Jump to content






Advertisements




BỐC DỊCH có gì hay ?


27 replies to this topic

#16

CityofStars



 

    Hội viên mới

  • HV Đợi Kích Hoạt
  • 83 Bài viết:
  • 47 thanks

 

Gửi vào 19/07/2025 - 20:26

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

HieuHcmVN, on 19/07/2025 - 17:41, said:

MỘT GÓC NHÌN BÁO TRƯỚC (1) - SẤM TRẠNG TRÌNH.

" Kể từ Thìn, Tỵ mà đi
Rồng thời chết lụt, Rắn thời chết khô"

Rồng kia nước Việt đó mà,
Rắn cuộn thành tổ ấy là nước Trung.
"Thủy" này là nước Long cung,
Cuộn lên là bởi Tổ tông báo điềm.

Rằng thời con cháu Lạc hiền,
Phải mau tu sửa, giữ yên sơn hà.
Chớ nên theo lũ tà ma,
Hại dân, hại nước, hại nhà, hại thân.

*Vua Cha nay đắc chánh Quân,
Đã ngồi thượng vị Hội Đồng Tối Cao.
Hồn thiêng sông núi dâng trào,
Tẩy sạch trấn yếm đầu rồng Thăng Long.

Để cho con cháu ngàn năm,
Sinh Hiền sinh Thánh, sinh Tiên sinh Tài.
Để cho vinh hiển nay mai,
Nước Việt ta sẽ hóa lai Rồng Vàng.

* Vua Cha - Kinh Dương Vương, chủ trì kỳ Đại Thanh Lọc.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn






Quả cháy pin mặt trời làm liên tưởng khéo nao cháy pin xe điện vin lỏ.
Tq to thế chỉ muỗi đốt inox. Lạc đà gầy còn hơn ngựa béo.
Vn ho he n cho chặn nước bằng mấy đập thuỷ điện từ thượng nguồn thì chết khô thật chứ k đùa, miền nam giờ xâm nhập mặn do thằng campuchia n xây thuỷ điện chặn nước r.

Sửa bởi CityofStars: 19/07/2025 - 20:32


#17

HieuHcmVN



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 409 Bài viết:
  • 195 thanks

 

Gửi vào 19/07/2025 - 21:13

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

CityofStars, on 19/07/2025 - 20:26, said:

Quả cháy pin mặt trời làm liên tưởng khéo nao cháy pin xe điện vin lỏ.
Tq to thế chỉ muỗi đốt inox. Lạc đà gầy còn hơn ngựa béo.
Vn ho he n cho chặn nước bằng mấy đập thuỷ điện từ thượng nguồn thì chết khô thật chứ k đùa, miền nam giờ xâm nhập mặn do thằng campuchia n xây thuỷ điện chặn nước r.

Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho Ta, hãy hỏi Ta đã làm gì cho Tổ Quốc hôm nay em à ?



#18

CityofStars



 

    Hội viên mới

  • HV Đợi Kích Hoạt
  • 83 Bài viết:
  • 47 thanks

 

Gửi vào 20/07/2025 - 21:20

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

HieuHcmVN, on 19/07/2025 - 21:13, said:



Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho Ta, hãy hỏi Ta đã làm gì cho Tổ Quốc hôm nay em à ?


Phải cống hiến cho người xứng đáng chứ a. Chứ thời nay học theo cụ Trần Nguyên Đán cho an toàn.
Lúc trước Phuc, Hue, Thuong đương chức thì trên đây mọi người cũng đội lên đầu. Dc làm vua thua làm giặc. Dân ta xưa nay có câu chú bộ đội, thg c a.
Làm j có bông tuyết nào trong sạch, k ăn thì đàn e cũng chết đói. Quan trọng phải biết phát triển kte, tạo đk cho người dân dễ thở. Bên tq quan tham vô số nhưng phải làm dc ăn dc, vd: lưu chí quân cha đẻ đường sắt cao tốc chứ đâu như DLT làm cát linh hđ.
Pin xe điện nổ như bom

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi CityofStars: 20/07/2025 - 21:37


#19

HieuHcmVN



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 409 Bài viết:
  • 195 thanks

 

Gửi vào 21/07/2025 - 07:25

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

CityofStars, on 20/07/2025 - 21:20, said:

Phải cống hiến cho người xứng đáng chứ a. Chứ thời nay học theo cụ Trần Nguyên Đán cho an toàn.
Lúc trước Phuc, Hue, Thuong đương chức thì trên đây mọi người cũng đội lên đầu. Dc làm vua thua làm giặc. Dân ta xưa nay có câu chú bộ đội, thg c a.
Làm j có bông tuyết nào trong sạch, k ăn thì đàn e cũng chết đói. Quan trọng phải biết phát triển kte, tạo đk cho người dân dễ thở. Bên tq quan tham vô số nhưng phải làm dc ăn dc, vd: lưu chí quân cha đẻ đường sắt cao tốc chứ đâu như DLT làm cát linh hđ.
Pin xe điện nổ như bom

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Nguyên Đán nói: kính Minh như cha
Yêu Chiêm Thành như là con ruột.
Ấy là Đạo an bang thủ nước,
Đâu phải sách hưng Quốc lợi Dân.
Dù cáo lão an hưởng trăm phần,
Cũng chỉ là an nhàn riêng phận.

Trời đã có sắp xếp, người cứ đúng Đạo mà hành, muốn tề gia trị quốc an bang thì trước phải Tu dưỡng bản thân mình. "Chim khôn chọn cành mà đậu, tớ khôn chọn Chúa mà thờ" thì đúng rồi, nhưng "thắng làm Vua, thua làm giặc" là cái trí của kẻ thất phu, tại vì sao ? Vì lòng còn hạn hẹp, trí chưa đủ lớn, chẳng thể lấy đại cục làm trọng, lấy xã tắc Quốc gia Dân tộc làm ưu tiên, lấy việc tranh quyền đoạt lợi làm chủ trương thì tất sinh ra đấu tranh hơn thua trong nội bộ. Khác nào như Nguyễn Ánh đánh chẳng lại Quang Trung, bèn cầu Xiêm La, cúi lạy Pháp, làm cái việc "cõng rắn cắn gà nhà", "rước ma về rày mà tổ"...để lại bài học lưu danh thiên cổ nhân thế "phỉ nhổ" muôn đời sau này.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng được phân công làm chủ tịch Ủy ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch, một "Hùm xám Đông Dương" lại lui về chăm sóc cho việc "đẻ đái" của chị em phụ nữ thì như người khác quả là "bất nhẫn", nhưng với ông và trong ông thì ông vẫn giữ vừng lập trường rằng: mình phải bớt nghĩ tư lợi, thường nghĩ việc ích Quốc lợi dân, lòng sẽ bình an, trí sẽ sáng suốt và sống sẽ an vui trọn thọ tuổi Trời.

Những kẻ bán nước sẽ phải già và chết, vận mệnh Tổ Quốc nhất định đặt vào tay thế hệ thanh niên, vì vậy thanh niên Việt Nam yêu nước phải quay về tu dưỡng Đạo đức, rèn dũa tâm tánh, sửa bỏ thói hư tật xấu, không ngừng học tập để thành tựu Đức Tài thì chẳng những hôm nay thành người hữu dụng, mà tương lai còn nhất định sẽ trở thành hiền tài làm những việc ích Quốc lợi Dân, thực hiện được hoài bão lý tưởng của chủ tịch H.C.M:

"Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em."

Trich:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Sửa bởi HieuHcmVN: 21/07/2025 - 07:40


#20

HieuHcmVN



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 409 Bài viết:
  • 195 thanks

 

Gửi vào 24/07/2025 - 13:50

ĐẠO MẪU VIỆT NAM (1) - Thánh mẫu Liễu Hạnh.

" Thiên cơ chẳng dám nói ra

Có duyên đã gặp thì ta đãi lòng
Ba mầu đến độ suy vong
Khỉ về Gà gáy, vầng hồng nổi lên
Cúc vàng rót chén rượu tiên
Uống mà xem lũ đảo điên luân thường
Mèo lùi Cáo nắm kỷ cương
Tương tàn cốt nhục nhiễu nhương lạ kỳ
Nhân gian mấy độ hợp ly
Đồng hoang nhuộm máu kinh kỳ tả tơi
Quỉ Ma giao chiến khắp nơi
Quỉ ở trên trời, Ma ở dưới hang
Cỏ cây non nước điêu tàn
Quỉ nọ ra hàng, Ma ấy mới thôi
Vẩy Rồng tạm tách làm đôi
Bóng câu in dấu muôn đời nhuốc nhơ
Kể từ đôi ngũ nằm chờ
Thầy Tu mở nước bấy giờ mới hay
Chẳng qua cũng giống Quỉ Tây
Ma tàn Quỉ hết đến ngày Long-Hoa
Khỉ về Gà gáy oa oa
Khắp nơi lại dấy can qua kinh trời
Quỉ Ma đến lúc đi đời
Phụ Nguyên Trời đã định ngôi sẵn sàng
Chó mừng tân chủ rõ ràng
Bốn phương tấp nập lên đàng hồi hương
Long Hoa muôn thuở biên cương
Việt Thường con cháu Tiên Rồng vẻ vang. "


<Tại đền Ngọc Sơn, Hà Nội, 1938 >



Mẫu Liễu Hạnh (母柳杏), Mẫu Thượng Thiên (母上天) hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ, bà được gọi ngắn gọn là Mẫu Liễu.

Theo truyền thuyết trong dân gian Việt Nam, Mẫu Liễu Hạnh là một trong bốn vị thánh Tứ bất tử. Bà là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng Đế với mẫu thiên hậu, 3 lần giáng trần. Bà đã được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn cấp nhiều Sắc, tôn phong là "Mẫu nghi thiên hạ - Mẹ của muôn dân", "Chế Thắng Bảo Hòa Diệu Đại Vương" và cuối cùng quy y cửa Phật theo lối bán tu rồi thành đạo là Mã Vàng Bồ Tát (鎷鐄菩薩).

Bà chính là vị Thánh Mẫu đứng đầu hệ thống Tam phủ, Tứ phủ thờ đạo Mẫu. Nhiều làng xã và các đô thị ở phía bắc Việt Nam đều có đền thờ bà.

Truyền thuyết

Căn cứ vào Tiên Phả Dịch Lục, Quảng Cung Linh Từ Phả Ký, Quảng Cung Linh Từ Bi Ký và Cát Thiên Tam Thế Thực Lục hiện đang lưu giữ ở địa phương do Ban quản lý Di tích – danh thắng của tỉnh Nam Định sưu tầm và một số tài liệu trong Hội đồng khoa học lịch sử Nam Định thẩm định thân thế và sự tích bà Liễu Hạnh như sau:

Lần giáng trần đầu tiên

Vào đầu thời nhà Hậu Lê, tại thôn Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam, có ông Phạm Huyền Viên, người xã La Ngạn kết duyên cùng bà Đoàn Thị Hằng, người ấp Nhuế Duệ, cũng xã Vỉ Nhuế (nay là thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).

Hai ông bà là những người hiền lành, tu nhân tích đức nhưng hiềm một nỗi đã ngoài 40 mà chưa có con. Một đêm rằm tháng hai, ông bà được thần báo mộng là Ngọc Hoàng sẽ cho con gái thứ hai là Công chúa Hồng Liên đầu thai làm con, từ đó bà có thai. Trước khi sinh, vào đêm ngày 6 tháng 3 năm Quý Sửu 1433, trời quang mây vàng như có ánh hào quang. Ông Huyền Viên ngồi đợi tin mừng, bỗng như có một nàng tiên từ trong đám mây bước xuống thềm nhà, và bà sinh một bé gái. Vì vậy ông đặt tên con là Phạm Tiên Nga.

Phạm Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi việc nữ công gia chánh đều thành thạo, đảm đang. Đến năm 15 tuổi đã có nhiều người đến dạm hỏi nhưng nàng đều khước từ vì nàng còn phải ở nhà chăm sóc cha mẹ già yếu, canh cửi quán xuyến công việc gia đình.

Ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1462), cha của nàng qua đời. Hai năm sau mẹ của nàng cũng về nơi tiên cảnh. Phạm Tiên Nga đã làm lễ an táng cha mẹ ở phía đông nam phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn La Ngạn, ở đây có đền thờ cha và mẹ của Phạm Tiên Nga).

Sau ba năm để tang cha mẹ, lo mồ yên mả đẹp, Phạm Tiên Nga bắt đầu chu du khắp nơi làm việc thiện (lúc này Tiên Nga vừa tròn 35 tuổi).

Bà đã ủng hộ tiền của và công sức giúp dân đắp đê ngăn nước Đại Hà từ bên kia phía núi Tiên Sơn (nay là núi Gôi) đến Tịch Nhi (nay chính là đường đê Ba Sát, nối Quốc lộ 10 chạy dọc xã đến ngã ba Vọng. Đây cũng chính là con đường nối di tích Phủ Dầy với Phủ Quảng Cung).

Cùng với việc đắp đê, bà còn cho làm 15 cây cầu đá, khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu, khai khẩn đất ven sông, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho người ốm, sửa đền chùa, cấp lương bổng cho các vị hương sư, khuyên họ cố sức dạy dỗ con em nhà nghèo được học hành.

Năm 36 tuổi, bà đến bờ Sông Đồi dựng một ngôi chùa trên mảnh vườn nhỏ, đặt tên là Chùa Kim Thoa. Bên trên thờ đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát, bên dưới thờ cha và mẹ.

Sau đó hai năm, bà tới tu sửa chùa Sơn Trường - Ý Yên, Nam Định, chùa Long Sơn - Duy Tiên, Hà Nam, chùa Thiện Thành ở Đồn Xá, Bình Lục, Hà Nam. Tại chùa Đồn Xá, bà còn chiêu dân phiêu tán, lập ra làng xã, dạy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải.

Tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1472), bà trở lại chùa Kim Thoa, và tháng 9 năm ấy bà trở về quê cũ cùng các anh chị con ông bác tu sửa đền thờ Tổ họ Phạm khang trang bề thế (nay còn đền thờ ở phía nam xóm Đình thôn La Ngạn). Sau đó bà lại đi chu du ở trong hạt, khuyên răn bà con dân làng những điều phải trái.

Rồi trong đêm ngày 2 tháng 3 năm Quý Tỵ, thời Hồng Đức (1473), trời nổi cơn giông, gió cuốn, mây bay, bà đã hóa thần về trời. Năm đó bà vừa tròn 40 tuổi.

Ngay sau khi bà mất, nhân dân xã La Ngạn, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng đã lập đền thờ trên nền nhà cũ, gọi là Phủ Đại La Tiên Từ. Đồng thời quê mẹ của bà là xã Vỉ Nhuế cũng lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của bà, gọi là Phủ Quảng Cung.

Lần giáng sinh thứ hai

Vì thương nhớ cha mẹ và quê hương ở cõi trần mà đến thời Lê Thiên Hựu, năm Đinh Tỵ (1557), Mẫu lại giáng sinh lần thứ hai làm con ông Lê Thái Công và bà Trần Thị Phúc thuộc dòng họ Trần Lê tại Giáp Nhất thôn An Thái, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản, hạt Sơn Nam Hạ (nay là Xóm 1, thôn Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định, cách quê cũ Vỉ Nhuế chừng 7 km). Do ông Lê Thái Công nhìn mặt con, thấy nét mặt giống nàng tiên nữ bưng khay rượu trong bữa tiệc chúc thọ Ngọc Hoàng mà ông mơ trước đó nên đặt tên cho con là Lê Giáng Tiên.

Lần này, bà kết duyên với ông Trần Đào Lang (người cùng làng tại Giáp Nhị, Vân Đình, nay là xóm 2 (xóm Đình ) thôn Tiên Hương) sinh được một người con trai, tên là Nhân, một con gái tên là Hòa. Giữa lúc cả gia đình đang đầm ấm vui vẻ thì bỗng nhiên, vào đúng ngày, bà mất ngày 3 tháng 3 năm Đinh Sửu, thời Lê Gia Thái thứ 5 (1577). Năm ấy, Bà mới 21 tuổi, tuyệt nhiên không bệnh tật gì. Lăng mộ và đền thờ ở Phủ Dày, thôn Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định.

Phủ Chính Phủ Dầy ngày nay được xây dựng trên chính nền nhà khi xưa của Mẫu, khu vườn đằng sau phủ cũng chính là khu vườn nơi Mẫu vẫn thường ra gẩy đàn ngâm thơ.

Lần giáng sinh thứ ba

Giáng Tiên về trời đúng hạn định theo lệnh của Ngọc Hoàng. Nhưng khi nàng đã ở trên trời thì lòng trần lại canh cánh, ngày đêm da diết trong lòng nỗi nhớ cha mẹ, chồng con nên nàng muốn xuống trần gian lần nữa. Khi về đến nhà vừa đúng lúc gia đình đang làm giỗ mãn tang cho nàng, mọi người đều hết sức ngạc nhiên và vô cùng sung sướng. Nàng ôm lấy mẹ mà khóc, rồi kể hết sự tình, dặn anh hãy gắng lo chăm sóc cha mẹ, vì lần này xuống trần nàng không thể ăn ở như lần trước, rồi trở về nhà chồng. Thánh Mẫu Liễu Hạnh gặp chồng, con cái mừng mừng tủi tủi. Nàng cũng kể rõ mọi chuyện cho chồng biết, khuyên chồng hãy cố gắng luyện chí, yên tâm theo đuổi sự nghiệp công danh, đừng quên chăm sóc con thơ, phụng dưỡng cha mẹ. Nàng quét dọn, sửa sang nhà cửa, may vá quần áo cho chồng cho con, rồi bỗng chốc lại thoắt biến lên mây... Cứ như thế, thỉnh thoảng nàng lại hiện về, làm xong các việc rồi lại biến đi. Ròng rã hàng chục năm sau, cho đến khi con cái khôn lớn và Đào Lang công thành danh toại, nàng mới từ biệt để đi chu du thiên hạ.

Hành thiện giúp đời

Trận giao chiến trên Đèo Ngang

Thời vua Lê Thái Tổ (1385-1433) trị vì. Lần ấy, Tiên Chúa đang hóa phép thành cô gái, mở quán bán cho khách bộ hành ở chân đèo Ngang (Hà Tĩnh). Lời đồn đại về một cô gái nhan sắc tuyệt vời bỗng đâu xuất hiện ở nơi đèo heo hút gió, làm cho mọi người hết sức ngạc nhiên. Rồi chỗ nào cũng thấy thì thào bàn tán. Chẳng mấy chốc, lời đồn đại cũng tới tận kinh đô đến tai hoàng tử sắp kế nghiệp đến tìm Tiên Chúa nhưng bị bà làm thành một kẻ ngẩn ngơ, điên điên dại dại. Cả hoàng triều bối rối, lo sợ. Tìm thầy tìm thuốc có đến cả tháng mà bệnh tình hoàng tử vẫn không thuyên giảm. Nhà vua nhờ sự giúp đỡ của tám vị Kim Cương đã lừa bắt được Tiên Chúa. Họ đưa Tiên Chúa về kinh để hỏi tội. Sau khi nghe Tiên Chúa kể lại hành vi của Hoàng tử, Nhà vua đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt, nói lời cảm tạ rồi chúc Tiên Chúa lên đường may mắn.

Cuộc gặp gỡ với Phùng Khắc Khoan và nguồn gốc di tích Phủ Tây Hồ

Tương truyền, ông đã gặp thần nữ là Liễu Hạnh công chúa cả thảy hai lần, và đều có xướng họa thơ: một lần gặp ở chùa Thiên Minh (Lạng Sơn) khi ông đi sứ về, một lần ở Hồ Tây (nay thuộc Hà Nội) khi ông cùng với hai bạn họ Ngô và họ Lý đi chơi thuyền. Lần ở Hồ Tây, người tiên kẻ tục bèn làm thơ xướng họa liên ngâm, sau được nữ sĩ Đoàn Thị Điểm chép trong truyện "Vân Cát thần nữ" ở tập Truyền kỳ tân phả của bà. Theo nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân, thì bài thơ ấy được đặt tên là Tây Hồ quan ngư (Xem cá Hồ Tây). Bản tiếng Việt do Phan Kế Bính dịch có tên là Cảnh Hồ Tây.

Theo "Nam Hải Dị Nhân" của Phan Kế Bính thì Tiên Chúa vân du đến miền xứ Lạng. Lúc Phùng Khắc Khoan đi sứ từ Trung Quốc về đến Lạng Sơn ông thấy một cô gái xinh đẹp ngồi dưới ba cây thông trước sân chùa, vừa đàn vừa hát.

Ông bèn lên tiếng ghẹo: 三木森庭,坐著好兮女子 - Tam mộc sâm đình, tọa trước hảo hề nữ tử. (Cụm từ "tam mộc sâm" 三木森 chỉ ba 三 chữ mộc木 (cây; gỗ) hợp lại thành chữ sâm 森 (cây cối rậm rạp; đông đúc) và cụm từ "hảo... nữ tử " 好... 女子 chỉ chữ nữ 女 (đàn bà, con gái) hợp với chữ tử 子 (con) thành chữ hảo 好 (tốt, đẹp, hay).

Người con gái nghe vậy, đối ngay: 重山出路走來使者吏人 - Trùng sơn xuất lộ, tẩu lai sứ giả lại nhân. (Cụm từ "trùng sơn xuất " 重山出 chỉ hai 重 chữ sơn 山 (núi) chồng lên nhau thành chữ xuất 出 (= ra; đi ra) và cụm từ "sứ... lại nhân"使...吏人 chỉ chữ lại 吏 (làm việc quan) hợp với chữ nhân 人 (người) thành chữ sứ 使 (người được vua hay chính phủ phái đi làm việc gì).

Phùng Khắc Khoan hết sức kinh ngạc bèn nói tiếp: 山人凴一几,莫非仙女臨凡 - Sơn nhân bàng nhất kỷ, mạc phi tiên nữ lâm phàm. (Cô sơn nữ ngồi ở ghế, phải chăng là tiên nữ giáng trần? Nhưng lắt léo ở chỗ: chữ sơn 山 và chữ nhân 亻ghép lại thành chữ tiên 仙. Chữ bàng có bộ kỷ 几. Chữ nhất và chữ kỷ ghép lại thành chữ phàm 凡.

Cô gái đáp ngay: 文子帶長巾必是學生視帳 - Văn tử đới trường cân, tất thị học sinh thị trướng. (Ông nhà văn chít khăn dài, chính thị học sinh nhòm trướng. Câu đáp không những lịch sự, dí dỏm mà chơi chữ cũng hết sức tinh vi: chữ văn 文 và chữ tử 子 ghép lại thành chữ học 斈 (= 學). Dưới chữ đới 帯 có bộ cân 巾. Chữ trường 長 và chữ cân ghép lại thành chữ trướng 帳).

Phùng Khắc Khoan vô cùng khâm phục cô gái. Ông cúi đầu làm lễ, lúc ngẩng đầu thì cô gái đã biến mất. Chỉ thấy trên thân cây gỗ viết bốn chữ: 卯口公主- Mão khẩu công chúa) và kế bên tấm biển cũng có bốn chữ: 冫馬已走 - Băng mã dĩ tẩu. Nghĩa là: Cây gỗ là bộ mộc. Mộc 木 thêm chữ mão 卯 là chữ liễu 柳. Mộc 木 thêm chữ khẩu 口 là chữ hạnh 杏, người con gái vừa rồi chính là Liễu Hạnh công chúa. Còn bộ băng 冫 đi với chữ mã 馬, chính là họ Phùng 馮 của ta. Chữ dĩ 已 nằm cạnh chữ tẩu 走, chính là chữ khởi 起. Có lẽ Liễu Hạnh công chúa dặn Phùng Khắc Khoan phải khởi công sửa lại ngôi chùa này. Sau đó, Phùng Khắc Khoan cho người tu sửa lại ngôi chùa khang trang.

Hiện nay những câu đối, những dấu tích về 2 lần gặp gỡ tại Lạng Sơn và Phủ Tây Hồ còn lưu lại ở Phủ Mẫu Thượng (Long Nga Linh Từ) (nơi Phùng Khắc Khoan gặp Liễu Hạnh lần đầu) và Phủ Tây Hồ (lần gặp thứ hai).

Cuộc tái hợp với Đào Lang - Người chồng kiếp trước

Vì tình nghĩa thủy chung với chồng con ở trần thế nên đến thời Lê Khánh Đức thứ 2 (1650), bà vân du đến làng Tây Mỗ, xã Hà Thái, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, vào ngày 10 tháng 10 năm Canh Dần, tái hợp với ông Trần Đào Lang lúc này đã tái sinh là Mai Thanh Lâm, sinh được một con trai tên là Cổn. Bà mất ngày 23 tháng 12 năm Mậu Thân, thời Lê Cảnh Trị thứ 6 (1668). Năm ấy bà vừa 18 tuổi. Đền thờ bà ở Phủ Sòng Sơn, Thanh Hoá.

Quy y Phật tổ

Sau khi hóa về trời, do vẫn còn tâm nguyện giúp đời nên Tiên Chúa khẩn thiết xin Ngọc Hoàng Thượng đế cho trở lại cõi trần gian. Ngọc Hoàng Thượng đế lắng nghe và hiểu rõ tất cả. Ngài cho gọi hai thị nữ tin cậy là Quỳnh Hoa và Quế Hoa bảo cùng đi với Tiên Chúa.

Lần này Tiên Chúa xuống Phố Cát, huyện Thạch Thành, Thanh Hoá. Ở đây, cũng như những lần trước Tiên Chúa thường hiển linh giúp đỡ người lành, trừng trị kẻ ác. Nhân dân cùng nhau góp của góp công, dựng một ngôi đền để lấy chỗ phụng thờ Tiên Chúa.

Những sự việc ấy lọt đến tai vua Lê chúa Trịnh. Hai vị vua chúa cho rằng trước kia tiên vương thả "yêu nữ" ra là một sai lầm, bây giờ đã đến lúc cần phải thẳng tay trừng trị. Bởi vì không thể có luật lệ nào khác ngoài luật lệ của vua chúa và ai muốn làm gì cũng không được tự quyền. Thế là hai vị cho triệu hồi các thuật sĩ tài giỏi trong nước đến kinh đô trong đó có Tiền Quân Thánh (vốn là tướng nhà trời, do mắc lỗi, đã bị đày xuống trần làm con trai thứ ba của một vị thượng sư, sư tổ của phái Nội đạo tràng), giao cho dẫn một đội quân hùng mạnh, đến thẳng miền Phố Cát để đánh dẹp.

Biết là không thể chống cự lại được, Tiên Chúa bảo Quỳnh Hoa, Quế Hoa tìm cách trốn đi, còn tự mình cũng hóa phép thành đứa trẻ, rồi lại hóa phép thành con rồng có vẩy vàng vẩy bạc múa lượn trên không.

Tiền Quân Thánh lúc ấy ngồi trên voi chín ngà niệm thần chú tung lưới sắt ra chụp lấy. Tiên Chúa bị bắt rồi hiện nguyên hình trở lại.

Giữa lúc ấy Phật tổ xuất hiện giải cứu cho Tiên Chúa. Khi vừa thấy Phật tổ, Tiền Quân Thánh liền sững lại, thay vì vậy đã sai quân lính mang đến cho Tiên Chúa một bộ quần áo cà sa và một chiếc mũ ni cô. Tiên Chúa nhận áo mũ rồi thoắt biến lên mây cùng với Phật tổ.

< Trích:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

>



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi HieuHcmVN: 24/07/2025 - 14:03


#21

HieuHcmVN



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 409 Bài viết:
  • 195 thanks

 

Gửi vào 24/07/2025 - 17:18

ĐẠO MẪU VIỆT NAM (2) - Thánh mẫu La Bình.

" Trấn sơn lâm Nhạc Tiên Vương Mẫu

Quản thượng ngàn ba mươi sáu động tiên
Hiệu danh Lê Mại Chúa Tiên
Bạch Anh công Chúa cầm quyền sơn lâm
Âm dương khí hợp thần hun đúc
Vòng càn khôn vũ trụ thai sinh
Vốn xưa giá ngự thiên đình
Quyền cai nhạc phủ rừng xanh ra vào
Ra hiệu lệnh võng đào đón rước
Thổ mán mèo sau trước phục tâm
Ơn nhờ Thánh Mẫu sơn lâm
Chở che làng bản thôn dân an lành
Lòng mộ Phật tu hành sớm tối
Cõi thiền na dốc chí bền tâm
Từ bi ứng hóa hiện thân
Có phen hóa hiện thôn dân đi rừng
Có phen biến người nùng người thổ
Có phen thời thuần hổ luyện voi
Hóa sinh sinh hóa kiếp người
Sơn Lâm Công Chúa chính ngôi La Bình
Theo đức Thánh Sơn Tinh tuần thú
Dạy muôn loài báo hổ chim muông
Dạy dân phát rẫy làm nương
Dạy cho chim hót líu lường líu lô
Nước cam lộ từ bi đượm khắp
Ứng hóa thân cứu độ muôn loài
Hóa sinh sinh hóa muôn nơi
Dấu chân ghi để muôn đời khắc ghi
Cảnh núi Giùm vạn niên lịch đại
Đất Tuyên Quang còn mãi truyền ghi
Đền thờ lồng lộng uy nghi
Thượng Ngàn Thánh Mẫu độ trì bốn phương
Khi hiển thánh Đông Cuông Yên Bái
Giữ đạo nhà nữ tắc tài hoa
Ngát hương dòng dõi Lê gia
Mãn trần xa giá gần xa mến lòng
Khắp mọi vùng nhớ công ơn đức
Lập đền thờ chầu chực khói hương
Bảng vàng Lê mại đại vương
Phù Lê gây dựng giang sơn thái hòa
Khắp Nam Bắc gần xa mến phục
Đội ơn người giáng phúc giáng ân
Chữ rằng sở nguyện tòng tâm
Mẫu vương lưu phúc thiên xuân thọ trường. "


< Văn Mẫu Thượng Ngàn - Chúa Sơn Trang, tác giả Phúc Yên>


Lâm Cung Thánh Mẫu (林宮聖母) hay Mẫu Thượng Ngàn hoặc Bà Chúa Thượng Ngàn , Thượng Ngàn Lê Mại Đại Vương (上岸黎邁大王) là một trong ba vị Thánh Mẫu được thờ cúng tại điện Mẫu, cạnh đình, chùa của người Việt, chủ yếu ở miền bắc và miền trung Việt Nam. Trong khoa cúng của Đạo Mẫu Tứ Phủ, Mẫu được tôn xưng là Mẫu Đệ Tứ Nhạc Tiên.

Hình tượng

Bà được tạc thành hình một phụ nữ đẹp, phúc hậu, ngồi ở tư thế thiền, chân xếp bằng và hai tay chắp và mang trang phục màu xanh khi được đặt cùng hai vị mẫu kia là Mẫu Liễu và Mẫu Thoải hoặc được thờ riêng trong một điện.

Thân thế

Mẫu Thượng Ngàn là người con gái đầu tiên của Ngọc Hoàng, vì tính tình thẳng thắn khó bảo nên bà được cha giao cho cai quản vùng núi rừng hoang vu, trái với Mẫu Thoải là người hay thay đổi nhưng rất nghe lời cha nên được giao cai quản vùng sông nước hiền hòa. Từ ngày Mẫu Thượng Ngàn về vùng núi cai quản thì người dân nơi đây đều được vụ mùa bội thu, đợt đi săn nào cũng bắt được thú lớn cả. Cũng vì thế dân trong vùng hết lòng tôn kính bà, những lời mà bà khuyên bảo đều được họ nhất mực nghe theo.

Sự tích

Lần giáng thứ nhất

Thu phục Mộc Tinh

Sau khi Mộc Tinh bị Sơn Tinh đánh đuổi thì chạy về hướng Tây Nam, tại đây nó vẫn giở trò cũ thường xuyên bắt dân trong vùng làm lễ tế người. Thánh Mẫu bèn hóa thành một cô gái xinh đẹp để trở thành vật hiến tế hòng bắt được con quỷ này. Khi sắp bị Thánh Mẫu giết hạ, Mộc Tinh liền vội vàng xin tha mạng. Nó hứa rằng từ nay sẽ không ăn thịt người nữa và tặng bà một hạt giống thần. Nó bảo chỉ cần trồng hạt giống thần kì này xuống đất thì sẽ mọc ra tất cả loại quả ngon hoa lạ trên đời này. Vừa dứt lời Mộc Tinh liền biến mất.

Sau khi gieo trồng, Bà đem những loại quả này giao cho trưởng làng để ông có thể chia cho gia đình những người đã bị Mộc Tinh làm hại. Thế nhưng, Mộc Tinh không hề hối cải như đã hứa, lần này nó ăn thịt Hùng Vương thứ IX – một vị vua anh minh, thương dân như con. Nó nhân cơ hội này dùng phép hóa thành nhà vua để cai trị nước Văn Lang. Mẫu Thượng Ngàn biết chuyện này có một phần là lỗi của mình nên đã tự nguyện chịu tội. Vua Trời bèn đày nàng làm con gái Mộc Tinh để sửa sai được đặt tên là Quế Hoa công chúa. Lớn lên, nàng được ông Bụt ban cho phép thuật nên đã cùng mười hai thị nữ ra sức tu tiên luyện đạo, cứu giúp dân lành.
Lúc bấy giờ đất nước Văn Lang rơi vào cảnh loạn lạc thù trong giặc ngoài do cha bà thường xuyên gây chiến với các nước làng giềng, tìm thú vui từ việc ăn thịt những kẻ chống đối mình. Công chúa Quế Hoa quyết định ra tay diệt trừ kẻ gây ra cảnh đau khổ lầm than này dù rằng người đó có là cha nàng.

Trong một buổi tiệc của nhà vua và các Lạc tướng, Quế Hoa đã xin được cùng mười hai thị nữ đánh đàn nhảy múa góp vui cho mọi người. Điều đặc biệt là chiếc đàn của nàng chỉ có duy nhất một dây khiến mọi người xung quanh đều tò mò thích thú. Khi tiếng đàn của công chúa vừa cất lên thì ai nấy đều cảm thấy thư thái, mọi âu lo đều bị quên lãng, thời gian trôi qua nhanh lúc nào không hay. Tới đêm thứ ba khi tiếng đàn vừa dứt thì Hùng Vương đã hiện nguyên hình thành một con hổ khiến mọi người hoảng loạn bỏ chạy. Mộc Tinh liền xông về phía Quế Hoa định ăn thịt nàng nhưng lần này nó đã dừng lại ngay trước mặt nàng vì dù hổ dữ cũng không thể ăn thịt con mình. Công chúa làm phép hóa dây đàn thành một sợi xích lớn buộc quanh cổ con hổ rồi dẫn nó theo mình.
Từ đó về sau Quế Hoa dạy người dân cách trồng trọt, làm nương rẫy, xây nhà, chăn nuôi và săn bắt thú dữ, còn mười hai thị nữ của bà thì trở thành các bà mụ chăm lo việc sanh đẻ của người dân để không ai phải chịu nỗi đau mất mẹ vì sanh khó giống như bà nữa. Riêng con hổ bà mang theo bên mình thì được bà dùng để trừng phạt lũ tội phạm gian ác đã làm hại dân lành. Khi nhân dân các bản mường đã có cuộc sống no ấm, Mỵ Nương Quế Hoa cùng 12 thị nữ bay về trời trên đám mây ngũ sắc. Từ đó về sau bà được người dân tôn thờ làm Bà Chúa Thượng Ngàn cai quản vùng rừng núi còn mười hai thị nữ trở thành Mười hai Bà Mụ cai quản việc sanh đẻ của trần gian.

Nhận nuôi Sơn Tinh

Một lần khi đang đi dạo trong rừng, Mẫu Thượng Ngàn và mười hai bà mụ phát hiện thấy bên gốc cây có xác một đứa trẻ chỉ còn lại bộ xương khô. Tiếc thương vì cậu bé đã chết khi còn quá nhỏ nên Mẫu Thượng Ngàn đã dùng phép hòa lẫn xương cậu cùng gan hùm, tay gấu, ruột ngựa, mắt phượng, chân voi cùng quả tim của bà để hồi sinh cậu. Mẫu vốn không có con cái gì, lại thấy cậu bé lanh lợi nên đã quyết định nhận cậu làm con nuôi, đặt tên là Sơn Tinh, giao cai quản vùng núi Ba Vì.
Một số dị bản đề cập rằng bà mất trong cuộc chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh. Sau khi mất thì bà trở lại Thiên Phủ sống cùng cha mình nhưng vì quá thương con nên bà đã xin cha được phép trở lại trần gian. Ngọc Hoàng đồng ý bèn cho bà được đầu thai trở lại làm người tích đủ phước đức luân hồi thì mới có thể ở bên con trai mình lần nữa.

Lần giáng thứ hai

Lần thứ hai bà giáng sinh vào cửa nhà họ Cao, một người tù trưởng trên đất Yên Bái. Sau đó nhiều lần bà hiển linh, dạy dân trồng trọt, làm ăn, lên rẫy làm nương, đi rừng, làm ruộng bậc thang nên được nhân dân suy tôn là: ‘Bạch Anh Trưởng Quản Đỉnh Thượng Cao Sơn Thần Nữ Cao Mường Sơn Triều’. Sau này bà lại linh ứng giúp vua Lê Thái Tổ nên được gia phong là ‘Lê Mại Đại Vương’.

Con gái Sơn Tinh

Sau khi tích đủ phước đức thì Ngọc Hoàng đã cho phép bà trở thành con gái của Sơn Tinh (tức Tản Viên Sơn Thánh) và Mỵ Nương Ngọc Hoa trong truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh. Khi còn trẻ, Mẫu là một cô gái đức hạnh, lại tài sắc vẹn toàn, được cha mẹ đặt tên là La Bình.

Khi Tản Viên và Mỵ Nương, theo lệnh của Ngọc Hoàng Thượng đế trở về trời thành hai vị thánh bất tử thì La Bình cũng được phong là công chúa Thượng Ngàn, thay cha đảm nhận công việc dưới trần, nghĩa là trông coi tất cả 81 cửa rừng và các miền núi non hang động, các miền trung du đồi bãi trập trùng của nước Nam.

Trở thành chúa tể của miền núi non và trung du, công chúa Thượng Ngàn vẫn luôn luôn chăm chỉ, hàng ngày hết sức làm tròn các trọng trách của mình. Bà bảo ban các loài cầm thú phải biết sống hòa hợp với nhau, dạy chúng đừng ăn những loài quả độc, nấm độc, biết tránh khỏi những cây cối đổ, những cơn lũ quét…

Bà dạy bảo con người cũng thật chu đáo, tỉ mỉ. Những gì cha bà đã dạy, bà đều đem ra áp dụng. Khi tiếp xúc với các tù trưởng, bà cũng học thêm ở họ được nhiều điều. Thế là bà lại đem những điều hiểu biết mới đi truyền bá ra mãi.

Ngọc Hoàng Thượng đế còn ban tặng cho bà thêm nhiều phép thuật thần thông, đi mây về gió, và trở thành vị Thánh bất tử để luôn luôn gần gũi, gắn bó với cõi trần, vĩnh viễn ở miền trung du và núi non hùng vĩ. Khi dân chúng sinh sôi nảy nở ra thêm, từ miền núi non và trung du tràn xuống các miền đồng bằng và ven biển, đã mang theo những cách thức làm ăn và phong tục tập quán từ hồi còn ở trong rừng, dưới sự bảo ban dìu dắt của công chúa Thượng Ngàn.

Cùng với nhiều vị thần thánh khác, công chúa Thượng Ngàn vẫn ngày đêm lặng lẽ âm phù cho sự bình yên của mọi người dân nước Việt. Nhiều người gọi bà là Mẫu, một cách vừa trìu mến gần gũi mà cũng vừa tôn kính.

Phù hộ

Thời kỳ khởi nghĩa Lam Sơn, lúc ấy lực lượng nghĩa quân còn yếu, thánh mẫu báo mộng cho vua Lê rằng phải rút quân ngay vì địa hình ở đây không thuận lợi, Khi vua Lê chưa kịp rút quân thì quân nhà Minh đánh đến bao vây. Nghĩa quân chống cự không nổi, tan tác mỗi người một nơi. Vua Lê và Nguyễn Trãi chạy thoát thân nhưng trong rừng núi, với trời đã tối, không tìm thấy đường đi. Trong đêm tối, bà đã hóa phép thành đàn đom đóm màu trắng sáng như ngọn đuốc, soi đường cho quân sĩ, tập hợp và dẫn dắt họ đi vào đất Mường Yên, về cơ sở núi Chí Linh. Ánh đuốc thiêng của Mẫu Thượng Ngàn chỉ quân sĩ của Lê Lợi biết được, quân Minh không thể nào nhìn thấy. Trong một lần thao lược Nguyễn Trãi đã chỉ ra chính sách đánh giặc do thánh mẫu chỉ đường: phải bảo vệ được cứ địa là núi Chí Linh. Quân ta bị đánh úp 3-4 lần những đều rút về Chí Linh an toàn.

Ở Chí Linh, nghĩa quân vừa sản xuất, vừa tập luyện và tập hợp, phát triển thêm lực lượng. Gian khổ không tài nào kể xiết; nhưng nhờ sự che chở của công chúa Thượng Ngàn, quân đội Lê Lợi vẫn ngày một thêm lớn mạnh.

Để ghi nhớ công ơn phù âm giúp đỡ của bà, đền Mẫu Thượng Ngàn tại Bắc Lệ được dựng lên. Những người đi rừng muốn được bình yên, vạn sự tai qua nạn khỏi, thường đến cầu xin sự che chở, phù trợ. Ai muốn săn bắt hay khai thác thứ gì trong rừng cũng đặt lễ, thắp hương, cầu xin để được Mẫu chấp thuận.

Sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ phong bà là Lê Mại Đại Vương, Diệu Tín Thiền Sư.

Huyền tích Chi Lăng - Xương Giang

Tháng 11/1426, quân khởi nghĩa Lam Sơn đại phá quân Minh trong trận Tốt Động - Chúc Động. Năm vạn quân Minh bị diệt, hơn một vạn quân bị bắt sống, chưa kể số chạy qua sông Ninh Giang bị chết đuối. Bản thân Vương Thông bị thương. Kế hoạch dùng 10 vạn quân để phản công của Vương Thông bị sụp đổ khiến viên tướng này phải cố thủ trong thành Đông Quan.

Vương Thông bí thế muốn đầu hàng, bèn viết thư xin giảng hòa để rút toàn quân về. Lê Lợi đã bằng lòng, sai người đi làm giao ước. Tuy nhiên, lúc đó các tướng người Việt là Trần Phong và Lương Nhữ Hốt sợ khi quân Minh rút về thì bản thân mình sẽ bị giết, bèn nói với Vương Thông:

"Trước đây quân Ô Mã Nhi bị thua ở sông Bạch Đằng, mang toàn quân quy hàng, Hưng Đạo Vương bằng lòng cho, nhưng lại dùng kế lấy thuyền to chở quân cho về, rồi sai người bơi giỏi sung vào làm phu chở thuyền. Đang đêm ra đến ngoài biển, rình lúc quân Ô Mã Nhi ngủ say, lặn xuống đục thuyền, làm cho những người đã quy hàng chết đuối, không ai sống sót trở về được."

Vương Thông nghe vậy hoảng sợ, nghi ngờ Lê Lợi, bề ngoài tuy nói giảng hòa nhưng bề trong sai người đào hào, rắc chông để phòng thủ và viết thư xin cầu viện vua Minh Tuyên Tông. Cuối năm 1427, vua Minh Tuyên Tông điều viện binh cứu Vương Thông, sai Liễu Thăng mang 10 vạn quân tiến sang từ Quảng Tây; Mộc Thạnh mang 5 vạn quân từ Vân Nam kéo sang. Đây là hai tướng đã từng sang đánh Việt Nam thời nhà Hồ và nhà Hậu Trần.

Quân của vua Lê sức mỏng lực kiệt, không đủ sức đánh đuổi được giặc mạnh. Mẫu Thượng Ngàn mới mách cho cách diệt giặc phải đánh chặn ngay từ Chi Lăng. Chặn được đường tiến công của Liễu Thăng tại Chi Lăng thì quân Mộc Thạnh tự khắc rút lui.

Tháng 9/1427, Liễu Thăng đi đường Quảng Tây, Mộc Thạnh đi đường Vân Nam sang cứu Vương Thông. Đường Liễu Thăng đi dự tính từ Lạng Sơn, qua Xương Giang để vào Đông Quan. Lê Lợi sai Lê Sát, Lê Văn Linh và Lưu Nhân Chú mang 2 vạn quân và 5 voi trận lên ải Chi Lăng đón đánh.

Lúc bấy giờ, Mẫu Thượng Ngàn mới hô các quân Mường, quân Mán từ 81 cửa ngàn, 36 cửa rừng và 16 cửa bể đến Bắc Lệ, chiếm lại thành Xương Giang từ tay giặc, phò minh quân dẹp giặc. Thế nên mới có ngôi đền Công Đồng Bắc Lệ. "Công Đồng Bắc Lệ" ở đây không phải là đền thờ công đồng Tứ Phủ, mà là công đồng các chúa Mán, chúa Mường, Bát Bộ Sơn Trang, lang hùm lang sói. Lúc đó Mẫu sắc sai Chầu Năm trấn ngay cửa rừng Suối Lân, khi nào thấy giặc đến thì đem quân ngàn ra mà đánh. Mế Lục trấn tại cánh Hữu Lũng, Mế Bé trấn ở Voi Xô. Trên đèo Kẻng, Mẫu cho dàn quân, Bát Bộ Sơn Trang chia ra trấn từng vùng từng phương khắp vùng Quan Lạng. Mẫu cùng Đệ Nhị Sơn Trang Diệu Tín và Đệ Tam Sơn Trang Diệu Nghĩa đứng trên núi Mỏ Ba quan sát, chỉ đạo trận chiến.

Mẫu báo cho vua phải giả thua để dụ giặc vào trận mai phục tại ải Chi Lăng. Đồng thời Mẫu cũng báo cho vua ba tử huyệt của Liễu Thăng là đôi mắt, gáy và rốn; hãy dụ đánh đến trên núi mặt quỷ, dưới gốc cây to, khi nào thấy hắn ôm mặt thì chém sau gáy.

Y theo lời Mẫu, ngày 8/10, cánh quân Liễu Thăng tiến vào Việt Nam. Lê Sát đặt phục binh ở Chi Lăng rồi sai tướng giữ ải là Trần Lựu mang quân ra đánh nhử, giả thua, trước tiên bỏ ải Pha Lũy về ải Chi Lăng. Quân Minh hăng hái tiến lên giành ải Pha Lũy, rồi tiến đến Chi Lăng.

Mẫu đứng trên đền Mỏ Ba, sai Chầu Mười hóa ra đàn ong đốt vào mắt quân địch. Liễu Thăng bị đốt vào mắt, ôm mặt, liền bị phục binh của Lê Sát, Trần Lựu đổ ra chém chết. Khốn thay, loài ong đốt xong mất ngòi cũng chết, thế nên Chầu Mười hóa vào ngày 20/9 âm lịch. Nhân gian mới có câu:

"Cuối thu mãn hạn về tiên
Nhân dân kỷ niệm lập đền Mỏ Ba."

Sau khi Liễu Thăng bị chém đầu, chỉ quy quân Minh là Lương Minh. Quân Lam Sơn viết thư khuyên Lương Minh rút quân, nhưng viên tướng này không chịu khuất phục mà vẫn tiếp tục dẫn quân (còn khoảng 9 vạn) về Cần Trạm (nay là thị trấn Kép và các địa phương lân cận).

Ngày 15/10, quân Minh đến Cần Trạm. Quân Lam Sơ gồm 3 vạn quân của Lê Lý, Lê Văn An cùng với 1 vạn quân của Lê Sát và Lưu Nhân Chú từ Chi Lăng rút về đã tổ chức mai phục và tập kích đối phương. Quân Minh bị thiệt hại nặng nề. Chỉ huy Lương Minh tử trận, thay bằng Đô đốc Thôi Tụ. Quân Minh vẫn tiếp tục tiến lên.

Ngày 18/10, quân Lam Sơn phục binh ở Phố Cát, giết 1 vạn quân Minh. Lý Khánh phải tự tử. Lực lượng còn lại của nhà Minh dưới sự chỉ huy của Thôi Tụ, Hoàng Phúc, trên đường đi bị quân Mán quân Mường phục kich giết hơn nửa.

Địa điểm thờ tự

Thánh Mẫu Thượng Ngàn, cũng như nhiều vị thần thánh khác, được nhiều người tôn thờ, và chính là hồn thiêng của sông núi, bao nhiêu đời nay dẫn dắt con cháu vững bước đi lên. Bà có mặt ở khắp nơi, theo bước chân của dân chúng, khi ở miền rừng núi rồi xuống miền đồng bằng. Vì vậy, ở nhiều nơi người dân lập đền thờ phụng bà.
Tuy nhiên, đại bản doanh của bà vẫn là vùng núi non và các cửa rừng. Những người đi rừng, muốn được bình yên, vạn sự tai qua nạn khỏi, thường đến cầu xin sự che chở, phù trợ của bà. Ai muốn săn bắt hay khai thác thứ gì trong rừng, cũng đặt lễ, thắp hương, cầu xin để được bà chấp thuận.

Đôi khi Mẫu Thượng Ngàn cũng được hiểu chính là người Mẹ của Đức Thánh Tản Viên, theo cách hiểu này thì Đền thờ Mẫu Thượng Ngàn tại Đền Mẫu Đợi ở làng Dụ Đại xã Đông Hải huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình để tưởng nhớ công ơn của Mẫu Ma Thị Cao Sơn – người mẹ có công ơn nuôi dưỡng Đức Thánh Tản Viên.
Tuy nhiên, có ba nơi được coi là trụ xứ chính của bà, gồm:
  • Thứ nhất là đền đông Cuông, xã đông Cuông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.
  • Thứ hai là đền Bắc Lệ, xã Bắc Lệ, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
  • Thứ ba là đền Suối Mỡ, xã Nghĩa Phương, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


<Trích:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

>


Sửa bởi HieuHcmVN: 24/07/2025 - 17:34


#22

HieuHcmVN



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 409 Bài viết:
  • 195 thanks

 

Gửi vào 25/07/2025 - 10:30

ĐẠO MẪU VIỆT NAM (3) - Thánh Mẫu Ngọc Nương (Xích Lân Long Nữ - Thần Long Hồng Đăng Ngạn).

Thủy Cung Thánh Mẫu (水宮聖母) hay Mẫu Đệ Tam (母第三), Đệ Tam Thánh mẫu ( 第三聖母), Mẫu Thoải ( 母水, chữ Thoải là đọc chệch từ chữ Thủy) là vị nữ Thánh dân gian Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý các miền sông nước. Trong khoa cúng, danh hiệu của Mẫu là Mẫu Đệ Tam Thuỷ Tiên.

Thân thế

Mẫu Đệ Tam vốn là con gái Vua Bát Hải Long Vương Thủy Quốc Động Đình, là cháu ngoại của Ngọc Hoàng Thượng Đế. Khi ở chốn Động Đình bà được gọi là: “Động Đình Trung Công Chúa Ngọc Hồ Thần Nữ”, sau này bà còn có danh hiệu: “Bạch Ngọc Thủy Tinh Xích Lân Long Nữ Công Chúa”.

Ở nhân gian lúc đó nếu Long tộc đứng đầu thuỷ phủ cai quản hết thảy biển cả sông ngòi thì còn có một Thần Nông thị - Vua Đất, cai quản hết thảy đất đai ở đồng bằng. Để hai tộc đời đời bền vững thì bà và cháu đời thứ 4 của Viêm Đế Thần Nông - Lộc Tục đã kết hôn với nhau.

Lộc Tục làm Vua phương Nam xưng là Kinh Dương Vương ( 涇陽王). Bà đã sát cánh cùng chồng từ bước đầu dựng nước Xích Quỷ, Trong khi chồng cai quản chuyện bên ngoài thì bà lo chuyện hậu cung và chăm lo đời sống của nhân dân, mọi người yêu mến gọi bà là “Bà Chúa tằm”. Bà có công lớn trong việc sinh hạ và giáo dục thái tử Sùng Lãm để sau này trở thành vị vua Lạc Long Quân tài trí của Nhà nước Văn Lang. Bà được phong là “Vi cung chính khổn” (Hoàng hậu) và được thưởng cho cung Tiên Cát. Khi bà mất, nơi đây chuyển thành Tiên Cát lăng, được nhân dân trông nom gìn giữ suốt mấy ngàm năm. Căn cứ vào “Ốc tổ Bách Việt triều thánh” Người sinh vào ngày 5 tháng 5, mất ngày 9 tháng 10, ngày giỗ của Người được gọi là ngày quốc lễ.


Đền thờ của bà hiện đang nằm ở thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Bên trong Đền Tiên, phường Tiên Cát, TP Việt Trì,

trang trí nhiều họa tiết trống đồng và có tượng Mẫu Ngọc Nương (Thần Long Hồng Đăng Ngạn - Mẫu Thoải) - Hoàng Hậu vua Kinh Dương Vương cùng ba vị Hoàng Tử trong cùng bọc là

Cự Linh Lang, Ất Linh Lang và Linh Thông Thủy.

Sự tích

Kỷ Hồng Bàng thị trong phần Ngoại ký của Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Kinh Dương Vương trị vì phương Nam, gọi tên là nước Xích Quỷ, Vua lấy con gái của Động Đình Quân tên là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân.” Hay trong Lĩnh Nam chích quái cũng kể thêm: “Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy con gái của hồ Động Đình là Long Vương, sinh ra Sùng Lãm, hiệu là Lạc Long Quân.” Hay Phan Huy Chú viết Lịch triều hiến chương loại chí – quyển VI phần nhân vật chí coi Kinh Dương Vương là dòng dõi thần Nông, vua khởi đầu nước Việt ta. Khi trước cháu ba đời Thần Nông là Đế Minh, đi tuần thú ở biển Nam, gặp nàng Vụ Tiên rồi lấy làm vợ, đẻ con là Lộc Tục. Lộc Tục có Thánh Đức, Đế Minh yêu lắm, muốn lập là con nối, nhưng Lộc Tục cố nhường cho anh là Nghi; Đế Minh liền phong cho Lộc Tục ở đất Việt (miền nam), tức Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân, đẻ ra Lạc Long Quân.

Như vậy, ba bộ sử giá trị nhất của Việt Nam thời xưa đã ghi nhận vợ của Kinh Dương Vương - tức Mẫu Thoải - chính là mẹ của Vua Hùng Vương Thứ nhất. Do đó tích truyện Mẫu lấy Kính Xuyên, rồi bị Thảo Mai hãm hại vu oan, truyền tụng theo các bản Văn ca tụng hát Chầu văn là không đáng tin cậy !


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


HỒ ĐỘNG ĐÌNH - CỘI NGUỒN CỦA NGƯỜI VIỆT



Không gian văn hóa Việt cổ xưa thường được các nhà nghiên cứu gói gọn trong không gian miền Bắc Việt Nam, nhưng không gian của văn hóa Việt xưa kỳ thực lại rộng hơn thế, khi lịch sử của dân tộc có một giai đoạn diễn ra ở vùng Hoa Nam ngày nay, huyền sử, ca dao cổ của người Việt đều ghi lại những địa danh ở đó. Hồ Động Đình cũng thế, là một địa danh được nhắc tới trong huyền sử của dân tộc Việt, cũng nằm trong khu vực phía Nam Trung Quốc, tại phía Bắc tỉnh Hồ Nam, nơi đây là cội nguồn của dân tộc Việt, thuộc quốc gia của Kinh Dương Vương, người làm chủ đất phương Nam.


Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi: Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỷ vào năm Nhâm Tuất 2879 TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là Long nữ sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ ( một nàng tiên ở phương Bắc ), sinh một lần trăm người con. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: "Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.


Tên hồ Động Đình cũng được nhắc tới trong một câu ca dao nằm trong kho tàng văn học cổ của dân tộc:


Gió Động Đình mẹ ru con ngủ

Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh

Tiết trời thu lạnh lành lanh

Cỏ cây khóc hạ hoa cành thương đông

Bống bồng bông bống bồng bông

Võng đào mẹ bế con Rồng cháu Tiên


Hồ Động Đình chính là nơi có nền văn hóa đồ ngọc thời đá mới là Thạch Gia Hà rất phát triển của người Việt (có niên đại 4500-4000 năm cách ngày nay), còn Tiền Đường thì là nơi có nền văn hóa Lương Chử (có niên đại 5400-4250 cách ngày nay) cũng rất rực rỡ. Văn hóa Lương Chử gần trùng khớp với mốc khởi đầu 2879 TCN của quốc gia Xích Quỷ được ghi lại trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, văn hóa Thạch Gia Hà có lẽ ứng với quốc gia Văn Lang của các vua Hùng.


Theo khảo cứu gen về di cư người Đông Á, thì người Việt từ vùng đất Tổ thứ hai này đã di cư về Việt Nam, đất Tổ thứ nhất, vào khoảng hơn 4000 năm trước, kiến tạo nên văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu cho tới Đông Sơn. Trung tâm văn hóa của người Việt cũng dịch chuyển theo sự di cư của nhóm dân cư này.


Tuy lượng lớn cư dân đã di cư về Việt Nam và tản ra khắp Đông Nam Á, nhưng đất Hồ Nam cho tới thời Khuất Nguyên, thì vẫn còn một lượng nhất định người Lạc Việt sinh sống, với sự tương hợp hoàn toàn của những hình vẽ trên trống đồng Ngọc Lũ với hoạt động của cư dân vùng Hồ Nam được mô tả trong bài Đông Quân của Khuất Nguyên (theo Lăng Thuần Thanh).


Cũng đã mấy nghìn năm kể từ khi xa đất Tổ, nhưng dường như hồ Động Đình vẫn rất linh thiêng với riêng người Việt, với một đoạn sử thú vị được ghi lại trong thời trung đại:


"Các sứ giả Đại Việt đi Trung Quốc về thường kể: sóng gió hồ Động Đình rất khó lường, thuyền bè qua lại rất khó khăn, duy chỉ có sứ thuyền Đại Việt mỗi lần đến đó, khi đi sang phía Bắc thì gặp gió Nam, lúc trở về phía Nam thì gặp gió Bắc, muôn lần không sai một. Cho nên thuyền bè công hay tư của Trung Quốc, mỗi lần gặp sứ thuyền của ta đều ghé vào để đi cùng. Năm Mậu Thìn đời Cảnh Hưng (1748), thám hoa Nguyễn Huy Oánh khi làm sứ có nhận xét rằng: ”Ở hồ Động Đình, thuyền bè của ta được thuận gió” có lẽ là chỉ vào việc đó." [Tạ Đức]


Đất Tổ giờ chỉ còn trong ký ức, người Việt chỉ còn có thể ghi nhớ thông qua huyền sử của dân tộc, nhưng, đối với người Việt, vùng đất đó mãi linh thiêng, nơi đánh dấu giai đoạn văn hiến đầu tiên của dân tộc Việt.



Phù Hộ:

Mẫu hiển linh giúp vua Lý Thái Tổ

Tương truyền vùng Đồng Bằng Bắc Bộ thường xuyên có lũ lụt. Khi vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, ông bắt đầu công việc trị thủy. Công việc kéo dài đến tận thời vua Lý Thái Tông mới căn bản xong. Các đoạn đê được nối liền vào với nhau và có quy mô rộng lớn như ngày nay. Trong suốt quá trình xây dựng hệ thống đê, lũ lụt vẫn thường xuyên xảy ra gây khó khăn cho nhân dân. Mẫu Thoải đã phái các thủy thần, tướng lĩnh của mình đến các làng ven Thăng Long để âm phù giúp dân đắp đê chống lụt. Thần tích này còn được ghi tại các làng Nhật Chiêu, Quảng Bá, Tây Hồ, Yên Phụ,…

Mẫu hiển linh giúp Trần Hưng Đạo

Quân Nguyên xâm lăng đất nước, vua Trần Nhân Tông khi ấy triệu Hưng Đạo Vương phong làm Đại Nguyên Soái cất quân đi dẹp giặc. Lúc ấy khi đi ngang qua sông Xâm Miện (khu đền Dầm) thì mặt trời vừa lặn. Ông cho quân lính cắm trại dừng chân bên bãi sông còn mình thì ở lại trên thuyền.

Đêm đến, trong cơn mơ, ông thấy một người con gái áo trắng, mang đai ngọc lưu ly cưỡi rồng vàng đến trước mặt ông và nói rằng: “Thiếp là con gái Long Vương là Thủy Tinh Ngọc Dung công chúa, được lệnh đến giúp ngài diệt giặc. Ngài hãy đem quân đuổi giặc, thiếp nguyện âm phù trợ giúp.” Tỉnh dậy ông biết là mộng báo có người phù trợ bèn xua quân đại chiến với giặc. Hai bên giao tranh ác liệt thì gió bấc thổi lên, nước sông cuồn cuộn, sóng nổi ngập trời làm cho chiến thuyền của giặc bị nhấn chìm tả tơi.

Thắng trận trở về, ông tâu vua báo công và nêu rõ việc Ngọc Dung báo mộng. Vua sai sứ giải về Xâm Miện vào miếu (nay là đền Dầm) bái tạ và ban sắc phong:

“Hoàng Long tĩnh mạch, đoan trang
Anh linh Thục Diệu phu nhân Trung Đẳng Thần.”

Mẫu hiển linh giúp vua Lê Thánh Tông

Tích này liên quan đến ngôi đền Hàn Sơn nổi tiếng tại Thanh Hóa. Tích xảy ra trong quá trình vua Lê đem quân đi đánh Chiêm Thành. Khi thuyền đi qua sông Lèn thì gặp một trận cuồng phong. Vua bèn lập đàn tràng để xin các vị thần phù trợ. Mẫu Thoải hay tin đã phái một nữ tướng đến trị. Ngay lập tức sông yên, gió lặng.

Sau khi thắng trận trở về, nhà vua nhớ công ơn, phong tặng cho Mẫu làm Thủy Phủ Thần Nữ tại đền Hàn Sơn. Từ đó, ngôi đền trở thành một trong những đền thờ Mẫu Thoải nổi tiếng nhất vùng.

Mẫu hiển linh giúp vua Lê Thần Tông

Đời vua Lê Thần Tông, có lần nước sông Hồng dâng lên rất cao, tràn cả vào Yên Phụ. Nhà vua phải thân hành làm lễ Nam giao (lễ tế cáo trời đất). Mẫu Thoải đã lập tức ứng hiệu và âm phù giúp dân chống lụt và xua đuổi thủy quái.

Điểm thờ tự:
  • Đền Hàn Sơn, Hà Trung, Thanh Hóa.
  • Đền Dầm, Thường Tín, Hà Nội.
  • Đền Tiên, Tiên Cát, Việt Trì.
  • Đền Bà áo trắng, Kỳ Cùng, Lạng Sơn.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi HieuHcmVN: 25/07/2025 - 10:49


#23

HieuHcmVN



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 409 Bài viết:
  • 195 thanks

 

Gửi vào 25/07/2025 - 21:46

ĐẠO MẪU VIỆT NAM (4) - Thánh Mẫu Cửu Trùng.

" Nay Đức Mẫu truyền kinh cứu khổ

Hỡi chúng sinh bớt chút thời gian
Muốn cho khỏi vận cơ hàn
Muốn cho bớt cả ức oan ở đời
Hỡi chúng sinh nghe lời Mẫu dạy
Hãy sống cho đúng đạo làm người
Đừng tham của cải chơi vơi
Ăn rồi phải trả gấp mười không sai
Tham rồi giàu chỉ nhất thời
Đời này chưa hết trả mười đời sau
Ta khuyên bảo cùng nhau hôm sớm
Sống chính chuyên đạo lý làm người
Hay chỉ những kẻ ăn lười
Làm không ăn có để rồi hại dân
Đó là những kẻ bất nhân
Nợ này phải trả đồng lần con ơi

***
Nay kinh Mẫu dạy truyền đời
Ăn ở đức độ Phật Trời chứng tâm
Thấy người khổ ải trầm luân
Con ơi bớt chút lương tâm cho người
Thấy người điên dại chớ cười
Người cần giúp đỡ con thời sẵn tay
Thấy người già yếu qua cầu
Sẵn tay đón rước ơn đâu sánh bằng
Dù cho gian khó nhọc nhằn
Ta vẫn chính đạo đừng tham của người
Thấy người đói rách tơi bời
Dù một lưng gạo cho người cũng hay
Đó là số phận ăn mày
Chẳng ai mong muốn ăn mày, ăn xin
Giúp họ là của để dành
Sau này Trời Phật để dành phần cho
Giúp người như của để kho
Mai kia vận hạn Phật cho lại mình

***
Ở đời có nghĩa có nhân
Mới hòng có phúc được ăn lộc Trời
Đừng như những kẻ vô loài
Bất nhân, bất nghĩa Trời đày xuống hang
Ơn vàng sẽ được trả vàng
Vô nhân đừng có than van kêu trời
Của làm phải đổ mồ hôi
Làm không ăn có là người hôi tanh
Vậy nên con phải tu nhanh
Đừng như những kẻ hôi tanh lỗi lầm
Sau này có phúc có phần
Phật Bà chứng giám, Mẫu dành phần cho
Đừng như những kẻ giả đò
Miệng thì niệm Phật, tâm thì hiểm sân
Như vậy ý nghĩa gì đâu
Thà rằng dốt nát Phật Trời xá cho

***
Hương trầm thơm ngát mười phương
Con ơi! hãy chọn mùi thơm hương trầm
Đừng nên sa ngã lỗi lầm
Dù rằng nghèo đói, cũng không sai đường
Thấy người xơ xác phải thương
Rách thường cho mặc, đói thời cho ăn
Thương người như thể thương thân
Người ta lỡ bước, khó khăn đến nhà
Đồng tiền, bát gạo mang ra
Của tuy bé tí nhưng mà nghĩa sâu
Hỡi các con hãy tu mau
Kiếp này cực nhọc, kiếp sau thành tài
Hãy nhẫn nhịn, bao dung độ lượng
Đừng tranh giành quên cả nghĩa thân
Mười phần phải nhịn chín phần
Còn một phần nữa Phật Trời xá cho
Đừng như những kẻ đưa đò
Ở đời đâu có thước đo được lòng
Đó là đối với người trần
Phật Trời đo được cả lòng con ơi
Trên thiên đã có Phật Trời
Ác lai ác báo là nơi sự thường
Làm người ta phải biết thương
Đừng như những kẻ khinh thường làm kiêu
Lộc thì muốn vét cho nhiều
Nhưng mà báng nhạo mọi điều chê bai

***
Muốn cho con cái thành tài
Tu nhân tích đức mới nên ngai vàng
Tu thời tu ở tại tâm
Phật khắp mọi miền, Phật ở quanh ta
Không phải khoác áo cà sa
Miệng niệm Di Đà mới gọi là tu
Hoa thơm, thơm ở nhụy vàng
Hương thơm một nén, thơm đà khắp nơi
Người thơm để lại tiếng đời
Lộc thơm tuy ít nhưng mà no lâu
Văn thơm dù có một câu
Nhưng mà truyền lại kiếp sau vẫn còn
Con ơi đừng có tham lam
Bớt ra một chút để mà tu tâm
Bao nhiêu lộc ở xa gần
Rồi đây Mẫu sẽ giành phần cho con
Những ai mà đã có công
Phật Bà Bồ Tát chấm công rành rành
Sau này con cái nên danh
Tức là Phật đã giành phần cho con
Dù cho cung cấm lầu son
Tâm vẫn héo mòn, sung sướng gì đâu
Vậy nên đừng có tham giàu
Nghèo mà tâm vẫn bình an hơn người
Hoa kia không sắc vẫn thơm
Có nhụy vẹn toàn một đóa hoa trinh

***
Con ơi cố gắng truyền kinh
Để cho muôn vạn chúng sinh được nhờ
Việc Thánh con chớ hững hờ
Truyền kinh cứu khổ Mẫu thời độ cho
Chọn người có đức, có tâm
Mẫu gửi tấm lòng truyền dạy chúng sinh
Mẫu khuyên, Mẫu dạy tỏ tường
Để cho con trẻ chúng sinh biết đường
Kinh này truyền khắp mười phương
Thập Phương Tam Bảo chúng sinh độ trì

***
Làm người cần nhất lương tri
Có nghĩa, có nghì trung hiếu mẹ cha
Kính trên nhường dưới thuận hòa
Cùng nhau xây dựng vinh hoa tỏ tường
Hương này thơm ngát mười phương
Con ơi hãy chọn con đường mà đi
Đừng như những kẻ vô tri
Giả vờ câm điếc làm gì nên thân
Có nghĩa thì mới có nhân
Cái nợ đồng lần không tránh được đâu

***
Thương con Mẫu nặng tâm sầu
Mong sao con trẻ tu mau lỗi lầm
Con ơi một nén hương trầm
Phật Trời chứng giám đâu cần mâm to
Thương con Mẫu mới dặn dò
Truyền kinh cứu khổ đến cho muôn người
Kinh này truyền khắp mọi nơi
Kinh của Phật Trời truyền cứu nhân dân
Hỡi chúng sinh khắp xa gần
Nghe kinh Mẫu dạy muôn phần gắng ghi
Bây giờ khánh hội kì thi
Các con cố gắng Mẫu thời chấm cho
Trên thiên đã có Phật Trời
Dưới trần Thổ Địa chứng chi lòng người
Ai mà ăn ở bất nhân
Thổ Công, Thần Táo tấu lên Thiên đình
Vậy nên con phải học kinh
Để cho biết được luật trời phép thiên
Dù ai ăn ở đảo điên
Con cứ thảo hiền Phật Mẫu chứng minh
Canh bốn thức dậy dâng kinh
Tam Tòa Tứ Phủ anh linh độ trì
Con ơi tu ở tại gia
Vẫn được Phật bà chấm điểm dự thi
Cũng như khánh hội khóa kì
Mẫu duyệt, Mẫu lại chấm bài cho con
Mẫu đã trao hẳn bút son
Thì con cố gắng cho lòng Mẫu vui
Bây giờ lọc của, lọc người
Mẫu chọn một người truyền bút giáng kinh
Không phải kinh học một mình
Mà kinh truyền đến chúng sinh muôn loài
Kinh ứng tâm Mẫu đã cho phép
Cứ truyền đi không phải ngại ngần
Con ơi cầm mực nẩy cân
Nếu con ngại ngần kinh lại tồn kho
Sớ kia có hóa thành tro
Sớ có bay đến tận tay Ngọc Hoàng
Kinh kia Mẫu đã duyệt xong
Truyền đi cho khắp mới hòng phúc lai
Thương con Mẫu mới sang tai
Con muốn thành tài làm đúng lời khuyên
Đây là Đức Mẫu Thượng Thiên
Giáng kinh cứu khổ xuống miền trần gian
Hương thơm tấu tới tòa vàng
Cho nên Đức Mẫu chứa chan lệ đầy
Thương con Mẫu giáng về đây
Trao kinh cứu khổ tận tay con trần

***
Một là con phải ăn năn
Chuộc hết lỗi lầm từ trước đến nay
Sau này thoát cảnh đọa đày
Mấy tầng địa ngục ai thay cho mình
Phụ nữ không được ái tình
Bất lương, bất chính là mình nhuốc nhơ
Đàn ông không được phụ tình
Chữ “hiếu” tôn thờ nhiều nhất trong tâm
Chữ “nhân” nhắc lại nhiều lần
Con phải ân cần không được làm sai
Chữ “phúc” cùng với chữ “lai”
Hai chữ cộng lại ai ai cũng cần
Chữ “nhục” là chữ lỗi lầm
Con ơi xa lánh muôn phần được khen

***
Con ơi tôn kính tòa sen
Là con ghi nhớ kinh này trong tâm
Phật Bà Quan Âm soi tâm
Là hết lỗi lầm từ trước đến nay
Con ơi kinh sách đêm ngày
Bút son Mẫu lại trao cho con làm
Bầu trời có mấy vì sao
Bút son bao chữ Mẫu đà cho con
Rồi đây mọi việc vuông tròn
Truyền kinh cứu khổ Mẫu cho mở đường
Dù cho muôn dặm đường trường
Hào quang sáng tỏ mở đường con đi
Bây giờ khánh hội kì thi
Các con cố gắng được ghi sổ vàng
Thương con giọt lệ chứa chan
Mẫu phải tìm đường giải thoát cho con
Mẫu tuy ở chốn lầu son
Nhưng Mẫu sáng suốt những con ở trần
Con nào khổ ải trầm luân
Con nào bất nghĩa, bất nhân Mẫu tường
Mẫu thương Mẫu sẽ mở đường
Dù con có vội dặm đường đâu thông
Đời người như một dòng sông
Lúc trong, lúc đục, lúc vơi, lúc đầy
Các con tụng niệm lâu ngày
Để cho xá hết đắng cay nỗi niềm
Tấu lên Đức Mẫu chép biên
Nay Mẫu giáng xuống nơi miền trần gian
Chọn người tâm ngọc lòng vàng
Lòng tin Mẫu gửi bút son tay cầm
Con ơi một nén hương trầm
Không cần nghi lễ đầy mâm đâu mà
Tấu lên Đền Mẹ, Phủ Cha
Con sẽ cố gắng để mà học kinh
Tấu lên Phật Bà Quan Âm
Con sớm tu thành khỏi lẫm trầm luân
Sau này có phúc có phần
Rồi con sẽ được mười phân vẹn mười
Mẫu cho hoa lá tốt tươi
Rồi con rạng nở nụ cười như hoa
Bao nhiêu nạn khỏi tai qua
Không còn giọt lệ nhạt nhòa trần gian
Các con tâm ngọc lòng vàng
Để cho Đức Mẫu bình an tấm lòng
Thương con Mẫu dành đôi dòng
Truyền kinh cứu khổ để lòng Mẫu yên
Van xin tấu tới Thượng Thiên
Động lòng Thượng Mẫu, Vua Cha Ngọc Hoàng
Độ cho con thượng bình an
Mẫu sẽ tìm đường cứu khổ cho con
Tuy Mẫu ở chốn lầu son
Lòng Mẫu héo mòn bởi vì chúng sinh

***
Vậy nên con phải học kinh
Luyện tâm tu tính để mình được tha
Thứ nhất kinh của Chúa Ba
Thứ hai kinh Mẫu, kinh Cha phải tường
Học kinh là lệ sự thường
Học rồi phải luyện, phải rèn theo kinh
Không phải luyện chỉ một mình
Mà còn phải luyện những người xung quanh
Chim khôn đâu tụ một cành
Người khôn đâu lỡ bỏ anh một mình
Mẫu thương muôn vạn chúng sinh
Mẫu muốn quây quần xum họp bên nhau
Học kinh phải thuộc làu làu
Ngày mai sum họp cùng nhau ăn làm

***
Thứ nhất quên hẳn lòng tham
Thứ hai trung hiếu, ba là nghĩa nhân
Thứ tư kế nghĩa tri ân
Phải nhất một lòng không được đổi thay
Thứ năm tính nết thẳng ngay
Dù có vận hạn cũng không thay lòng
Thứ sáu làng xóm xung quanh
Cùng nhau giúp đỡ dưới trên khiêm nhường
Thứ bảy con phải biết thương
Những người đói rách, những người bơ vơ
Những người ốm dắt trẻ thơ
Con ơi bớt chút lương tâm cho người
Thứ tám con chớ có cười
Những người điên dại, những người lầm than
Chín là phải biết họ hàng
Cùng chung một giọt máu đào sinh ra
Mười là ăn nói thật thà
Chính chuyên trọn đạo, tránh xa ái tình
Những ngày Đông chí, Thanh minh
Một nén hương trầm khắp chốn nghĩa trang
Để cho bày tỏ tấm lòng
Trách nhiệm người trần đối với người âm
Dù cho nghi lễ đầy mâm
Sắp ra rồi lại đầy mâm mang về
Thương con Mẫu dạy mọi bề
Mong sao con trẻ bốn bề thuận vui
Mẫu thương giọt lệ đầy vơi
Con ơi ghi nhớ những lời Mẫu khuyên
Đây là Đức Mẫu Thượng Thiên
Truyền kinh cứu khổ khắp miền xa xa..."



Sự tích:

Thánh Mẫu Cửu Trùng không phải là vợ của Ngọc Hoàng Thượng Đế, Mẫu được trao quyền cai quản Thiên phủ, Tiên cung. Là một trong bốn vị Tứ phủ Thánh mẫu, Mẫu Thiên Tiên luôn giữ vị trí thứ nhất trong hàng Thánh Mẫu.

Mẫu có rất nhiều tên hiệu khác nhau, như: Thanh Vân Công Chúa [青雲公主], Mẫu Thượng Thiên [母上天], Thiên Thanh Công Chúa [天青公主], Cửu Trùng Thánh Mẫu [九重聖母], Mẫu Cửu [母九], Lục Cung Vương Mẫu [六宮王母], Mão Dậu Công Chúa [卯丣公主], Bán Thiên Công Chúa (Mẫu Bán Thiên) [半天公主].

Vì cai quản Thiên phủ vốn tách biệt với đời sống dương gian, Mẫu Thiên Tiên đã ủy quyền đại diện trên nhân thế cho Mẫu Địa Tiên (tức Thánh Mẫu Liễu Hạnh) cai quản.

Mẫu Cửu Trùng Thanh Vân là vị Thánh Mẫu ngự nơi chín tầng mây, là vị nữ thần quyền hành cai quản tiên cung, cai quản lục cung sáu viện (Lục Cung Vương Mẫu) gồm:
  • Tầng trời 1 – Vườn Ngạn Uyển
  • Tầng trời 2 – Vườn Ðào Tiên
  • Tầng trời 3 – Thanh Thiên
  • Tầng trời 4 – Huỳnh Thiên
  • Tầng trời 5 – Xích Thiên
  • Tầng trời 6 – Kim Thiên
  • Tầng trời 7 – Hạo Nhiên Thiên
  • Tầng trời 8 – Phi Tưởng Thiên
  • Tầng trời 9 – Tạo Hóa Thiên
Địa điểm thờ tự:
  • Đền Chín Giếng (còn gọi là Đền Cô Chín) là nơi thờ Cửu Thiên Huyền Nữ. Đền Chín Giếng cách đền Sòng Sơn 1km về phía Đông, thuộc Trang Cổ Đam, Phú Dương, Phủ Tống Sơn, Thanh Hóa; Nay là phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn, Thanh Hóa. Được khởi dựng cùng thời với Đền Sòng Sơn (Thời Cảnh Hưng, triều vua Lê Hiển Tông 1740 -1786). Được tu sửa vào năm 1939. Năm 1993 được Bộ Văn Hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc Gia. Năm 2004 được trùng tu tôn tạo.

Trong trận chiến giữa Tiền Quân Thánh và Chúa Liễu Hạnh tại Sòng Sơn, Liễu Hạnh lâm nạn, biến thành con rồng ẩn về nơi Cửu Thiên Công Chúa đang ngự là chín cái giếng thiêng; Chúa Liễu Hạnh được Cửu thiên Huyền Nữ hóa phép che chở; được Phật Bà Quan Âm ra tay cứu đỡ , nên Liễu Hạnh thoát được lưới vây của Tiền Quân Thánh.Cảm tạ đức từ bi của Phật bà Quan Âm, Chúa Liễu quy y theo Phật, và cảm tình cưu mang của Cửu Thiên Huyền Nữ, chúa Liễu Hạnh kết nghĩa chị em với Cửu Thiên Huyền Nữ. Bởi vậy, hàng năm khi lễ rước bóng Thánh Mẫu Liễu Hạnh bao giờ kiệu rước Thánh Mẫu cũng được rước đi từ Đền Sòng sang đến Cô Chín, như muốn nói lên hình ảnh chị đến thăm em – Một nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam.Để ghi nhớ và tri ân đối với Cửu Thiên Huyền Nữ , đã có công cứu hộ Chúa Liễu Hạnh, Nhân dân lập đền thờ ngay bên cạnh chín cái giếng thiêng, Vì vậy ngồi đền đó được dân quen gọi là Đền Chín Giếng, hoặc Đền Cô Chín.Trước đền là suối Sòng ( Dòng suối tự nhiên chảy qua Đền Sòng và Đền Chín Giếng). Dưới mặt suối thiên nhiên kiến tạo nên cảnh quan kỳ vĩ với 9 miệng giếng sâu quanh năm dâng nguồn nước trong xanh, không bao giờ vơi cạn.


  • Đền Thượng Ba Vì trên núi Cổ Bồng mới đặt tượng Mẫu Cửu Trùng Thiên bằng đồng đúc, được an vị ngày 16/10/2010 có kích thước lớn bằng người thật, nặng khoảng 1 tấn, cao 2 mét 3. Tác phẩm có giá trị nghệ thuật được thể hiện công phu trên chất liệu đồng đỏ đúc liền khối được chạm tam khí và gắn đá quý của tác giả Trịnh Yên được liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam bảo trợ. Trong dãy núi Ba Vì có đỉnh Vua (cao 1296m), đỉnh Tản Sơn (đỉnh Bà hoặc đỉnh Mẫu, gọi là Ngọc Tản hay núi Phượng Hoàng Sơn cao 1081m) và đỉnh Ngọc Hoa (đỉnh Công Chúa, cao hơn 900m). Với đỉnh Mẫu, người xưa đã lập tích tôn thờ Mẫu sinh ra Sơn Tinh có tên là Lăng Sương, sau đó lập Đền Thượng để thờ Thánh Tản, có thể ở thời sau Hùng Vương. Ngôi đền này đã bị rừng già phủ kín, vị trí Đền Thượng bây giờ là chỗ mới lập lại gần trăm năm nay. Tại đây Đạo Mẫu đặc biệt được hoằng dương, Mẫu Cửu Trùng được tôn thờ lên vị trí độc lập và được ngự ngoài trời.


#24

HieuHcmVN



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 409 Bài viết:
  • 195 thanks

 

Gửi vào 26/07/2025 - 20:55

HỘI ĐỒNG TAM TÒA THÁNH MẪU - TỨ PHỦ CÔNG ĐỒNG

CHUẨN Y SÁM TỤNG THƯỜNG NHẬT, LƯU TRUYỀN DƯƠNG GIAN.

(23/11/2021, Tân Sửu - 23/11/6021, Tân Tỵ)


Thưa thỉnh:


Con xin kính lạy Bề trên,

Con xin kính lạy các Ngài uy linh.

Chứng tâm công đức lòng thành,

Cho con sám hối nhẹ vơi cõi trần.


Hôm nay, ngày.....tháng....năm...., nhằm ngày.....tháng....năm.....

Thần con tên là:.............Sinh năm.............Địa chỉ........................

Làm việc (hoặc làm gì thì tấu):.....................................................


Sám văn:


Con xin thành tâm sám hối,

Trước Tiên Tổ cội nguồn sinh ra vũ trụ,

Trước Hội đồng Tam Tòa thông tri Tam giới,

Trước các vị Thần linh thiêng của Ba cõi Tam thông,

Trước Tổ tiên dòng tộc tám họ nội ngoại sinh ra con,

Cùng Tổ tiên dòng tộc các họ..........đã nuôi dưỡng con,

Và vạn vật bá tánh quần sinh hỗ trợ.


Những ân nhân trên đường đời giúp đỡ,

Những oan gia trái chủ gây hận thù,

Những lỗi lầm đã gây cho bá tánh,

Nay con xin Bề trên gia hộ,

Cho con xóa bỏ được hận thù đây,

Từ bi hỷ xả trong lòng này,

Để con tu tập thành người có ích.

Nhận công lượng vô thân tích đức,

Gạt trái ngang vào dĩ vãng xa xôi,

Làm điều thiện hiện tại và tương lai,

Che chở cho con nơi hạ miền tu tập.


Dẫn đường con đi không bị lầm bị lỗi,

Buông xả hận thù, buông bỏ tham sân.

Gột rửa thân trung ấm cho sạch trong,

Mang công đức vô lượng của bề trên ban xuống.

Cứu bá tánh thần dân khỏi lầm than, khổ ải.

Chỉ đường, dẫn lối cho vạn vật chúng sinh.


Cùng bá tánh quần sinh nơi dương thế,

Chung tay, đoàn kết yêu thương nhau.

Đi theo sao sáng của Bề trên dẫn bước,

Con xin ghi nhớ lời Bề trên chỉ dạy,

Truyền đạt lại cho những người đi sau.


Con xin ân đức của Bề trên được hồi hướng,

Cho Cửu huyền thất Tổ, dòng họ được an lạc,

Các hiện thân, thân hữu ở cõi Ta Bà,

Được nhẹ tấm lòng này thanh thản,

Buông xả hận thù, thêm lớn lòng Từ bi.

Không còn tham sân si, chẳng còn mê dục lạc.

Cùng Chánh Pháp hạ miền tu tập,

Thành người có Tâm, có Đức ở nhân gian.

Từ người già, đến em bé đỏ trong làng,

Trong gia trung mọi người được hoan hỷ,

Được nhận ánh sáng của Bề trên ban xuống,

Dẫn đường chỉ lối, tâm thiện lành tu tập.

Tránh gây nên lầm lỗi ở trên đời,

Để lòng thành cứ thế nhẹ trôi,

Lên thuyền Bát nhã, qua miền Tây phương Cực Lạc.

Được về nơi Vua Cha giáng ngự,

4000 năm mới, Cha cho chuyển đổi đây.

Phục vụ Bề trên, phục vụ các Ngài,

Tu tập cùng bá tánh quần sinh,

Giữ vững Đạo - Đời, giang sơn xã tắc.


Nay con xin nguyện một lòng sám hối,

Tội lỗi con gây ở cõi Ta Bà này,

Nếu oan gia trái chủ nhiều đây,

Con xin được thành tâm sám hối.

Xin được cởi bỏ mọi nút thắt từ đây.


Hồi hướng:


Con xin được khỏe mạnh đêm ngày,

Lo cho gia đình và bá tánh,

Con xin nguyện làm điều lành, tránh điều dữ,

Thân tâm an lạc, cứu khổ độ mê,

Nguyện một lòng giữ vững lời thề,

Cứu bá tánh còn đang lầm lạc,


Thần con xin cẩn bạch các Ngài trong Ba cõi Tam thông,

Chứng tâm công đức lòng thành cho con.


Tu tập:

Niệm chú Đại Bi 21 lần


Nam-mô Đại-bi Hội-Thượng Phật Bồ-tát (3 lần)


Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại Đại-bi tâm đà-la-ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.
Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha. (3 lần)



Niệm Phật, 108 lần mỗi danh hiệu.


Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát

Nam mô A Di Đà Phật.

Nam mô Di Lặc Tôn Phật.


Lễ tạ 3 lễ, rồi dừng nghỉ.


<Y theo lệnh truyền, cứu vớt trong kỳ Đại Thanh Lọc >


Sửa bởi HieuHcmVN: 26/07/2025 - 21:03


#25

HieuHcmVN



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 409 Bài viết:
  • 195 thanks

 

Gửi vào 27/07/2025 - 12:05

MỘT GÓC NHÌN ĐA CHIỀU (1) - Triệu Vũ Vương, Triệu Văn Vương.

Triệu Vũ Vương là Triệu Đà, Triệu Văn Vương là cháu Triệu Đà, con trai của Trọng Thủy; Văn Vương cũng chính là người soạn ra Thoán từ trong Kinh Dịch, khi ông trở thành con tin của nhà Hán, bị giam ở ngục Diễu Lý.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Xích Quỷ là nhà nước đầu tiên tiên của người Việt được thành lập năm 2879 TCN. Sau này, nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng hình thành trên cương vực của nước Xích Quỷ. Vào thời Chiến Quốc, nhà nước Văn Lang tan rã, một số thủ lĩnh khu vực thành lập những nhà nước của người Việt như Ngô, Việt, Sở… Tần Thủy Hoàng diệt nước Sở, sáp nhập đất đai cùng dân cư nước Văn Lang cũ vào đế chế Tần. Khi nhà Tần sụp đổ, Triệu Đà, một viên huyện lệnh người Việt đã lãnh đạo dân Việt phía nam Dương Tử lập nước Nam Việt. Việc Nam Việt diệt An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào mình, về bản chất lịch sử không khác gì việc Quang Trung diệt nhà Lê Trịnh để lập Đại Việt thống nhất bao gồm cả vùng đất phía Nam. Dù gì đi nữa, cũng không thể bác bỏ sự thật là, trong một thế kỷ tồn tại, Nam Việt là cái cầu, là sợi dây nhau cuối cùng kết nối Việt Nam với quá khứ của đại tộc Việt.

Nguyễn Trãi, trong Bình Ngô Đại Cáo nói rằng:

"Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nên độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên môi bên hùng cứ một phương.
Tuy mạnh yếu nhiều lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.."


Khi nhà Tần diệt nước Thục, giết vua và thái tử Thục ở núi Bách Lộc năm 316 TCN, Thục Chế cùng di duệ nhà Thục chạy xuống tá túc trên đất của vua Hùng. Nhiều lần Chế tấn công Hùng Duệ Vương nhưng không thành, tới đời con ông là Thục Phán đã diệt vua Hùng, lập nước Âu Lạc.

Năm 257 TCN, Triệu Đà vua nước Nam Việt diệt An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt. Quốc sử của ta, từ đời Nguyễn về trước, đều ghi nhận Âu Lạc và Nam Việt là nhà nước chính thống của người Việt. An Dương Vương và Triệu Vũ Đế đều được ghi công lớn. Không những thế, Triệu Đà còn được suy tôn là vị vua mở đầu của lịch sử đất nước. Tuy nhiên, giới sử gia miền Bắc vào thập niên 1960 phán quyết rằng Triệu Đà là ngoại xâm nên bỏ Kỷ nhà Triệu khỏi chính sử.

Việc trục xuất nhà Triệu khỏi sử Việt đưa tới những hệ lụy nghiêm trọng sau:

Tước bỏ tư cách thừa kế của người Việt Nam với quá khứ của đại tộc Việt. Từ những phát hiện của di truyền học đầu thế kỷ XXI cho thấy, người Việt không chỉ sinh sống lâu đời ở Nam Dương Tử mà hàng vạn năm trước là chủ nhân của đất Trung Hoa. Trên đất này, đại tộc Việt đã làm nên những nền văn hóa rực rỡ.

Tước bỏ vai trò chủ nhân Việt đối với ngôn ngữ gốc mà người Trung Hoa đang sử dụng hiện nay. Trong tám phương ngữ được xác định trên đất Trung Hoa thì tiếng Việt Quảng Đông được coi là ngôn ngữ gốc. Trong khi đó, nguồn cội của ngôn ngữ Quảng Đông chính là ngôn ngữ vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, trung tâm của người Việt khoảng 15.000 năm trước.

Tước bỏ vai trò sáng tạo chữ Giáp cốt của người Việt. Chữ Giáp cốt được phát hiện đầu tiên vào thời nhà Ân ở Hà Nam. Nhưng khảo cổ học xác định rằng tại văn hóa Giả Hồ 9000 năm trước đã có ký tự hình vẽ trên yếm rùa. Cuối năm 2011, tại di chỉ Cảm Tang tỉnh Quảng Tây phát hiện ký tự tượng hình khắc trên xẻng đá có tuổi 4000 tới 6000 năm trước. Những ký tự kiểu Giáp cốt này xuất hiện trước khi người Hoa Hạ ra đời. Do vậy nó hoàn toàn là sản phẩm sáng tạo của người Vịệt.

Tước bỏ mối liên hệ huyết thống và văn hóa với những bộ tộc người Việt đang sống trên đất Trung Hoa. Những khám phá lịch sử cho thấy, trước cuộc xâm lăng của Tần Thủy Hoàng thì phần lớn đất Trung Hoa do người Việt làm chủ: Thục và Ba phía tây nam; Ngô, Sở, Việt ở trung tâm và phía đông; Văn Lang phía nam. Do cuộc xâm lăng của Tần Thủy Hoàng, phần lớn đất đai và dân cư Việt bị sáp nhập vào đế chế Tần. Trong phần đất bị chiếm, đại bộ phận người Việt bị Hán hóa. Tuy nhiên, có không ít nhóm Việt không chịu đồng hóa, đã lui sâu vào cư trú trong vùng rừng núi. Lâu dần, từ người Lạc Việt – tộc đa số trong dân cư- họ bị thiểu số hóa. Những nhóm người như tộc Thủy, Bố Y ở Quý Châu vẫn giữ nhiều nét văn hóa Việt cổ, có thể nói đó là nền văn hóa Việt hóa thạch. Nếu nghiên cứu văn hóa của những tộc người bà con này, chắc chắn sẽ khám phá lại nhiều điều quý giá của văn hóa Việt cổ. Đặc biệt tộc Thủy với 340.000 người vẫn giữ được sách Thủy (Thủy thư -水书) viết bằng chữ Thủy (Thủy tự), loại chữ tượng hình gần gũi Giáp cốt văn nhưng hành văn theo cách nói xuôi của người Việt, một loại văn tự hóa thạch sống, được Trung Quốc coi là bảo vật.

Mất quyền thừa kế với truyền thống và văn hóa Nam Việt.

Sáp nhập đất đai và dân cư Âu Lạc, Nam Việt thành quốc gia lớn trong khu vực. Trái với quan niệm phổ biến cho đến nay là Triệu Đà dùng kế sách “nội đế ngoại vương” (bên trong xưng đế nhưng đối với nhà Hán thì xưng vương), suốt đời mình, Triệu Đà xưng danh hiệu Triệu Vũ Đế và cháu ông cũng xưng đế mà bằng chứng là chiếc ấn bằng vàng, kich thước 310 x 310 mm (lớn hơn mọi con ấn của vua Hán) khắc bốn chữ Văn Đế hành tỷ (文帝行璽) tìm thấy trong lăng mộ. Sau khi phát hiện lăng mộ Triệu Văn Đế, người Trung Hoa đã lập khu trưng bày di tích này với khoảng 2500 hiện vật đặc sắc, trong đó đại đa số là thuộc văn hóa Việt. Do coi đây là của người Trung Hoa nên giới sử học Việt chưa hề có nghiên cứu nào về di chỉ quan trọng này.
Để mất những mối liên hệ trên, không chỉ là nỗi đau của người Việt Nam, dòng cuối cùng của Bách Việt còn độc lập và giữ được cương thổ. Nguy hại hơn, nó cắt đứt mối liên hệ với quá khứ, khiến cội nguồn, lịch sử và văn hóa Việt trở nên chông chênh trên không chằng, dưới không rễ!

<Trích:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

>




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Trong bài đăng "Vài nét về Văn hóa thời Hùng Vương" trên tạp chí Văn học số ra tháng 9, 10/1973, Giáo sư Bùi Văn Nguyên có ghi:

"Nhân dân Việt thường đã biết xét nghiệm sự vật theo hiện tượng thiên nhiên mà làm lịch để áp dụng vào nông nghiệp khá sớm. Sách Thông chí của Trịnh Tiều chép rằng: "Đời Đào Đường (Nghiêu) năm 2253 trước Công nguyên, phương Nam có họ Việt Thường cử sứ bộ, qua hai lần phiên dịch sang chầu, dâng con rùa Thần có lẽ đã sống một nghìn năm, mình dài hơn ba thước, trên lưng có văn Khoa Đẩu, ghi việc khi Trời Đất mở mang, Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là "Quy lịch" (lịch rùa). Ở đây chưa rõ văn Khoa đẩu (chữ hình con nòng nọc) trên lưng con rùa là văn sẵn trên mai nó hay là một thứ ký hiệu ta gọi là chữ Khoa Đẩu mà các nhà làm lịch nước ta vạch lên mai rùa.

Dù sao "Quy lịch" lúc đó là phát hiện riêng của các nhà Thiên văn nước Việt Thường. Các nhà thiên văn Trung Quốc cũng làm ra lịch của họ, nhưng người Việt Thường lại không theo lịch của Trung Quốc. Mãi đến thời nhà Hán, đời Triệu Văn Vương (con trai của Trọng Thủy, cháu của Triệu Đà), người nước ta vẫn dùng lịch truyền thống của mình.

Khi làm lịch, Tổ tiên ta đã biết dựa vào những mốc tiêu chuẩn của thời gian theo chu kỳ của mặt trăng, mặt trời. Dấu tích còn thể hiện qua hoa văn của Trống đồng Ngọc Lũ.

VD: Trung tâm mặt trống là hình ảnh mặt trời, vòng trong là Hạ chí, vòng giữa là vòng Xuân phân, Thu phân, vòng ngoài là Đông chí v...v

<Xem nguồn gốc chữ Khoa Đẩu:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

>


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


<Tham khảo lịch Kiến Tý trên Trống Đồng Ngọc Lữ:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

>


Sửa bởi HieuHcmVN: 27/07/2025 - 12:27


#26

HieuHcmVN



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 409 Bài viết:
  • 195 thanks

 

Gửi vào 27/07/2025 - 19:30

ĐẠO MẪU VIỆT NAM (5) - Đức Ông Trần Triều (Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn).

Đức Thánh Trần được xem là biểu tượng của tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm và sự mưu lược tài ba, là nguồn cảm hứng cho người dân Việt Nam.

Trần Hưng Đạo (chữ Nho: 陳興道; 1226 – 1300) (tên thật là Trần Quốc Tuấn (chữ Nho: 陳國峻), tước hiệu Hưng Đạo đại vương) là một nhà chính trị, nhà quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời kỳ nhà Trần. Sau khi qua đời dân gian đã suy tôn ông thành Đức Thánh Trần (德聖陳) hay còn gọi là Cửu Thiên Vũ Đế (九天武帝). Ông được biết đến trong lịch sử Việt Nam với việc chỉ huy quân đội đánh tan ba cuộc xâm lược của quân Nguyên – Mông năm 1258, 1285 và năm 1287. Phần lớn tài liệu nghiên cứu lịch sử và cả dân gian thời sau thường dùng tên gọi vắn tắt là "Trần Hưng Đạo" thay cho cách gọi đầy đủ là "Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn", vốn bao gồm tước hiệu được sắc phong cho ông. Ông là một trong mười bốn vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.

Là con của thân vương An Sinh Vương Trần Liễu và là cháu nội của Trần Thái Tổ, Trần Hưng Đạo có mối quan hệ mật thiết với hoàng tộc họ Trần và vua Trần Nhân Tông gọi ông bằng bác.

Đức Thánh Trần Hưng Đạo Đại Vương là một danh nhân kiệt xuất của dân tộc đồng thời là danh nhân quân sự cổ kim của thế giới. Năm 1984, tại London, trong một phiên họp với các nhà bác học và quân sự thế giới do Hoàng gia Anh chủ trì đã công bố danh sách 10 đại nguyên soái quân sự của thế giới, trong đó có Trần Hưng Đạo Đại Vương.

Đức Ông Trần Triều được xem là một vị Thánh thuộc Phủ Trần Triều, một phần của hệ thống thờ Mẫu Tứ Phủ. Tuy nhiên, nhà Trần không thuộc hệ thống Tứ Phủ, nhưng có sự kết hợp trong thờ cúng. Mặc dù nhà Trần có lối thờ tự riêng, nhưng có sự phối thờ giữa Trần Triều và Tứ Phủ, vì cả hai đều thuộc dòng Thiên Tiên, giáng phàm để cứu dân độ thế.

Phù trợ:

Năm 1257, ông được vua Trần Thái Tông phong làm đại tướng chỉ huy các lực lượng ở biên giới đánh quân Mông Cổ xâm lược. Sau đó, ông lui về thái ấp ở Vạn Kiếp. Đến tháng 10 âm lịch năm 1283, nhà Nguyên (sau khi Mông Cổ thống nhất Trung Hoa) đe dọa đánh Đại Việt lần hai, Hưng Đạo vương được Thượng hoàng Trần Thánh Tông, và vua Trần Nhân Tông (lần lượt là em họ và cháu họ ông) phong làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội cả nước.

Trên cương vị này, năm 1285, ông lãnh đạo quân sĩ chặn đứng đội quân xâm lược do hoàng tử thứ chín Thoát Hoan. Sau những thất bại ban đầu, quân dân Việt dưới sự lãnh đạo của hai vua Trần, Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải và Hưng Đạo vương phản công mạnh mẽ, phá tan quân Nguyên trong các trận Hàm Tử, Chương Dương, Trường Yên, Vạn Kiếp,... đánh đuổi hoàn toàn quân Nguyên khỏi biên giới.

Năm 1288, quân Nguyên trở lại xâm lược Đại Việt lần thứ ba. Khi tiếp tục được phong Quốc công tiết chế; Hưng Đạo vương khẳng định với vua Trần Nhân Tông: "Năm nay đánh giặc nhàn". Ông đã áp dụng thành công chiến thuật của Ngô Quyền, đánh bại hoàn toàn thủy quân nhà Nguyên do các tướng Phàn Tiếp và Ô Mã Nhi chỉ huy trong trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng, buộc quân Nguyên lại phải rút về nước. Tháng 4 âm lịch năm 1289, Trần Nhân Tông chính thức gia phong ông làm "Đại vương" dù chức quyền đứng đầu triều đình khi đó vẫn thuộc về Thượng tướng Thái sư Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải.

Sau đó, ông lui về Vạn Kiếp đến khi mất năm 1300. Trước lúc qua đời, ông khuyên Trần Anh Tông: "Phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc". Ngoài ra, ông còn để lại các tác phẩm kinh điển như Hịch tướng sĩ, Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư đặt nền móng cho nghệ thuật quân sự Việt Nam kể từ thời Trần đến ngày nay.

<Trích:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

>



Hệ thống thờ tự Trần Triều:
  • Vương phụ - Vương mẫu: Cha mẹ của Đức Thánh Trần.
  • Vương phi Phu nhân: Vợ của Đức Thánh Trần.
  • Tứ vị Vương Tử: Bốn người con trai của Đức Thánh Trần, bao gồm Hưng Vũ Vương, Hưng Hiến Vương, Hưng Nhượng Vương, và Hưng Trí Vương.
  • Nhị vị Thánh Cô: Hai vị công chúa con của Đức Thánh Trần.
  • Lục Bộ Đức Thánh Ông: Sáu vị tướng theo hầu Đức Ông Trần Quốc Tuấn...
<Tham khảo thêm:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Địa điểm thờ tự:

Đền Kiếp Bạc (Hải Dương):

Nơi đây được coi là trung tâm thờ tự quan trọng nhất, gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Trần Hưng Đạo, đặc biệt là nơi ông đã chọn làm căn cứ trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông.

Đền Trần (Nam Định):

Quần thể đền thờ này bao gồm đền Thiên Trường (Thượng), đền Cố Trạch (Hạ), và đền Trùng Hoa, thờ các vua Trần và các quan lại có công giúp nhà Trần.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi HieuHcmVN: 27/07/2025 - 19:34


#27

HieuHcmVN



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 409 Bài viết:
  • 195 thanks

 

Gửi vào 28/07/2025 - 20:23

ĐẠO MẪU VIỆT NAM (6) - Chầu Bà Đệ Tứ Khâm Sai ( Chiêu Dung Công Chúa).

Chầu Bà Đệ Tứ Khâm Sai (Hán-Nôm: 朝婆第四欽差) hay còn gọi là Chầu Đệ Tứ (朝第四) hoặc Chiêu Dung Công Chúa hay Mai Hoa Công Chúa là một vị Thánh trong Đạo Mẫu Tứ phủ Việt Nam, người đứng thứ tư trong hàng Tứ Phủ Chầu Bà.

Chiêu Dung tên thật là Lý Thị Ngọc, gả cho tù trưởng Đặng Công Thành người Thiên Lộc. Mấy năm sau, hai vợ chồng chuyển đến vùng Kim Cốc (nay thuộc làng Cốc Thượng, xã Hoàng Diệu, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội). Hai vợ chồng sinh được 5 người con trai, không được bao lâu thì Đặng Công mất. Do căm thù ách đô hộ của phương bắc, bà cùng các con dựng đồn, luyện quân, nhưng bị Tô Định đàn áp, phải chạy về Hương Sơn.

Mùa xuân năm Canh Tý , Trưng Trắc, Trưng Nhị dựng cờ khởi nghĩa ở Hát Môn. Bà cùng các con dẫn theo lực lượng nghĩa binh theo về, được Hai Bà ban tên Ngọc Ba, thường cùng bàn việc lớn. Khi ra quân, bà cùng hai con trai đều làm tiên phong.

Sau khi đánh đuổi được quân đô hộ, Trưng Trắc được suy tôn làm vua (Trưng Vương). Bà được Trưng Vương phong làm Chiêu Dung công chúa và được ban thưởng nhiều tiền của, đất đai.

Theo sự tích, bà Chiêu Dung cùng các con trở lại xây dựng quê hương. Vào ngày 6 tháng Chạp, trời đất bỗng dưng nổi mây mù, gió cuộn khắp mặt sông Đáy, người dân thấy mẹ con bà xuống thuyền. Đến khi sóng yên gió lặng thì không thấy người trở về. Biết tin mẹ con Chiêu Dung đã hóa, Trưng vương lệnh cho dân chúng thờ phụng.

Sau này khi trở về Thiên Đình, bà được giao quyền khâm sai Tứ Phủ (từ Thủy Phủ cho tới Thiên Cung), Tam Tòa, biên chép sổ Thiên Đình, quyền cai bản mệnh gia trung (vậy nên có khi người ta còn gọi là Bà Thủ Bản Mệnh). Có khi chầu lại được coi là vị chầu bà giữ sổ Tứ Phủ, coi kho ngân xuyến, kề cận bên Mẫu Liễu Hạnh ở đất Phủ Dày.

Đôi khi thanh nhàn, chầu truyền các tiên nàng dạo chơi khắp chốn, từ quê hương ra kinh thành, vân du khắp mọi nơi.

Thần tích 1

Sự tích về vị anh thư này được Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính ghi chép lại trong cuốn "Di tích và đền miếu nữ danh nhân Việt Nam" như sau:

Theo tài liệu thì tại xã Thiên Lộc, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang xưa (nay là xã Hoàng Diệu, huyện Chương Mỹ, Hà Nội); có ông tù trưởng tên là Đặng Công Thành, kết hôn cùng bà Lý Thị Ngọc. Ông bà vốn là người tu nhân tích đức, luôn làm việc phúc cho nhân dân trong vùng. Ông bà sinh được 5 người con trai. Sau khi chồng mất, bà Lý Thị Ngọc thủ tiết nuôi con.

Sống trong chế độ tàn bạo của quân nhà Hán, bà sớm nuôi ý chí yêu nước và truyền dạy tấm lòng yêu nước cho các con. Khi các con đã khôn lớn, mẹ con bà đã vận động nhân dân trong vùng xây dựng đồn binh; ngày đêm luyện tập quân sĩ, tích lũy quân lương.

Khi nghe tin Thái thú Tô Định đem quân về đàn áp, bà và các con lãnh đạo quân sĩ chiến đấu tiêu diệt hàng trăm quân giặc. Do không cân sức, mẹ con bà đã phải lui quân về chùa Hương, khôi phục lại lực lượng. Nghe tin Hai Bà Trưng dấy binh khởi nghĩa, bà cùng các con cất quân về tụ nghĩa. Thấy mẹ con bà có khí phách phi thường thì Hai Bà Trưng mừng lắm, phong cho bà là Lý Thị Ngọc Ba - ý muốn tôn sùng lãnh tụ khởi nghĩa; đứng đầu là Trưng Trắc, sau là Trưng Nhị và thứ ba là Lý Thị Ngọc Ba.

Sau khi tế cờ ở Hát Môn, Hai Bà Trưng xung trận. Các đạo quân tả xung hữu đột, chống trận vang trời. Quân Tô Định bị bại trận, nghĩa quân của Hai Bà Trưng thu phục được 65 thành. Trưng Trắc xưng vương, Trưng Nhị được phong là Bình Khôi Công Chúa và Lý Thị Ngọc Ba được phong là Chiêu Dung Công Chúa.

Sau chiến thắng, bà được Hai Bà Trưng thưởng tiền và phong cho vùng đất Kim Cốc làm đất thang mộc. Từ đó, bà cùng các con tổ chức cho nhân dân trong vùng làm ăn, xây dựng quê hương.

Tương truyền, vào ngày 6 tháng Chạp, trời đất bỗng mây mù kéo đến, gió cuộn lên cả một vùng sông Đáy. Người ta thấy mẹ con bà xuống thuyền. Khi sóng yên, gió lặng, chờ mãi không thấy mẹ con bà trở về, biết mẹ con bà đã hóa, Hai Bà Trưng vô cùng cảm kích nên lệnh cho dân trong vùng lập miếu, xây đình để thờ phụng. Kể từ đó, để tưởng nhớ đến công lao của bà và các con, nhân dân trong vùng lấy ngày mùng 6 tháng Chạp hằng năm làm ngày giỗ, cũng là ngày hội của dân làng Kim Cốc. Dưới thời Lê Trung Hưng, vua đã từng cử đại thần về đây làm lễ dâng hương để tưởng nhớ công lao của bà và các con.

Thần tích 2

Theo thần phả của Đại học sĩ Nguyễn Bích, soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572), truyền thuyết kể về bà Lý Thị Ngọc Ba như sau: vào năm 39, 40, bà Lý Thị Ngọc Ba kết duyên cùng ông Đặng Công Thành ở Thiên Lộc, phủ Đức Quang. Sau khi có giặc ngoại xâm, ông bà trở về làng Kim Cốc sinh sống. Trong thời gian tại đây, ông bà sinh được 5 người con là: Trình Duyên, Trình Xuân, Trình Lang, Trình Khiêm, Trình Tiến.

Sau khi chồng mất, bà nuôi dạy các con khôn lớn, trưởng thành. Năm 16 tuổi, các con của bà ai cũng có diện mạo phi thường, ứng đáp tinh thông. Ai ai cũng tiên đoán rằng sau này sẽ làm nên nghiệp lớn.

Sau khi giặc Hán xâm lược nước ta, làm cho dân ta khổ sở, vì thù nhà nợ nước, bà cùng các con tụ nghĩa với Hai Bà Trưng diệt giặt. Đất nước hòa bình, Trưng Trắc xưng vương, phong Trưng Nhị là Bình Khôi Công Chúa, Lý Thị Ngọc Ba là Chiêu Dung Công Chúa, các con của bà là tiền tả, hậu hữu đại tướng quân. Bà được ban cho vùng đất Kim Cốc làm đất thang mộc, lúc sống hưởng thực ấp, lúc mất làm nơi thờ tự. Sau đó bà và các con trở về thôn Kim Cốc trên một chiếc thuyền. Trên đường về đến Đình Trung bỗng nhiên trời đất mịt mù, nổi sóng to gió lớn, gặp quân Mã Viện và chiến đấu. Sáu mẹ con đã hy sinh ở khúc sông quê hương.

Sau này khi trở về Thiên Đình, bà được giao quyền khâm sai Tứ Phủ (từ Thủy Phủ cho tới Thiên Cung), Tam Tòa, biên chép sổ Thiên Đình, quyền cai bản mệnh gia trung (vậy nên có khi người ta còn gọi là Bà Thủ Bản Mệnh). Có khi chầu lại được coi là vị chầu bà giữ sổ Tứ Phủ, coi kho ngân xuyến, kề cận bên Mẫu Liễu Hạnh ở đất Phủ Dày.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Địa điểm thờ tự:

Đền Cây Thị (Thanh Hóa):

Đây là một ngôi đền quan trọng, được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh, nằm ở xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Đền thờ chính gồm có Cung Đệ Nhị thờ Chầu Đệ Tứ và Hội đồng Thánh Chầu.

Phủ Dầy (Nam Định):

Chầu Đệ Tứ cũng được thờ phụng trong quần thể Phủ Dầy, tọa lạc tại thôn Quý Hương, xã An Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

Đền Chầu Đệ Tứ (Hà Nội):

Có một số đền thờ vọng Chầu Đệ Tứ ở Hà Nội, như Đền Chầu Đệ Tứ mang tên đền Duyên Trường, nằm gần cầu Chương Dương và một đền thờ vọng khác ở phường Bồ Đề, quận Long Biên.

Đền Mẫu Bát Tràng:

Một số tài liệu cho rằng Chầu Đệ Tứ cũng được thờ tại Đền Mẫu ở Bát Tràng, nơi bà sinh ra.





Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


<Tham khảo:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

>


Sửa bởi HieuHcmVN: 28/07/2025 - 20:24


#28

HieuHcmVN



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 409 Bài viết:
  • 195 thanks

 

Gửi vào Hôm nay, 17:26

ĐẠO MẪU VIỆT NAM (7) - Phù Đổng Thiên Vương. (Thánh Gióng)

Thánh Gióng (chữ Nôm: 聖揀), hiệu là Phù Đổng Thiên Vương (chữ Hán: 扶董天王) hay Sóc Thiên vương (朔天王), là một nhân vật trong truyền thuyết Việt Nam, một trong bốn vị Thánh mà người Việt gọi là Tứ bất tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Ông được xem là tượng trưng cho tinh thần chống ngoại xâm và sức mạnh tuổi trẻ. Triều đại nhà Lý, Lý Công Uẩn đã truy tôn ông là Xung Thiên Thần Vương (冲天神王).

Sự tích:

Tất cả người Việt Nam chúng ta ai ai cũng biết Phù Đổng Thiên Vương là cậu bé nhà Trời ở làng Gióng mà dân gian thường gọi một cách sùng kính thân thương là Thánh Gióng. Truyền thống dân gian Việt trân trọng những anh hùng dân tộc, những danh nhân văn hóa, những người cứu nhân độ thế được thần thánh hóa hòa nhập cùng linh khí của đất nước tạo thành hồn thiêng sông núi. Một nữ sĩ ngoại quốc đã hết sức ngạc nhiên xen lẫn thán phục trước một: “xứ sở của huyền thoại, nơi mà huyền thoại và hiện thực đan quyện vào nhau đến nỗi khó có thể phân biệt đâu là huyền thoại đâu là hiện thực nữa”.

Cho đến nay, khi tìm về lịch sử thời vua Hùng thứ sáu với truyền kỳ lịch sử dân gian được kiểm chứng lại bởi các nguồn sách sử cổ, chúng ta hết sức ngạc nhiên khi thấy huyền tích Thánh Gióng lại phù hợp với niên đại ghi trong sử cổ và niên đại khảo cổ của thời đại kim khí. Điều mà chúng ta không bao giờ có thể ngờ được là niên đại lịch sử ghi trong sách sử lại phù hợp với truyền kỳ lịch sử được ghi rõ trong “Ngọc Phả Truyền Thư” về sự kiện lịch sử giặc Ân đánh phá nước ta vào thời Hùng Vương, chi Đoài đời Thánh Gióng Phù Đổng Thiên Vương vua Hùng Vĩ Vương, húy Văn Lang, sinh năm 1469 TDL lên ngôi năm 31 tuổi, chi này gồm 5 đời vua, cả thảy là 100 năm. Thời kỳ này, truyền kỳ lịch sử kể rằng giặc Ân sang đánh nước ta bị Phù Đổng Thiên vương đánh cho tan tác. Sử Tàu ghi là đời Cao Tông triều Ân đánh nước Quỷ Phương 3 năm đóng quân ở đất Kinh.

Sách sử Việt còn ghi lại rằng khi quân Tống sang đánh nước ta, vua Lê Đại Hành được Thánh báo mộng và chỉ bảo cách đánh giặc. Sau khi chiến thắng quân Tống vua Lê Đại Hành đã gia phong Thánh tước hiệu: “Sóc Sơn Đổng Thiên Vương, Đà Giang hiển thánh, Phù Thánh giá Đại vương, Thượng đẳng Sơn thần”. Vua Lê còn cử Khuông Việt Đại sư Ngô Chân Lưu sửa lại ngôi đền, tạc tượng thần và dựng thêm chùa Đại Bi bên cạnh. Trên đền Thượng còn một câu đối rất hay mà theo dân gian thì đó chính là câu đối của Nguyễn Du khi viếng đền như sau:“ Thiên giáng Thánh nhân Bình Bắc lỗ, Địa lưu Thần tích Trấn Nam Bang”.

“Trời giúp Thánh nhân trừ giặc Bắc,
Đất lưu Thần tích giữ nước Nam …”.

Truyền kỳ Phù Đổng Thiên Vương gắn liền với Quốc Tổ Hùng Vương nên dân gian Việt vẫn truyền lưu câu ca dao:

“Tháng Giêng giỗ Thánh Sóc Sơn,
Tháng ba giỗ Tổ Hùng Vương nhớ về!”

Hội Gióng đền Sóc là một trong những lễ hội dân gian lớn của Việt tộc. Lễ hội bắt đầu từ lúc nửa đêm ngày mồng 6 đến hết ngày mồng 8 tháng Giêng hàng năm. Trong khi đó, tại làng Phù Đổng lại tổ chức lễ hội vào ngày mồng 8 tháng tư hàng năm. Dân gian địa phương thường ví von rằng làm người dânViệt mà không nhớ đến Quốc Tổ, không về dự lễ hội Thánh Gióng thì cũng uổng một đời người, không xứng đáng là con Rồng cháu Tiên: “Ai ơi mồng tám tháng tư, Không xem hội Gióng cũng hư một đời…”.

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử nhưng trong tâm thức Việt vẫn ghi đậm ấn tích Phù Đổng Thiên Vương. “Cậu bé nhà Trời” người anh hùng thần thoại của Việt tộc đã đánh thắng giặc Ân lần đầu tiên trong lịch sử, mở đầu cho thiên trường ca bi hùng hoành tráng của Việt tộc. Bài học lịch sử từ huyền tích Phù Đổng Thiên Vương sẽ đưa dân tộc vươn lên ngang tầm thời đại nếu chúng ta biết cùng chung lưng đấu cật để đưa dân tộc đi lên sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới:

“Hoa văn hiến sáu ngàn năm lịch sử,
Tiếng trống Đồng vang dội khắp trời Nam ..
Huyền thoại Rồng Tiên thông điệp muôn ngàn
Văn minh Việt mở đầu trang sử mới ..
Phùng Nguyên, Đông Sơn, Trống Đồng Ngọc Lũ
Hoa văn xưa in dấu mãi ngày nay ..
Bao nhiêu năm mới có được ngày này
Dân tộc Việt vươn mình như Phù Đổng!”



Lĩnh Nam Trích Quái:

Thời Hùng Vương, thiên hạ thái bình, dân gian giàu có. Vua nhà Ân lấy cớ nước Nam không có triều kiến, sai tuần thú đem quân sang đánh. Hùng Vương nghe tin, triệu tập quần thần hỏi kế chống cự. Có người tâu rằng: “Sao không cầu Long Vương đưa âm quân lên giúp”. Vua nghe lời, bèn ăn chay, lập đàn, bày vàng bạc lụa là lên trên, thắp hương cầu đảo ba ngày. Trời nổi mưa to gió lớn, bỗng thấy một cụ già cao hơn sáu thước, mặt to bụng lớn, mày râu bạc trắng, ngồi ở ngã ba đường mà cười nói múa ca. Những người trông thấy đều cho là kẻ lạ thường, mới tâu lên vua. Vua thân hành ra vái chào, rước vào trong đàn. Cụ già không nói năng cũng không ăn uống. Vua đến hỏi: “Nghe tin quân phương Bắc sắp sang xâm lược, ta thua được thế nào” . Cụ già ngồi im một lúc, kính cẩn rút thẻ ra bói, bảo vua rằng: “Ba năm nữa, giặc Bắc sẽ sang đây”. Vua lại hỏi kế chước ra sao?. Cụ già đáp: “Kế giữ nước, ấy là phải nghiêm ngặt chỉnh đốn khí giới, rèn luyện binh lính cho tinh nhuệ, lại phải đi tìm bậc kỳ tài trong thiên hạ, kẻ nào phá được giặc thì phong cho tước ấp, truyền hưởng lâu dài. Nếu được người giỏi, có thể dẹp được giặc vậy”. Dứt lời, bay mất lên không, mới biết đó là Long Quân vậy.

Ba năm sau, người biên giới cấp báo có giặc Ân tới. Vua làm theo lời cụ già dặn, sai sứ đi khắp các nơi cầu tìm người hiền tài. Tới làng Phù Đổng, huyện Vũ Ninh, trong làng có một phú ông tuổi hơn sáu mươi, sinh được một bé trai, đã ba tuổi còn không biết nói, nằm ngửa không ngồi dậy được. Người mẹ nghe tin sứ giả tới mới nói giỡn rằng: “Sinh được thằng con trai này chỉ biết ăn, không biết đánh giặc để lấy thưởng của triều đình, báo đáp công ơn bú mớm”. Bé trai nghe mẹ nói, đột nhiên bảo: “Mẹ mời sứ giả tới đây, hỏi xem có việc gì”. Người mẹ kinh ngạc vô cùng, vui mừng kể lại với hàng xóm rằng con mình đã biết nói. Hàng xóm cũng lấy làm kinh ngạc, tức tốc mời sứ giả tới. Sứ giả hỏi: “Mày là đứa trẻ mới biết nói, mời ta đến làm gì?”. Đứa trẻ nhỏm dậy bảo sứ giả rằng: “Mau về tâu với vua rèn một ngựa sắt cao mười tám thước, một thanh kiếm sắt dài bảy thước và một nón sắt. Ta cưỡi ngựa đội nón ra đánh, giặc tất phải kinh sợ bại trại, vua phải lo gì nữa?”. Sứ giả vội về tâu với vua. Vua mừng nói rằng: “Ta không lo nữa”. Quần thần tâu: “Một người thì làm sao mà đánh bại được giặc?”. Vua nói: “Lời nói của Long Quân ngày trước không phải là ngoa, các quan chớ nghi ngờ gì nữa”, rồi ra lệnh cân năm mươi cân sắt đúc thành ngựa, nón”.

Sứ giả tới gặp, người mẹ sợ hãi nói con rằng tai họa đã đến. Người con cả cười bảo rằng: “Mẹ hãy chuẩn bị cơm, rượu cho con ăn, việc đánh giặc mẹ chớ có lo”. Người con lớn lên rất nhanh, ăn uống tốn nhiều, người mẹ cung cấp không đủ. Hàng xóm sửa soạn trâu bò, bánh quả rất nhiều mà người con ăn vẫn không no bụng. Vải vóc rất nhiều mà mặc vẫn không kín thân, phải đi lấy lau lách buộc thêm vào cho kín người. Kíp đến lúc quân nhà Ân tới chân núi Trâu (Trâu Sơn), người con mới duỗi chân đứng dậy, cao hơn mười trượng, ngửa mũi hắt hơi liền hơn mười tiếng, rút kiếm thét lớn: “Ta là tướng nhà trời đây!” rồi vung kiếm, đội nón cưỡi ngựa, ngựa chồm lên hí dài mà chạy như bay, quan quân theo sau, tiến sát đồn giặc, đánh nhau ở dưới núi Trâu, huyện Vũ Ninh Quân giặc đại bại, chém giết lẫn nhau. Vua nhà Ân bị giết ở núi Trâu, quân lính còn lại đều bái lạy, xưng gọi “Tướng nhà trời” rồi cùng hàng phục. Đi đến đất Sóc Sơn, thôn An Việt, Tướng nhà trời cởi áo, cưỡi ngựa bay lên trời, còn để vết tích ở hòn đá trên núi.

Vua Hùng Vương nhớ công ơn đó mới tôn là Phù Đổng Thiên Vương, lập miếu thờ ở nhà cũ trong làng, lại ban cho một ngàn mẫu ruộng, sớm hôm hương khói. Nhà Ân, qua hơn 27 đời vua, 644 năm không dám đem quân quấy nhiễu. Bốn phương nghe tiếng thảy đều đến thần phục vua Hùng.
Sau vua Lý Thái Tổ phong làm Xung Thiên Thần Vương, lập miếu thờ ở làng Phù Đổng cạnh chùa Kiến Sơ, lại tạc tượng ở núi Vệ Linh, xuân thu hai mùa tế lễ.

<Xem:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

>

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

>


Điểm thờ tự:

Đền Phù Đổng, còn gọi là đền Gióng, nằm ở xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm.
Đền Sóc, hay đền Thượng, thuộc xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi HieuHcmVN: Hôm nay, 17:34







Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |