình và những người mà ta có trách nhiệm. Bằng sự ứng xử thực tế với những người sống quanh ta, ta sẽ không rơi vào sự khái quát hóa mơ hồ và những thế giới mộng tưởng. Bắt đầu từ bây giờ hãy là một nguồn hạnh phúc cho những ai hằng ngày tại đây, bao gồm gia đình, bạn bè, hàng xóm – và chính bạn.

Thứ ba, chúng ta phải tự hiến dâng mình cho lợi lạc và hạnh phúc của tất cả mọi người, đặc biệt với những người chúng ta có liên hệ. Điều này là tinh túy của tâm linh. Như người ẩn sĩ nói cho vị vua vào lúc cuối truyện "Ba câu hỏi" của Léon Tolstoy:

Hãy nhớ: chỉ có một thời gian quan trọng, bây giờ. Và nó quan trọng vì đó là thời gian duy nhất chúng ta có quyền chi phối chính mình; và người quan trọng nhất là người đang hiện hữu với bạn, vì không ai có thể biết chắc được liệu mình có còn được tiếp xúc với ai khác nữa sau đó, và việc quan trọng nhất để cố gắng là đối xử tốt đẹp với con người, vì chính đó là mục đích duy nhất mà con người hiện hữu trong cuộc sống này.

#33 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/10/2011 - 07:14

NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM

PHẦN 3: NHỮNG THIỀN ĐỊNH CỦA ĐẠO PHẬT

12. CON ĐƯỜNG ĐẾN RỘNG MỞ RỖNG RANG

NHỮNG THIỀN ĐỊNH CHỈ VÀ QUÁN

Những bài tập chữa bệnh trong sách này có ý nghĩa giúp chúng ta hạnh phúc và an bình hơn trong đời sống hằng ngày. Đây là một mục tiêu tuyệt hảo nhưng có lẽ còn giới hạn, vì đạo Phật tin rằng sự chữa lành rốt ráo là vượt lên hạnh phúc “của riêng mình”, để chứng ngộ trí huệ chân thật và giải thoát, siêu việt sự bám chấp vào những tư tưởng và cảm xúc. Những chương cuối cùng này phác thảo một số pháp thiền định căn bản có thể mở ra cho chúng ta sự chứng ngộ này.

Việc mô tả thiền định bao giờ cũng khó khăn, vì ngôn từ chỉ có thể diễn đạt gần đúng kinh nghiệm thực tế của một cá nhân. Hơn nữa, sự chứng ngộ có nhiều giai đoạn. Các thiền giả, ngay cả người có nhiều kinh nghiệm và tận lực, rất dễ sai lầm bám chấp vào một giai đoạn này hay giai đoạn khác. Đây là lý do vì sao vào một thời điểm nhất định nào đó, việc thận trọng tìm kiếm một vị thầy hướng dẫn là điều rất quan trọng.

Với một số người thông tuệ, bất kỳ bài tập chữa lành hay kinh nghiệm nào cũng có thể dẫn đến giác ngộ. Ở Tây Tạng, có những câu chuyện về những người sơ học thiền định về “những thực hành tiên khởi” và đã kinh nghiệm sự chứng ngộ cao nhất, trong khi những người khác thực hành những tu tập cấp cao nhất và mong muốn trí huệ có thể không có một manh mối về ý nghĩa thật sự của những giáo lý.

Những thực hành chỉ và quán (hay an định và quán chiếu), vốn rất phổ biến trong tất cả các trường phái của đạo Phật, là những phương pháp đã được chứng nghiệm qua thực tiễn, có mục tiêu rốt ráo là đạt đến sự rỗng rang và “vô ngã”, tức là giải thoát khỏi đau khổ gây ra bởi chấp ngã.

Mặc dù những thực hành này hướng đến sự chứng ngộ cao hơn, nhưng chúng có thể mang lại lợi ích cho bất kỳ ai, bất kể trạng thái tâm thức hay cấp độ tâm linh của người ấy là như thế nào.

Tất cả các pháp thiền định trong những chương cuối này cũng có thể mang đến hạnh phúc và sự chữa bệnh “thông thường”; cũng giống như những bài tập chữa bệnh “thông thường” được mô tả ở phần trước trong một số trường hợp có thể dẫn đến sự chứng ngộ.

Mặc dù chúng ta có thể tu tập tâm thức trong thiền chỉ, bằng cách đem tất cả sự chú ý tới bất kỳ hiện tượng nào, nhưng ở đây là sự chú tâm vào hơi thở. Hơi thở của chúng ta là đối tượng đơn giản của sự chú ý, không có màu sắc và hình dáng. Hơn nữa, hơi thở gắn chặt thân thiết với tâm và thân, đến độ việc hướng sự tỉnh giác của ta vào nó sẽ tự nhiên giúp ta vững chắc trong chánh niệm, và như thế mở rộng con đường đến nhất thể.

Ngoài sự tham thiền về hơi thở, nhiều trường phái Phật giáo cũng dựa vào những thực hành thiền quán mạnh mẽ. Nhưng không nghi ngờ gì, thiền định đơn giản về hơi thở chứa đựng hạt giống giác ngộ. Sự nhấn mạnh được đặt vào chánh niệm và tỉnh giác về hơi thở, đó là con đường đi đến định và tuệ.

Thiền chỉ là sự vững chắc của tâm, phương tiện đến nhất thể, sự tẩy sạch bùn nhơ thành sự rộng mở. Thiền quán là tỉnh giác và nhất thể, bản thân sự rộng mở, không có khái niệm hay phân biệt giữa “bản ngã” và đối tượng đang được kinh nghiệm.

Với những người sơ học, có thể mất nhiều tháng, thậm chí nhiều năm rèn luyện thiền chỉ trước khi thích hợp với thực hành thiền quán, thì những ranh giới giữa những pháp thiền định này có thể rất mơ hồ. Vì thế, đừng lo nghĩ quá nhiều về những định nghĩa. Chỉ đơn giản là ngồi trong một tư thế tốt và thực hành tỉnh giác về hơi thở.

Đặc biệt vào lúc đầu, tâm trí chúng ta có thể giống như một nơi chốn tả tơi và hỗn loạn, bị quấy phá bởi những âm thanh, tư tưởng hay sự kích thích nhẹ nhất. Nhìn thấy tính chất chuyển động, không ngưng nghỉ của tâm là bước đầu hướng đến sự tập trung. Bằng cách đem tâm trở lại với hơi thở của mình, dần dần nó có thể trở thành vững chắc hơn.

THIỀN CHỈ

Tu tập thiền chỉ là tập trung vào một đối tượng mà không có bất kỳ sự xao động nào. Nói cách khác là chúng ta tập trung một cách toàn tâm toàn ý, có nghĩa là ta tập trung sự tỉnh giác vào chỉ một đối tượng duy nhất, trong trường hợp này là vào hơi thở của ta. Liên tục lặp lại việc hướng sự tỉnh giác của bạn vào hơi thở một cách nhẹ nhàng mà dứt khoát.

Nhiều người sơ học được ích lợi khi chú tâm trên hơi thở tại một điểm đặc biệt như đầu mũi, hay nhân trung là chỗ có thể cảm thấy hơi thở. Tuy nhiên bạn không cần thiết xác định vị trí hơi thở theo cách này, miễn là bạn cảm thấy thoải mái và có thể tập trung sự chú ý của mình.

Một phương cách hiệu quả khác là đếm hơi thở. Đếm trong tâm bạn "một" khi hít vào, "hai" lúc thở ra... cho đến "mười", tiếp tục không gián đoạn chuỗi số này, từ một đến mười rồi lặp lại càng lâu càng tốt nếu thấy thoải mái.

Buông lỏng vùng bụng có thể giúp bạn thở bình lặng. Một số người có khuynh hướng thở cao trong vùng ngực, nhất là khi họ căng thẳng, chúng ta nên thở tự nhiên, khi hít vào bụng phình ra nhẹ nhàng, hơi thở trở nên đầy và thoải mái.

Trong lúc tập trung vào hơi thở, nếu cảm thấy khó chịu, như thể hơi thở trở nên ngắn hơn hay co thắt, hãy tập trung nhiều hơn trên hơi thở ra trong một lúc. Thở ra vào khoảng không vô tận giải phóng áp lực của sự tập trung. Nhìn chung, sự hít vào ngắn hơn sự thở ra. Sau một lúc, thời gian kéo dài của hơi thở sẽ tự nhiên trở nên dài hơn, nhưng bạn không nên cố làm cho hơi thở dài hơn.

Khi tâm bạn vững chắc và cảm thấy ít xao lãng, hãy hướng sự nhận biết đến sự vào và ra của hơi thở mà không đếm nữa. Hãy nhận biết hơi thở bạn khi nó khởi lên, trụ lại và tan biến. Sự thực hành thiền chỉ này tạo dễ dàng hơn trong việc đem một chánh niệm thư giãn đến bất cứ điều gì chúng ta làm ngoài lúc thiền định.

Ngay khi ta cảm thấy muốn tự chúc mừng vì sự thực hành thiền chỉ rất tốt đẹp thì có thể đột nhiên ta gần như rơi vào giấc ngủ. Buồn ngủ là một tác dụng phụ tự nhiên của sự yên tĩnh dễ chịu. Không nên chán nản. Nhưng phải thức tỉnh ngay! Việc hướng tâm ý mơ màng, lan man trở lại với hơi thở có thể là một cuộc đấu tranh cam go. Không quá nghiêm khắc hay hùng hổ, nhưng chúng ta phải trở về ngay với hơi thở. Và rồi ta có thể tĩnh lặng và sáng suốt.

Trong khi thiền định, có thể có những kinh nghiệm an bình và vi tế khác nhau. Bạn có thể cảm thấy ánh sáng nhẹ như một cọng lông. Toàn thân bạn có thể được tắm trong phúc lạc, sinh động với một cảm giác như một làn gió mát mềm mại, mơn trớn tiếp xúc thân bạn. Một số người thấy những hình ảnh đáng yêu trong con mắt tâm của họ như những tinh tú, mặt trời, mặt trăng, ngọc ngà, châu báu, tràng hoa... Nếu có bất cứ những gì giống như vậy xảy ra, hãy xem đó như dấu hiệu tiến bộ của sự tập trung. Sự thiền định của bạn có thể rất hoan hỷ, nhưng đừng cố bám giữ hay nắm lấy hỷ lạc. Việc cố nắm giữ, "cố định" hay nhân đôi những kinh nghiệm hỷ lạc này có thể trở thành một chướng ngại cho sự tăng trưởng tâm linh.

THIỀN QUÁN

Tu tập thiền quán là để kinh nghiệm bản tánh chân thật của bất cứ đối tượng tham thiền nào đúng thật như chúng đang hiện hữu. Qua sự tham thiền về hơi thở, chúng ta trở nên nhận biết được những vận động và bản chất vi tế của hơi thở đúng thật như nó đang hiện hữu.

Trong tỉnh giác, hãy trở thành một với hơi thở. Trong sự hợp nhất giữa tâm và hơi thở không còn có bản ngã để bám chấp. Sự thấu hiểu hoàn toàn về bản tánh thật sự của hơi thở có thể giúp chúng ta chứng ngộ bản tánh tuyệt đối của tất cả hiện tượng đều là vô ngã.

Trong thiền chỉ, chúng ta theo dõi hơi thở, vì thế buộc phải rèn luyện tập trung vào hơi thở. Trong thiền quán, chúng ta duy trì sự tỉnh giác về hơi thở mà không suy nghĩ gì về nguyên nhân hay bất cứ ý niệm nào khác, chẳng hạn như là "cảm nhận sự an bình của hơi thở."

Quán là thực hành sự sáng tỏ trong nhất thể. Ví dụ chúng ta có thể nhận biết hơi thở dài, ngắn, lúc bắt đầu, khoảng giữa, và chấm dứt hay sự tĩnh lặng của hơi thở. Hơi thở chúng ta đến, đi và thay đổi, thoát khỏi mọi vướng mắc hay bám chấp. Trong tỉnh giác không cần một cái 'tôi" để suy nghĩ và nhận xét về điều này. Chỉ đơn giản là ở trong sự tỉnh giác về nhất thể.

Có một phương thức thiền quán là bắt đầu với sự quán niệm hơi thở, và tới một điểm nào đó thì buông bỏ cả sự tập trung hay phương pháp. Đối tượng của thiền định sau đó là bất kỳ đối tượng nào khởi lên, hay hoàn toàn không có đối tượng. Chúng ta có thể nhận biết hơi thở, hoặc có thể đơn giản an trú trong khoảng không gian bắt đầu mở rộng ra giữa những tư tưởng.

Trong việc thực hành quán chiếu rỗng rang này, hãy để bất cứ gì khởi lên trong tâm đến và đi, không bám víu. Tất cả những loại tư tưởng, cảm giác, hình ảnh, cảm nhận và kinh nghiệm có thể khởi lên. Không xua đuổi chúng đi và cũng không chạy theo chúng. Chúng ta có thể cảm thấy sự xâm nhập của một "cái tôi" đang theo dõi sự thiền định. Tuy nhiên, không cần thiết phải xem điều này như một sự xâm nhập; đơn giản hãy cứ để nó khởi lên và tan biến đi. Hãy để mọi thứ diễn ra tự nhiên, tích cực hay tiêu cực, không vướng mắc. Sự tĩnh lặng giữa những tư tưởng là bản tánh rỗng rang của chúng ta. Những tư tưởng như chúng khởi lên là hoàn toàn lành mạnh, nhưng đừng bám víu đuổi theo vào chúng.

Trong khi thiền định, chúng ta có thể kinh nghiệm những làn sóng cảm giác đau khổ, nhưng khi chúng ta để cho chúng đến, không nắm bắt, bấy giờ chúng có thể trở nên an bình. Sự không hoàn hảo không phải là vấn đề khi chúng ta rỗng rang, nó tốt đẹp đúng như nó là. Với tỉnh giác của thiền quán, những cảm nhận không phải là dễ chịu hay khó chịu mà được kinh nghiệm một cách rỗng rang và như thế được siêu thoát.

Thực hành thiền quán đem lại khả năng nhìn thấy tính cách của khoảnh khắc thoáng qua, vô ngã, của sự khác nhau vô tận và những hình dạng của hiện tượng, tại điểm chúng khởi lên và tan biến đi. Một chứng ngộ như vậy vén lên bức màn của những ảo giác tâm thức và của những giả tạo thuộc cảm xúc để bày lộ khuôn mặt của bản tánh bổn nguyên của sự vật như chúng vốn là. Thèm khát khoái lạc hay ghét sợ đau khổ, đã mọc rễ trong sự chấp ngã, bấy giờ sẽ tự nhiên tan biến giống như những hình vẽ trên mặt nước.

Trong thiền định, có thể thấy thân thể không phải thanh tịnh, cũng không phải không thanh tịnh, mà chỉ như sự rộng mở bao la. Tâm không phải vĩnh cửu, cũng không phải không hiện hữu, mà chỉ là sự rỗng rang thanh tịnh. Tất cả hiện tượng không phải có ngã tính mà cũng không phải không có ngã tính, một hiện hữu thực sự, mà là rỗng rang, an bình và thoát khỏi tạo tác.

Bất cứ một thoáng thấy rỗng rang nào cũng có thể giúp chúng ta trong cuộc sống. Nếu chúng ta có một hiểu biết và kinh nghiệm nào đó về sự rỗng rang, sẽ khôn ngoan khi làm cho sự thực hành của chúng ta sâu và rộng hơn, trong thiền định và trong đời sống.

Có thể những mô tả về thiền quán và sự rỗng rang khiến cho chứng ngộ có vẻ như không thể đạt được. Suy nghĩ điều này có thể là tốt. Sau đó chúng ta có thể buông xả ý niệm sở đắc một số "kinh nghiệm" như đã mô tả theo một cách nào đó, và điều này tự thân nó có thể giúp chúng ta thiền định một cách rỗng rang.

#34 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/10/2011 - 07:18

NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM

13. THIỀN ĐỊNH SÙNG TÍN CHỮA BỆNH

Tất cả mọi sự vật đều là một trong Phật tánh: tâm, trái đất, tinh tú, thời gian và không gian. Mọi thứ đều hoàn thiện trong cái nhất thể này, ngay cả những gì ta thường thấy như không hoàn hảo. Phật tánh đang hiện hữu trong tất cả chúng sanh, và trong những sự kiện của cuộc sống hằng ngày. Rốt lại, Phật tánh vượt khỏi những hình ảnh ngôn từ hay khái niệm được tạo tác bởi tâm phân biệt, nhị nguyên.

Đây là điều đạo Phật tin tưởng. Khi một số người phương Tây quan tâm đến Phật giáo, họ có thể thất vọng với việc thực hành sùng tín. Họ nói đại loại như: “Cầu nguyện một quyền năng cao ở ngoài chúng ta, đây là điều chúng tôi đã muốn bỏ lại.” Thật là một hoàn cảnh buồn cười, chạy trốn sự sùng tín chỉ để tìm thấy niềm tin và sự cầu nguyện chực chờ sau đó!

Vâng, thực sự thì tất cả vũ trụ là Phật tánh và an bình nằm ngay trong chúng ta. Vậy tại sao phải thực hành sùng tín? Nó là một cách chúng ta buông bỏ ý niệm về bản ngã. Tin tưởng giúp chúng ta rộng mở. Nó là sự thoát khỏi những nghi ngờ và sợ hãi. Rộng mở và tiếp thu là một cách cầu khẩn sự giúp đỡ mà chúng ta cần.

Một số trường phái Phật giáo nhấn mạnh hành động lễ lạy như một thực hành sùng tín. Đây là một cách đơn giản để từ bỏ bản ngã. Nó chấp nhận niềm tin rằng việc bám chấp và cố gắng chế ngự mọi sự sẽ dẫn chúng ta xa cách khỏi trí huệ. Niềm tin cũng có thể ở ngoài hệ thống tôn giáo. Ví dụ, chương trình Mười Hai Bước của Alcoholic Anonymous nhấn mạnh sự từ bỏ cái ngã bé nhỏ và trói buộc đang cố gắng để kiểm soát. Nó công nhận sự cần thiết được giúp đỡ từ một “năng lực cao hơn” trong bất cứ cách nào mà cá nhân hiểu được.

Trong đạo Phật, sự sùng tín là phát triển niềm tin vào đức Phật như vị Đạo sư, tin vào Pháp, những giáo lý của đạo Phật, như con đường Chánh đạo, và tin vào Tăng đoàn, cộng đồng Phật tử như sự nương dựa trên hành trình tâm linh.

Sùng tín nghĩa là cầu khẩn sức mạnh trên đường đạo. Sự đáp ứng những nhu cầu tâm linh của chúng ta có thể không luôn luôn ở dạng chúng ta ước muốn hay mong đợi hoặc phù hợp với thời biểu vạch sẵn của ta. Điểm quan trọng của niềm tin là sự rộng mở, đó là cách tiếp nhận những ban phước và giảm nhẹ đau khổ. Trích dẫn Đạo sư Liên Hoa Sanh (Padmasambhava), Ngài Patrušl Rinpoche viết:

Nếu tâm bạn thoát khỏi những nghi ngờ, những ước muốn sẽ đạt được.

Nếu bạn hoàn toàn tin vào sự sùng tín, gia hộ ban phước sẽ vào trong bạn.

Sự sùng tín giống như mặt trời, làm chảy tan sự chấp ngã và để thật tánh của chúng ta chiếu rọi. Trích dẫn Ngài Drigung Kyobpa Rinpoche, Ngài Patrušl Ripoche viết:

Từ vị thầy, giống như ngọn núi tuyết...

Mà không có sự chạm xúc của những tia sáng mặt trời của lòng sùng tín

Sự ban phước như dòng suối sẽ không tuôn chảy.

Thế nên hãy nỗ lực đưa tâm bạn vào việc tu tập sùng tín.

Nếu chúng ta không có lòng tin hay sự sùng tín, cho dù đức Phật đứng ngay trước mắt chúng ta bằng xương bằng thịt, chúng ta sẽ khó tiếp nhận được bất cứ lợi lạc nào, bởi vì tâm thức ta, vốn là chìa khóa duy nhất cho sự tăng trưởng tâm linh, lại không sẵn sàng đón nhận cơ hội đó. Đây chính là lý do vì sao ngạn ngữ Tây Tạng nói:

Từ bất cứ ai mà người ta thấy như một đức Phật,

Những ban phước sẽ được tiếp nhận như từ một vị Phật.

Từ bất kỳ ai mà người ta thấy như một người ngu si,

Những hiệu quả sẽ đến như từ một người ngu si.

Như vậy Phật tánh ở khắp nơi, nhưng cũng có thể rèn luyện lòng sùng tín bằng việc thiền quán đức Phật, chẳng hạn ở dạng một pho tượng hay một hình ảnh tâm thức. Tự thân pho tượng sẽ không thay đổi cuộc sống chúng ta, chính tâm ta có thể mở rộng ra qua hành động sùng tín. Điều này là tinh túy của phương tiện thiện xảo. Những đối tượng tâm linh có thể tạo cảm hứng cho chúng ta, nhưng yếu tố chánh không phải là ở đối tượng mà là cách chúng ta nhìn nó, một cách tích cực, và cách chúng ta cảm nhận, với sùng tín và niềm tin, chúng giúp ta trên con đường đạo.

Dựa vào một đối tượng tâm linh hay hình ảnh tâm thức nào là một cách tự quán đảnh với hoan hỷ phát sinh từ vị Phật bên trong tất cả chúng ta.

Cho đến bây giờ, tôi đã nhấn mạnh việc người ta có thể thiền quán về một nguồn sức mạnh mà họ lựa chọn như mặt trời, mặt trăng hay một vài hình ảnh cá nhân. Nhưng ở đây, tôi sẽ mô tả một nguồn sức mạnh đặc thù của Phật giáo (Tây Tạng), một sự thiền định sùng mộ về đấng Đạo sư Rinpoche Padmasambhava, người đặt nền tảng cho Phật giáo Tây Tạng ở thế kỷ thứ chín, người là hiện thân của tất cả các bậc giác ngộ – chư Phật, chư Bổn tôn, các vị thánh và các nhà hiền triết.

Có nhiều biểu tượng tâm linh có thể tạo hứng khởi cho chúng ta như nguồn sức mạnh. Ví dụ, chúng ta có thể thiền quán đức Phật Thích Ca Mâu Ni để giúp chúng ta có được trí huệ, hay đức Phật Dược Sư để chữa bệnh, hoặc đức Tara, đức Phật trong thân người nữ, làm lặng tất cả sợ hãi và nguy hiểm. Tôi đã chọn Guru Rinpoche (được biết như đức Padmasambhava) vì lòng từ bi vô biên của Ngài, đã giúp nhiều người cầu khẩn Ngài qua nhiều thế kỷ và vì tôi được tu tập trong dòng truyền thừa của Ngài. Sự hiện diện oai nghiêm của Guru Rinpoche là sự biểu hiện kim cương của Phật tánh tuyệt đối, một sức mạnh và phúc lạc tràn ngập của vũ trụ làm an lặng tất cả phiền não.

Để làm nền cho sự thiền định này, tôi sẽ đi vào một cách khá chi tiết về việc chúng ta có thể quán tưởng hình ảnh Guru Rinpoche như thế nào. Mỗi một chi tiết của hình tượng thánh kết hợp với một hình ảnh thiêng liêng cho chúng ta một lời dạy, và những dấu hiệu, biểu tượng, màu sắc và tư thế có thể khởi dậy những cảm nhận tích cực trong ta như tấm gương phản chiếu những lời dạy đó, vừa là từng cái một tiếp nối nhau, vừa như chúng được thấy và cảm nhận là một phần trong toàn thể.

Những chi tiết có thể giúp cho một thiền giả có kinh nghiệm an trú trong tỉnh giác về một hình ảnh tâm thức trọn vẹn và phong phú. Nhưng đừng lo nghĩ nếu bạn thiếu kinh nghiệm và sự khéo léo thiện xảo; hãy đơn giản quán tưởng như thế nào mà bạn cảm thấy thoải mái.

Trong sự thiền định được hướng dẫn sau đây, vấn đề thật sự là những cảm nhận mà ngôn từ nỗ lực để truyền đạt. Hãy dùng những cảm nhận để cầu gọi trong tâm thức bạn một hình ảnh của Ngài Padmasambhava đơn giản nhưng cảm thông sâu sắc. Nếu bạn chỉ cảm nhận sự ấm áp và sự hiện diện của Đức Padmasambhava, thì trong bản thân sự ấm áp và hiện diện này có thể là sự chữa lành rất hiệu quả.

Cũng nên nhớ rằng những hình ảnh thể hiện trong sách này có ý nghĩa như một trợ giúp. Một bức hình hay bức tượng có thể tạo cảm hứng, dạy bảo hay giúp đỡ bạn như một điểm khởi đầu cho thiền định, nhưng đừng cảm thấy bị giới hạn bởi nó. Điều cốt yếu trong quán tưởng là hình ảnh trong tâm thức bạn, và sự nhiệt thành, rộng mở có thể đến qua sự sùng tín.

CẦU KHẨN HÌNH ẢNH UY NGHI CỦA ĐỨC PADMASAMBHAVA

Giống như một bông hoa nở rộ từ tánh Không, sự hiện diện uy nghi của Đức Padmasambhava hiển lộ từ sự quán tưởng. Trong ánh sáng hào quang đẹp đẽ, Ngài Guru Rinpoche trẻ trung và rực rỡ ngồi trên một mặt trăng chiếu sáng trong trẻo, ở trên một vầng mặt trời sáng chói. Mặt trăng và mặt trời ở ngay trên một hoa sen khổng lồ, tỏa hương thơm ngát, tươi mát với hơi nước. Hoa sen có ngàn cánh hoa chiếu sáng đầy màu sắc.

Mặt trời, mặt trăng và hoa sen là biểu tượng sinh ra của Ngài. Ngài được sinh ra bởi "sự sanh vô nhiễm" trong "Liên hoa Phật bộ", từ sự hợp nhất giữa trí huệ (mặt trời) và đại bi (mặt trăng).

Mặt của Ngài Guru Rinpoche màu trắng hơi hồng luôn luôn trẻ trung và minh triết, vượt khỏi phạm trù thay đổi và tuổi tác. Nụ cười hoan hỷ của Ngài vượt lên đau khổ. Đôi mắt từ ái, trong sáng không chớp đem lại phúc lạc cho vũ trụ, chữa lành tâm chúng ta trong mỗi một vận động và mỗi trạng thái của nó và thân thể chúng ta trong từng tế bào và nguyên tử.

Áo choàng của Ngài tỏa chiếu ánh sáng. Áo choàng trắng bên trong và áo phủ bên trong màu đỏ biểu hiện sự giác ngộ của một Bồ tát, người giúp đỡ tất cả mọi người đau khổ trong thế giới này. Áo phủ bên ngoài màu xanh dương của Ngài biểu hiện sự hoàn thiện trong những chứng đắc mật truyền, và Ngài đắp y của một vị tăng đã thọ đại giới. Áo choàng ngoài không tay thêu kim tuyến là biểu tượng rằng tất cả những tu tập tôn giáo đều là một trong chân lý của vũ trụ. Áo choàng này, nón và giày của Ngài cũng nhắc nhở thần lực huyền diệu của Ngài. Chúng là tặng phẩm từ vị vua của Zahora đã ngạc nhiên trước những thần lực của Ngài. Vị vua cố gắng thiêu cháy Ngài, nhưng Guru Rinpoche đơn giản chuyển hóa ngọn lửa thành nước, bây giờ được biết là hồ Rewalsar ở Ấn Độ.

Guru Rinpoche nắm giữ những biểu tượng của giáo lý. Một chày kim cương (vajra) bằng vàng trong tay phải Ngài biểu tượng cho sự khéo léo thiện xảo không thể hủy hoại và thần lực, nguyên lý của nam. Trong tay trái Ngài cầm một sọ người, giữ một bình đầy nước cam lồ của sự bất tử. Sọ người biểu tượng sự hợp nhất giữa tánh Không và phúc lạc (bliss) là nguyên lý của nữ. Cái bình và nước cam lồ biểu tượng sự trường thọ và chân lý vô thời gian của Phật tánh.

Trong đạo Phật (Tây Tạng), những vị thầy mật truyền thường kết hợp về mặt tâm linh với một người nữ phối ngẫu. Trí huệ của nữ tính được tượng trưng ở đây là một cây đinh ba, dựa vào khuỷu tay trái của Ngài Guru Rinpoche. Ba mũi sắc bén của cây đinh ba biểu hiện ba bản tánh chân thật của tâm: sự rỗng rang, trong sáng và sức mạnh của đại bi. Ba trang hoàng cho cây đinh ba đại diện cho ba thân Phật: bộ xương đầu là toàn thể sự rỗng rang, hình ảnh trưởng thành sung mãn là hình tướng thanh tịnh của Phật, và sự trẻ trung là hình ảnh không thanh tịnh của đức Phật dưới cái thấy của tâm thức bình thường.

Giữa những biểu hiện khác là lọn tóc treo ở cây đinh ba. Đây là sự nhắc nhở việc thực hành trong nghĩa trang việc thiền định về sự tan biến của thân xác và sự giải thoát do chứng ngộ chân lý của sống và chết.

Trong trí huệ vô hạn của Ngài, Guru Rinpoche biết một cách đồng thời từng sự việc xảy ra trong vũ trụ, mà không rời lìa khỏi bản tánh rỗng rang, tuyệt đối của Ngài. Lòng đại bi vô biên của Ngài mở rộng tới toàn pháp giới và đến tận mỗi một chúng sanh, như một người mẹ gieo rắc tình thương yêu cho đứa con duy nhất.

Bây giờ chúng ta đã khá quen thuộc với hình ảnh này, sau đây là một pháp thiền định sùng mộ mở rộng.

CẦU KHẨN SỨC MẠNH VÀ LÒNG ĐẠI BI CỦA ĐỨC PADMASAMBHAVA

Hãy quán tưởng rằng bạn đang ngồi ở một nơi cao ráo như một đỉnh núi, nhìn vào bầu trời trong xanh bao la. Thưởng thức cái nhìn trong vài phút, an trú trong sự rộng mở. Hình ảnh đang ở tại một điểm cao nâng tâm thức bạn lên trên sự ồn náo của mình. Bầu trời rộng mở làm sạch những hình ảnh, cảm xúc và tư tưởng ồn ào khỏi tâm bạn.

Từ sự rộng mở này, đầu tiên hình dung một chỗ ngồi trên hoa sen với những cánh hoa đẹp đẽ, sau đó là một đĩa mặt trời và phía trên nó là đĩa mặt trăng. Cuối cùng, Guru Rinpoche hiện ra rực rỡ.

Hãy cảm nhận sự an bình và ấm áp vô biên của bổn tôn rất thương yêu linh thánh này và an trú thoải mái trong những cảm nhận này một lúc. Hãy để sự sùng mộ tan vào trái tim bạn. Khi bạn đem tỉnh giác của bạn đến hình ảnh, hãy hoàn toàn hiến mình vào nó, không phải chỉ như một hình tướng do tâm thức bạn tạo ra, mà như là vị Guru thật sự và chữa lành, thuần khiết.

Bây giờ tưởng tượng toàn trái đất đầy những khuôn mặt hoan hỷ, những đôi mắt hạnh phúc tràn đầy những tấm lòng sùng mộ của tất cả các loại sinh linh. Tất cả đều nhìn chăm chú vào khuôn mặt thương yêu, đẹp đẽ và đầy sức mạnh của Ngài Guru Rinpoche, nguồn của tất cả sự chữa lành. Hãy tưởng tượng rằng bạn nghe tất cả họ cùng tụng thần chú trong cùng một giọng với một âm điệu dịu dàng và mạnh mẽ như sấm sét. Thần chú (mantra) là một lời cầu nguyện đến Ngài Guru Rinpoche, một phương tiện chữa lành cho những vấn đề của chúng ta, một biểu lộ hân hoan của những năng lực tinh thần và thân xác, một tôn vinh sự hiện diện của bậc thiêng liêng này, một sự thiền định về âm thanh thanh tịnh mà bản thân nó là bản tánh của nhất thể.

Từ những chiều sâu của lòng mình, hãy hát chân ngôn của Ngài Guru Rinpoche, hoặc một trong hai dạng dưới đây:

Trong âm Sanskrit được Tây Tạng hóa:

OM AH HUNG BEDZAR GURU PEMA SIDDHI HUNG

Trong Phạn ngữ:

OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM

Mật chú này có thể tạm dịch là: "Hiện thân của thân, ngữ, tâm của chư Phật, Ôi Padma(sambhava), mong Ngài ban cho tất cả sự gia hộ ban phước."

Như một kết quả của lời cầu nguyện và sự rộng mở là những tia sáng của ánh sáng ban phước nhiều màu sắc từ Guru Rinpoche chạm đến bạn đem đến sự ấm áp và rộng mở trong thân và tâm. Những ánh sáng này không chỉ đẹp đẽ, thanh tịnh mà còn là năng lực của sự an bình, ấm áp, phúc lạc và rỗng rang. Hãy để cảm nhận này thấm sâu vào bạn qua mỗi một lỗ chân lông và ngõ vào thân thể, xua tan tất cả lo nghĩ và phiền não, như ánh sáng mặt trời xua tan bóng tối. Hãy cảm nhận toàn thân bạn chuyển hóa thành ánh sáng và năng lượng chữa lành.

Lặp lại chân ngôn nhiều lần, đem toàn bộ con người bạn vào âm thanh. Hình dung rằng những lời cầu nguyện của bạn làm mở rộng tâm thức của tất cả chúng sanh vào niềm vui sùng mộ và ánh sáng từ Guru Rinpoche tỏa chiếu trong mọi hướng, xua tan tất cả đau khổ, phiền muộn và mê lầm. Tất cả chúng sanh được giải thoát trong một dàn đồng ca hùng lực. Lời hát tràn đầy vũ trụ, trở thành một trong âm thanh, ánh sáng và hoan hỷ.

Hãy hoan hỷ trong sự ấm áp và rộng mở này. Để cho tất cả ý niệm và cảm giác tan vào một đại dương của sự an bình sùng mộ, trong đó không có những phân biệt hay ranh giới, vượt trên đau khổ và kích động, xấu và tốt, đây và kia, anh và tôi, mà nơi đó tất cả là một và cùng như nhau.

Mặc dù mục đích cao hơn của sự thiền định này là chứng ngộ tâm linh, bạn cũng có thể thiền định về Đức Guru Padmasambhava như một nguồn sức mạnh cho sự chữa lành thông thường những vấn đề cảm xúc hay thân xác, bằng việc quán tưởng bất cứ dạng năng lượng chữa lành nào đều bắt nguồn từ hình ảnh, giống như tia sáng laser. Hoặc tưởng tượng cam lồ chữa lành từ cái bình của Ngài Guru Rinpoche chảy vào trong bạn, thoạt tiên tẩy sạch tất cả đau khổ của tâm thức, cảm xúc và thân thể, rồi làm tràn đầy toàn thân, tâm bạn với an bình và sức mạnh. Ngài Guru Rinpoche cũng có thể là nguồn năng lực trong các pháp thiền định có nhờ đến một người khác làm người chữa bệnh cho bạn.

Dù bất cứ sự quán tưởng nào, bạn có thể lặp lại nó thường xuyên trong một thời khóa nếu cảm thấy thoải mái. Khi bạn tụng ca hằng ngày, thỉnh thoảng đem cảm giác rộng mở của thiền định vào cuộc sống của bạn. Bạn có thể tụng ca chân ngôn lớn tiếng hoặc niệm thầm khi bạn ở nơi công cộng.

THIỀN ĐỊNH TRONG SỰ RỘNG MỞ RỖNG RANG

Trong quan điểm cao hơn của đạo Phật, những hình tướng xuất hiện khởi lên từ tánh Không và tan biến trở lại trong tánh Không. Vì thế chúng ta bắt đầu sự thiền định sùng tín này bằng cách đi vào trạng thái rỗng rang, để cho sự quán tưởng khởi lên giống như sự phản chiếu trong một tấm gương trong sáng. Sau khi an trú trong tĩnh lặng trên sự quán tưởng, chúng ta lại kết thúc trong sự rỗng rang và nhất thể. Đó là một tiến trình giống như việc sinh ra, sống và chết đi, một cách tốt để thực hành việc để cho mọi sự đến và đi. Trong mỗi buổi thiền định, đơn giản hãy luôn luôn ở trong trạng thái rộng mở rỗng rang của tâm bạn đúng như nó là vậy mà không bám chấp.

Tùy thuộc vào trạng thái của tâm, chúng ta có thể an trú lâu hơn trong khoảng không của sự rỗng rang. Chúng ta có thể bắt đầu với một quán tưởng, và sau đó buông bỏ kỹ thuật và đơn giản chỉ thiền định trong một cách rỗng rang. Và rồi loại kinh nghiệm thiền định không còn quan trọng lắm, chúng ta có thể hòa nhập toàn bộ kinh nghiệm, người kinh nghiệm và những cách thức để kinh nghiệm vào nhất thể.

Đừng cố định dạng sự rộng mở rỗng rang, hoặc xem nó như cái này hay cái kia, hay đạt được bất cứ điều gì trong nó. Hãy chỉ để sự vật là vậy. Đây là cách để tìm thấy trung tâm của bạn. Nếu bạn tin vào thật tánh của mình, bạn không cần phải tìm kiếm trung tâm nào khác. Hãy chỉ rỗng rang và tỉnh thức.

Chừng nào mà chúng ta còn lệ thuộc vào khổ đau, việc thiền định có thể giúp chúng ta sâu xa và mạnh mẽ. Khi chúng ta chứng ngộ bản tánh của sự rỗng rang, thiền định được hòa tan vào đời sống hằng ngày.

Dựa vào những nguồn chữa lành bên ngoài cũng ích lợi và thậm chí rất cần thiết khi chúng ta còn chịu sự chi phối của những khái niệm nhị nguyên và tùy thuộc vào những đối tượng bên ngoài. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải hiểu rằng sự chữa lành rốt ráo vượt trên sự phụ thuộc vào những lực bên ngoài. Nó là sự bảo đảm cho bản tánh rỗng rang, an bình của chúng ta khiến chúng ta có thể đạt đến trọn suốt sự rỗng rang và an bình đó.

#35 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/10/2011 - 07:22

NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM

14. ĐÁNH THỨC NHỮNG NĂNG LỰC VÔ BIÊN BÊN TRONG CỦA SỰ CHỮA LÀNH

Thở một hay hai hơi thở sâu, buông xả tất cả căng thẳng lo nghĩ và hưởng thụ cảm giác buông lỏng trong thân và tâm bạn. Sau đó từ từ và bình thản đi qua những bài tập sau đây trong vòng một hay hai phút cho mỗi bước.

1. Khi bạn thức giấc vào buổi sáng, hay bất cứ lúc nào trong ngày, hãy cảm nhận sự sùng mộ đến nguồn sức mạnh. (có thể là đức Phật, Guru Rinpoche, hay bất cứ nguồn sức mạnh nào khác.) Sự sùng tín đem đến ấm áp, hỷ lạc, sức mạnh và rộng mở.

2. Hãy quán tưởng và cảm nhận trái tim bạn, trung tâm của thân bạn trong dạng một bông hoa ánh sáng lạ thường, nở rộ trong sự nhiệt thành sùng tín. Như một kết quả, từ đóa hoa lòng sùng tín đó khởi lên trí huệ, tâm bi, năng lực, và những phẩm tính giác ngộ của bạn trong dạng nguồn sức mạnh. Nguồn sức mạnh, trong dạng một thân ánh sáng với sức nóng và phúc lạc, bốc lên qua kinh mạch trung ương, một kinh mạch trống không được làm bởi ánh sáng trong suốt và thanh tịnh, của cơ thể bạn. Bấy giờ nguồn sức mạnh tô điểm bầu trời không vết nhơ và vô hạn, như thể hàng ngàn mặt trời khởi lên với một thân.

3. Hãy tin tưởng rằng nguồn sức mạnh là hiện thân của trí huệ, lòng bi và năng lực của tất cả những bậc linh thánh và của chân lý vũ trụ. Cảm nhận toàn thể thân và tâm bạn tràn đầy sức nóng, hỷ lạc, và năng lượng vô biên do ở trong sự hiện diện của nguồn sức mạnh.

4. Bấy giờ hãy thấy rằng toàn thể trái đất đầy những chúng sanh khác nhau. Trái tim họ tràn đầy sự sùng tín và khuôn mặt họ nở hoa với những nụ cười hoan hỷ. Cặp mắt mở rộng của họ chú mục vào nguồn sức mạnh với sự tán thán. Cùng với bạn, tất cả họ biểu lộ sức mạnh sùng tín trong lời cầu nguyện, ca hát một cách du dương với những âm vang khác nhau, giống như một bản giao hưởng vĩ đại. Hãy tụng ca lời cầu nguyện với sự tán thán lớn lao trong đó không có những giới hạn hay bó hẹp hạn chế nào.

5. Hát những lời cầu nguyện, tưởng tượng những lời cầu nguyện kêu cầu tâm bi của nguồn sức mạnh. Từ nguồn sức mạnh, trí huệ, lòng bi và sức mạnh của nó đến với bạn dưới dạng vô số tia sáng ban phước đầy màu sắc (hay những dòng cam lồ). Những tia sáng này chạm đến từng lỗ chân lông của thân bạn. Hãy cảm nhận sức nóng khi chúng tiếp xúc. Hãy cảm nhận bản tánh phúc lạc của sức nóng. Và cảm nhận sức mạnh của sức nóng phúc lạc này.

6. Sau đó những tia sáng đi vào trong thân bạn. Hãy quán tưởng và cảm nhận rằng tất cả những thói quen tiêu cực, những yếu đuối tinh thần, những xung đột phiền não, thiếu hài lòng, sợ hãi, những bệnh tật hay những bế tắc lưu thông hay năng lực của bạn đều ở trong dạng bóng tối trong cơ thể. Chỉ việc tiếp xúc với ánh sáng ban phước, tất cả bóng tối đều hoàn toàn tan biến, không còn bất cứ dấu vết nào trong thân và tâm bạn. Thân thể bạn tràn đầy ánh sáng rực rỡ lạ lùng, với cảm giác sức nóng, phúc lạc và sức mạnh. Sau đó thấy và cảm nhận rằng toàn thân bạn chuyển hóa thành thân ánh sáng ban phước. Hãy cảm thấy mỗi một tế bào trong thân bạn được chuyển hóa thành tế bào của ánh sáng ban phước với sức nóng, phúc lạc và sức mạnh.

7. Sau đó hãy nghĩ về một tế bào ở trán bạn (hay bất cứ nơi nào khác trong thân thể). Tế bào được làm bởi ánh sáng rực rỡ ban phước. Nó đẹp đẽ và bao la. Hãy đi vào tế bào một cách từ từ. Nó vô biên và vô hạn như bầu trời. Hãy cảm nhận sự bao la của tế bào trong một lúc.

8. Sau đó hãy thấy và cảm nhận thân bạn được cấu tạo bởi hàng tỷ tế bào bao la, đẹp đẽ và phúc lạc như vậy. Mỗi một tế bào được trang hoàng với sự hiện diện của nguồn sức mạnh. Hãy nhận biết sự hiển bày và năng lực lạ lùng của thân thể kỳ diệu của bạn. Tất cả tế bào ở trong tình thương và hòa hợp với mỗi một tế bào khác. Cảm nhận sức mạnh của hàng tỷ tế bào phúc lạc trong thân bạn được trang hoàng bởi những nguồn sức mạnh.

9. Tất cả tế bào của những kinh mạch, bộ phận và cơ bắp của thân ánh sáng ban phước của bạn đang thở. Chúng đang thở bằng sức nóng và phúc lạc một cách rỗng rang và tự nhiên như những ngọn sóng của đại dương. Hãy cảm nhận sự chuyển động phúc lạc của những ngọn sóng. Những cơn sóng vuốt ve, thư giãn và hòa tan bất cứ nơi nào mà chúng ta bị chai cứng hay khó khăn, mọi bám trụ của những cảm xúc không giải quyết và những vết thương chưa lành với những vết tích của nó. Hãy cảm nhận hào quang của năng lượng. Hãy cảm thấy sự cảm nhận. Hãy là một với sự cảm nhận.

10. Rồi bạn có thể hát OM AH HUNG như một chuyển động chữa lành để phát sinh sức mạnh, sự rỗng rang và hợp nhất với chúng. Bạn có thể hát lớn, nhẹ nhàng, hay thầm lặng trong tâm trí bạn.

Khi bạn hát lặp lại chủng tự OM chậm chậm và liên tục, hãy nhận biết những làn sóng âm thanh vang dội mạnh mẽ như thế nào trong mỗi một tế bào, từ những dây thanh quản xuyên qua toàn thân bạn giống như những làn sóng của đại dương. Hãy vui thích trong sự cảm nhận năng lực và sức mạnh, những phẩm tính của thân Phật.

Khi hát chủng tự AH trong cùng một cách như vậy, hãy nhận biết những năng lực làm rỗng rang, giải phóng và làm nở rộ, những phẩm tánh của ngữ Phật.

Khi hát chủng tự HUNG, hãy nhận biết sự hòa nhập của bạn với sự hợp nhất của sức mạnh và rỗng rang, là sức mạnh vô biên, những phẩm tánh của tâm Phật.

11. Bạn cũng có thể kiết thủ ấn như những vận động chữa lành để phát sinh sức mạnh và rỗng rang rồi hợp nhất với chúng.

Rất chậm chạp và liên tục, nắm những ngón tay bạn thành kim cang quyền ấn đặt tại trái tim bạn (đặt đầu ngón tay cái vào dưới lóng thứ ba của ngón đeo nhẫn, sau đó ngón giữa và ngón đeo nhẫn nắm lại đè trên ngón cái, ngón trỏ và ngón út duỗi ra ngửa mặt lên). Đặt bàn chân bạn tại điểm nối giữa hông và đùi. Hãy nhận biết sự vận động vang dội liên tiếp từ mỗi một tế bào của bàn tay qua thân bạn giống như dòng chảy của một con sông. Hãy hoan hỷ trong sự cảm nhận năng lực và sức mạnh là những phẩm tính của thân Phật.

Trong cùng một cách, tạo một cử chỉ hoa nở tại trái tim bạn. Giữ nắm tay hướng lên, mở những ngón tay (từng ngón một, bắt đầu từ ngón út) và mở rộng bàn tay và cánh tay và nhận biết cảm giác hoan hỷ của sự rộng mở, giải thoát và nở hoa, những phẩm tánh của ngữ Phật.

Kiết ấn thiền định, đặt hai lòng bàn tay ngửa lên trong lòng bạn, bàn tay phải trên bàn tay trái, hai đầu ngón cái vừa chạm nhau, và hãy nhận biết sự tự hòa tan mình với sự hợp nhất của rộng mở và sức mạnh, là sức mạnh vô biên, những phẩm tánh của tâm Phật.

Bạn cũng có thể thực hiện những thủ ấn (cử chỉ) này trong lúc tụng ca OM, AH VÀ HUNG.

12. Bạn có thể thấy hào quang bao la lạ lùng của ánh sáng ban phước sáng ngời tràn đầy sức mạnh năng lực chung quanh thân bạn. Đó là hào quang bảo hộ ngăn ngừa bất cứ tác động tiêu cực nào xảy đến. Đó cũng có thể là hào quang của sự chuyển biến khiến chuyển hóa mọi thứ trong hào quang năng lực thành ánh sáng ban phước, giống như những bông tuyết rơi vào nước nóng.

Hãy chia sẻ những ban phước với tất cả những chúng sanh đã từng là mẹ ta.

#36 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/10/2011 - 07:28

NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM

15. SỰ THIỀN ĐỊNH CHỮA LÀNH CỦA TÂM ĐẠI BI

Nếu chúng ta phát triển tâm bi, những kinh nghiệm tâm linh khác sẽ tự nhiên khởi lên trong ta. Tâm bi là gốc của tất cả đức hạnh. Nó giúp ta thoát khỏi sự chấp ngã.

Vì Phật tánh luôn hiện diện trong ta, tất cả chúng ta đều có khả năng khai mở tâm bi to lớn, hào phóng và rộng lượng. Tâm bi mở rộng tâm thức khép kín và đông cứng của ta. Nó làm an bình tâm thái hoang dã và chuyển hóa tính khí lạnh lẽo, mục nát và tiêu cực của ta. Nó đem chúng ta ra khỏi tối tăm, những tù ngục ngăn che được tạo tác bởi tính ích kỷ và sự chán nản để trở thành ánh sáng ban ngày. Thay vì lôi cuốn người khác phục vụ cho bản ngã hoang dã của mình, ta có thể tìm ra trung tâm thật sự của mình nhờ lòng bi mẫn đối với những người khác. Tâm bi là bản tánh chữa lành của tâm ta, qua đó ta có thể tìm thấy an bình.

Dù ta hiểu rằng lòng bi mẫn đặt ta trực tiếp trên con đường chân chánh, chúng ta vẫn thấy khó ngừng sự bám chấp ích kỷ vào những mối quan tâm của mình, chừng nào ta chưa kinh nghiệm được tâm rộng mở với người khác. Cách tiếp cận căn bản của đạo Phật là bắt đầu từ một cách đơn giản và mở rộng vòng của tâm bi ra ngoài.

Vì vậy, chúng ta nên cảm thấy một cảm giác lành mạnh của tình thương cho chính mình, thận trọng với những nhu cầu và tiện ích thật sự và hoan hỷ đón nhận niềm vui khi nó khởi lên trong ta. Chúng ta nên cảm kích những ai ở gần mình và quan tâm chăm sóc họ, đạt được kinh nghiệm trực tiếp của thái độ nồng nhiệt hơn là chỉ dựa vào những ngôn từ hay cảm giác mơ hồ. Dần dần, chúng ta có thể mở rộng việc thực hành tâm bi.

Tâm bi không có nghĩa là lo lắng. Nó là trí huệ chân thật cởi mở và là sự quan tâm chăm sóc. Trái lại, sự lo lắng bị mọc rễ trong sự bám chấp, làm hao mòn sức mạnh của ta và khả năng giúp đỡ người khác.

Thường thường, khi chúng ta quan tâm đến một ai, chúng ta lo nghĩ. Điều này là phản ứng không thể tránh được của một tâm thức bình thường. Vì thế, nếu bạn có thể, hãy quan tâm nhưng không lo nghĩ. Nếu những lo nghĩ nổi lên, đừng lo lắng về sự lo nghĩ đó. Hơn nữa, hãy nhìn điều này như một sự tích cực và nghĩ: “Tôi lo nghĩ vì tình thương với người này. Quan tâm là thái độ tốt nhất.” Bằng việc nhìn sự lo nghĩ trong ánh sáng tích cực này và hoan hỷ vượt qua nó, tác động tiêu cực sẽ được chuyển hóa thành năng lực xây dựng.

Chúng ta có thể cảm nhận tâm bi hướng đến kẻ thù hay những người ta không thích như thế nào? Sự tiếp cận có hiệu quả là xem họ như những người mẹ, trên thực tế họ nhân từ, tử tế và có tình thương, ngoại trừ việc thật tánh của họ bị che lấp; hay có lẽ chúng ta thấy khó khăn trong việc nhận ra Phật tánh trong họ vì cái nhìn của ta bị ngăn che.

Trong thiền định, chúng ta có thể bắt đầu phá vỡ bức tường ngăn cách ta với những người khác. Đức Tsongkhapa nói điều này về tâm bi và thiền định:

“Đặc tính của tâm bi là ý tưởng ‘Cầu cho tất cả chúng sanh được thoát khỏi đau khổ’ và ‘Tôi sẽ dẫn dắt họ đến giải thoát.’ Những giai đoạn của tâm bi là trước tiên ta thiền quán hướng đến những người mình thương, sau đó hướng đến người không thương, không ghét, và kế tiếp là hướng đến những kẻ thù. Khi một người có tâm bi nhìn người thương và kẻ địch cũng như nhau, hãy thiền định tiếp hướng đến tất cả chúng sanh trong vũ trụ.”

Tôi sắp diễn tả một thực tập tinh thần nhắm vào sự thống khổ của người khác một cách sinh động. Một số người lo lắng rằng thiền định trên những đau khổ khủng khiếp có thể làm cho tinh thần yếu đuối, nhưng trên thực tế nó chữa lành chúng ta bằng việc giải thoát sự chấp chặt bản ngã. Vì thế hãy mở rộng trái tim bạn, và để cho cảm giác của tâm bi lớn lên.

Hãy quán tưởng một cách sinh động và đồng cảm với một người bị hành hạ vô hy vọng, kinh hoàng, đang cầu cứu. Bạn cũng có thể dùng hình ảnh của một người đang hấp hối đơn độc với những đau đớn nhức nhối không còn hy vọng sống sót, từng giây treo trên niềm hy vọng được sống, đang kêu gọi giúp đỡ và nhìn chăm chú vào thế giới của những người đang sống với dòng nước mắt. Hoặc bạn có thể quán tưởng một ai đó đang bị những người hành hình kéo lê đến cái chết bằng những bàn tay thô bạo trước đôi mắt sợ hãi, đầy nước mắt vô vọng của những người thân. Hoặc thấy một con vật vô hại, hiền lành đang bị giết thịt bởi con dao bén nhọn của những người đồ tể giữa những tiếng cười sấm sét hãi hùng. Hoặc hình dung một người bị kẹt trong lửa, lũ lụt hay động đất liếc nhìn thế giới yêu dấu lần cuối cùng qua những giọt nước mắt lẫn máu.

Sau đó hiểu rằng sinh linh đau khổ đó không ai khác hơn là cha mẹ, con cái hay người thân của bạn. Đạo Phật tin rằng, tất cả chúng sanh đã từng là người thân của chúng ta, vào lúc này hay lúc khác trong rất nhiều kiếp quá khứ. Và rồi hãy nghĩ: “Lúc bà ấy là mẹ tôi, bà đã cho tôi tất cả tình thương và chăm sóc lúc tôi cần, sưởi ấm trái tim tôi với lòng từ ái và hy sinh hạnh phúc, giấc ngủ vì lợi ích cho tôi. Nhưng hôm nay không ai giúp bà ấy thoát khỏi nguy hiểm này. Bà không có cơ hội phát triển trí huệ và sức mạnh cần có vào lúc cuối cùng này. Tôi là đứa con duy nhất làm sao có thể tiêu tốn tất cả sinh lực vào những trò tiêu khiển ngớ ngẩn của cuộc sống này, thờ ơ với nỗi đau khổ và sợ hãi của bà?”

Bây giờ hãy quyết định đi theo con đường của tâm bi, suy nghĩ rằng: “Ngay từ khoảnh khắc này, tôi nguyện trước toàn thể thế giới, hồi hướng từng phút giây của đời sống tôi để phát triển tâm linh nhằm chữa lành tất cả chúng sanh là những người mẹ đang đau khổ của tôi.”

Bạn cũng có thể bắt đầu tu tập tâm bi bằng việc an trú vào những hình ảnh tích cực. Nghĩ về lòng nhân từ và bi mẫn của một bậc cha mẹ, một người bạn hay một bậc thầy đã bày tỏ với bạn, và gợi lên cảm giác tuyệt diệu của những ký ức ấm áp đó với bạn. Sau đó tự nhủ mình phải chuyển tặng phẩm lớn lao đó của lòng đại bi đến những người khác, và ban tặng một cách rộng rãi, giống như ánh sáng sưởi ấm toàn thể thế giới và vũ trụ.

Hoặc bạn có thể dùng cảm giác đau khổ và sợ hãi sâu xa của mình để phát sinh tâm bi. Đa số chúng ta cố gắng che giấu một cách vô ích khi đau khổ đến với ta, nhưng nó có thể là một nguồn lực vô giá. Với thái độ đúng đắn, mùi vị cay đắng của đau khổ khiến ta dễ dàng hơn trong việc hiểu được sự đau khổ của người khác.

Thấy và cảm nhận đau khổ đem lại một sự hiểu biết mạnh mẽ về sanh tử luân hồi, hiện hữu trần thế ngắn ngủi của chúng ta. Điều này có thể phát sinh một năng lực đầy sức mạnh, không chỉ thương xót hay mong muốn tốt cho người khác, mà là một nguyện vọng và cam kết hết lòng nhận trách nhiệm giải thoát cho tất cả chúng sanh khỏi hầm lửa sanh tử.

Bằng việc phát triển tâm bi mạnh mẽ cho tất cả chúng sanh như những người mẹ, chúng ta sẽ mất đi sự thù hận, ghen tỵ, đố kỵ và thèm khát. Tâm bi làm tiêu tan bức tường phân cách bạn bè và kẻ thù, anh và tôi, tốt và xấu. Nó cung cấp khoảng không cho hạnh phúc và an bình.

Ngài Asanga (Vô Trước) một triết gia Đại thừa vĩ đại của Ấn Độ thời xưa, đã thiền định về Đức Phật Di Lặc (Maitreya), vị Phật của lòng từ ái, suốt 12 năm trong một hang động. Tuy nhiên, Ngài đã thất bại không thấy được bất cứ dấu hiệu nào của thành tựu thực sự, cho đến ngày rời hang động và nhìn thấy một con chó rên rỉ gần chết trên đường. Khi Ngài cố gắng giúp đỡ con vật, đột nhiên tâm bi vô biên bùng mạnh và con chó chuyển thành thân chói lọi của Đức Di Lặc. Ngài Asanga than khóc: “Đức Phật, Ngài ít lòng bi với con, tại sao đã lâu Ngài không cho con thấy mặt.” Đức Di Lặc nói: “Ta luôn luôn ở cùng với con không ngăn cách. Nhưng con không thể thấy ta vì những chướng ngại tâm thức của con. Tâm bi đã tịnh hóa tất cả chúng.”

Khi tâm bi tăng trưởng, ta dễ dàng hơn trong việc buông bỏ sự vật lộn của tâm phân biệt liên tục. Trong sự rộng mở của tâm bi, chúng ta có thể chuyển hóa những mê lầm của mình thành tri giác thanh tịnh, trí huệ bổn nguyên của tâm.

Phần lớn chúng ta khó quan niệm về sự chứng ngộ sự rỗng rang trường cửu, toàn triệt. Tuy nhiên nếu chúng ta thực hành tâm bi, những ảo giác, bám chấp và những thói quen của nghiệp xấu sẽ bắt đầu rơi rụng.

Khi chúng ta thành Phật, tâm bi tự nhiên khởi lên trong ta như một sức mạnh tỏa khắp, hiện diện khắp nơi của Phật tánh. Như Ngài Longchen Rabjampa nói:

Từ bản tánh chân thật (Phật tánh),

Trong tất cả mọi hướng, khởi dậy sức mạnh của đại bi,

Hoàn thành sự lợi lạc cho mọi người qua sự hiển bày của nó.

CẦU KHẨN ĐỨC PHẬT CỦA TÂM ĐẠI BI ĐỂ MỞ RỘNG TRÁI TIM TA

Thiền định về bất cứ nguồn sức mạnh nào cũng có thể giúp chúng ta rộng mở tâm bi, giống như gieo hạt trên mảnh đất màu mỡ. Đặc biệt mạnh mẽ là thiền định về một vị thiêng liêng, như hình ảnh của sự cảm hứng. Bài tập đặc biệt tôi sẽ mô tả sau đây là cầu khẩn Ngài Quán Thế Âm (Avalokiteshvara), đức Phật của tâm đại bi. Sự tiếp cận và nội dung của sự quán tưởng này tương tự với những bài tập khác có thể dẫn ta đến sự rộng mở. Điều then chốt ở đây là ý định mở rộng tâm chúng ta. Dù đôi khi ta khó cảm nhận tâm bi trong cuộc sống hằng ngày, thì tự thân ý định đã là sự chữa lành hiệu quả.

Khởi dậy quán tưởng này với càng nhiều chi tiết nếu bạn có khả năng, thiền quán về hình ảnh với một sự thư giãn nhưng tập trung nhiệt thành. Hiến mình vào thiền định, sao cho tỉnh giác và hình ảnh là một.

Hãy tưởng tượng bạn ở một chỗ cao như là ngọn núi, nhìn vào bầu trời vô hạn. Hít một hơi thở sâu, và an trú với sự rộng mở này trong bao lâu tùy bạn muốn, giải thoát khỏi tất cả những căng thẳng tâm lý và lo nghĩ.

Đức Quán Thế Âm hiện ra từ bầu trời rộng mở trước bạn, trong sự an bình và tạo cảm hứng nhất, và trong một hình dạng đẹp đẽ nhất mà bạn có thể tưởng tượng được. Thân Ngài màu trắng, chiếu sáng rực rỡ, giống như một núi tuyết hay pha lê chiếu sáng hàng ngàn tia sáng mặt trời.

Ngài trang hoàng bằng lụa và châu ngọc, ngồi trên một đĩa mặt trăng giữa một hoa sen đẹp đẽ. Đức Phật ngồi vững chãi, biểu tượng trạng thái bất động của Phật tánh.

Trong sự thiền quán này, đức Phật có bốn tay, ban rải lòng từ bi vô biên cho tất cả chúng sanh trong vũ trụ. Hai bàn tay thứ nhất của Ngài chắp lại ở ngực trong một cử chỉ biểu tượng nhất thể của Niết-bàn và luân hồi, sự hợp nhất giữa giác ngộ và đau khổ của thế gian, sự hoàn thiện của mọi sự vốn như vậy, bao gồm những đấu tranh và sự vô thường thế gian. Trong hai bàn tay chắp lại Ngài giữ một viên ngọc như ý, tượng trưng cho "những phương tiện thiện xảo" thỏa mãn nhu cầu cho tất cả những chúng sanh nào rộng mở với cơ hội. Bàn tay phải thứ hai cầm một tràng hạt pha lê biểu tượng tính kiên định của tâm đại bi của Ngài đối với tất cả. Tay trái thứ hai của Ngài cầm một bông sen trắng biểu tượng trí huệ và sự hiểu biết vô biên, vô nhiễm của Ngài.

Đôi mắt Ngài tràn đầy lòng quan tâm và từ ái vô biên, nhìn không nháy mắt vào tất cả mọi người trong một tình thương vô điều kiện và không ngừng nghỉ, Ngài là cả hai sự trẻ trung và không tuổi tác, vượt trên tất cả đau khổ, và khuôn mặt đang mỉm cười đầy hoan hỷ giải thoát đau khổ cho mọi người.

Hãy phát triển cảm nhận trong tâm bạn rằng điều này không chỉ là một hình tướng do tâm thức tạo ra, mà là hình tướng thanh tịnh, chân thật của đức Phật đại bi, hiện thân của tất cả chư Phật và những bậc giác ngộ. Hãy tin tưởng vào hình ảnh này như là sự phản chiếu bản tánh thanh tịnh của tự tâm bạn, xuất hiện như đức Phật. Hãy cảm nhận sự hiện diện của Ngài trong trái tim, thân và tâm bạn. Hoan hỷ với những ban phước Ngài đem đến nơi bạn đang sống, đến những người đang sống với bạn, và toàn thể vũ trụ.

Trên mặt đất đối diện Đức Quán Thế Âm, hãy quán tưởng tất cả mọi loại chúng sanh vui mừng khôn xiết được hiện hữu trong sự hiện diện của đức Phật. Bây giờ, với một cảm nhận nồng nhiệt, hãy nghĩ rằng tất cả chúng sanh trên trái đất hợp cùng với bạn tụng ca chân ngôn sau đây:

OM MANI PADME HUNG HRI

Hay:

OM MANI PADME HUNG

Chân ngôn này có thể dịch là "Đức Phật của ngọc báu và hoa sen, chúng con cầu khẩn Ngài", hoặc rộng nghĩa hơn là "Ôi, đức Phật nắm giữ ngọc báu và hoa sen của đại bi và trí huệ, mong Ngài ban cho chúng con những ban phước."

Hãy hiến mình trọn vẹn vào âm thanh của sự tụng ca; nói hay hát chân ngôn nhiều lần, theo cách mà bạn tìm thấy sự hứng khởi. Khi bạn làm như vậy, hãy làm tươi mới lại sự quán tưởng của bạn. Với lòng nhiệt thành và sùng mộ, hãy hình dung tất cả chúng sanh ở mọi nơi đều nhìn chăm chú vào đức Phật với đôi mắt mở rộng và hoan hỷ. Âm thanh êm dịu của chân ngôn tràn đầy trong vũ trụ như một bản giao hưởng làm chuyển hóa mọi sắc tướng, âm thanh và ý niệm trở thành sự tán thán đức Phật Đại Bi.

Bây giờ, trong tâm bạn nghe giọng nói êm dịu của đức Phật lặp đi lặp lại rằng: "Tất cả những hành vi và cảm nhận độc hại của con đều hoàn toàn được chữa lành. Bây giờ con thanh tịnh và hoàn thiện. Hãy cảm nhận hạnh phúc và an bình."

Hãy để cho ý nghĩa của những lời này thấm sâu vào lòng bạn, không chỉ như ngôn từ đến và đi mà là một quán đảnh và ban phước thật sự và được cảm nhận sâu sắc.

Bây giờ, những tia sáng rực rỡ của ánh sáng chữa lành chiếu ra từ đức Quán Thế Âm và khi tia sáng chạm vào bạn, lòng bạn hoàn toàn rộng mở tới những người mẹ-chúng sanh vây quanh đức Phật. Những ánh sáng không những có sắc tướng đẹp đẽ, thanh tịnh mà còn là năng lực an bình, ấm áp, phúc lạc và rỗng rang. Ánh sáng từ đức Phật tuôn chảy qua bạn, tới tất cả chúng sanh, xua tan tất cả đau đớn, khổ sở.

Hãy để cảm nhận về tĩnh lặng và rỗng rang lan tràn qua bạn. Cảm nhận rằng toàn thể thế gian trở thành một trong tâm đại bi. Sự rắn chắc và lạnh lẽo như băng giá trong tâm thức chưa thuần hóa của bạn được tan chảy, và bằng sức mạnh ánh sáng của đức Phật Đại Bi, thân bạn được chuyển hóa thành ánh sáng thanh tịnh. Ánh sáng của đức Phật giống như một ngàn mặt trời, nhưng không bao giờ làm tổn thương cặp mắt của bất cứ ai; trái lại còn đem đến một cảm giác an bình và giải thoát. Khi ánh sáng vô tận chiếu sáng rực rỡ trong tất cả các phương, vũ trụ hòa tan trong sự an bình nhất thể.

Hãy cảm nhận sự bao la và rỗng rang của vũ trụ. Để cho tất cả tư tưởng và cảm nhận của bạn tan biến vào trong an bình và ấm áp vô tận của đức Phật, trong tâm bi của Ngài không có phân biệt đau khổ và hạnh phúc, xấu hay tốt, đây hay kia, anh hay tôi... Tất cả là một và như nhau trong an bình vĩ đại. Hãy an trú trong sự rỗng rang của tâm chữa lành của bạn. Sau đó bạn có thể lặp lại sự thiền định này nhiều lần khi thích hợp.

Sự thiền định này có thể đổi khác bằng việc sử dụng những dạng của năng lượng chữa lành khác như đã thảo luận trong phần đầu sách này. Ngài Karma Chakme, một bậc thầy vĩ đại về nghi quỹ, đã đúc kết nhiều thực hành của những kinh điển phổ thông và thiêng liêng, cũng như những lời dạy bí truyền, trong một pháp thiền định về đức Phật Đại Bi có thể dùng để chữa lành những bệnh tật thông thường.

Hãy quán tưởng đức Phật ở trên đầu của người bệnh, có thể là chính bạn hay một người nào khác. Đức Phật Đại Bi có hai tay, tay phải đưa ra trong cử chỉ che chở, tay trái nắm một hoa sen trắng tại trái tim. Trong nhiều khía cạnh xuất hiện kỳ diệu của Ngài là hình ảnh chân ngôn, OM MANI PADME HUNG, chuyển động trong một vòng tròn quanh trái tim Ngài. Từ chân ngôn, ánh sáng huy hoàng chiếu ra rực rỡ.

Hãy cầu nguyện đức Phật Đại Bi, vị Đại Bồ tát, Bậc Thí vô úy. Cầu cho được thoát khỏi bệnh tật, và tin tưởng rằng lời cầu nguyện này sẽ được đáp ứng.

Phần sau của pháp thiền định được Ngài Karma Chakme mô tả như sau:

"Từ thân đức Phật, một dòng cam lồ chảy xuống và cuốn trôi đi mọi bệnh tật và những ảnh hưởng xấu của người bệnh và sau đó cam lồ phúc lạc tràn đầy thân thể người bệnh.

Sau đó lặp lại nhiều lần chân ngôn sau đây càng tốt: "OM MANI PADME HUNG SARVA SHANTING KURUYE SOHA." (Có nghĩa: Đức Phật của đại bi và trí huệ, mong sao tất cả [bệnh tật đó] được bình lặng.)

Bấy giờ đức Phật ở trên đầu người đó tan biến thành ánh sáng và hòa tan vào người bệnh.

Hãy nhớ rằng bạn luôn có thể đem cảm nhận và năng lực từ bất cứ sự thiền định về đại bi nào vào trong đời sống hằng ngày của bạn; đó là một ban phước luôn luôn sẵn sàng cho chúng ta. Hãy chào đón tất cả mọi sự mà đời sống đem lại cho bạn, tất cả đều là cơ hội để chúng ta chứng ngộ thật tánh của mình.

Khi bạn hạnh phúc, hãy cảm nhận điều đó trọn vẹn như năng lực ban phước của đức Phật, mà không bám chấp vào nó. Khi bạn đau khổ, hãy nghĩ: "Mong sao sự đau khổ này là một vật chuộc để giảm nhẹ đau khổ cho tất cả những người mẹ-chúng sanh", và xem sự đau khổ như một nguồn lực tích cực đem lại cảm hứng và tỉnh giác tâm linh, mục đích tối thượng của đời người.

#37 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/10/2011 - 07:32

NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM

PHỤ LỤC: NHỮNG NGUỒN KINH ĐIỂN CHO SÁCH NÀY

Những vấn đề chúng ta đối diện là bây giờ và ở đây, nhưng thường thì lời khuyên tốt nhất cho những khó khăn luôn được truyền lại cho chúng ta từ quá khứ. Một trong những ý định của tôi trong việc trích dẫn rộng rãi những vị thầy tâm linh vĩ đại gần đây hay xưa kia là hãy để những lời minh triết này nói một cách trực tiếp trong những ngôn từ đẹp đẽ và truyền cảm của chúng.

Một lý do khác là để xác nhận sự tiếp cận nền tảng của quyển sách này. Kinh điển tràn ngập những lời giảng về cách thức để tâm thức chúng ta có thể chữa lành đau khổ. Tuy vậy, chỉ phần nhỏ của những kinh điển này có thể thích hợp với những chương của một cuốn sách như sách này. Tôi nghĩ độc giả có thể tò mò muốn biết một số bài tập chữa lành như khi chúng xuất hiện trong kinh điển. Phần phụ lục này cũng trình bày những nguồn kinh điển khác về tâm và những cảm xúc.

CHỮA LÀNH QUA QUÁN TƯỞNG

Kinh điển hướng dẫn chúng ta chữa lành tâm và thân bằng niềm tin mạnh mẽ, cầu nguyện nhiệt thành, và gợi lên những hình ảnh tâm thức.

Bước đầu tiên là nhận dạng được bệnh tật tinh thần hay thể xác – cái mà những bản văn Phật giáo ám chỉ như "đối tượng để phủ định". Những cảm xúc tiêu cực và bệnh mọc rễ trong sự chấp ngã, nhưng trước khi chúng ta làm bình lặng chúng, điều cần thiết là phải thấy chúng rõ ràng. Như Ngài Shantideva (Tịch Thiên) nói:

Không có sự nhận biết thực thể được gán cho,
Bạn sẽ không nhận ra sự không hiện hữu của nó
(không có tự tánh).

Vậy, trước khi quán tưởng một hình ảnh tích cực, chúng ta cần phải hiểu được tâm và nguồn gốc của phiền não. Như Ngài Zhabkarpa nói:

Nếu bạn không xác minh những đặc tính thực tế của tâm là gì,
Bất cứ việc tu hành đức hạnh nào bạn theo đuổi, sẽ không đụng đến điểm cốt yếu.
Cũng giống như có mục tiêu ở gần bên
Nhưng lại bắn mũi tên đi xa mất.
Giống như có một tên trộm trong nhà bạn
Mà lại nỗ lực tìm kiếm ở bên ngoài.

Nhiều bản văn khuyên quán tưởng bệnh tật trong một dạng dơ bẩn. Một khi hình ảnh tiêu cực được gợi lên, nó có thể được tịnh hóa với những năng lực chữa lành như cam lồ và ánh sáng. Ngài Dri-me OŠzer mô tả sự quán tưởng sau đây, trong đó nguồn sức mạnh là đức Phật Kim Cương Tát Đỏa (Vajrasattva) hiện thân của chân lý và sức mạnh vô tận:

Hãy nghĩ rằng từ thân Phật những tia sáng và những dòng cam lồ ban xuống vào trong bạn. Những ngăn che tối tăm của thân bạn được tịnh hóa... Thân bạn được ban phước như thân kim cương, thân Phật. Với những tia sáng và dòng cam lồ từ ngữ Phật, những nhiễm ô của lời nói bạn được tịnh hóa... Ngữ của bạn được ban phước như ngữ kim cương. Với những ánh sáng và cam lồ từ tâm Phật, những ngăn che của tâm bạn được tịnh hóa... Tâm bạn được ban phước thành tâm kim cương. Với ánh sáng và cam lồ chảy xuống từ mọi phần của đức Phật, những nhiễm ô do bám chấp vào thân, ngữ, tâm như một thực thể cá biệt (bản ngã) được tịnh hóa... Bạn đã tiếp nhận sự ban phước trí huệ kim cương.

Trong một nghi thức về chữa lành, Ngài Do Khyentse giới thiệu một quán tưởng chữa lành dùng khói, lửa, không khí, nước và cam lồ:

Tay của vị bổn tôn (nguồn sức mạnh) cầm một bình kho tàng như ý,
Tỏa ra những đám mây khói thơm ngát.
Thiêu cháy mọi bất tịnh, khuyết điểm và nhiễm ô của chúng ta.
Từ lỗ mũi của vị bổn tôn phát ra luồng gió trí huệ,
Thổi tung mọi nhiễm ô, chán nản và vẩn đục.
Từ miệng của bổn tôn, những đám mây, sương ban phước
Và một cơn mưa cam lồ trí huệ đến
Rửa sạch mọi bệnh tật, hậu quả độc hại, nhiễm ô, mất hài hòa và không toại ý của chúng ta.
Cầu cho mọi bất tịnh bị thiêu cháy bởi lửa trí huệ.
Mong sao chúng bị thổi tiêu mất bởi lực mạnh mẽ của không khí
Mong cho chúng được tịnh hóa bởi cam lồ.

Ngài Tsewang Chokdrub, một tác giả vĩ đại về phương pháp thiền định ở thế kỷ mười tám, viết về sự cần thiết chuẩn bị tâm thức cho việc chữa lành – đặc biệt qua sự tập trung khiến dẫn đến tỉnh giác tĩnh lặng và trong sáng.

Vậy, để loại bỏ hôn trầm, bạn nên giữ và hoàn toàn tập trung tâm thức mạnh mẽ, hoàn toàn và nhất tâm tại trái tim. Để loại bỏ sự buông thả, khích động hay sự rối loạn của tâm trí, bạn nên giữ và hoàn toàn tập trung tâm trí một cách mạnh mẽ, hoàn toàn và nhất tâm ở dưới rốn (đan điền). Khi sự tập trung của bạn trở thành nhất tâm và mạnh mẽ, sẽ không có sự hôn trầm hay khích động trong tâm thức.

Một trong những bài tập chữa lành thực tế được do Ngài Tsewang Chokdrub đề nghị liên quan đến việc chúng ta tự quán tưởng mình như một vị Phật và tưởng tượng trong trái tim chúng ta chủng tự HUNG, đại diện cho tâm giác ngộ của đức Phật:

Để chữa lành những bệnh tật thân xác, trước tiên quán tưởng và tự thấy bạn như vị bổn tôn. Quán tưởng chữ HUNG màu xanh dương đậm có cỡ như hạt đậu tại luân xa tim. Nếu tính chất bệnh tật của bạn là nóng, quán tưởng chữ HUNG màu trắng có kích thước như một hạt đậu được phóng ra từ chữ HUNG màu xanh dương đậm, và bao bọc mọi phần của phần trên thân bạn, cuốn hút tất cả bệnh tật, giống như nam châm hút sắt, thoát ra khỏi đỉnh đầu và biến mất vào không gian. Sau đó thở ra. Nếu tính chất bệnh tật của bạn là lạnh, quán tưởng chữ HUNG màu đỏ phóng ra từ chữ HUNG màu xanh dương đậm và bao bọc mọi phần dưới cơ thể bạn, thu hút tất cả bệnh tật liên hệ đến lạnh và thoát ra từ "những cửa dưới" sau đó tan biến xuống sâu trong lòng đất. Nếu bạn bị đau ở một chỗ riêng biệt như cánh tay, quán tưởng chữ HUNG màu đen tại chỗ đau. Nó thu hút mọi đau đớn và thoát ra từ đầu những ngón tay hoặc từ đôi mắt của bạn và biến mất vào không gian.

Ngài Tsewang Chokdrub cũng mô tả phương pháp hòa lẫn tỉnh giác của chúng ta thành một với đau khổ. Ngài nói về sự hòa nhập vào Đại Ấn, một thuật ngữ của đạo Phật chỉ sự rộng mở, rỗng rang (tánh Không):

Bất cứ bệnh tật nào bạn đang kinh nghiệm hay từ bất cứ nguyên nhân và điều kiện nào bệnh tật khởi lên, tất cả những đau khổ như bệnh tật và đau đớn xảy đến với thân huyễn hóa của bạn xảy ra vì chuỗi vọng tưởng được tạo tác do không nhận ra chân lý, rằng những đau khổ được khởi lên chỉ vì hành vi chấp ngã, rồi theo sau là những lực lượng của phiền não, tham lam và sân hận. Bấy giờ bạn cần phân tích xa hơn. Nếu bạn nói: "Gốc rễ của tất cả đau đớn và khổ sở này do sự chấp ngã, và tôi sẽ từ bỏ nó", bấy giờ (cái gọi là) tự thân người từ bỏ sẽ khởi lên như một sự chấp ngã.

Cách đúng đắn của việc tự nguyện từ bỏ sự chấp ngã là như sau: Không có bất kỳ tạo tác giả tạo nào, đối với bất cứ đau đớn hay bệnh tật nào bạn đang kinh nghiệm, hãy tham thiền về sự hợp nhất hay nhất thể của (người đang kinh nghiệm) mùi vị đau khổ và tự chính sự đau khổ mà không có sự chấp nhận (chính mình, người đang kinh nghiệm nó) và không có sự khước từ (đau khổ).

Tập trung tâm trí bạn một cách mạnh mẽ và nhất tâm vào sự hợp nhất đó, nó là cái nhất thể và rỗng rang vô ngại, cả hai tự thân đau khổ và ý niệm về chính mình, người đang kinh nghiệm đau khổ, đều tan biến vào khoảng không của Đại Ấn mà không có bất kỳ sự phân biệt nào của sự chấp nhận bản ngã và khước từ đau khổ. Điều này sẽ cắt đứt những trói buộc vào chấp ngã.

TỈNH GIÁC VỀ THÂN, TÂM VÀ HIỆN TƯỢNG

Tỉnh giác về những phẩm tính và tính chất của thân thể bạn, những cảm nhận, những tư tưởng, và những hiện tượng là chủ đề trung tâm của những thiền định Phật giáo phổ biến như "Bốn niệm xứ" và "chỉ, quán". Điều này duy trì tỉnh giác về mọi tư tưởng và cảm nhận của tâm thức, và mỗi sự hiện diện thân xác và mỗi khoảnh khắc, một cách rộng mở, không có bất cứ khái niệm bám chấp hay cảm xúc xung đột nào.

Tỉnh giác về những phẩm tính tích cực và hoan hỷ, và bản tính rộng mở của thân, tâm và vũ trụ là con đường và mục đích của "hai giai đoạn" (tức giai đoạn phát triển và giai đoạn thành tựu) tu tập của Phật giáo mật truyền.

THẤU HIỂU MỖI TẾ BÀO HAY NGUYÊN TỬ CỦA THÂN THỂ VÀ CỦA THẾ GIỚI LÀ NHỮNG PHẨM TÍNH CỦA PHẬT

Trong giáo lý mật truyền của đạo Phật, bạn tu tập sự thấu hiểu mọi khía cạnh của thân và tâm bạn và vũ trụ như những phẩm tính và trí huệ khác nhau của Phật. Ngay trong những giáo lý phổ thông cũng nhận hiểu mỗi nguyên tử như sự biểu lộ vô tận và vô hạn của những cõi Phật tịnh độ. Bhadracharya-pranidhana nói:

Mong sao tôi chứng ngộ trong mỗi vi trần (nguyên tử)
Sự phô bày hoàn thiện của tất cả cõi tịnh độ trong ba thời.
Cầu mong tôi được đi vào cõi tịnh độ của chư Phật
(Của mỗi nguyên tử) của tất cả mười phương.

HIỂU TÂM

Ngài Chandrakirti (Nguyệt Xứng), một triết gia Trung Quán vĩ đại của đạo Phật ở thế kỷ thứ bảy viết:

Chúng sanh, thoạt tiên chấp vào "ngã" như là "tôi" và
Rồi vào "các pháp" như là "của tôi",
Quay tròn trong chu kỳ của cuộc sống thế gian giống như một bánh xe dẫn nước.

Nhưng làm sao những chúng sanh đau khổ là chúng ta có thể tháo mở sự chấp ngã? Mặc dù chúng ta có khuynh hướng nghĩ về những kinh nghiệm là tích cực hay tiêu cực, đặc tính tốt hay xấu của những hoàn cảnh không quan trọng bằng việc chúng ta thấy và sử dụng chúng một cách khéo léo như thế nào. Trích dẫn Ngài Longchen Rabjam, Ngài Paltrul Rinpoche hướng dẫn chúng ta trong việc sử dụng những phương tiện thiện xảo để chuyển hóa cuộc sống:

Đôi khi hãy nhìn vào bản chất tự xuất hiện của những hoàn cảnh hài hòa.
Bằng sự thấu hiểu chúng là tự biểu hiện, chúng khởi lên như sự hỗ trợ cho những kinh nghiệm tâm linh.
Đôi khi hãy nhìn vào sự xuất hiện của những hoàn cảnh xấu.
Điều đó rất hiệu quả để xua tan sự bám luyến vào những vọng tưởng.

Đôi khi hãy nhìn vào bạn bè và những vị thầy;
Điều đó cho bạn cảm hứng để rèn luyện bằng việc học được những tính tốt và xấu của họ.
Đôi khi hãy nhìn vào sự phô bày của những điều kỳ diệu của bốn nguyên tố trong không gian.
Điều đó đem lại việc thấu hiểu sự tan biến của những nỗ lực tâm thức vào trong thật tánh của tâm.

Đôi lúc hãy nhìn vào đặc tính của xứ sở, nơi ở và những sở hữu của bạn;
Thấy chúng như ảo ảnh xua tan sự bám luyến của bạn vào những hình tướng như huyễn ấy...
Tóm lại, hãy đánh giá bản chất hoặc tính cách của những hiện tượng xuất hiện trong nhiều khả năng khác nhau;
Điều đó phá tan sự bám luyến bị lừa dối của bạn với chúng như là có thật.

Phần lớn chúng ta thấy sự cô đơn như một cảm xúc tiêu cực, nhưng những thiền giả có kinh nghiệm đã biết rằng cảm nhận đó, trong một tâm thức buông lỏng, có thể giúp chúng ta giải quyết những ý niệm khô cứng và đưa sâu vào thiền định. Ngài Paltrul Rinpoche viết:

Nếu bạn ở một nơi mà cảm giác cô đơn (hoặc buồn bã, thờ ơ hay trống không) xảy đến, sự thể nhập thiền định khởi lên trong chúng ta. Như vị thánh Milarepa nói:
Trong những hang động của những thung lũng trống,
nơi không có người,
Không có thời gian cho cảm giác cô đơn ngưng dứt,
Không có thời gian để tách rời khỏi tâm thức sùng mộ
Với Đạo sư (Guru) và chư Phật của ba thời.

Khi chúng ta bắt đầu hiểu được tâm, chúng ta thấy rằng nó không cần bám vào hạnh phúc, buồn phiền, hay bất cứ hiện tượng nào khác thuộc tâm thức hay bên ngoài. Trong quan điểm đạo Phật, tất cả hiện tượng chỉ là những phản ảnh và định danh của tâm. Ngài Mipham Rinpoche viết:

Vậy, tất cả đều là những trò phô bày huyễn thuật của tâm.
Nếu giải thoát, đó là sự giải thoát của tâm, và nếu bị trói buộc, đó là sự trói buộc của tâm.
Lìa khỏi tâm không có giải thoát cũng không có trói buộc,
Không có hạnh phúc cũng không đau khổ và không có Phật cũng chẳng có chúng sanh.

Ở mức độ cao nhất của hiểu biết, chúng ta tìm thấy an lạc trong sự giải thoát khỏi bám chấp, và những phiền não của chúng ta rơi rụng. Bấy giờ cái vòng quay tròn của những khát khao thế tục sẽ dừng lại. Ngài Shantideva viết:

Khi bạn đã thấu hiểu
Rằng không có người kinh nghiệm những cảm nhận và
Không có cảm nhận,
Làm sao sự khát khao của bạn (là kết quả của cảm nhận) không quay lưng bỏ đi?

PHIỀN NÃO

Chính thái độ nắm giữ của chúng ta gây ra phiền não. Theo kinh điển, sáu phiền não gây rắc rối đau đớn nhất là: vô minh (si), sân, tham, keo kiệt, ganh tỵ và kiêu mạn.

Sự nhẫn nhục nổi bật lên như một đức hạnh mạnh mẽ đặc biệt. Nó là một thái độ của việc hãy để như vậy, không khước từ hoặc bám chấp vào hoàn cảnh hay cảm xúc, mà để cho những xuất hiện khởi lên rồi tan biến. Ngài Shantideva viết:

Không có gì xấu xa bằng thù hận
Và không công đức nào bằng nhẫn nhục.
Bởi thế, bằng những phương tiện khác nhau
Hãy dâng hiến đời bạn cho sự thực hành nhẫn nhục.

Những bài giảng của kinh điển về thái độ đúng thừa nhận sự khó khăn của hầu hết chúng ta đối với phiền não. Kinh điển dạy rằng hãy bắt đầu từ việc dễ dàng. Vì thế, nếu người nào đang ôm ấp sự ganh tỵ rất nặng nề thì việc nhỏ nhất trước tiên là hãy nghĩ đến một người nào đó kém may mắn hơn mình và cầu mong cho người ấy được thịnh vượng. Điều này có thể làm mềm đi thói quen cứng như đá chỉ mong muốn hạnh phúc cho riêng mình và gieo trồng khả năng cảm thấy hạnh phúc vì vận may của những người khác.

Lời dạy như trên thường hết sức thiết thực. Để nới lỏng sự trói buộc của tính ích kỷ, chính đức Phật cũng dạy rằng trước tiên nên cho người khác một cái gì nhỏ nhặt, như rau cải chẳng hạn. Ngài Shantideva viết:

Đạo sư (đức Phật) hướng dẫn người ta,
Vào lúc bắt đầu, nên cho những vật như rau cải.
Đã rèn luyện dần dần, về sau,
Họ sẽ có thể cho ngay cả chính máu thịt của họ.

Đạo Phật tin vào sự tái sanh, và xem sự hào phóng như là việc tạo nghiệp tốt có thể mang vào đời sống tương lai. Ngài Long Thọ nói với chúng ta rằng tài sản mà chúng ta không thể tặng cho hay hưởng thụ thì chỉ là nguồn gốc của đau khổ:

Hưởng thụ tài sản sẽ đem lại hạnh phúc trong đời này.
Bố thí tài sản đem lại hạnh phúc trong đời tương lai.
Tài sản uổng phí do không được hưởng thụ hay không được bố thí
Chỉ đem lại đau khổ và không có hạnh phúc.

Ngài Sakya Pandita, học giả vĩ đại nhất của học phái Sakya thuộc Phật giáo Tây Tạng, tuyên bố:

Sự giàu có tốt nhất là sự bố thí,
Hạnh phúc tốt nhất là hạnh phúc của tâm.

Những phiền não mạnh mẽ như tham dục làm chúng ta mắc bẫy trong đau khổ. Thèm khát và bám chấp dẫn chúng ta ra xa khỏi an bình thực sự của tâm. Để tháo mở những bám vướng của chúng ta, việc tư duy một cách sâu sắc về tính chất thoáng qua của mọi hiện tướng là rất khôn ngoan. Ngài Ngagi Wangpo nói:

Sự giàu có của cuộc sống này giống như mật của những con ong.
Dù chúng gom góp mật, mật lại được hưởng thụ bởi các loài khác.
Sự tụ họp của họ hàng và bạn bè giống như sự gặp gỡ của những khách trọ,
Dù có ở cùng nhau, họ sẽ ra đi trên những con đường riêng lẻ.
Đời sống là vô thường giống như hạt sương trên đầu ngọn cỏ.
Dù chúng ta ở đây, sự biến mất của chúng ta sẽ sớm đến.
Thần chết như những tên mật thám,
Ngày đêm chờ trông cơ hội để bắt ta.

Những hiện tượng của cuộc sống này cũng như người sắp tỉnh khỏi một giấc mộng:

Chúng là tạm thời và thoáng qua, rồi chúng ta sẽ ra đi,
rời bỏ tất cả chúng.
Những nghiệp của luật nhân quả, giống như cái bóng của chúng ta,
Sẽ luôn theo sát bên ta.
Thế nên, người có tâm trí sáng suốt
Đi theo con đường giải thoát ngay từ hôm nay.

Kinh Udanavarga (kinh Xuất diệu) dạy rằng:

Nếu bạn muốn có tất cả hạnh phúc,
Hãy từ bỏ tất cả những tham dục.
Bằng sự từ bỏ tất cả những tham dục,
Bạn sẽ hưởng thụ hạnh phúc tối thượng.

Chừng nào bạn còn bám víu vào những đối tượng tham muốn,
Sẽ không có sự thỏa mãn nào đến với bạn.
Vậy, bất cứ ai, nhờ trí huệ kiềm chế được tham dục,
Sẽ vui thích với sự hài lòng.

Về tất cả những cảm xúc đau khổ, vô minh (si) là yếu tố độc hại chủ yếu. Đắm chìm trong cuộc bon chen của mình, chúng ta khó nhìn thấy được đúng thật về thế gian vô thường và khổ đau này cũng như chứng ngộ thật tánh của chúng ta và sự rỗng rang vĩ đại của mọi hình tướng. Trí huệ nằm trong bất cứ bước tiến nhỏ nhặt nào mà chúng ta đạt được trong việc buông bỏ sự chấp ngã. Ngài Shantideva nói:

Vậy, bất cứ ai muốn làm bình lặng những khổ đau
Nên phát triển trí huệ.

Kinh Dharmapada (Pháp cú) dạy rằng:

Khi bạn chứng ngộ với trí huệ của bạn
Rằng mọi hiện tượng hiện hữu đều vô ngã (vô tự tánh),
Bạn sẽ không bị thương tổn bởi đau khổ.
Đây là con đường hoàn thiện.

#38 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/10/2011 - 07:40

NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM

THUẬT NGỮ

AH: Theo kinh điển Đại thừa, AH là nguồn gốc của mọi âm thanh, diễn tả và chữ viết; nó không sanh ra, không tạo tác, không do cấu tạo, là sự rộng mở rỗng rang, thanh tịnh và tự nhiên. Nó không truyền đạt bất cứ sự diễn tả ý niệm nào, nhưng biểu lộ bản tánh bổn nguyên của nhất thể, tánh Không.

Ánh sáng: Những ánh sáng thông thường như ánh sáng ban ngày được đặc trưng như là khía cạnh thanh tịnh của những nguyên tố thô. Ngài Natsok Rangtrol viết: "Khía cạnh thanh tịnh của những nguyên tố thô là những tia sáng, như ánh sáng và tia sáng mặt trời, và tia sáng của pha lê."

Ánh sáng tuyệt đối: Theo Ngài Longchenpa, năm uẩn của thân tâm trong quan niệm thế gian chính là năm thân Phật trong Phật tánh. Năm cảm xúc phiền não là năm trí huệ bổn nguyên, và năm nguyên tố vật chất (năm đại) là năm ánh sáng thanh tịnh... Trong Phật tánh, chúng hiện diện trong bản tánh của nhất thể hay sự hợp nhất, an bình và hoan hỷ, nhưng trong tâm thức trần tục, tâm và những đối tượng của nó được tri giác, chấp giữ và kinh nghiệm như là năm uẩn thân tâm, năm cảm xúc phiền não, năm nguyên tố vật chất... theo một kiểu nhị nguyên cảm xúc và đau khổ.

Bardo: Theo đạo Phật, sau khi bạn chết sẽ là giai đoạn bardo, là một giai đoạn chuyển tiếp; sau đó bạn sẽ tái sanh vào một cuộc sống khác. Trong bardo nếu được trang bị, bạn có thể chứng ngộ bản tánh tối hậu và tất cả những hình tướng xuất hiện có thể khởi lên như là nhất thể.

Bản tánh chân thật (thật tánh): Còn được gọi là Phật tánh, bản tánh tối hậu, chân lý tuyệt đối, tánh giác ngộ hay Tâm Phật.

Chân ngôn của Đức Liên Hoa Sanh

OM: Chủng tử tự của Thân Phật

AH: Chủng tử tự của Khẩu Phật

HUM: Chủng tử tự của Tâm Phật

VAJRA: Kim cương (cứng chắc), Pháp Thân (Bản tánh tuyệt đối của Phật)

GURU: Đạo sư (sự phong phú), Báo Thân (Tướng thanh tịnh của Phật)

PADMA: Hoa sen (sự thanh tịnh), Hóa Thân (thân Phật người bình thường thấy được)

SIDDHI: Thành tựu, đạt được những kết quả chung và không chung

HUM: Xin ban cho; mong rằng

Chân ngôn của Đức Phật Đại Bi: Trong những kinh văn Phật giáo, chân ngôn chỉ có sáu chữ, nhưng trong phần lớn những kinh văn được phát hiện (Terma) lại có bảy chữ, thêm HRI là chủng tự tâm của đức Quán Thế Âm. Trong chân ngôn này HRI là chủng tự tâm của Phật được cầu khẩn và sáu chủng tự khác là phương tiện để cầu khẩn nó.

OM: A + O + M = OM; biểu tượng thân, ngữ và tâm của chư Phật, do đức Quán Thế Âm hiện thân.

MANI: Ngọc quý; biểu tượng cho sự thỏa mãn những ước nguyện, những phương tiện thiện xảo.

PADME: Hoa sen; biểu tượng cho sự thanh tịnh không nhiễm ô, cho trí huệ. Tu tập những phương tiện thiện xảo và trí huệ là con đường tâm linh của đạo Phật và sự toàn thiện của chúng là phương tiện thiện xảo và trí huệ của Phật tánh.

HUNG: Sự hợp nhất, sự cầu khẩn, hay việc hợp nhất. Nó tượng trưng cho sự hợp nhất giữa trí huệ và phương tiện thiện xảo. Nó cầu khẩn chư Phật ban cho trí huệ, phương tiện thiện xảo và tất cả sự gia hộ ban phước. Lần lượt hung hợp nhất thân, ngữ và tâm của người ta làm một không thể tách rời với (Thân, Ngữ và Tâm của) Phật.

HRI: Chủng tự tâm, đại diện cho tinh túy tâm của đức Phật Đại Bi để cầu khẩn và được hợp nhất.

Nghĩa đơn giản: "Ôi! Đức Phật, Ngài nắm giữ ngọc báu và hoa sen (đại bi và trí huệ), mong Ngài ban phước gia hộ cho con."

Chấp ngã: Ý niệm nhận thức về chính mình ("tôi" và "của tôi") hay về người khác hoặc sự vật ("ông ấy", "bà ấy" hay "này", "kia", "đây", "đó") như thể chúng thật sự hiện hữu.

Cõi giới tối hậu (Pháp giới): Ngài Shakya Chokden viết: "Cõi giới tối hậu (không gian tối hậu) là trí huệ của Phật tỏa khắp, thấm khắp nền tảng, con đường và quả." Ngài viết rằng pháp giới cũng có thể giải thích theo ba bối cảnh: "Trong bối cảnh của nền tảng, tức là luân hồi, thì pháp giới hiện diện như bản tánh tuyệt đối và thanh tịnh. Trong bối cảnh con đường, trong các bậc thánh hay chứng đắc cao của Đại thừa, nó hiện diện như phương tiện chứng ngộ (hay phát triển) của Pháp thân với hai sự thanh tịnh (thanh tịnh khỏi những nhiễm ô đột nhiên sanh khởi và thanh tịnh trong thật tánh của nó từ vô thủy). Trong bối cảnh của kết quả, Địa vị Phật, nó hiện diện như ba thân Phật và những hoạt động Phật tự nhiên thành tựu.

Kim cương (vajra): Biểu tượng cho phẩm tính cứng rắn, kiên cố bất hoại và không thay đổi. Giống như thập tự giá trong đạo Cơ Đốc, kim cương là biểu hiện của đạo Phật mật truyền. Kim cương cũng giống như một vương trượng, một pháp khí được bổn tôn cầm hay được sử dụng trong những buổi lễ, tượng trưng cho sức mạnh nam tính.

Mantra (chân ngôn): Chữ hay nhóm từ hoặc nhiều nhóm từ bí mật đầy năng lực bằng tiếng Phạn, hiện thân bản tánh tuyệt đối của âm thanh, ngôn ngữ, diễn tả và sức mạnh. Nó cũng là sự biểu hiện hoặc diễn tả trí huệ tinh hoa và năng lực của một bổn tôn, một vị Phật. Với hành giả, nó có thể được tụng niệm như một thiền định, cầu nguyện hay phương tiện diễn đạt tâm linh hoặc hành động.

Năm màu: Mỗi một màu có sức mạnh chữa lành riêng. Ngài Kunkhyen Longchenpa viết: "Khi trí huệ (thật tánh) biểu hiện sự bất biến, ánh sáng của nó xuất hiện như màu xanh lá cây. Khi trí huệ biểu hiện thanh tịnh, ánh sáng của nó xuất hiện là màu trắng. Khi trí huệ hiện thân những phẩm tánh, ánh sáng của nó xuất hiện là màu đỏ. Khi trí huệ thành tựu tất cả bốn hành động, ánh sáng xuất hiện là màu xanh dương. Ngài viết: "Ngài Rang Shar giải thích: 'Ánh sáng màu trắng là (ánh sáng của hành động hay năng lực) của sự an bình; ánh sáng màu vàng là sự phát triển; ánh sáng đỏ là sức mạnh (khiến tất cả được kiểm soát); ánh sáng xanh lá cây là lực (giải thoát khỏi tiêu cực) và ánh sáng xanh dương là sự thành tựu của tất cả (bốn) hành động.'"

Những thân Phật: Những phương tiện khác nhau của Phật. Phần lớn những giáo lý giới thiệu ba thân Phật. Thân tối hậu (Pháp thân) là tánh Không toàn thể hay khía cạnh rỗng rang của Phật tánh. Thân hưởng thụ (Báo thân) là hình tướng chân thật hay thanh tịnh của Phật. Trong đây, tất cả mọi hình tướng của chư Phật và những hình tướng hiện tượng của cõi tịnh độ là bất biến và không thể tách rời khỏi chính Phật tánh. Thân biểu lộ (Hóa thân) không phải là thân thực sự hay thanh tịnh của Phật. Nó là một dạng biểu hiện cho chúng sanh bình thường để phục vụ cho những nhu cầu và tri giác của họ.

Terma: Những giáo lý và những đồ vật được tìm thấy nhờ năng lực của giác ngộ.

Tịnh độ: Những tướng chư Phật và những biểu hiện của vùng đất mà chư Phật an trụ. Trong Phật tánh không có những phân biệt chủ và khách. Tất cả đều hiện diện trong trạng thái nhất thể, như trí huệ và sức mạnh của trí huệ với an bình, niềm vui và đẹp đẽ. Từ này có thể dịch là cõi Phật hoặc đất Phật.

Thân ánh sáng: Nhiều Đạo sư Thành tựu của Đại Toàn Thiện (Dzogchen) Tây Tạng vào lúc chết đạt được "Thân ánh sáng" hay "Thân cầu vồng" (jalu), họ chuyển hóa thân sanh tử thành thân ánh sáng thanh tịnh, và chỉ để lại tóc và móng chân, tay. Một số đạt được "thân ánh sáng thanh tịnh của đại chuyển di" (jalu phowa chenpo), trong đó họ chuyển hóa thân thể thô nặng thành thân thể ánh sáng thanh tịnh, không để lại dấu vết vật chất gì.

Thở theo OM AH HUNG: OM là sức mạnh bất biến và vẻ đẹp của thật tánh mà chúng ta đều sở hữu, thân Phật. AH là sự diễn tả bất tận và là năng lực thịnh hành của thực tại, ngữ Phật. HUNG là sự toàn thiện bất động của sự rỗng rang bổn nguyên của thực tại, tâm Phật. Cũng có những thực hành như thở ra chữ OM và hít vào chữ HUNG và giữ hơi thở lại với chữ AH hay thở ra với OM, thở vào với AH và giữ hơi với HUNG.

Thực hành phương pháp thở bí truyền: Trong Phật giáo Tây Tạng có nhiều cách rèn luyện bí truyền về năng lực hay khí như sự rèn luyện Lung (rLung) hay Tsalung (rTsa rLung). Chúng sử dụng năng lực của cơ thể như một phương tiện đầy sức mạnh để phát sinh năng lực, nó lại đem đến sự chứng ngộ về sự hợp nhất của đại lạc và rỗng rang (tánh Không), chân lý tối hậu. Kết quả, hành giả mật truyền sống với nội nhiệt mà không cần quần áo để giữ ấm, bay trong bầu trời như chim muông; tự nuôi sống bằng năng lực thay vì phải dùng thực phẩm thô và hưởng thụ sự tươi trẻ và trường thọ. Ngoài ra, một trong những cách tốt nhất để neo buộc lại những năng lực và tâm bạn là chú tâm vào điểm ở dưới rốn (đan điền). Những giải thích về cách rèn luyện này nên đọc ở những sách khác.

Tư thế hoa sen: Đây là một tư thế thiền định phổ biến nhất ở phương Đông: (1) ngồi theo thế kiết già (hoa sen), (2) đặt tay trong lòng theo tư thế thiền định, (3) giữ xương sống thẳng, (4) hơi cúi đầu xuống, (5) cánh tay hơi đưa ra giống như cặp cánh hay một cái ách, (6) hạ thấp tầm mắt tập trung trước mặt khoảng một đến hai thước ngang tầm chóp mũi, và (7) đặt đầu lưỡi đụng lên vòm họng.

Tsa ba và grang ba: Theo y học Tây Tạng, mọi bệnh tật của thân thể đều liên hệ đến tsa ba (nóng) hay grang ba (lạnh). Phần trên cơ thể là trung tâm của tsa ba và phần dưới là trung tâm grang ba.



TÁC GIẢ: TULKU THONDUP

DỊCH GIẢ: TUỆ PHÁP








Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |