Jump to content

Advertisements




TỬ VI LÝ SỐ


94 replies to this topic

#91 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 563 Bài viết:
  • 246 thanks

Gửi vào 27/08/2025 - 12:08

Ngũ Hành ai khéo tạo xoay,

Năm mùa: Xuân, Hạ, Trường thay Thu về.

Đông qua Xuấn tới lạ ghê,

Người sinh cũng có ngày giờ thuận theo,

Năm, tháng, tuần đủ năm điều

Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ đều ứng ghi.



LỊCH TRE ( LỊCH ĐOI)


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Trích: Tạp chí dân tộc học số 3, 2020: LỊCH ĐOI CỦA NGƯỜI MƯỜNG , PGS.TS Nguyễn Duy Thiệu

Một năm lịch Đoi của người Mường có 360 ngày. Cụ thể về năm, tháng, tuần,ngày, giờ được xác lập như sau đây:

Năm: người Mường dựa vào sự tương thích của một chu kỳ vận động giữa mặt trăng và chòm sao Tua Rua để lập lịch. Những ngày chòm sao Tua Rua và Mặt Trăng đi song song với nhau, họ gọi là “Ngày sao Đoi mặt Tháng” (mặt Tháng tức mặt trăng).

Từ những kết quả quan sát sự vận động của trăng và sao Tua Rua, người Mường xưa đã xác định được sự vận hành của hai thiên thể này tuân thủ theo một quy luật nhất định.

Theo đó, quá trình vận động ấy có những ngày sao tua rua và mặt trăng song hành cùng nhau.

Cụ thể là: tháng ba vào hai ngày là mồng 4 và ngày 28; tháng 4 ngày 26; tháng 5 vào ngày 24; tháng 6 ngày 22; tháng 7 ngày 20; tháng 8 ngày 18; tháng 9 ngày 16; tháng 10 ngày 14; tháng 11 ngày 12; tháng 12 ngày mồng 10; tháng giêng ngày mồng 8; tháng 2 ngày mồng 6. Đến đây là hết một chu kỳ vận hành, người Mường coi là một năm. Năm sau tiếp theo, chu kỳ như vừa đề cập lại lặp lại. Cổ lịch Mường lấy ngày đầu của tháng 3, tháng có hai ngày sao tua rua song hành với mặt trăng (tháng 3) làm ngày khởi đầu của một năm (xem sơ đồ sau).





Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tháng: một năm có 12 tháng, theo thứ tự từ tháng 1 (tháng Giêng) đến tháng 12. Lịch Mường cũng căn cứ vào sự vận hành của mặt trăng và chòm sao Khiên Ngưu (sao Tua Rua) để phân chia tháng và xác định Tiết thứ rồi chia năm làm 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông như lịch âm mà người Kinh vẫn dùng. Do sao Tua Rua vận hành nhanh hơn Mặt Trăng nên ngoại trừ tháng đặc biệt (tháng Ba) có hai ngày, những tháng còn lại mỗi tháng chỉ có một ngày mặt trăng và chòm sao Tua Rua đi song song cùng nhau. Người Mường cũng gọi tháng khởi đầu năm là tháng Giêng, nhưng theo lịch Mường thì tháng Giêng trùng với tháng 3 trong lịch âm (lịch mặt trăng) phổ thông mà người Mường cũng đang sử dụng.

Tuần: lịch Mường mỗi năm có 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày; mỗi tháng được chia
thành 3 tuần, mỗi tuần là 10 ngày. Ở tuần đầu từ mồng 01 cho đến ngày mồng 10 gọi là tuần Mộc mọoc, có nơi gọi là những ngày Cân. Từ 11 đến ngày 18 gọi là những ngày Trô ông Kháng, có nơi gọi là những ngày Lồ ông, từ ngày 19 cho đến ngày 30 gọi là những ngày Lụn, có nơi gọi là những ngày Cuối hay Cổi.

Ngày và tên gọi các ngày trong các tháng của một năm: mỗi tháng 30 ngày, trong đó có ngày tốt, ngày xấu, ngày may, ngày xui. Trong lịch Mường ngày may, ngày xui được xác định như sau: ngày khởi đầu năm, ngày mồng một, trong lịch Mường gọi là ngày Cân Troong. Ngày này cũng là ngày khởi đầu của tháng Giêng trong lịch Mường gọi là tháng Khóa Ngàng. Ngày mồng hai ngày Xướm Troong, mồng ba Kim Troong, mồng 4 Khóa Rỏ, mồng 5 ngày Kim Xa, mồng 6 ngày Xướm Xa, mồng 7 ngày Cân Xa, mồng 8 ngày Khóa Ngàng. Sau 8 ngày với 8 tên gọi như vừa trình bày, đến ngày tiếp theo (ngày mồng Chín) chu kỳ tên gọi trên được lặp lại. Cứ thế mà tính cho đến ngày 30. Các tháng tiếp sau: tháng hai và tháng ba, gọi là tháng Cân Troong, thì ngày mồng 01 gọi là ngày Xướm Troong. Tháng tư gọi là tháng Xướm Troong, ngày mồng 01 là ngày Kim Troong. Tháng năm và tháng sáu gọi là tháng Kim Troong, ngày mồng 01 gọi là ngày Khóa Rỏ. Tháng bảy gọi là tháng Khóa Rỏ, ngày mồng 01 gọi là ngày Kim Xa. Tháng tám và tháng chín gọi là tháng Kim Xa, ngày mồng 01 gọi là ngày Xướm Xa. Tháng mười là tháng Xướm Xa, ngày mồng 01 gọi là ngày Cân Xa. Tháng Một, tháng Chạp (tháng 11 - 12) gọi là tháng Cân Xa, ngày mồng 01 gọi là ngày Khóa Ngàng. Hết một năm, đến năm sau, chu kỳ như trên đây lại lặp lại. Nghĩa là khởi đầu từ tháng Giêng (tháng Khóa Ngàng), ngày mồng 01 gọi là ngày Cân Troong,... Cũng cần nói thêm, ngày mồng 4 trong lịch Mường là ngày mà sao Tua Rua và Mặt Trăng di chuyển song song với nhau, ngày đó tương đương với ngày mồng 5 lịch âm (lịch hiện vẫn được sử dụng). Nghĩa là ngày của lịch Mường chậm hơn ngày trong lịch âm lịch 1 ngày, do đó mà trong tục ngữ Mường có câu “ngày lui’’ là vì vậy.





Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Giờ tốt giờ xấu: trong ngày cũng có giờ tốt giờ xấu. Đối với lịch Mường, cách phân chia giờ và cách tính giờ tốt giờ xấu như sau: khởi đầu là giờ Hửng sáng, tiếp sau là các giờ Rạng đông, Mọc mặt, Trưa trẻ, Trưa cả, Tròn bóng, Chiều trương, Chiều ngăn, Lặn mặt, Dặt dậu, Cậu nằm, Xăm ngủ, đến Ngủ uổi, Ngủ trải. Khởi đầu tính giờ tốt, giờ xấu được tính từ giờ Hửng sáng đó là giờ Cân Troong, rồi cứ thế mà tính các giờ tiếp. Tùy theo giờ tương ứng với các tên tương thích (Cân Troong, Khóa Ngàng, Kim Troong, Khóa Rỏ, Kim Xa, Xướm Xa, Cân Xa, Xướm Troong) mà tính giờ tốt giờ xấu,...

(còn tiếp...)



Ps: Trên mặt Trống Đồng Ngọc Lũ, 14 tia sáng trong cùng có mối liên hệ gì với 14 giờ trong ngày của Lịch Đoi của người Mương ?



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Sửa bởi HieuHcmVN: 27/08/2025 - 12:36


Thanked by 1 Member:
Tre

#92 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 563 Bài viết:
  • 246 thanks

Gửi vào 28/08/2025 - 11:46

LỊCH PHÁP VIỆT NAM


Trích: LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM, TS. Lê Mạnh Thát, NXB Tp.H.C.M, 2003, chương I, Lịch pháp Việt Nam, tr.68:


" Lục độ tập kinh ngày nay có cả thảy 91 truyện. Trong số các truyện này có một số truyện ta có thể truy về thời các vua Hùng còn nắm giữ quyền hành, nghĩa là trước biến cố năm 43 sau Dương lịch, khi cuộc kháng chiến vệ quốc do Hai Bà Trưng lãnh đạo thất bại. Cơ sở cho một việc truy tìm như vậy dựa trên một hiện tượng khá đặc thù của những truyện này. Đó là hiện tượng sử dụng lịch pháp.

Trong Lục độ tập kinh có 10 truyện để cập đến đơn vị thời gian, tức các truyện:

Truyện 9, ĐTK152, tờ 4b19, c1 và c9: “Một thời 90 ngày" (nhất thời cửu thập nhật), “hai thời 180 ngày" (nhị thời bách bát thập nhật), “thỉnh ở lại ba thời" (thỉnh lưu tam thời);
Truyện 14, tờ 9a13 "Hai тươi mốt ngày thì đến núi Đàn Đặc” (Tam thất nhị thập nhật nãi chí Đàn Đặc sơn);

Truyện 24, tờ 14c23: “Bổ tát thấy Phật, vui vè quy y, thinh Phật và Tăng ở lại nhà mình bảy ngày cúng dường trọn lễ” (Bổ tát đổ Phật, hân nhiên tự quy, thỉnh Phật cập Tăng thất nhật lưu gia, dĩ lễ cúng dường); cùng truyện, tờ 15a2: "Bảy ngày như thế, đều không lười mỏi" (thất nhật nhược tư đô vô giải);

Truyện 25, tờ15c27: "Ở thai mười tháng (xử thai thập nguyệt); Truyện 54, tờ 31b12: “Sau đó bảy ngày” (kiếp hậu thất nhật);

Truyện 61, 34a2: "Mười ngày sau” (thập nhật chi hậu); Truyện 76, tờ 40b12: "Bé trong bụng mẹ... ba tám tuẩn ngày, thân thể thành hình” (nhi tại mẫu phục...tam thập bát thất nhật, thân thể giai thành);

Truyện 79, tờ 42b9-12: "... Rồng vui vě làm mưа gió bảy ngày bảy đêm. Đức Phật ngồi ngay không động không lay, không thở, không hít. Bảy ngày không ăn thì được thành Phật. Lòng vui, không còn tưởng. Rồng rất vui mừng, cũng bảy ngày không ăn, mà không có niệm đói khát. Hết bảy ngày, mưa gió tạnh" (...Long hỉ, tác phong vũ thất nhật thất dạ. Phật đoan toạ, bất động bất dao bất suyễn bất tức. Thất nhật bất thực, đắc Phật. Tâm hỉ, đô vô hữu tưởng. Long đại hoan hỉ, diệc thất nhật bất thực, vô cơ khát niệm. Thất nhật tốt, phong vũ chi).

Truyện 83, tờ 44c17: "Vua vui vê bày tiệc, rượu nhạc bày ngày” (Vương hỉ, thiết tửu vi nhạc thất nhật); cùng truyện tờ 45a8: "Bê trúc để ghi thì đi đường bảy ngày mới về tới vương quốc" (dĩ trúc vi soán hành đạo thất nhật, nãi chi vương quốc); tờ 46a14-16: "Vua nói: Hãy ở lại bảy ngày nữa (...) sau bảy ngày có đại thần vương đến chỗ vua trời chúc mừng". (Vương viết thả luu thất nhật (...), thất nhật chỉ hậu, hữu đại thẩn vương chí thiên vương sở hạ viết...); tờ 45c1: "Bố thí bảy ngày, không ai thiếu thốn mà không được đây đử” (bố thí thất nhật, vô phàm bất túc).

Truyện 88, tờ 50b13-23: “Trong một trăm năm, phàm có ba trăm mùa xuân, hạ, đông. Mỗi mùa có một trăm. Lại trong 1200 tháng, các tiết xuân, hạ, đông, mỗi thứ bốn trăm thánh. Trong ba vạn sáu ngàn ngày, xuân một vạn hai ngàn ngày, hạ nóng, đông lạnh, mỗi thứ một vạn hai ngàn ngày. Trong một trăm năm, một ngày hai bữa...Trong 100 năm, đêm ngủ trừ năm mươi năm...Con người thọ 100 tuối chỉ vui có mười năт" (bách tuế chi trung phàm cánh tam bách thời, xuân hạ đông nguyệt các cánh kỳ bách dã. Cánh thiên nhị bách nguyệt xuân hạ đông tiết các cánh tứ bách nguyệt. Cánh tam vạn lục thiên nhật, xuân cánh vạn nhị thiên nhật, hạ thử đông hàn, các vạn nhị thiên nhật. Bách tuế chỉ trung, nhất nhật tái phạn... Bách tuế chi trung, dạ ngọa trừ ngũ thập tuế... Nhân thọ bách tuế, tài đắc thập tuế lạc nhĩ).

Ta thấy truyện 88 này ghi nhận một năm có 360 ngày, chia thành ba mùa (thời), mỗi mùa có 120 ngày, vậy mỗi mùa có 4 tháng: "Trong một trăm năm phàm lại có 300 mùa, xuân hạ đông mỗi mùa lại có 100, tức 1200 tháng, xuân hạ đông tiết, mỗi tiết có 400 tháng, tức 36.000 ngày, mùa xuân lại có 12.000 ngày, mùa hạ nóng, mùa đông lạnh, mỗi mùa 12.000 ngày". Rõ ràng, một ghi nhận như thể bộc lộ quan điểm lịch pháp của Phật giáo Ấn Độ, mà ta ngày nay còn tìm thấy trong Xá đâu luyện thái tử nhị thập bát tú kinh ĐTK1501 tờ 419c1-2 và b4-6 và Phạn bản Sàrdulakarnàvadàna của nó hiện còn bảo lưu: "Ba mươi ngày là một tháng, kê 12 tháng là một năm”, và một năm chỉ có ba mùa là đông, xuân và hạ. Điểm lôi cuốn là Xá đầu luyện thái tử nhị thập bát tú kinh do Trúc Pháp Hộ dịch vào khoảng những năm 265-313, thì trước đó hơn nửa thế kỷ, Trúc Luật Viêm và Chi Khiêm lại thực hiện một bản dịch sớm hơn dưới tên Ma đàng già kinh gồm hai quyển thượng hạ. Ngoài chuyện ghi nhận ở quyển hạ ĐTK1500 tờ 409a13-4 là "ba mươi ngày đêm gọi là một tháng, 12 tháng này gọi là một năm", còn nói ở tờ sau (410a18-9): "He năm thì có 365 ngày..., tháng có 30 ngày".

Dẫu sao đi nữa, việc chia một năm có 360 ngày thành 12 tháng và ba mùa của Lục độ tập kinh có vẻ là, một phản ảnh khá trung thành quan điểm lịch pháp của Phật giáo vào những thế kỷ trước và sau Dương lịch.

Tuy nhiên, nếu tìm hiểu tiếp, ta thấy truyện 9 của Lục độ tập kinh 1 ĐTK152 tờ 4b19 và 4c1 và c9 lại nói đến “một mùa 90 ngày" (nhất thời cửu thập nhật) và "hai mùa 180 ngày” (nhị thời bách bát thập nhật). Thế cũng có nghĩa một năm có tới bốn mùa, chứ không phải ba mùa. Lịch pháp Ấn Độ thời tiển Phật giáo của giai đoạn Vệ đà tiển kỳ, tức khoảng những năm 1500-1000 tdl, thường chia 12 tháng của một năm thành 6 mùa là lạnh ('si'sira), xuân (vasanta), ha (grisma), mua (varsa), thu ('sarad) và rét (hemanta), như Rigveda x.90, 6; i. 131, 4 v.v... đã ghi. Đến giai đoạn Vệ đà hậu kỳ (1000- 300tdl), sáu mùa vừa kể rút gọn lại còn ba mùa là đông, hạ và mưa, và xếp đặt các tháng lại cho phù hợp, mà ta có thể thấy trong Taittiriya samhità. Việc rút gọn lại còn ba mùa này sau đó đã được nền lịch pháp Phật giáo chấp nhận, như đã nói trên.

Vậy, rõ ràng sự kiện truyện 9 nói tới bốn mùa dứt khoát không liên hệ với lịch pháp Ấn Độ và Phật giáo. "




Sửa bởi HieuHcmVN: 28/08/2025 - 11:52


#93 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 563 Bài viết:
  • 246 thanks

Gửi vào 29/08/2025 - 16:14

CÁCH XEM GIỜ Ở AI CẬP CỔ ĐẠI

Janice Kamrin

< Trích:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

>


Một đặc điểm nổi bật của hầu hết mọi nền văn hóa được biết đến là một hệ thống nào đó để theo dõi thời gian trôi qua. Người ta cho rằng, giống như hầu hết các xã hội nông nghiệp, người Ai Cập cổ đại ban đầu đã sắp xếp lịch của họ theo chu kỳ của mặt trăng và các mùa vụ nông nghiệp.



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Hầu hết các học giả đều đồng ý rằng ngày của người Ai Cập bắt đầu từ lúc bình minh, trước khi mặt trời mọc, chứ không phải lúc mặt trời mọc. Chu kỳ hàng ngày được chia thành hai mươi bốn giờ: mười hai giờ ban ngày và mười hai giờ ban đêm, giờ ban đêm rõ ràng được tính toán dựa trên chuyển động của các nhóm sao ("decan") trên bầu trời đêm. Bắt đầu từ thời Tân Vương quốc (khoảng năm 1500 TCN), có bằng chứng cho thấy đồng hồ mặt trời, đồng hồ bóng và đồng hồ nước được dùng để đo thời gian trôi qua của các giờ.



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Không có bằng chứng nào cho thấy người Ai Cập theo dõi phút hoặc giây, mặc dù có những thuật ngữ chung cho các khoảng thời gian ngắn hơn một giờ. Tháng được chia thành ba tuần, mỗi tuần mười ngày, với sự bắt đầu của tháng âm lịch được đánh dấu bằng sự biến mất của trăng khuyết.

Ít nhất là vào giữa thời

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(khoảng năm 2450 TCN), và rất có thể là vài thế kỷ trước đó, người Ai Cập đã phát triển một loại lịch "dân sự" gồm mười hai tháng, mỗi tháng ba mươi ngày (một năm có 360 ngày), được chia thành ba mùa—Lũ lụt ( Akhet ), Nổi lên ( Peret ) và Thu hoạch ( Shemu ) - mỗi mùa bốn tháng, với năm ngày epagomenal (những ngày nằm ngoài các tháng thông thường) được thêm vào cuối năm. Các ngày chính thức được thể hiện theo hệ thống này, dưới dạng một ngày cụ thể trong một tháng cụ thể của một mùa (ví dụ: Ngày 15, Tháng 3 của Mùa Lũ). Ít nhất là từ thời

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(khoảng năm 2030–1650 TCN), các tháng đã có tên gọi khác nhau, dường như phản ánh một số tính toán của mặt trăng.


Vì một năm thiên văn thực sự có hơn 365,25 ngày (chính xác hơn là 365,2422 ngày), lịch dân sự Ai Cập đã bị lùi lại khoảng một phần tư ngày mỗi năm. Điều này có nghĩa là sự mọc của Sopdet/Sothis và các mùa trong lịch này không tương ứng với các mùa nông nghiệp thực tế trong phần lớn lịch sử Ai Cập. Các học giả đã cố gắng sử dụng sự khác biệt này, đặc biệt là giữa sự mọc của Sothic thực tế và ngày đầu năm mới trong lịch dân sự, vốn chỉ tương ứng một lần trong mỗi 1.460 năm, để tính toán thời điểm hệ thống dân sự được thiết lập lần đầu tiên, nhưng vẫn chưa có sự thống nhất nào về điểm này.

Tên tháng dựa trên âm lịch, tầm quan trọng của sự mọc lên của sao Sothis, thực tế là một số lễ hội Ai Cập được lên lịch theo chu kỳ âm lịch thay vì gắn liền với những ngày cụ thể trong lịch dân sự, và một số ngày kép, đã khiến các học giả đưa ra giả thuyết về một loại lịch âm-sao sơ ​​khai hoạt động song song với lịch dân sự. Điều này có lẽ đã được điều chỉnh thường xuyên (có thể bằng cách thêm một tháng thứ mười ba hoặc thêm một ngày epagomenal sau mỗi vài năm) để phù hợp với năm thiên văn thực tế.



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Có khả năng là ngày đầu năm mới ban đầu gắn liền với sự mọc lên của ngôi sao sáng nhất trên bầu trời đêm, Sopdet (còn được biết đến với tên tiếng Hy Lạp là Sothis hoặc tên tiếng Latin là Sirius). Ở Ai Cập, ngôi sao này xuất hiện trở lại sau bảy mươi ngày ẩn mình dưới đường chân trời vào khoảng thời gian tương tự như những dấu hiệu đầu tiên của trận lụt sông Nile hàng năm mang dòng nước mang lại sự sống từ vùng cao nguyên Ethiopia. Mối tương quan giữa Sopdet và Năm mới dựa một phần vào một văn bản cổ (khoảng năm 2500 trước Công nguyên) có nội dung: "Đó là Sopdet, con gái của bạn mà bạn yêu, trong tên của cô ấy là Năm"; một dòng chữ khắc từ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

đề cập đến sự mọc lên của Isis-Sopdet vào sáng ngày đầu năm mới (khoảng năm 1250 trước Công nguyên); và một tài liệu tham khảo về Isis-Sopdet từ ngôi đền sau này nhiều ở Dendera (cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên), trong đó nói cụ thể rằng những năm được "tính từ khi cô ấy tỏa sáng".




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi HieuHcmVN: 29/08/2025 - 16:27


#94 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 563 Bài viết:
  • 246 thanks

Gửi vào 31/08/2025 - 16:57

Trăng kia ngự ở trên cao,

Soi cho nhân loại biết làm điều hay.

Đầu tháng, hình bóng "phải" xoay,

Cuối tháng, hình bóng "trái" quay, ẩn chìm.


Ấy thời trước Thiện giữ yên,

Sau thời dẹp bỏ ưu phiền, ác tâm.

Thế là vạn vật xoay vần,

Ngàn năm Phải Trái, trước sau rõ ràng.


Nguyệt (月) là tháng, là mặt trăng, cũng nghĩa là ánh sáng trăng.

Mặt trăng rất dễ quan sát, chu kỳ ổn định, rất thích hợp làm cơ sở để xác định thời gian một Tháng trong năm. Do đó, người xưa dựa vào hình bóng mặt trăng trên bầu trời đêm để định Tháng, đặt tên là Nguyệt vậy.

Có bốn hình dạng chính của mặt trăng là lưỡi liềm, bán nguyệt, khuyết, tròn.

Nửa đầu của tháng thì phần ánh sáng của mặt trăng nghiêng bên phải, nửa cuối tháng thì phần ánh sáng của mặt trăng nghiêng bên trái - theo góc quan sát từ Trái Đất. Nửa đầu tháng mặt trăng tròn sáng, nửa cuối tháng thì phần tròn sáng ẩn khuất hết nên gọi là trăng non. Như vậy, thực ra là trăng có 8 hình bóng khác nhau, thay đổi tuần hoàn tạo thành một tháng, từ xa xưa cho tới tận ngày nay.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Cho nên khi ngồi thiền tư thế kiết già, chân phải gác lên chân trái, tay phải đặt lên tay trái, ấy gọi là thế Kim Cương tọa, ý chỉ sự chắc chắn bền vững như chu kỳ tự nhiên của Trời Đất. Tiếng Phạn gọi

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

hay Liên Hoa Tọa, hàm ý rằng, ngồi yên lặng trong tư thế này là phương tiện giúp phát minh ra Trí Huệ nội tại, đẹp như đóa hoa Sen vậy.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Sửa bởi HieuHcmVN: 31/08/2025 - 17:07


#95 HieuHcmVN

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 563 Bài viết:
  • 246 thanks

Gửi vào 12/09/2025 - 11:49

Thiện và ác, từ Tâm sinh khởi

Ngày và đêm, nương Mặt trời mà ra

Trái Đất quay, sáng tối mới lại qua;

Tâm nghiêng vẹo, tà sinh che thiện đức.


Cảnh đối Tâm như Mặt Trời chiếu Đất,

Đất khuất Trời thì tối lạnh âm u,

Đất gần Trời thì ấm áp lòng Từ,

Chẳng tu dưỡng, tùy Cảnh Tâm hiện khởi.


Cảnh đủ đầy, tâm an nhàn vui vẻ.

“Bần cùng” rồi thì “Đạo tặc” phải sinh,

Cảnh khó khăn, vẫn Tâm sáng thiện lành;

Người như thế, quả thật Đời nay hiếm !


Trời và Đất cứ xoay vần bất tận,

Tự Tâm xoay, mà cũng thuận Cảnh xoay.

Nếu Tâm ta đối Cảnh chẳng động lay,

Tâm định tĩnh thì thường thường an lạc.


Chữ "Nhật" (日) nghĩa là ngày, cũng là mặt trời, thái dương. Chẳng có Mặt trời thì chẳng có Ánh sáng, không có sáng thì tối cũng không, cho nên Mặt trời có thì khái niệm Ngày đêm mới sinh ra được. Người xưa tỏ ra nghĩa này, nên lấy Mặt trời để định ngày đêm vậy.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Chữ "Nhật", theo giáp cốt văn, ban đầu biểu tượng là một vòng tròn, thêm dấu chấm ở chính giữa. Mặt trời thì hình tròn, nhưng người ta nếu chẳng có mắt thì làm sao thấy được hình dáng của nó ? Cho nên, ngoài là Trời, trong là mắt, dùng mắt mà thấy được Trời. Người thấy được mặt trời là người có mắt, chẳng phải người mắt mù.

Người xưa ví von là "Huệ Nhật", tức "mặt trời trí tuệ", người có trí tuệ, thì tức là có mắt, chẳng có trí tuệ thì chỉ có cái "miệng" - tức là chữ "khẩu" (口) - nói thao thao bất tuyệt mà chẳng có ý vị gì cả, mà lời cũng chẳng đúng với chân lý sự thật.

Nay ta có mắt, tuy thấy được sự vật, mà chẳng hiểu rõ sự vật thì cũng là một dạng "mù" bẩm sinh, vì thế mới cần học tập nghiên cứu, làm sáng tỏ nguyên lý vận hành của sự vật, sáng tỏ dần dần qua quá trình học tập thì từ "mù" chuyển ra "mờ mờ", rồi tới lúc mọi thứ sáng tỏ thì đồng nghĩa với "bệnh mắt" đã khỏi, khi ấy Tâm được Minh, Tánh được "kiến", đắc được Ngũ nhãn (nhục, thiên, pháp, huệ, Phật) và Lục Thông (thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, thần túc, túc mệnh và lậu tận). Các Đạo giáo khác nhau đều có cách khai mở Thiên nhãn, nhưng về căn bản, đường lối đúng đắn phải là giữ Thân được thanh tịnh, huyệt đạo được khai thông, nhập vào thiền định thì Thiên nhãn mở khai, Thiên nhãn khai mở thì có thể thấy được Cõi Âm cảnh, người đời gọi là mở "mắt âm dương".

Đạo Phật thì coi trọng Trí tuệ hơn là Thần thông, bởi có Thần thông mà không có Trí tuệ thì vẫn bị "lừa" bởi cảnh biến hóa, ở thế gian chuyện này cũng chẳng lạ lẫm gì cả, một số kẻ lừa đảo chuyên nghiệp thì mặt mũi bảnh bao, đi xe đẹp, mặt vét sang, đeo đồ hiêu, nước hoa tỏa ra thơm phức v...v làm lóa mắt người thì tưởng là kẻ đó giàu có, kỳ thật toàn đồ vay mượn, thế rồi khi bị lừa mới tá hỏa ra mình "có mắt như mù", ấy cũng là sự thật mô tả cho cái lý: Trí tuệ quan trọng hơn Thần thông (tức vẻ ngoài, cảnh tượng) đó vậy.

Là một người bình thường, mắt âm dương chẳng có, duyên Đạo pháp chẳng sâu, thế thì phải làm sao để có Trí Tuệ đây ? Cứ giữ lấy chữ "Nhật" này, rồi theo lời Tăng Tử trong Luận Ngữ, chương Học Nhi mà làm thì tốt đẹp ( chữ "Nhật" ở đây có nghĩa là thường xuyên, mỗi ngày không nghỉ, ngày này qua ngày khác ):

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

?

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

?

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

?


Tăng Tử viết: Ngô nhật tam tỉnh ngô thân: Vị nhân mưu nhi bất trung hồ? Dữ bằng hữu giao nhi bất tín hồ? Truyền bất tập hồ?”

Mỗi ngày tôi tự xét ba việc:

1. Làm việc gì cho ai, có hết lòng không?

2. Giao thiệp với bạn bè, có thành tín không?

3. Thầy dạy cho điều gì, có học tập đủ không?






Sửa bởi HieuHcmVN: 12/09/2025 - 12:06







Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |