2
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》
Viết bởi FM_daubac, 25/06/24 05:20
384 replies to this topic
#46
Gửi vào 26/06/2024 - 11:30
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị
Luận Hàm Trì
"Hoài Nam Tử" nói: "nhật xuất phù tang, nhâp vu hàm trì" - mặt trời mọc ở đất phù tang, lặn ở hàm trì. Cho nên đất "mộc dục" của ngũ hành được gọi tên là "hàm trì". Là nghĩa của mặt trời lặn, lúc vạn vật u ám, không sáng sủa: dần ngọ tuất "hàm trì" ở mão, tỵ dậu sửu "hàm trì" ở ngọ, thân tý thìn "hàm trì" ở dậu, hợi mão mùi "hàm trì" ở tý tức là vị trí thứ hai từ trường sanh là cung "mộc dục". Một danh là "bại thần", một danh là "đào hoa sát": nó là thần của gian ác, dâm dục đê tiện, như sanh vượng thì hình tướng đẹp đẽ, mê đắm rượu và sắc, coi thường tiền cuả mà ưa thích hoan lạc, phá tán của cải trong nhà chỉ tham đắm sắc dục; như tử, tuyệt: khốn đốn không có phẩm hạnh, lời nói hành động xảo trá, tụ tập cờ bạc, vong ơn không giữ lời hứa, gian dâm quá độ, không có gì không làm; cùng với nguyên thần tụ hội, lại thêm sanh vượng thường làm vợ của kẻ ăn chơi đàng điếm; cùng với quý nhân, kiến lộc hội tụ, thường nương tựa vào dầu, muối, rượu để kiếm sống, hoặc là nhờ vào gia tài ám muội của đàn bà, cả đời có tai ách về nước, tật bệnh lao phổi, dính líu tai hoạ mất mát và mờ ám. Người nhập mệnh này, chỉ có phá hoại mà chẳng thành tựu, chẳng phải là điềm tốt lành, phụ nữ càng kỵ.
"Hàm trì" chẳng phải thần sát tốt lành, ngày giờ cùng với mệnh thuỷ gặp phải thì càng xấu.
论咸池
《淮南子》曰:“日出扶桑,入于咸池。”故五行沐浴之地,名咸池。是取日入之义,万物暗昧之时。寅午戌卯、巳酉丑午、申子辰酉、亥卯未子即长生第二位沐浴之宫是也。一名败神,一名桃花煞,其神之奸邪淫鄙,如生旺则美容仪,耽酒色,疏财好欢,破散家业,唯务贪淫;如死绝,落魄不检,言行狡诈,游荡赌博,忘恩失信,私滥奸淫,靡所不为;与元辰并,更临生旺者,多得匪人为妻;与贵人建禄并,多因油盐酒货得生,或因妇人暗昧之财起家,平生有水厄、痨瘵之疾,累遭遗失暗昧之灾。此人入命,有破无成,非为吉兆,妇人尤忌之。
咸池非吉煞,日时与水命遇之尤凶。
.
Luận Hàm Trì
"Hoài Nam Tử" nói: "nhật xuất phù tang, nhâp vu hàm trì" - mặt trời mọc ở đất phù tang, lặn ở hàm trì. Cho nên đất "mộc dục" của ngũ hành được gọi tên là "hàm trì". Là nghĩa của mặt trời lặn, lúc vạn vật u ám, không sáng sủa: dần ngọ tuất "hàm trì" ở mão, tỵ dậu sửu "hàm trì" ở ngọ, thân tý thìn "hàm trì" ở dậu, hợi mão mùi "hàm trì" ở tý tức là vị trí thứ hai từ trường sanh là cung "mộc dục". Một danh là "bại thần", một danh là "đào hoa sát": nó là thần của gian ác, dâm dục đê tiện, như sanh vượng thì hình tướng đẹp đẽ, mê đắm rượu và sắc, coi thường tiền cuả mà ưa thích hoan lạc, phá tán của cải trong nhà chỉ tham đắm sắc dục; như tử, tuyệt: khốn đốn không có phẩm hạnh, lời nói hành động xảo trá, tụ tập cờ bạc, vong ơn không giữ lời hứa, gian dâm quá độ, không có gì không làm; cùng với nguyên thần tụ hội, lại thêm sanh vượng thường làm vợ của kẻ ăn chơi đàng điếm; cùng với quý nhân, kiến lộc hội tụ, thường nương tựa vào dầu, muối, rượu để kiếm sống, hoặc là nhờ vào gia tài ám muội của đàn bà, cả đời có tai ách về nước, tật bệnh lao phổi, dính líu tai hoạ mất mát và mờ ám. Người nhập mệnh này, chỉ có phá hoại mà chẳng thành tựu, chẳng phải là điềm tốt lành, phụ nữ càng kỵ.
"Hàm trì" chẳng phải thần sát tốt lành, ngày giờ cùng với mệnh thuỷ gặp phải thì càng xấu.
论咸池
《淮南子》曰:“日出扶桑,入于咸池。”故五行沐浴之地,名咸池。是取日入之义,万物暗昧之时。寅午戌卯、巳酉丑午、申子辰酉、亥卯未子即长生第二位沐浴之宫是也。一名败神,一名桃花煞,其神之奸邪淫鄙,如生旺则美容仪,耽酒色,疏财好欢,破散家业,唯务贪淫;如死绝,落魄不检,言行狡诈,游荡赌博,忘恩失信,私滥奸淫,靡所不为;与元辰并,更临生旺者,多得匪人为妻;与贵人建禄并,多因油盐酒货得生,或因妇人暗昧之财起家,平生有水厄、痨瘵之疾,累遭遗失暗昧之灾。此人入命,有破无成,非为吉兆,妇人尤忌之。
咸池非吉煞,日时与水命遇之尤凶。
.
#47
Gửi vào 26/06/2024 - 11:55
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị
Luận Lục Hại
Bởi ngày đêm, âm dương mà khí ảnh hưởng lẫn nhau nên "lục hợp". Bởi có "lục hợp" mà sanh ra "lục hại", bởi "lục hại" nên kỵ khí của ngày đêm, âm dương. "Lục hại" là thần của mười hai địa chi xâm phạm và tranh đua nhau. Tý mùi hại lẫn nhau là nói mùi vượng thổ, hợi tý vượng thuỷ, tên là "thế gia tương hại". Cho nên tý gặp mùi sẽ là hại.
Sửu ngọ hại lẫn nhau là nói ngọ lấy vượng hoả mà xâm phạm tử kim trong sửu, tên là "quan quỷ tương hại". Cho nên sửu gặp ngọ, mà ngọ thật sự là quỷ của can của sửu thì cái hại càng nặng. Dần tỵ tương hại là nói ỷ "lâm quan" tự tiến hành hại lẫn nhau, nếu như can là quỷ thì càng nặng, huống chi trong nó đã có "hình", càng không thể không thêm bớt tai hoạ hay phúc lành khi nói đến. Mão thìn tương hại là nói mão lấy vượng mộc xâm phạm tử thổ của thìn, đây là lấy nhỏ mà vượt qua lớn mà "tương hại". Cho nên thìn gặp mão, mà mão thật sự là quỷ của can của thìn thì cái hại càng nặng. Thân hợi tương hại là nói ỷ vào "lâm quan" mà cạnh tranh, đố kỵ tài năng, tranh thăng tiến mà hại lẫn nhau. Cho nên thân gặp hợi hay hợi gặp thân đều là "hại", thêm nạp âm tương khắc thì càng nặng. Dậu tuất tương hại là nói tuất lấy tử hoả hại vượng kim của dậu, đây là "tật đố tương hại", cho nên người dậu gặp tuất sẽ là hung xấu, còn người tuất gặp dậu thì không sao; nếu như người ất dậu gặp phải mậu tuất: do ất là "chân kim" mà mậu là "chân hoả" nên cái hại càng nặng. Lục: là nói đến "lục thân" - cha mẹ anh em vợ chồng, "hại": làm hại, tổn hại. Phạm nhằm chủ về lục thân mắc phải tổn khắc, cho nên gọi là "lục hại". Tý mùi xuyên thẳng trực tiếp qua tâm, cùng với hợp xung dù ân tình chưa kết mà thù hận đã sanh, nên gọi là "hại". Như người tý sợ ngọ xung, mà mùi lập tức hết hợp ngọ; sửu sợ mùi xung mà ngọ lập tức hết hợp với mùi; dần sợ thân xung mà tỵ hợp thân; mão sợ dậu xung mà thìn hợp dậu; thân sợ dần xung mà hợi hợp dần. Dậu sợ mão xung mà tuất hợp mão, cho nên đều là "hại" cả. Nói chung người mang theo đều này, lại gặp "dương nhận", "kiếp sát", "quan phủ" thì tai hoạ càng nặng. Dần tỵ, hợi thân gặp lúc sanh vượng thì chủ về "thần khiết mạo tuấn" - thích tranh đoạt, phấn khích làm việc; gặp thời tử, tuyệt thì nhiều mưu trí mà ít thành tựu, ép buộc bắt chước người làm việc, gắng gỏi theo sự tiến bộ mà không mệt mỏi. Nhập cách quý sẽ giữ gìn đức hạnh, giỏi tuỳ cơ ứng biến; nhập cách hèn hạ thì nhiều gian trá, che dấu nghèo hèn, keo kiệt. Mão thìn, ngọ sửu như sanh vượng, chủ về hiếu thắng thường phẩn nộ, nghiêm nghị không nhẫn nại được; còn như tử, tuyệt chủ về độc hại, bi thảm, sự việc phản phúc vô thường. Nhập cách quý sẽ nắm giữ thế lực lớn, trách nhiệm về hình ngục; còn nhập cách hèn mọn thì kiếm sống ở nơi ăn ở xấu xa. Tý mùi sanh vượng, tử tuyệt đều không có lợi cho lục thân cốt nhục. Nhập cách quý thường liên luỵ đến vợ, nhập cách hèn mọn thì cô độc không chỗ nương dựa. Tuất dậu sanh vượng, không bao dung, thường ngang ngược; còn tử tuyệt thì tàn nhẫn, ghét việc tốt lành đố kỵ tài năng. Nhập cách quý bao trùm yếu đuối không tội, kết cấu vào kiện tụng, hơi nhiều gian nịnh, còn nhập cách hèn mọn thì tàn hại, âm mưu giảo hoạt, bản tính nịnh nọt, không lương thiện.
Nói chung mệnh dính tới "lục hại", đại khái chủ về tổn hại, cô độc, người thân tham gia buôn bán, điềm tĩnh với tiền bạc, mệnh phụ nữ rất kỵ; bao gồm cả cung mệnh xem nó lạc vào cung nào, phân biệt từng cung mà đoán rõ. "Lạc Lộc Tử" nói: khổ nạn của "lục hại", mệnh có bảy sự việc tổn hại. Ca quyết nói: người mà lục hại kỵ ngày giờ, tuổi già tàn tật nương tựa vào đâu? Lại gặp "dương nhận" là thần đục khoét, không thích hợp vật nhọn sắc bén, cọp cũng lăng nhục. Có thể thấy mệnh phạm "lục hại", rất kỵ can chi thương tổn lẫn nhau, trên trụ ngày, giờ rất quan trọng, kế đến là cung của thân mệnh, dù cho là cách quý, thì quý vẫn quý, còn hại vẫn hại, cả hai không che lấp lẫn nhau.
论六害
因昼夜阴阳之气感而六合。因六合而生六害,因六害而忌昼夜阴阳之气。六害者,十二支凌战之辰也。子未相害者,谓未旺土,亥子旺水,名势家相害。故子见未则为害。
丑午相害者,谓午以旺火凌丑死金,名官鬼相害。故丑见午,而午更带丑干之真鬼则为害尤甚。寅巳相害者,谓名恃临官擅能而进相害,若干神往来有鬼者尤甚,况刑在其中,尤不可不加减灾福言之。卯辰相害者,谓卯以旺木凌辰死土,此以少凌长相害。故辰见卯,而卯更带辰干真鬼则其害尤甚。申亥相害者,谓名恃临官,竞嫉才能,争进相害。故申见亥,亥见申均为害,更纳音相克者重。酉戌相害者,谓戌以死火害酉旺金,此嫉妒相害,故酉人见戌则凶,戌人见酉无灾;若乙酉人得戊戌,乙为真金,戊为真火,为害尤甚。六,六亲;害,损也。犯之主六亲上有损克,故谓六害。子未直上穿心,与冲合恩未结而仇巳生,乃曰害。如子生人畏午冲,而未却去合午;丑畏未冲,而午却去合未;寅畏申冲,而巳合申;卯畏酉冲,而辰合酉;申畏寅冲,而亥合寅。酉畏卯冲,而戊合卯,所以皆为害也。凡人带此,再见羊刃、劫煞、官府,为灾尤甚。寅巳、亥申值生旺则主神洁貌俊,好争夺,喜激作;值死绝则多谋少成,强学人做事,兀兀趋进不厌。入贵格则有操守,善机权;入贱格则多诈、爱贫、鄙吝。卯辰、午丑如生旺,主好胜多怒,严毅不忍;死绝主毒害、伤惨、倾覆之事。入贵格则主大权,司刑典狱;入贱格则谋生于不义之地。子未生旺、死绝皆不利六亲骨肉。入贵格多妻妾之累,入贱格孤独无倚。戌酉如生旺,不容物,多刚戾;死绝酷狠,憎善妒能。入贵格罗怯无辜,结构入讼,颇多奸佞,入贱格残害、阴狡、性佞、不良。
凡六害入命,大率主妨害孤独,骨肉参商,财帛淡泊,女命尤忌;兼起命宫,看之落何宫,分逐宫详断,《珞禄子》云:六害之徒,命有七伤之事。歌诀曰:六害之人忌日时,老年残疾苦何依;又逢羊刃神相蚀,不中锋芒虎亦欺。可见命犯六害,大忌干支相伤,日时上最紧,身命宫次之,便是贵格,贵自贵,害自害,两不相掩。
.
Luận Lục Hại
Bởi ngày đêm, âm dương mà khí ảnh hưởng lẫn nhau nên "lục hợp". Bởi có "lục hợp" mà sanh ra "lục hại", bởi "lục hại" nên kỵ khí của ngày đêm, âm dương. "Lục hại" là thần của mười hai địa chi xâm phạm và tranh đua nhau. Tý mùi hại lẫn nhau là nói mùi vượng thổ, hợi tý vượng thuỷ, tên là "thế gia tương hại". Cho nên tý gặp mùi sẽ là hại.
Sửu ngọ hại lẫn nhau là nói ngọ lấy vượng hoả mà xâm phạm tử kim trong sửu, tên là "quan quỷ tương hại". Cho nên sửu gặp ngọ, mà ngọ thật sự là quỷ của can của sửu thì cái hại càng nặng. Dần tỵ tương hại là nói ỷ "lâm quan" tự tiến hành hại lẫn nhau, nếu như can là quỷ thì càng nặng, huống chi trong nó đã có "hình", càng không thể không thêm bớt tai hoạ hay phúc lành khi nói đến. Mão thìn tương hại là nói mão lấy vượng mộc xâm phạm tử thổ của thìn, đây là lấy nhỏ mà vượt qua lớn mà "tương hại". Cho nên thìn gặp mão, mà mão thật sự là quỷ của can của thìn thì cái hại càng nặng. Thân hợi tương hại là nói ỷ vào "lâm quan" mà cạnh tranh, đố kỵ tài năng, tranh thăng tiến mà hại lẫn nhau. Cho nên thân gặp hợi hay hợi gặp thân đều là "hại", thêm nạp âm tương khắc thì càng nặng. Dậu tuất tương hại là nói tuất lấy tử hoả hại vượng kim của dậu, đây là "tật đố tương hại", cho nên người dậu gặp tuất sẽ là hung xấu, còn người tuất gặp dậu thì không sao; nếu như người ất dậu gặp phải mậu tuất: do ất là "chân kim" mà mậu là "chân hoả" nên cái hại càng nặng. Lục: là nói đến "lục thân" - cha mẹ anh em vợ chồng, "hại": làm hại, tổn hại. Phạm nhằm chủ về lục thân mắc phải tổn khắc, cho nên gọi là "lục hại". Tý mùi xuyên thẳng trực tiếp qua tâm, cùng với hợp xung dù ân tình chưa kết mà thù hận đã sanh, nên gọi là "hại". Như người tý sợ ngọ xung, mà mùi lập tức hết hợp ngọ; sửu sợ mùi xung mà ngọ lập tức hết hợp với mùi; dần sợ thân xung mà tỵ hợp thân; mão sợ dậu xung mà thìn hợp dậu; thân sợ dần xung mà hợi hợp dần. Dậu sợ mão xung mà tuất hợp mão, cho nên đều là "hại" cả. Nói chung người mang theo đều này, lại gặp "dương nhận", "kiếp sát", "quan phủ" thì tai hoạ càng nặng. Dần tỵ, hợi thân gặp lúc sanh vượng thì chủ về "thần khiết mạo tuấn" - thích tranh đoạt, phấn khích làm việc; gặp thời tử, tuyệt thì nhiều mưu trí mà ít thành tựu, ép buộc bắt chước người làm việc, gắng gỏi theo sự tiến bộ mà không mệt mỏi. Nhập cách quý sẽ giữ gìn đức hạnh, giỏi tuỳ cơ ứng biến; nhập cách hèn hạ thì nhiều gian trá, che dấu nghèo hèn, keo kiệt. Mão thìn, ngọ sửu như sanh vượng, chủ về hiếu thắng thường phẩn nộ, nghiêm nghị không nhẫn nại được; còn như tử, tuyệt chủ về độc hại, bi thảm, sự việc phản phúc vô thường. Nhập cách quý sẽ nắm giữ thế lực lớn, trách nhiệm về hình ngục; còn nhập cách hèn mọn thì kiếm sống ở nơi ăn ở xấu xa. Tý mùi sanh vượng, tử tuyệt đều không có lợi cho lục thân cốt nhục. Nhập cách quý thường liên luỵ đến vợ, nhập cách hèn mọn thì cô độc không chỗ nương dựa. Tuất dậu sanh vượng, không bao dung, thường ngang ngược; còn tử tuyệt thì tàn nhẫn, ghét việc tốt lành đố kỵ tài năng. Nhập cách quý bao trùm yếu đuối không tội, kết cấu vào kiện tụng, hơi nhiều gian nịnh, còn nhập cách hèn mọn thì tàn hại, âm mưu giảo hoạt, bản tính nịnh nọt, không lương thiện.
Nói chung mệnh dính tới "lục hại", đại khái chủ về tổn hại, cô độc, người thân tham gia buôn bán, điềm tĩnh với tiền bạc, mệnh phụ nữ rất kỵ; bao gồm cả cung mệnh xem nó lạc vào cung nào, phân biệt từng cung mà đoán rõ. "Lạc Lộc Tử" nói: khổ nạn của "lục hại", mệnh có bảy sự việc tổn hại. Ca quyết nói: người mà lục hại kỵ ngày giờ, tuổi già tàn tật nương tựa vào đâu? Lại gặp "dương nhận" là thần đục khoét, không thích hợp vật nhọn sắc bén, cọp cũng lăng nhục. Có thể thấy mệnh phạm "lục hại", rất kỵ can chi thương tổn lẫn nhau, trên trụ ngày, giờ rất quan trọng, kế đến là cung của thân mệnh, dù cho là cách quý, thì quý vẫn quý, còn hại vẫn hại, cả hai không che lấp lẫn nhau.
论六害
因昼夜阴阳之气感而六合。因六合而生六害,因六害而忌昼夜阴阳之气。六害者,十二支凌战之辰也。子未相害者,谓未旺土,亥子旺水,名势家相害。故子见未则为害。
丑午相害者,谓午以旺火凌丑死金,名官鬼相害。故丑见午,而午更带丑干之真鬼则为害尤甚。寅巳相害者,谓名恃临官擅能而进相害,若干神往来有鬼者尤甚,况刑在其中,尤不可不加减灾福言之。卯辰相害者,谓卯以旺木凌辰死土,此以少凌长相害。故辰见卯,而卯更带辰干真鬼则其害尤甚。申亥相害者,谓名恃临官,竞嫉才能,争进相害。故申见亥,亥见申均为害,更纳音相克者重。酉戌相害者,谓戌以死火害酉旺金,此嫉妒相害,故酉人见戌则凶,戌人见酉无灾;若乙酉人得戊戌,乙为真金,戊为真火,为害尤甚。六,六亲;害,损也。犯之主六亲上有损克,故谓六害。子未直上穿心,与冲合恩未结而仇巳生,乃曰害。如子生人畏午冲,而未却去合午;丑畏未冲,而午却去合未;寅畏申冲,而巳合申;卯畏酉冲,而辰合酉;申畏寅冲,而亥合寅。酉畏卯冲,而戊合卯,所以皆为害也。凡人带此,再见羊刃、劫煞、官府,为灾尤甚。寅巳、亥申值生旺则主神洁貌俊,好争夺,喜激作;值死绝则多谋少成,强学人做事,兀兀趋进不厌。入贵格则有操守,善机权;入贱格则多诈、爱贫、鄙吝。卯辰、午丑如生旺,主好胜多怒,严毅不忍;死绝主毒害、伤惨、倾覆之事。入贵格则主大权,司刑典狱;入贱格则谋生于不义之地。子未生旺、死绝皆不利六亲骨肉。入贵格多妻妾之累,入贱格孤独无倚。戌酉如生旺,不容物,多刚戾;死绝酷狠,憎善妒能。入贵格罗怯无辜,结构入讼,颇多奸佞,入贱格残害、阴狡、性佞、不良。
凡六害入命,大率主妨害孤独,骨肉参商,财帛淡泊,女命尤忌;兼起命宫,看之落何宫,分逐宫详断,《珞禄子》云:六害之徒,命有七伤之事。歌诀曰:六害之人忌日时,老年残疾苦何依;又逢羊刃神相蚀,不中锋芒虎亦欺。可见命犯六害,大忌干支相伤,日时上最紧,身命宫次之,便是贵格,贵自贵,害自害,两不相掩。
.
#48
Gửi vào 27/06/2024 - 00:45
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị
Luận Tam Hình
"Âm Phù Kinh" nói: "ân" sanh ra từ "hại", "hại" sanh ra từ "ân"; "tam hình" sanh ra từ "nhị hợp", cũng như ý nghĩa của "lục hại" sanh ra từ "lục hợp". Như tam hợp thân tý thìn gia thêm dần mão thìn, thì có thân hình dần, tý hình mão, thìn gặp thìn "tự hình"; dần ngọ tuất gia thêm tỵ ngọ mùi thì có dần hình tỵ, ngọ gặp ngọ "tự hình", tuất hình mùi; tỵ dậu sửu gia thêm thân dậu tuất thì có tỵ hình thân, dậu gặp dậu "tự hình", sửu hình tuất; hợi mão mùi gia thêm hợi tý sửu thì có hợi gặp hợi "tự hình", mão hình tý, mùi hình sửu. Trong hợp mà sanh hình, giống như vợ chồng hợp nhau nhưng phản thành hình thương. Sự sáng tạo của con người và vạn vật đều dựa trên những nguyên tắc giống nhau.
Có thể nói: nguyên tắc của "tam hình", dùng số để bắt đầu. Hoàng Cực Trung Thiên: số mười là "sát", tích số đến mười thì số của nó trống rỗng, đạo trời ghét tràn đầy sẽ lật ngược. Cho nên số từ mão đếm thuận đến tý, hay tý đếm ngược đến mão, đến tới số mười nên là "vô lễ hình"; dần đếm ngược đến tỵ, tỵ đếm ngược đến thân, đến số mười nên là "vô ân hình"; sửu đếm thuận đến tuất, tuất đếm thuận đến mùi, đến số mười nên là "thị thế chi hình". Số bảy thì "xung", số mười thì "hình", số sáu thì "hợp", đó là nguyên tắc tự nhiên.
Vì sao gọi dần tỵ thân là "vô ân"? Bởi trong dần có giáp mộc hình mậu thổ trong tỵ, quan trọng là mậu với quý thuỷ hợp nhau, thì quý thuỷ là mẹ của giáp mộc; mậu thổ đã là chồng của quý thuỷ, chính là cha của giáp, đã là cha mà mình hình là "vong ân" rồi. Bính trong tỵ hình canh trong thân, canh trong thân hình giáp trong dần, cũng giống nhau. Lại nói: dần có hoả sanh hình kim sanh ở tỵ, thổ ký sanh ở tỵ hình thuỷ trường sanh ở thân, thuỷ sanh ở thân hình hoả sanh ở dần. Không quan tâm đến chỗ sanh, khắc chế nhau từ xa, cho nên nói là "vô ân". Nếu sanh, vượng chủ là người thận trọng ít nói, ít ham muốn và vô tình, thường gây ra phiền nhiễu bởi ăn ở xấu xa, "vong ân"; còn như tử, tuyệt thì danh dự bị huỷ diệt, "vong ân" lạc mất tình nghĩa. Nhập cách quý: thì rất tàn nhẫn, hiếu sát, thích lập công; còn nhập cách hèn mọn thì lời nói và hành động trái ngược nhau, tham lam không bao giờ thoả mãn. Đàn bà gặp phải thường bị tai nạn "sản huyết tổn thai" khi sanh đẻ.
Vì sao sửu tuất mùi gọi là "thị thế"? Bởi vỉ trong sửu có vượng thuỷ, sửu chính là đất trong nước, trong tuất có mộ hoả, sửu cậy vượng thuỷ mà hình mộ hoả trong tuất; tuất là chỗ cao nhất của lục giáp, mùi là chỗ thấp nhất của lục quý, tuất cậy chỗ cao của lục giáp mà hình mùi là chỗ thấp của lục quý; mùi có vượng thổ, lại cậy thế mà hình vượng thuỷ trong thổ. Lại nói rằng: mùi cậy thế của đinh hoả mà hình kim trong sửu, sửu cậy vượng thuỷ mà hình hoả trong tuất, tuất cậy thế của tân kim mà hình mộc trong mùi, cho nên gọi là "thị thế". Nếu sanh vượng chủ là người có tinh thần, ý chí mạnh mẽ, mày thô mặt rộng, là người dễ dàng giao kết; còn như tử tuyệt gầy nhỏ, tinh thần trái lại xảo trá, miệng lưỡi cải cọ, nịnh nọt thấp kém, "lạc hoạ hạnh tai". Nhập vào cách quý thì công bằng chánh trực, người thường kính sợ; còn vào cách hèn mọn thì thường phạm tai nạn ám muội. Phụ nữ gặp phải thì tổn hại và cô độc.
Vì sao tý mão gọi là "vô lễ"? Tý thuộc thuỷ, mão thuộc mộc, thuỷ có thể sanh mộc tức tý thuỷ là mẹ, mão mộc là con, tý là mẹ tự tương hình; lại thêm mão là "nhật môn" - (cửa trời), tý là chỗ dương sanh ra, mặt trời mọc ở mão, tý mão đứng ở góc cạnh nhau, không có cách tôn kính hay khiêm nhường mà không quan tâm đến chỗ sanh nhau, tiến đến hình hại lẫn nhau, cho nên gọi là "vô lễ". Lại nói rằng: chỉ có quý thuỷ trong tý, quý lấy mậu thổ làm chồng mà lại bại ở mão, cho nên tý hình mão; chỉ một mình ất trong mão, mà ất lấy canh kim làm chồng nhưng chết ở tý, cho nên mão hình tý. Bởi chồng của hai nhà này gặp hình, mệnh của phụ nữ gặp cách này thật là không lương thiện, cho nên nói là "vô lễ". Nếu sanh vượng chủ là người có dáng tôn nghiêm, mặt không có thái dộ ôn hoà thân thiện, bản chất mạnh bạo hung tàn, xét nét rất kỹ không dung tình; còn như tử, tuyệt thì kiêu ngạo, lấn áp, khinh thường người khác, nhỏ hẹp, hà khắc thiếu lòng hiếu thảo với cha mẹ, nhường kính anh chị, tổn hại vợ con, thù oán với lục thân. Vào cách quý thường nắm binh quyền, bất lợi cho người phục dịch, giữ chức không lâu bền; còn vào cách hèn mọn sẽ rất hung ác, tàn bạo, thường gặp phải tai hoạ, hình phạt.
Vì sao thìn ngọ dậu hợi gọi là "tự hình"? Nói dần thân tỵ hợi thì có dần tỵ thân hình lẫn nhau, trong đó hợi không bị hình; thìn tuất sửu mùi có sửu tuất mùi hình lẫn nhau, trong đó thìn không bị hình; tý ngọ mão dậu có tý mão hình lẫn nhau, trong đó có ngọ dậu không bị hình. Vì thế bốn vị trí này gọi là "tự hình". Bởi không có vật gì khác thêm vào nên nói là "tự" - (chính mình) vậy. Lại nói rằng: thìn là mộ của thuỷ, nước dâng lên sẽ đầy; ngọ là hoả vượng, vượng quá sẽ thiêu đốt; dậu là vị trí của kim, cứng quá sẽ sứt mẻ; hợi là chổ thuỷ sanh trưởng, vượng quá sẽ suy tàn. Mỗi thứ vì khí quá thịnh vượng mà tự gặp hoạ, cho nên nói là "tự" vậy. Nếu sanh vượng thì độc ác thầm lặng, hình dáng yếu đuối; còn nhu tử, tuyệt thì âm thầm khinh thị, xét nét để gặp cá ở vực sâu, thường tai hoạ tay chân, anh em. Nhập vào cách quý thì giỏi tuỳ cơ ứng biến; còn vào cách hèn mọn thì thường lo lắng mà cố chấp, ngu ngốc, vô tình tự làm hại mình. Có mang theo "hung sát", không có cái chết đẹp. Đàn bà chủ về tai hoạ của sắc dục và chết yểu.
Nói chung gặp "hình" thì không nên luận theo chiều hướng xấu ngay lập tức, cần xem trong ngũ hành có hay không có cát thần, vượng tướng, quan tinh, ấn thụ, "trách thần", đức phúc các loại, có những cát thần này phù trợ thì dù hình nhưng không có hại, trái lại còn hữu dụng; nếu như không có cát thần tương trợ mà mang thêm "vong kiếp", "thiên trung", "dương nhận" các loại sát tức là ác giúp ác, nên hoạ không thể kể xiết. Lại nói rằng: "tam hình" sợ kim. "Quỷ Cốc Di Văn" nói: quân tử không bị hình thì không khai mở, nếu như ở đường quan lộ thường nhanh chóng hiển quý; còn tiểu nhân đến đây sẽ gặp điều bất hạnh, không phải vậy thì bị quan phạt đòn roi. "Thẩm Chi Vân": "tự hình mang theo sát thì không phải tốt lành, năm tháng "hình" bên ngoài nhất định cũng gặp thương tổn, không phải chết vì khốn khổ trong tù ngục, cũng biết ngay mất đầu vì lưỡi đao, lưỡi kiếm." Lại nói: "có đủ thìn ngọ dậu hợi, tuổi trung niên bị mù". Lại nói: "tự hình sợ hoả, nếu trong đó có chế thì không nên lập tức luận bàn như vậy". Lại nói thêm: nói chung mệnh tam hình hoàn toàn cần phải phân biệt "hình đắc nhập" hay "hình bất đắc nhập". Lấy năm làm chủ, tháng, ngày, giờ làm khách, nếu như chủ hình khách là "hình đắc nhập" thì cao quý, "hình bất đắc nhập" là hèn kém; nếu như khách tới hình chủ, đều là "hình bất nhập" mới là cách cao quý, còn "hình đắc nhập" thì hèn mọn, thí dụ lệnh sửu hình tuất, thì xem coi là sửu gì, là tuất gì, như ất sửu hình canh tuất: là "đồng loại tương hình", không tốt; hình bính tuất, nhâm tuất tức là "tương sanh tương hình", thì không lấy hình mà luận; mậu tuất, giáp tuất "tương khắc tương hình". Mậu tuất "hình đắc nhập", giáp tuất "bất đắc nhập"; lại xem thêm hoạ phúc sanh ra ở nơi đâu như thế nào. Như mậu tuất là nơi phúc tụ mà ất sửu tới hình tức là rất tốt. "Hình bất nhập" ở nơi phúc tụ không phải là mệnh quý. Còn lại dựa theo đó. Sách nói rằng: hễ mệnh không gặp hình thì luận thái tuế trước nhất. Bởi nói rằng con người ghét gặp tam hình, nếu như tháng, ngày, giờ có mang theo sát mà thái tuế không liên quan thì không luận, cho nên đầu tiên luận thái tuế. Lại nói: "lấy sát ngăn cản sát", thường có trách nhiệm quản lý hình phạt quân đội. Bởi nói rằng thái tuế bị hình thì hình phạt đặc biệt nên là người chế hình thái tuế. Giả dụ như người sanh lệnh quý tỵ được ngày mậu dần, tức là được giờ canh thân. Bởi quý tỵ là chỗ cai quản của mậu dần, có canh thân mộc tức là chế thổ của mậu dần. Vốn là có "hình" nhưng thành "không hình", cho nên nói là "lấy sát ngăn cản sát". Bài hát xưa rằng: "nơi của tam hình có tam kỳ, ngày giờ bao gồm cả thiên ất, nếu hình phân thành nhiều phần bằng nhau mà thiên can gặp đức, quan ở phẩm vị rất cao nhất định không tổn thất gì". Có thể thấy"tam hình phải ngang nhau, có thêm tam kỳ, quý nhân, thiên đức thì tốt lành.
论三刑
《阴符经》曰:恩生于害,害生于恩;三刑生于二合,亦如六害生于六合之义。如申子辰三合加寅卯辰三位,则申刑寅,子刑卯,辰见辰自刑;寅午戌加巳午未,则寅巳,午见午自刑,戌刑未;巳酉丑加申酉戌,则巳刑申,酉见酉自刑,丑刑戌;亥卯未加亥子丑,则亥见亥自刑,卯刑子,未刑丑。合中生刑,犹人夫妇相合而反致刑伤。造化人事,共理一而巳矣。
或曰:三刑之法,以数起之。皇极中天,十为煞数,积数至十则悉空其数,天道恶盈满则覆。故数自卯顺至子,子逆至卯,极十数而为无礼之刑;寅逆至巳,巳逆至申,极十数而为无恩之刑;丑顺至戌,戌顺至未,极十数而为恃势之刑。七则冲,十则刑,六则合,一理之自然也。
寅巳申何以谓之无恩?盖寅中有甲木刑巳中戊土,戊以癸水相合为要,则癸水者,甲木之母也;戊土既为癸水之夫,乃甲之父也,彼父而我刑之,恩斯忘矣。巳中之丙刑申中之庚,申中之庚刑寅中之甲,准此同义。又云:寅有生火刑巳上生金,巳上寄生之土刑申上长生之水,申中生水刑寅中生火。不恤所生,遥相克制,故曰无恩。生旺主人持重少语,寡欲无情,多招失义忘恩之扰;死绝则面誉背毁,忘恩失义。入贵格则惨虐好杀,好立功业;入贱格则言行乖越,贪吝无厌。妇人得之,多产血损胎之灾。
丑戌未何以谓之恃势?盖丑中有旺水,丑乃水中之土,戌中有墓火,丑恃旺水刑戌中之墓火;戌为六甲之尊,未为六癸之卑,戌恃六甲之尊刑未六癸之卑;未有旺土,复恃势刑丑中之旺水。又云:未恃丁火之势以刑丑中之金,丑恃旺水之势以刑戌中之火,戌恃辛金之势以刑未中之木,故曰恃势。生旺主人精神意气雄豪,眉粗面阔,以直交人;死绝刑露瘦小,精神乖佼,是非贱佞,乐祸幸灾。入贵格则公清平正,人多畏惧;入贱格则多犯刑书暗昧之灾。妇人得之,妨害孤独。
子卯何以谓之无礼?子属水,卯属木,水能生木,则子水为母,卯木为子,子母自相刑;又卯为日门,子为阳之所生,日出于卯,子卯角立,无钦卑之道,不恤所以相生,进相刑害,故曰无礼。又云:子中独用癸水,癸用戊土为夫星而败于卯,所以子刑卯;卯中独用乙木,乙用庚金为夫星而死于子,所以卯刑子。此二家因夫见刑,女命见之,尤为不良,故曰无礼。生旺主人威肃,面无和气,气强性暴,太察不容;死绝则侮慢忽略,狭劣刻剥,少孝悌,害妻子,吴越六亲。入贵格则多掌兵权,不利近侍;位居不久;入贱格则悖凶暴,多招刑祸。
辰午酉亥何以谓之自刑?谓寅申巳亥有寅巳申互相刑,内有亥无刑;辰戌丑未有戌丑未互相刑,内有辰无刑;子午卯酉有子卯互相刑,内有午酉无刑。是以此四位谓之自刑。盖无别物相加,乃曰自也。又云:辰者水之墓,滔则盈;午者火之旺,暴则焚;酉者金之位,刚则缺;亥者水之生,旺则朽。各禀已盛太过之气而自致祸,故曰自也。生旺则沉静内毒,形容劣弱;死绝则深毒轻忽,察见渊渔,多肢节手足之灾。入贵格则机变权谋;入贱格则多忧顽愚,不情自害。带诸凶煞,非令终也。妇人主淫荡凶折之灾。
凡见刑不可便以凶论,须看五行中有无吉辰、旺相、官星、印绶、责神、德福等物,有此诸吉相扶相助,刑不为害,而反为用;如无诸吉相助,更带亡劫、天中、羊刃等煞以恶济恶,祸不可言。又云:三刑怕金。《鬼谷遗文》曰:"君子不刑定不发,若居仕路多腾达;小人到此必为灾,不然也被官鞭挞。"沈芝云:"自刑带煞不为良,年月刑肤定见伤。不是狱中憔悴死,便因刀剑刃头亡。"又云:"带辰午酉亥全,中年丧明。"又云:"自刑怕火,若中有制,未可便此以论。"又曰:凡命三刑,全须分刑得入、刑不得入。以年为主,月日时为客,如主刑客,刑得入为贵,刑不入即贱;若客来刑主,须是刑不入方为贵格,刑得入者即贱,假令丑刑戌,看是何丑何戌,如乙丑刑庚戌,是同类相刑,不吉;刑丙戌壬戌则相生相刑,不以刑论;戊戌甲戌相克相刑。戊戌刑得入,甲戌不得入;更看祸福所生之地如何。如戊戌,福聚之地,却乙丑来刑则大吉。刑不入福聚之地,不为贵命。余准此推。经云:凡命定其无刑,先论太岁。盖言人恶见三刑,若月日时带煞而太岁不干预者不论,故曰先论太岁。又云:以煞止煞,多掌兵刑之任。盖言太岁受刑而别刑若乃制刑太岁者。假令癸巳生人得戊寅日,却得庚申时之类。盖癸巳为戊寅所制,得庚申木却制戊寅之土。本有刑而却无刑,故曰以煞制煞。古歌云:"三刑之位带三奇,天乙兼得在日时。刑若等分 干遇德,官居极品定无亏。"可见三刑要相等,更带三奇、贵人、天德为吉。
.
Luận Tam Hình
"Âm Phù Kinh" nói: "ân" sanh ra từ "hại", "hại" sanh ra từ "ân"; "tam hình" sanh ra từ "nhị hợp", cũng như ý nghĩa của "lục hại" sanh ra từ "lục hợp". Như tam hợp thân tý thìn gia thêm dần mão thìn, thì có thân hình dần, tý hình mão, thìn gặp thìn "tự hình"; dần ngọ tuất gia thêm tỵ ngọ mùi thì có dần hình tỵ, ngọ gặp ngọ "tự hình", tuất hình mùi; tỵ dậu sửu gia thêm thân dậu tuất thì có tỵ hình thân, dậu gặp dậu "tự hình", sửu hình tuất; hợi mão mùi gia thêm hợi tý sửu thì có hợi gặp hợi "tự hình", mão hình tý, mùi hình sửu. Trong hợp mà sanh hình, giống như vợ chồng hợp nhau nhưng phản thành hình thương. Sự sáng tạo của con người và vạn vật đều dựa trên những nguyên tắc giống nhau.
Có thể nói: nguyên tắc của "tam hình", dùng số để bắt đầu. Hoàng Cực Trung Thiên: số mười là "sát", tích số đến mười thì số của nó trống rỗng, đạo trời ghét tràn đầy sẽ lật ngược. Cho nên số từ mão đếm thuận đến tý, hay tý đếm ngược đến mão, đến tới số mười nên là "vô lễ hình"; dần đếm ngược đến tỵ, tỵ đếm ngược đến thân, đến số mười nên là "vô ân hình"; sửu đếm thuận đến tuất, tuất đếm thuận đến mùi, đến số mười nên là "thị thế chi hình". Số bảy thì "xung", số mười thì "hình", số sáu thì "hợp", đó là nguyên tắc tự nhiên.
Vì sao gọi dần tỵ thân là "vô ân"? Bởi trong dần có giáp mộc hình mậu thổ trong tỵ, quan trọng là mậu với quý thuỷ hợp nhau, thì quý thuỷ là mẹ của giáp mộc; mậu thổ đã là chồng của quý thuỷ, chính là cha của giáp, đã là cha mà mình hình là "vong ân" rồi. Bính trong tỵ hình canh trong thân, canh trong thân hình giáp trong dần, cũng giống nhau. Lại nói: dần có hoả sanh hình kim sanh ở tỵ, thổ ký sanh ở tỵ hình thuỷ trường sanh ở thân, thuỷ sanh ở thân hình hoả sanh ở dần. Không quan tâm đến chỗ sanh, khắc chế nhau từ xa, cho nên nói là "vô ân". Nếu sanh, vượng chủ là người thận trọng ít nói, ít ham muốn và vô tình, thường gây ra phiền nhiễu bởi ăn ở xấu xa, "vong ân"; còn như tử, tuyệt thì danh dự bị huỷ diệt, "vong ân" lạc mất tình nghĩa. Nhập cách quý: thì rất tàn nhẫn, hiếu sát, thích lập công; còn nhập cách hèn mọn thì lời nói và hành động trái ngược nhau, tham lam không bao giờ thoả mãn. Đàn bà gặp phải thường bị tai nạn "sản huyết tổn thai" khi sanh đẻ.
Vì sao sửu tuất mùi gọi là "thị thế"? Bởi vỉ trong sửu có vượng thuỷ, sửu chính là đất trong nước, trong tuất có mộ hoả, sửu cậy vượng thuỷ mà hình mộ hoả trong tuất; tuất là chỗ cao nhất của lục giáp, mùi là chỗ thấp nhất của lục quý, tuất cậy chỗ cao của lục giáp mà hình mùi là chỗ thấp của lục quý; mùi có vượng thổ, lại cậy thế mà hình vượng thuỷ trong thổ. Lại nói rằng: mùi cậy thế của đinh hoả mà hình kim trong sửu, sửu cậy vượng thuỷ mà hình hoả trong tuất, tuất cậy thế của tân kim mà hình mộc trong mùi, cho nên gọi là "thị thế". Nếu sanh vượng chủ là người có tinh thần, ý chí mạnh mẽ, mày thô mặt rộng, là người dễ dàng giao kết; còn như tử tuyệt gầy nhỏ, tinh thần trái lại xảo trá, miệng lưỡi cải cọ, nịnh nọt thấp kém, "lạc hoạ hạnh tai". Nhập vào cách quý thì công bằng chánh trực, người thường kính sợ; còn vào cách hèn mọn thì thường phạm tai nạn ám muội. Phụ nữ gặp phải thì tổn hại và cô độc.
Vì sao tý mão gọi là "vô lễ"? Tý thuộc thuỷ, mão thuộc mộc, thuỷ có thể sanh mộc tức tý thuỷ là mẹ, mão mộc là con, tý là mẹ tự tương hình; lại thêm mão là "nhật môn" - (cửa trời), tý là chỗ dương sanh ra, mặt trời mọc ở mão, tý mão đứng ở góc cạnh nhau, không có cách tôn kính hay khiêm nhường mà không quan tâm đến chỗ sanh nhau, tiến đến hình hại lẫn nhau, cho nên gọi là "vô lễ". Lại nói rằng: chỉ có quý thuỷ trong tý, quý lấy mậu thổ làm chồng mà lại bại ở mão, cho nên tý hình mão; chỉ một mình ất trong mão, mà ất lấy canh kim làm chồng nhưng chết ở tý, cho nên mão hình tý. Bởi chồng của hai nhà này gặp hình, mệnh của phụ nữ gặp cách này thật là không lương thiện, cho nên nói là "vô lễ". Nếu sanh vượng chủ là người có dáng tôn nghiêm, mặt không có thái dộ ôn hoà thân thiện, bản chất mạnh bạo hung tàn, xét nét rất kỹ không dung tình; còn như tử, tuyệt thì kiêu ngạo, lấn áp, khinh thường người khác, nhỏ hẹp, hà khắc thiếu lòng hiếu thảo với cha mẹ, nhường kính anh chị, tổn hại vợ con, thù oán với lục thân. Vào cách quý thường nắm binh quyền, bất lợi cho người phục dịch, giữ chức không lâu bền; còn vào cách hèn mọn sẽ rất hung ác, tàn bạo, thường gặp phải tai hoạ, hình phạt.
Vì sao thìn ngọ dậu hợi gọi là "tự hình"? Nói dần thân tỵ hợi thì có dần tỵ thân hình lẫn nhau, trong đó hợi không bị hình; thìn tuất sửu mùi có sửu tuất mùi hình lẫn nhau, trong đó thìn không bị hình; tý ngọ mão dậu có tý mão hình lẫn nhau, trong đó có ngọ dậu không bị hình. Vì thế bốn vị trí này gọi là "tự hình". Bởi không có vật gì khác thêm vào nên nói là "tự" - (chính mình) vậy. Lại nói rằng: thìn là mộ của thuỷ, nước dâng lên sẽ đầy; ngọ là hoả vượng, vượng quá sẽ thiêu đốt; dậu là vị trí của kim, cứng quá sẽ sứt mẻ; hợi là chổ thuỷ sanh trưởng, vượng quá sẽ suy tàn. Mỗi thứ vì khí quá thịnh vượng mà tự gặp hoạ, cho nên nói là "tự" vậy. Nếu sanh vượng thì độc ác thầm lặng, hình dáng yếu đuối; còn nhu tử, tuyệt thì âm thầm khinh thị, xét nét để gặp cá ở vực sâu, thường tai hoạ tay chân, anh em. Nhập vào cách quý thì giỏi tuỳ cơ ứng biến; còn vào cách hèn mọn thì thường lo lắng mà cố chấp, ngu ngốc, vô tình tự làm hại mình. Có mang theo "hung sát", không có cái chết đẹp. Đàn bà chủ về tai hoạ của sắc dục và chết yểu.
Nói chung gặp "hình" thì không nên luận theo chiều hướng xấu ngay lập tức, cần xem trong ngũ hành có hay không có cát thần, vượng tướng, quan tinh, ấn thụ, "trách thần", đức phúc các loại, có những cát thần này phù trợ thì dù hình nhưng không có hại, trái lại còn hữu dụng; nếu như không có cát thần tương trợ mà mang thêm "vong kiếp", "thiên trung", "dương nhận" các loại sát tức là ác giúp ác, nên hoạ không thể kể xiết. Lại nói rằng: "tam hình" sợ kim. "Quỷ Cốc Di Văn" nói: quân tử không bị hình thì không khai mở, nếu như ở đường quan lộ thường nhanh chóng hiển quý; còn tiểu nhân đến đây sẽ gặp điều bất hạnh, không phải vậy thì bị quan phạt đòn roi. "Thẩm Chi Vân": "tự hình mang theo sát thì không phải tốt lành, năm tháng "hình" bên ngoài nhất định cũng gặp thương tổn, không phải chết vì khốn khổ trong tù ngục, cũng biết ngay mất đầu vì lưỡi đao, lưỡi kiếm." Lại nói: "có đủ thìn ngọ dậu hợi, tuổi trung niên bị mù". Lại nói: "tự hình sợ hoả, nếu trong đó có chế thì không nên lập tức luận bàn như vậy". Lại nói thêm: nói chung mệnh tam hình hoàn toàn cần phải phân biệt "hình đắc nhập" hay "hình bất đắc nhập". Lấy năm làm chủ, tháng, ngày, giờ làm khách, nếu như chủ hình khách là "hình đắc nhập" thì cao quý, "hình bất đắc nhập" là hèn kém; nếu như khách tới hình chủ, đều là "hình bất nhập" mới là cách cao quý, còn "hình đắc nhập" thì hèn mọn, thí dụ lệnh sửu hình tuất, thì xem coi là sửu gì, là tuất gì, như ất sửu hình canh tuất: là "đồng loại tương hình", không tốt; hình bính tuất, nhâm tuất tức là "tương sanh tương hình", thì không lấy hình mà luận; mậu tuất, giáp tuất "tương khắc tương hình". Mậu tuất "hình đắc nhập", giáp tuất "bất đắc nhập"; lại xem thêm hoạ phúc sanh ra ở nơi đâu như thế nào. Như mậu tuất là nơi phúc tụ mà ất sửu tới hình tức là rất tốt. "Hình bất nhập" ở nơi phúc tụ không phải là mệnh quý. Còn lại dựa theo đó. Sách nói rằng: hễ mệnh không gặp hình thì luận thái tuế trước nhất. Bởi nói rằng con người ghét gặp tam hình, nếu như tháng, ngày, giờ có mang theo sát mà thái tuế không liên quan thì không luận, cho nên đầu tiên luận thái tuế. Lại nói: "lấy sát ngăn cản sát", thường có trách nhiệm quản lý hình phạt quân đội. Bởi nói rằng thái tuế bị hình thì hình phạt đặc biệt nên là người chế hình thái tuế. Giả dụ như người sanh lệnh quý tỵ được ngày mậu dần, tức là được giờ canh thân. Bởi quý tỵ là chỗ cai quản của mậu dần, có canh thân mộc tức là chế thổ của mậu dần. Vốn là có "hình" nhưng thành "không hình", cho nên nói là "lấy sát ngăn cản sát". Bài hát xưa rằng: "nơi của tam hình có tam kỳ, ngày giờ bao gồm cả thiên ất, nếu hình phân thành nhiều phần bằng nhau mà thiên can gặp đức, quan ở phẩm vị rất cao nhất định không tổn thất gì". Có thể thấy"tam hình phải ngang nhau, có thêm tam kỳ, quý nhân, thiên đức thì tốt lành.
论三刑
《阴符经》曰:恩生于害,害生于恩;三刑生于二合,亦如六害生于六合之义。如申子辰三合加寅卯辰三位,则申刑寅,子刑卯,辰见辰自刑;寅午戌加巳午未,则寅巳,午见午自刑,戌刑未;巳酉丑加申酉戌,则巳刑申,酉见酉自刑,丑刑戌;亥卯未加亥子丑,则亥见亥自刑,卯刑子,未刑丑。合中生刑,犹人夫妇相合而反致刑伤。造化人事,共理一而巳矣。
或曰:三刑之法,以数起之。皇极中天,十为煞数,积数至十则悉空其数,天道恶盈满则覆。故数自卯顺至子,子逆至卯,极十数而为无礼之刑;寅逆至巳,巳逆至申,极十数而为无恩之刑;丑顺至戌,戌顺至未,极十数而为恃势之刑。七则冲,十则刑,六则合,一理之自然也。
寅巳申何以谓之无恩?盖寅中有甲木刑巳中戊土,戊以癸水相合为要,则癸水者,甲木之母也;戊土既为癸水之夫,乃甲之父也,彼父而我刑之,恩斯忘矣。巳中之丙刑申中之庚,申中之庚刑寅中之甲,准此同义。又云:寅有生火刑巳上生金,巳上寄生之土刑申上长生之水,申中生水刑寅中生火。不恤所生,遥相克制,故曰无恩。生旺主人持重少语,寡欲无情,多招失义忘恩之扰;死绝则面誉背毁,忘恩失义。入贵格则惨虐好杀,好立功业;入贱格则言行乖越,贪吝无厌。妇人得之,多产血损胎之灾。
丑戌未何以谓之恃势?盖丑中有旺水,丑乃水中之土,戌中有墓火,丑恃旺水刑戌中之墓火;戌为六甲之尊,未为六癸之卑,戌恃六甲之尊刑未六癸之卑;未有旺土,复恃势刑丑中之旺水。又云:未恃丁火之势以刑丑中之金,丑恃旺水之势以刑戌中之火,戌恃辛金之势以刑未中之木,故曰恃势。生旺主人精神意气雄豪,眉粗面阔,以直交人;死绝刑露瘦小,精神乖佼,是非贱佞,乐祸幸灾。入贵格则公清平正,人多畏惧;入贱格则多犯刑书暗昧之灾。妇人得之,妨害孤独。
子卯何以谓之无礼?子属水,卯属木,水能生木,则子水为母,卯木为子,子母自相刑;又卯为日门,子为阳之所生,日出于卯,子卯角立,无钦卑之道,不恤所以相生,进相刑害,故曰无礼。又云:子中独用癸水,癸用戊土为夫星而败于卯,所以子刑卯;卯中独用乙木,乙用庚金为夫星而死于子,所以卯刑子。此二家因夫见刑,女命见之,尤为不良,故曰无礼。生旺主人威肃,面无和气,气强性暴,太察不容;死绝则侮慢忽略,狭劣刻剥,少孝悌,害妻子,吴越六亲。入贵格则多掌兵权,不利近侍;位居不久;入贱格则悖凶暴,多招刑祸。
辰午酉亥何以谓之自刑?谓寅申巳亥有寅巳申互相刑,内有亥无刑;辰戌丑未有戌丑未互相刑,内有辰无刑;子午卯酉有子卯互相刑,内有午酉无刑。是以此四位谓之自刑。盖无别物相加,乃曰自也。又云:辰者水之墓,滔则盈;午者火之旺,暴则焚;酉者金之位,刚则缺;亥者水之生,旺则朽。各禀已盛太过之气而自致祸,故曰自也。生旺则沉静内毒,形容劣弱;死绝则深毒轻忽,察见渊渔,多肢节手足之灾。入贵格则机变权谋;入贱格则多忧顽愚,不情自害。带诸凶煞,非令终也。妇人主淫荡凶折之灾。
凡见刑不可便以凶论,须看五行中有无吉辰、旺相、官星、印绶、责神、德福等物,有此诸吉相扶相助,刑不为害,而反为用;如无诸吉相助,更带亡劫、天中、羊刃等煞以恶济恶,祸不可言。又云:三刑怕金。《鬼谷遗文》曰:"君子不刑定不发,若居仕路多腾达;小人到此必为灾,不然也被官鞭挞。"沈芝云:"自刑带煞不为良,年月刑肤定见伤。不是狱中憔悴死,便因刀剑刃头亡。"又云:"带辰午酉亥全,中年丧明。"又云:"自刑怕火,若中有制,未可便此以论。"又曰:凡命三刑,全须分刑得入、刑不得入。以年为主,月日时为客,如主刑客,刑得入为贵,刑不入即贱;若客来刑主,须是刑不入方为贵格,刑得入者即贱,假令丑刑戌,看是何丑何戌,如乙丑刑庚戌,是同类相刑,不吉;刑丙戌壬戌则相生相刑,不以刑论;戊戌甲戌相克相刑。戊戌刑得入,甲戌不得入;更看祸福所生之地如何。如戊戌,福聚之地,却乙丑来刑则大吉。刑不入福聚之地,不为贵命。余准此推。经云:凡命定其无刑,先论太岁。盖言人恶见三刑,若月日时带煞而太岁不干预者不论,故曰先论太岁。又云:以煞止煞,多掌兵刑之任。盖言太岁受刑而别刑若乃制刑太岁者。假令癸巳生人得戊寅日,却得庚申时之类。盖癸巳为戊寅所制,得庚申木却制戊寅之土。本有刑而却无刑,故曰以煞制煞。古歌云:"三刑之位带三奇,天乙兼得在日时。刑若等分 干遇德,官居极品定无亏。"可见三刑要相等,更带三奇、贵人、天德为吉。
.
#49
Gửi vào 27/06/2024 - 01:16
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị
Luận Xung Kích
Địa chi thủ bảy vị trí là "xung", giống như ý nghĩa của thiên can thủ bảy vị trí là sát. Như tý ngọ đối xung, từ tý đến ngọ bảy số, giáp gặp canh là sát, giáp đến canh là bảy số. Trong con số: sáu thì hợp, bảy tức là vượt qua, cho nên "xung kích" là "sát". "Tương xung" là thần "chiến kích" của mười hai địa chi, thông thường là hung xấu. Tuy nhiên có một điều may mắn lớn là chỗ xung có sanh nhau. Kiểu như tân tỵ kim gặp quý hợi thuỷ, chủ về tiếng tăm truyền phát khắp nơi, có thế vị cao quý xuất chúng, thi đậu hạng cao; nếu như chỗ xung mà khắc nhau, kiểu như nhâm thân kim gặp canh dần mộc, chủ về người có thần thái dung mạo tuấn tú, ôm giữ phong độ thoát tục, hiên ngang và tự tại, ngẫng đầu mà đi; nếu sanh vượng chủ là người có thần thái cứng cỏi, vẻ ngoài trang nghiêm, tinh thần dũng cảm, tài giỏi khác thường gan dạ nên đạt được nhiều thành công hay thất bại; còn tử, tuyệt là người có đời sống quá tằn tiện bùn xỉn, thấp hèn, hình dáng gàn dỡ, hèn kém, gây ra sự tàn ác và sĩ nhục, thường chết yểu. Nếu bốn mộ khố tuất sửu thìn mùi là nơi tàng trữ mười can: tài, quan, ấn thụ các loại, càng thích "xung kích"; nếu như có đủ dần thân tỵ hợi, hay có đủ tý ngọ mão dậu, trái lại thành "đại cách" mà không lấy "xung kích" để luận. Nếu như "đồng loại tương xung" kiểu như giáp tý gặp giáp ngọ, kỷ mão gặp kỷ dậu, chủ thường phá tán tổ nghiệp, một đời tâm không an nhàn, ngay thẳng rõ ràng có chỗ đứt gãy, ví phỏng chức quan lộc cao danh trọng, cuối cùng cũng bị mất một cái gì đó.
Nói chung gặp phải "thất sát", mệnh tốt thì xung sẽ phát, mệnh xấu sẽ là tai hoạ. Như đất của tai hoạ tụ mà có vị trí khác tới xung, gọi là "phá hoạ thành phúc"; còn như đất của phúc tụ có vị trí khác tới xung, sẽ là "phá phúc thành hoạ"; như phạm "không vong", có vị trí khác tới xung, cũng là "phá hoạ thành phúc", năm tháng ngày giờ gặp điều này, ắt sẽ là người làm ra bổng lộc. Nếu tháng xung ngày giờ, hay giờ xung năm tên gọi là "cừu" - (thù địch), chủ cùng với người không có ơn huệ tình nghĩa, thường bị ghét, nghi ngờ, hoặc là bệnh tật dai dẳng, hoặc là chết đột ngột; có thêm "kiếp sát", "vong thần" xung với nhau, chủ phạm tội. Nếu ở nơi tử, tuyệt chủ nhiều bệnh tật. Có thêm "quý sát" nhập thành cục, là người có khí vận tốt đẹp và có danh tiếng, thường nhập triều để can ngăn, cuối cùng chết vì bệnh hiểm nghèo; có thêm "nguyên thần", "không vong" xung với nhau, không thấp kém cũng nghèo hèn.
Thẩm Chi nói rằng: "phá ấn", "phá tài" cùng "phá lộc", "phá mã" đã từng ít lần là phúc của mình; lại thêm "phá hợp" ngày giờ xung, bệnh tật chẳng phải ở tay chân thì là đầu mắt. "Phá ấn" là kiểu như người mộc đeo quý mùi, trong có ất sửu kim; "phá tài" là kiểu như người kim lấy dần mão làm tài mà gặp thân dậu; "phá lộc" là kiểu như giáp lộc ở dần mà gặp chữ thân; "phá mã" là kiểu như mã ở tỵ mà gặp chữ hợi; "phá hợp" là thiên can hợp mà bị địa chi phá, kiểu như người giáp ngọ gặp kỷ hợi, có thể là gặp chữ tỵ tức là phá kỷ hợi, hay gặp tý phá giáp ngọ. Thơ rằng: "tương xung" trở lại là tự "tương sanh", cùng đến với chỗ vua ngồi không bị hình; được thêm "hoa cái" cả uy quyền, là quan thanh hiển lãnh đạo hùng binh. Có thể thấy rằng xung phá có tốt có xấu, không thể bàn luận khái quát.
论冲击
地支取七位为冲,犹天干取七位为煞之义。如子午对冲,子至午七数,甲逢庚为煞,甲至庚七数。数中六则合,七则过,故相冲击为煞也。相冲者,十二支战击之神,大概为凶。然有为福之甚者,乃冲处相生。如辛巳金见癸亥水之类,主声望播流,高明出众,科甲峥嵘;若冲处相克,如壬申金见庚寅木之类,主人神情貌俊,襟韵脱俗,轩昂洒落,上视仰面而行;若生旺主人神刚貌肃胆气壮,倜傥敢为多成败;死绝则寒酸鄙薄,形容乖劣,动招凶辱,多夭折。若戌丑辰未四库所藏为十干财官、印绶等物,尤喜冲激;若寅申巳亥金,子午卯酉金,反成大格,不以冲击论。若同类相冲,如甲子见甲午,己卯见己酉之类,主多破祖业,平生心不闲,刚明有断,假令禄高名重,终有一失。
凡遇一七煞,命吉则冲发,命凶则为祸。如祸聚之地有他位来冲,谓之破祸成福;如福聚之地他位来冲,则破福成祸;如犯空亡,有他位来冲,亦为破祸成福,年月日时值此,必作食禄之人。若月冲日时,时冲年,名仇,主与人无恩,多得憎嫌,或长病,或暴卒;带劫煞、亡神相冲,主犯刑。若在死绝处,主病多疾。带贵煞入局,有秀气科名者,多入台谏,终恶疾而死;带元辰、空亡相冲,不下贱则贫寒。
沈芝云:"破印破财并破禄,破马少曾为我福;更加破合 日时冲,疾非手足即头目。破印者,如木人带癸未,内有乙丑金之类;破财者,如金人以寅卯为财、见申酉之类;破禄者,如甲禄在寅见申字之类;破马者,如马在巳见亥字之类;破合者,乃干合被支破,如甲午人见己亥,或见巳字,即破己亥,逢子破甲午合之类。诗云:相冲还是自相生,集来帝座位无刑;更得华盖兼权煞,为官清显统雄兵"。可见冲破有吉有凶,不可概论。
.
Luận Xung Kích
Địa chi thủ bảy vị trí là "xung", giống như ý nghĩa của thiên can thủ bảy vị trí là sát. Như tý ngọ đối xung, từ tý đến ngọ bảy số, giáp gặp canh là sát, giáp đến canh là bảy số. Trong con số: sáu thì hợp, bảy tức là vượt qua, cho nên "xung kích" là "sát". "Tương xung" là thần "chiến kích" của mười hai địa chi, thông thường là hung xấu. Tuy nhiên có một điều may mắn lớn là chỗ xung có sanh nhau. Kiểu như tân tỵ kim gặp quý hợi thuỷ, chủ về tiếng tăm truyền phát khắp nơi, có thế vị cao quý xuất chúng, thi đậu hạng cao; nếu như chỗ xung mà khắc nhau, kiểu như nhâm thân kim gặp canh dần mộc, chủ về người có thần thái dung mạo tuấn tú, ôm giữ phong độ thoát tục, hiên ngang và tự tại, ngẫng đầu mà đi; nếu sanh vượng chủ là người có thần thái cứng cỏi, vẻ ngoài trang nghiêm, tinh thần dũng cảm, tài giỏi khác thường gan dạ nên đạt được nhiều thành công hay thất bại; còn tử, tuyệt là người có đời sống quá tằn tiện bùn xỉn, thấp hèn, hình dáng gàn dỡ, hèn kém, gây ra sự tàn ác và sĩ nhục, thường chết yểu. Nếu bốn mộ khố tuất sửu thìn mùi là nơi tàng trữ mười can: tài, quan, ấn thụ các loại, càng thích "xung kích"; nếu như có đủ dần thân tỵ hợi, hay có đủ tý ngọ mão dậu, trái lại thành "đại cách" mà không lấy "xung kích" để luận. Nếu như "đồng loại tương xung" kiểu như giáp tý gặp giáp ngọ, kỷ mão gặp kỷ dậu, chủ thường phá tán tổ nghiệp, một đời tâm không an nhàn, ngay thẳng rõ ràng có chỗ đứt gãy, ví phỏng chức quan lộc cao danh trọng, cuối cùng cũng bị mất một cái gì đó.
Nói chung gặp phải "thất sát", mệnh tốt thì xung sẽ phát, mệnh xấu sẽ là tai hoạ. Như đất của tai hoạ tụ mà có vị trí khác tới xung, gọi là "phá hoạ thành phúc"; còn như đất của phúc tụ có vị trí khác tới xung, sẽ là "phá phúc thành hoạ"; như phạm "không vong", có vị trí khác tới xung, cũng là "phá hoạ thành phúc", năm tháng ngày giờ gặp điều này, ắt sẽ là người làm ra bổng lộc. Nếu tháng xung ngày giờ, hay giờ xung năm tên gọi là "cừu" - (thù địch), chủ cùng với người không có ơn huệ tình nghĩa, thường bị ghét, nghi ngờ, hoặc là bệnh tật dai dẳng, hoặc là chết đột ngột; có thêm "kiếp sát", "vong thần" xung với nhau, chủ phạm tội. Nếu ở nơi tử, tuyệt chủ nhiều bệnh tật. Có thêm "quý sát" nhập thành cục, là người có khí vận tốt đẹp và có danh tiếng, thường nhập triều để can ngăn, cuối cùng chết vì bệnh hiểm nghèo; có thêm "nguyên thần", "không vong" xung với nhau, không thấp kém cũng nghèo hèn.
Thẩm Chi nói rằng: "phá ấn", "phá tài" cùng "phá lộc", "phá mã" đã từng ít lần là phúc của mình; lại thêm "phá hợp" ngày giờ xung, bệnh tật chẳng phải ở tay chân thì là đầu mắt. "Phá ấn" là kiểu như người mộc đeo quý mùi, trong có ất sửu kim; "phá tài" là kiểu như người kim lấy dần mão làm tài mà gặp thân dậu; "phá lộc" là kiểu như giáp lộc ở dần mà gặp chữ thân; "phá mã" là kiểu như mã ở tỵ mà gặp chữ hợi; "phá hợp" là thiên can hợp mà bị địa chi phá, kiểu như người giáp ngọ gặp kỷ hợi, có thể là gặp chữ tỵ tức là phá kỷ hợi, hay gặp tý phá giáp ngọ. Thơ rằng: "tương xung" trở lại là tự "tương sanh", cùng đến với chỗ vua ngồi không bị hình; được thêm "hoa cái" cả uy quyền, là quan thanh hiển lãnh đạo hùng binh. Có thể thấy rằng xung phá có tốt có xấu, không thể bàn luận khái quát.
论冲击
地支取七位为冲,犹天干取七位为煞之义。如子午对冲,子至午七数,甲逢庚为煞,甲至庚七数。数中六则合,七则过,故相冲击为煞也。相冲者,十二支战击之神,大概为凶。然有为福之甚者,乃冲处相生。如辛巳金见癸亥水之类,主声望播流,高明出众,科甲峥嵘;若冲处相克,如壬申金见庚寅木之类,主人神情貌俊,襟韵脱俗,轩昂洒落,上视仰面而行;若生旺主人神刚貌肃胆气壮,倜傥敢为多成败;死绝则寒酸鄙薄,形容乖劣,动招凶辱,多夭折。若戌丑辰未四库所藏为十干财官、印绶等物,尤喜冲激;若寅申巳亥金,子午卯酉金,反成大格,不以冲击论。若同类相冲,如甲子见甲午,己卯见己酉之类,主多破祖业,平生心不闲,刚明有断,假令禄高名重,终有一失。
凡遇一七煞,命吉则冲发,命凶则为祸。如祸聚之地有他位来冲,谓之破祸成福;如福聚之地他位来冲,则破福成祸;如犯空亡,有他位来冲,亦为破祸成福,年月日时值此,必作食禄之人。若月冲日时,时冲年,名仇,主与人无恩,多得憎嫌,或长病,或暴卒;带劫煞、亡神相冲,主犯刑。若在死绝处,主病多疾。带贵煞入局,有秀气科名者,多入台谏,终恶疾而死;带元辰、空亡相冲,不下贱则贫寒。
沈芝云:"破印破财并破禄,破马少曾为我福;更加破合 日时冲,疾非手足即头目。破印者,如木人带癸未,内有乙丑金之类;破财者,如金人以寅卯为财、见申酉之类;破禄者,如甲禄在寅见申字之类;破马者,如马在巳见亥字之类;破合者,乃干合被支破,如甲午人见己亥,或见巳字,即破己亥,逢子破甲午合之类。诗云:相冲还是自相生,集来帝座位无刑;更得华盖兼权煞,为官清显统雄兵"。可见冲破有吉有凶,不可概论。
.
#50
Gửi vào 27/06/2024 - 01:46
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Thập Can Lộc
"Lộc": là "tước lộc", đang được quyền thế nên được hưởng, gọi là "lộc" - (lương bổng). Từ khi bắt đầu phân mười thiên can, mười hai địa chi: giáp ất phối cùng dần mão ở hướng đông; bính đinh phối cùng tỵ ngọ ở phương nam; canh thân phồi cùng thân dậu ở phương tây; nhâm quý phối cùng hợi tý ở phương bắc. Mười thiên can tựu với địa chi trở thành lộc, nghĩa là "lộc" đi theo nơi thịnh vượng, vì thế giáp lộc ở dần, ất lộc ở mão, canh lộc ở thân, tân lộc ở dậu, nhâm lộc ở hợi, quý lộc ở tý, bính lộc ở tỵ, đinh lộc ở ngọ, mậu gửi ở tỵ, ngọ gửi ở ngọ, nghĩa là tỵ ngọ chính là đất vượng của hoả, con theo mẹ mà được lộc. Trong có thìn tuất sửu mùi, thìn tuất là "khôi cương" danh gọi của "biên bỉ ác địa" - (đất xấu ở nơi xa xôi), lộc vốn không gửi đến đó; sửu mùi chính là cửa ra vào của "thiên ất quý nhân", lộc vốn là tránh xa, vì thế bốn cung này không có lộc. Lại nói "tứ quý" - (bốn tháng cuối mùa) có tạp khí, không phải nơi đặc biệt của lộc, cho nên không được dùng.
Giáp lộc ở dần. Như giáp thấy bính dần, giáp thổ khắc bính thuỷ (câu này khó hiểu) là tài, là "phúc tinh lộc"; mậu dần hoả thổ tương sanh là "phục mã lộc", tất cả đều tốt lành. Canh dần gọi là "phá lộc", nửa tốt nửa xấu. Nhâm dần gọi là "chánh lộc", mang thêm "triệt lộ không vong", nhất định là tăng đạo. Giáp dần gọi là "trường sanh lộc", rất tốt.
Ất lộc ở mão. Thấy ất mão gọi là "hỷ thần vượng lộc", chủ tốt. Đinh mão là "triệt lộ không vong", chủ xấu. Kỷ mão là "tiến thần lộc"; tân mão là "phá lộc", nửa tốt nửa xấu. Quý mão đới "thái ất" là "tử lộc", tuy là quý nhưng nghèo.
Bính lộc ở tỵ.Thấy kỷ tỵ là "cửu thiên khố lộc" - kho lộc ở chín phương trời, chủ tốt. Tân tỵ "tiệt lộ không vong". Quý tỵ "phục quý thần lộc", nửa tốt nửa xấu. Ất tỵ "vượng mã lộc", đinh tỵ "khố lộc", đều tốt.
Đinh lộc ở ngọ. Gặp canh ngọ "tiệt lộ không vong", xấu. Nhâm gọ là "đức hợp lộc", giáp ngọ là "tiến thần lộc" đều xấu. Bính ngọ là "hỷ thần lộc", cùng lúc có "dương nhận", nửa tốt. Mậu ngọ "phục dương nhận lộc" thường là xấu.
Mậu lộc ở tỵ. Gặp kỷ tỵ "cửu thiên khố lộc" - kho lộc ở chín phương trời, tốt. (Có lẽ là thiếu chữ tân tỵ) "tiệt lộ không vong". Quý tỵ "quý thần lộc", mậu quý hoá hợp có chức vị cao. Ất tỵ "dịch mã đồng hương lộc", đinh tỵ "vượng khố lộc" đều tốt.
Kỷ lộc ở ngọ. Gặp canh ngọ "tiệt lộ không vong". Nhâm ngọ "tử quỷ lộc", đều xấu. Giáp ngọ "tiến thần hợp lộc", tượng của thành tựu, có danh vọng vẻ vang. Bính ngọ, "hỷ thần lộc". Mậu ngọ "phục thần dương nhận lộc", xấu.
Canh lộc ở thân. Gặp nhâm thân là "đại bại lộc". (Có lẽ là thiếu chữ giáp thân) "tiệt lộ không vong lộc" đều xấu. Bính thân "đại bại lộc", thường thành công thất bại. Mậu thân "phục mã lộc" thường trì trệ, nếu gặp "phúc tinh", thì quý và tốt. Canh thân, trường sanh lộc rất là tốt.
Tân lộc ở dậu. Gặp quý dậu "phục thần lộc", thuỷ hoả xâm phạm nhau, xấu. Ất dậu, "phá lộc" thành công và thất bại. Đinh dậu "không vong quý thần lộc", đinh mộc thụ khí, tân thuỷ mộc dục, chủ về sự việc gian dâm; gặp hỷ thần thì tốt. Kỷ dậu "tiến thần lộc". Tân dậu "chánh lộc đều tốt.
Nhâm lộc ở hợi. Gặp đinh hợi, "quý thần hợp lộc". Ất hợi "thiên đức lộc". Kỷ hợi "vượng lộc"; tân hợi "đồng mã hương lộc", đều rất tốt. Chỉ quý hợi " đại bại lộc" chủ nghèo khổ.
Quý lộc ở tý. Gặp giáp tý "tiến thần lộc" chủ thi cử đỗ đạt, hiển quý. Bính tý cùng lúc có dương nhận với lộc, đới phúc tinh chủ quý lại có quyền. Mậu tý, "phục dương nhận hợp quý lộc", nửa tố. Canh tý, "ấn lộc" tốt. Nhâm tý, "chánh dương nhận lộc", xấu.
Có "sanh thành lộc": kiểu như người giáp ất được giáp dần, ất mão.
Có "danh vị lộc": kiểu như người giáp gặp bính dần.
Có "chân lộc": kiểu như người giáp gặp bính hoặc kỷ, người ất gặp kỷ hoặc ngọ, đều là cách quý.
Có "tiến thối chân lộc": mậu thìn gặp đinh tỵ, mậu ngọ gặp đinh tỵ, bính thìn gặp quý tỵ, bính ngọ gặp quý tỵ, quý hợi gặp giáp tý, quý sửu gặp giáp tý, nhâm tuất gặp quý hợi, nhâm tý gặp quý hợi. Tiến thì bình dị, thối thì gian nan, có đeo thêm cát thần, có thể là mệnh quý, sợ gặp lại nhiều lần.
Có "lộc trị hội hợp: kiểu như giáp lộc ở dần mà được canh tuất.
Có "thực thần đới lộc": như nhâm có thực thần là giáp mà được giáp dần, quý có thực thần là ất mà được ất mão, mậu Có thực thần là canh mà được canh thân, kỷ có thực thần là tân mà được tân dậu, chủ tốt lành.
Có "thực thần hợp lộc": có tám vị trí giáp có thực thần là bính được bính thân, bính dần; ất có thực thần là dinh được đinh mùi, đinh mão; canh có thực thần là nhâm được nhâm thìn, nhâm tý; tân có thực thần là quý được quý tỵ, quý sửu tất cả đều tốt.
Có "lộc đầu tài" là "nhục sát": kiểu như người giáp gặp mậu dần, người ất gặp kỷ mão, chủ là người giàu có và tiếng tăm, danh vong.
Có "lộc đầu quỷ" là "xích khẩu sát": kiểu như người giáp gặp canh dần, người ất gặp tân mão, chủ bị hình phạt khiển trách do ăn nói.
Có "tuần trung lộc": kiểu như giáp thân gặp canh dần, mậu ngọ gặp đinh tỵ, chủ "thanh hoa yếu chức".
Có "thiên lộc quý thần": như người đinh lộc ở ngọ, ẩn đến ngọ được chữ bính, mà bính thì "quý" ở dậu hợi, được tân đậu, tân hợi thì tân là quý, kiểu như lại gặp ở ngọ, hợp cách được chức quan cao nhất.
Có "can chi hợp lộc": kiểu như giáp lộc ở dần được giáp dần, kỷ hợi, ất lộc ở mão được ất mão, canh tuất, chủ có chức quan tôn kính.
Có "hỗ hoán quý lộc": kiểu như canh dần gặp ngày giờ giáp thân.
Có "triều nguyên lộc": kiểu như người dần gặp ngày giờ giáp, có thể hướng về trong thai, càng quý.
Có "triều nguyên giáp hợp": kiểu như quý tỵ gặp mậu thìn, mậu ngọ, cả hai mậu với quý hợp và giáp bên tỵ, do mậu lộc ở tỵ, chủ được phong tước vị.
Có "lộc nhập lộc đường", "Lý Ngu Ca" nói rằng: "lộc nhập lộc đường tu đại bái" - ý nghĩa người có lộc nhập lộc đường nên được trao chức lớn, Lý Hư Trung lấy người giáp được giáp tuất vì giáp là can của tuế, vị trí căn bản của giáp độn đến tuất, gọi là "lộc đường". Tan nhâm có hai vị trí: tân có tân mão, tân sửu, còn nhâm có nhâm dần nhâm tý, ngũ hành không gặp khắc, các vị trí khác trợ lực sẽ phát phúc rất to lớn.
Cổ nhân cho rằng: hai thần (chi) trước lộc là "bối", hai thần sau lộc là "hướng". Trầm Chi chọn bốn chữ "kiến", "hướng", "cận", "hợp" làm "quý", "kiến" thì không bằng "hướng", "cận" không bằng "hợp", trong bốn chữ được hai chữ là quý. Ví như giáp lộc ở dần, vì dần là "kiến", sửu là "hướng", mão là "cận" và hợi là "hợp", còn lại dựa theo điều này. Phần còn lại đều kỵ tam hợp, lục hợp vì gặp hình, gặp quỷ, lấy giáp tuất để nói: quỷ ở trên sửu nên lo ngại, vì sửu hình tuất; chớ ở mùi thì không kỵ, vì tuất hình mùi. Lấy ất dậu để nói, quỷ ở trên tỵ là hại, vì tam hợp hội nhau ở thìn sẽ giảm phúc, vì lục hợp tương thân.
"Kiến lộc": chủ là người có cơ bắp khoẻ mạnh, cường tráng, thân hình thô nặng, một đời yên vui an nhàn, tiền của đầy đủ, lợi sanh vượng; tự nhiên tử, tuyệt thì khí trọc tinh thần chậm chạp, siêng năng mưu sinh, bủn xỉn và xấu tính. Cùng hội với "nguyên thần": do trò chơi "sư bồ" mà được tiền của, cũng do đó mà thất bại - (đại ý là được mà cũng bị mất tiền của từ trò chơi đó). Cùng hội với "quan phù": do cửa quan mà được tài, có thể là thường tranh tụng, Cùng hội với "kiếp sát": thích buôn bán nhỏ, tiền của bất ngờ. Cùng hội với "thiên trung": thường mất mát tài sản. Cùng hội với "lộc quỷ đảo thực": thường do làm mối lái vay mượn mà được tiền của, đến chết cũng không thuận lợi, chỉ là người luôn nhớ nghĩ đến tiền. Lại nói rằng: "khố": là nợi "lộc" tụ lại, ví như giáp ất ở mùi, bính đinh ở tuất, mậu kỷ, nhâm quý ở thìn, canh tân ở sửu. Như giáp ất hợi nhiều mà có được mùi, chính là người có tài lộc dồi dào. "Hợp" là "lộc" bất ngờ, như giáp lộc ở dần mà có được hợi, gọi là "minh hợp"; không có dần mà có hợi gọi là "ám hợp", tuy rằng chẳng phải gặp "lộc", cũng gọi là gặp "lộc", thường chủ phúc đền tình cờ. "Củng" là "lộc" cao quý, như giáp lộc ở dần, không gặp dần mà gặp sửu, mão ở hai bên, gọi là "hư củng"; ví như người giáp (thay vì thân) gặp dần lại gặp sửu mão ở hai bên, gọi là "thật củng", tuy nhiên "củng thật" không bằng "củng hư", chủ đại phú quý.
Nói chung một người mệnh có lộc, có thể là tốt cũng có thể là xâu, có thể là sang cũng có thể là hèn, không thể hoàn toàn mương vào đó liền cho là tốt. "Thiên Ất Diệu Chỉ" cho rằng: "Vua không thấy, thì lộc, mã, quý nhân không nhất định được uỷ nhiệm, xem xét lỗi lầm của ngũ hành, "thiên nguyên" yếu đuối không hẳn là tai hoạ, địa khi kiên cố đủ vui sướng. "Nguyên Tuỷ Ca" cho rằng: "lộc mã còn nhiều điều để nói, nếu như suy, tử kể cả bại, tuyệt, nếu gặp lúc không có cát sát trợ giúp, nhất định phá nghiệp tổ thường trôi nổi, kém cỏi". Có thể thấy trước tiên luận ngũ hành, sau mới xem đến lộc, mã, ngũ hành cần phải sanh vượng, lộc mã sợ suy, tuyệt. Ty Mã Quý Chủ cho rằng: lộc nhiều mã ít khiến người mệt mõi; còn lộc ít mã nhiều có khả năng điều khiển giỏi.
论十干禄
禄,爵禄也,当得势而享,乃谓之禄。自始分十干、十二支时,便以甲乙配同寅卯、居东;丙丁配同巳午,居南;庚辛配同申酉,居酉;壬癸配同亥子,居北。十干就支神为禄,谓禄随旺行,所以甲禄寅,乙禄卯,庚禄申,辛禄酉,壬禄亥,癸禄子,丙禄已,丁禄午,戊寄已,已寄午,谓已午乃火旺之乡,子随母得禄之义。内有辰戍丑未,辰戌为魁罡,名曰边鄙恶地,禄元不寄;丑未乃天乙贵人出入之门,禄元避之,所以四宫无禄。又曰四季有杂气,为禄不专,故不取。
甲禄寅。如甲见丙寅,甲土克丙水为财,为福星禄;戊寅火土相生,为伏马禄,俱吉。庚寅谓之破禄,半吉半凶。壬寅谓之正禄,带截路空亡,必为僧道。甲寅谓之长生禄,大吉。
乙禄卯。见乙卯谓之喜神旺禄,主吉。丁卯为截路空亡,主凶。己卯,进神禄;辛卯,破禄,又为交神,半吉半凶。癸卯带太乙,死禄,虽贵终贫。
丙禄巳。见己巳,九天库禄,主吉。辛巳,截路空亡。癸巳,伏贵神禄,半吉半凶。乙巳,旺马禄。丁巳,库禄,俱吉。
丁禄午。见庚午,截路空亡,凶。壬午为德合禄,甲午为进神禄,俱凶。丙午为喜神禄,交羊刃,半吉。戊午,伏羊刃禄,多凶。
戊禄巳。见己巳,九天库禄,壬吉。,截路空亡。癸巳,贵神禄,戊癸化合,有官位重。乙巳,驿马同乡禄。丁巳,旺库禄,俱吉。
己禄午。见庚午,截路空亡。壬午,死鬼禄,俱凶。甲午,进神合禄,显达之象。丙午,喜神禄。戊午,伏神羊刃禄,凶。
庚禄申。见壬申,为大败禄。截路空亡禄,俱凶。丙申,大败禄,多成败。戊申,伏马禄,多滞,若值福星,贵吉。庚申,长生禄,大吉。
辛禄酉,见癸酉,伏神禄,水火相犯,凶。乙酉,破禄,成败。丁酉,空亡贵神禄,丁木受气,辛水沐浴,主奸淫事;值喜神,吉。己酉,进神禄。辛酉,正禄,俱吉。
壬禄亥,见丁亥,贵神合禄。乙亥,天德禄。己亥,旺禄;辛亥,同马乡禄,俱大吉。独癸亥,大败禄,贫薄。
癸禄子,见甲子,进神禄,主登科进达。丙子,交羊刃禄,带福星,贵有权。戊子,伏羊刃合贵禄,半吉。庚子,印禄,吉。壬子,正羊刃禄,凶。
有生成禄,甲乙人得甲寅、乙卯之类。
有名位禄,甲人见丙寅之类。
有真禄,甲人见丙或己,乙人见己或午之类,皆为贵格。
有进退真禄,戊辰见丁巳、戊午见丁巳,丙辰见癸巳、丙午见癸巳,癸亥见甲子、癸丑见甲子,壬戌见癸亥、壬子见癸亥,进则平易,退则艰难,更带福神,可作贵命,怕重见。
有禄值会合,甲禄寅而得庚戌之类。
有食神带禄,壬食甲而得甲寅,癸食乙而得乙卯,戊食庚而得庚申,己食辛而得辛酉,主吉。
有食神合禄,甲食丙得丙申、丙寅,乙食丁得丁未、丁卯,庚食壬得壬辰、壬子,辛食癸得癸巳、癸丑八位,俱主吉。
有禄头财,为缛煞,甲人见戊寅,乙人见乙卯之类,主人富有声望。
有禄头鬼,为赤口煞,甲人见庚寅,乙人见辛卯之类,主口舌刑责。
有旬中禄,甲申见庚寅、戊午见丁巳之类,主清华要职。
有天禄贵神,如丁人禄在午,遁至午上得丙字,而丙贵在酉亥,得辛酉、辛亥则辛贵,复见于午之类,入格极品。
有干支合禄,如甲禄寅,得甲寅,己亥,乙禄卯,得乙卯、庚戌之类,主官职崇重。
有互换贵禄,庚寅见甲申日时之类。
有朝元禄,如寅人见甲日时之类,或朝于胎中,尤贵。
有朝元夹合,如癸巳见戊辰、戊午,两戊与癸合夹巳,戊禄巳之类,主封爵。
有禄入禄堂,《理愚歌》云:"禄入禄堂须大拜",李虚中以甲人得甲戌,以甲为岁干,则甲之本位遁至戌,谓之禄堂。辛壬有二位,辛有辛卯、辛丑,壬有壬寅、壬子,五行无克,诸位相助,发福必大。
古人云:禄前二辰为背,禄后二辰为向。沈芝取建、向、近、合四字为贵,建不如向,近不如合,四字中得两字者,为贵。如甲禄寅,以寅为建,丑为向,卯为近,亥为合,余准此。余皆一位忌三合六合上见刑见鬼,以甲戌言,鬼在丑上,则可畏,以丑刑戌;在未则不忌,以戌刑未。以乙酉言,鬼在巳上为害,以三合相会在辰则减福,以六合相亲。
夫建禄者,主人肌厚气实,体格不清,一生安逸足财,利生旺;自然死绝则气浊神慢,孳孳为生,吝啬猥鄙。与元辰并,因樗蒲得财,复因此败。与官符并,因官门得财,或多争讼。与劫煞并,好贱技小商,不义横财。与天中并,多遗失破财。与禄鬼倒食并,多因赊贷牙侩得财,至死不通,惟财是念之人。又曰:库者,禄之聚,如甲乙在未,丙丁在戌,戊己壬癸在辰,庚辛在丑。如甲乙亥多而得未,乃禄厚丰足之人。合者,禄之横,如甲禄寅而得亥,谓之明合;无寅得亥,谓之暗合,
虽非见禄,亦曰见禄,多主傥来之福。拱者,禄之尊,如甲禄居寅,不见寅而见丑,卯在两傍,谓之虚拱;如申人见寅又见丑,卯在两傍拱之,谓之实拱,然拱实不若拱虚,主大富贵。
凡人命带禄,或吉或凶,或贵或贱,未可全靠便为吉论。《天乙妙旨》云:"君不见,禄马贵人无准托,考究五行之恶,天元羸弱未为灾,地气坚牢足欢乐。"《源髓歌》云:"禄马更有多般说,自衰自死兼败绝,若无吉煞加助时,定知破祖多浮劣。"可见先论五行,后看禄马,五行要生旺,禄马怕衰绝。司马季主云:禄多马少,使主神劳;禄少马多,能操善负。
.
Luận Thập Can Lộc
"Lộc": là "tước lộc", đang được quyền thế nên được hưởng, gọi là "lộc" - (lương bổng). Từ khi bắt đầu phân mười thiên can, mười hai địa chi: giáp ất phối cùng dần mão ở hướng đông; bính đinh phối cùng tỵ ngọ ở phương nam; canh thân phồi cùng thân dậu ở phương tây; nhâm quý phối cùng hợi tý ở phương bắc. Mười thiên can tựu với địa chi trở thành lộc, nghĩa là "lộc" đi theo nơi thịnh vượng, vì thế giáp lộc ở dần, ất lộc ở mão, canh lộc ở thân, tân lộc ở dậu, nhâm lộc ở hợi, quý lộc ở tý, bính lộc ở tỵ, đinh lộc ở ngọ, mậu gửi ở tỵ, ngọ gửi ở ngọ, nghĩa là tỵ ngọ chính là đất vượng của hoả, con theo mẹ mà được lộc. Trong có thìn tuất sửu mùi, thìn tuất là "khôi cương" danh gọi của "biên bỉ ác địa" - (đất xấu ở nơi xa xôi), lộc vốn không gửi đến đó; sửu mùi chính là cửa ra vào của "thiên ất quý nhân", lộc vốn là tránh xa, vì thế bốn cung này không có lộc. Lại nói "tứ quý" - (bốn tháng cuối mùa) có tạp khí, không phải nơi đặc biệt của lộc, cho nên không được dùng.
Giáp lộc ở dần. Như giáp thấy bính dần, giáp thổ khắc bính thuỷ (câu này khó hiểu) là tài, là "phúc tinh lộc"; mậu dần hoả thổ tương sanh là "phục mã lộc", tất cả đều tốt lành. Canh dần gọi là "phá lộc", nửa tốt nửa xấu. Nhâm dần gọi là "chánh lộc", mang thêm "triệt lộ không vong", nhất định là tăng đạo. Giáp dần gọi là "trường sanh lộc", rất tốt.
Ất lộc ở mão. Thấy ất mão gọi là "hỷ thần vượng lộc", chủ tốt. Đinh mão là "triệt lộ không vong", chủ xấu. Kỷ mão là "tiến thần lộc"; tân mão là "phá lộc", nửa tốt nửa xấu. Quý mão đới "thái ất" là "tử lộc", tuy là quý nhưng nghèo.
Bính lộc ở tỵ.Thấy kỷ tỵ là "cửu thiên khố lộc" - kho lộc ở chín phương trời, chủ tốt. Tân tỵ "tiệt lộ không vong". Quý tỵ "phục quý thần lộc", nửa tốt nửa xấu. Ất tỵ "vượng mã lộc", đinh tỵ "khố lộc", đều tốt.
Đinh lộc ở ngọ. Gặp canh ngọ "tiệt lộ không vong", xấu. Nhâm gọ là "đức hợp lộc", giáp ngọ là "tiến thần lộc" đều xấu. Bính ngọ là "hỷ thần lộc", cùng lúc có "dương nhận", nửa tốt. Mậu ngọ "phục dương nhận lộc" thường là xấu.
Mậu lộc ở tỵ. Gặp kỷ tỵ "cửu thiên khố lộc" - kho lộc ở chín phương trời, tốt. (Có lẽ là thiếu chữ tân tỵ) "tiệt lộ không vong". Quý tỵ "quý thần lộc", mậu quý hoá hợp có chức vị cao. Ất tỵ "dịch mã đồng hương lộc", đinh tỵ "vượng khố lộc" đều tốt.
Kỷ lộc ở ngọ. Gặp canh ngọ "tiệt lộ không vong". Nhâm ngọ "tử quỷ lộc", đều xấu. Giáp ngọ "tiến thần hợp lộc", tượng của thành tựu, có danh vọng vẻ vang. Bính ngọ, "hỷ thần lộc". Mậu ngọ "phục thần dương nhận lộc", xấu.
Canh lộc ở thân. Gặp nhâm thân là "đại bại lộc". (Có lẽ là thiếu chữ giáp thân) "tiệt lộ không vong lộc" đều xấu. Bính thân "đại bại lộc", thường thành công thất bại. Mậu thân "phục mã lộc" thường trì trệ, nếu gặp "phúc tinh", thì quý và tốt. Canh thân, trường sanh lộc rất là tốt.
Tân lộc ở dậu. Gặp quý dậu "phục thần lộc", thuỷ hoả xâm phạm nhau, xấu. Ất dậu, "phá lộc" thành công và thất bại. Đinh dậu "không vong quý thần lộc", đinh mộc thụ khí, tân thuỷ mộc dục, chủ về sự việc gian dâm; gặp hỷ thần thì tốt. Kỷ dậu "tiến thần lộc". Tân dậu "chánh lộc đều tốt.
Nhâm lộc ở hợi. Gặp đinh hợi, "quý thần hợp lộc". Ất hợi "thiên đức lộc". Kỷ hợi "vượng lộc"; tân hợi "đồng mã hương lộc", đều rất tốt. Chỉ quý hợi " đại bại lộc" chủ nghèo khổ.
Quý lộc ở tý. Gặp giáp tý "tiến thần lộc" chủ thi cử đỗ đạt, hiển quý. Bính tý cùng lúc có dương nhận với lộc, đới phúc tinh chủ quý lại có quyền. Mậu tý, "phục dương nhận hợp quý lộc", nửa tố. Canh tý, "ấn lộc" tốt. Nhâm tý, "chánh dương nhận lộc", xấu.
Có "sanh thành lộc": kiểu như người giáp ất được giáp dần, ất mão.
Có "danh vị lộc": kiểu như người giáp gặp bính dần.
Có "chân lộc": kiểu như người giáp gặp bính hoặc kỷ, người ất gặp kỷ hoặc ngọ, đều là cách quý.
Có "tiến thối chân lộc": mậu thìn gặp đinh tỵ, mậu ngọ gặp đinh tỵ, bính thìn gặp quý tỵ, bính ngọ gặp quý tỵ, quý hợi gặp giáp tý, quý sửu gặp giáp tý, nhâm tuất gặp quý hợi, nhâm tý gặp quý hợi. Tiến thì bình dị, thối thì gian nan, có đeo thêm cát thần, có thể là mệnh quý, sợ gặp lại nhiều lần.
Có "lộc trị hội hợp: kiểu như giáp lộc ở dần mà được canh tuất.
Có "thực thần đới lộc": như nhâm có thực thần là giáp mà được giáp dần, quý có thực thần là ất mà được ất mão, mậu Có thực thần là canh mà được canh thân, kỷ có thực thần là tân mà được tân dậu, chủ tốt lành.
Có "thực thần hợp lộc": có tám vị trí giáp có thực thần là bính được bính thân, bính dần; ất có thực thần là dinh được đinh mùi, đinh mão; canh có thực thần là nhâm được nhâm thìn, nhâm tý; tân có thực thần là quý được quý tỵ, quý sửu tất cả đều tốt.
Có "lộc đầu tài" là "nhục sát": kiểu như người giáp gặp mậu dần, người ất gặp kỷ mão, chủ là người giàu có và tiếng tăm, danh vong.
Có "lộc đầu quỷ" là "xích khẩu sát": kiểu như người giáp gặp canh dần, người ất gặp tân mão, chủ bị hình phạt khiển trách do ăn nói.
Có "tuần trung lộc": kiểu như giáp thân gặp canh dần, mậu ngọ gặp đinh tỵ, chủ "thanh hoa yếu chức".
Có "thiên lộc quý thần": như người đinh lộc ở ngọ, ẩn đến ngọ được chữ bính, mà bính thì "quý" ở dậu hợi, được tân đậu, tân hợi thì tân là quý, kiểu như lại gặp ở ngọ, hợp cách được chức quan cao nhất.
Có "can chi hợp lộc": kiểu như giáp lộc ở dần được giáp dần, kỷ hợi, ất lộc ở mão được ất mão, canh tuất, chủ có chức quan tôn kính.
Có "hỗ hoán quý lộc": kiểu như canh dần gặp ngày giờ giáp thân.
Có "triều nguyên lộc": kiểu như người dần gặp ngày giờ giáp, có thể hướng về trong thai, càng quý.
Có "triều nguyên giáp hợp": kiểu như quý tỵ gặp mậu thìn, mậu ngọ, cả hai mậu với quý hợp và giáp bên tỵ, do mậu lộc ở tỵ, chủ được phong tước vị.
Có "lộc nhập lộc đường", "Lý Ngu Ca" nói rằng: "lộc nhập lộc đường tu đại bái" - ý nghĩa người có lộc nhập lộc đường nên được trao chức lớn, Lý Hư Trung lấy người giáp được giáp tuất vì giáp là can của tuế, vị trí căn bản của giáp độn đến tuất, gọi là "lộc đường". Tan nhâm có hai vị trí: tân có tân mão, tân sửu, còn nhâm có nhâm dần nhâm tý, ngũ hành không gặp khắc, các vị trí khác trợ lực sẽ phát phúc rất to lớn.
Cổ nhân cho rằng: hai thần (chi) trước lộc là "bối", hai thần sau lộc là "hướng". Trầm Chi chọn bốn chữ "kiến", "hướng", "cận", "hợp" làm "quý", "kiến" thì không bằng "hướng", "cận" không bằng "hợp", trong bốn chữ được hai chữ là quý. Ví như giáp lộc ở dần, vì dần là "kiến", sửu là "hướng", mão là "cận" và hợi là "hợp", còn lại dựa theo điều này. Phần còn lại đều kỵ tam hợp, lục hợp vì gặp hình, gặp quỷ, lấy giáp tuất để nói: quỷ ở trên sửu nên lo ngại, vì sửu hình tuất; chớ ở mùi thì không kỵ, vì tuất hình mùi. Lấy ất dậu để nói, quỷ ở trên tỵ là hại, vì tam hợp hội nhau ở thìn sẽ giảm phúc, vì lục hợp tương thân.
"Kiến lộc": chủ là người có cơ bắp khoẻ mạnh, cường tráng, thân hình thô nặng, một đời yên vui an nhàn, tiền của đầy đủ, lợi sanh vượng; tự nhiên tử, tuyệt thì khí trọc tinh thần chậm chạp, siêng năng mưu sinh, bủn xỉn và xấu tính. Cùng hội với "nguyên thần": do trò chơi "sư bồ" mà được tiền của, cũng do đó mà thất bại - (đại ý là được mà cũng bị mất tiền của từ trò chơi đó). Cùng hội với "quan phù": do cửa quan mà được tài, có thể là thường tranh tụng, Cùng hội với "kiếp sát": thích buôn bán nhỏ, tiền của bất ngờ. Cùng hội với "thiên trung": thường mất mát tài sản. Cùng hội với "lộc quỷ đảo thực": thường do làm mối lái vay mượn mà được tiền của, đến chết cũng không thuận lợi, chỉ là người luôn nhớ nghĩ đến tiền. Lại nói rằng: "khố": là nợi "lộc" tụ lại, ví như giáp ất ở mùi, bính đinh ở tuất, mậu kỷ, nhâm quý ở thìn, canh tân ở sửu. Như giáp ất hợi nhiều mà có được mùi, chính là người có tài lộc dồi dào. "Hợp" là "lộc" bất ngờ, như giáp lộc ở dần mà có được hợi, gọi là "minh hợp"; không có dần mà có hợi gọi là "ám hợp", tuy rằng chẳng phải gặp "lộc", cũng gọi là gặp "lộc", thường chủ phúc đền tình cờ. "Củng" là "lộc" cao quý, như giáp lộc ở dần, không gặp dần mà gặp sửu, mão ở hai bên, gọi là "hư củng"; ví như người giáp (thay vì thân) gặp dần lại gặp sửu mão ở hai bên, gọi là "thật củng", tuy nhiên "củng thật" không bằng "củng hư", chủ đại phú quý.
Nói chung một người mệnh có lộc, có thể là tốt cũng có thể là xâu, có thể là sang cũng có thể là hèn, không thể hoàn toàn mương vào đó liền cho là tốt. "Thiên Ất Diệu Chỉ" cho rằng: "Vua không thấy, thì lộc, mã, quý nhân không nhất định được uỷ nhiệm, xem xét lỗi lầm của ngũ hành, "thiên nguyên" yếu đuối không hẳn là tai hoạ, địa khi kiên cố đủ vui sướng. "Nguyên Tuỷ Ca" cho rằng: "lộc mã còn nhiều điều để nói, nếu như suy, tử kể cả bại, tuyệt, nếu gặp lúc không có cát sát trợ giúp, nhất định phá nghiệp tổ thường trôi nổi, kém cỏi". Có thể thấy trước tiên luận ngũ hành, sau mới xem đến lộc, mã, ngũ hành cần phải sanh vượng, lộc mã sợ suy, tuyệt. Ty Mã Quý Chủ cho rằng: lộc nhiều mã ít khiến người mệt mõi; còn lộc ít mã nhiều có khả năng điều khiển giỏi.
论十干禄
禄,爵禄也,当得势而享,乃谓之禄。自始分十干、十二支时,便以甲乙配同寅卯、居东;丙丁配同巳午,居南;庚辛配同申酉,居酉;壬癸配同亥子,居北。十干就支神为禄,谓禄随旺行,所以甲禄寅,乙禄卯,庚禄申,辛禄酉,壬禄亥,癸禄子,丙禄已,丁禄午,戊寄已,已寄午,谓已午乃火旺之乡,子随母得禄之义。内有辰戍丑未,辰戌为魁罡,名曰边鄙恶地,禄元不寄;丑未乃天乙贵人出入之门,禄元避之,所以四宫无禄。又曰四季有杂气,为禄不专,故不取。
甲禄寅。如甲见丙寅,甲土克丙水为财,为福星禄;戊寅火土相生,为伏马禄,俱吉。庚寅谓之破禄,半吉半凶。壬寅谓之正禄,带截路空亡,必为僧道。甲寅谓之长生禄,大吉。
乙禄卯。见乙卯谓之喜神旺禄,主吉。丁卯为截路空亡,主凶。己卯,进神禄;辛卯,破禄,又为交神,半吉半凶。癸卯带太乙,死禄,虽贵终贫。
丙禄巳。见己巳,九天库禄,主吉。辛巳,截路空亡。癸巳,伏贵神禄,半吉半凶。乙巳,旺马禄。丁巳,库禄,俱吉。
丁禄午。见庚午,截路空亡,凶。壬午为德合禄,甲午为进神禄,俱凶。丙午为喜神禄,交羊刃,半吉。戊午,伏羊刃禄,多凶。
戊禄巳。见己巳,九天库禄,壬吉。,截路空亡。癸巳,贵神禄,戊癸化合,有官位重。乙巳,驿马同乡禄。丁巳,旺库禄,俱吉。
己禄午。见庚午,截路空亡。壬午,死鬼禄,俱凶。甲午,进神合禄,显达之象。丙午,喜神禄。戊午,伏神羊刃禄,凶。
庚禄申。见壬申,为大败禄。截路空亡禄,俱凶。丙申,大败禄,多成败。戊申,伏马禄,多滞,若值福星,贵吉。庚申,长生禄,大吉。
辛禄酉,见癸酉,伏神禄,水火相犯,凶。乙酉,破禄,成败。丁酉,空亡贵神禄,丁木受气,辛水沐浴,主奸淫事;值喜神,吉。己酉,进神禄。辛酉,正禄,俱吉。
壬禄亥,见丁亥,贵神合禄。乙亥,天德禄。己亥,旺禄;辛亥,同马乡禄,俱大吉。独癸亥,大败禄,贫薄。
癸禄子,见甲子,进神禄,主登科进达。丙子,交羊刃禄,带福星,贵有权。戊子,伏羊刃合贵禄,半吉。庚子,印禄,吉。壬子,正羊刃禄,凶。
有生成禄,甲乙人得甲寅、乙卯之类。
有名位禄,甲人见丙寅之类。
有真禄,甲人见丙或己,乙人见己或午之类,皆为贵格。
有进退真禄,戊辰见丁巳、戊午见丁巳,丙辰见癸巳、丙午见癸巳,癸亥见甲子、癸丑见甲子,壬戌见癸亥、壬子见癸亥,进则平易,退则艰难,更带福神,可作贵命,怕重见。
有禄值会合,甲禄寅而得庚戌之类。
有食神带禄,壬食甲而得甲寅,癸食乙而得乙卯,戊食庚而得庚申,己食辛而得辛酉,主吉。
有食神合禄,甲食丙得丙申、丙寅,乙食丁得丁未、丁卯,庚食壬得壬辰、壬子,辛食癸得癸巳、癸丑八位,俱主吉。
有禄头财,为缛煞,甲人见戊寅,乙人见乙卯之类,主人富有声望。
有禄头鬼,为赤口煞,甲人见庚寅,乙人见辛卯之类,主口舌刑责。
有旬中禄,甲申见庚寅、戊午见丁巳之类,主清华要职。
有天禄贵神,如丁人禄在午,遁至午上得丙字,而丙贵在酉亥,得辛酉、辛亥则辛贵,复见于午之类,入格极品。
有干支合禄,如甲禄寅,得甲寅,己亥,乙禄卯,得乙卯、庚戌之类,主官职崇重。
有互换贵禄,庚寅见甲申日时之类。
有朝元禄,如寅人见甲日时之类,或朝于胎中,尤贵。
有朝元夹合,如癸巳见戊辰、戊午,两戊与癸合夹巳,戊禄巳之类,主封爵。
有禄入禄堂,《理愚歌》云:"禄入禄堂须大拜",李虚中以甲人得甲戌,以甲为岁干,则甲之本位遁至戌,谓之禄堂。辛壬有二位,辛有辛卯、辛丑,壬有壬寅、壬子,五行无克,诸位相助,发福必大。
古人云:禄前二辰为背,禄后二辰为向。沈芝取建、向、近、合四字为贵,建不如向,近不如合,四字中得两字者,为贵。如甲禄寅,以寅为建,丑为向,卯为近,亥为合,余准此。余皆一位忌三合六合上见刑见鬼,以甲戌言,鬼在丑上,则可畏,以丑刑戌;在未则不忌,以戌刑未。以乙酉言,鬼在巳上为害,以三合相会在辰则减福,以六合相亲。
夫建禄者,主人肌厚气实,体格不清,一生安逸足财,利生旺;自然死绝则气浊神慢,孳孳为生,吝啬猥鄙。与元辰并,因樗蒲得财,复因此败。与官符并,因官门得财,或多争讼。与劫煞并,好贱技小商,不义横财。与天中并,多遗失破财。与禄鬼倒食并,多因赊贷牙侩得财,至死不通,惟财是念之人。又曰:库者,禄之聚,如甲乙在未,丙丁在戌,戊己壬癸在辰,庚辛在丑。如甲乙亥多而得未,乃禄厚丰足之人。合者,禄之横,如甲禄寅而得亥,谓之明合;无寅得亥,谓之暗合,
虽非见禄,亦曰见禄,多主傥来之福。拱者,禄之尊,如甲禄居寅,不见寅而见丑,卯在两傍,谓之虚拱;如申人见寅又见丑,卯在两傍拱之,谓之实拱,然拱实不若拱虚,主大富贵。
凡人命带禄,或吉或凶,或贵或贱,未可全靠便为吉论。《天乙妙旨》云:"君不见,禄马贵人无准托,考究五行之恶,天元羸弱未为灾,地气坚牢足欢乐。"《源髓歌》云:"禄马更有多般说,自衰自死兼败绝,若无吉煞加助时,定知破祖多浮劣。"可见先论五行,后看禄马,五行要生旺,禄马怕衰绝。司马季主云:禄多马少,使主神劳;禄少马多,能操善负。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#51
Gửi vào 27/06/2024 - 04:43
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Kim Dư
"Dư": là xe, "kim": nghĩa là quý, ví dụ người có tài đức đang làm quan được bổng lộc, có nhu cầu ngồi xe để đi lại. Cho nên "kim dư" thường ở trước lộc hai cung, như người giáp tý lộc ở dần, thìn là "kim dư". Thần sát này chính là cờ mao của lộc mệnh, "tiết việt"[1] của tam tài, bản tính ôn hoà, dáng vẽ thật thà, hành động nhu hoà, kiềm chế, phụ nữ gặp phải không giàu cũng sang; đàn ông gặp được nhiều thê thiếp, được âm phúc phù trì, ngày sanh, giờ sanh gặp đều tốt đẹp, cốt nhục một đời bình yên, thuận lợi, được thê thiếp đức hạnh, con đàng cháu đống. Ví như hoàng tộc thường đới thần sát này, còn người thường gặp cách này thân phận sanh tại nơi vô khí, chủ đi ở rễ. Tử Hư Cục cho rằng: "hai cung trước lộc hiệu là "kim dư", gặp điều này người có phúc rất dị thường. Chủ thông minh và thường được phú quý, một đời yên ổn thái bình không lo lắng.
1- 節 tiết: lễ nghi
1- 鉞 việt: Một loại vũ khí thời xưa, giống cái búa lớn, làm bằng kim loại, thường dùng trong lễ nghi, tượng trưng cho uy quyền của đế vương. Cũng dùng làm hình cụ.
论金舆
舆者,车也,金者,贵之义也,譬之君子居官得禄,须坐车以载之。故金舆常居禄前二辰,如甲子人禄在寅,辰为金舆是也。此煞乃禄命之旄旗,三才之节钺,主人性柔貌愿,举止温克,妇人逢之,不富即贵;男子得之,多妻妾,阴福相扶持,生日、生时遇之为佳,骨肉平生安泰,得贤妻妾,子孙茂盛。如皇族多带此煞,常格得之,身在无气中生,主作赘。紫虚局云:“禄前二辰号金舆,遇此之人福最殊。偏主聪明多富贵,一生清泰亦无虞。”
.
Luận Kim Dư
"Dư": là xe, "kim": nghĩa là quý, ví dụ người có tài đức đang làm quan được bổng lộc, có nhu cầu ngồi xe để đi lại. Cho nên "kim dư" thường ở trước lộc hai cung, như người giáp tý lộc ở dần, thìn là "kim dư". Thần sát này chính là cờ mao của lộc mệnh, "tiết việt"[1] của tam tài, bản tính ôn hoà, dáng vẽ thật thà, hành động nhu hoà, kiềm chế, phụ nữ gặp phải không giàu cũng sang; đàn ông gặp được nhiều thê thiếp, được âm phúc phù trì, ngày sanh, giờ sanh gặp đều tốt đẹp, cốt nhục một đời bình yên, thuận lợi, được thê thiếp đức hạnh, con đàng cháu đống. Ví như hoàng tộc thường đới thần sát này, còn người thường gặp cách này thân phận sanh tại nơi vô khí, chủ đi ở rễ. Tử Hư Cục cho rằng: "hai cung trước lộc hiệu là "kim dư", gặp điều này người có phúc rất dị thường. Chủ thông minh và thường được phú quý, một đời yên ổn thái bình không lo lắng.
1- 節 tiết: lễ nghi
1- 鉞 việt: Một loại vũ khí thời xưa, giống cái búa lớn, làm bằng kim loại, thường dùng trong lễ nghi, tượng trưng cho uy quyền của đế vương. Cũng dùng làm hình cụ.
论金舆
舆者,车也,金者,贵之义也,譬之君子居官得禄,须坐车以载之。故金舆常居禄前二辰,如甲子人禄在寅,辰为金舆是也。此煞乃禄命之旄旗,三才之节钺,主人性柔貌愿,举止温克,妇人逢之,不富即贵;男子得之,多妻妾,阴福相扶持,生日、生时遇之为佳,骨肉平生安泰,得贤妻妾,子孙茂盛。如皇族多带此煞,常格得之,身在无气中生,主作赘。紫虚局云:“禄前二辰号金舆,遇此之人福最殊。偏主聪明多富贵,一生清泰亦无虞。”
.
#52
Gửi vào 27/06/2024 - 06:02
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Dịch Mã
Cái gọi là "dịch mã" chính là số tiên thiên tam hợp. Theo tiên thiên dần số bảy, ngọ số chín, tuất số năm, hợp các số đó lại là hai mươi mốt, cho nên từ tý đếm thuận đến thân cả thảy là hai mươi mốt là "dịnh mã" của "hoả cục". Số của hợi mão mùi là bốn, sáu và tám cộng lại là mười tám, cho nên từ tý đếm thuận đến tỵ cả thảy là mười tám là "dịch mã" của "mộc cục". Mộc, hoả là dương cục, từ tý đi thuận theo chiều dương. Kim, thuỷ là âm cục, từ ngọ đi nghịch theo chiều âm, số của thân tý thìn là bảy, chín và năm cộng lại là hai mươi mốt, cho nên từ ngọ đi nghịch đến dần cả thảy hai mươi mốt là "dịch mã" của "thuỷ cục". Số của tỵ dậu sửu là bốn, sáu và tám cộng lại là mười tám, cho nên từ ngọ đến hợi cả thảy là mười tám là "dịch mã" của "kim cục". Đây là lý do của cách lập thành.
- Người dần ngọ tuất, mã ở thân nên cưởi lên năm can dương. Gặp giáp thân: mã của ngày triệt lộ không vong; bính thân: "đại bại" mã. Mậu thân: "phúc tinh phục mã". Canh thân: gặp "thiên quan mã"; nhâm thân: "đại bại" mã. Các mã trên đây ứng khởi ở năm tháng ngày giờ tỵ dậu sửu và thân.
- Người thân tý thìn mã ở dần nên cưởi lên năm can dương. Gặp giáp dần: "chánh lộc văn tinh" mã. Bính dần: "phúc tinh" mã. Mậu dần: phục mã. Canh dần: "phá lộc" mã. Nhâm dần: "tiệt lộ" mã. Các mã trên đây ứng khởi ở năm tháng ngày giờ hợi mão mùi và dần.
- Người tỵ dậu sửu mã ở hợi nên cưởi lên năm can âm. Gặp ất hợi: "thiên đức" mã, vì địa chi sanh thiên can trong mã, chìm dưới sông Mịch không thành công, chỉ có thông minh. Đinh hợi: "thiên ất" mã. Kỷ hợi: "vượng lộc" mã. Tân hợi: "chánh lộc" mã. Quý hợi: "đại bại" mã. Các mã trên đây ứng khởi ở năm tháng ngày giờ thân tý thìn và hợi.
- Người hợi mão mùi mã ở tỵ nên cưởi lên năm can âm. Gặp ất tỵ: "chánh lộc" mã. Đinh tỵ: "vượng khí" mã. Kỷ tỵ: "cửu thiên lộc khố" mã. Tân tỵ: "tiệt lộ" mã. Quý tỵ: "thiên ất" "phục" mã. Các mã trên đây ứng khởi ở năm tháng ngày giờ dần ngọ tuất và tỵ.
Nói chung mã trong trụ nếu không bị không vong, phá bại, giao thối phục thần đều là vinh hoa phú quý. Lộc cùng thiên ất quý thần ở cùng vị trí với mã, thêm các thần sát hội tụ, là quan nắm đại quyền, "quý cư lang miếu", trụ giờ quý nhất, trụ ngày quý trung bình, trụ tháng bình thường. "Khố mã": chủ vui mừng của tuổi trẻ, "vượng mã": giúp đỡ sự vẻ vang của tuổi tráng niên, "sanh mã": tuổi già mới được toại ý nhưng chức quan thấp và nhiệm sở ở xa, như mộc sanh ở hợi, vượng ở mão và khố ở mùi, Còn lại phỏng theo đó. Lạc Tử cho rằng: "sanh mã" chưa chắc là có mã, "bối lộc" chưa chắc là không có lộc. Xem vượng khố của nó chớ không hỏi "bối" hay "sanh". Điều huyền diệu ở "tiêu tức", doanh hư.
Lại nói: "dịch mã" là công dụng trong tam mệnh là thần của niềm vui việc mừng. Nếu người gặp được là quân tử thường sống ở vị trí giàu sang hiển đạt; là tiểu nhân chủ được cấp dưỡng dồi dào. Đại tiểu vận và niên vận đến đây, chủ niềm vui được chức quan cùng với thay đổi chức tước; tiểu vận cùng với lưu niên hợp "dịch mã" hội tụ chủ lên chức được bổng lộc, kiểu như người giáp tý "dịch mã" ở dần, tiểu vận cùng với thái tuế đến hợi, mà hợi với dần hợp.
Ngoài ra mã có mười hai loại:
- Một gọi là "khoản đoạn" - một món tiền: nghĩa là người tỵ dậu sửu được nhâm hợi, người hợi mão mùi được bính tỵ, người thân tý thìn được giáp dần, người dần ngọ tuất được mậu thân.
- Hai gọi là "quyết đề" - giẫm móng chân: nghĩa là tứ trụ tuy rằng đới "dịch mã" nhưng mà ngày sanh bị không vong.
- Ba gọi là "chiết túc" - gãy chân: nghĩa là "thai nguyệt" đới "dịch mã" nhưng mà ngày giờ là "mộc dục", thân tý thìn gặp dần là mã, là ba người cưởi một ngựa, nghĩa là "chiết túc". Như hợi mão mùi toàn gặp mã, thế nào cũng có quan quý, cuối cùng cũng thành thấp hèn. Nếu chỉ tọa ở một trụ, tuổi trẻ tuy thuận lợi, sau cũng trở thành nghèo khó.
- Bốn gọi là "vô lương" - không có thức ăn: nghĩa là ngày sanh gặp mã, mà mã lộc của thái tuế như người giáp tý được ngày nhâm dần nhưng trụ giờ bị không vong.
- Năm gọi là "bất xuất thính cứu" - không ra khỏi chuồng ngựa: nghĩa là "thai nguyệt" đới mã, không gặp quý cũng không gặp lộc đường và bị không vong.
- Sáu gọi là "tê phong" - hí gió.
- Bảy gọi là "xu đồ" - hướng theo con đường: nghĩa là dịch mã tuy có lộc, nhưng ở chỗ không vong.
- Tám gọi là "đà thi" - chở xác chết: mười hai "dịch mã chỉ có "đà thi" là rất xấu, gặp lộc tức là "thi" - xác chết. Trong tuần giáp tý, người tuổi tỵ dậu sửu mã ở hợi, người ất sửu là đinh hợi, người kỷ tỵ là ất hợi, người quý dậu là quý hợi. Người ất sửu được hợi mã, kỵ tháng ngày giờ dần; người kỷ tỵ được hợi mã kỵ tháng ngày giờ thân; người quý dậu được hợi mã cũng kỵ tháng ngày giờ dần, có một ở đó danh gọi là "đà thi". Cũng như hợi mão mùi trong tuần giáp ngọ, người ất mùi gặp tân tỵ, người kỷ hợi gặp kỷ tỵ, người quý mão gặp đinh tỵ. Người ất mùi được tỵ mã kỵ tháng ngày giờ dần; người kỷ hợi được tỵ mã kỵ tháng ngày giờ thân; người quý mão được tỵ mã cũng kỵ tháng ngày giờ dần, tất cả đều là "đà thi". Còn lại các tuần khác dựa theo đó.
- Chín gọi là "thực sô" - ăn rơm: nghĩa là "dịch mã" khắc với giờ, giả dụ lệnh tháng dịch mã thuộc kim mà giờ sanh là mộc, kiểu như thế gọi là "thực sô".
- Mười gọi là "thừa hiên" - cỗ xe: nghĩa là "thai nguyệt" và ngày sanh đới lộc mã, giả dụ lệnh người giáp thân được giờ canh dần, giáp dần cùng với thai nguyệt là "canh dần".
- Mười một gọi là "thừa diêu" - cỗ xe nhỏ: nghĩa là có thiên địa được hợp gặp "thái tuế", tháng ngày giờ sanh gặp "quý nhân", "dịch mã", giả dụ lện người tuổi đinh hợi tháng tư (ất tỵ) ngày nhâm dần giờ kỷ dậu: tháng có "mã", dậu là "quý nhân".
- Mười hai gọi là "vô bí" - không có dây cương: nghĩa là quý thần bị không vong, lộc thì ở tuyệt địa.
Mười hai "dịch mã" nói trên có ý báo trước tai hoạ và phúc đức sẽ tự nhiên đến: "khoản đoạn" thì cuộc đời sẽ trắc trở, chỉ làm người sai đi, "vô lương" không được ăn lộc trời, "bất xuất cứu" không có nhiệm sở rõ ràng, "chiết túc" sẽ luôn mất mát, "quyết đề" sẽ phát sinh trở lại, "vô bí" sẽ một đời nghèo khó không nơi nương tựa, "thực sô" sẽ được chức quan lục phẩm, "tê phong" chỉ có âm thanh yếu đuối, "xu đồ" phải làm việc lao khổ để tìm bổng lộc, "thừa diêu" sẽ được chức quan, "thừa hiên" sẽ được chức quan lớn (Tam công: Ba chức quan lớn nhất triều đình thời cổ Trung Hoa, gồm Thái Sư 太師, Thái Phó 太傅, Thái Bảo 太保.), "đà thi" sẽ mất ngay khi được chức quan.
- Có "can chi hợp mã": như thân tý thìn mã ở dần, giáp dần gặp kỷ hợi, hợp; bính dần gặp tân hợi, hợp, chủ quan chức cao được tôn quý.
- Có "mã đầu đới kiếm": nghĩa là "dịch mã" gặp canh tân hoặc nạp âm kim, chủ nổi tiếng ở biên cương.
- Có "mã sậu thiên đình" nghĩa là người mộc được hợi mà gặp tân hợi, lại thêm thiên can trên mã gặp được lộc, như người tuổi nhâm (có lẽ là mậu thay vì nhâm) ở dần ngọ tuất, độn giáp được mậu ngọ, mậu lộc ở tỵ, tỵ dính líu đến "thiên đình", lại gặp tỵ, được dậu hợp là đúng, chủ quan ở cực phẩm.
- Có "cửu địa mã" là hai cung ở phía sau mã, chủ chức tước ở gần vương đình.
- Có "thiên mã quý thần" chính là không gặp "dịch mã" trong năm, ngũ hổ độn đến mã xem được thiên can gì, thiên can đó gặp "thiên ất" mà thiên can là chỗ ngồi của thiên ất tức là lại gặp "quý" ở trên mã, quý không dưới tam phẩm.
- Có "nhất mộc hệ song mã" - một cây buộc vào cặp mã: dần ngọ tuất thường gặp bính thân, thân tý thìn thường gặp canh dần, tỵ dậu sửu thường gặp kỷ hợi, hợi mão mùi thường gặp quý tỵ. Thiên can trên mã khắc địa chi, chủ thường gặp kinh hiểm. Nếu gặp bốn mã trên trụ giờ hoặc trụ năm chủ được ban chức tước. Lại thêm người sanh dưới dịch mã mà can chi của tháng ngày giờ toàn được "ngự sách", đều khắc thân thì nhất định là quý. Trước mã một cung là "ngự", sau một cung là "sách". Giả như lệnh giáp tý mệnh kim, sanh tháng giêng (bính dần) ngày tân sửu giờ mão, vì người tý mã ở dần là gặp lộc, lại thêm mệnh tý cùng với ngày sanh là sửu ở sau mã là "sách", giờ mão ở trước mã là "ngự", lại thêm mã là bính dần hoả có thể khắc giáp tý kim, cho nên chủ quý.
- Có "dịch" có "mã" chủ cấp bậc đến tước "hầu". Thiên can là "mã", địa chi là "dịch", như người mậu tuất mã ở thân mà được canh thân, địa chi thiên can đều thuộc kim, đến thân là lâm quan, mậu tuất thiên can địa chi đều thuộc thổ, đến thân là trường sanh, mệnh vốn cùng với "dịch mã" thiên can địa chi "bối mã" hữu khí, là có dịch có mã. Lại như người nhâm ngọ "dịch mã" ở mậu thân, mậu thổ đến thân là trường sanh, mệnh vốn là nhâm thuỷ đến thân cũng là trường sanh, ngọ hoả đến thân là đất "suy', mệnh vốn là thiên can vượng địa chi suy, là "hữu mã vô dịch". Lại như người đinh sửu "dịch mã" ở tân hợi, kim đến hợi là đất "bệnh", mệnh vốn là đinh hoả đến hợi là "tuyệt", vì sửu thổ đến hợi là "lâm quan", mệnh vốn là thiên can suy địa chi vượng, thiên can "dịch mã" cũng suy, là "hữu dịch vô mã". Hoặc kiểu như dần ngọ tuất gặp canh không gặp thân, gặp thân không gặp canh, nghĩa là "hữu mã vô dịch", hữu dịch vô mã: cũng thông suốt.
- Có "mã khắc thân": lấy "dịch mã" có thể kkắc chế tháng sanh, như người dần ngọ tuất mã ở thân, thân thuộc kim có khả năng khắc chế tháng dần mão mộc, giả dụ lệnh người giáp tý sanh ở tháng thìn tuất sửu mùi, chủ dễ dàng tìm cầu quan lộc, quan trường không trở ngại, tuổi trẻ thuận lợi và khoáng đạt, làm quan thanh liêm và vinh hiển. Người thường găp phải cũng được "tiểu phú".
- Có "mã tài khố": lấy "dịch mã" nơi thần bị khắc nhập mộ, thí dụ như mã ở thân, thân thuộc kim mà kim khắc mộc, mộc đến mùi là mộ khố. Chủ một đời du lịch bốn phương, được rất nhiều của cải.
- Có "anh linh quán mã": chính là trường sanh của khí ngũ hành thật sự, dưới gặp "dịch mã", chủ là người phụ trách lo liệu bộ xem xét lễ nghi.
- Có "nam phương ly minh mã": nghĩa là mùi mã ở tỵ, sửu mã ở hợi, thìn mã ở dần, tuất mã ở thân, vị trì của thìn, tuất, sửu, mùi liên hệ đến thổ, là nơi sanh của mã, cho nên người thìn tuất sửu mùi phi nhanh ở ngọ, là mã của "nam phương ly môn", gặp trường hơp này, thích ngọ tương xung. Vì là phi mã, gặp "tiên sách nhập cách" - (cách roi quất ngựa), chủ quý.
- Có "dịch mã thanh trọc": giáp tý được bính dần là lộc mã đồng hương, lại thêm bính là "thực thần", cưởi "trường sanh mã". Đinh sửu được đinh hợi là "thiên ất" "thiên quan", cưởi "lâm quan mã". Nếu cưởi mã trường sanh, lâm quan, hoặc là mang theo khí chất của thực thần, lộc, sẽ là gặp một trong hàng trăm. Nếu cưởi ngựa bệnh, tuyệt hay không vong, thêm bị phá, bại, "giao thối phục thần", sẽ là gặp mà như không gặp, cho dù là quan cũng thô thiển dung tục thấp hèn, chẳng phải là chức vị quan trọng, rõ ràng.
Lại nói: đại khái xem xét "dịch mã có "tứ chuyên", "danh vị", "sanh vượng", "bệnh tuyệt", "trì bảo", "hàm hoa" cùng với "đảo thực hỗ hoán" không giống nhau, khoảng giửa tốt xấu hay vinh nhục đều ở "tuế vận", tỏ tường sự thúc giục, khuyến khích.
"Tứ chuyên": như là thân tý thìn mã ở dần, dần gặp giáp dần; thân gặp canh thân; tỵ gặp đinh tỵ; hợi gặp quý hợi.
"Danh vị": chính là gặp "thực thần' trong mã, kiểu như giáp gặp bính, ất gặp đinh, đúng là được thực thần trên mã vậy.
"Tứ sanh": là tân tỵ, giáp thân, kỷ hợi, bính dần vốn là chỗ sanh của nạp âm.
"Tứ bệnh": chính là chỗ tử, tuyệt như là nạp âm của năm thuộc kim, mà kim tuyệt ở dần.
"Trì bảo": chính là giáp tý gặp mậu dần, "mã đầu đới thiên tài"; hoặc là nạp âm khắc mã là tài, kiểu như "thực thần", như ngày giờ giáp dần gặp bính thân hay giáp thân gặp bính dần.
"Hàm hoa": chính là nạp âm "lâm quan" gặp mã, như là canh thân, nhâm tý, mậu thìn nạp âm đều là mộc, gặp dần đúng là nơi mã "lâm quan".
Lại thêm "sanh thành mã", "danh vị mã" cùng với luận bàn về lộc ở phần trên giống nhau, chủ quý.
Người thường gặp mã, mừng được "chuyên vượng" mà ngại bị không vong, hổn tạp thì không phát đạt; ghét tử, tuyệt mà thích gặp "thực thần", gặp tài thì có lợi ích. Nhà buôn thường thích "trì bảo", còn phụ nữ rất sợ "hàm hoa"; "trì bảo" thì giàu, còn "hàm hoa" thì dâm, "hàm hoa" càng kỵ người mộc gặp canh dần, ất hợi gặp ất tỵ, đinh mão gặp đinh tỵ, kỷ mùi gặp kỷ tỵ càng nặng, đàn ông thường dâm đãng, phụ nữ thường tư tình, người gặp trong vận đoán giống như trên.
Lại nói: "dịch mã" rất sợ can thần "đảo thực"như ất dậu gặp quý hợi là "dịch mã" tức bị ăn ngược lại mình, gọi là ất với quý không cùng đẳng cấp. Khuyến khích xem xét trao đổi với nhau, như người thìn mã ở dần, hoặc là thái tuế ở thân xung động dần tức thái tuế khuyến khích, hay tiểu vận ở thân tức là tiểu vận khuyến khích, thường tạo thành cục lợi cho mình. Xem xét thêm thân với dần trao đổi với nhau như thế nào, kiểu như canh thân gặp giáp dần, canh thân thuộc mộc, dần là "lâm quan"; giáp dần thuộc thuỷ, thân là nơi "trường sanh", hoà hợp với nhau thì tốt, khắc với nhau thì trì trệ. Như hai bên trao đổi với nhau nếu vô khí thì trống rỗng; hoặc thất ý có khí lực thì ứng vào tài. "Tứ mã triều nguyên" - (bốn mã hướng về người đứng đầu): tốt thì giàu sang vẻ vang, xấu thì phá tan nhà cửa, tổ nghiệp, như là tăng đạo tốt chân đi khắp nơi. Trẻ nhỏ, người già gặp mã không có lợi ích, trè nhỏ trước mười hai tuổi, trên ba tuổi có thể mã gặp tiểu vận, thái tuế xung hoặc là "lâm quan" mã, gặp nhiều chủ bệnh kinh sợ, hay tai nạn té ngã. Người già năm mươi tuổi trở lên hoặc là vận cùng với thái tuế cưởi mã, chủ khí hư mà đau thắt lưng, bệnh đau chân, cũng như người già gặp lộc thường nôn ói khi ăn. Người trẻ gặp phải thường phát bệnh, bởi người già hay người trẻ đều không thể cưởi được ngựa, vì mã trong ngũ hành là thần chuyển động háo hức.
论驿马
所谓驿马者,乃先天三合数也,先天寅七、午九、戌五,合数二十有一,故自子顺至申,凡二十有一而为火局之驿马。亥卯未之数,四、六与八合为十八,故自子顺至巳,凡十八而为木局之驿马。木、火,阳局也,从子一阳顺行。金、水、阴局也,从午一阴逆行,甲子辰之数,七、九与五合,为二十有一,故自午逆至寅,凡二十有一,而为水局之驿马。巳酉丑之数,四、六与八合为十八,故自午至亥,凡十有八,而为金局之驿马。此法之所由立也。
寅午戌生人,马在申而五阳干乘之。见甲申,截路空日马;丙申,大败马。戊申,福星伏马。庚申,逢天关马;壬申,大败马。以上巳酉丑申年月日时发应。
申子辰人,马在寅而五阳干乘之。见甲寅,正禄文星马。丙寅,福星马。戊寅,伏马。庚寅,破禄马。壬寅,截路马。以上亥卯未寅年月日时发应。
巳酉丑人,马在亥而五阴干乘之。见乙亥,天德马,以马中支生干,汨没无成,徒自聪明。丁亥,天乙马。己亥,旺禄马。辛亥,正禄马。癸亥,大败马。以上申子辰亥年月日时发应。
亥卯未人,马在巳而五阴干乘之。见乙巳,正禄马。丁己,旺气马。己已,九天禄库马。辛巳,截路马。癸巳,天乙伏马。以上寅午戌巳年月日时发应。
凡柱中马,若不值空亡、破败、交退、伏神,须荣贵。互禄共天乙贵神,同其马位,更得诸煞相并,官秉大权,贵居廊庙,时为上贵,日为中贵,月为常庶。库马主少年之喜,旺马资壮岁之荣,生马老方得遂而官卑任远矣,如木生亥旺卯库未。余仿此。珞子云:生马未必有马,背禄未必无禄。看其旺库,不问背生。妙在消息盈虚也。
又曰:驿马者,三命中发用,喜庆之神。若人遇之,君子常居荣位,小人主丰赡。大小运行年至此,主得官及迁改之喜;小运及行年合驿马,并主迁官得禄,如甲子人驿马在寅,小运及太岁至亥,亥与寅合之类是也。
又马有十二:
一曰款段,谓巳酉丑人得壬亥,亥卯未人得丙巳,申子辰人得甲寅,寅午戌人得戊申。
二曰蹶蹄,谓四柱虽带驿马而生日值空亡之神。
三曰折足,谓胎月带驿马而日时带沐浴者是,申子辰全见寅为马,是三人骑一马,谓之折足。若亥卯未全见马,总有官贵,终成下贱。若一辰坐者,少年虽泰,后还穷。
四曰无粮,谓生日值马,马食太岁,如甲子人得壬寅日而时更落在空亡者是。
五曰不出厅厩,谓胎月带马,不见贵及不见禄堂及入空亡者是。
六曰嘶风。
七曰趋途,谓驿马虽有禄,在空亡。
八曰驮尸,十二驿马惟驮尸最凶,见禄即尸。甲子旬中,巳酉丑生人马在亥,乙丑人丁亥,己巳人乙亥,癸酉人癸亥。乙丑人得亥马,忌寅月日时;己巳人得亥马,忌申月日时;癸酉人得亥马,亦忌寅月日时,有一在此,名曰驮尸。亦如亥卯未是甲午旬中,乙未人辛巳,己亥人己巳,癸卯人丁巳。乙未人得已马,忌寅月日时;己亥人得巳马,忌申月日时;癸卯人得巳马,亦忌寅月日时,皆驮尸也。余旬准此。
九曰食刍,谓驿马克其时,假令驿马属金,生时得木,此类谓之食刍。
十曰乘轩,谓胎月生日带禄马,假令甲申人得庚寅甲寅时及庚寅胎月是。
十一曰乘轺,谓有天地得合见太岁,生月日时见贵人驿马,假令丁亥生人四月壬寅日己酉时,月坐马,酉系贵人是。
十二曰无辔,谓贵神空亡,禄在绝乡者是。
以上十二驿马,当以意消息,灾福自见,款段则平生坎坷,止作选人,无粮不食天俸,不出厩则不历任所,折足则永失,蹶蹄则复起,无辔则一生孤寒,食刍则官可六品,嘶风徒有虚声,趋途漫劳求禄,乘轺则带职,乘轩则三公,驮尸则得官即亡。
有干支合马,如申子辰四马在寅,甲寅见己亥,合;丙寅见辛亥,合,主官职崇重。
有马头带剑,谓驿马上见庚辛或纳音,见金,主名振边疆。
有马骤天庭,谓木人得亥而见辛亥,又马上干逢得禄,如六壬人生,居寅午戌之位,于甲上遁得戊午,戊之禄在巳,巳系天庭,复见巳,得酉合之为是,主官居极品。
有马后二辰为九地马,主职近王廷。
有天马贵神,乃岁中不见驿,五虎遁至马上,看得何干,其干见天乙,而天乙所坐之干却复见贵于马上是也,贵不下三品。
有一木系双马,寅午戌多见丙申,申子辰多见庚寅,巳酉丑多见己亥,亥卯未多见癸巳。马上干克支,主多惊险。若遇四马聚于时或年上,主封爵。又驿马下生人,月日时支干得御策全,并克身者定贵。马前一辰为御,后一辰为策。假令甲子金命,正月辛丑日卯时生,以子人马在寅逢禄,又本命子与生日丑在马后为策,卯时在马前为御,又马是丙寅,火能克甲子金,故主贵。
有驿有马者,主位至侯。干为马,支为驿,如戊戌人马在申而得庚申,支干俱属金,到申临官,戊戌支干俱属土,到申长生,本命及驿马支干背马有气,是有驿有马。又如壬午人驿马在戊申,戊土临申长生,本命壬水到申亦长生,午火到申为衰乡,本命干旺支衰,是有马无驿。又如丁丑人驿马在辛亥,金临亥为病乡,本命丁火到亥为绝,以丑土到亥为临官,本命干衰支旺,驿马干亦衰,是有驿无马。或以寅午戌见庚无申、见申无庚之类,为有马无驿,有驿无马亦通。
有马克身者,取驿马之辰能制生月,如寅午戌人马在申,申属金,能制寅卯月木,假令甲子人在辰戌丑未月生是也,主官禄易求,仕宦无滞,少年亨快,为官清显。常人遇之,小富。有马财库,取驿马所克之辰入墓,如马在申,申属金,金克木,木至未为库之例。主平生游历四方,广得资财。
有英灵贯马,乃五行真气之长生,下遇驿马,主持节按部之使。
有南方离明马,谓未马已,丑马亥,辰马寅,戌马申,辰戌丑未系土之位,以生处为马,故辰戌丑未人飞在午,为南方离门之马,遇此者,爱于午相冲。为飞马,见鞭策入格,主贵。
有驿马清浊,甲子得丙寅,禄马同乡,又丙为食神,乘长生马。丁丑得丁亥,为天乙天官,乘临官马。若乘长生临官马,或带食禄贵气,则遇一当百。若乘病绝空亡马,更值破败、交退、伏神,则遇而不遇,纵为官,粗浊卑贱,非清要之职。
又曰:凡看驿马有四专、名位、生旺、病绝、驰宝、衔花及倒食互换不同,中间好恶荣辱,须于岁运、鞭策细详之。
四专者,如申子辰马在寅,寅逢甲寅,申遇庚申,巳逢丁巳,亥遇癸亥是也。
名位者,乃马中逢食神,如甲见丙,乙见丁之类,马上得食是也。
四生者,辛巳、甲申、己亥、丙寅纳音自生也。
四病乃自死自绝,如年纳音属金,金绝在寅是也。
驰宝者,乃甲子见戊寅,马头带天财;或纳音克马为财,如食神之类,如甲寅人见丙申、甲申见丙寅日时是也。
衔花者,乃纳音临官遇马,如庚申、壬子、戊辰纳音皆木,遇寅,马临官之地是也。
又生成马、名位马与前论禄同,主贵。
凡人遇马,喜专旺而嫌空亡,驳杂为不达;恶死绝而喜逢食,见财为有益。商贾多爱驰宝,妇女最怕衔花;驰宝则富,衔花则淫,衔花更忌木人值庚寅,乙亥见乙巳、丁卯见丁巳、己未见己巳,尤重,男多淫荡,女多私情,运中遇者同前断。
又曰:驿马最怕干神倒食,如乙酉见癸亥,为驿马,却被反食于我,所谓乙癸不同科是也。鞭策发时看互换,如辰人马在寅,或太岁在申冲动寅,即太岁为鞭策,小运在申,即小运为鞭策,多主动。更看申与寅互换如何,如庚申遇甲寅,庚申属木,寅则临官;甲寅属水,申则长生之类,相和则吉,相克则滞。如两互换,无气则空动;或失意有气,即主财。四马朝元,好则荣贵,恶则破家失业,如为僧道,好游脚。小儿老人不利见马,小儿十二岁以前、三岁以上,或马遇小运、太岁冲或临官马,遇多,主惊病颠仆之厄。老人五十以上,或运与太岁乘之,主气虚腰痛、脚痛之患,亦如老人禄遇,病多吐食之类。少者见之、多发病,盖老少并不堪乘马,以马在五行中为动跃之神故也。
.
Luận Dịch Mã
Cái gọi là "dịch mã" chính là số tiên thiên tam hợp. Theo tiên thiên dần số bảy, ngọ số chín, tuất số năm, hợp các số đó lại là hai mươi mốt, cho nên từ tý đếm thuận đến thân cả thảy là hai mươi mốt là "dịnh mã" của "hoả cục". Số của hợi mão mùi là bốn, sáu và tám cộng lại là mười tám, cho nên từ tý đếm thuận đến tỵ cả thảy là mười tám là "dịch mã" của "mộc cục". Mộc, hoả là dương cục, từ tý đi thuận theo chiều dương. Kim, thuỷ là âm cục, từ ngọ đi nghịch theo chiều âm, số của thân tý thìn là bảy, chín và năm cộng lại là hai mươi mốt, cho nên từ ngọ đi nghịch đến dần cả thảy hai mươi mốt là "dịch mã" của "thuỷ cục". Số của tỵ dậu sửu là bốn, sáu và tám cộng lại là mười tám, cho nên từ ngọ đến hợi cả thảy là mười tám là "dịch mã" của "kim cục". Đây là lý do của cách lập thành.
- Người dần ngọ tuất, mã ở thân nên cưởi lên năm can dương. Gặp giáp thân: mã của ngày triệt lộ không vong; bính thân: "đại bại" mã. Mậu thân: "phúc tinh phục mã". Canh thân: gặp "thiên quan mã"; nhâm thân: "đại bại" mã. Các mã trên đây ứng khởi ở năm tháng ngày giờ tỵ dậu sửu và thân.
- Người thân tý thìn mã ở dần nên cưởi lên năm can dương. Gặp giáp dần: "chánh lộc văn tinh" mã. Bính dần: "phúc tinh" mã. Mậu dần: phục mã. Canh dần: "phá lộc" mã. Nhâm dần: "tiệt lộ" mã. Các mã trên đây ứng khởi ở năm tháng ngày giờ hợi mão mùi và dần.
- Người tỵ dậu sửu mã ở hợi nên cưởi lên năm can âm. Gặp ất hợi: "thiên đức" mã, vì địa chi sanh thiên can trong mã, chìm dưới sông Mịch không thành công, chỉ có thông minh. Đinh hợi: "thiên ất" mã. Kỷ hợi: "vượng lộc" mã. Tân hợi: "chánh lộc" mã. Quý hợi: "đại bại" mã. Các mã trên đây ứng khởi ở năm tháng ngày giờ thân tý thìn và hợi.
- Người hợi mão mùi mã ở tỵ nên cưởi lên năm can âm. Gặp ất tỵ: "chánh lộc" mã. Đinh tỵ: "vượng khí" mã. Kỷ tỵ: "cửu thiên lộc khố" mã. Tân tỵ: "tiệt lộ" mã. Quý tỵ: "thiên ất" "phục" mã. Các mã trên đây ứng khởi ở năm tháng ngày giờ dần ngọ tuất và tỵ.
Nói chung mã trong trụ nếu không bị không vong, phá bại, giao thối phục thần đều là vinh hoa phú quý. Lộc cùng thiên ất quý thần ở cùng vị trí với mã, thêm các thần sát hội tụ, là quan nắm đại quyền, "quý cư lang miếu", trụ giờ quý nhất, trụ ngày quý trung bình, trụ tháng bình thường. "Khố mã": chủ vui mừng của tuổi trẻ, "vượng mã": giúp đỡ sự vẻ vang của tuổi tráng niên, "sanh mã": tuổi già mới được toại ý nhưng chức quan thấp và nhiệm sở ở xa, như mộc sanh ở hợi, vượng ở mão và khố ở mùi, Còn lại phỏng theo đó. Lạc Tử cho rằng: "sanh mã" chưa chắc là có mã, "bối lộc" chưa chắc là không có lộc. Xem vượng khố của nó chớ không hỏi "bối" hay "sanh". Điều huyền diệu ở "tiêu tức", doanh hư.
Lại nói: "dịch mã" là công dụng trong tam mệnh là thần của niềm vui việc mừng. Nếu người gặp được là quân tử thường sống ở vị trí giàu sang hiển đạt; là tiểu nhân chủ được cấp dưỡng dồi dào. Đại tiểu vận và niên vận đến đây, chủ niềm vui được chức quan cùng với thay đổi chức tước; tiểu vận cùng với lưu niên hợp "dịch mã" hội tụ chủ lên chức được bổng lộc, kiểu như người giáp tý "dịch mã" ở dần, tiểu vận cùng với thái tuế đến hợi, mà hợi với dần hợp.
Ngoài ra mã có mười hai loại:
- Một gọi là "khoản đoạn" - một món tiền: nghĩa là người tỵ dậu sửu được nhâm hợi, người hợi mão mùi được bính tỵ, người thân tý thìn được giáp dần, người dần ngọ tuất được mậu thân.
- Hai gọi là "quyết đề" - giẫm móng chân: nghĩa là tứ trụ tuy rằng đới "dịch mã" nhưng mà ngày sanh bị không vong.
- Ba gọi là "chiết túc" - gãy chân: nghĩa là "thai nguyệt" đới "dịch mã" nhưng mà ngày giờ là "mộc dục", thân tý thìn gặp dần là mã, là ba người cưởi một ngựa, nghĩa là "chiết túc". Như hợi mão mùi toàn gặp mã, thế nào cũng có quan quý, cuối cùng cũng thành thấp hèn. Nếu chỉ tọa ở một trụ, tuổi trẻ tuy thuận lợi, sau cũng trở thành nghèo khó.
- Bốn gọi là "vô lương" - không có thức ăn: nghĩa là ngày sanh gặp mã, mà mã lộc của thái tuế như người giáp tý được ngày nhâm dần nhưng trụ giờ bị không vong.
- Năm gọi là "bất xuất thính cứu" - không ra khỏi chuồng ngựa: nghĩa là "thai nguyệt" đới mã, không gặp quý cũng không gặp lộc đường và bị không vong.
- Sáu gọi là "tê phong" - hí gió.
- Bảy gọi là "xu đồ" - hướng theo con đường: nghĩa là dịch mã tuy có lộc, nhưng ở chỗ không vong.
- Tám gọi là "đà thi" - chở xác chết: mười hai "dịch mã chỉ có "đà thi" là rất xấu, gặp lộc tức là "thi" - xác chết. Trong tuần giáp tý, người tuổi tỵ dậu sửu mã ở hợi, người ất sửu là đinh hợi, người kỷ tỵ là ất hợi, người quý dậu là quý hợi. Người ất sửu được hợi mã, kỵ tháng ngày giờ dần; người kỷ tỵ được hợi mã kỵ tháng ngày giờ thân; người quý dậu được hợi mã cũng kỵ tháng ngày giờ dần, có một ở đó danh gọi là "đà thi". Cũng như hợi mão mùi trong tuần giáp ngọ, người ất mùi gặp tân tỵ, người kỷ hợi gặp kỷ tỵ, người quý mão gặp đinh tỵ. Người ất mùi được tỵ mã kỵ tháng ngày giờ dần; người kỷ hợi được tỵ mã kỵ tháng ngày giờ thân; người quý mão được tỵ mã cũng kỵ tháng ngày giờ dần, tất cả đều là "đà thi". Còn lại các tuần khác dựa theo đó.
- Chín gọi là "thực sô" - ăn rơm: nghĩa là "dịch mã" khắc với giờ, giả dụ lệnh tháng dịch mã thuộc kim mà giờ sanh là mộc, kiểu như thế gọi là "thực sô".
- Mười gọi là "thừa hiên" - cỗ xe: nghĩa là "thai nguyệt" và ngày sanh đới lộc mã, giả dụ lệnh người giáp thân được giờ canh dần, giáp dần cùng với thai nguyệt là "canh dần".
- Mười một gọi là "thừa diêu" - cỗ xe nhỏ: nghĩa là có thiên địa được hợp gặp "thái tuế", tháng ngày giờ sanh gặp "quý nhân", "dịch mã", giả dụ lện người tuổi đinh hợi tháng tư (ất tỵ) ngày nhâm dần giờ kỷ dậu: tháng có "mã", dậu là "quý nhân".
- Mười hai gọi là "vô bí" - không có dây cương: nghĩa là quý thần bị không vong, lộc thì ở tuyệt địa.
Mười hai "dịch mã" nói trên có ý báo trước tai hoạ và phúc đức sẽ tự nhiên đến: "khoản đoạn" thì cuộc đời sẽ trắc trở, chỉ làm người sai đi, "vô lương" không được ăn lộc trời, "bất xuất cứu" không có nhiệm sở rõ ràng, "chiết túc" sẽ luôn mất mát, "quyết đề" sẽ phát sinh trở lại, "vô bí" sẽ một đời nghèo khó không nơi nương tựa, "thực sô" sẽ được chức quan lục phẩm, "tê phong" chỉ có âm thanh yếu đuối, "xu đồ" phải làm việc lao khổ để tìm bổng lộc, "thừa diêu" sẽ được chức quan, "thừa hiên" sẽ được chức quan lớn (Tam công: Ba chức quan lớn nhất triều đình thời cổ Trung Hoa, gồm Thái Sư 太師, Thái Phó 太傅, Thái Bảo 太保.), "đà thi" sẽ mất ngay khi được chức quan.
- Có "can chi hợp mã": như thân tý thìn mã ở dần, giáp dần gặp kỷ hợi, hợp; bính dần gặp tân hợi, hợp, chủ quan chức cao được tôn quý.
- Có "mã đầu đới kiếm": nghĩa là "dịch mã" gặp canh tân hoặc nạp âm kim, chủ nổi tiếng ở biên cương.
- Có "mã sậu thiên đình" nghĩa là người mộc được hợi mà gặp tân hợi, lại thêm thiên can trên mã gặp được lộc, như người tuổi nhâm (có lẽ là mậu thay vì nhâm) ở dần ngọ tuất, độn giáp được mậu ngọ, mậu lộc ở tỵ, tỵ dính líu đến "thiên đình", lại gặp tỵ, được dậu hợp là đúng, chủ quan ở cực phẩm.
- Có "cửu địa mã" là hai cung ở phía sau mã, chủ chức tước ở gần vương đình.
- Có "thiên mã quý thần" chính là không gặp "dịch mã" trong năm, ngũ hổ độn đến mã xem được thiên can gì, thiên can đó gặp "thiên ất" mà thiên can là chỗ ngồi của thiên ất tức là lại gặp "quý" ở trên mã, quý không dưới tam phẩm.
- Có "nhất mộc hệ song mã" - một cây buộc vào cặp mã: dần ngọ tuất thường gặp bính thân, thân tý thìn thường gặp canh dần, tỵ dậu sửu thường gặp kỷ hợi, hợi mão mùi thường gặp quý tỵ. Thiên can trên mã khắc địa chi, chủ thường gặp kinh hiểm. Nếu gặp bốn mã trên trụ giờ hoặc trụ năm chủ được ban chức tước. Lại thêm người sanh dưới dịch mã mà can chi của tháng ngày giờ toàn được "ngự sách", đều khắc thân thì nhất định là quý. Trước mã một cung là "ngự", sau một cung là "sách". Giả như lệnh giáp tý mệnh kim, sanh tháng giêng (bính dần) ngày tân sửu giờ mão, vì người tý mã ở dần là gặp lộc, lại thêm mệnh tý cùng với ngày sanh là sửu ở sau mã là "sách", giờ mão ở trước mã là "ngự", lại thêm mã là bính dần hoả có thể khắc giáp tý kim, cho nên chủ quý.
- Có "dịch" có "mã" chủ cấp bậc đến tước "hầu". Thiên can là "mã", địa chi là "dịch", như người mậu tuất mã ở thân mà được canh thân, địa chi thiên can đều thuộc kim, đến thân là lâm quan, mậu tuất thiên can địa chi đều thuộc thổ, đến thân là trường sanh, mệnh vốn cùng với "dịch mã" thiên can địa chi "bối mã" hữu khí, là có dịch có mã. Lại như người nhâm ngọ "dịch mã" ở mậu thân, mậu thổ đến thân là trường sanh, mệnh vốn là nhâm thuỷ đến thân cũng là trường sanh, ngọ hoả đến thân là đất "suy', mệnh vốn là thiên can vượng địa chi suy, là "hữu mã vô dịch". Lại như người đinh sửu "dịch mã" ở tân hợi, kim đến hợi là đất "bệnh", mệnh vốn là đinh hoả đến hợi là "tuyệt", vì sửu thổ đến hợi là "lâm quan", mệnh vốn là thiên can suy địa chi vượng, thiên can "dịch mã" cũng suy, là "hữu dịch vô mã". Hoặc kiểu như dần ngọ tuất gặp canh không gặp thân, gặp thân không gặp canh, nghĩa là "hữu mã vô dịch", hữu dịch vô mã: cũng thông suốt.
- Có "mã khắc thân": lấy "dịch mã" có thể kkắc chế tháng sanh, như người dần ngọ tuất mã ở thân, thân thuộc kim có khả năng khắc chế tháng dần mão mộc, giả dụ lệnh người giáp tý sanh ở tháng thìn tuất sửu mùi, chủ dễ dàng tìm cầu quan lộc, quan trường không trở ngại, tuổi trẻ thuận lợi và khoáng đạt, làm quan thanh liêm và vinh hiển. Người thường găp phải cũng được "tiểu phú".
- Có "mã tài khố": lấy "dịch mã" nơi thần bị khắc nhập mộ, thí dụ như mã ở thân, thân thuộc kim mà kim khắc mộc, mộc đến mùi là mộ khố. Chủ một đời du lịch bốn phương, được rất nhiều của cải.
- Có "anh linh quán mã": chính là trường sanh của khí ngũ hành thật sự, dưới gặp "dịch mã", chủ là người phụ trách lo liệu bộ xem xét lễ nghi.
- Có "nam phương ly minh mã": nghĩa là mùi mã ở tỵ, sửu mã ở hợi, thìn mã ở dần, tuất mã ở thân, vị trì của thìn, tuất, sửu, mùi liên hệ đến thổ, là nơi sanh của mã, cho nên người thìn tuất sửu mùi phi nhanh ở ngọ, là mã của "nam phương ly môn", gặp trường hơp này, thích ngọ tương xung. Vì là phi mã, gặp "tiên sách nhập cách" - (cách roi quất ngựa), chủ quý.
- Có "dịch mã thanh trọc": giáp tý được bính dần là lộc mã đồng hương, lại thêm bính là "thực thần", cưởi "trường sanh mã". Đinh sửu được đinh hợi là "thiên ất" "thiên quan", cưởi "lâm quan mã". Nếu cưởi mã trường sanh, lâm quan, hoặc là mang theo khí chất của thực thần, lộc, sẽ là gặp một trong hàng trăm. Nếu cưởi ngựa bệnh, tuyệt hay không vong, thêm bị phá, bại, "giao thối phục thần", sẽ là gặp mà như không gặp, cho dù là quan cũng thô thiển dung tục thấp hèn, chẳng phải là chức vị quan trọng, rõ ràng.
Lại nói: đại khái xem xét "dịch mã có "tứ chuyên", "danh vị", "sanh vượng", "bệnh tuyệt", "trì bảo", "hàm hoa" cùng với "đảo thực hỗ hoán" không giống nhau, khoảng giửa tốt xấu hay vinh nhục đều ở "tuế vận", tỏ tường sự thúc giục, khuyến khích.
"Tứ chuyên": như là thân tý thìn mã ở dần, dần gặp giáp dần; thân gặp canh thân; tỵ gặp đinh tỵ; hợi gặp quý hợi.
"Danh vị": chính là gặp "thực thần' trong mã, kiểu như giáp gặp bính, ất gặp đinh, đúng là được thực thần trên mã vậy.
"Tứ sanh": là tân tỵ, giáp thân, kỷ hợi, bính dần vốn là chỗ sanh của nạp âm.
"Tứ bệnh": chính là chỗ tử, tuyệt như là nạp âm của năm thuộc kim, mà kim tuyệt ở dần.
"Trì bảo": chính là giáp tý gặp mậu dần, "mã đầu đới thiên tài"; hoặc là nạp âm khắc mã là tài, kiểu như "thực thần", như ngày giờ giáp dần gặp bính thân hay giáp thân gặp bính dần.
"Hàm hoa": chính là nạp âm "lâm quan" gặp mã, như là canh thân, nhâm tý, mậu thìn nạp âm đều là mộc, gặp dần đúng là nơi mã "lâm quan".
Lại thêm "sanh thành mã", "danh vị mã" cùng với luận bàn về lộc ở phần trên giống nhau, chủ quý.
Người thường gặp mã, mừng được "chuyên vượng" mà ngại bị không vong, hổn tạp thì không phát đạt; ghét tử, tuyệt mà thích gặp "thực thần", gặp tài thì có lợi ích. Nhà buôn thường thích "trì bảo", còn phụ nữ rất sợ "hàm hoa"; "trì bảo" thì giàu, còn "hàm hoa" thì dâm, "hàm hoa" càng kỵ người mộc gặp canh dần, ất hợi gặp ất tỵ, đinh mão gặp đinh tỵ, kỷ mùi gặp kỷ tỵ càng nặng, đàn ông thường dâm đãng, phụ nữ thường tư tình, người gặp trong vận đoán giống như trên.
Lại nói: "dịch mã" rất sợ can thần "đảo thực"như ất dậu gặp quý hợi là "dịch mã" tức bị ăn ngược lại mình, gọi là ất với quý không cùng đẳng cấp. Khuyến khích xem xét trao đổi với nhau, như người thìn mã ở dần, hoặc là thái tuế ở thân xung động dần tức thái tuế khuyến khích, hay tiểu vận ở thân tức là tiểu vận khuyến khích, thường tạo thành cục lợi cho mình. Xem xét thêm thân với dần trao đổi với nhau như thế nào, kiểu như canh thân gặp giáp dần, canh thân thuộc mộc, dần là "lâm quan"; giáp dần thuộc thuỷ, thân là nơi "trường sanh", hoà hợp với nhau thì tốt, khắc với nhau thì trì trệ. Như hai bên trao đổi với nhau nếu vô khí thì trống rỗng; hoặc thất ý có khí lực thì ứng vào tài. "Tứ mã triều nguyên" - (bốn mã hướng về người đứng đầu): tốt thì giàu sang vẻ vang, xấu thì phá tan nhà cửa, tổ nghiệp, như là tăng đạo tốt chân đi khắp nơi. Trẻ nhỏ, người già gặp mã không có lợi ích, trè nhỏ trước mười hai tuổi, trên ba tuổi có thể mã gặp tiểu vận, thái tuế xung hoặc là "lâm quan" mã, gặp nhiều chủ bệnh kinh sợ, hay tai nạn té ngã. Người già năm mươi tuổi trở lên hoặc là vận cùng với thái tuế cưởi mã, chủ khí hư mà đau thắt lưng, bệnh đau chân, cũng như người già gặp lộc thường nôn ói khi ăn. Người trẻ gặp phải thường phát bệnh, bởi người già hay người trẻ đều không thể cưởi được ngựa, vì mã trong ngũ hành là thần chuyển động háo hức.
论驿马
所谓驿马者,乃先天三合数也,先天寅七、午九、戌五,合数二十有一,故自子顺至申,凡二十有一而为火局之驿马。亥卯未之数,四、六与八合为十八,故自子顺至巳,凡十八而为木局之驿马。木、火,阳局也,从子一阳顺行。金、水、阴局也,从午一阴逆行,甲子辰之数,七、九与五合,为二十有一,故自午逆至寅,凡二十有一,而为水局之驿马。巳酉丑之数,四、六与八合为十八,故自午至亥,凡十有八,而为金局之驿马。此法之所由立也。
寅午戌生人,马在申而五阳干乘之。见甲申,截路空日马;丙申,大败马。戊申,福星伏马。庚申,逢天关马;壬申,大败马。以上巳酉丑申年月日时发应。
申子辰人,马在寅而五阳干乘之。见甲寅,正禄文星马。丙寅,福星马。戊寅,伏马。庚寅,破禄马。壬寅,截路马。以上亥卯未寅年月日时发应。
巳酉丑人,马在亥而五阴干乘之。见乙亥,天德马,以马中支生干,汨没无成,徒自聪明。丁亥,天乙马。己亥,旺禄马。辛亥,正禄马。癸亥,大败马。以上申子辰亥年月日时发应。
亥卯未人,马在巳而五阴干乘之。见乙巳,正禄马。丁己,旺气马。己已,九天禄库马。辛巳,截路马。癸巳,天乙伏马。以上寅午戌巳年月日时发应。
凡柱中马,若不值空亡、破败、交退、伏神,须荣贵。互禄共天乙贵神,同其马位,更得诸煞相并,官秉大权,贵居廊庙,时为上贵,日为中贵,月为常庶。库马主少年之喜,旺马资壮岁之荣,生马老方得遂而官卑任远矣,如木生亥旺卯库未。余仿此。珞子云:生马未必有马,背禄未必无禄。看其旺库,不问背生。妙在消息盈虚也。
又曰:驿马者,三命中发用,喜庆之神。若人遇之,君子常居荣位,小人主丰赡。大小运行年至此,主得官及迁改之喜;小运及行年合驿马,并主迁官得禄,如甲子人驿马在寅,小运及太岁至亥,亥与寅合之类是也。
又马有十二:
一曰款段,谓巳酉丑人得壬亥,亥卯未人得丙巳,申子辰人得甲寅,寅午戌人得戊申。
二曰蹶蹄,谓四柱虽带驿马而生日值空亡之神。
三曰折足,谓胎月带驿马而日时带沐浴者是,申子辰全见寅为马,是三人骑一马,谓之折足。若亥卯未全见马,总有官贵,终成下贱。若一辰坐者,少年虽泰,后还穷。
四曰无粮,谓生日值马,马食太岁,如甲子人得壬寅日而时更落在空亡者是。
五曰不出厅厩,谓胎月带马,不见贵及不见禄堂及入空亡者是。
六曰嘶风。
七曰趋途,谓驿马虽有禄,在空亡。
八曰驮尸,十二驿马惟驮尸最凶,见禄即尸。甲子旬中,巳酉丑生人马在亥,乙丑人丁亥,己巳人乙亥,癸酉人癸亥。乙丑人得亥马,忌寅月日时;己巳人得亥马,忌申月日时;癸酉人得亥马,亦忌寅月日时,有一在此,名曰驮尸。亦如亥卯未是甲午旬中,乙未人辛巳,己亥人己巳,癸卯人丁巳。乙未人得已马,忌寅月日时;己亥人得巳马,忌申月日时;癸卯人得巳马,亦忌寅月日时,皆驮尸也。余旬准此。
九曰食刍,谓驿马克其时,假令驿马属金,生时得木,此类谓之食刍。
十曰乘轩,谓胎月生日带禄马,假令甲申人得庚寅甲寅时及庚寅胎月是。
十一曰乘轺,谓有天地得合见太岁,生月日时见贵人驿马,假令丁亥生人四月壬寅日己酉时,月坐马,酉系贵人是。
十二曰无辔,谓贵神空亡,禄在绝乡者是。
以上十二驿马,当以意消息,灾福自见,款段则平生坎坷,止作选人,无粮不食天俸,不出厩则不历任所,折足则永失,蹶蹄则复起,无辔则一生孤寒,食刍则官可六品,嘶风徒有虚声,趋途漫劳求禄,乘轺则带职,乘轩则三公,驮尸则得官即亡。
有干支合马,如申子辰四马在寅,甲寅见己亥,合;丙寅见辛亥,合,主官职崇重。
有马头带剑,谓驿马上见庚辛或纳音,见金,主名振边疆。
有马骤天庭,谓木人得亥而见辛亥,又马上干逢得禄,如六壬人生,居寅午戌之位,于甲上遁得戊午,戊之禄在巳,巳系天庭,复见巳,得酉合之为是,主官居极品。
有马后二辰为九地马,主职近王廷。
有天马贵神,乃岁中不见驿,五虎遁至马上,看得何干,其干见天乙,而天乙所坐之干却复见贵于马上是也,贵不下三品。
有一木系双马,寅午戌多见丙申,申子辰多见庚寅,巳酉丑多见己亥,亥卯未多见癸巳。马上干克支,主多惊险。若遇四马聚于时或年上,主封爵。又驿马下生人,月日时支干得御策全,并克身者定贵。马前一辰为御,后一辰为策。假令甲子金命,正月辛丑日卯时生,以子人马在寅逢禄,又本命子与生日丑在马后为策,卯时在马前为御,又马是丙寅,火能克甲子金,故主贵。
有驿有马者,主位至侯。干为马,支为驿,如戊戌人马在申而得庚申,支干俱属金,到申临官,戊戌支干俱属土,到申长生,本命及驿马支干背马有气,是有驿有马。又如壬午人驿马在戊申,戊土临申长生,本命壬水到申亦长生,午火到申为衰乡,本命干旺支衰,是有马无驿。又如丁丑人驿马在辛亥,金临亥为病乡,本命丁火到亥为绝,以丑土到亥为临官,本命干衰支旺,驿马干亦衰,是有驿无马。或以寅午戌见庚无申、见申无庚之类,为有马无驿,有驿无马亦通。
有马克身者,取驿马之辰能制生月,如寅午戌人马在申,申属金,能制寅卯月木,假令甲子人在辰戌丑未月生是也,主官禄易求,仕宦无滞,少年亨快,为官清显。常人遇之,小富。有马财库,取驿马所克之辰入墓,如马在申,申属金,金克木,木至未为库之例。主平生游历四方,广得资财。
有英灵贯马,乃五行真气之长生,下遇驿马,主持节按部之使。
有南方离明马,谓未马已,丑马亥,辰马寅,戌马申,辰戌丑未系土之位,以生处为马,故辰戌丑未人飞在午,为南方离门之马,遇此者,爱于午相冲。为飞马,见鞭策入格,主贵。
有驿马清浊,甲子得丙寅,禄马同乡,又丙为食神,乘长生马。丁丑得丁亥,为天乙天官,乘临官马。若乘长生临官马,或带食禄贵气,则遇一当百。若乘病绝空亡马,更值破败、交退、伏神,则遇而不遇,纵为官,粗浊卑贱,非清要之职。
又曰:凡看驿马有四专、名位、生旺、病绝、驰宝、衔花及倒食互换不同,中间好恶荣辱,须于岁运、鞭策细详之。
四专者,如申子辰马在寅,寅逢甲寅,申遇庚申,巳逢丁巳,亥遇癸亥是也。
名位者,乃马中逢食神,如甲见丙,乙见丁之类,马上得食是也。
四生者,辛巳、甲申、己亥、丙寅纳音自生也。
四病乃自死自绝,如年纳音属金,金绝在寅是也。
驰宝者,乃甲子见戊寅,马头带天财;或纳音克马为财,如食神之类,如甲寅人见丙申、甲申见丙寅日时是也。
衔花者,乃纳音临官遇马,如庚申、壬子、戊辰纳音皆木,遇寅,马临官之地是也。
又生成马、名位马与前论禄同,主贵。
凡人遇马,喜专旺而嫌空亡,驳杂为不达;恶死绝而喜逢食,见财为有益。商贾多爱驰宝,妇女最怕衔花;驰宝则富,衔花则淫,衔花更忌木人值庚寅,乙亥见乙巳、丁卯见丁巳、己未见己巳,尤重,男多淫荡,女多私情,运中遇者同前断。
又曰:驿马最怕干神倒食,如乙酉见癸亥,为驿马,却被反食于我,所谓乙癸不同科是也。鞭策发时看互换,如辰人马在寅,或太岁在申冲动寅,即太岁为鞭策,小运在申,即小运为鞭策,多主动。更看申与寅互换如何,如庚申遇甲寅,庚申属木,寅则临官;甲寅属水,申则长生之类,相和则吉,相克则滞。如两互换,无气则空动;或失意有气,即主财。四马朝元,好则荣贵,恶则破家失业,如为僧道,好游脚。小儿老人不利见马,小儿十二岁以前、三岁以上,或马遇小运、太岁冲或临官马,遇多,主惊病颠仆之厄。老人五十以上,或运与太岁乘之,主气虚腰痛、脚痛之患,亦如老人禄遇,病多吐食之类。少者见之、多发病,盖老少并不堪乘马,以马在五行中为动跃之神故也。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#53
Gửi vào 27/06/2024 - 11:02
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Tổng Luận Lộc Mã
Lộc là nguồn nuôi mệnh, mã là vốn dĩ giúp đỡ bản thân, cả hai thứ rất thích gặp nhau.
Lại như dần ngọ tuất mã ở thân, giáp lộc ở dần can giáp trên dần độn gặp bính, trên thân độn gặp nhâm, sẽ lấy bính làm "thiên lộc", và nhâm làm "thiên mã", trên ngày giờ luân phiên gặp nhau, gọi là "thiên lộc", "thiên mã".
Lại thêm người giáp độn đến tuất gặp giáp tuất, nghĩa là "hoạt lộc", người giáp tý dộn gặp bính dần gọi là "hoạt mã".
Lại như dần ngọ tuất mã ở thân mà can giờ được chữ canh; hợi mão mùi mã ở tỵ mà can giờ được chữ bính; thân tý thìn mã ở dần mà can giờ được chữ giáp; tỵ dậu sửu mã ở hợi mà can giờ được chữ nhâm, lấy địa chi ngày tìm cầu thiên can giờ, lấy thiên can giờ tìm cầu địa chi ngày, trao đổi nhau nghĩa là "lộc mã giao trì".
Lại như giáp lộc ở dần, thân tý thìn mã cũng ở dần, tức là sanh ra ở giáp tý, hay là giáp thân, hay là giáp thìn mà giờ được bính dần, lộc mã hội tụ trên ngai vàng, gọi là "lộc mã đồng hương".
Lại như "lộc tiền mã hậu", như người tân tỵ gặp được ngày giờ tuất, người ất hợi gặp ngày giờ thìn, tân lộc ở dậu, tỵ mã ở hợi; ất lộc ở mão, hợi mã ở tỵ, không thấy lộc mã mà lộc mã ẩn tàng ở bên trong, gọi là "giáp lộc giáp mã".
Quỷ Cốc Di Văn nói: "giờ tích chứa nhật lộc, coi như đạt được con đường danh vọng, 'ngũ mã giao trì' - (năm con ngựa cùng nhau chạy nhanh) có thể dấn thân ở triều đình".
"Lạc Lộc Tử" cho rằng: "mang theo lộc đuổi theo mã, canh chừng đường cùng mà hoảng loạn; 'lộc mã đồng hương', không "tam thai' cũng 'bát toạ".
Hàn Tạo Mệnh Thư có luận thuyết "cô sương lộc mã", như giáp tý gặp bính dần, canh ngọ gặp nhâm thân, đây tuy rằng "lộc mã đồng hương", mà không biết rằng giáp tý chính là "nhất dương", ất sửu là nhị dương, bính dần là tam dương là thuần dương không có âm; canh ngọ chính là nhất âm, tân mùi là nhị âm, nhâm thân là tam âm, là thuần âm không có dương. Hai diều này gọi là "cô sương" - (đàn bà goá), lộc mã tuy rằng cùng chỗ cũng không là tốt.
"Lý Ngu Ca" nói: " 'lộc mã phi thiên' không bị hình khắc, sanh trong vượng tướng nên đạt đến cao quý".
总论禄马
禄为养命之源,马是扶身之本,两者最喜相见。
且如寅午戌马在申,甲禄在寅,甲干寅上遁见丙,申上遁见壬,则以丙为天禄,壬为天马,在日时上交互见之,谓之天禄天马。
又甲人遁至戌,见甲戌,谓之活禄。甲子人遁见丙寅,谓之活马。
又如寅午戌在申,而时干得庚;亥卯未在巳,而时干得丙;申子辰在寅而时干得甲;巳酉丑在亥,而时干得壬,以日支求时干,以时干求日支,互换得之,谓之禄马交驰。
又如甲禄在寅,申子辰马亦在寅,却是甲子、甲申、甲辰生,而时得丙寅,帝座上会禄马,谓之禄马同乡。
又如禄前马后,如辛已人得戌日时,乙亥人得辰日时,辛禄在酉,马在亥;乙禄在卯,马在巳,不见禄马而禄马藏于其中,谓之夹禄夹马。
鬼谷遗文曰:"时居日禄,当得路于青云;五马交驰,可致身于黄阁"。
《珞??录子》云:"背禄逐马,守穷途而ゐ惶;禄马同乡,不三台而八座。
"韩??造命书有孤孀禄马之说,如甲子见丙寅,庚午见壬申,此虽禄马同乡,殊不知甲子乃一阳,乙丑二阳,丙寅三阳,纯阳无阴也;庚午乃一阴,辛未二阴,壬申三阴,纯阴无阳也。此二者谓之孤孀,禄马虽同乡,亦不吉。
《理愚歌》曰:“禄马飞天无刑克,旺相中生须至贵。”
.
Tổng Luận Lộc Mã
Lộc là nguồn nuôi mệnh, mã là vốn dĩ giúp đỡ bản thân, cả hai thứ rất thích gặp nhau.
Lại như dần ngọ tuất mã ở thân, giáp lộc ở dần can giáp trên dần độn gặp bính, trên thân độn gặp nhâm, sẽ lấy bính làm "thiên lộc", và nhâm làm "thiên mã", trên ngày giờ luân phiên gặp nhau, gọi là "thiên lộc", "thiên mã".
Lại thêm người giáp độn đến tuất gặp giáp tuất, nghĩa là "hoạt lộc", người giáp tý dộn gặp bính dần gọi là "hoạt mã".
Lại như dần ngọ tuất mã ở thân mà can giờ được chữ canh; hợi mão mùi mã ở tỵ mà can giờ được chữ bính; thân tý thìn mã ở dần mà can giờ được chữ giáp; tỵ dậu sửu mã ở hợi mà can giờ được chữ nhâm, lấy địa chi ngày tìm cầu thiên can giờ, lấy thiên can giờ tìm cầu địa chi ngày, trao đổi nhau nghĩa là "lộc mã giao trì".
Lại như giáp lộc ở dần, thân tý thìn mã cũng ở dần, tức là sanh ra ở giáp tý, hay là giáp thân, hay là giáp thìn mà giờ được bính dần, lộc mã hội tụ trên ngai vàng, gọi là "lộc mã đồng hương".
Lại như "lộc tiền mã hậu", như người tân tỵ gặp được ngày giờ tuất, người ất hợi gặp ngày giờ thìn, tân lộc ở dậu, tỵ mã ở hợi; ất lộc ở mão, hợi mã ở tỵ, không thấy lộc mã mà lộc mã ẩn tàng ở bên trong, gọi là "giáp lộc giáp mã".
Quỷ Cốc Di Văn nói: "giờ tích chứa nhật lộc, coi như đạt được con đường danh vọng, 'ngũ mã giao trì' - (năm con ngựa cùng nhau chạy nhanh) có thể dấn thân ở triều đình".
"Lạc Lộc Tử" cho rằng: "mang theo lộc đuổi theo mã, canh chừng đường cùng mà hoảng loạn; 'lộc mã đồng hương', không "tam thai' cũng 'bát toạ".
Hàn Tạo Mệnh Thư có luận thuyết "cô sương lộc mã", như giáp tý gặp bính dần, canh ngọ gặp nhâm thân, đây tuy rằng "lộc mã đồng hương", mà không biết rằng giáp tý chính là "nhất dương", ất sửu là nhị dương, bính dần là tam dương là thuần dương không có âm; canh ngọ chính là nhất âm, tân mùi là nhị âm, nhâm thân là tam âm, là thuần âm không có dương. Hai diều này gọi là "cô sương" - (đàn bà goá), lộc mã tuy rằng cùng chỗ cũng không là tốt.
"Lý Ngu Ca" nói: " 'lộc mã phi thiên' không bị hình khắc, sanh trong vượng tướng nên đạt đến cao quý".
总论禄马
禄为养命之源,马是扶身之本,两者最喜相见。
且如寅午戌马在申,甲禄在寅,甲干寅上遁见丙,申上遁见壬,则以丙为天禄,壬为天马,在日时上交互见之,谓之天禄天马。
又甲人遁至戌,见甲戌,谓之活禄。甲子人遁见丙寅,谓之活马。
又如寅午戌在申,而时干得庚;亥卯未在巳,而时干得丙;申子辰在寅而时干得甲;巳酉丑在亥,而时干得壬,以日支求时干,以时干求日支,互换得之,谓之禄马交驰。
又如甲禄在寅,申子辰马亦在寅,却是甲子、甲申、甲辰生,而时得丙寅,帝座上会禄马,谓之禄马同乡。
又如禄前马后,如辛已人得戌日时,乙亥人得辰日时,辛禄在酉,马在亥;乙禄在卯,马在巳,不见禄马而禄马藏于其中,谓之夹禄夹马。
鬼谷遗文曰:"时居日禄,当得路于青云;五马交驰,可致身于黄阁"。
《珞??录子》云:"背禄逐马,守穷途而ゐ惶;禄马同乡,不三台而八座。
"韩??造命书有孤孀禄马之说,如甲子见丙寅,庚午见壬申,此虽禄马同乡,殊不知甲子乃一阳,乙丑二阳,丙寅三阳,纯阳无阴也;庚午乃一阴,辛未二阴,壬申三阴,纯阴无阳也。此二者谓之孤孀,禄马虽同乡,亦不吉。
《理愚歌》曰:“禄马飞天无刑克,旺相中生须至贵。”
.
#54
Gửi vào 27/06/2024 - 11:55
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Thiên Ất Quý Nhân
"Thiên ất" chính là thần ở trên trời, ở "tử vi viên", bên ngoài cổng trời, cùng thứ bậc với "thái ất", chức vụ là "thiên hoàng đại đế", xuống trần đi chơi "tam thần", nhà ở kỷ sửu thứ bậc của sao đẩu, sao ngưu, hiện ra ở kỷ mùi nhà của sao tỉnh, sao quỷ, cầm cân ngọc để đo lường sự việc của trời và người, danh gọi là "thái ất". Vị thần đó rất tôn quý, khi đến nơi nào toàn bộ hung sát đều ẩn tàng tránh xa.
"Hồ Trung Tử" cho rằng: "quý nhân" phân ra "trú" (ngày) "dạ" (đêm), mỗi người tự có quyền riêng biệt, nên sanh ban ngày gặp "trú quý", hay sanh ban đêm gặp "dạ quý" là đắc lực. Hoặc lấy tý về sau là "trú", ngọ về sau là "dạ"; hoặc lấy lúc mặt trời mọc làm "trú", mặt trời lặn là "dạ", tất cả đều là "ức thuyết" - (lời nêu ra chủ quan, không có căn cứ). Không như chỉ lấy dần thân phân âm dương, sau đông chí làm "dương quý", sau hạ chí làm "âm quý". Người có mệnh sanh sau "nhất dương" gặp "dương quý" thì đắc lực, sanh sau "nhất âm" gặp "âm quý" thì đắc lực. "Tam Xa Nhất Lãm" thì lấy giáp dương mộc cưởi khí của "thiếu dương" sanh ở phương đông, đến tỵ thì việc làm hoàn tất, cho nên rút lui và ẩn ở mùi nên là "quý nhân". Canh dương kim cưởi khí của "thiếu âm" nên sanh ở phương tây, đến hợi thì việc làm hoàn tất, cho nên rút lui và ẩn tàng ở sửu nên là "quý nhân". Mậu dương thổ xung và hoà ở trung ương mà truyền rộng ra bốn mùa: giáp vì thế mà sanh vạn vật; canh vì thế mà thành vạn vật, là cái lý sanh thành hoàn tất vậy. Ất chính là "âm mộc", kỷ chính là "âm thổ", hai vị trí vô khí nên không có chỗ cư trú, phải đợi thuỷ thổ sanh vượng ở thân tý mà nuôi dưỡng bổ trợ chỗ thiếu cho đầy đủ, hai thứ này thích gặp thân và tý nên là "quý nhân". Bính đinh hoả đang thịnh vượng ở mùa hạ, nóng dữ dội nên làm hại vạn vật, bản tính dập tắc ở dậu, ẩn tàng ở hợi, vì tây bắc khí cùng hoàn thàn nên hoà hợp, hai thứ này lấy "âm khí" hoà hợp của dậu và hợi nên làm "quý nhân". Thuỷ của nhâm và quý đến hết mùa đông, bản chất mãnh liệt nên giết chết vạn vật, chỉ keo kiệt ở mão, tiềm ẩn ở tỵ, vì đông nam khí ấm áp nên hoà hợp, hai thứ này lấy "dương khí" hoà hợp của tỵ và mão làm "quý nhân". Tân chính là "âm kim", tự nó không thể chuyển hoá, phải mượn ngọn lửa sanh, vượng của dần ngọ mà thành hình nên là "quý nhân". "Quảng Lục" cho rằng: giáp dương mộc, mậu dương thổ, canh dương kim tất cả đều thích thổ. Mùi: vị trí chánh của thổ; sửu: nơi thổ an tĩnh, vì thế trâu và dê là "quý ". Chia nhỏ ra: giáp rất thích mùi, canh rất thích sửu, mỗi thứ trở về mộ khố của mình, mậu tý, mậu dần, mậu ngọ thích sửu, vì sửu là đất thai dưỡng của người hoả, mậu thìn, mậu thân, mậu tuất thích mùi, vì mùi là khố của người mộc, vị trí sanh vượng của người thổ vậy. Ất là âm mộc; kỷ (thay vì tỵ) là âm thổ, âm thổ thích sanh vượng, âm mộc ưa dương thuỷ, vì vậy chuột và khỉ là "quý nhân". Tuy nhiên ất rất thích tý, vì tý là nơi thuỷ vượng; Kỷ rất thích thân, vì thân là vị trí chính của khôn. Bính đinh thuộc hoả, hoả mộ ở tuất; nhâm quý thuộc thuỷ, thuỷ mộ ở thìn. Thìn, tuất là đất của "khôi cương" "quý nhân" không đến, cho nên tìm gửi hoả "quý nhân" ở dậu hợi, gửi thuỷ "quý nhân" ở mão tỵ, đều là trở về cội nguồn nơi hoàn phục bổn tính. Lục tân là âm kim, thích nơi sanh vượng của dương hoả, cho nên lấy ngựa cọp làm "quý nhân". Tốt hơn lấy nạp âm hỗ hoán, Suy tìm sau cho được bỉ hoà thì "quý nhân" đó mới là phúc, chớ như bính hoả gặp dậu, thì hoả tắt ở đây, làm sao quý được!
Diêm Đông Tẩu nói: luận về "thiên ất quý nhân", đều phải tuân theo hỷ kỵ của ngũ hành, như người giáp có mậu có canh, gặp quý mùi, ất sửu gặp hai thứ tốt lành mà có ấn ở trên, độn gặp đinh sửu, tân mùi tiếp theo, chính là "tam âm" thích ở "ấn khố". Người ất gặp mậu thân, canh tý sanh vượng của thổ, người kỷ gặp giáp thân, bính tý sanh vượng của thuỷ, âm mộc, âm thổ này thích ở chỗ tài vượng. Bính đinh gặp đinh dậu, ất hợi; nhâm quý gặp ất mão, quý tỵ. Đây là thuỷ và hoả không ngại chỗ tử, tuyệt. Lục tân gặp bính dần, bính ngọ, âm kim này không ngại chỗ quỷ thắng, gặp hai là tốt nhứt, gặp một thì tốt tiếp theo. "Tử Hư Cục" lấy điều này làm "quý nhân nhập miếu", gặp vậy chủ được áo tím đai vàng cao quý.
"Bát Tự Kim Thư" luận về "quý thần", phải phân biệt "ưu liệt" (tốt và xấu, hơn và kém) tức là tốt xấu của lục thập giáp tý trong tương lai, nó trở về với lộc mã cùng chỗ, không phạm giao, thối, phục thần, can chi hợp với nhau là quý, quan trọng là các trụ tháng ngày giờ có can chi hợp với nhau.
Lâm Khai luận về "thiên ất tương hợp": như giáp tý gặp kỷ mùi, không bị tử, tuyệt, xung, phá, không vong, có thêm phúc thần trợ giúp, càng quý. Nếu như phạm những điều cấm kỵ thì giảm sức lực, lại thường khó khăn mà không được phúc lành. Mậu tý gặp kỷ sửu, không phạm cấm kỵ, có thêm phúc thần trợ giúp, đây là cách thứ hai. Bị tử, tuyệt thì giảm lực, bị xung phá, không vong, quan lại bậc thấp trong quan trường. Tân mùi gặp canh dần, không phạm cấm kỵ, có phúc thần trợ giúp, là bậc thứ ba; tử tuyệt thì giảm lực, xung phá, không vong, cả đời thường khó khăn, quan chức thấp mà thanh cao.
Diêm Đông Tẩu luận về "quý hợp" "quý thực", như giáp gặp kỷ sửu, kỷ mùi, hay mậu gặp quý sửu, quý mùi, hay canh gặp ất sửu, ất mùi, hay ất gặp canh tý, canh thân, hay kỷ gặp giáp tý, giáp thân, hay bính gặp tân dậu, tân hợi, hay đinh gặp nhâm dần, nhâm thìn các trường hợp này gọi là "quý hợp". Giáp có bính là 'thực thần", ất có đinh là "thực thần", mà bính đinh có "quý nhân" ở dậu và hợi, nên giáp gặp bính dần, bính thìn, còn ất gặp đinh dậu, đinh hợi; canh thực thần là nhâm, tân thực thần là quý, "quý nhân của nhâm và quý thì ở mão và tỵ, canh gặp nhâm thân, nhâm tuất, tân gặp quý mão, quý tỵ, các trường hợp này gọi là "quý thực". Có "quý hợp" thì quan lộ thường vẻ vang rạng rỡ, có "quý thực" thì bổng lộc thường được xứng ý, cùng gặp cả ba thì quan chức cao, bổng lộc nhiều.
"Tam Mệnh Đề Yếu" lấy "thiên ất" ở trên "lục hợp" của "quý thần", như giáp, mậu và canh ở tý và ngọ thì tý hợp sửu, ngọ hợp mùi. Ất và kỷ ở sửu và tỵ, bính đinh ở dần và thìn, nhâm và quý ở thân và tuất, tân ở mùi và hợi, tất cả đều chủ phúc lành to lớn, gặp cả hai hợp nói trên càng quý.
"Bảo Giám" có "thiên ất" phù trợ mình, lấy "quý nhân" kề bên ôm thái tuế, như người nhâm dần gặp ngày giờ giáp dần, nhâm thì "quý nhân" ở mão, giáp quý ở sửu, tức là kề bên ôm dần, hay như người bính thân gặp mậu thân chuẩn theo cách này. Được "quý cách", không bị hình xung, chủ một đời ít bệnh tật, từ trẻ đến già được hưởng phúc; còn gặp "thường cách" cả đời không bị tai hoạ hình ngục. Nếu có thiên can kề bên "quý nhân" như người giáp, mậu hay canh gặp sửu mùi, được một chữ giáp, mậu hay canh trên ngày giờ, chủ vẻ vang danh vọng khác thường.
"Chỉ Nam" có trường hợp "giáp quý" (kề bên quý nhân) gặp "lục hợp", ví như người nhâm quý gặp thìn nên được quý dậu hợp, người bính đinh gặp tuất nên được đinh mão hợp, chọn lấy trước sau của mỗi thứ có "thiên ất quý nhân", thêm lộc mã hiện diện, chủ rất giàu sang. Có "phúc tinh quý nhân" ví như một mệnh: "nhâm tý, quý mão, canh tuất, canh thìn", nhâm cưởi lưng rồng; lại thêm "quý nhân" ở mão và tỵ gặp thìn là "phúc tinh" trợ giúp "quý nhân" vậy.
"Chúc Thần Kinh" nói: "Thiên ất quý nhân" gặp sanh vượng, thì tướng hình phong cách hiên ngang, bản tính nhanh nhẹn, thông minh, hiểu rõ vấn đề, nghĩa lý rõ ràng, rành mạch, không thích phương pháp lộn xộn, tài năng chuyên nhất, người tích chứa đạo đức, được mọi người ngưỡng mộ. Tử, tuyệt thì bướng bỉnh tự cho mình là đúng, ưa thích ở gần người cao quý. Hội tụ với "kiếp sát" thì tướng mạo dày dặn oai nghiêm, nhiều mưu lắm kế. Hội tụ với "quan phù" thì văn chương bút mực bay bổng, phóng túng, bàn luận thanh cao mà biện luận thuyết phục. Hội tụ với "kiến lộc" thì văn chương bút mực chất phác thành thật, ra ơn cứu giúp, kết giao rộng rãi là người quân tử vậy. Nếu lạc "thiên trung" hoặc hợp với "thiên trung", hoặc với "thiên trung liên châu", thường có trạng thái Linh Luân (tên một vị nhạc quan ngày xưa), thích hát xướng ngâm vịnh, là người nghệ sĩ điêu luyện.
Lại nói thêm: "thiên ất quý nhân" là thần rất tốt trong "tam mệnh". Nếu một người gặp được sẽ giàu sang hiển đạt, công danh sớm đạt được, quan lộc cũng dễ tiếp cận. Như ba mệnh đều cưởi vượng khí, cuối cùng cũng được đề bạt vị trí công hầu, tướng quân, hay thừa tướng. Đại tiểu vận hay niên vận đến đây cũng chủ được thăng quan tiến tài, tất cả đều đến, đấy đều là điềm báo hiệu tốt lành. Nói chung nơi mà "quý nhân" đến, đại khái thích sanh vượng, không bị xung phá, thuận đạo lý, không bị không vong, toàn bộ thiên can, địa chi và nạp âm đều thuận hợp với nhau , thêm được lộc mã mà ngày đêm không làm trái ngược. Hoặc là quý nhân của năm với giờ trao đổi nhau, kiểu như người giáp ngọ gặp giờ tân sửu, hay người bính thân gặp kỷ hợi. Hoặc bốn thiên can cùng gặp "quý nhân" trên một địa chi, kiểu như sanh sửu hay mùi mà gặp giáp mậu canh. Hoặc bốn vị trí thiên can giao tiếp "tụ quý" (các quý nhân hội tụ), mà địa chi là ngũ hành của "tụ quý". Gặp thêm "thiên đức", "nguyệt đức" thì càng tốt. "Lý Ngu Ca" nói rằng: "Quý nhân" có thể rơi vào nơi không vong, "lộc mã" làm trái ngược cũng như không gặp. "Bảo Giám" nói rằng: "quý nhân" vô khí tuy có cũng như không. "Đỗng Huyền Kinh" nói: "quý nhân" giận dữ thì cái xấu sẽ đến. Có thể thấy rằng có "quý nhân" trong mệnh, không thể luận theo cái tốt lành, cần phải xem xét tỉ mỉ, rõ ràng.
论天乙贵人
天乙者,乃天上之神,在紫微垣、阊阖门外,与太乙并列,事天皇大帝,下游三辰,家在己丑斗牛之次,出乎己未井鬼之舍,执玉衡较量天人之事,名曰在乙也。其神最尊贵,所至之处,一切凶煞隐然而避。
《壶中子》云:贵人分治昼夜,各自专权,以昼生遇昼贵,夜生遇夜贵,为得力。或以子后为昼,午后为夜;或以日出为昼,日入为夜,皆是臆说。不若只以寅申分阴阳,冬至后用阳贵,夏至后阴贵。人命一阳生后遇阳贵为得力,一阴生后遇阴贵为得力。《三车一览》则以甲阳木乘少阳之气生乎东方,至巳而用事毕矣,故退藏于未而为贵。庚阳金乘少阴之气而生乎西,至亥而用事毕矣,故退藏于丑而为贵。戊阳土冲和中央播于四时,甲因之,万物生;庚因之,万物成,则生成之理毕矣。乙乃阴木,己乃阴土,二位无气失类而无所居,必待申子生旺水土滋养充实补助不足,此二者喜见申子而为贵。丙丁之火当盛夏至酷而害万物,性熄于酉,藏于亥,以西北成齐之气而和,此二者以酉亥阴气和而为贵。壬癸之水至穷冬则其性严而杀万物,惟啬于卯,潜于巳,以东南温燠之气而和,此二者以巳卯阳气和而为贵。辛乃阴金,执方不能自化,须假寅午生旺之火锉刚革而成形为贵。《广录》云:甲阳木、戊阳土、庚阳金,皆喜土位。未者,土之正位;丑者,土安静之地,所以牛羊为贵。细分之,甲尤喜未,庚尤喜丑,各归其库也,戊子、戊寅、戊午喜丑,丑者、火人胎养之乡,戊辰、戊申、戊戌喜未,未者,木人之库,土人生旺之位也。乙者,阴木;巳者,阴土,阴土喜生旺,阴木爱阳水,所以鼠猴为贵。然乙尤喜子,子者,水之旺乡;己尤喜申,申者,坤之正位。丙丁属火,火墓在戌;壬癸属水,水墓在辰。辰戌,魁罡之地,贵人不临,故寻寄火贵于酉亥,寄水贵于卯巳,皆归根复命之乡。六辛阴金,喜阳火生旺之地,故以马虎为贵。更宜以纳音互换。推寻须比和,则其贵为福,若丙火得酉,火至此死,焉足贵哉!
阎东叟云:论天乙贵,须就五行喜忌,如甲人有戊有庚,得癸未、乙丑,遇二吉而带印为上,遁见丁丑、辛未者次之,乃三阴喜在印库。乙人得戊申、庚子生旺之土,己人得甲申、丙子生旺之水,此阴木阴土喜于财旺。丙丁得丁酉、乙亥,壬癸得乙卯、癸巳。此水火不嫌死绝。六辛得丙寅、丙午,此阴金不嫌鬼胜,得二为上,得一次之。《紫虚局》以此为贵人入庙,遇者主金紫贵。
《八字金书》论贵神,又分优劣,即前六十甲子吉凶,其归要与禄、马同窠,不犯交退,伏神,支干相合为贵,紧要在月日时支干相合。
林开论天乙相合,如甲子见己未,无死绝、冲破、空亡,更有福神助,至贵。如犯上忌减力,又多难无福。戊子见己丑,不犯上忌,更有福助,此为次格。有死绝减力,有冲破、空亡,风尘吏也。辛未见庚寅,不犯上忌,有福助,为第三等;死绝减力,冲破、空亡,平生多难,卑冗官耳。
阎东叟论贵合贵食,如甲得己丑、己未,戊得癸丑、癸未,庚得乙丑、乙未,乙得庚子、庚申,己得甲子、甲申,丙得辛酉、辛亥,丁得壬寅,壬辰,如此类谓之贵合。甲食丙,乙食丁,丙丁贵在酉亥,甲得丙寅、丙辰,乙得丁酉、丁亥;庚食壬,辛食癸,壬癸贵在卯巳,庚得壬申、壬戌,辛得癸卯、癸巳,如此类谓之贵食。有贵合则官多荣显,有贵食则禄多称意,三者兼之,官高禄重。
《三命提要》以天乙在贵神六合上,如甲戊庚在子午,则子合丑,午合未。乙己在丑巳,丙丁在寅辰,壬癸在申戌,辛在未亥,皆主大福,遇两合以上尤贵。
《宝鉴》有天乙扶身,取贵人夹拥太岁,如壬寅人得甲寅日时,壬贵在卯,甲癸在丑夹拥乎寅,丙申人得戊申准此。入贵格,别无刑冲,主一生少病,早年享福;常格得之,终身无刑狱之灾。有干夹贵神,如甲戊庚人得丑未,日时上却带甲戊庚一字,主显异。
《指南》有夹贵逢六合,如壬癸人见辰而得癸酉合,丙丁人见戌而得丁卯合,取前后各有天乙贵,更禄马临身,主大富贵。有福星贵人,如一命,壬子、癸卯、庚戌、庚辰,壬骑龙背;又贵在卯巳,得辰是福星扶贵人也。
《烛神经》曰:"天乙贵遇生旺,则形貌轩昂性灵颖悟,理义分明,不喜杂术,纯粹大器,身蕴道德,众人钦爱。死绝则执拗自是,喜游近贵。与劫煞并,则貌厚有威,多谋足计。与官符并,则文翰飘逸,高谈雄辩。与建禄并,则文翰纯实,济惠广游,君子人也。若落天中或与天中合,或与天中连珠,当有伶伦之态,好呕吟,伎艺人也。
又曰:天乙贵,三命中最吉之神。若人遇之则荣,功名早达,官禄亦易近。如三命皆乘旺气,终登将相公侯之位。大小运行年至此,亦主迁官进财,一切加临,至此皆为吉兆。凡贵人所临之处,大概喜生旺,无冲破,道理顺,不落空亡,天干纳音偕和,更得禄马而昼夜不背。或年时互换贵,如甲午人见辛丑时,丙申见己亥之类。或四干并在一支上见贵,如丑未生而得甲戊庚之类。或四位天干通聚贵,地支为五行聚贵。更遇天月二德为佳。《理愚歌》云:"贵人或落空亡里,禄马背违如不值。"《宝鉴》云:"贵人无气,虽有如无。"《洞玄经》云:"贵人嗔则凶来。"可见命中有贵,不可就为吉论,要当细详。
.
Luận Thiên Ất Quý Nhân
"Thiên ất" chính là thần ở trên trời, ở "tử vi viên", bên ngoài cổng trời, cùng thứ bậc với "thái ất", chức vụ là "thiên hoàng đại đế", xuống trần đi chơi "tam thần", nhà ở kỷ sửu thứ bậc của sao đẩu, sao ngưu, hiện ra ở kỷ mùi nhà của sao tỉnh, sao quỷ, cầm cân ngọc để đo lường sự việc của trời và người, danh gọi là "thái ất". Vị thần đó rất tôn quý, khi đến nơi nào toàn bộ hung sát đều ẩn tàng tránh xa.
"Hồ Trung Tử" cho rằng: "quý nhân" phân ra "trú" (ngày) "dạ" (đêm), mỗi người tự có quyền riêng biệt, nên sanh ban ngày gặp "trú quý", hay sanh ban đêm gặp "dạ quý" là đắc lực. Hoặc lấy tý về sau là "trú", ngọ về sau là "dạ"; hoặc lấy lúc mặt trời mọc làm "trú", mặt trời lặn là "dạ", tất cả đều là "ức thuyết" - (lời nêu ra chủ quan, không có căn cứ). Không như chỉ lấy dần thân phân âm dương, sau đông chí làm "dương quý", sau hạ chí làm "âm quý". Người có mệnh sanh sau "nhất dương" gặp "dương quý" thì đắc lực, sanh sau "nhất âm" gặp "âm quý" thì đắc lực. "Tam Xa Nhất Lãm" thì lấy giáp dương mộc cưởi khí của "thiếu dương" sanh ở phương đông, đến tỵ thì việc làm hoàn tất, cho nên rút lui và ẩn ở mùi nên là "quý nhân". Canh dương kim cưởi khí của "thiếu âm" nên sanh ở phương tây, đến hợi thì việc làm hoàn tất, cho nên rút lui và ẩn tàng ở sửu nên là "quý nhân". Mậu dương thổ xung và hoà ở trung ương mà truyền rộng ra bốn mùa: giáp vì thế mà sanh vạn vật; canh vì thế mà thành vạn vật, là cái lý sanh thành hoàn tất vậy. Ất chính là "âm mộc", kỷ chính là "âm thổ", hai vị trí vô khí nên không có chỗ cư trú, phải đợi thuỷ thổ sanh vượng ở thân tý mà nuôi dưỡng bổ trợ chỗ thiếu cho đầy đủ, hai thứ này thích gặp thân và tý nên là "quý nhân". Bính đinh hoả đang thịnh vượng ở mùa hạ, nóng dữ dội nên làm hại vạn vật, bản tính dập tắc ở dậu, ẩn tàng ở hợi, vì tây bắc khí cùng hoàn thàn nên hoà hợp, hai thứ này lấy "âm khí" hoà hợp của dậu và hợi nên làm "quý nhân". Thuỷ của nhâm và quý đến hết mùa đông, bản chất mãnh liệt nên giết chết vạn vật, chỉ keo kiệt ở mão, tiềm ẩn ở tỵ, vì đông nam khí ấm áp nên hoà hợp, hai thứ này lấy "dương khí" hoà hợp của tỵ và mão làm "quý nhân". Tân chính là "âm kim", tự nó không thể chuyển hoá, phải mượn ngọn lửa sanh, vượng của dần ngọ mà thành hình nên là "quý nhân". "Quảng Lục" cho rằng: giáp dương mộc, mậu dương thổ, canh dương kim tất cả đều thích thổ. Mùi: vị trí chánh của thổ; sửu: nơi thổ an tĩnh, vì thế trâu và dê là "quý ". Chia nhỏ ra: giáp rất thích mùi, canh rất thích sửu, mỗi thứ trở về mộ khố của mình, mậu tý, mậu dần, mậu ngọ thích sửu, vì sửu là đất thai dưỡng của người hoả, mậu thìn, mậu thân, mậu tuất thích mùi, vì mùi là khố của người mộc, vị trí sanh vượng của người thổ vậy. Ất là âm mộc; kỷ (thay vì tỵ) là âm thổ, âm thổ thích sanh vượng, âm mộc ưa dương thuỷ, vì vậy chuột và khỉ là "quý nhân". Tuy nhiên ất rất thích tý, vì tý là nơi thuỷ vượng; Kỷ rất thích thân, vì thân là vị trí chính của khôn. Bính đinh thuộc hoả, hoả mộ ở tuất; nhâm quý thuộc thuỷ, thuỷ mộ ở thìn. Thìn, tuất là đất của "khôi cương" "quý nhân" không đến, cho nên tìm gửi hoả "quý nhân" ở dậu hợi, gửi thuỷ "quý nhân" ở mão tỵ, đều là trở về cội nguồn nơi hoàn phục bổn tính. Lục tân là âm kim, thích nơi sanh vượng của dương hoả, cho nên lấy ngựa cọp làm "quý nhân". Tốt hơn lấy nạp âm hỗ hoán, Suy tìm sau cho được bỉ hoà thì "quý nhân" đó mới là phúc, chớ như bính hoả gặp dậu, thì hoả tắt ở đây, làm sao quý được!
Diêm Đông Tẩu nói: luận về "thiên ất quý nhân", đều phải tuân theo hỷ kỵ của ngũ hành, như người giáp có mậu có canh, gặp quý mùi, ất sửu gặp hai thứ tốt lành mà có ấn ở trên, độn gặp đinh sửu, tân mùi tiếp theo, chính là "tam âm" thích ở "ấn khố". Người ất gặp mậu thân, canh tý sanh vượng của thổ, người kỷ gặp giáp thân, bính tý sanh vượng của thuỷ, âm mộc, âm thổ này thích ở chỗ tài vượng. Bính đinh gặp đinh dậu, ất hợi; nhâm quý gặp ất mão, quý tỵ. Đây là thuỷ và hoả không ngại chỗ tử, tuyệt. Lục tân gặp bính dần, bính ngọ, âm kim này không ngại chỗ quỷ thắng, gặp hai là tốt nhứt, gặp một thì tốt tiếp theo. "Tử Hư Cục" lấy điều này làm "quý nhân nhập miếu", gặp vậy chủ được áo tím đai vàng cao quý.
"Bát Tự Kim Thư" luận về "quý thần", phải phân biệt "ưu liệt" (tốt và xấu, hơn và kém) tức là tốt xấu của lục thập giáp tý trong tương lai, nó trở về với lộc mã cùng chỗ, không phạm giao, thối, phục thần, can chi hợp với nhau là quý, quan trọng là các trụ tháng ngày giờ có can chi hợp với nhau.
Lâm Khai luận về "thiên ất tương hợp": như giáp tý gặp kỷ mùi, không bị tử, tuyệt, xung, phá, không vong, có thêm phúc thần trợ giúp, càng quý. Nếu như phạm những điều cấm kỵ thì giảm sức lực, lại thường khó khăn mà không được phúc lành. Mậu tý gặp kỷ sửu, không phạm cấm kỵ, có thêm phúc thần trợ giúp, đây là cách thứ hai. Bị tử, tuyệt thì giảm lực, bị xung phá, không vong, quan lại bậc thấp trong quan trường. Tân mùi gặp canh dần, không phạm cấm kỵ, có phúc thần trợ giúp, là bậc thứ ba; tử tuyệt thì giảm lực, xung phá, không vong, cả đời thường khó khăn, quan chức thấp mà thanh cao.
Diêm Đông Tẩu luận về "quý hợp" "quý thực", như giáp gặp kỷ sửu, kỷ mùi, hay mậu gặp quý sửu, quý mùi, hay canh gặp ất sửu, ất mùi, hay ất gặp canh tý, canh thân, hay kỷ gặp giáp tý, giáp thân, hay bính gặp tân dậu, tân hợi, hay đinh gặp nhâm dần, nhâm thìn các trường hợp này gọi là "quý hợp". Giáp có bính là 'thực thần", ất có đinh là "thực thần", mà bính đinh có "quý nhân" ở dậu và hợi, nên giáp gặp bính dần, bính thìn, còn ất gặp đinh dậu, đinh hợi; canh thực thần là nhâm, tân thực thần là quý, "quý nhân của nhâm và quý thì ở mão và tỵ, canh gặp nhâm thân, nhâm tuất, tân gặp quý mão, quý tỵ, các trường hợp này gọi là "quý thực". Có "quý hợp" thì quan lộ thường vẻ vang rạng rỡ, có "quý thực" thì bổng lộc thường được xứng ý, cùng gặp cả ba thì quan chức cao, bổng lộc nhiều.
"Tam Mệnh Đề Yếu" lấy "thiên ất" ở trên "lục hợp" của "quý thần", như giáp, mậu và canh ở tý và ngọ thì tý hợp sửu, ngọ hợp mùi. Ất và kỷ ở sửu và tỵ, bính đinh ở dần và thìn, nhâm và quý ở thân và tuất, tân ở mùi và hợi, tất cả đều chủ phúc lành to lớn, gặp cả hai hợp nói trên càng quý.
"Bảo Giám" có "thiên ất" phù trợ mình, lấy "quý nhân" kề bên ôm thái tuế, như người nhâm dần gặp ngày giờ giáp dần, nhâm thì "quý nhân" ở mão, giáp quý ở sửu, tức là kề bên ôm dần, hay như người bính thân gặp mậu thân chuẩn theo cách này. Được "quý cách", không bị hình xung, chủ một đời ít bệnh tật, từ trẻ đến già được hưởng phúc; còn gặp "thường cách" cả đời không bị tai hoạ hình ngục. Nếu có thiên can kề bên "quý nhân" như người giáp, mậu hay canh gặp sửu mùi, được một chữ giáp, mậu hay canh trên ngày giờ, chủ vẻ vang danh vọng khác thường.
"Chỉ Nam" có trường hợp "giáp quý" (kề bên quý nhân) gặp "lục hợp", ví như người nhâm quý gặp thìn nên được quý dậu hợp, người bính đinh gặp tuất nên được đinh mão hợp, chọn lấy trước sau của mỗi thứ có "thiên ất quý nhân", thêm lộc mã hiện diện, chủ rất giàu sang. Có "phúc tinh quý nhân" ví như một mệnh: "nhâm tý, quý mão, canh tuất, canh thìn", nhâm cưởi lưng rồng; lại thêm "quý nhân" ở mão và tỵ gặp thìn là "phúc tinh" trợ giúp "quý nhân" vậy.
"Chúc Thần Kinh" nói: "Thiên ất quý nhân" gặp sanh vượng, thì tướng hình phong cách hiên ngang, bản tính nhanh nhẹn, thông minh, hiểu rõ vấn đề, nghĩa lý rõ ràng, rành mạch, không thích phương pháp lộn xộn, tài năng chuyên nhất, người tích chứa đạo đức, được mọi người ngưỡng mộ. Tử, tuyệt thì bướng bỉnh tự cho mình là đúng, ưa thích ở gần người cao quý. Hội tụ với "kiếp sát" thì tướng mạo dày dặn oai nghiêm, nhiều mưu lắm kế. Hội tụ với "quan phù" thì văn chương bút mực bay bổng, phóng túng, bàn luận thanh cao mà biện luận thuyết phục. Hội tụ với "kiến lộc" thì văn chương bút mực chất phác thành thật, ra ơn cứu giúp, kết giao rộng rãi là người quân tử vậy. Nếu lạc "thiên trung" hoặc hợp với "thiên trung", hoặc với "thiên trung liên châu", thường có trạng thái Linh Luân (tên một vị nhạc quan ngày xưa), thích hát xướng ngâm vịnh, là người nghệ sĩ điêu luyện.
Lại nói thêm: "thiên ất quý nhân" là thần rất tốt trong "tam mệnh". Nếu một người gặp được sẽ giàu sang hiển đạt, công danh sớm đạt được, quan lộc cũng dễ tiếp cận. Như ba mệnh đều cưởi vượng khí, cuối cùng cũng được đề bạt vị trí công hầu, tướng quân, hay thừa tướng. Đại tiểu vận hay niên vận đến đây cũng chủ được thăng quan tiến tài, tất cả đều đến, đấy đều là điềm báo hiệu tốt lành. Nói chung nơi mà "quý nhân" đến, đại khái thích sanh vượng, không bị xung phá, thuận đạo lý, không bị không vong, toàn bộ thiên can, địa chi và nạp âm đều thuận hợp với nhau , thêm được lộc mã mà ngày đêm không làm trái ngược. Hoặc là quý nhân của năm với giờ trao đổi nhau, kiểu như người giáp ngọ gặp giờ tân sửu, hay người bính thân gặp kỷ hợi. Hoặc bốn thiên can cùng gặp "quý nhân" trên một địa chi, kiểu như sanh sửu hay mùi mà gặp giáp mậu canh. Hoặc bốn vị trí thiên can giao tiếp "tụ quý" (các quý nhân hội tụ), mà địa chi là ngũ hành của "tụ quý". Gặp thêm "thiên đức", "nguyệt đức" thì càng tốt. "Lý Ngu Ca" nói rằng: "Quý nhân" có thể rơi vào nơi không vong, "lộc mã" làm trái ngược cũng như không gặp. "Bảo Giám" nói rằng: "quý nhân" vô khí tuy có cũng như không. "Đỗng Huyền Kinh" nói: "quý nhân" giận dữ thì cái xấu sẽ đến. Có thể thấy rằng có "quý nhân" trong mệnh, không thể luận theo cái tốt lành, cần phải xem xét tỉ mỉ, rõ ràng.
论天乙贵人
天乙者,乃天上之神,在紫微垣、阊阖门外,与太乙并列,事天皇大帝,下游三辰,家在己丑斗牛之次,出乎己未井鬼之舍,执玉衡较量天人之事,名曰在乙也。其神最尊贵,所至之处,一切凶煞隐然而避。
《壶中子》云:贵人分治昼夜,各自专权,以昼生遇昼贵,夜生遇夜贵,为得力。或以子后为昼,午后为夜;或以日出为昼,日入为夜,皆是臆说。不若只以寅申分阴阳,冬至后用阳贵,夏至后阴贵。人命一阳生后遇阳贵为得力,一阴生后遇阴贵为得力。《三车一览》则以甲阳木乘少阳之气生乎东方,至巳而用事毕矣,故退藏于未而为贵。庚阳金乘少阴之气而生乎西,至亥而用事毕矣,故退藏于丑而为贵。戊阳土冲和中央播于四时,甲因之,万物生;庚因之,万物成,则生成之理毕矣。乙乃阴木,己乃阴土,二位无气失类而无所居,必待申子生旺水土滋养充实补助不足,此二者喜见申子而为贵。丙丁之火当盛夏至酷而害万物,性熄于酉,藏于亥,以西北成齐之气而和,此二者以酉亥阴气和而为贵。壬癸之水至穷冬则其性严而杀万物,惟啬于卯,潜于巳,以东南温燠之气而和,此二者以巳卯阳气和而为贵。辛乃阴金,执方不能自化,须假寅午生旺之火锉刚革而成形为贵。《广录》云:甲阳木、戊阳土、庚阳金,皆喜土位。未者,土之正位;丑者,土安静之地,所以牛羊为贵。细分之,甲尤喜未,庚尤喜丑,各归其库也,戊子、戊寅、戊午喜丑,丑者、火人胎养之乡,戊辰、戊申、戊戌喜未,未者,木人之库,土人生旺之位也。乙者,阴木;巳者,阴土,阴土喜生旺,阴木爱阳水,所以鼠猴为贵。然乙尤喜子,子者,水之旺乡;己尤喜申,申者,坤之正位。丙丁属火,火墓在戌;壬癸属水,水墓在辰。辰戌,魁罡之地,贵人不临,故寻寄火贵于酉亥,寄水贵于卯巳,皆归根复命之乡。六辛阴金,喜阳火生旺之地,故以马虎为贵。更宜以纳音互换。推寻须比和,则其贵为福,若丙火得酉,火至此死,焉足贵哉!
阎东叟云:论天乙贵,须就五行喜忌,如甲人有戊有庚,得癸未、乙丑,遇二吉而带印为上,遁见丁丑、辛未者次之,乃三阴喜在印库。乙人得戊申、庚子生旺之土,己人得甲申、丙子生旺之水,此阴木阴土喜于财旺。丙丁得丁酉、乙亥,壬癸得乙卯、癸巳。此水火不嫌死绝。六辛得丙寅、丙午,此阴金不嫌鬼胜,得二为上,得一次之。《紫虚局》以此为贵人入庙,遇者主金紫贵。
《八字金书》论贵神,又分优劣,即前六十甲子吉凶,其归要与禄、马同窠,不犯交退,伏神,支干相合为贵,紧要在月日时支干相合。
林开论天乙相合,如甲子见己未,无死绝、冲破、空亡,更有福神助,至贵。如犯上忌减力,又多难无福。戊子见己丑,不犯上忌,更有福助,此为次格。有死绝减力,有冲破、空亡,风尘吏也。辛未见庚寅,不犯上忌,有福助,为第三等;死绝减力,冲破、空亡,平生多难,卑冗官耳。
阎东叟论贵合贵食,如甲得己丑、己未,戊得癸丑、癸未,庚得乙丑、乙未,乙得庚子、庚申,己得甲子、甲申,丙得辛酉、辛亥,丁得壬寅,壬辰,如此类谓之贵合。甲食丙,乙食丁,丙丁贵在酉亥,甲得丙寅、丙辰,乙得丁酉、丁亥;庚食壬,辛食癸,壬癸贵在卯巳,庚得壬申、壬戌,辛得癸卯、癸巳,如此类谓之贵食。有贵合则官多荣显,有贵食则禄多称意,三者兼之,官高禄重。
《三命提要》以天乙在贵神六合上,如甲戊庚在子午,则子合丑,午合未。乙己在丑巳,丙丁在寅辰,壬癸在申戌,辛在未亥,皆主大福,遇两合以上尤贵。
《宝鉴》有天乙扶身,取贵人夹拥太岁,如壬寅人得甲寅日时,壬贵在卯,甲癸在丑夹拥乎寅,丙申人得戊申准此。入贵格,别无刑冲,主一生少病,早年享福;常格得之,终身无刑狱之灾。有干夹贵神,如甲戊庚人得丑未,日时上却带甲戊庚一字,主显异。
《指南》有夹贵逢六合,如壬癸人见辰而得癸酉合,丙丁人见戌而得丁卯合,取前后各有天乙贵,更禄马临身,主大富贵。有福星贵人,如一命,壬子、癸卯、庚戌、庚辰,壬骑龙背;又贵在卯巳,得辰是福星扶贵人也。
《烛神经》曰:"天乙贵遇生旺,则形貌轩昂性灵颖悟,理义分明,不喜杂术,纯粹大器,身蕴道德,众人钦爱。死绝则执拗自是,喜游近贵。与劫煞并,则貌厚有威,多谋足计。与官符并,则文翰飘逸,高谈雄辩。与建禄并,则文翰纯实,济惠广游,君子人也。若落天中或与天中合,或与天中连珠,当有伶伦之态,好呕吟,伎艺人也。
又曰:天乙贵,三命中最吉之神。若人遇之则荣,功名早达,官禄亦易近。如三命皆乘旺气,终登将相公侯之位。大小运行年至此,亦主迁官进财,一切加临,至此皆为吉兆。凡贵人所临之处,大概喜生旺,无冲破,道理顺,不落空亡,天干纳音偕和,更得禄马而昼夜不背。或年时互换贵,如甲午人见辛丑时,丙申见己亥之类。或四干并在一支上见贵,如丑未生而得甲戊庚之类。或四位天干通聚贵,地支为五行聚贵。更遇天月二德为佳。《理愚歌》云:"贵人或落空亡里,禄马背违如不值。"《宝鉴》云:"贵人无气,虽有如无。"《洞玄经》云:"贵人嗔则凶来。"可见命中有贵,不可就为吉论,要当细详。
.
#55
Gửi vào 28/06/2024 - 01:59
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Tam Kỳ
"Lạc Lục Tử" nói: "kỳ" là "quý", "kỳ" là đặc biệt. nghĩa là vật quý thì đặc biệt. Ất, bính, đinh hiện ra ở quý nhân can đức phối hợp với địa chi, âm quý giáp đức khởi ở tý thì ất đức ở sửu, bính đức ở dần, đinh đức ở mão, ba thiên can liên tục nhau mà không bị gián đoạn. Âm quý giáp đức khởi ở thân, ất ở mùi, bính ở ngọ, đinh ở tỵ ba gian liên tục mà không bị gián đoạn, vì kỳ theo quý nhân ở trên trời cho nên nói là thiên thượng tam kỳ, trong mười thiên can chỉ chỗ này là đặc biệt, còn lại thì hoặc là gián đoạn bởi thiên la địa võng, hoặc xen lẫn thiên không, hoặc không xuất hiện nữa, lại không liên tục nên không thể lấy làm kỳ. "Ngọc Tiêu Bảo Giám" cho là người xưa lấy tháng giêng làm khởi đầu của năm, mặt trời mọc ở ất, cho nên lấy ất làm nhật kỳ; người già được sùng bái gặp được là điềm tốt lành, gặp ở vị trí của đinh, cho nên lấy đinh làm tinh kỳ; trăng chiếu sáng đêm tối đến vị trí của bính nên dưới trời sáng tỏ, cho nên lấy bính làm nguyệt kỳ. Nếu giáp mậu canh cũng lấy làm thiên thượng tam kỳ, vì giáp mậu canh đều đến sửu mùi chính là quý nhân thứ hai nhà ở tại sao Đẩu, sao Ngưu, hiện ra ở nhà của sao Tỉnh sao Quỷ, tiên hậu thiên khởi quý nên ba can vừa vặn đến đúng lúc, với can khác không giống nhau, lý của nó cũng thông suốt. "Tam Xa Nhất Lãm" lấy giáp là thủ lãnh của dương mộc, mậu là vua của dương thổ, canh là bản chất của dương kim, đất có ba vật này là kỳ, gọi là địa kỳ, thuyết này quá khiên cưỡng. "Thái Ất Kinh" lấy tân nhâm quý làm thuỷ kỳ, gọi là nhân gian tam kỳ, thuyết này không có căn cứ, nhưng tân nhâm quý là thiên can kết nối châu ngọc, gọi là tam thai, cũng là khó gặp. "Tử Hư Cục" lại có thuyết tứ kỳ. Kỳ (còn đọc là cơ) là số lẻ, còn bốn là số chẳn, gọi là kỳ có được không? Tam kỳ cần thiết phải xếp đặt theo thứ tự, không muốn đảo lộn, như ất, bính, đinh hay giáp, mậu, canh thiên can của năm tháng ngày giờ theo thứ tự xếp đặt thì tốt. "Quảng Lục" lại lấy người ất tháng bính giờ đinh, là vì ất sanh bính đinh, tú khí giáng xuống, chủ bình thường. Nếu như giờ ất ngày bính và năm đinh, là tú khí thông suốt lên trên, trái lại là quý, có vẻ như lại không luận thuận nghịch. Giáp mậu canh thì theo thứ tự là quý, ngược lại thì phúc mạn, lộn xộn thì không thọ, khí trong thì quý, khí đục thì giàu. Kinh nói: ngũ hành mỗi thứ có kỳ và nghi, đều phải phân chia nghịch hay thuận. Nếu ngày tháng đảo lộn, gặp thuận tam kỳ cũng không gọi là đảo mệnh. Có tam kỳ cần thiết phải hợp thể thức, hợp vị trí, không muốn để lỡ thời. Như ất bính đinh sanh ban đêm, giáp mậu canh sanh ban ngày: hợp thể thức; ất bính đinh trụ có hợi, thì ba ánh sáng có nơi nương tựa, giáp mậu canh trụ có thân thì ba vật này có chỗ để dựa vào; hoặc ất bính đinh gặp sửu dần mão hay mùi ngọ tỵ, giáp mậu canh gặp sửu mùi kim đều là đắc địa . Tam kỳ gặp lại tam hợp như ất bính đinh gặp kim thuỷ cục, giáp mậu canh gặp thuỷ hoả cục. Lại thêm gặp lục nghi: tuần giáp tý mậu, tuần giáp tuất kỷ, tuần giáp thân canh, tuần giáp ngọ tân, tuần giáp thìn nhâm, tuần giáp dần quý, đều tốt. "Lạc Lục Tử" cho rằng: trọng phạm kỳ nghi, có hoài bão ôm giữ tài năng trác việt xuất chúng. "Độn Giáp" nói: xếp đặt tam kỳ theo thứ tự thuận, lục nghi thì nghịch lại. Như mệnh sanh ra ở hai tuần giáp tý, giáp thân gặp giáp mậu canh là trọng phạm kỳ nghi vậy.
Nói chung mệnh gặp tam kỳ chủ là người có tinh thần khác thường, trí tuệ cao hơn người thường, trí tò mò lớn, học thức uyên bác nhiều tài năng. Người có thiên ất quý nhân, thành tích vượt qua mọi người; người có thiên đức, nguyệt đức không mắc phải tai nạn hung xấu. Người có lục nghi tài cán và thông minh siêu việt. Người có tam hợp nhập cục là trụ cột của đất nước. Người có quan phù, kiếp sát tài năng kiến thức rộng lớn, xâu xa. Người có không vong sanh vượng, xa rời thế giới trần tục, giàu sang mà không buông thả; uy quyền và sức mạnh không khuất phục được, người gặp nguyên thần, hàm trì, xung phá, thiên la, địa võng thì vô dụng. Bàn luận tam kỳ, thái tuế không có mà tháng, ngày, giờ hiển lộ, chủ cô độc. Thơ nói: "theo thứ tự mười thiên can: ất bính dinh, tuổi trẻ tài năng sớm thi đậu danh tiếng vang khắp nơi; ngày giờ lộc mã lên đến chức quan đại thần, theo võ bỏ văn phò tá vua sáng suốt". Lại nói: "theo thứ tự mười thiên can: giáp mậu canh, gồm cả được trường sanh nắm giữ quan thự danh tiếng, tuy nhiên nếu không có lộc cả không có mã, chỉ là người tích trữ của cải". Lại nói thêm: " tam kỳ phải gặp được quý nhân , mới là người được vinh hoa, phúc, thọ; chỉ có kỳ trống rỗng mà không có quý nhân thì nghèo khó và thấp hèn lại bị lấn ép, lăng nhục". Lại nói thêm: "ất bính đinh, giáp mậu canh, tình trạng ưu đẳng là tương sanh, sanh rồi lại sanh, không phải khách của bồng lai tam đảo cũng là người đi trên thềm ngọc đến điện vàng ". Lại nói thêm: "muốn biết mái hiên cao to quan chức hách dịch, tiên nhân nổi tiếng thường sanh ở quý nhâm tân, tam kỳ tôn quý để truyền bá tin tức, khinh bạc thời chớ nên phê phán". Hợp các bài thơ quán xét về tam kỳ thấy rõ hỷ kỵ vậy.
论三奇
《珞??录子》曰:"奇为贵也;奇者,异也。"谓物以贵为奇也。乙丙丁出于贵人干德配支之妙,阴贵甲德起子,则乙德在丑,丙德在寅,丁德在卯,三干相连而无间。阴贵甲德起申、乙在未,丙在午,丁在已,三间相连而无间,以其随贵人在天,故曰"天上三奇",十干惟此为异,余则或间罗网,或间天空,或不重临,又不相联,不可以为奇。《玉霄宝鉴》谓古人以正月为岁之始,日出于乙,故以乙为日奇;老人星见为瑞,见于丁位,故以丁为星奇;月照夜到丙位而天下明,故以丙为月奇。若甲戊庚亦以为天上三奇,以甲戊庚俱临丑未,乃贵人家在斗牛之次,出乎井鬼之舍,先后天起贵而三干适临之,与别干不同,其理亦通。《三车一览》以甲为阳木之魁,戊为阳土之君,庚为阳金之精,地有此三物为奇,谓之地之奇,其说太凿,《太乙经》以辛壬癸为水奇,谓之人间三奇,其说无据,但辛壬癸天干连珠,谓之三台,亦为难得。《紫虚局》又有四奇之说。夫奇,奇数也,四则偶矣,谓之奇,可乎?三奇要顺布,不欲倒乱,如乙丙丁、甲戊庚,天干年月日时顺布为吉。《广录》又以乙人丙月丁时,是乙生丙丁,秀气下降,主平常。若乙时丙日丁年,是秀气上达,反为贵,似又不论顺逆。甲戊庚却以顺者为贵,逆者福慢,乱者不寿,气清则贵,气浊则富。经曰:五行各有奇仪,须分逆顺。若日月倒乱,得顺三奇,亦不谓倒命。有三奇,要得体得地,不欲失时。如乙丙丁夜生,甲戊庚昼生,得体;乙丙丁柱有亥,则三光有所依附,甲戊庚柱有申,则三物有所凭籍;或乙丙丁得丑寅卯未午巳,甲戊庚得丑未金,皆为得地。三奇再遇三合,如乙丙丁得金水局,甲戊庚得水火局。又遇六仪,甲子旬戊,甲戌旬己,甲申旬庚,甲午旬辛,甲辰旬壬,甲寅旬癸,俱吉。《珞??录子》云:"重犯奇仪,蕴藉抱出群之器。"《遁甲》曰:"顺布三奇,逆六仪。"如命出甲子、甲申二旬遇甲戊庚,是重犯奇仪也。
凡命遇三奇,主人精神异常,襟怀卓越,好奇尚大,博学多能。带天乙贵者,勋业超群;带天月二德者,凶灾不犯。带六仪者,才智出类。带三合入局者,国家柱石,带官符劫煞者,器识宏远。带空亡生旺者,脱尘离俗,富贵不淫;威武不屈,值元辰、咸池、冲破、天罗地网者,为无用。论三奇,太岁不带而月日时带着,孤独。诗曰:"顺十干神乙丙丁,神童及第播声名;日时禄马公卿煞,换武除文佐圣明。"又曰:"顺十干神甲戊庚,兼得长生丙府名;若然无禄兼无马,只是财中蓄积人。"又曰:"三奇须是重逢贵,方是荣华福寿人;只有空 奇无贵地,贫穷下贱被欺凌。"又曰:"乙丙丁、甲戊庚,上局相生生复生,不是蓬莱三岛客,也应金殿玉阶行。"又曰:"欲识岩廊官赫奕,名仙多诞癸壬辛,三奇玉藉传消息,轻薄时师莫与评。"合诸诗观三奇,喜忌见矣。
.
Luận Tam Kỳ
"Lạc Lục Tử" nói: "kỳ" là "quý", "kỳ" là đặc biệt. nghĩa là vật quý thì đặc biệt. Ất, bính, đinh hiện ra ở quý nhân can đức phối hợp với địa chi, âm quý giáp đức khởi ở tý thì ất đức ở sửu, bính đức ở dần, đinh đức ở mão, ba thiên can liên tục nhau mà không bị gián đoạn. Âm quý giáp đức khởi ở thân, ất ở mùi, bính ở ngọ, đinh ở tỵ ba gian liên tục mà không bị gián đoạn, vì kỳ theo quý nhân ở trên trời cho nên nói là thiên thượng tam kỳ, trong mười thiên can chỉ chỗ này là đặc biệt, còn lại thì hoặc là gián đoạn bởi thiên la địa võng, hoặc xen lẫn thiên không, hoặc không xuất hiện nữa, lại không liên tục nên không thể lấy làm kỳ. "Ngọc Tiêu Bảo Giám" cho là người xưa lấy tháng giêng làm khởi đầu của năm, mặt trời mọc ở ất, cho nên lấy ất làm nhật kỳ; người già được sùng bái gặp được là điềm tốt lành, gặp ở vị trí của đinh, cho nên lấy đinh làm tinh kỳ; trăng chiếu sáng đêm tối đến vị trí của bính nên dưới trời sáng tỏ, cho nên lấy bính làm nguyệt kỳ. Nếu giáp mậu canh cũng lấy làm thiên thượng tam kỳ, vì giáp mậu canh đều đến sửu mùi chính là quý nhân thứ hai nhà ở tại sao Đẩu, sao Ngưu, hiện ra ở nhà của sao Tỉnh sao Quỷ, tiên hậu thiên khởi quý nên ba can vừa vặn đến đúng lúc, với can khác không giống nhau, lý của nó cũng thông suốt. "Tam Xa Nhất Lãm" lấy giáp là thủ lãnh của dương mộc, mậu là vua của dương thổ, canh là bản chất của dương kim, đất có ba vật này là kỳ, gọi là địa kỳ, thuyết này quá khiên cưỡng. "Thái Ất Kinh" lấy tân nhâm quý làm thuỷ kỳ, gọi là nhân gian tam kỳ, thuyết này không có căn cứ, nhưng tân nhâm quý là thiên can kết nối châu ngọc, gọi là tam thai, cũng là khó gặp. "Tử Hư Cục" lại có thuyết tứ kỳ. Kỳ (còn đọc là cơ) là số lẻ, còn bốn là số chẳn, gọi là kỳ có được không? Tam kỳ cần thiết phải xếp đặt theo thứ tự, không muốn đảo lộn, như ất, bính, đinh hay giáp, mậu, canh thiên can của năm tháng ngày giờ theo thứ tự xếp đặt thì tốt. "Quảng Lục" lại lấy người ất tháng bính giờ đinh, là vì ất sanh bính đinh, tú khí giáng xuống, chủ bình thường. Nếu như giờ ất ngày bính và năm đinh, là tú khí thông suốt lên trên, trái lại là quý, có vẻ như lại không luận thuận nghịch. Giáp mậu canh thì theo thứ tự là quý, ngược lại thì phúc mạn, lộn xộn thì không thọ, khí trong thì quý, khí đục thì giàu. Kinh nói: ngũ hành mỗi thứ có kỳ và nghi, đều phải phân chia nghịch hay thuận. Nếu ngày tháng đảo lộn, gặp thuận tam kỳ cũng không gọi là đảo mệnh. Có tam kỳ cần thiết phải hợp thể thức, hợp vị trí, không muốn để lỡ thời. Như ất bính đinh sanh ban đêm, giáp mậu canh sanh ban ngày: hợp thể thức; ất bính đinh trụ có hợi, thì ba ánh sáng có nơi nương tựa, giáp mậu canh trụ có thân thì ba vật này có chỗ để dựa vào; hoặc ất bính đinh gặp sửu dần mão hay mùi ngọ tỵ, giáp mậu canh gặp sửu mùi kim đều là đắc địa . Tam kỳ gặp lại tam hợp như ất bính đinh gặp kim thuỷ cục, giáp mậu canh gặp thuỷ hoả cục. Lại thêm gặp lục nghi: tuần giáp tý mậu, tuần giáp tuất kỷ, tuần giáp thân canh, tuần giáp ngọ tân, tuần giáp thìn nhâm, tuần giáp dần quý, đều tốt. "Lạc Lục Tử" cho rằng: trọng phạm kỳ nghi, có hoài bão ôm giữ tài năng trác việt xuất chúng. "Độn Giáp" nói: xếp đặt tam kỳ theo thứ tự thuận, lục nghi thì nghịch lại. Như mệnh sanh ra ở hai tuần giáp tý, giáp thân gặp giáp mậu canh là trọng phạm kỳ nghi vậy.
Nói chung mệnh gặp tam kỳ chủ là người có tinh thần khác thường, trí tuệ cao hơn người thường, trí tò mò lớn, học thức uyên bác nhiều tài năng. Người có thiên ất quý nhân, thành tích vượt qua mọi người; người có thiên đức, nguyệt đức không mắc phải tai nạn hung xấu. Người có lục nghi tài cán và thông minh siêu việt. Người có tam hợp nhập cục là trụ cột của đất nước. Người có quan phù, kiếp sát tài năng kiến thức rộng lớn, xâu xa. Người có không vong sanh vượng, xa rời thế giới trần tục, giàu sang mà không buông thả; uy quyền và sức mạnh không khuất phục được, người gặp nguyên thần, hàm trì, xung phá, thiên la, địa võng thì vô dụng. Bàn luận tam kỳ, thái tuế không có mà tháng, ngày, giờ hiển lộ, chủ cô độc. Thơ nói: "theo thứ tự mười thiên can: ất bính dinh, tuổi trẻ tài năng sớm thi đậu danh tiếng vang khắp nơi; ngày giờ lộc mã lên đến chức quan đại thần, theo võ bỏ văn phò tá vua sáng suốt". Lại nói: "theo thứ tự mười thiên can: giáp mậu canh, gồm cả được trường sanh nắm giữ quan thự danh tiếng, tuy nhiên nếu không có lộc cả không có mã, chỉ là người tích trữ của cải". Lại nói thêm: " tam kỳ phải gặp được quý nhân , mới là người được vinh hoa, phúc, thọ; chỉ có kỳ trống rỗng mà không có quý nhân thì nghèo khó và thấp hèn lại bị lấn ép, lăng nhục". Lại nói thêm: "ất bính đinh, giáp mậu canh, tình trạng ưu đẳng là tương sanh, sanh rồi lại sanh, không phải khách của bồng lai tam đảo cũng là người đi trên thềm ngọc đến điện vàng ". Lại nói thêm: "muốn biết mái hiên cao to quan chức hách dịch, tiên nhân nổi tiếng thường sanh ở quý nhâm tân, tam kỳ tôn quý để truyền bá tin tức, khinh bạc thời chớ nên phê phán". Hợp các bài thơ quán xét về tam kỳ thấy rõ hỷ kỵ vậy.
论三奇
《珞??录子》曰:"奇为贵也;奇者,异也。"谓物以贵为奇也。乙丙丁出于贵人干德配支之妙,阴贵甲德起子,则乙德在丑,丙德在寅,丁德在卯,三干相连而无间。阴贵甲德起申、乙在未,丙在午,丁在已,三间相连而无间,以其随贵人在天,故曰"天上三奇",十干惟此为异,余则或间罗网,或间天空,或不重临,又不相联,不可以为奇。《玉霄宝鉴》谓古人以正月为岁之始,日出于乙,故以乙为日奇;老人星见为瑞,见于丁位,故以丁为星奇;月照夜到丙位而天下明,故以丙为月奇。若甲戊庚亦以为天上三奇,以甲戊庚俱临丑未,乃贵人家在斗牛之次,出乎井鬼之舍,先后天起贵而三干适临之,与别干不同,其理亦通。《三车一览》以甲为阳木之魁,戊为阳土之君,庚为阳金之精,地有此三物为奇,谓之地之奇,其说太凿,《太乙经》以辛壬癸为水奇,谓之人间三奇,其说无据,但辛壬癸天干连珠,谓之三台,亦为难得。《紫虚局》又有四奇之说。夫奇,奇数也,四则偶矣,谓之奇,可乎?三奇要顺布,不欲倒乱,如乙丙丁、甲戊庚,天干年月日时顺布为吉。《广录》又以乙人丙月丁时,是乙生丙丁,秀气下降,主平常。若乙时丙日丁年,是秀气上达,反为贵,似又不论顺逆。甲戊庚却以顺者为贵,逆者福慢,乱者不寿,气清则贵,气浊则富。经曰:五行各有奇仪,须分逆顺。若日月倒乱,得顺三奇,亦不谓倒命。有三奇,要得体得地,不欲失时。如乙丙丁夜生,甲戊庚昼生,得体;乙丙丁柱有亥,则三光有所依附,甲戊庚柱有申,则三物有所凭籍;或乙丙丁得丑寅卯未午巳,甲戊庚得丑未金,皆为得地。三奇再遇三合,如乙丙丁得金水局,甲戊庚得水火局。又遇六仪,甲子旬戊,甲戌旬己,甲申旬庚,甲午旬辛,甲辰旬壬,甲寅旬癸,俱吉。《珞??录子》云:"重犯奇仪,蕴藉抱出群之器。"《遁甲》曰:"顺布三奇,逆六仪。"如命出甲子、甲申二旬遇甲戊庚,是重犯奇仪也。
凡命遇三奇,主人精神异常,襟怀卓越,好奇尚大,博学多能。带天乙贵者,勋业超群;带天月二德者,凶灾不犯。带六仪者,才智出类。带三合入局者,国家柱石,带官符劫煞者,器识宏远。带空亡生旺者,脱尘离俗,富贵不淫;威武不屈,值元辰、咸池、冲破、天罗地网者,为无用。论三奇,太岁不带而月日时带着,孤独。诗曰:"顺十干神乙丙丁,神童及第播声名;日时禄马公卿煞,换武除文佐圣明。"又曰:"顺十干神甲戊庚,兼得长生丙府名;若然无禄兼无马,只是财中蓄积人。"又曰:"三奇须是重逢贵,方是荣华福寿人;只有空 奇无贵地,贫穷下贱被欺凌。"又曰:"乙丙丁、甲戊庚,上局相生生复生,不是蓬莱三岛客,也应金殿玉阶行。"又曰:"欲识岩廊官赫奕,名仙多诞癸壬辛,三奇玉藉传消息,轻薄时师莫与评。"合诸诗观三奇,喜忌见矣。
.
#56
Gửi vào 28/06/2024 - 05:56
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Thiên Nguyệt Đức
"Đức" là lợi dung vật để cứu giúp người, nghĩa là ngăn che điều hung ác mà làm điều thiện lành. "Thiên đức" nghĩa là toàn bộ số ngày có ba trăm sáu mươi lăm độ hai mươi lăm phân rưởi, ngoài việc phân chia mười hai cung, mỗi cung chiếm ba mươi độ, tổng cộng là ba trăm sáu mươi độ, còn dư năm độ hai mươi lăm phân rưởi, phân tán ở mười hai cung phụ: giáp, canh, bính, nhâm, ất, tân, đinh, quý, càn, khôn, cấn, tốn, gọi là "thần tàng sát một" - thần sát ẩn tàng. Mỗi cung đều được bốn mươi bốn phân, vì thế trong tý, ngọ, mão, dậu có giáp, canh, bính, nhâm; trong thìn, tuất, sửu, mùi có ất, tân, đinh, quý; trong dần, thân, tỵ, hợi có càn, khôn, cấn, tốn. Mười hai cung này có khả năng "hồi hung tác thiện" - tránh điều xấu ác làm điều thiện lành, gọi là "thiên đức". "Nguyệt đức" chính là phương của tam hợp soi sáng, các thần của ngày tháng hội hợp, thân tý thìn gặp dậu sẽ xuất hiện, canh nhập ở nhâm; hợi mão mùi gặp can (có lẽ là chữ ngọ 午 thay vì can 干) sẽ xuất hiện, bính nhập ở giáp; dần ngọ tuất gặp mão sẽ xuất hiện, giáp nhập ở bính; tỵ dậu sửu gặp tý sẽ xuất hiện, nhâm nhập ở canh, cho nên nhâm, giáp, bính, tý gọi là "nguyệt đức", mà bốn tháng thìn, tuất, sửu, mùi "thiên đức" cũng cùng thuộc nơi đó. Bởi cung được nhật nguyệt chiếu đến, hễ "thiên diệu địa sát", tất cả đều có khả năng chế phục, cho nên có thể tranh hung ác làm điều thiện. Diêm Đông Tẩu cho rằng: quý thần nắm quyền, các ác thần đều ẩn núp; hai đức hỗ trợ, mọi ác thần đều bị xua tan. Hễ trong mệnh có mang hung sát gặp hai đức này nâng đỡ, cải biến, cái hung xấu cũng không nghiêm trọng; cần phải gặp trên can ngày, can giờ không phạm khắc, xung, hình, phá mới được tốt lành. Người thường gặp được một đời sống thoải mái, không bị hình phạt, không bị trộm cướp, cho dù gặp phải tai hoạ xấu ác cũng tự nhiên tiêu tan. Cùng hội tụ với tam kỳ, thiên ất quý nhân càng được thêm tốt lành. Hoặc tài, quan, ấn thụ, thực thần trở thành đức, mỗi thứ tuỳ theo chỗ biến đổi, phúc lành sẽ được tăng đôi. Hợp quý cách chủ về thi cử đậu hạng đầu bảng, được vua sủng ái uỷ nhiệm; hoặc kế thừa ân đức che chở của tổ tiên, cũng được hiển đạt. Gặp tiện cách: một đời no ấm, phúc thọ được toàn vẹn cả hai; lỡ có khó khăn cũng có thể thủ phận giữ mình, không mất đức tính của người quân tử. Phụ nữ gặp được thường là vợ của quý nhân. "Tam Mệnh Linh" cho rằng: thiên đức là thần của ngũ hành phúc đức, nếu người gặp được chủ lên được vị trí "thai phụ" - tương đương với tam công, hội tụ cùng với nguyệt đức, càng thêm tốt đẹp; cho dù có hung sát cũng chủ hiển lộ sự trong sạch. "Tử Bình Phú" cho rằng: "ấn thụ gặp cùng thiên đức không bị hình phạt, đến già không gặp tai hoạ". Đúng là thiên đức ưu thế hơn nguyệt đức vậy.
Xem xét đại thống lịch, có thiên nguyệt đức hợp, đó chính là thần của ngũ hành hoà hợp với nhau. Tháng xếp đặt trước để hợp: như tháng giêng bính với tân hợp. tháng hai giáp với kỷ hợp, tháng ba nhâm với đinh hợp, tháng tư canh với ất hợp, còn lại noi theo đó. Thiên đức hợp: như tháng giêng đinh với nhâm hợp, tháng hai khôn với tốn hợp, tháng ba nhâm với đinh hợp, tháng tư tân với bính hợp, còn lại noi theo đó.
Có trường hợp nguyệt không: như các tháng dần ngọ tuất - nhâm, hợi mão mùi - canh, thân tý thìn - bính, tỵ dậu sửu - thân.
Có trường hợp nguyệt yếm: tháng giêng tuất, tháng hai dậu, tháng ba thân, tháng tư mùi, tháng năm ngọ, tháng sáu tỵ, tháng bảy thìn, tháng tám mão, tháng chín dần, tháng mười sửu, tháng mười một tý, tháng mười hai hợi.
Có nguyệt sát: tháng dần ngọ tuất - sửu, tháng hợi mão mùi - tuất, tháng thân tý thìn - mùi, thng1 tỵ dậu sửu - thìn.
Có thiên xá nhật: xuân mậu dần, hạ giáp ngọ, thu mậu thân, đông giáp tý; chính là tứ thời chuyên khí (khí đặc biệt bốn mùa), sinh trưởng vạn vật, tha thứ tội lỗi. Như mệnh người hội tụ một nguyệt đức tốt đẹp hợp không cùng với bốn mùa rất tốt lành, gặp thêm thiên xá nhật thì càng tuyệt diệu.
Ngoài ra còn có "thiên hỷ thần": xuân tuất, hạ sửu, thu thìn, đông mùi, ai gặp được sẽ được vui mừng,yêu thích.
Có tinh đức sát: như dần ngọ tuất ngày bính, hợi mão mùi ngày giờ giáp, thân tý thìn ngày giờ nhâm, tỵ dậu sửu ngày giờ canh.
Có tinh việt sát: như dần ngọ tuất giờ dần, hợi mão mùi giờ hợi, thân tý thìn giờ thân, tỵ dậu sửu giờ tỵ. Lại thêm dần ngọ tuất gặp tân, hợi mão mùi gặp kỷ, thân tý thìn gặp đinh, tỵ dậu sửu gặp ất, cũng gọi là tinh đức. Sách nói rằng: "một thần chủ tinh đức, năm đời không nghèo khó; trong có tinh việt sát là tướng ngang với tam công". Đức, việt hội tụ với nhau không sang cũng giàu.
Lại có thêm một loại tinh việt sát khác: người dần mão thìn gặp quý dậu, người tỵ ngọ mùi gặp quý mão, người thân dậu tuất gặp mậu tý, người hợi tý sửu gặp mậu ngọ, đó là thần tru lục của bốn mùa, dân thường chủ bị hình phạt khổ dịch hoặc đày đi xa; khắc bổn mệnh chủ tội chết ác độc.
Lại có thêm một loại tam công sát: người dần ngọ tuất gặp nhâm tý, người tỵ dậu sửu gặp bính ngọ, người thân tý thìn gặp ất mão, người hợi mão mùi gặp tân dậu, đó là phạm tứ phương chuyên khí (khí đặc biệt của bốn phương) tới khắc năm sanh, là ngũ hành độc khí (khí độc của ngũ hành), thường dân phạm nhằm chủ chết ác độc không bất ngờ. Nếu tinh việt thêm với tam công sát cùng hội tụ chung một chỗ, chủ cực kỳ quý.
Các nhà bàn bạc về mệnh ngày nay chỉ luận nguyệt đức mà không luận các sát, kiến giải cố chấp một cách tự nhiên, vì thế thừa cơ mà vứt bỏ.
论天月德
夫德者,利物济人、掩凶作善之谓也。天德者,谓周天有三百六十五度二十五分半,除十二宫分野,每宫各占三十度,共计三百六十度,外有五度二十五分半,散在十二佐宫甲、庚、丙、壬、乙、辛、丁、癸、乾、坤、艮、巽,谓之神藏煞没。每宫各得四十四分,所以子午卯酉中有甲庚丙壬,辰戌丑未中有乙辛丁癸,寅申巳亥中有乾坤艮巽,此十二位宫,能回凶作善,乃曰天德也。月德者,乃三合所照之方,日月会合之辰,申子辰会酉出,庚入垣于壬;亥卯未会干出,丙入垣于甲;寅午戌会卯出,甲入垣于丙;巳酉丑会子出,壬入垣于庚,故壬甲丙癸谓之月德,而辰未戌丑四月,天德亦同属焉。盖日月照临之宫,凡天曜地煞,尽可制服,故可回凶作吉。阎东叟云:贵神在位,诸煞伏藏;二德扶持,众凶解散。凡命中带凶煞,得此二德扶化,凶不为甚;须要日上见,时上不犯克冲刑破,方吉。凡人得之,一生安逸,不犯刑,不逢盗,纵遇凶祸,自然消散。与三奇、天乙贵同并,尤为吉庆。或财官、印绶、食神、变德,各随所变,更加一倍之福。入贵格,主登科甲,得君宠任;或承祖荫,亦得显达。入贱格,一生温饱,福寿两全;纵有蹇滞,亦能守分固穷,不失为君子。女命得之,多为贵人之妻。《三命铃》云:天德者,五行福德之辰,若人遇之,主登台辅之位,更有月德并者,尤好;纵有凶煞,亦主清显。《子平赋》云:"印绶得同天德,官刑不犯,至老无殃"。是天德胜月德也。
考大统历,有天月德合,乃五行相契之辰。月备合,如正月丙与辛合,二月甲与己合,三月壬与丁合,四月庚与乙合,余照此。天德合,如正月丁与壬合,二月坤与巽合,三月壬与丁合,四月辛与丙合,余照此。
有月空,如寅午戌月壬,亥卯未月庚,申子辰月丙,巳酉丑月申。
有月厌,正月戊,二月酉,三月申,四月未,五月午,六月巳,七月辰,八月卯,九月寅,十月丑,十一月子,十二月亥。
有月煞,寅午戌月丑,亥卯未月戌,申子辰月未,巳酉丑月辰。有天赦日,春戊寅,夏甲午,秋戊申,冬甲子,乃四时专气,生育万物,宥罪赦过。如人命聚一月德秀合空及四大吉时生,更遇天赦日,尤妙。
此外又有天喜神,春戊,夏丑,秋辰、冬未,遇者主欢欣。
有旌德煞,如寅午戌、丙日进,亥卯未、甲日时,申子辰、壬日时,巳酉丑、庚日时。
有旌钺煞,如寅午戌、寅时,亥卯未、亥时,甲子辰、申时,巳酉丑、巳时。又,寅午戌见辛,亥卯未见己,申子辰见丁,巳酉丑见乙,亦谓之旌德。经云:"一神主旌德,五世不 贫穷;内有旌钺煞,将相及三公。"德钺相会,不贵即富。
又有一种旌钺煞,寅卯辰人见癸酉,巳午未人见癸卯,申酉戌人见戊子,亥子丑人见戊午,乃四时专主诛戮之神,庶人主徒配;克本命,主恶死。
又有一种三公煞,寅午戌人壬子,巳酉丑人丙午,申子辰人乙卯,亥卯未人辛酉,乃坐四方专气来克生年,为五行毒气,庶人犯之,主非横恶死。若旌钺更与三公煞会同一位,主殊贵。
今之谈命者论月德而诸煞不论,自是偏见,因并及之。
.
Luận Thiên Nguyệt Đức
"Đức" là lợi dung vật để cứu giúp người, nghĩa là ngăn che điều hung ác mà làm điều thiện lành. "Thiên đức" nghĩa là toàn bộ số ngày có ba trăm sáu mươi lăm độ hai mươi lăm phân rưởi, ngoài việc phân chia mười hai cung, mỗi cung chiếm ba mươi độ, tổng cộng là ba trăm sáu mươi độ, còn dư năm độ hai mươi lăm phân rưởi, phân tán ở mười hai cung phụ: giáp, canh, bính, nhâm, ất, tân, đinh, quý, càn, khôn, cấn, tốn, gọi là "thần tàng sát một" - thần sát ẩn tàng. Mỗi cung đều được bốn mươi bốn phân, vì thế trong tý, ngọ, mão, dậu có giáp, canh, bính, nhâm; trong thìn, tuất, sửu, mùi có ất, tân, đinh, quý; trong dần, thân, tỵ, hợi có càn, khôn, cấn, tốn. Mười hai cung này có khả năng "hồi hung tác thiện" - tránh điều xấu ác làm điều thiện lành, gọi là "thiên đức". "Nguyệt đức" chính là phương của tam hợp soi sáng, các thần của ngày tháng hội hợp, thân tý thìn gặp dậu sẽ xuất hiện, canh nhập ở nhâm; hợi mão mùi gặp can (có lẽ là chữ ngọ 午 thay vì can 干) sẽ xuất hiện, bính nhập ở giáp; dần ngọ tuất gặp mão sẽ xuất hiện, giáp nhập ở bính; tỵ dậu sửu gặp tý sẽ xuất hiện, nhâm nhập ở canh, cho nên nhâm, giáp, bính, tý gọi là "nguyệt đức", mà bốn tháng thìn, tuất, sửu, mùi "thiên đức" cũng cùng thuộc nơi đó. Bởi cung được nhật nguyệt chiếu đến, hễ "thiên diệu địa sát", tất cả đều có khả năng chế phục, cho nên có thể tranh hung ác làm điều thiện. Diêm Đông Tẩu cho rằng: quý thần nắm quyền, các ác thần đều ẩn núp; hai đức hỗ trợ, mọi ác thần đều bị xua tan. Hễ trong mệnh có mang hung sát gặp hai đức này nâng đỡ, cải biến, cái hung xấu cũng không nghiêm trọng; cần phải gặp trên can ngày, can giờ không phạm khắc, xung, hình, phá mới được tốt lành. Người thường gặp được một đời sống thoải mái, không bị hình phạt, không bị trộm cướp, cho dù gặp phải tai hoạ xấu ác cũng tự nhiên tiêu tan. Cùng hội tụ với tam kỳ, thiên ất quý nhân càng được thêm tốt lành. Hoặc tài, quan, ấn thụ, thực thần trở thành đức, mỗi thứ tuỳ theo chỗ biến đổi, phúc lành sẽ được tăng đôi. Hợp quý cách chủ về thi cử đậu hạng đầu bảng, được vua sủng ái uỷ nhiệm; hoặc kế thừa ân đức che chở của tổ tiên, cũng được hiển đạt. Gặp tiện cách: một đời no ấm, phúc thọ được toàn vẹn cả hai; lỡ có khó khăn cũng có thể thủ phận giữ mình, không mất đức tính của người quân tử. Phụ nữ gặp được thường là vợ của quý nhân. "Tam Mệnh Linh" cho rằng: thiên đức là thần của ngũ hành phúc đức, nếu người gặp được chủ lên được vị trí "thai phụ" - tương đương với tam công, hội tụ cùng với nguyệt đức, càng thêm tốt đẹp; cho dù có hung sát cũng chủ hiển lộ sự trong sạch. "Tử Bình Phú" cho rằng: "ấn thụ gặp cùng thiên đức không bị hình phạt, đến già không gặp tai hoạ". Đúng là thiên đức ưu thế hơn nguyệt đức vậy.
Xem xét đại thống lịch, có thiên nguyệt đức hợp, đó chính là thần của ngũ hành hoà hợp với nhau. Tháng xếp đặt trước để hợp: như tháng giêng bính với tân hợp. tháng hai giáp với kỷ hợp, tháng ba nhâm với đinh hợp, tháng tư canh với ất hợp, còn lại noi theo đó. Thiên đức hợp: như tháng giêng đinh với nhâm hợp, tháng hai khôn với tốn hợp, tháng ba nhâm với đinh hợp, tháng tư tân với bính hợp, còn lại noi theo đó.
Có trường hợp nguyệt không: như các tháng dần ngọ tuất - nhâm, hợi mão mùi - canh, thân tý thìn - bính, tỵ dậu sửu - thân.
Có trường hợp nguyệt yếm: tháng giêng tuất, tháng hai dậu, tháng ba thân, tháng tư mùi, tháng năm ngọ, tháng sáu tỵ, tháng bảy thìn, tháng tám mão, tháng chín dần, tháng mười sửu, tháng mười một tý, tháng mười hai hợi.
Có nguyệt sát: tháng dần ngọ tuất - sửu, tháng hợi mão mùi - tuất, tháng thân tý thìn - mùi, thng1 tỵ dậu sửu - thìn.
Có thiên xá nhật: xuân mậu dần, hạ giáp ngọ, thu mậu thân, đông giáp tý; chính là tứ thời chuyên khí (khí đặc biệt bốn mùa), sinh trưởng vạn vật, tha thứ tội lỗi. Như mệnh người hội tụ một nguyệt đức tốt đẹp hợp không cùng với bốn mùa rất tốt lành, gặp thêm thiên xá nhật thì càng tuyệt diệu.
Ngoài ra còn có "thiên hỷ thần": xuân tuất, hạ sửu, thu thìn, đông mùi, ai gặp được sẽ được vui mừng,yêu thích.
Có tinh đức sát: như dần ngọ tuất ngày bính, hợi mão mùi ngày giờ giáp, thân tý thìn ngày giờ nhâm, tỵ dậu sửu ngày giờ canh.
Có tinh việt sát: như dần ngọ tuất giờ dần, hợi mão mùi giờ hợi, thân tý thìn giờ thân, tỵ dậu sửu giờ tỵ. Lại thêm dần ngọ tuất gặp tân, hợi mão mùi gặp kỷ, thân tý thìn gặp đinh, tỵ dậu sửu gặp ất, cũng gọi là tinh đức. Sách nói rằng: "một thần chủ tinh đức, năm đời không nghèo khó; trong có tinh việt sát là tướng ngang với tam công". Đức, việt hội tụ với nhau không sang cũng giàu.
Lại có thêm một loại tinh việt sát khác: người dần mão thìn gặp quý dậu, người tỵ ngọ mùi gặp quý mão, người thân dậu tuất gặp mậu tý, người hợi tý sửu gặp mậu ngọ, đó là thần tru lục của bốn mùa, dân thường chủ bị hình phạt khổ dịch hoặc đày đi xa; khắc bổn mệnh chủ tội chết ác độc.
Lại có thêm một loại tam công sát: người dần ngọ tuất gặp nhâm tý, người tỵ dậu sửu gặp bính ngọ, người thân tý thìn gặp ất mão, người hợi mão mùi gặp tân dậu, đó là phạm tứ phương chuyên khí (khí đặc biệt của bốn phương) tới khắc năm sanh, là ngũ hành độc khí (khí độc của ngũ hành), thường dân phạm nhằm chủ chết ác độc không bất ngờ. Nếu tinh việt thêm với tam công sát cùng hội tụ chung một chỗ, chủ cực kỳ quý.
Các nhà bàn bạc về mệnh ngày nay chỉ luận nguyệt đức mà không luận các sát, kiến giải cố chấp một cách tự nhiên, vì thế thừa cơ mà vứt bỏ.
论天月德
夫德者,利物济人、掩凶作善之谓也。天德者,谓周天有三百六十五度二十五分半,除十二宫分野,每宫各占三十度,共计三百六十度,外有五度二十五分半,散在十二佐宫甲、庚、丙、壬、乙、辛、丁、癸、乾、坤、艮、巽,谓之神藏煞没。每宫各得四十四分,所以子午卯酉中有甲庚丙壬,辰戌丑未中有乙辛丁癸,寅申巳亥中有乾坤艮巽,此十二位宫,能回凶作善,乃曰天德也。月德者,乃三合所照之方,日月会合之辰,申子辰会酉出,庚入垣于壬;亥卯未会干出,丙入垣于甲;寅午戌会卯出,甲入垣于丙;巳酉丑会子出,壬入垣于庚,故壬甲丙癸谓之月德,而辰未戌丑四月,天德亦同属焉。盖日月照临之宫,凡天曜地煞,尽可制服,故可回凶作吉。阎东叟云:贵神在位,诸煞伏藏;二德扶持,众凶解散。凡命中带凶煞,得此二德扶化,凶不为甚;须要日上见,时上不犯克冲刑破,方吉。凡人得之,一生安逸,不犯刑,不逢盗,纵遇凶祸,自然消散。与三奇、天乙贵同并,尤为吉庆。或财官、印绶、食神、变德,各随所变,更加一倍之福。入贵格,主登科甲,得君宠任;或承祖荫,亦得显达。入贱格,一生温饱,福寿两全;纵有蹇滞,亦能守分固穷,不失为君子。女命得之,多为贵人之妻。《三命铃》云:天德者,五行福德之辰,若人遇之,主登台辅之位,更有月德并者,尤好;纵有凶煞,亦主清显。《子平赋》云:"印绶得同天德,官刑不犯,至老无殃"。是天德胜月德也。
考大统历,有天月德合,乃五行相契之辰。月备合,如正月丙与辛合,二月甲与己合,三月壬与丁合,四月庚与乙合,余照此。天德合,如正月丁与壬合,二月坤与巽合,三月壬与丁合,四月辛与丙合,余照此。
有月空,如寅午戌月壬,亥卯未月庚,申子辰月丙,巳酉丑月申。
有月厌,正月戊,二月酉,三月申,四月未,五月午,六月巳,七月辰,八月卯,九月寅,十月丑,十一月子,十二月亥。
有月煞,寅午戌月丑,亥卯未月戌,申子辰月未,巳酉丑月辰。有天赦日,春戊寅,夏甲午,秋戊申,冬甲子,乃四时专气,生育万物,宥罪赦过。如人命聚一月德秀合空及四大吉时生,更遇天赦日,尤妙。
此外又有天喜神,春戊,夏丑,秋辰、冬未,遇者主欢欣。
有旌德煞,如寅午戌、丙日进,亥卯未、甲日时,申子辰、壬日时,巳酉丑、庚日时。
有旌钺煞,如寅午戌、寅时,亥卯未、亥时,甲子辰、申时,巳酉丑、巳时。又,寅午戌见辛,亥卯未见己,申子辰见丁,巳酉丑见乙,亦谓之旌德。经云:"一神主旌德,五世不 贫穷;内有旌钺煞,将相及三公。"德钺相会,不贵即富。
又有一种旌钺煞,寅卯辰人见癸酉,巳午未人见癸卯,申酉戌人见戊子,亥子丑人见戊午,乃四时专主诛戮之神,庶人主徒配;克本命,主恶死。
又有一种三公煞,寅午戌人壬子,巳酉丑人丙午,申子辰人乙卯,亥卯未人辛酉,乃坐四方专气来克生年,为五行毒气,庶人犯之,主非横恶死。若旌钺更与三公煞会同一位,主殊贵。
今之谈命者论月德而诸煞不论,自是偏见,因并及之。
.
#57
Gửi vào 28/06/2024 - 10:22
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Thái Cực Quý
Thái cực là thời điểm mới bắt đầu, lúc mới đầu, vạn vật được tạo ra là thái cực, hoàn thành, cất giữ, vạn vật có chỗ nương về gọi là cực. Thiên nhiên luôn bảo vệ lẫn nhau nên nói thái cực quý là vậy. Giáp ất mộc đầu tiên được tạo ra ở tý, được khảm thuỷ trợ giúp nên sanh trưởng, sau đó kết thúc ở ngọ vì ly hoả đốt cháy nên chết. Bính đinh hoả đầu tiên thích hiện ra ở chấn, là mão, sau đó thích thu tàng ở đoài, là dậu. Canh tân kim gặp dần, chính là kim sanh ở cấn, gặp hợi chính là kim miếu ở càn. Nhâm quý thuỷ đầu tiên được (có lẽ thiếu chữ thân) thì sanh ra, sau đó được tỵ thì thu nạp. Kinh nói: "đất thấp ở đông nam, bốn dòng nước đều chảy về nơi tốn, tất cả đều có ý niệm khởi đầu và kết thúc". Mậu kỷ là thổ thích sanh ra ở thân, gặp thìn, tuất, thổ, mùi là "chánh khố". "Lý Ngu Ca" cho rằng: "bốn khố lúc nào cũng là rất quý, cấp bậc được ban phát căn cứ vào quyền hành". Mệnh của người nhập cách, có thêm phúc khí quý thần trợ giúp, làm sao mà không đẹp phải không?
- Có văn xương quý: giáp ất xà khẩu ất trư đầu, bính cẩu đinh long mậu hướng hầu; kỉ ngọ canh dần tân mùi quý, lục nhâm mão vị quý phùng ngưu. Tạm dịch: giáp ất miệng rắn ất đầu heo, bính chó đinh rồng mậu hướng về khỉ; kỷ ngọ canh dần tân mùi quý, lục nhâm nơi mão quý gặp trâu.
- Có văn dự quý: như người giáp tý gặp nhâm tuất và bính dần, tiền lộc và hậu lộc đồng dạng thần, sẽ làm đến công khanh đứng đầu người thế gian; bản tính thông minh tự nhiên danh tiếng truyền khắp nơi, phú quý vinh hoa sự nghiệp cải tiến.
- Có văn tinh quý: giáp mã ất xà bính mậu hầu, dậu thai đinh kỉ hợi tân cầu; canh phùng tuất cẩu phùng hổ, thập vị văn tinh quý thố du. Tạm dịch: giáp ngựa, ất rắn bính mậu khỉ, dậu thai đinh kỷ hợi tân tìm; canh gặp tuất chó gặp cọp quý thỏ (quý mão) ngao du.
- Có thiên ấn quý: giáp tý tại dần trung, ất phùng hợi diệc đồng; đinh dậu mậu thân vị, bính tuất kỉ dương cung; canh tân mã xà túc, quý mão dữ nhâm long; thử hào thiên ấn quý, vinh đạt thụ hoàng phong. Tạm dịch: giáp tý ở trong dần, ất gặp hợi cũng hội họp; đinh dậu nơi mậu tuất, bính tuất cung kỷ mùi, canh tân chân ngựa và rắn, quý mão với nhâm thìn; đấy là hiệu thiên ấn quý, vinh hoa hiển quý được vua ban phát.
论太极贵
太极者,太初也,始也,物造于初为太极,成也,收也,物有所归曰极。造化始终相保,乃曰太极贵也。甲乙木先造乎子,坎水助而生,后终乎午,离火焚而死。丙丁火先喜出乎震,卯也,后喜藏乎兑,酉也。庚辛金得寅,乃金生乎艮,见亥乃金庙乎乾。壬癸水先得则生,后得巳而纳。经曰:"地陷东南,
四渎俱流巽位,皆有始有终之意。"戊己,土也,喜生乎申,得辰戌丑未为正库。《理愚歌》云:"四库全时为至贵,位班上列据权衡。"人命入格,更有福气贵神扶,岂不为美。
有文昌贵,甲乙蛇口乙猪头,丙狗丁龙戊向猴;己午庚寅辛未贵,六壬卯位癸逢牛。
有文誉贵,如甲子人见壬戌、丙寅,禄前禄后一般神,必作公卿冠世人;立性天聪名誉播,富贵荣华事业新。
有文星贵,甲马乙蛇丙戊猴,酉台丁己亥辛求;庚逢戌狗逢虎,十位文星癸兔游。
有天印贵,甲子在寅中,乙逢亥亦同;丁酉戊申位,丙戌己羊宫;庚辛马蛇足,癸卯与壬龙;此号天印贵,荣达受皇封。
.
Luận Thái Cực Quý
Thái cực là thời điểm mới bắt đầu, lúc mới đầu, vạn vật được tạo ra là thái cực, hoàn thành, cất giữ, vạn vật có chỗ nương về gọi là cực. Thiên nhiên luôn bảo vệ lẫn nhau nên nói thái cực quý là vậy. Giáp ất mộc đầu tiên được tạo ra ở tý, được khảm thuỷ trợ giúp nên sanh trưởng, sau đó kết thúc ở ngọ vì ly hoả đốt cháy nên chết. Bính đinh hoả đầu tiên thích hiện ra ở chấn, là mão, sau đó thích thu tàng ở đoài, là dậu. Canh tân kim gặp dần, chính là kim sanh ở cấn, gặp hợi chính là kim miếu ở càn. Nhâm quý thuỷ đầu tiên được (có lẽ thiếu chữ thân) thì sanh ra, sau đó được tỵ thì thu nạp. Kinh nói: "đất thấp ở đông nam, bốn dòng nước đều chảy về nơi tốn, tất cả đều có ý niệm khởi đầu và kết thúc". Mậu kỷ là thổ thích sanh ra ở thân, gặp thìn, tuất, thổ, mùi là "chánh khố". "Lý Ngu Ca" cho rằng: "bốn khố lúc nào cũng là rất quý, cấp bậc được ban phát căn cứ vào quyền hành". Mệnh của người nhập cách, có thêm phúc khí quý thần trợ giúp, làm sao mà không đẹp phải không?
- Có văn xương quý: giáp ất xà khẩu ất trư đầu, bính cẩu đinh long mậu hướng hầu; kỉ ngọ canh dần tân mùi quý, lục nhâm mão vị quý phùng ngưu. Tạm dịch: giáp ất miệng rắn ất đầu heo, bính chó đinh rồng mậu hướng về khỉ; kỷ ngọ canh dần tân mùi quý, lục nhâm nơi mão quý gặp trâu.
- Có văn dự quý: như người giáp tý gặp nhâm tuất và bính dần, tiền lộc và hậu lộc đồng dạng thần, sẽ làm đến công khanh đứng đầu người thế gian; bản tính thông minh tự nhiên danh tiếng truyền khắp nơi, phú quý vinh hoa sự nghiệp cải tiến.
- Có văn tinh quý: giáp mã ất xà bính mậu hầu, dậu thai đinh kỉ hợi tân cầu; canh phùng tuất cẩu phùng hổ, thập vị văn tinh quý thố du. Tạm dịch: giáp ngựa, ất rắn bính mậu khỉ, dậu thai đinh kỷ hợi tân tìm; canh gặp tuất chó gặp cọp quý thỏ (quý mão) ngao du.
- Có thiên ấn quý: giáp tý tại dần trung, ất phùng hợi diệc đồng; đinh dậu mậu thân vị, bính tuất kỉ dương cung; canh tân mã xà túc, quý mão dữ nhâm long; thử hào thiên ấn quý, vinh đạt thụ hoàng phong. Tạm dịch: giáp tý ở trong dần, ất gặp hợi cũng hội họp; đinh dậu nơi mậu tuất, bính tuất cung kỷ mùi, canh tân chân ngựa và rắn, quý mão với nhâm thìn; đấy là hiệu thiên ấn quý, vinh hoa hiển quý được vua ban phát.
论太极贵
太极者,太初也,始也,物造于初为太极,成也,收也,物有所归曰极。造化始终相保,乃曰太极贵也。甲乙木先造乎子,坎水助而生,后终乎午,离火焚而死。丙丁火先喜出乎震,卯也,后喜藏乎兑,酉也。庚辛金得寅,乃金生乎艮,见亥乃金庙乎乾。壬癸水先得则生,后得巳而纳。经曰:"地陷东南,
四渎俱流巽位,皆有始有终之意。"戊己,土也,喜生乎申,得辰戌丑未为正库。《理愚歌》云:"四库全时为至贵,位班上列据权衡。"人命入格,更有福气贵神扶,岂不为美。
有文昌贵,甲乙蛇口乙猪头,丙狗丁龙戊向猴;己午庚寅辛未贵,六壬卯位癸逢牛。
有文誉贵,如甲子人见壬戌、丙寅,禄前禄后一般神,必作公卿冠世人;立性天聪名誉播,富贵荣华事业新。
有文星贵,甲马乙蛇丙戊猴,酉台丁己亥辛求;庚逢戌狗逢虎,十位文星癸兔游。
有天印贵,甲子在寅中,乙逢亥亦同;丁酉戊申位,丙戌己羊宫;庚辛马蛇足,癸卯与壬龙;此号天印贵,荣达受皇封。
.
#58
Gửi vào 28/06/2024 - 10:57
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Học Đường Từ Quán
Học đường như là người đọc sách ở tại trường học; từ quán như là quan hàn lâm ngày nay, gọi là từ quán, chọn lấy các bài viết học tập xuất sắc, văn chương đặc xuất. Trường sanh chính là xác định vị trí của học đường, như mệnh kim gặp tân tỵ, kim trường sanh ở tỵ; tân tỵ: nạp âm cũng thuộc kim. Lâm quan chính là xác định vị trí của từ quán, như mênh kim gặp nhâm thân, kim lâm quan ở thân, nhâm thân: nạp âm cũng thuộc kim. Còn lại noi theo đó.
Các trường phái có học đường hội lộc, như kim trường sanh ở tỵ, lâm quan ở thân, người giáp ất gặp đượci; thuỷ thổ trường sanh ở thân lâm quan ở hợi, người bính đinh nhâm quý gặp được; mộc trường sanh ở hợi, lâm quan ở dần, người mậu kỷ gặp được; hoả trường sanh ở dần, lâm quan ở tỵ, người canh tân gặp được. Lại thêm danh quan quý học đường: lấy nơi trường sanh của quan quý làm học đường, nơi lâm quan của quan quý làm từ quán vậy. Có học đường hội thực: kiểu như giáp có bính là thực thần, gặp bính dần; ất có đinh là thực thần gặp đinh tỵ; bính có mậu là thực thần gặp mậu thân. Bao gồm cả quan ấn, dịch mã thì phúc của nó dày; gặp lộc, quý, kỳ, đức thì khí của nó thanh; gặp hình khắc xung pháp thì khí của nó trọc. Thanh sẽ thi đỗ nổi tiếng, nguy nga, hậu đãi sẽ là quan tôn quý, vẻ vang rạng rỡ; còn trọc thì phúc lộc mỏng, quan chức thấp hèn. Có nơi trường sanh gặp khắc như người giáp ất gặp tân hợi, người bính đinh gặp nhâm dần, người mậu kỷ gặp giáp thân, người canh tân gặp đinh tỵ, gọi là quan tinh học đường. Chủ thi đậu đầu bảng, được người theo hầu. Có nạp âm gặp nơi đế vượng mà gặp được ở trên của nơi thiên ất quý nhân, kiểu như người kỷ dậu gặp ngày giờ bính tý, canh tý, người nhâm ngọ gặp ngày giờ tân mão, gọi là học đường hội quý, chủ cao thượng tôn quý.
Nói chung học đường và từ quán cần thiết không thể phạm không vong cùng với xung phá, thiên can địa chi và nạp âm không thể gặp khắc, mời là đắc dụng. "Chúc Thắng Kinh" cho rằng: "giáp thìn bính dần, không thật sự là học đường; hoặc là chỉ giàu nhờ ân đức che chở, quan chức thấp và nghèo; đọc sách nghiên cứu học tập suông chỉ có hư danh". đó là nói về học đường lạc không vong. "Tam Xa" cho rằng: học đường vô khí, chỉ lợi cho việc dạy nho giáo". Đó là nói học đường cần thiết phải được vượng. "Lý Ngu Ca" cho rằng: "học đường" nếu như có thêm dịch mã hăng hái, ngôi cao công lao to lớn đè ép thế giới. Đó là nói học đường cần có mã vậy. Lại thêm rằng: sanh đến lộc mã học đường thật sự, nếu cùng từ quán chủ về văn chương; nếu không gặp ai đó thì ai sẽ gặp, không gặp xung khắc phúc lộc thịnh vượng. Lại thêm rằng: văn tinh tụ ở nơi người tốt lành, danh tiếng cao nhất bậc anh hùng; sanh ra mà không gặp chân học đường, tài học làm sao có thể là xuất chúng. Đó là nói học đường sợ xung phá hay bị khắc vậy. Huống chi mệnh người hợp cách, hợp hạnh vận, không phải ở học đường và từ quán mà đạt được.
论学堂词馆
夫学堂者,如人读书之在学堂;词馆者,如今官翰林,谓之词馆,取其学业精专,文章出类。长生乃学堂之正位,如金命见辛巳,金长生在巳;辛巳,纳音又属金是也。临官乃词馆正位,如金命壬申,金临官在申;壬申,纳音又属金是也。余以类推。
诸家说有学堂会禄,如金长生巳,临官申,甲乙人得之;水土长生申,临官亥,丙丁壬癸人得之;木长生亥,临官寅,戊己人得之;火长生寅,临官巳,庚辛人得之。又名官贵学堂,以官贵长生之位为学堂,官贵临官之位为词馆也。有学堂会食,如甲食丙,得丙寅;乙食丁,得丁巳;丙食戊,得戊申之类。兼官印、驿马,其福厚;遇禄、贵、奇、德,其气清;值刑克冲破,其气浊。清则科名巍峨,厚则官尊荣显,浊则福禄微薄,官职卑贱。有生处见克,如甲乙人辛亥,丁丙人壬寅,戊己人甲申,庚辛人丁巳,谓之官星学堂。主登科甲,入侍从。有纳音见帝旺之位而逢天乙贵处其上,如己酉人得丙子、庚子日、时、壬午人得辛卯日时之类,谓之学堂会贵,主清贵。
凡学堂词馆,切不要犯空亡及冲破,支干纳音不要见克,方为得用。《祝胜经》云:"甲辰丙寅,学堂不真;或止富荫,官职卑贫;读书修学,空有虚名。"此言学堂怕落空也。《三车》云:"学堂无气,惟利师儒。"此言学堂要乘旺也。《理愚歌》云:"学堂如更朝驿马,位极勋高压天下。"此言学堂要有马也。又云:"生来禄马真学堂,若同词馆主文章;遇中不遇人谁会,不遇冲克福禄昌。"又云:"文星聚处人中瑞,声华独冠英雄辈;降生不遇真学堂,才学岂能为拔萃。"此言学堂怕冲破受克也。况人命入格,合造化,又不在学堂词馆而得。
.
Luận Học Đường Từ Quán
Học đường như là người đọc sách ở tại trường học; từ quán như là quan hàn lâm ngày nay, gọi là từ quán, chọn lấy các bài viết học tập xuất sắc, văn chương đặc xuất. Trường sanh chính là xác định vị trí của học đường, như mệnh kim gặp tân tỵ, kim trường sanh ở tỵ; tân tỵ: nạp âm cũng thuộc kim. Lâm quan chính là xác định vị trí của từ quán, như mênh kim gặp nhâm thân, kim lâm quan ở thân, nhâm thân: nạp âm cũng thuộc kim. Còn lại noi theo đó.
Các trường phái có học đường hội lộc, như kim trường sanh ở tỵ, lâm quan ở thân, người giáp ất gặp đượci; thuỷ thổ trường sanh ở thân lâm quan ở hợi, người bính đinh nhâm quý gặp được; mộc trường sanh ở hợi, lâm quan ở dần, người mậu kỷ gặp được; hoả trường sanh ở dần, lâm quan ở tỵ, người canh tân gặp được. Lại thêm danh quan quý học đường: lấy nơi trường sanh của quan quý làm học đường, nơi lâm quan của quan quý làm từ quán vậy. Có học đường hội thực: kiểu như giáp có bính là thực thần, gặp bính dần; ất có đinh là thực thần gặp đinh tỵ; bính có mậu là thực thần gặp mậu thân. Bao gồm cả quan ấn, dịch mã thì phúc của nó dày; gặp lộc, quý, kỳ, đức thì khí của nó thanh; gặp hình khắc xung pháp thì khí của nó trọc. Thanh sẽ thi đỗ nổi tiếng, nguy nga, hậu đãi sẽ là quan tôn quý, vẻ vang rạng rỡ; còn trọc thì phúc lộc mỏng, quan chức thấp hèn. Có nơi trường sanh gặp khắc như người giáp ất gặp tân hợi, người bính đinh gặp nhâm dần, người mậu kỷ gặp giáp thân, người canh tân gặp đinh tỵ, gọi là quan tinh học đường. Chủ thi đậu đầu bảng, được người theo hầu. Có nạp âm gặp nơi đế vượng mà gặp được ở trên của nơi thiên ất quý nhân, kiểu như người kỷ dậu gặp ngày giờ bính tý, canh tý, người nhâm ngọ gặp ngày giờ tân mão, gọi là học đường hội quý, chủ cao thượng tôn quý.
Nói chung học đường và từ quán cần thiết không thể phạm không vong cùng với xung phá, thiên can địa chi và nạp âm không thể gặp khắc, mời là đắc dụng. "Chúc Thắng Kinh" cho rằng: "giáp thìn bính dần, không thật sự là học đường; hoặc là chỉ giàu nhờ ân đức che chở, quan chức thấp và nghèo; đọc sách nghiên cứu học tập suông chỉ có hư danh". đó là nói về học đường lạc không vong. "Tam Xa" cho rằng: học đường vô khí, chỉ lợi cho việc dạy nho giáo". Đó là nói học đường cần thiết phải được vượng. "Lý Ngu Ca" cho rằng: "học đường" nếu như có thêm dịch mã hăng hái, ngôi cao công lao to lớn đè ép thế giới. Đó là nói học đường cần có mã vậy. Lại thêm rằng: sanh đến lộc mã học đường thật sự, nếu cùng từ quán chủ về văn chương; nếu không gặp ai đó thì ai sẽ gặp, không gặp xung khắc phúc lộc thịnh vượng. Lại thêm rằng: văn tinh tụ ở nơi người tốt lành, danh tiếng cao nhất bậc anh hùng; sanh ra mà không gặp chân học đường, tài học làm sao có thể là xuất chúng. Đó là nói học đường sợ xung phá hay bị khắc vậy. Huống chi mệnh người hợp cách, hợp hạnh vận, không phải ở học đường và từ quán mà đạt được.
论学堂词馆
夫学堂者,如人读书之在学堂;词馆者,如今官翰林,谓之词馆,取其学业精专,文章出类。长生乃学堂之正位,如金命见辛巳,金长生在巳;辛巳,纳音又属金是也。临官乃词馆正位,如金命壬申,金临官在申;壬申,纳音又属金是也。余以类推。
诸家说有学堂会禄,如金长生巳,临官申,甲乙人得之;水土长生申,临官亥,丙丁壬癸人得之;木长生亥,临官寅,戊己人得之;火长生寅,临官巳,庚辛人得之。又名官贵学堂,以官贵长生之位为学堂,官贵临官之位为词馆也。有学堂会食,如甲食丙,得丙寅;乙食丁,得丁巳;丙食戊,得戊申之类。兼官印、驿马,其福厚;遇禄、贵、奇、德,其气清;值刑克冲破,其气浊。清则科名巍峨,厚则官尊荣显,浊则福禄微薄,官职卑贱。有生处见克,如甲乙人辛亥,丁丙人壬寅,戊己人甲申,庚辛人丁巳,谓之官星学堂。主登科甲,入侍从。有纳音见帝旺之位而逢天乙贵处其上,如己酉人得丙子、庚子日、时、壬午人得辛卯日时之类,谓之学堂会贵,主清贵。
凡学堂词馆,切不要犯空亡及冲破,支干纳音不要见克,方为得用。《祝胜经》云:"甲辰丙寅,学堂不真;或止富荫,官职卑贫;读书修学,空有虚名。"此言学堂怕落空也。《三车》云:"学堂无气,惟利师儒。"此言学堂要乘旺也。《理愚歌》云:"学堂如更朝驿马,位极勋高压天下。"此言学堂要有马也。又云:"生来禄马真学堂,若同词馆主文章;遇中不遇人谁会,不遇冲克福禄昌。"又云:"文星聚处人中瑞,声华独冠英雄辈;降生不遇真学堂,才学岂能为拔萃。"此言学堂怕冲破受克也。况人命入格,合造化,又不在学堂词馆而得。
.
#59
Gửi vào 28/06/2024 - 11:29
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Chánh Ấn
Chánh ấn là kho chánh của ngũ hành: mệnh kim gặp ất sửu, mộc gặp quý mùi, hoả gặp giáp tuất, thuỷ thổ gặp nhâm thìn, bính thìn. "Ngôn Đàm" cho rằng: "sanh ra gặp chánh ấn, sẽ bái ngọc đường". Diệu Tuyển cho rằng: "ngũ hành vào khuôn viên, làm quan sống ở năm phủ". Có thể thấy có chính ấn của gia tộc là cao quý. Vốn chủ cùng với đức là trên hết, đế toạ thì ở giữa, thai nguyệt thì ở dưới. Chủ là người được đãi ngộ trọng vọng, công danh có tiếng tăm. Chánh ấn của gia tộc lại được thêm cách quý phù trợ, thì càng tốt hơn. Nếu mộc gặp thuỷ ấn, hoả gặp mộc ấn, thường bao gồm cả một chức vụ khác ngoài tiền của. Nếu thân khắc ấn, hoặc ấn khắc thân bị phế bỏ rồi phục hưng. Nếu như người thuỷ gặp hoả ấn, người hoả gặp thuỷ ấn, kém hơn chánh ấn của gia tộc, nhưng người đứng đầu cần có vượng khí mới được tốt lành. Nếu như khắc phá mà không có phúc nào khác cứu giúp, hoặc là không vong, chỉ làm tăng đạo thanh tĩnh, yên lặng, không thể thành người được đề cử, tuyển bạt nhân tài. Nếu như ngũ hành có khí thuần khiết sẽ là tuyệt thế cao nhân; có sát thì nghèo hèn.
- Có quý nhân giáp ấn: như mệnh bính đinh hoả lấy giáp tuất làm chánh ấn, tức có dậu hợi kề bên, mà dậu hợi cũng là quý nhân của bính đinh; mệnh nhâm quý thuỷ lấy nhâm thìn làm "chánh ấn, tức có mão tỵ kề bên, mão tỵ cũng là quý nhân của nhâm quý.
- Có hoa cái ấn: kiểu như hợi mão mùi được quý mùi.
- Có văn chương ấn: kiểu như mậu dần gặp quý mùi, tân tỵ gặp giáp tuất, canh thân gặp ất sửu, quý hợi gặp bính thìn, ất hợi gặp nhâm thìn chính là nạp âm khắc thân, mà thiên can lại chế. Kiểu như mậu ngọ gặp quý mùi, canh tý gặp ất sửu, đinh dậu gặp nhâm thìn, kỷ mão gặp giáp tuất, thiên can chế mà địa chi hợp.
- Các ấn phải gặp mộ khố, nếu sanh vượng giúp đỡ trao đổi nhau, lộc mã quý nhân hội tụ và hợp với nhau, mệnh đạt đến cao quý. Rất kỵ hình, xung, phá, hại, gặp quỷ trên tam hợp, lục hợp như ngày giáp tuất gặp giờ quý dậu sẽ giảm bớt lực của người mệnh thuỷ có ấn của gia tộc cũng vô ích; có mộc ấn thì tổn khí; có thổ ấn mà can chi có liên quan nhau, tên là quan ấn; không liên quan nhau tên là quỷ ấn.
- Lại có phúc tụ ấn: như năm tháng ngày giờ và thai đều vô khí hay suy bại, được chánh ấn, thiên ấn đều ở nơi đó, ấn có thể khố, có thể vượng, tuy có thần sát, mà bị chế, đó được gọi là phúc tụ ấn.
- Có hoạ tụ ấn: như người quý tỵ có nhâm thìn ấn, trụ thường gặp thuỷ, đều mộ ở thìn, thì quý tỵ bị sát; vì tỵ là mệnh, tỵ hoả gặp nhiều nên bổn mệnh bệnh, đây gọi là hoạ tụ ấn.
- Có phá phúc thành hoạ ấn: như người thuỷ được thuỷ ấn, hoặc tháng ngày giờ thường mang thổ đến, ấn của gia tộc gặp quỷ thịnh vượng, gọi là phá phúc thành hoạ.
- Có đái sát ấn: bên trong ấn gặp quý sát như người nhâm tý gặp nhâm thìn, bính thìn, tý đến thìn gọi là hoa cái, người nhâm gặp thìn là quý. Nếu như bên trong ấn khắc ngược lại bổn mệnh, không có phúc thần nào đến để khôi phục lại, danh gọi đái sát, chủ hung xấu.
- Có lâm không ấn: chính là ấn lạc không vong, địa chi không có lục hợp, hay gặp quan quý, rất là hèn mọn không thành công.
- Có tự hình ấn: như người canh tuất đái ất sửu, người kim gặp kim ấn vốn dĩ là tốt đẹp, nhưng vì sửu tuất hình nhau, vì kim hình kim, kiểu này không gì bằng không có . Tuy rằng có ít phúc lành, nhưng cũng hạ tiện. Còn lại noi theo đó mà suy xét.
Nói chung luận về ấn, được thêm ngũ hành thật sự với nạp âm đồng khí, càng tuyệt diệu. Tuy nhiên chủ ít được yên vui, không có lợi cho người thân, khó khăn cho con cái.
论正印
正印,乃五行之正库,金命见乙丑,木癸未,火甲戌,水土壬辰、丙辰是也。《言谈》云:"生逢正印,必拜玉堂。"《妙选》云:"五行入垣,官居五府。"可见得本家正印为贵。本主同德为上,帝座为中,胎月为下。主人重厚魁梧,功名昭著。本家印又得贵格扶之,更妙。若木得水印,火得木印,多兼他权外财。若身克印,或印克身,废而复兴。若水人得火印,火人带水印,次于本家印,然须本主有旺气,方吉。若克破别无福救,或空亡,只作清闲道僧、无成举人。若五行有清气,则绝世高人;有煞则贫贱。
有贵人夹印,如丙丁火命以甲戌为正印,却得酉亥夹之,酉亥乃丙丁贵人;壬癸水命以壬辰为正印,却得卯已夹之,卯已乃壬癸贵人。
有华盖印,如亥卯未得癸未之类。
有文章印,如戊寅见癸未,辛已见甲戌,庚申见乙丑,癸亥见丙辰,乙亥见壬辰,乃纳音克身,干神复制。戊午得癸未,庚子得乙丑,丁酉得壬辰,己卯得申戌,辛酉得丙辰,干神制支神合之类。
诸印要逢库墓,若生旺扶助互换,禄马贵人并相合者,至贵之命。最忌刑冲破害,三合六合上见鬼,如甲戌日得癸酉时,则减力。水命人得本家印无益;得木印损气;得土印,支干有交涉者,名官印;无交涉者,名鬼印。
又有福聚印,如年、月、日、时、胎五位俱无气衰败,得正印偏印俱在此,印上或库或旺,虽有煞神,至是受制,此之谓福聚印。
有祸聚印,如癸巳人带壬辰印,柱多逢水,俱墓于辰,则癸巳受煞;以巳为命,巳火遇多则本命病,此之谓祸聚印。
有破福成祸印,如水人得水印,或月日时多带土来,本家印见鬼盛,是谓破福成祸。
有带煞印,印中见贵煞,如壬子见壬辰、丙辰,子至辰谓之华盖,壬人见辰为贵。若印中反克本命,无福神往还,名带
煞,主凶。
有临空印,乃印落空亡,支无六合,见官贵,至贱而无成也。
有自刑印,如庚戌人带乙丑,金人见金印固好,丑戌相刑,以金刑金,此类不如无。虽有少福,亦终贱。余准此推。
凡论印,更得真五行与纳音同气,尤妙。但主少安逸,不利六亲,难为子息。
.
Luận Chánh Ấn
Chánh ấn là kho chánh của ngũ hành: mệnh kim gặp ất sửu, mộc gặp quý mùi, hoả gặp giáp tuất, thuỷ thổ gặp nhâm thìn, bính thìn. "Ngôn Đàm" cho rằng: "sanh ra gặp chánh ấn, sẽ bái ngọc đường". Diệu Tuyển cho rằng: "ngũ hành vào khuôn viên, làm quan sống ở năm phủ". Có thể thấy có chính ấn của gia tộc là cao quý. Vốn chủ cùng với đức là trên hết, đế toạ thì ở giữa, thai nguyệt thì ở dưới. Chủ là người được đãi ngộ trọng vọng, công danh có tiếng tăm. Chánh ấn của gia tộc lại được thêm cách quý phù trợ, thì càng tốt hơn. Nếu mộc gặp thuỷ ấn, hoả gặp mộc ấn, thường bao gồm cả một chức vụ khác ngoài tiền của. Nếu thân khắc ấn, hoặc ấn khắc thân bị phế bỏ rồi phục hưng. Nếu như người thuỷ gặp hoả ấn, người hoả gặp thuỷ ấn, kém hơn chánh ấn của gia tộc, nhưng người đứng đầu cần có vượng khí mới được tốt lành. Nếu như khắc phá mà không có phúc nào khác cứu giúp, hoặc là không vong, chỉ làm tăng đạo thanh tĩnh, yên lặng, không thể thành người được đề cử, tuyển bạt nhân tài. Nếu như ngũ hành có khí thuần khiết sẽ là tuyệt thế cao nhân; có sát thì nghèo hèn.
- Có quý nhân giáp ấn: như mệnh bính đinh hoả lấy giáp tuất làm chánh ấn, tức có dậu hợi kề bên, mà dậu hợi cũng là quý nhân của bính đinh; mệnh nhâm quý thuỷ lấy nhâm thìn làm "chánh ấn, tức có mão tỵ kề bên, mão tỵ cũng là quý nhân của nhâm quý.
- Có hoa cái ấn: kiểu như hợi mão mùi được quý mùi.
- Có văn chương ấn: kiểu như mậu dần gặp quý mùi, tân tỵ gặp giáp tuất, canh thân gặp ất sửu, quý hợi gặp bính thìn, ất hợi gặp nhâm thìn chính là nạp âm khắc thân, mà thiên can lại chế. Kiểu như mậu ngọ gặp quý mùi, canh tý gặp ất sửu, đinh dậu gặp nhâm thìn, kỷ mão gặp giáp tuất, thiên can chế mà địa chi hợp.
- Các ấn phải gặp mộ khố, nếu sanh vượng giúp đỡ trao đổi nhau, lộc mã quý nhân hội tụ và hợp với nhau, mệnh đạt đến cao quý. Rất kỵ hình, xung, phá, hại, gặp quỷ trên tam hợp, lục hợp như ngày giáp tuất gặp giờ quý dậu sẽ giảm bớt lực của người mệnh thuỷ có ấn của gia tộc cũng vô ích; có mộc ấn thì tổn khí; có thổ ấn mà can chi có liên quan nhau, tên là quan ấn; không liên quan nhau tên là quỷ ấn.
- Lại có phúc tụ ấn: như năm tháng ngày giờ và thai đều vô khí hay suy bại, được chánh ấn, thiên ấn đều ở nơi đó, ấn có thể khố, có thể vượng, tuy có thần sát, mà bị chế, đó được gọi là phúc tụ ấn.
- Có hoạ tụ ấn: như người quý tỵ có nhâm thìn ấn, trụ thường gặp thuỷ, đều mộ ở thìn, thì quý tỵ bị sát; vì tỵ là mệnh, tỵ hoả gặp nhiều nên bổn mệnh bệnh, đây gọi là hoạ tụ ấn.
- Có phá phúc thành hoạ ấn: như người thuỷ được thuỷ ấn, hoặc tháng ngày giờ thường mang thổ đến, ấn của gia tộc gặp quỷ thịnh vượng, gọi là phá phúc thành hoạ.
- Có đái sát ấn: bên trong ấn gặp quý sát như người nhâm tý gặp nhâm thìn, bính thìn, tý đến thìn gọi là hoa cái, người nhâm gặp thìn là quý. Nếu như bên trong ấn khắc ngược lại bổn mệnh, không có phúc thần nào đến để khôi phục lại, danh gọi đái sát, chủ hung xấu.
- Có lâm không ấn: chính là ấn lạc không vong, địa chi không có lục hợp, hay gặp quan quý, rất là hèn mọn không thành công.
- Có tự hình ấn: như người canh tuất đái ất sửu, người kim gặp kim ấn vốn dĩ là tốt đẹp, nhưng vì sửu tuất hình nhau, vì kim hình kim, kiểu này không gì bằng không có . Tuy rằng có ít phúc lành, nhưng cũng hạ tiện. Còn lại noi theo đó mà suy xét.
Nói chung luận về ấn, được thêm ngũ hành thật sự với nạp âm đồng khí, càng tuyệt diệu. Tuy nhiên chủ ít được yên vui, không có lợi cho người thân, khó khăn cho con cái.
论正印
正印,乃五行之正库,金命见乙丑,木癸未,火甲戌,水土壬辰、丙辰是也。《言谈》云:"生逢正印,必拜玉堂。"《妙选》云:"五行入垣,官居五府。"可见得本家正印为贵。本主同德为上,帝座为中,胎月为下。主人重厚魁梧,功名昭著。本家印又得贵格扶之,更妙。若木得水印,火得木印,多兼他权外财。若身克印,或印克身,废而复兴。若水人得火印,火人带水印,次于本家印,然须本主有旺气,方吉。若克破别无福救,或空亡,只作清闲道僧、无成举人。若五行有清气,则绝世高人;有煞则贫贱。
有贵人夹印,如丙丁火命以甲戌为正印,却得酉亥夹之,酉亥乃丙丁贵人;壬癸水命以壬辰为正印,却得卯已夹之,卯已乃壬癸贵人。
有华盖印,如亥卯未得癸未之类。
有文章印,如戊寅见癸未,辛已见甲戌,庚申见乙丑,癸亥见丙辰,乙亥见壬辰,乃纳音克身,干神复制。戊午得癸未,庚子得乙丑,丁酉得壬辰,己卯得申戌,辛酉得丙辰,干神制支神合之类。
诸印要逢库墓,若生旺扶助互换,禄马贵人并相合者,至贵之命。最忌刑冲破害,三合六合上见鬼,如甲戌日得癸酉时,则减力。水命人得本家印无益;得木印损气;得土印,支干有交涉者,名官印;无交涉者,名鬼印。
又有福聚印,如年、月、日、时、胎五位俱无气衰败,得正印偏印俱在此,印上或库或旺,虽有煞神,至是受制,此之谓福聚印。
有祸聚印,如癸巳人带壬辰印,柱多逢水,俱墓于辰,则癸巳受煞;以巳为命,巳火遇多则本命病,此之谓祸聚印。
有破福成祸印,如水人得水印,或月日时多带土来,本家印见鬼盛,是谓破福成祸。
有带煞印,印中见贵煞,如壬子见壬辰、丙辰,子至辰谓之华盖,壬人见辰为贵。若印中反克本命,无福神往还,名带
煞,主凶。
有临空印,乃印落空亡,支无六合,见官贵,至贱而无成也。
有自刑印,如庚戌人带乙丑,金人见金印固好,丑戌相刑,以金刑金,此类不如无。虽有少福,亦终贱。余准此推。
凡论印,更得真五行与纳音同气,尤妙。但主少安逸,不利六亲,难为子息。
.
#60
Gửi vào 28/06/2024 - 11:41
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Tam
Luận Đức Tú
Đức là: phẩm chất tốt đẹp của tháng sanh vượng; tú là: khí trung hoà của trời đất hợp, ngũ hành biến hoá mà thành. Lại nói" đức là thần âm dương giải trừ hung xấu; tú là: khí thanh tú của trời đất, thần thịnh vượng bốn mùa. Cho nên tháng dần ngọ tuất: bính đinh là đức:, mậu quý là tú. Tháng thân tý thìn: nhâm quý mậu kỷ là đức, bính tân giáp kỷ là tú. Tháng hợi mão mùi: giáp ất là đức, đinh nhâm là tú. Nói chung trong mệnh người gặp được đức tú này, không bị phá, xung, khắc, áp chế, bẩm tính thông minh, thái dộ ôn hoà thân thiện. Nếu như gặp thêm học đường, mang thêm tài, quan chủ quý, bị xung, khắc thì giảm bớt lực.
论德秀
夫德者,本月生旺之德;秀者,合天地中和之气、五行变化而成者也。又曰;德者,阴阳解凶之神;秀者,天地清秀之气,四时当旺之神。故寅午戌月,丙丁为德,戊癸为秀。申子辰月,壬癸戊己为德,丙辛甲己为秀。巳酉丑月,庚辛为德,乙庚为秀。亥卯未月,甲乙为德,丁壬为秀。凡人命中得此德秀,无破冲克压者,赋性聪明,温厚和气。若遇学堂,更带财官,主贵。冲克减力。
.
Luận Đức Tú
Đức là: phẩm chất tốt đẹp của tháng sanh vượng; tú là: khí trung hoà của trời đất hợp, ngũ hành biến hoá mà thành. Lại nói" đức là thần âm dương giải trừ hung xấu; tú là: khí thanh tú của trời đất, thần thịnh vượng bốn mùa. Cho nên tháng dần ngọ tuất: bính đinh là đức:, mậu quý là tú. Tháng thân tý thìn: nhâm quý mậu kỷ là đức, bính tân giáp kỷ là tú. Tháng hợi mão mùi: giáp ất là đức, đinh nhâm là tú. Nói chung trong mệnh người gặp được đức tú này, không bị phá, xung, khắc, áp chế, bẩm tính thông minh, thái dộ ôn hoà thân thiện. Nếu như gặp thêm học đường, mang thêm tài, quan chủ quý, bị xung, khắc thì giảm bớt lực.
论德秀
夫德者,本月生旺之德;秀者,合天地中和之气、五行变化而成者也。又曰;德者,阴阳解凶之神;秀者,天地清秀之气,四时当旺之神。故寅午戌月,丙丁为德,戊癸为秀。申子辰月,壬癸戊己为德,丙辛甲己为秀。巳酉丑月,庚辛为德,乙庚为秀。亥卯未月,甲乙为德,丁壬为秀。凡人命中得此德秀,无破冲克压者,赋性聪明,温厚和气。若遇学堂,更带财官,主贵。冲克减力。
.
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
JD VANCE - Tân Phó Tổng Thống Hoa Kỳ |
Tử Vi | tutruongdado |
|
||
lá số tổng thống Ukraine ô. Zelensky |
Tử Vi | Ngu Yên |
|
||
Xem khoảnh khắc công bố kết quả đầu tiên trong cuộc đua giành chức tổng thống năm 2024 |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
|
|
Bài Diễn Văn Của Tổng Thống Joe Biden |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Truy "long mạch" phát tích gia tộc tổng thống họ Dương |
Địa Lý Phong Thủy | 55555 |
|
||
Tác giả của sách lịch pháp thông thư đại toàn và ngao đầu thông thư |
Thiên Văn - Lịch Pháp - Coi Ngày Tốt Xấu | trongtri |
|
7 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 7 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |