Jump to content

Advertisements




Thiền sư Thích Thanh Từ


7 replies to this topic

#1 QuyenLocTamMinh

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 471 Bài viết:
  • 124 thanks

Gửi vào 13/11/2021 - 16:27

31.7 GIÁC NGỘ VÀ GIẢI THOÁT
H.T thiền sư Thích Thanh Từ
(Giảng tại Hoa Kỳ - 2002)
Hôm nay, tại Đạo tràng Tam Hòa tôi giảng về đề tài Giác ngộ và giải thoát. Đó là mục đích tối thượng hay tột cùng của người tu. Khi nói tới mục đích tối thượng thì chắc rằng không dễ. Vì khó nên tôi phải đi thứ tự từ thấp lên cao cho tất cả thấy chỗ cao siêu của Phật giáo như thế nào.
Trước khi nói giác ngộ và giải thoát, chúng ta nhớ lại đức Phật Thích-ca Mâu-ni tu dưới cội bồ-đề được giác ngộ giải thoát sanh tử, đó là mục tiêu cuối cùng Ngài đạt được. Như vậy với đề tài này, chúng ta sẽ đặt hai câu hỏi: Giác ngộ là giác ngộ cái gì? Và cái gì được giải thoát? Đa số người nói Phật giác ngộ, giải thoát mà Ngài cũng chết như mình, tám mươi tuổi nhập Niết-bàn, thì giải thoát cái gì? Đó là nghi vấn mà đa số Phật tử không giải quyết được.
Trước hết nói về giác ngộ. Danh từ giác ngộ nhiều người đã biết, nhưng thật ra biết cạn chớ không được sâu. Thế gian có những trường hợp, như người say mê rượu chè được bạn bè khuyên nhắc, họ bỏ rượu thì người ta nói anh ấy giác ngộ. Như vậy giác ngộ theo thế gian là bỏ tật xấu tập hạnh tốt. Giác ngộ đó chưa phải nghĩa giác ngộ của đạo Phật. Đạo Phật nói giác ngộ là thấu triệt được lẽ thật nơi con người từ ban sơ cho tới cuối cùng, tìm được cái từ xưa đến giờ chúng ta chưa từng biết.
Chúng ta đọc lịch sử đức Phật, thấy Thái tử bỏ ngôi vua quyết chí đi tu là do thấy cái gì? Thấy cảnh sanh, già, bệnh, chết của con người. Ngài tự biết rõ rằng người kia già rồi ta cũng phải già, người kia bệnh rồi ta cũng phải bệnh, người kia chết rồi ta cũng phải chết. Sanh, già, bệnh, chết là một qui luật không ai chối cãi được. Thấy rõ như vậy nên Ngài quyết chí đi tu, với mục đích phăng tìm cho ra con người có mặt đây là lần số một hay đã vô số lần? Mai kia nhắm mắt đi về đâu? Muốn ra khỏi sanh tử phải làm sao? Đó là những thắc mắc băn khoăn lớn của đức Phật. Như vậy, Ngài xoáy thẳng vào con người, trước khi có mặt và sau khi mất thân này, phăng cho ra manh mối đó.
Khi tu gặp các vị tiên dạy từ Sơ thiền tới Tứ thiền, Ngài chứng qua hết nhưng chưa giải quyết được ba vấn đề trọng đại của con người mà Ngài đang phăng tìm, nên Phật bỏ đi. Đến thầy khác dạy Ngài tu chứng định Tứ không là Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Chứng được Tứ không rồi Ngài vẫn chưa giải quyết được vấn đề con người, nên cũng bỏ đi. Rõ ràng đức Phật đi tu là để giải quyết vấn đề con người, chớ không muốn tỏ ra mình là một nhà bác học gì hết, mà phải tìm cho được manh mối của con người.
Những vấn đề của Phật nêu lên ngày xưa, bây giờ chúng ta có thắc mắc không? Có người thắc mắc, có người thờ ơ. Đa số chấp nhận thôi phải sao chịu vậy, có mặt đây thì cứ ở đây, mai kia đi đâu cũng mặc. Đó là thái độ thờ ơ cho thân phận mình. Đức Phật không đành lòng như vậy, Ngài quyết tâm phải phăng tìm cho ra manh mối. Đến dưới cội bồ-đề, Ngài nhập định bốn mươi chín ngày đêm. Đêm cuối cùng, canh thứ nhất đức Phật chứng được Túc mạng minh, bừng sáng chuyện của mình từ vô lượng kiếp tới giờ. Trong kinh kể, Ngài nói: “Ta nhớ vô số kiếp về trước như nhớ chuyện mới xảy ra hôm qua.” Ngài biết rõ rằng con người không phải chỉ có mặt ở đây một lần, mà đã có vô số lần.
Quí vị tin điều đó không? Nếu không tin thì chúng ta sẽ không giải quyết nổi tại sao cùng một gia đình, cùng một cha mẹ sanh ra năm bảy anh em, mà không ai giống ai. Nói theo khoa học ngày nay, gen nào sanh ra giống hệt gen đó như khuôn đúc. Nhưng trên thực tế có khuôn đúc không? Không. Đó là nói về thể xác. Còn tinh thần, người thì thích cái này, người lại ưa cái khác, không ai giống ai hết. Vậy những ưa thích đó từ đâu ra? Cha mẹ không dạy, xã hội không dạy, nhưng ta lại ưa thích. Người ưa văn học, người ưa toán học, nên vào trường mỗi người giỏi mỗi môn, không ai giống ai. Như vậy để thấy sự tích lũy từ trước vẫn còn đó, bây giờ ra đời nhớ lại những cái cũ mình thích. Do thích nên học hành đúng sở thích thì giỏi, thế gian thường gọi là khiếu thông minh. Như người tu chúng tôi, cha mẹ có dạy lớn lên đi tu đâu, sao lớn lên lại đi tu. Để thấy rằng, những gì chúng ta mang từ quá khứ vẫn còn đây, nên gặp duyên ta thích việc đó, chớ không phải ai dạy hết. Con người không phải mới có mặt lần này, mà đã vô số lần rồi, vì vậy trong mỗi chúng ta mang mỗi quá khứ còn tồn đọng từ trước.
Từ canh hai đến canh ba, Ngài chứng được Thiên nhãn minh, thấy rõ chúng sanh sau khi chết theo nghiệp đi trong sáu đường luân hồi, như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy kẻ qua người lại một cách rõ ràng. Như vậy, chúng ta chết rồi có mất không? Không mất, mà đi theo nghiệp. Nên nhà Phật nói nhân quả, nghiệp báo để cho chúng sanh tu. Những gì Phật thấy mới dạy, chớ không phải Ngài suy lý như những nhà triết học. Do thấy rõ nên Ngài nói không một chút ngờ vực.
Từ canh ba tới canh năm, khi sao Mai mọc Ngài chứng được Lậu tận minh, dứt hết mầm sanh tử tức là giải thoát sanh tử. Từ đó Ngài mới dạy chúng sanh phương pháp tu để giải thoát sanh tử. Đức Phật đã chứng, đã biết, đã thấy rõ ràng, mới đem ra dạy cho mọi người.
Chúng ta ngày nay mê hay giác? Mê. Mê cái gì? Nhiều người cũng không biết mình mê cái gì. Đức Phật xoáy thẳng nơi con người, tất cả đều xoay lại nhìn ở con người. Cho nên, cái giác của Ngài là giác ngộ thẳng về con người. Chúng ta mê cũng là mê nơi con người. Vậy chúng ta mê cái gì? Mê là thấy thân này thật, trong khi Phật thấy thân này giả. Phật thấy thân giả nên Ngài giác, chúng ta thấy thật nên mê.
Chúng ta đang đi đứng là sống còn, vừa có cái gì bất trắc ngã đùng ra chết thì mất. Thấy đó liền mất đó thì có thật được không? Vậy mà chúng ta ngỡ là thật, không mê sao được! Mê là mê như vậy. Bởi cho thân này thật nên quí thân, những gì nó ưa thích đều muốn được thỏa mãn. Mình muốn thân mình thỏa mãn, người khác cũng muốn thân họ thỏa mãn, tất cả đều muốn vậy thành ra giành giựt nhau. Nhỏ giành giựt theo nhỏ, lớn giành giựt theo lớn. Như anh em trong gia đình, cha mẹ chết chia của cải, anh nhiều em ít không chịu, phải giành phần cho bằng cho hơn, không chịu thua. Vì vậy thấy thân thật là nhân đau khổ. Đó là nói chuyện trong một gia đình. Nói rộng hơn như vua một nước, nếu thấy thân thật thì giang sơn cũng thật. Muốn cho dân mình sung sướng thì thấy nước nào tài nguyên phong phú liền đem quân đi chiếm, đó là nhân giặc giã. Do thấy sai lầm nên lòng tham nổi dậy, gây tai hại lớn lao cho nhân loại. Đó là hiểm họa đang lan tràn trên thế gian, không yên ổn chút nào hết.
Ngược lại, nếu thấy thân giả thì sao? Đa số sẽ nói tiêu cực. Giả thì lo chi, cần gì làm việc. Bồ-tát thấy thân mình giả, thân chúng sanh giả, các ngài lăn xả vào đời cứu độ chúng sanh không niệm ngán sợ. Tại sao? Cái giả mà chúng sanh lầm cho là thật nên giành giựt, giết hại lẫn nhau, các ngài có bổn phận phải đánh thức họ, chỉ cho biết giả đừng lầm lẫn nữa. Như vậy các ngài càng biết giả càng thương những người mê. Chúng ta thấy thân thật nên ít thương ai. Chỉ thương những người thân thuộc của mình, còn chung quanh mặc kệ, không thương. Bồ-tát thấy cuộc đời tạm bợ, con người có đó rồi mất đó, không bền lâu mà chúng sanh lại chìm đắm đau khổ trong ấy nên các ngài dấy khởi lòng từ bi muốn cứu độ chúng sanh. Nhờ giác ngộ mới có từ bi, nếu không giác ngộ sẽ không có từ bi.
Chúng ta làm việc thiện nhưng không phải từ bi mà là ích kỷ. Ví dụ nói bố thí giúp người nghèo, sau sẽ được phước giàu sang. Như vậy bố thí vì mình chớ không phải vì người. Bố thí ấy không phải từ bi. Từ bi là vì người chớ không vì mình. Chúng ta mê lầm ở chặng thứ nhất là thấy thân này thật, nên cấu xé giành giựt, làm khổ cho nhau. Nếu thấy thân giả thì anh em trong nhà có mặt đây tạm bợ vài chục năm rồi cũng đi, tranh gia tài làm chi, thôi thì chia nhau sống tạm mà. Đối với xã hội cũng vậy, mọi người cùng sống trong cõi tạm, biết rõ như vậy thì phải bảo bọc nhau sống ngày nào vui ngày ấy, giành giựt chi cho khổ. Nhờ biết đúng lẽ thật, chúng ta dễ thương nhau hơn. Đó là lẽ thật người Phật tử phải biết.
Mê thứ hai là mê tâm mình. Quí vị nghĩ cái gì là tâm mình? Là tinh thần phải không? Khi thương ai nói tôi thương người đó, ghét ai nói tôi ghét người đó, giận ai nói tôi giận người đó. Một trăm thứ, nghĩ cái gì cũng tôi hết, khởi nghĩ là tôi. Chấp thân tạm bợ là tôi, chấp tâm sanh diệt đổi thay là tôi. Tâm sanh diệt đổi thay cho là tôi thì có bao nhiêu cái tôi? Vô số. Tâm ấy là một dòng suy nghĩ sanh diệt, không phải cái thường còn. Cái sanh diệt làm sao chân thật được. Tâm sanh diệt không thật mà chấp thật nên khi nghĩ điều gì cho là đúng, ai phản bác mình giận, ai hoan nghênh mình vui. Thế gian không biết bao nhiêu cái đau khổ, vì người ta cho là lý tưởng. Thọ, tưởng, hành, thức, Phật bảo là không, chúng ta lại nói thật, rồi đặt thành lý tưởng. Thế là lý tưởng này chống lý tưởng kia. Một hai người chống nhau chỉ mới là luận chiến, nhiều người chống nhau thì kéo quân đánh ầm ầm. Như vậy con người chấp thân nên giành vật chất để hưởng, chấp tâm nên giành lý tưởng tốt về mình, do đó mà tranh đấu không dừng nghỉ. Đó là cái khổ của nhân loại.
Nói xa một chút, nhiều người thấy ai tài giỏi, thông minh đều gọi là nhà trí thức. Trí thức với trí tuệ giống nhau hay khác nhau? Đây là điều thế gian ít để ý. Trong nhà Phật chia tuệ làm hai trường hợp: Tuệ sanh diệt, từ chuyên môn chữ Hán gọi là Hữu lậu. Tuệ xuyên suốt không còn sanh diệt gọi là Vô lậu. Hữu lậu có ba: Văn, Tư, Tu. Người đến với đạo Phật trước phải học. Văn là nghe học, học giáo lý Phật cho hiểu. Đạo Phật không chấp nhận học bằng cách nghe sao hiểu vậy, mà bắt chúng ta phải suy gẫm, đó là Tư. Nghe rồi suy gẫm xem có đúng không, chừng nào thấy đúng mới qua trường hợp thứ ba là Tu tức thực hành.
Vậy Văn tuệ, Tư tuệ, Tu tuệ là ba trí tuệ còn trong sanh tử. Tại sao? Vì kinh do Phật nói, chúng ta học lời của Ngài, hiểu được lời Phật dạy ứng dụng tu, đó là trí tuệ nhưng là trí tuệ ở ngoài được, nên thuộc về hữu lậu. Còn thế gian người ta học lý thuyết này, lý thuyết nọ, thông hiểu nói ra lưu loát, đem lý thuyết chứng minh lập luận của họ gọi là trí thức. Nghĩa là đem cái thức phân biệt của mình để xét đoán những triết lý, rồi phê phán đúng sai v.v… Những nhà trí thức còn được gọi là học giả hay nhà bác học. Học là cái ở ngoài đem vào, nên chưa phải cái thật của mình.
Trí tuệ vô lậu mà đức Phật dạy có ba thứ Giới, Định, Tuệ còn gọi là Tam giải thoát môn. Nói cách khác từ giới sanh ra định, từ định sanh ra tuệ. Như vậy cái tuệ này từ định phát sanh, không do học bên ngoài. Thế nên trí tuệ vô lậu có sẵn nơi mình, khai thác được trí tuệ này là trí tuệ chân thật. Tuệ này khi phát hiện ra được có ba từ để gọi: Vô sư trí, Tự nhiên trí, Căn bản trí. Nó là trí sẵn từ thuở nào nơi mình, mà chúng ta không biết dùng. Bây giờ muốn dùng nó phải đi từ Giới để gỡ bớt những buộc ràng bên ngoài rồi qua Định, tâm định Tuệ mới phát. Như vậy tuệ vô lậu là tuệ của mình chớ không phải học. Tuệ này từ tu hành mà hiển lộ.
Chúng ta học Phật, hiểu Phật là phải đi sâu vào trí tuệ vô sư. Chúng ta ngồi thiền để định. Định cái gì? Định tâm điên đảo sanh diệt của mình, cho nó dừng lại. Nó dừng hoàn toàn rồi thì trí tuệ sẵn có hiện đủ. Có người nói ngồi thiền bỏ hết vọng tưởng rồi ngu sao? Vì họ cho rằng cái khôn đối đãi sanh diệt là khôn thật. Đó là hiểu sai lầm. Trí tuệ chân thật chỉ xuất hiện khi tâm an định.
Chúng ta giác ngộ là giác ngộ cái gì? Trước nhất giác ngộ thân này giả, kế đến giác ngộ tâm sanh diệt là giả. Biết hai cái đó giả rồi thì sự tu hành dễ như trở bàn tay. Sở dĩ chúng ta tu chậm tiến là vì cứ nhớ những chuyện liên hệ tới thân. Hôm qua mình bị ai rầy, hoặc làm ăn thất bại, tiền của suy giảm, lý luận với ai bị thua, làm sao cho hơn họ…, cứ nhớ đi nhớ lại những thứ ấy. Do chấp thân, chấp tâm nên ngồi thiền không yên. Khi đã biết thân giả, biết tâm sanh diệt giả chúng ta ngồi thiền dễ yên lắm.
Biết thân giả, tâm sanh diệt giả, lúc đó là giác, mà giác thì thành Bồ-tát con rồi. Bồ-tát là phần giác tức giác ngộ từng phần. Như vậy Bồ-tát cách chúng ta xa gần? Chỉ như trở tay thôi. Chiều này là mê, lật ngược lại là giác chớ có gì đâu. Ai nhìn đúng lẽ thật là giác, nhìn sai lầm là mê. Trong kinh Kim Cang Phật dạy rất đơn giản: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai.” Nghĩa là những gì có tướng đều hư dối, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức là giả, đó là thấy Phật, vì Phật là giác.
Như vậy tu dễ hay khó? Chỉ đổi cái thấy thôi. Giả biết giả, chuyện đó hợp lý trăm phần trăm sao lại nói khó! Lâu nay chúng ta đi trong mê nhiều kiếp nhiều đời quá, nên bây giờ chuyển lại giác khó, chớ không phải chuyện tu khó. Thấy thân thật chuyển qua thấy thân giả chừng bao lâu? Tích tắc hà, dễ quá chừng! Vậy mà chúng ta tu hoài không nổi. Kinh Kim Cang Phật nói, giả sử có người đem của bảy báu nhiều bằng núi Tu-di bố thí, không bằng người trì bốn câu kinh Kim Cang. Nhẹ làm sao! Trì tụng bốn câu kinh Kim Cang có khó gì? Còn của báu chất bằng núi Tu-di, muôn kiếp mình cũng chưa làm được nữa. Vậy tại sao Phật lại nói thế? Đó là để chỉ dạy chúng ta mê thân thật thì mê cảnh thật, mê tất cả sự vật hình tướng bên ngoài đều thật. Nhưng thật ra những gì có tướng đều do duyên hợp, tạm bợ, đủ duyên còn, hết duyên mất, chớ không còn mãi. Vậy được bao nhiêu cái giả đi nữa cũng chỉ là giả. Đem cái giả tạm đổi lấy cái thật thì không có gì sánh nổi. Trì bốn câu kinh Kim Cang tức là nhận và sống với cái thật của mình.
Đức Phật còn nói đem thân mạng này bố thí hết đời này qua đời khác, bao nhiêu đời cũng không bằng trì bốn câu kinh Kim Cang. Quí vị nghe không sao hiểu nổi. Nhưng có gì lạ đâu, vì tất cả sanh mạng của chúng ta hiện giờ chỉ mấy chục năm rồi hoại, không thật. Còn bốn câu kinh Kim Cang là chân lý, là lẽ thật muôn đời không thay đổi. Nắm được chân lý thật mà sống thì mới siêu thoát, vượt hơn tất cả. Nếu chúng ta nhìn sự vật đúng với con mắt thức tỉnh thì kinh Phật nói rõ như ban ngày, không có gì nghi ngờ hết.
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê luôn. Cho nên trọng tâm đặt ở con người. Tất cả chúng ta học Phật là học đạo giác ngộ, mà không chịu giác thì không biết học cái gì? Có người càng học lại càng mê, nên mới đi cúng chỗ này chỗ kia, cầu xin ông này bà nọ đủ thứ hết. Đó là sai lầm lớn của người học Phật. Đạo Phật là con đường, là phương pháp đưa chúng ta tới giác ngộ. Đã đi con đường giác ngộ mà lại trở thành mê, thật không có lý chút nào.
Giác ngộ rồi mới tới giải thoát, không giác ngộ thì không bao giờ giải thoát được. Trong kinh Viên Giác, Bồ-tát Văn-thù hỏi Phật: “Thế nào là vô minh?” Đức Phật dạy: “Chấp thân tứ đại là thật, chấp tâm sanh diệt duyên theo bóng dáng sáu trần là thật, đó là vô minh.” Vô minh là gốc của luân hồi sanh tử. Nếu thấy thân tứ đại không thật và tâm hư dối không thật, đó là minh. Như vậy vô minh với minh ở cạnh một bên, không xa xôi gì hết. Chúng ta tu muốn cầu cái gì? Cầu minh bỏ vô minh, cầu giác bỏ mê. Cầu ở ai? Ở mình, tất cả gốc từ mình mà ra. Thay đổi cái nhìn, từ sai lầm chuyển qua thức tỉnh thì hết mê. Hết mê là giác, giác một phần là Bồ-tát nhỏ, Bồ-tát con. Như vậy từ một kẻ phàm phu chuyển qua Bồ-tát có khó không? Không khó, rất là dễ. Cho nên một hôm ông bán thịt nghe lời Thiền sư dạy, liền thức tỉnh làm kệ:
Tạc nhật dạ-xoa tâm,
Kim triêu Bồ-tát diện,
Dạ-xoa dữ Bồ-tát,
Bất cách nhất điều tuyến.
Hôm qua mê là tâm dạ-xoa, ngày nay giác là mặt Bồ-tát. Bồ-tát với dạ-xoa không cách một đường tơ. Như vậy tại sao chúng ta cứ sợ khó, chớ chi có cái gì ngăn trở mình chuyển không được mới là khó. Đằng này mình trọn quyền chuyển mê thành giác, không thần Thánh nào xen vào ngăn cấm cả, chuyển không được là tại chúng ta không quyết chí chuyển thôi. Nếu đã trọn quyền thì có kêu trời kêu đất không? Việc gì đến là lỗi tại mình, chớ không phải trời Phật xui khiến đâu. Hiểu như vậy mới thấy tu Phật có một sức mạnh phi thường. Chúng ta hiểu giác thì phải tập giác, ngày nay chưa được ngày mai tiếp tục. Ông hàng thịt còn chuyển cái một, chúng ta đâu có tội lỗi bằng ông hàng thịt. Nếu không chuyển được là chưa biết tu Phật.
Nói đến giải thoát là giải thoát cái gì? Nếu thân không thật, tâm suy nghĩ không thật, còn gì để chúng ta giải thoát? Cái gì ra khỏi sanh tử luân hồi? Tâm. Tâm nào? Đó là vấn đề sâu sắc tế nhị mà người đời không biết. Đức Phật khi thành đạo, Ngài trù trừ không chịu đi giảng, trải qua thời gian năm mười ngày. Khi chư thiên xuống yêu cầu xin Thế Tôn mở phương tiện để giáo hóa chúng sanh, Phật bảo vì cái thấy của ta nói người khác không hiểu. Chư thiên năn nỉ nhiều lần Phật mới chấp nhận dùng phương tiện để độ chúng sanh. Sau đó Ngài đến vườn Lộc Uyển nói pháp Tứ đế. Ngài không chỉ thẳng cái mình thấy, mà dạy pháp khác. Như vậy hai cái có khác không? Kinh Phật thường hay nói: “Giáo lý của ta như ngón tay chỉ mặt trăng hay như bè đưa khách qua sông.” Đó là phương tiện, không phải cứu kính. Thấy mặt trăng thì phải bỏ ngón tay, qua bờ rồi phải bỏ thuyền bè. Biết được phương tiện chúng ta mới khỏi hiểu lầm. Như vậy chỗ Phật thấy nhưng không nói được là chỗ nào?
Tôi dẫn câu chuyện trên hội Linh Sơn, đức Phật ở trước đại chúng đông vầy không nói một lời, đưa cành hoa sen lên rồi nhìn khắp đại chúng. Mọi người đều ngơ ngác, tới ngài Ca-diếp thì Ca-diếp mỉm cười. Phật nói: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, nay trao cho Ca-diếp.” Lúc đó Phật có nói lời gì đâu mà trao. Chỗ này quí vị không suy gẫm nổi, suy gẫm là trật. Đây là chỗ bí hiểm, nhưng thật ra không bí hiểm chút nào hết mà tại chúng ta quên. Câu chuyện đó tạm dừng lại, tôi dẫn thêm câu chuyện khác.
Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đưa tay lên hỏi A-nan: “Ông thấy không?” A-nan thưa: “Dạ thấy.” Phật để tay xuống hỏi: “Ông thấy không?” A-nan thưa: “Dạ, không thấy.” Phật quở: “Ông quên mình theo vật.” Tay là đối tượng của cái thấy. Tay đưa thì thấy có cái tay, tay để xuống thì thấy không có tay, sao lại nói không thấy! Cái thấy đó của ai? - Của mình. Nó có suy nghĩ không? - Không. Có biết không? - Biết. Thấy cái tay liền biết cái tay, có suy nghĩ gì đâu. Cái tay là đối tượng, cái thấy là của mình mà chúng ta quên. Khi có tay nói có thấy, khi không tay nói không thấy, đó là quên mất cái thật đang hiện tiền.
Phật bảo La-hầu-la đánh tiếng chuông, rồi hỏi A-nan: “Có nghe không?” A-nan thưa: “Dạ nghe.” Phật bảo đánh tiếng chuông nữa hỏi có nghe không. A-nan cũng thưa: “Dạ nghe.” Khi tiếng chuông im bặt, Phật hỏi A-nan: “Có nghe không?” A-nan thưa: “Dạ, không nghe.” Phật liền quở: “Tiếng chuông là tiếng ở bên ngoài, còn cái nghe là cái của ông. Tiếng chuông qua mất, còn cái nghe hiện tiền, sao lại không nghe?” Chúng ta có bị lỗi này không? - Có. Đó là quên mình theo vật. Cho tiếng là mình, có tiếng thì có mình, có nghe; không tiếng thì không có mình, không có nghe. Chúng ta quên mất cái hay nghe là mình, tiếng là cái bị nghe, vì vậy Phật quở quên mình theo vật.
Nghe tiếng chuông biết tiếng chuông mà khỏi suy nghĩ, nghe chim kêu biết chim kêu cũng không suy nghĩ. Biết mà không suy nghĩ thì cái biết đó thật hay giả? - Thật. Có suy nghĩ là có sanh diệt, biết mà không suy nghĩ thì không sanh diệt. Cái biết đó tuy có nhưng diễn tả không được vì nó không hình tướng, không dấy động. Lúc nào nó cũng thường trực nhưng chúng ta lại quên. Vì vậy Phật đưa cành sen lên không nói gì hết, mọi người không hiểu, tới ngài Ca-diếp, Ngài cười. Cười tức là biết Phật muốn nói gì rồi. Chỉ có cái chân thật từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý hiện tiền nên ta mới thấy. Vậy mà mình quên, chạy theo suy nghĩ lăng xăng trong đầu, nên không nhận ra cái biết thường trực đó.
Phật muốn chỉ cho đại chúng cái lâu nay mình có nhưng lại quên. Song vì nó không hình tướng nên thật khó chỉ. Vì vậy Ngài mượn phương tiện đưa cành hoa sen lên, ai khéo sẽ nhận ra cái hay thấy thường trực nơi mình. Cũng thế, những lúc chúng ta ngồi thản nhiên tự tại, đầu óc không suy nghĩ gì trong một hai phút, lúc đó chúng ta vẫn thấy nghe như thường. Rõ ràng cái biết hiện tiền, nhưng chúng ta quen chạy theo những suy nghĩ phân biệt nên bỏ mất cái biết chân thật. Bây giờ Phật dạy chúng ta dừng cái biết suy nghĩ, để cái biết chân thật hiện ra. Cái biết chân thật không tướng mạo nên nó trùm khắp, luôn hiện tiền không vắng thiếu nên nó thường trực. Cái thường trực không sanh, không diệt, không tướng mạo, làm gì có vô thường!
Hiện giờ chúng ta là những người đáng thương, quên cái thật chạy theo cái giả, chấp cái giả là thật nên không nhận ra được cái thật. Vì vậy Phật dạy ngồi thiền để chặn dòng suy nghĩ lăng xăng, bao giờ chúng lặng rồi thì cái biết chân thật trùm khắp hiện tiền. Khi tâm trong sáng không bị che lấp gì hết, chúng ta mới giải thoát sanh tử. Nói tới giải thoát, tôi dẫn một ít câu chuyện như sau:
Tổ Tăng Xán ở Trung Hoa, một hôm gặp chú Sa-di mới mười hai tuổi tên là Đạo Tín. Đạo Tín thưa: “Bạch Hòa thượng, xin Hòa thượng dạy con pháp môn giải thoát.” Tổ hỏi: “Ai trói buộc ông?” Đạo Tín nhìn lại thưa: “Dạ không ai trói buộc.” Tổ bảo: “Không ai trói buộc, cầu giải thoát làm gì?” Ngay đó Đạo Tín liền ngộ. Không ai trói buộc mình, chỉ vì chúng ta có cái thật nhưng quên. Bây giờ nhận ra cái thật là giác ngộ, giác ngộ thì giải thoát.
Câu chuyện thứ hai, ngài Trần Nhân Tông ở Việt Nam lúc tu ở núi Yên Tử ngộ đạo, Ngài có làm bài “Sơn phòng mạn hứng” tức là hứng thú ở hang núi:
Thùy phược cánh tương cầu giải thoát,
Bất phàm hà tất mịch thần tiên.
Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão,
Y cựu vân trang nhất tháp thiền.
Thùy phược cánh tương cầu giải thoát, là ai trói mà ta lại cầu giải thoát?
Bất phàm hà tất mịch thần tiên. Mình không phàm thì cầu thần tiên làm gì? Tại sao không phàm? Vì ngay nơi chúng ta có Tánh giác sẵn, mà Tánh giác là Phật rồi. Vậy nếu giác ngộ thì mình là Phật. Giác ngộ cái gì? Giác ngộ cái sẵn có của mình. Vậy mà thiên hạ lo trèo non lội suối tìm Thánh tìm thần để học đạo, không biết quay lại mình.
Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão, tức là vượn nhàn ngựa mỏi, người đã già. Tất cả con vật trên thế gian cho đến người đều từ khỏe mạnh trẻ trung đi tới già lão rồi chết.
Y cựu vân trang nhất tháp thiền, tức là như cũ ở vân trang một võng thiền. Nghĩa là về thân tất cả loài vật đều đi tới chỗ sanh, già, bệnh, chết; chỉ có ở vân trang một vườn thiền còn nguyên. Hình ảnh này biểu trưng cho thân tâm sanh diệt đều bại hoại, còn cái chân thật không bao giờ bại hoại. Cái chân thật đó là chỉ cho tâm sẵn nơi mỗi chúng ta. Tâm là cái biết. Cái biết suy nghĩ gọi là vọng tâm, cái biết không suy nghĩ là Chân tâm. Tất cả chúng ta đều có sẵn hai cái biết đó. Suy nghĩ là một dòng tư tưởng liên tục. Còn biết không suy nghĩ có dòng nào không? Nó nguyên trạng không có cái gì lạ hết mà hằng biết. Gió qua nghe mát biết mát, chim kêu nghe tiếng biết chim, người đi thấy người biết người, không có chút suy nghĩ. Chúng ta có cái biết sẵn như vậy mà bỏ quên, lại chạy theo cái biết sanh diệt lăng xăng cho là mình. Cái biết sanh diệt lăng xăng tạo nghiệp đi trong sanh tử, chúng ta cứ bám vào nó trách gì không luân hồi sanh tử. Còn sống được với cái hằng biết không tướng mạo, không sanh diệt thì ra khỏi sanh tử.
Thật ra quí vị nói tu khó tôi thông cảm lắm. Tại sao? Vì một người tỉnh ở trong trăm ngàn người mê. Người tỉnh nói thì những người mê bảo điên, thành ra nói không được, riết người tỉnh cũng mê luôn. Đó là cái khó. Chớ nếu người tỉnh nói với những người tỉnh thì dễ biết mấy. Ví dụ, có một Phật tử đi chợ, vô cớ có người kiếm chuyện mắng nhiếc. Sau Phật tử có anh chị em đi theo. Người tu khá nhịn bỏ qua không cãi lại, nhưng mấy anh chị em đi theo chê chị ngu quá hoặc anh ngu quá. Nghe chê ngu, Phật tử tức cũng cãi lại, rốt cuộc ngu cả đám. Cho nên tu hành nên gần gũi những bạn lành để huynh đệ cùng nhau sách tấn, như vậy mới giữ được niệm hiền lành chân thật của mình. Ngược lại cứ ở trong đám mê hoài thì khó mà tu tiến.
Chỗ tu hành, nhất là tu thiền, ít ai hiểu được. Như Lâm Tế hồi xưa tới Tổ Hoàng Bá hỏi: “Bạch Hòa thượng, thế nào là đại ý Phật pháp?” Hoàng Bá đập cho một gậy, không nói lời nào hết. Tàn nhẫn chưa! Năm ba hôm sau thầy Thủ tọa xúi Ngài hỏi Hòa thượng nữa đi. Ngài lên hỏi cũng ăn gậy nữa. Hỏi ba lần, ngài Hoàng Bá đều cho ăn gậy cả ba, Ngài chùi nước mắt lui xuống, trong lòng nghĩ chắc hết duyên rồi nên định cuốn gói đi. Thủ tọa biết nên bảo trước khi đi huynh lên từ giã Hòa thượng. Ngài Hoàng Bá hỏi: “Ông tính đi đâu?” Ngài thưa: “Vì con hết duyên ở đây nên phải đi nơi khác, chớ không biết đi đâu?” Hoàng Bá bảo: “Ông qua Đại Ngu sẽ chỉ cho.”
Lâm Tế đi tới Thiền sư Đại Ngu. Đại Ngu hỏi: “Ông từ đâu đến?” Lâm Tế thưa: “Con ở chỗ Hoàng Bá đến.” Đại Ngu hỏi: “Hoàng Bá đã dạy gì?” Lâm Tế thuật lại: “Con ba lần hỏi thế nào là đại ý Phật pháp, ba lần đều ăn đòn. Không biết con có lỗi hay không lỗi?” Đại Ngu nắm hai vai Lâm Tế đẩy, nói: “Ông được Hoàng Bá chỉ chỗ tột cùng mà còn nói có lỗi không lỗi.” Nghe đến đây Lâm Tế liền ngộ, nói: “Phật pháp Hoàng Bá rất ít.” Đại Ngu nắm đứng hỏi: “Khi nãy nói có lỗi không lỗi, bây giờ thấy cái gì mà nói Phật pháp Hoàng Bá rất ít?” Lâm Tế liền thoi cho Đại Ngu một thoi. Đại Ngu xô ra, nói: “Thầy ngươi là Hoàng Bá, chẳng can hệ gì tới ta.” Lâm Tế trở về Hoàng Bá, sau trở thành vị khai Tổ nổi tiếng tông Lâm Tế, dòng thiền này truyền thừa tới Việt Nam.
Cũng ý đó, tôi dẫn một Thiền sư Việt Nam. Vua Lê Dụ Tông hỏi Thiền sư Hương Hải: “Thế nào là ý của Phật?” Thiền sư Hương Hải đáp bằng bốn câu thơ:
Nhạn quá trường không,
Ảnh trầm hàn thủy,
Nhạn vô di tích chi ý,
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.
Dịch:
Nhạn bay qua trong không,
Ảnh hiện đầm nước lạnh,
Nhạn không ý lưu bóng,
Nước không tâm giữ nhạn.
Ý nói chim nhạn bay qua trong không, bóng hiện dưới hồ, dưới sông. Chim nhạn không có ý lưu bóng dưới hồ, dưới sông. Nước sông cũng không có ý giữ lại bóng nhạn. Đó là Phật ý.
Tổ Lâm Tế hỏi đại ý Phật pháp bị đánh, vua Dụ Tông hỏi ý Phật được trả lời bằng bốn câu thơ: chim nhạn bay trên không, bóng rơi xuống dưới nước, nhạn không có ý lưu bóng dưới nước, nước cũng không có ý giữ bóng của nhạn. Đó là ý Phật. Hiểu được ý này thì hiểu cái đánh của Tổ Hoàng Bá.
Sự truyền pháp của Trung Hoa và Việt Nam về hình thức có khác, nhưng nội dung không khác. Nếu chim nhạn bay qua có ý để bóng dưới nước hay nước có ý giữ bóng chim nhạn, thì hai bên đều có ý dính mắc. Ở đây nhạn không có ý, nước cũng không ý, để nói rằng đối với tất cả cảnh, ta và cảnh không vướng mắc. Chim nhạn ví cho người, nước ví cho cảnh. Người, cảnh thấy là thấy, nghe là nghe, đừng thêm niệm đẹp xấu, khen chê, thì cái thấy, cái nghe đó là ý Phật.
Hỏi thế nào là đại ý Phật pháp, đập cho một gậy là chỗ không suy nghĩ được. Vừa khởi nghĩ là trật rồi không phải ý Phật, cho nên đánh một gậy cho bặt không còn nghĩ gì hết. Nhưng Lâm Tế cứ nghĩ vì Ngài chưa hiểu. Tới chừng Thiền sư Đại Ngu hỏi, Ngài nói không biết con có lỗi hay không lỗi. Đại Ngu bảo Hoàng Bá là tâm lão bà chỉ tột cho ông, mà còn thấy có lỗi không lỗi, là còn hai bên. Nghe đến đó Ngài liền ngộ, chỉ chỗ không hai bên, không có niệm suy nghĩ mới là chỗ thật. Ngài Đại Ngu hỏi ông thấy gì mà nói Phật pháp Hoàng Bá rất ít, Lâm Tế thoi cho một thoi vì chỗ đó nói không được, chỉ còn thoi thôi. Các Tổ ở Trung Hoa rất bạo, còn chư Tổ Việt Nam hiền lành hơn, dùng thơ nói vậy thôi, nhưng cũng đều chỉ cái ấy.
Ngài Điều Ngự Giác Hoàng, làm bài “Cư trần lạc đạo phú”, kết thúc bằng bốn câu thơ chữ Hán:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc san hề khốn tắc miên,
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Dịch:
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.
Câu “đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”, tức thiền ngay đó đừng hỏi nữa. Rõ ràng các ngài thấy tới chỗ tột cùng, như đức Phật đưa cành hoa sen, ngài Ca-diếp chỉ thấy thôi, không nghĩ gì hết là đúng, nên Ngài mới được truyền tâm ấn. Còn các thầy Tỳ-kheo suy nghĩ không biết Phật muốn nói gì, nên không được truyền tâm ấn. Đó là chỗ uyên thâm của Phật pháp. Cái hiện tiền hằng biết của mình không một niệm, không hai bên, không vướng mắc, chính đó mới ra khỏi sanh tử. Như vậy chúng ta có hòn ngọc báu mà không biết dùng nên trở thành kẻ cùng tử lang thang, như trong kinh Pháp Hoa Phật đã nói.
Chúng ta tu Phật không gì khác hơn là trở về cái chân thật của chính mình. Cái chân thật đó gọi là Phật tánh, Pháp thân v.v… Khi nhận và sống được tánh Phật rồi, ta có đầy đủ tất cả diệu dụng. Cho nên, Lục tổ Huệ Năng khi ngộ được Phật tánh, có người hỏi từ tám thức tu chuyển thành Tứ trí là thế nào, Ngài giải thích, khi sống được với Tánh thật rồi thì thức thứ tám là Tàng thức tức thức chứa tất cả chủng tử thiện ác chuyển thành Đại viên cảnh trí, thức thứ bảy là Mạt-na thức chuyển thành Bình đẳng tánh trí, thức thứ sáu chuyển thành Diệu quan sát trí, năm thức trước: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân chuyển thành Thành sở tác trí. Như vậy là chuyển thức sanh diệt trở thành trí mầu nhiệm bất sanh bất diệt, chớ đâu phải tu tới đó hết.
Quí vị đừng sợ không suy nghĩ là mất mình. Chính mình dừng suy nghĩ rồi mới đạt tới chỗ chân thật. Khi đạt đến chân thật viên mãn rồi có những diệu dụng phi thường, tức là chân không mà diệu hữu, do công năng chuyển thức thành trí. Tóm lại khi được giải thoát, không phải là hết mà chúng ta có cái biết chân thật, không sanh diệt gọi là Chân tâm, Phật tánh lưu xuất ra vô số diệu dụng. Hiểu sâu như vậy, trên đường tu chúng ta không nghi ngờ gì nữa. Nếu không hiểu thì tu như mù, đó là lỗi lầm do không nắm vững đường lối tu của Phật dạy.

Sửa bởi Test: 13/11/2021 - 16:29


Thanked by 4 Members:

#2 QuyenLocTamMinh

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 471 Bài viết:
  • 124 thanks

Gửi vào 14/11/2021 - 14:15

12.11 Ác Khẩu
(HT Thích Thanh Từ)
Phật dạy người nào lìa được lời nói hung dữ, tức là không la mắng chửi rủa người thì được tám món tịnh nghiệp:
1. Ngôn bất quai độ: Lời nói không trái pháp độ, tức là lời nói chừng mực không trái thời duyên, không trái lý đạo. Khi nổi nóng mở miệng thì mắng chửi, nói nặng người, đó là lời nói không chừng mực, lúc bình thường tỉnh táo thì không bao giờ nói. Sở dĩ nói như thế là do không làm chủ được mình. Bây giờ mình tu, bình tĩnh làm chủ được miệng không nói hung dữ, nên nói lời chừng mực không trái với thời duyên, không trái với đạo lý.
2. Ngôn giai lợi ích: Người không nói ác, mỗi khi mở miệng đều nói lời lợi ích, không bao giờ nói lời làm tổn hại khiến người khổ đau.
3. Ngôn tất khế lý: Người không nói lời ác, thì không nói sai quấy, chỉ nói những lời hợp với đạo lý.
4. Ngôn từ mỹ diệu: Người không nói lời ác, chỉ nói lời nhu nhuyến, dịu dàng làm vui đẹp lòng người, không nói lời thô xẵng, làm cho người buồn giận. Thường quí bà, mỗi khi nổi giận có nói êm dịu nhẹ nhàng không, hay nói thô xẵng làm cho người buồn giận? Quí bà ráng nhớ để tu, vì nói hung dữ người nữ dễ phạm.
5. Ngôn khả thừa lãnh: Người không nói ác, khi mở miệng thường nói lời hiền, khiến người nghe dễ lãnh hội thừa nhận.
6. Ngôn tắc tín dụng: Người không nói lời ác, khi nói là nói lời chân chánh phù hợp đạo lý, khiến người nghe tin nhận không bác bỏ.
7. Ngôn vô khả cơ: Người không nói lời ác, mở miệng nói lời hiền dịu, nhu nhuyến không bị chê cười.
8. Ngôn tận ái lạc: Người không nói lời ác, chỉ nói lời hiền thiện, ai nghe cũng ưa thích.
Đó là tám phước báo của người không nói hung dữ. Nếu ai hướng về quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì sau khi thành Phật sẽ được đầy đủ tướng Phạm âm của Như Lai. Trong kinh có ghi tiếng nói của Phật thanh t*o trong trẻo như tiếng chim Ca-lăng-tần-già. Ngài được phước báo tốt về âm thanh như thế là do nhiều đời nhiều kiếp khéo gìn giữ giới không nói hung dữ, nên mới được như vậy. Do lìa xa những tiếng thô, những lời nói làm cho người tức tối, nên Ngài được tiếng trong trẻo không ai bằng, nên ai cũng thích nghe. Còn phàm phu chúng ta mở miệng là bị người nghe chống đối lại, không thừa nhận, đó là do từ trước chúng ta đã nói lời hung ác. Biết hậu quả như thế, chúng ta phải dè dặt chớ nói lời hung ác mới được tám điều phước lợi vừa nêu.

Thanked by 3 Members:

#3 QuyenLocTamMinh

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 471 Bài viết:
  • 124 thanks

Gửi vào 15/11/2021 - 08:31

13.8 Tuệ giác của Đức Phật
(Thiền sư Thích Thanh Từ giảng)

- Hôm nay, nhân ngày Đại lễ Phật đản cũng là ngày vui của Tăng Ni và Phật tử, tôi sẽ nhắc lại những đặc điểm nổi bật trong đời sống của Đức Phật. Mong rằng quý vị nghe, hiểu và ứng dụng tu hành, xứng đáng là người đệ tử đi theo con đường Phật đã đi, làm những việc Phật đã làm.

Nói về cuộc đời của Đức Phật, nếu kể đầy đủ theo dòng lịch sử thì quá dài không thể nói hết. Ở đây tôi chỉ nêu những điểm quan trọng từ khi Ngài phát tâm xuất gia đến lúc thành đạo và giáo hóa chúng sanh. Nương theo giáo lý chân thật Ngài để lại, chúng ta học tập và thực hành theo để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

Khi Đức Phật còn là Thái tử Tất-đạt-đa, một hôm Ngài đi dạo bốn cửa thành, chứng kiến cảnh già bệnh chết của nhân sinh. Về đến hoàng cung, lòng Ngài nặng trĩu niềm ưu tư, trăn trở, bất an. Suốt đêm Ngài không ngủ được vì trằn trọc suy nghĩ. Tại sao con người sanh ra, lớn lên có gia đình, con cái và cuối cùng phải chịu già bệnh chết. Lần lượt lớp người đi trước, lớp người đi sau đều như vậy. Sanh già bệnh chết là một quy luật đương nhiên, mọi người phải chấp nhận, không ai chối cãi được. Nhưng riêng Thái tử không chấp nhận điều đó. Ngài cho rằng con người có quyền thoát khỏi quy luật này, vì thế Ngài quyết chí tìm lối đi để chinh phục sanh tử. Lẽ ưu tư đó khiến Thái tử không thể yên lòng tiếp tục sống trong hoàng cung. Mấy ngày liên tiếp Thái tử quên ăn bỏ ngủ, luôn luôn thao thức chí nguyện làm sao cứu mình và chúng sanh thoát khỏi luân hồi sanh tử.

Cuối cùng Ngài quyết định từ giã vương cung, vào chốn rừng sâu tìm thầy học đạo.
Trong quá trình tìm đạo và học đạo, trước hết Ngài gặp những vị tu tiên dạy về Tứ thiền và Tứ không, sanh lên các cõi trời. Tất cả kết quả rốt ráo của các vị thầy chỉ dạy lại, Ngài đều chứng đạt hết. Như Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ cho tới Phi tưởng phi phi tưởng xứ… những địa vị tu chứng này đối với Ngài chưa phải cứu kính, chưa đúng mục tiêu Ngài nhắm vì còn trong sanh tử.

Cuối cùng Ngài từ giã tất cả, vào rừng tu khổ hạnh. Ròng rã suốt sáu năm mà vẫn chưa đạt ý nguyện. Ngài chuyển sang lối tu trung đạo, đến dưới cội bồ-đề thiền định suốt bốn mươi chín ngày đêm. Đến đêm thứ bốn mươi chín, khi sao Mai vừa mọc, tâm Ngài hoàn toàn thanh tịnh, liền chứng Tam minh, Lục thông… Ngang đó Ngài tuyên bố giải thoát sanh tử, thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.

Nhờ chứng Túc mạng minh và Thiên nhãn minh, Đức Phật đã giải quyết được thắc mắc buổi đầu. Tại sao con người có mặt ở đây và sau khi chết sẽ đi về đâu. Nhờ chứng Lậu tận minh, Ngài biết rõ ràng đâu là khổ, đâu là nguyên nhân của khổ, đâu là hạnh phúc, phương pháp nào đạt được hạnh phúc chân thật miên viễn. Dứt hết mầm sanh tử và nguyên nhân dẫn đi trong sanh tử, tức là không còn sanh lại trong Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Đức Phật thực sự chinh phục được sanh tử, không bị sanh tử chi phối nữa.

Đức Phật chứng Thiên nhãn minh thấy rõ đời quá khứ của mỗi chúng sanh. Sanh ra trong gia đình nào, tạo nghiệp lành hay dữ, hiện tại như thế nào, sau khi chết sẽ ra sao. Ai có mặt ở đây đều mang vết tích của quá khứ và những gì gây tạo trong đời hiện tại, sẽ được tiếp nối ở tương lai. Sự hiện diện của tất cả chúng ta ngày nay không phải chuyện ngẫu nhiên, cũng không do ai sắp đặt ngoài mình. Trong kinh kể một đoạn nhân duyên ngoại đạo tới hỏi Phật:

- Thưa Cù-đàm, tại sao trên nhân gian có người sống lâu có người chết yểu, có người nghèo khổ có người giàu sang, có người ngu si có người trí tuệ. Điều này do ai sắp đặt?

Phật trả lời:

- Không ai sắp đặt hết. Chỉ vì nghiệp mình đã tạo khiến bị chi phối như vậy.

Ngoại đạo hỏi tiếp:

- Do tạo nghiệp gì sanh ra bị chết yểu, tạo nghiệp gì lại được sống lâu?

Phật dạy:

- Vì ưa giết hại chúng sanh nên phải chịu quả báo bị chết yểu. Ngược lại, người không giết hại chúng sanh sẽ được sống lâu.

- Tại sao có người sanh ra trong cảnh giàu sang, có người sanh ra trong cảnh nghèo nàn?

- Vì đời trước biết bố thí, giúp đỡ người nghèo đói nên bây giờ được sanh trong gia đình giàu sang. Đời trước ích kỷ, nhỏ mọn nên bây giờ phải sanh trong gia đình nghèo nàn.

- Tại sao có người thông minh, có người dốt nát?

- Do đời trước hiếu học, siêng năng cần mẫn tìm tòi, hỏi han nên đời này thông minh trí tuệ; ngược lại là người dốt nát.

Đức Phật kết thúc rằng, con người là chủ tạo nghiệp cũng là nhân tố thừa kế nghiệp mình đã tạo. Thí dụ, lúc nhỏ tám chín tuổi chắc chắn không có ai biết ghiền thuốc, ghiền rượu hoặc ghiền trầu. Sau này lớn lên tập hút chơi, mỗi ngày một điếu. Tập quen lâu dần thành ghiền, tới chừng thiếu thuốc ngồi ngáp ngắn ngáp dài, ngửi mùi thuốc từ xa là thèm không chịu nổi.

Một khi đã huân tập thành nghiệp, nó có sức mạnh chi phối, lôi kéo mình tiếp tục tạo nghiệp nữa. Trước làm chủ tạo nghiệp, sau bị nghiệp dẫn đi. Trời Phật hay thần thánh đều không bắt ai phải ghiền cái này cái kia. Tự mình tập thành thói quen tạo nghiệp rồi bị nghiệp chi phối. Vì không biết điều này nên lúc khổ người ta kêu trời kêu đất, than thân trách phận. Hiểu đạo rồi chúng ta mới thấy ngày xưa si mê bây giờ ráng chịu, cười và trả quả thôi, đâu có gì phải buồn giận.

Sau khi thành đạo, Đức Phật vì lòng từ bi thương xót chúng sanh còn đang trầm nịch trong trầm luân sanh tử, Ngài dùng đủ phương tiện để giáo hóa, chỉ dạy phương pháp tu hành, giúp cho chúng sanh giải thoát sanh tử. Tùy tâm tánh và căn cơ của từng chúng sanh mà Phật có phương pháp chỉ dạy phù hợp. Làm sao cho chúng sanh thấy rõ manh mối của luân hồi và manh mối của giải thoát. Trọng tâm ý nghĩa những lời Phật dạy tựu trung trong ba điểm chánh.

Điểm thứ nhất, Phật dạy chúng ta sống trong cõi đời này đúng ý nghĩa là phải có lòng từ bi và trí tuệ. Mọi người biết thương yêu, giúp đỡ, bảo vệ, bênh vực nhau. Chỉ cho nhau thấy đâu là chánh tà, thiện ác, hay dở. Làm sao hướng dẫn mọi người đều được sáng suốt, thấy lẽ phải, chân lý một cách rõ ràng tường tận, khả dĩ đời sống hiện tại và tương lai mới tươi sáng hơn. Nếu sống mà không biết gì hết, ai đẩy đâu tới đó, bắt làm gì làm nấy là đang sống say chết mộng trong mê muội.

Điểm thứ hai, Đức Phật dạy sanh tử không phải chỉ một đời này. Sau khi mạng chung còn tiếp tục luân hồi nhiều đời nữa. Muốn đời sau được vui vẻ tốt đẹp, Phật dạy chúng ta chọn lấy một lối đi cho mình. Muốn trở lại làm người tốt, phải quy y Tam bảo và giữ tròn năm giới cấm. Năm giới là không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu say sưa. Đó là nhân tố xứng đáng làm người tốt trong hiện tại và tương lai.

Tiến cao hơn một bước nữa, Phật dạy muốn sanh lên cõi trời phải giữ tròn mười điều lành, tức là tu pháp Thập thiện. Thân có ba: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm. Miệng có bốn: không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói thêu dệt, không nói lời hung ác. Ý có ba: bớt tham, bớt sân, bớt si. Giữ được mười điều lành chắc chắn sanh cõi trời không nghi. Người nào tạo mười điều ác như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu… cho tới tà kiến, nhất định rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Đó là ba đường xấu. Đức Phật nêu ra các phương pháp cho chúng ta chọn lựa, ai muốn đi đâu tùy ý.

Đối với những người đã biết tu, ân đức của Phật nhiều vô kể. Trong kinh thường tán thán Đức Phật là bậc Vô thượng Y vương. Vô thượng là không có gì hơn, y là thầy thuốc, vương là vua, nghĩa là ông vua thầy thuốc không ai bằng. Giá trị đó không thể dùng năm tháng hay bất cứ cái gì có thể tính kể hết. Thang thuốc của Phật dùng để trị tâm bệnh điên đảo, ngu si, mê muội của chúng sanh. Chừng nào dứt sạch tâm niệm đó, ngang đây hết sanh tử.

Hết sanh tử thì chúng ta còn không? Chỗ này không khéo rất dễ hiểu lầm. Nếu nói còn là sai, người ta lại tưởng có hình tướng này kia. Nếu nói hết, người ta tưởng không ngơ. Cho nên hình tướng và không ngơ đều sai. Lúc đó chỉ một tánh giác thanh tịnh, tùy duyên ứng hiện không lường được. Chỗ này tuy không thể dùng ngôn ngữ diễn tả được nhưng không phải là không. Nói có không được, nói không cũng không thành.

Trong kinh Phật dùng thí dụ này để nói lên ý nghĩa Niết-bàn có hay không. Một con rùa đi nghêu ngao trên mặt đất thấy rõ ràng trời mây, cây cối, núi rừng, nhà cửa. Khi nó lặn xuống biển gặp chú cá, cá hỏi anh đi chơi trên đó thấy gì nói tôi nghe. Rùa vui vẻ kể, nào là trời mây, núi rừng đủ thứ. Cá ngạc nhiên hỏi, những thứ anh thấy trên đó có cái nào giống dưới biển không, rùa đều đáp không. Cá sửng sốt nghĩ rằng, nếu cái gì cũng không hết tức là không có.

Chỗ này phải chín chắn lắm mới có thể hiểu được ý Đức Phật ngầm chỉ. Ngài đã hoàn toàn giác ngộ nên thấy rõ ràng cái mê muội của chúng sanh. Nếu mình nói có nói không cũng chỉ là cái thấy mê muội. Chỉ khi nào giác ngộ như Phật Tổ mới có thể biết được chỗ đó. Phật nói chừng nào tu chứng đến Lậu tận minh, ngang đó không còn sanh tử, chứ không nói còn hay hết, cũng không nói có và nói không.

Ngày nay học đạo chúng ta biết rõ ngay trong thân sống chết này có cái không sống chết. Nhận được cái đó tức là làm chủ sống chết. Cho nên sau khi đạt đạo, ngài Từ Minh nói: “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ”. Nghĩa là có mặt trên cõi đời như mùa đông đắp chăn ấm áp, chết như cởi bỏ chiếc áo trong mùa hè nóng bức. Sanh vui, tử cũng vui.
Trong ngày Phật đản, tôi nhắc lại những điểm quan trọng này để quý vị cùng nhớ và cảm trọng ân đức sâu dày của Đức Phật. Mỗi năm chúng ta làm lễ tưởng niệm Ngài, là khắc ghi công ơn trời biển khó có thể đền đáp cho xứng cho đủ. Mong tất cả quý Phật tử nghe, hiểu rồi ứng dụng tu, làm sao thoát khỏi cái khổ sanh tử, vĩnh viễn an vui.

HT.Thích Thanh Từ

Thanked by 4 Members:

#4 QuyenLocTamMinh

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 471 Bài viết:
  • 124 thanks

Gửi vào 15/11/2021 - 20:09

THANH NIÊN VỚI VIỆC ĐI CHÙA
HT Thích Thanh Từ
(Sư ông Trúc Lâm).
Hôm nay đem việc đi chùa mà bàn với các bạn thanh niên thật là một chuyện rất tầm thường. Thưa bạn! Tôi lại thích nói những chuyện tầm thường ấy, vì nó rất gần chúng ta, mà đã bị nhiều người lãng quên đi. Nếu một hôm có người đến mời bạn đi chùa, chắc bạn sẽ cau mày lộ vẻ khó chịu, nếu không bĩu môi kiêu ngạo. Vì bạn thanh niên cho việc đi chùa là việc của những người giàu lòng tín ngưỡng, việc của bà già, ông cụ, còn thanh niên là những con người khoa học thực tế mà ai đi làm việc ấy.
Quan niệm đó có thể đúng với người không hiểu ý nghĩa đi chùa, e không đúng với những người đã hiểu ý nghĩa đi chùa.
Thưa bạn! Trong nhà Phật mỗi việc làm, mỗi hành động đều có ý nghĩa của nó, đáng tiếc có một số tín đồ không chịu tìm hiểu, nên việc làm sai lạc, gây sự hiểu lầm cho khách bàng quan. Vì thế, tôi cần biện bạch ý nghĩa đi chùa để các bạn biết qua.
Đi chùa có những ý nghĩa:Chùa là nơi thờ cốt, tượng của chư Phật - người từ bi và giác ngộ đã viên mãn- Phật tử đến chùa là tỏ lòng kính mến, sùng thượng gương cao cả của Ngài mà học đòi bắt chước theo, như châm ngôn ta có câu: “Trọng thầy sẽ được làm thầy” vậy. Bạn một phen bước chân đến cổng chùa là trong ký ức bạn đã quay lại đức hy sinh cao cả, gương trí tuệ sáng ngời của Phật Tổ rồi. Bước vô chánh điện, nhìn lên chân dung của Phật, bạn sẽ thấy cặp mắt hiền lành, vẻ mặt từ bi của Ngài hình như lúc nào cũng chực đưa tay cứu vớt chúng sanh đang đắm chìm trong đau khổ. Chỉ chừng ấy thôi, bạn cũng đã thấy hình dáng Phật gây cho bạn một ấn tượng tốt lành, một gương sáng cao quí. Bạn đi đến chùa để nhớ lại công hạnh vị tha không bờ bến, đức độ hỉ xả vô biên giới của Phật mà bắt chước theo, chớ đâu phải đi chùa để lễ bái, để khấn nguyện. Như các nhà ái quốc hằng đến thăm lăng, miếu các công thần. Không phải các ông đến đó để xin xăm, để khấn vái, cầu sự ủng hộ cho mình, mà để ôn lại cuộc đời oanh liệt của các Ngài qua những tấm bia, chiếc mão... cho lòng ái quốc của mình được nồng nhiệt thêm.
Phật thuyết pháp hơn ba trăm hội, những lời vàng ngọc ấy được ghi chép lại thành ba tạng kinh điển, trong ấy chứa đựng một nền triết lý cao siêu, một biển từ bi bát ngát. Bạn đến chùa để học hỏi giáo lý, qua lời chỉ dẫn của các nhà sư. Vì bạn là một thanh niên Việt Nam, bạn không thể chối cãi được ảnh hưởng ít nhiều của đạo Phật, một đạo cổ truyền của dân tộc mà người Việt Nam đã nhìn nhận là đạo ông bà. Hơn nữa, đạo Phật là một tôn giáo lớn nhất, một nền triết lý cao nhất của Á Đông, bạn là một thanh niên trí thức Á Đông, không có lý do gì bạn không biết. Nếu bạn nói không biết thì chẳng hổ với những học giả Âu Tây đang hướng về Á Đông để nghiên cứu ấy sao? Hoặc bạn viện lẽ: “Tôi ở nhà đọc sách Phật thì cũng hiểu được, cần gì phải đi đến chùa”. Thưa bạn! Điều ấy chưa hẳn là đúng. Vì sao? Vì bạn đang bận sự học hành hoặc đang lo sanh kế, thời giờ đâu bạn nghiền ngẫm kinh sách, nếu có thời giờ thì cũng rất eo hẹp. Chắc bạn cũng thừa hiểu kinh điển của nhà Phật như biển cả bao la, nền triết lý Phật giáo như trời cao thăm thẳm. Muốn thấu hiểu, người ta phải chuyên học cả năm, mười năm mà chưa hẳn là đã đạt được; phương chi nằm nhà đọc qua vài ba quyển sách mà có thể thấu triệt được ư? Lại nữa, thà rằng bạn không hiểu gì về Phật giáo còn hơn là bạn hiểu không đúng chân tinh thần của Phật giáo. Vì sự hiểu sai lạc sẽ làm giảm giá trị của Phật giáo và gây cho những người chung quanh một quan niệm sai lầm, nên không hiểu thì thôi, có hiểu cần phải hiểu cho đúng. Do đó, muốn hiểu Phật giáo, bạn cần đến chùa nhờ những vị sư học rộng giáo điển giảng dạy cho, có phần bảo đảm hơn.
Trong những ngày đem hết tâm lực tranh đấu với đời, bạn nghe đầu óc nóng ran, tâm trí quay cuồng, bạn muốn tìm một nơi giải trí cho nó êm dịu lại. Hoặc bạn đến rạp chiếu bóng. Ở đây bạn thấy nghẹt cả người, hơi người đã khiến bạn nghe mệt. Nếu cố gắng vào cửa, bạn cũng thấy trên màn bạc toàn là sự tranh đấu, giết chóc, khổ vui, rốt cuộc chỉ làm cho thần kinh bạn thêm căng thẳng. Hoặc bạn đến nhà hàng để tiêu khiển bằng những chung rượu, chén trà. Nhưng vừa ngồi lại, bạn đã nghe lời bàn bạc, tiếng cãi vã về hơn thua, khôn, dại của những người lân cận, khiến bạn phải nhức đầu. Như thế cũng là một trường tranh đấu, tranh đấu bằng lý thuyết. Bạn sẽ đến và đến nhiều nơi nữa, nhưng ở đâu rồi cũng gây thêm cho bạn một ý niệm so sánh, tranh đấu. Chi bằng, bạn đi thẳng đến chùa, không khí ở chùa sẽ ru êm, xoa dịu tâm hồn bạn. Ở đây, bạn sẽ thấy cả một trời thanh tịnh. Cổng chùa rêu xanh phủ kín, mặc cho nắng táp mưa sa, ngôi chùa đứng lặng im trong không gian tịch mịch. Có nghe chăng, chỉ những tiếng gió thì thào trên ngọn dương như lời giảng đạo của đức Mâu-ni hơn hai nghìn năm còn vọng lại, tiếng chuông ngân nga nhịp nhàng hòa theo gió, rồi tan lần trong không gian lặng lẽ như đem lòng từ bi chan rải khắp trần gian và tiếng Mô Phật - thay cho lời chào - của các nhà sư vừa hiền hòa, vừa thanh thoát. Ở đây, bạn không làm gì tìm ra được một dấu vết tranh đấu, nếu có chỉ là sự đấu tranh nội tâm của những con người cầu tiến. Sau vài mươi phút ở chùa, dù tâm hồn bạn có cuồng nhiệt đến đâu cũng tan biến dần trong không gian tĩnh mịch như ngọn lửa hồng đang cháy sẽ tắt lịm đi sau một cơn mưa mát dịu.
Hoặc trong những lúc chạy đua với đời, bạn đã gặp phải những bức tường chắn lối, hoặc bị sa chân vào cạm bẫy của đời, bạn đang hằn học, đau buồn. Bạn cứ đi ngay đến chùa vì ở đây là nguồn an ủi vô biên của chúng sanh, là suối nước cam lồ để diệt trừ nhiệt não. Vào chùa, bạn sẽ thấy đức Thích-ca trang nghiêm ngự trên đài sen, đức Di-lặc tươi cười thản nhiên trong khi bị bọn lục tặc chọc tai, móc miệng ..., đức Di-đà kiên nhẫn sẵn sàng đưa tay chực cứu độ chúng sanh, trong khi chúng vẫn còn lặn hụp trong biển ái. Qua những hình ảnh ấy, bạn đã thấy thế nào? Và gợi cho bạn những cảm giác gì? Đức Phật Thích Ca ngự trên đài sen là đã nói: “Ngài dấn thân trong trần tục mà vẫn trong sạch, siêu thoát, không bị mùi trần tục làm nhiễm ô”. Đức Di-lặc cười thản nhiên, trong khi bọn lục tặc phá phách, để nói rằng “Ngài sẵn sàng tha thứ, vui vẻ tha thứ và mãi mãi tha thứ tất cả những cái gì mà chúng sanh đã làm cho Ngài rối rắm, đau khổ”. Đức Di-đà đang duỗi tay cứu độ chúng sanh, mà chúng sanh chưa hướng về Ngài, để nói lên rằng “lúc nào Ngài cũng kiên trì cứu độ chúng sanh, mặc dù chúng sanh đang còn mãi mê theo trần tục”. Và còn, còn rất nhiều hình ảnh nữa, tôi không thể kể hết. Nếu bạn biết rõ ý nghĩa khi qua những hình ảnh ấy, bạn sẽ nghe cõi lòng mát lại, quả tim bạn đập đều và bao nhiêu nỗi buồn phiền đã tan biến tự bao giờ.
Đó là chưa nói bạn có diễm phúc thấm nhuần giáo lý. Nếu bạn có duyên lành, gặp một nhà sư đức hạnh, bạn sẽ được tắm mát trong dòng suối từ bi, bạn sẽ bừng tỉnh dưới ánh sáng giác ngộ qua lời giảng giải của nhà sư rút trong giáo điển. Thế là, còn sự buồn phiền nào đeo đẳng trong tâm hồn bạn mà không tan vỡ ?
Cho nên đi chùa không phải chỉ vì sự cúng lạy khẩn cầu, mà để noi theo gương lành của Phật, cải đổi tự thân, để học hỏi giáo lý, tu sửa tâm tánh, để lắng lặng tâm hồn khi đang quay cuồng vì đấu tranh, để xoa êm, tưới dịu phần nào ngọn lửa tức giận, vết thương đau khổ.
Cũng có người viện lẽ rằng: “Tôi ở nhà, tôi vẫn thờ Phật để học theo gương Ngài, tôi cũng xem kinh để tu sửa tự tâm... thì còn hơn đi chùa.” Đành rằng ở nhà có thờ Phật, có xem kinh, nhưng làm sao bằng khung cảnh trang nghiêm ở chùa, lời nhắc nhở chân thành của các nhà sư. Chúng ta chưa phải là bậc “sanh nhi tri chi” thì cần phải nhờ thầy lành bạn tốt, hoàn cảnh thuận tiện làm trợ duyên bên ngoài, mới đủ sức cải đổi những cái xấu dở của mình.
Hoặc người ta không chịu đi chùa bởi những lý do:
Vì cửa từ bi quá rộng cho nên có một ít người lợi dụng đó làm kế sinh nhai, hoặc để giấu những hành tung đê tiện. Do đó đã xảy ra nhiều việc không hay, làm hoen ố chốn thiền môn thanh tịnh. Vì vậy, có một ít người sợ đến chùa bị lợi dụng hoặc bị xấu lây. Thưa bạn! Bất cứ một tôn giáo, một đoàn thể nào cũng có những con chiên ghẻ lẫn trong ấy. Nếu bạn vì thấy một vài cái dở mà chấp nê thì tránh sao khỏi cái lỗi “vơ đủa cả nắm”. Hơn nữa, bạn là người có học thức, một hành động, một cử chỉ bất chánh bạn đã thấy, tội gì bạn phải sợ như vậy.
Hoặc có người nói: “Đến chùa nghe những điều tội phước, thấy gương từ bi của Phật sợ về nhà chán ngán việc làm ăn - việc làm ăn lợi mình hại người - nên không dám đi chùa”. Nói thế là cùng! Bạn thử nghĩ, có ai sợ người ta chỉ lọ trên mặt mình không? Nếu được người ta chỉ cho mình, có lợi hay có hại? Nếu vì lý do như vậy mà không đi chùa thì tôi cũng không biết lời gì mà bàn được.
Nói thế cũng đã dông dài rồi. Để kết thúc lại, ý nghĩa đi chùa là để gợi lại cho chúng ta thấy những gương sáng cao cả để mở rộng kiến thức, để gội rửa những bụi nhơ phiền não, để xoa dịu những vết thương đau. Sự đi chùa như vậy có gì là huyễn hoặc nhuộm mùi mê tín, không thích hợp với óc khoa học thực tế của thanh niên đâu? Theo tôi thiết nghĩ: Các bạn thanh niên phần nhiều tâm hồn sôi nổi bồng bột, thiếu đức bình tĩnh, thiếu chí kiên nhẫn, các bạn cần phải siêng đi chùa hơn hết mới phải. Vì khung cảnh tịch tịnh của nhà chùa sẽ giúp các bạn mát dịu phần nào nhiệt khí, thấy gương nhẫn nại hy sinh của Phật, các bạn sẽ tăng thêm phần kiên chí. Nghe được giáo lý của Phật sẽ giúp cho phần tư tưởng của các bạn được cao siêu. Như vậy sự đi chùa há vô bổ hay sao ?

ĐẠO PHẬT LÀ ĐẠO GIÁC NGỘ
H.T thiền sư Thích Thanh Từ
(Giảng tại San Diego - Hoa Kỳ tháng 11-2000)
Hôm nay chúng tôi đủ duyên sang đây và được quí vị trong ban tổ chức mời giảng. Có nhiều Phật tử chưa từng gặp tôi, chưa từng trực tiếp nghe tôi giảng pháp nhưng đã nghe băng, xem video. Hôm nay quí vị muốn được gặp chúng tôi, nên đây là cơ hội tốt để chúng ta gặp nhau, thăm viếng và nhắc nhở tu hành.
Chúng ta là đệ tử Phật, tu theo Phật, trước nhất phải xác định rõ ràng đạo Phật dạy chúng ta tu thế nào, để không bị lầm lẫn. Vì vậy hôm nay tôi sẽ giảng đề tài Đạo Phật là đạo giác ngộ, nhằm giúp quí Phật tử không còn tí nghi ngờ nào trên đường tu hành của mình.
Trước tiên, chúng tôi tạm định nghĩa “Phật” là một đấng giác ngộ. Tất cả chúng ta ai cũng biết đức Thích-ca Mâu-ni được giác ngộ thành Phật. Nhưng có người gọi Ngài là “Phật”, có người gọi là “Bụt”. Tại sao như vậy? Ở đây tôi sẽ giải rõ.
Nước Việt Nam chúng ta trước kia có những vị Sư Ấn Độ theo các nhà buôn đến truyền bá đạo Phật. Các ngài nói bằng tiếng Ấn Độ và được dịch ra tiếng Việt. Ngày xưa chúng ta không gọi danh từ Phật mà gọi là Bụt. Sau này, dần dần mới gọi Phật. Như vậy, gọi Phật đúng hay gọi Bụt đúng?
Chữ Phật nói đủ là Phật-đà, do người Trung Hoa dịch âm từ tiếng Phạn “Buddha”. Người Ấn gọi nguyên âm là Buddha, nghe dài nên người Việt Nam gọi gọn lại thành Bụt. “Phật-đà” hai âm nghe cũng dài, nên chúng ta gọi gọn lại thành Phật. Như vậy, gọi Bụt tương đối gần hơn Phật. Nhưng Buddha hay Phật-đà cũng chỉ là âm thôi, còn nghĩa của nó như thế nào, đó mới là điều quan trọng.
Nghĩa chữ Phật-đà, Trung Hoa dịch là Giác giả tức người giác ngộ. Chữ Giác giả để nói lên sau khi đức Phật thành đạo rồi được mọi người gọi là đấng giác ngộ toàn vẹn. Đó là từ do mọi người đặt cho khi Phật được giác ngộ. Thế thì đức Phật giác ngộ cái gì, giác ngộ thế nào? Đó là những điểm chánh chúng ta cần phải truy tìm. Muốn truy tìm việc này, trước hết chúng ta phải phăng tận nguyên nhân tại sao Ngài tìm đạo và được giác ngộ thành Phật. Đó chính là trọng tâm việc đức Phật đi tìm đạo.
Tăng Ni, Phật tử ai cũng thuộc lòng lịch sử tìm đạo của đức Phật. Chúng ta không nghi ngờ gì về chuyện Ngài dạo qua bốn cửa thành, thấy cảnh già, bệnh, chết, một người tu và sau đó Ngài phát tâm xuất gia. Như vậy, nguyên nhân khiến Ngài đi tu là do Ngài xúc động, thắc mắc và băn khoăn trước cảnh già, bệnh, chết của con người. Nếu chúng ta truy nguyên tường tận nữa thì sẽ thấy ý nghĩa Ngài đi tu mang theo những tâm niệm, hoài bão riêng và chung cho Ngài cũng như nhân loại.
Nhìn thấy cảnh đau khổ của con người phải chịu từ trước, hiện tại và cả mai sau liên tục không dừng, sanh rồi già bệnh chết. Ngài xúc động, băn khoăn trong lòng, muốn tìm ra một lối thoát những khổ đau đó. Qua đó, chúng ta có thể gom gọn ý nghĩa đi tu của Ngài trong ba câu hỏi:
1- Con người từ đâu đến đây?
2- Sau khi chết sẽ đi đâu?
3- Nếu không muốn sanh tử nữa thì phải làm sao?
Ba câu hỏi đó là ba vấn đề xoáy mạnh vào kiếp con người. Ngài muốn tìm, muốn giải quyết kiếp sống của con người, chớ không có vấn đề nào khác hơn. Con người có mặt ở đây là từ đâu đến mà không ai biết gì cả. Rồi khi chết chúng ta sẽ về đâu, cũng không biết. Muốn ra khỏi vòng chết sống đó cũng không biết phải làm sao. Đa số chỉ thắc mắc hai câu đầu thôi, không biết mình từ đâu đến, chết sẽ về đâu. Còn câu thứ ba, làm sao ra khỏi sanh tử dường như quá sức của chúng ta.
Đức Phật đi tu vì Ngài không biết gì về thân phận của mình, cho nên phải cố gắng phăng tìm cho được manh mối đó, gọi là tìm đạo. Trong thời gian tìm đạo, trước tiên Ngài đến học với những vị tiên đương thời. Vị ban đầu dạy pháp quán Tứ thiền tức Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Ngài tu pháp này được kết quả trọn vẹn nhưng chưa hài lòng. Vì kết quả không đúng với mục tiêu ban đầu Ngài muốn biết. Vì vậy đức Phật từ giã ra đi.
Kế đó Ngài gặp một vị khác dạy tu Tứ không tức Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đây là bốn thứ định tối cao của pháp quán Tứ không. Bốn định này Ngài cũng tu thành công nhưng vẫn chưa giải quyết được mục đích ban đầu của Ngài, nên Ngài cũng từ giã ra đi.
Đức Phật có mục đích rõ ràng, tu để tìm cho ra manh mối sanh tử và chấm dứt sanh tử. Cho nên ai dạy Ngài không đạt đến mục đích đó thì Ngài đều từ bỏ cả. Chúng ta ngày nay không có mục đích rõ ràng như vậy, nên ai nói gì hay lạ mình cũng nghe theo, rồi đi lạc tứ tung. Đó là điểm sai lầm của chúng ta.
Sau khi không chấp nhận hai vị thầy ban đầu, một mình Ngài tự nghĩ làm sao thanh lọc được thân tâm này trong sạch, vứt bỏ tất cả những nhơ nhớp để tâm trí được sáng suốt, mới có thể thấy được chân lý. Từ đó Ngài bắt đầu tu khổ hạnh, bớt ăn bớt ngủ, đến nỗi thân thể gầy còm, không đủ sức đi đứng nữa. Lúc đó Ngài nhận ra rằng hành xác để tìm giác ngộ là điều không đúng lẽ thật, nên Ngài từ bỏ lối tu khổ hạnh.
Sau khi từ bỏ lối tu khổ hạnh, đức Phật đến cội bồ-đề quyết tâm cầu giác ngộ giải thoát cho viên mãn mới thôi. Dưới cội bồ-đề, Ngài lượm cỏ gom lại thành tòa, rồi chỉ tòa cỏ thề rằng: “Ta nguyện ngồi nơi đây, nếu không thành đạo thì dầu xương tan, thịt nát cũng không rời khỏi gốc cây này.” Chính tâm cương quyết liều chết đó, nên trải qua bốn mươi chín ngày đêm tọa thiền, Ngài được giác ngộ viên mãn, thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Khi giác ngộ, Ngài chứng được Tam minh, Lục thông, Tứ vô sở úy, Thập bát bất cộng pháp, v.v… rất nhiều. Nhưng ở đây tôi rút gọn, chỉ kể Tam minh thôi để chúng ta thấy chỗ giác ngộ của đức Phật có những nét rất kỳ đặc.
Đức Phật tọa thiền tới đêm thứ bốn mươi chín, vào canh hai Ngài chứng được Túc mạng minh, nhớ lại vô số kiếp về trước một cách rõ ràng như nhớ chuyện hôm qua. Thế là câu hỏi thứ nhất “Ta từ đâu đến?” đã được trả lời, đức Phật thấy rõ qua vô số kiếp đã từng ở đâu, cho tới bây giờ đến đây. Hiện nay ta có mặt là nối tiếp một dòng sanh tử từ vô số kiếp. Chứng được Túc mạng minh, Ngài mới thấy rõ luân hồi là một lẽ thật, không phải mình chỉ có mặt trong một đời, mà đã có mặt trong nhiều kiếp, sanh ra tử đi, cứ như vậy mãi cho tới ngày nay.
Không dừng lại ở Túc mạng minh, Phật cố gắng tu tiếp đến canh ba, chứng được Thiên nhãn minh. Ngài thấy suốt được tất cả, thế là câu hỏi thứ hai “Sau khi chết, ta sẽ về đâu?” được trả lời. Do chứng Thiên nhãn minh Ngài thấy chúng sanh luân hồi trong lục đạo là do nghiệp dẫn, đi đâu về đâu một cách rất rõ ràng. Trong kinh diễn tả rằng đức Phật nhìn thấy chúng sanh đi trong lục đạo như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi qua người lại một cách rõ ràng, không nghi ngờ gì hết.
Như vậy, nhờ chứng được Thiên nhãn minh, Ngài biết rõ rằng sau khi chết không phải là hết, mà chúng ta theo nghiệp dẫn đi trong lục đạo luân hồi. Nếu nghiệp ác thì bị dẫn vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Nếu nghiệp thiện thì sanh vào cõi người, cõi trời. Vì vậy Phật mới dạy chúng ta tu nhân quả, tu nhân lành để được đi đường lành, đừng tạo nhân ác để khỏi đọa trong ba đường ác.
Chứng được Thiên nhãn minh rồi, Ngài tiếp tục nỗ lực tiến tu, đến khi sao Mai vừa mọc, Ngài liền chứng Lậu tận minh. “Lậu tận” tức sạch hết những chủng nhân khiến chúng ta rơi rớt lại trong tam giới là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Chứng Lậu tận minh, Ngài giải quyết được câu hỏi thứ ba “Muốn thoát khỏi sanh tử ta phải làm sao?” Rõ được nguyên nhân nào khiến chúng sanh ra vào trong sanh tử và làm sao để dứt được những nguyên nhân đó là giải thoát sanh tử.
Như vậy, ba nghi ngờ trọng tâm khiến Ngài phát nguyện đi tu, đến đây đã được giải quyết xong. Không do suy lý, cũng không do ai chỉ dạy, chính Ngài tự sáng, tự nhận thấy tường tận lẽ thật ấy, nên Ngài tuyên bố “Ta giác ngộ không thầy”. Điều này khiến nhiều người hoang mang, không ai dạy làm sao Ngài giác ngộ? Đó cũng là điều mà sau này đức Phật thường tuyên bố “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”.
Như vậy, chỉ căn cứ trên phần chứng ngộ Tam minh của Phật, chúng ta thấy công phu Ngài cũng đã viên mãn rồi. Bởi Ngài đã nghi ngờ về thân phận con người, muốn làm sao đừng tiếp nối sanh tử nữa. Vì chứng kiến cảnh già, bệnh, chết là khổ đau nên Ngài muốn thoát ra khỏi những thứ đó. Khi chứng được Lậu tận minh, thấy được nguyên nhân và kết quả con đường đi vào sanh tử và con đường thoát ly sanh tử, nên bài thuyết pháp đầu tiên của Ngài ở vườn Lộc Uyển là bài pháp Tứ đế: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế. Tập đế là nhân, Khổ đế là quả trong luân hồi sanh tử. Diệt đế là quả, Đạo đế là nhân để thoát ly sanh tử.
Như vậy, những gì thấy được Ngài đều đem ra dạy ngay từ buổi đầu. Đó là chân lý mà chính Ngài chứng nghiệm, chớ không phải do suy luận, cũng không do nghe ai nói. Vì vậy gọi là giác ngộ, tức thấy đúng như thật. Chúng ta ngày nay tu theo đạo Phật là tìm cái gì? Tu để cầu đời sau sướng hơn đời này phải không? Hầu hết đều muốn như vậy, chớ ít ai nghĩ tu để giải thoát sanh tử. Thậm chí có nhiều vị xuất gia mà cũng chưa muốn giải thoát nữa.
Tất cả chúng ta hầu hết muốn nghiên cứu, tìm hiểu, đều nhắm ra ngoài mà quên mình. Nên có câu “Con mắt ngó ra!” Bởi ngó ra nên thích tìm, thích biết những cái ở ngoài, còn ngay bản thân mình ta lại không biết gì. Đó là điều hết sức thiếu sót. Đức Phật bắt buộc chúng ta quay lại mình, tìm cho rõ về mình. Sau khi biết rõ về mình rồi thì chúng ta sẽ biết tất cả những thứ khác ở ngoài. Điều đó mới nghe thấy lạ, nhưng sự thật là như thế.
Sau khi chứng được Thiên nhãn minh rồi, ngoài việc thấy được nghiệp dẫn chúng sanh đi trong luân hồi sanh tử, đức Phật còn thấy nơi thân này có vô số vi trùng. Cho nên trong kinh nói “Nhân thân chi nội hữu vô số vi trùng tại trung nhi trú”, nghĩa là thân người có vô số vi trùng ẩn ở trong. Bây giờ chúng ta gọi là những “tế bào lạ”, chúng cũng sanh hoạt trong thân nên ta nghe đau nhức.
Ngài nhìn vô bát nước thấy vô số vi trùng, nên dạy người xuất gia trước khi uống nước phải đọc bài chú: “Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng, nhược bất trì thử chú, như thực chúng sanh nhục.” Nghĩa là Phật nhìn thấy trong một bát nước, có tám muôn bốn ngàn vi trùng, nếu không trì chú này, như ăn thịt chúng sanh, để quán niệm cho những chúng sanh ấy không bị thiệt hại.
Hơn hai ngàn năm về trước, Phật thấy và dạy như vậy; bây giờ khoa học mới tìm hiểu và tin điều ấy. Như vậy, lời Phật dạy không phải là lý luận, mà là lẽ thật do Ngài thấy được. Bởi thấy lẽ thật nên Ngài không nghi ngờ, không cần thảo luận với ai hết. Đó là thấy gần, còn xa hơn nữa Phật thấy ngoài thế giới chúng ta đang ở đây, còn vô số thế giới nữa. Cho nên trong kinh thường dùng từ “hằng hà sa số thế giới”, thế giới nhiều như cát sông Hằng. Chúng ta thử tưởng tượng sông Hằng có chừng bao nhiêu cát? Không thể đếm nổi. Vậy mà ngày xưa, Ngài nói trong bầu vũ trụ này có vô số thế giới như vậy. Thời đó không ai tin nổi. Nhưng bây giờ chúng ta có thể tin được phần nào.
Những nhà thiên văn học tìm thấy những thiên hà, những hành tinh trong vũ trụ cũng nhiều như vậy. Phật nói số ấy nhiều đến không thể lường, không thể tính nổi, cho nên mới dùng từ “hằng hà sa số.” Rõ ràng những điều Phật thấy được không do nghiên cứu bên ngoài, mà chỉ trở về nội tâm thôi. Một khi sáng được tâm rồi thì tất cả việc bên ngoài đều sáng theo.
Nói tới con người, Phật thấy tường tận bốn giai đoạn sanh, già, bệnh, chết. Nói tới thế giới, Ngài cũng biết rõ bốn giai đoạn thành, trụ, hoại, không. Ngài nói thân này có được là do bốn chất lớn đất, nước, gió, lửa hợp lại; thế giới có được là do bốn thứ địa luân, thủy luân, hỏa luân và không luân hợp thành. Ngày xưa, đối với những điều này, chúng tôi học là học, chớ không hiểu nổi. Làm sao dưới đất có nhiều thứ quá vậy?
Khi được hỏi con người ở thế giới này từ đâu có, trong một bài kinh Phật trả lời: Có những vị trời sắp hết phước, họ nhìn xuống thế giới này thấy có ánh sáng liền tìm đến. Tới nơi, họ ăn thử trái cây nơi đây thấy ngon, liền mất thần thông nên ở lại luôn, làm tổ tiên loài người. Ngày xưa tôi cũng không tin điều này. Tại sao trái đất lại có ánh sáng? Rồi tại sao chư thiên dùng thần thông xuống được nhưng về lại không được? Bây giờ tôi gẫm lại thấy có lý.
Như các nhà khoa học nhìn ra những hành tinh gần trái đất, thấy có ánh sáng nên mới tìm mọi cách, như tạo phi thuyền để khám phá những hành tinh đó. Giai đoạn đầu khám phá nếu yên ổn thì sau này sẽ đưa phi thuyền, đưa người lên đó. Nếu phi thuyền hư, số người trên ấy phải ở lại thì bắt buộc họ phải tìm cách để sanh sống thôi. Ngày nay chúng ta nói máy móc, nhưng hồi xưa gọi thần thông, cũng gần nhau vậy. Thế thì chuyện đức Phật nói có lý rồi, phải không?
Thế giới từ đâu mà thành? Phật dạy do gió bụi tụ lại, khắn chặt nhau lần lần thành thế giới. Sau khi thế giới thành rồi mới có chúng sanh và các thứ. Đến lúc thế giới hoại tiến trình trải qua bốn giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất đất sụp đổ, nứt nẻ, tan rã. Giai đoạn thứ hai nước tràn khắp. Giai đoạn thứ ba lửa bốc cháy, đến nỗi nước biển ban đầu cao khoảng mấy chục thước lần lần chỉ còn mười thước, năm thước, cho đến cạn hết. Khi nước biển cạn hết thì trái đất cháy. Cháy tới không còn gì, chỉ có muội than, chợt một cơn gió mạnh thổi qua, tất cả biến thành bụi hết. Đó cũng chính là giai đoạn thứ tư, trái đất trở về không.
Hồi xưa tôi cũng không tin trái đất cháy, nhưng bây giờ rõ ràng những túi dầu, những túi khí đốt trong lòng đất đã có sẵn cả rồi, chỉ cần hỏa luân chọc thủng lớp ngăn giữa hai túi đó thì trái đất sẽ bừng cháy. Rõ ràng Phật nói không sai. Ngày xưa Ngài đã nhìn thấy tường tận về con người và quả địa cầu như vậy, mà không vận dụng công phu tìm kiếm bên ngoài, chỉ quay lại mình, dẹp sạch hết loạn tưởng, để tâm trong lặng tự nó sáng suốt. Tâm đã sáng suốt thì biết mình và biết tất cả mọi thứ một cách rõ ràng như thế.
Đức Phật nói chúng sanh không phải chỉ có mặt trong cõi Dục giới này, mà còn có mặt trong cõi Sắc giới, Vô sắc giới tức những thế giới không có hình sắc. Với những cái thấy này, khoa học còn xa tít, chưa thể bắt kịp đức Phật.
Chúng ta học Phật là tìm sự giác ngộ. Giác ngộ ngay nơi bản thân mình trước, rồi mới tới những thứ bên ngoài. Vì trong nhà Phật gọi thân này là Chánh báo, còn cảnh và thế giới mình đang sống là Y báo. Chánh báo là chủ, Y báo là bạn. Nếu hiểu Chánh báo tường tận thì thấy Y báo rõ ràng. Cho nên Phật học khác với khoa học ở chỗ khoa học tìm bên ngoài, Phật học quay vô trong, xoay lại mình. Xoay lại mình đến khi giác ngộ rồi sẽ thấy những thứ bên ngoài. Giác ngộ tức biết rõ, biết đúng như thật mọi sự xung quanh nên gọi là có trí tuệ.
Nhưng trí tuệ trong nhà Phật không phải là trí tuệ thường, mà bao gồm hai phần, trí tuệ hữu sư và trí tuệ vô sư. Chúng ta đi học, nhờ thầy bạn mà mình hiểu được nhiều điều trong cuộc đời gọi là trí tuệ hữu sư. Còn trí tuệ vô sư là trí tuệ do mình tự phát ra từ tâm thanh tịnh như đức Phật nhờ thiền định mà được giác ngộ vậy. Ngài bảo “Ta học đạo không thầy”, không thầy mà sáng, đó là trí tuệ vô sư.
Làm sao đạt được trí tuệ vô sư? Khi tâm lặng lẽ sáng suốt thì chúng ta thấy được những điều trước kia mình chưa thấy, biết được những điều trước kia mình chưa biết. Cái thấy biết đó là thấy biết của Trí vô sư. Tất cả chúng ta đều có Trí vô sư. Vì Trí vô sư chính là Phật tánh của tất cả chúng sanh. Mình có Phật tánh sẵn nhưng vì quên nên không thấy. Đức Phật biết quay trở lại mình bằng cách thiền định để lóng lặng thân tâm. Từ tâm lóng lặng trong sáng đó phát ra Trí vô sư.
Nếu chúng ta để ý một chút sẽ mừng rằng mình có Trí vô sư. Như một quyển kinh, một lời giảng lúc mới đọc mới nghe, ta không hiểu gì hết. Nhưng từ từ tâm hồn yên tĩnh, đem ra đọc lại ta chợt hiểu ngay. Như vậy, cái hiểu ấy do ai dạy? Đó là một phần nhỏ của Trí vô sư hiện ra. Cũng như các nhà bác học, khi nghiên cứu một chương trình nào thì đặt hết tâm trí vào đó, đến lúc vấn đề nghiên cứu bừng sáng, gọi là phát minh.
Như vậy, ai cũng có Trí vô sư mà không chịu nhận, không chịu tạo điều kiện cho nó phát ra, nên có mà như không. Vì vậy Phật nói: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành.” Đó là Ngài xác nhận rằng tất cả chúng ta đều có sẵn Trí vô sư. Đã sẵn có Trí vô sư thì chúng ta có thể giác ngộ được. Đức Phật giác ngộ trước, chúng ta khéo tu sẽ giác ngộ sau, nên Như Lai nói Ngài là Phật đã thành, còn chúng ta là Phật sẽ thành.
Như vậy Trí hữu sư là do học mà được, còn Trí vô sư do tu mà được. Đức Phật nhập định được giác ngộ, ngày nay chúng ta tu tâm được an định cũng sẽ giác ngộ. Hiện giờ tâm chúng ta đang lăng xăng lộn xộn nên không thấy, không biết Trí vô sư. Khi nào tâm yên tĩnh, trong sáng thì Trí vô sư sẽ hiện ra.
Trong nhà thiền thường ví dụ: Như có một khạp nước, ta múc nước dưới hồ đổ vào. Ban đầu nước đục, chúng ta nhìn vào khạp không thấy mặt mình hiện trong đó. Nhưng nếu lóng trong từ từ, đến khi nước thật trong, ta đứng bên khạp nhìn sẽ thấy mặt mình. Chẳng những mặt chúng ta hiện ra, mà tất cả cảnh đối diện với mặt nước cũng đều hiện ra trong khạp. Khi cặn bã, đất cát hòa tan trong nước khiến nó đục, nếu ta để cho nó lặng yên, cặn bã lóng xuống thì nước sẽ trong.
Như vậy từ nước đục thành nước trong là tại chúng ta đổi nước cũ thay nước mới hay cũng chỉ bao nhiêu nước đó thôi? Thật ra nước trong đã có sẵn trong nước đục nên khéo lóng thì nước đục thành nước trong. Chúng ta hiện giờ tâm không sáng, mờ đục là vì vọng tưởng lẫn lộn che khuất. Ngày nào ta lọc được những vọng tưởng đó lặng yên, gọi là định, thì trí sáng sẽ hiện ra. Nó sẵn rồi, chớ không phải chưa có, chỉ vì cái này che khuất nên cái kia không hiện được.
Nên nói tới Trí vô sư là nói tới trí do tu, do thiền định mà được, chớ không phải do học mà được. Trí hữu sư thì do học mà được. Hai bên rõ ràng như vậy. Trí hữu sư học tới đâu biết tới đó, còn Trí vô sư khi phát ra thì đối với tất cả những gì trước đây ta không biết, bây giờ biết hết, biết một cách rõ ràng không cần tìm kiếm. Đó là điểm đặc biệt của Trí vô sư.
Chúng ta tu theo Phật thì phải khéo ứng dụng như Ngài, nhất định sẽ có trí tuệ sáng suốt. Phật được một trăm phần trăm thì ít ra mình cũng được mười phần trăm. Như vậy mới gọi là tu theo Phật. Nhưng gần đây Phật tử ít chịu trở về với trí tuệ của mình mà chỉ muốn xin Phật. Nếu gặp thuận tốt, đúng sở nguyện thì khen Phật linh quá. Còn không được như ý thì “Thôi, Phật không linh” hoặc “Phật không thương mình” rồi lơ là, lười không muốn đi chùa nữa. Đó là sai lầm mà Phật tử hiện giờ mắc phải rất nhiều.
Nếu chúng ta chưa giác ngộ bằng Trí vô sư thì trước phải giác ngộ bằng Trí hữu sư. Nghe quí thầy giảng dạy, đọc kinh sách để mở sáng trí tuệ hữu sư, rồi nỗ lực tiến tu để đạt được Trí vô sư. Đó mới đúng là mục đích của người tu Phật. Chớ nếu tu mà không thấy, không nắm vững điều này thì rất đáng tiếc. Hồi nhỏ, tôi học lớp Sơ đẳng Phật giáo, được dạy học thuộc lòng bài kinh Bát Đại Nhân Giác, tức là Tám Điều Giác Ngộ của bậc Đại Nhân. Điều thứ nhất hết sức đơn giản:
Đệ nhất giác ngộ
Thế gian vô thường
Quốc độ nguy thúy
Tứ đại khổ không
Ngũ ấm vô ngã.
Lúc đó tôi thấy những câu này giống như thần chú, không biết gì hết. Tại sao thế gian vô thường? Tại sao quốc độ nguy thúy? Bởi vì Phật thấy một cách tường tận rằng trên thế gian này, mọi pháp, mọi sanh vật đều là dòng chuyển biến không dừng, nên nói thế gian vô thường. Kế đó “Quốc độ nguy thúy,” tức cõi nước dòn bở. Mình thấy cõi nước bền lâu vững chắc quá, mà Ngài lại nói dòn bở, làm sao tin được? Nhưng bây giờ những trận động đất, lũ lụt… đủ để chứng minh điều đức Phật đã nói.
Tới con người, Phật nói tứ đại khổ, không. Mang thân tứ đại đất, nước, gió, lửa là khổ. Người ta cứ tưởng khổ là nghèo đói, nhưng Phật dạy khổ không phải như vậy; mà già, bệnh, chết là khổ. Già, bệnh, chết, không ai chạy khỏi. Đã mang thân này thì trước sau gì cũng phải tới đó. Cho nên có thân là có khổ, khổ tới cuối cùng nó hoại thành không. Vì vậy Phật nói “Tứ đại khổ không”.
“Ngũ ấm vô ngã,” tức là thân năm ấm này không có chủ thể, không chân thật. Ngày nay mình còn thấy nó, nhưng ngày mai chưa chắc còn. Như vậy thân không có chủ mà chúng ta cứ tưởng có chủ. Duyên hợp thành thân này, thì cái gì là chủ của nó? Có người cho rằng tâm là chủ. Nhưng tâm nào? Tâm từ bi hay tâm sân hận? Tâm thương hay tâm ghét v.v… rối loạn, không biết được.
Đức Phật dạy ngũ ấm là vô ngã, tức không có chủ. Tôi chỉ tạm mượn sắc ấm để phân tích thôi. Trong thân này, chất cứng thuộc về đất, chất ướt thuộc về nước, chất động thuộc về gió, chất ấm thuộc về lửa. Bốn chất đó kết tụ lại thành thân, thiếu một là thân hoại mất. Nhưng khi thân thành rồi, nó tự tồn tại hay phải được bồi bổ, được nuôi dưỡng mới còn. Tôi thường nói nó phải vay mượn.
Như tất cả chúng ta hiện giờ, lỗ mũi đang làm gì? Ai cũng tưởng mình ngồi chơi thảnh thơi, nhưng không ngờ đang mượn không khí, hít vô là mượn, thở ra là trả. Cứ mượn trả mượn trả như vậy hoài, tới khi nào lười biếng trả mà không mượn lại thì chết. Mượn nước, mượn cơm…
mượn rồi trả. Như vậy cuộc sống chẳng qua chỉ là sự vay mượn thôi. Vay mượn tức là giả dối, nhưng chúng ta lại thấy thân này thật.
Thân giả mà ngỡ thật là đang mê. Nhưng ai nói mê mình không chịu đâu. Đức Phật chỉ cho chúng ta giác mà lại không chịu, cứ ôm giữ mê lầm rồi than khổ.
Kinh nói thân năm uẩn này không có chủ thể, tức là vô ngã. Vô ngã nên không thật, nhưng ta cứ chấp thân thật, rồi bao nhiêu chuyện hơn thua phải quấy từ đó mà ra, gây phiền lụy cho nhau. Đó là chúng ta đang sống trong mê lầm, nên bây giờ mới tu. Tu thì phải làm sao?
Phải tỉnh, phải giác. Nếu không chịu tỉnh giác thì đi mãi trong mê lầm muôn đời muôn kiếp. Chỉ có tỉnh giác, chúng ta mới thoát khỏi trầm luân. Cho nên học Phật là học giác ngộ. Nhờ giác ngộ, thấy đúng như thật chúng ta mới không mê lầm nữa, mới giải thoát sanh tử.
Trong mười hai nhân duyên, đức Phật nói vô minh dẫn đầu, khiến chúng ta sanh đi tử lại không biết bao nhiêu lần. Muốn nhổ được gốc sanh tử thì chúng ta phải đập tan vô minh. Vô minh là không sáng, không sáng tức tối. Muốn hết tối thì phải thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ. Cũng như trong nhà tối, chỉ cần mở đèn thì nó sẽ sáng. Chúng ta đang mê lầm nên nhiều đau khổ, chỉ giác ngộ mới hết đau khổ.
Đạo Phật dạy chúng ta tu là để giác ngộ, chớ không phải tu để mãi đi trong mê lầm. Thế mà đa số Phật tử ngày nay tu mà ưng đi trong mê lầm, không chịu giác ngộ, nên mới cầu xin Phật đủ điều. Muốn được giác ngộ, không gì khác hơn là chúng ta phải định tâm. Trong bất cứ pháp môn nào Phật cũng đều nhắm thẳng chỗ cứu kính đó. Niệm Phật cho tới nhất tâm bất loạn thì nhắm mắt mới thấy Phật. Tu thiền được định thì mới giải thoát sanh tử. Như vậy chúng ta tu, dù theo pháp nào, cứu kính cũng không hai.
Thế nên Phật tử không được lơ là, yếu đuối, phải cố gắng, phải tiến lên. Nghe nói tới giác ngộ xem như chuyện đó dành cho Phật, còn mình phàm phu nên vô phần. Cam phận tối mò tối mịt, miễn đời sau sanh ra được tốt hơn một chút thôi, chớ không cầu giác ngộ. Đó là suy nghĩ sai lầm, không đúng lẽ thật. Chúng ta là đệ tử Phật phải đi đúng đường, đúng hướng Phật dạy. Đạo Phật là đạo giác ngộ, chớ không phải đạo mê lầm. Cho nên mình tu là để được giác ngộ giải thoát, chớ không cầu gì khác hơn. Đó là mục tiêu trọng yếu của người Phật tử.
Mong tất cả Tăng Ni, Phật tử hiểu rõ điều này, làm sao trên đường tu mỗi ngày chúng ta thêm sức tỉnh giác, lần lần bỏ hết mê lầm để được giác ngộ giải thoát như đức Phật.

Thanked by 2 Members:

#5 QuyenLocTamMinh

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 471 Bài viết:
  • 124 thanks

Gửi vào 16/11/2021 - 12:46

19.7 Chữ TỨC trong đạo Phật
(HT Thích Thanh Từ)

Người đời và những người mới học đạo đều nhìn sự vật với tính cách cố định. Nói ác hẳn là ác, nói thiện hẳn là thiện, phải hẳn là phải, quấy hẳn là quấy, có hẳn là có, không hẳn là không... họ không hiểu nổi lối nói "cái này tức là cái kia", trong kinh điển Đại thừa. Họ cho lối nói này ỡm ờ mờ ám không chấp nhận được. Song với tinh thần Đại thừa Phật giáo, nhìn sự vật thấy rõ không có bản chất cố định, không ngoài nhau. Vì thế, trong kinh nói "Sắc tức là Không, Không tức là Sắc", hay "Phiền não tức Bồ-đề", hoặc "Sanh tử tức Niết-bàn". Chỉ một chữ "Tức" làm sáng tỏ nghĩa không cố định, không ngoài nhau của các Pháp.
SẮC TỨC LÀ KHÔNG, KHÔNG TỨC LÀ SẮC
Câu này xuất phát từ kinh Bát-nhã. Chữ Sắc ở đây là chỉ cho Sắc uẩn. Dưới con mắt đức Phật, thân này do năm uẩn kết hợp thành. Sắc uẩn là phần vật chất; thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn là phần tinh thần. Chẳng riêng gì sắc uẩn tức là không, mà thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế. Bởi vì bản chất mọi uẩn không tự có, do duyên hòa hợp thành. Đã do nhân duyên hòa hợp thì làm sao cố định được. Trước khi nhân duyên hòa hợp nó không có, sau khi nhân duyên ly tán, nó cũng không, chính khi duyên đang hợp phân tích ra cũng không có thực thể của nó. Ví như nắm tay, trước khi co năm ngón lại, không có nắm tay, sau khi buông năm ngón ra không có nắm tay, đang khi co năm ngón lại nếu phân tích từng ngón cũng không có nắm tay. Thế thì, nắm tay chỉ là cái tên tạm gọi khi co năm ngón lại, chớ không có thực thể cố định của nắm tay. Sắc uẩn không cố định nên nói "sắc tức là không"; không, khi đủ duyên hợp thành sắc nên nói "không tức là sắc", sắc chẳng ngoài tính chất không cố định, không cố định chẳng ngoài sắc, nên nói "sắc tức là không, không tức là sắc"! Thấu triệt lý các pháp tùy duyên biến chuyển, không đứng yên, không tự thành, là thông suốt câu "sắc tức là không, không tức là sắc".
PHIỀN NÃO TỨC BỒ-ĐỀ
Câu này bàng bạc trong các kinh Đại thừa. Phiền não là si mê bực bội đau khổ. Bồ-đề là giác ngộ yên tĩnh an vui. Hai thứ bản chất trái ngược nhau, tại sao lại nói cái này tức cái kia? Bởi phiền não bản chất không cố định, khi biết chuyển hoặc biết xả liền thành Bồ-đề. Cái động không ngoài cái tịnh, dừng động tức là tịnh. Cái sáng không ngoài cái tối, hết tối tức là sáng. Chúng ta cứ quen chạy tìm cái giác ở ngoài cái mê, tìm an vui ngoài đau khổ. Sự thật không phải thế, hết mê tức là giác, dứt khổ tức là vui. Thiền sư Tư Nghiệp người Trung Hoa, khi chưa xuất gia làm nghề hàng thịt. Một hôm mổ heo, bỗng dưng ông thức tỉnh, bỏ nghề đi xuất gia. Khi xuất gia, ông làm bài kệ:
Tạc nhật dạ-xoa tâm
Kim triêu Bồ-tát diện
Bồ-tát dữ Dạ-xoa
Bất cách nhất điều tuyến.
Dịch:
Hôm qua tâm dạ-xoa,
Ngày nay mặt Bồ-tát
Bồ-tát cùng Dạ-xoa
Không cách một sợi chỉ.
Biết dừng phiền não tức Bồ-đề, không phải nhọc nhằn tìm kiếm đâu xa. Bồ-đề đã sẵn có nơi mình, do phiền não dấy khởi phủ che nên Bồ-đề bị ẩn khuất. Một khi phiền não lắng xuống thì Bồ-đề hiện tiền. Chúng ta ôm đầy một bụng phiền não chạy tìm Bồ-đề, dù chạy cùng ngàn sông muôn núi tìm vẫn không thấy Bồ-đề. Chỉ khéo ngồi yên lại cho phiền não lắng xuống thì Bồ-đề hiện tiền.
Như khi trời đổ mưa to, nước mưa từ hư không mưa xuống là trong sạch, song rơi đến mặt đất lôi cuốn bụi bặm bùn đất chảy xuống ao hồ, thấy toàn nước đục. Có người c?n nước trong xài, ra ao hồ nhìn thấy toàn nước đục không biết làm sao. Gặp người thông minh bảo: nước đục tức là nước trong, anh ta ngẩn ngơ không hiểu, ông này bảo: Anh cứ gánh về đổ vào lu, lấy ít phèn quậy nhiều vòng cho nước cuồn lộn lên, rồi để yên vài tiếng đồng hồ, cặn bụi lắng xuống nước sẽ trong. Anh chàng kia làm đúng như người thông minh dạy, kết quả anh được nước trong.
Bởi vì nước mưa nguyên là trong, do bụi đất cuốn theo và hòa tan trong nước nên trở thành đục. Kẻ khờ thấy nước đục khác với nước trong, tưởng chừng như nước trong ngoài nước đục mà có, nên khi cần nước trong thấy nước đục là thất vọng, không biết phải tìm nước trong ở đâu. Người trí biết nước mưa vẫn trong, do bụi đất hòa lẫn nên đục, chỉ cần lóng bụi đất trở thành nước trong. Vì thế, khi thấy nước đục, họ vẫn quả quyết nói "nước đục tức là nước trong". Chữ tức ở đây để chỉ nước trong không cố định trong, do duyên hợp thành đục; nước đục không cố định đục, do duyên lóng thành trong. Nước đục không ngoài nước trong mà có; nước trong không thể bỏ nước đục mà tìm. Bồ-đề và phiền não cũng thế, phiền não không cố định phiền não, do duyên hợp thành phiền não, Bồ-đề không cố định Bồ-đề, do duyên lóng sạch thành Bồ-đề. Bồ-đề không ngoài phiền não mà có, phiền não không ngoài Bồ-đề mà sanh. Bỏ phiền não chạy tìm Bồ-đề như người lưới cá trên không, bẫy chim đáy biển, rốt cuộc chỉ phí công vô ích.
Nước đục lóng thành nước trong, trẻ con thấy mới được nước trong, người lớn biết nước trước nguyên trong, nay lóng trở lại trạng thái cũ, có gì là "được". Nếu trước nước vốn đục, nay lóng mấy cũng không trở thành trong. Cũng vậy, nếu tất cả chúng sanh không có sẵn tánh giác, dù có tu hành đến đâu cũng không thể giác được. Chư Phật, Bồ-tát trước cũng là chúng sanh, các Ngài tu hành đã giác ngộ được, tất cả chúng ta nếu biết tu hành chắc chắn sẽ giác ngộ như các Ngài. Vì thế, chư Phật thấy rõ tất cả chúng sanh đều có tánh giác, vì vô minh phiền não che đậy trở thành mê, một khi khéo tu lóng sạch vô minh phiền não liền trở lại giác. Từ mê sang giác, chúng sanh tưởng là mới được, nên thấy có chứng có đắc. Chư Phật biết rõ chỉ trở lại tánh giác sẵn có, nên nói vô chứng vô đắc. Vô chứng vô đắc không có nghĩa là không ngơ, mà không còn mê, hằng sống lại tánh giác của mình. Cái đã sẵn có, trở lại với nó có gì thêm bớt mà nói chứng đắc. Tuy không chứng đắc mà hằng giác chẳng mê, làm sao nói không ngơ được?
Biết trong nước đục vốn là nước trong, nước đục khéo lóng sẽ thành nước trong, đó là cái thấy của người thông minh. Đức Phật cũng thế, Ngài thấy tất cả chúng sanh đều sẵn có tánh giác, dù đang mê tánh giác cũng không mất, nên nói "ta thấy tất cả chúng sanh đã thành Phật". Lại có khi Ngài nói "Ta là Phật đã thành, các ông là Phật sẽ thành". Bởi chúng ta đã sẵn tánh giác, một khi thức tỉnh huân tu tánh giác sẽ hiển hiện, việc này không có gì là lạ. Câu Phật nói trước có vẻ khó hiểu, đã thành Phật tại sao chúng sanh vẫn mê muội loạn cuồng. Bởi vì Phật cũng là một chúng sanh như chúng ta, Ngài khéo lóng vô minh phiền não chìm lặng trở thành giác ngộ. Nếu không có tánh giác sẵn, dù Ngài tu đến muôn a-tăng-kỳ cũng không ngộ, nói gì ba a-tăng-kỳ. Thấy chúng sanh sẵn có tánh giác, nói "đã thành Phật" thì có lỗi gì? Có sẵn tánh giác mà cứ quên, mải tạo nghiệp đi trong sanh tử luân hồi, càng luân hồi càng tạo nghiệp, nghiệp mê chồng chất nên thành mê muội loạn cuồng. Một phen thức tỉnh, dừng bước luân hồi, nghiệp mê băng hoại, mới tin "ta là Phật sẽ thành".
SANH TỬ TỨC NIẾT-BÀN
Chúng sanh mải trôi lăn, lặn hụp trong biển luân hồi sanh tử, dừng sanh tử được an lành là Niết-bàn. Sanh tử là khổ đau. Niết-bàn là an lạc. Sự khổ đau an lạc dường như hai mà không phải hai. Như người đi trên vai gánh một gánh nặng đi xa, họ cảm nghe nhọc nhằn vô kể, để gánh nặng xuống nghỉ, họ cảm thấy nhẹ bổng an vui. Cái nhọc nhằn và an vui người này cảm giác được, dường như hai mà không phải hai. Chẳng qua, khi gánh nặng còn đè trĩu trên vai là đau khổ, để gánh nặng xuống thì an vui. Do hết khổ gọi là vui, chớ không có cái vui từ đâu đem đến. Niết-bàn và sanh tử cũng thế, do hết sanh tử gọi là Niết-bàn, không có Niết-bàn ngoài sanh tử.
Chúng sanh tạo nghiệp, lại do nghiệp dẫn chúng sanh loanh quanh lẩn quẩn, không có ngày cùng. Chúng ta vì sự sống tạo nghiệp, nghiệp lại dẫn chúng ta qua lại trong tam giới, lên xuống trong sáu đường, không biết bao giờ ra khỏi. Nếu khéo tu dừng nghiệp thì bánh xe luân hồi sẽ theo đó mà dừng. Theo nghiệp trôi lăn là sanh tử, dừng nghiệp lặng yên là Niết-bàn. Vì thế, cần được Niết-bàn, chúng ta phải dừng nghiệp. Có nhiều người tưởng Niết-bàn là một cảnh giới xa xôi đẹp đẽ như cảnh Cực Lạc chẳng hạn. Họ cố cầu xin Phật, Bồ-tát cho họ được Niết-bàn hoặc tìm minh sư đạt đạo nhờ truyền pháp hay điểm đạo cho họ được Niết-bàn. Họ không ngờ sạch nghiệp tức là Niết-bàn. Nghiệp lại do mình tạo, chỉ cần tìm ra động cơ chủ yếu tạo nghiệp, bắt nó dừng lại thì Niết-bàn hiện tiền. Tâm thức lăng xăng của chúng ta là chủ động tạo nghiệp, khéo tu dừng lặng nó thì Niết-bàn xuất hiện. Dừng ngắn thì được Niết-bàn ngắn, dừng lâu thì được Niết-bàn lâu, dừng hẳn thì được Niết-bàn viên mãn.
Sở dĩ có Niết-bàn là do đối với sanh tử mà lập, một khi sanh tử dứt sạch thì Niết-bàn cũng không còn chỗ đứng. Kinh có câu "Niết-bàn sanh tử đồng như hoa đốm trong không". Đã là hai danh từ đối đãi mà lập thì đều không thật. Không có sanh tử thì không có Niết-bàn; không có Niết-bàn thì nói gì là sanh tử. Như không có khổ thì không có vui, không có vui thì làm sao biết khổ. Niết-bàn và sanh tử không riêng lập và không ngoài nhau, nên nói "Sanh tử tức Niết-bàn".
Sẽ có người bảo, sanh tử là do nghiệp dẫn là pháp sanh diệt, hư dối là phải, Niết-bàn là dứt sạch nghiệp là chân thật, tại sao lại nói hư dối? Quả thật Niết-bàn không hư dối, song danh từ Niết-bàn là hư dối. Thực thể Niết-bàn không có hình dáng để diễn tả, không có ngôn ngữ để nói bàn, nó vượt ngoài pháp đối đãi thế gian. Ngôn ngữ chúng ta sử dụng để diễn đạt tâm tư đều nằm trong đối đãi không thật. Dù là ngôn ngữ Niết-bàn, cũng chỉ là lớp mây phủ núi, chớ không phải là núi, đứng về núi mà nhìn thì nó là cái hư dối bên ngoài không đáng kể. Thế nên nói "như hoa đốm trong hư không" mà thực thể chẳng phải không.
THIỆN TỨC ÁC, ÁC TỨC THIỆN, PHẢI TỨC QUẤY, QUẤY TỨC PHẢI
Ta có thể nói rộng ra "thiện tức ác, ác tức thiện" hay "phải tức quấy, quấy tức phải"... chẳng hạn. Bởi vì, dù là việc thiện mà chúng ta cố chấp liền trở thành ác. Ví như người theo tôn giáo A tự thấy là hay là lợi ích, liền khuyên bà con thân quyến cùng theo với mình. Nếu những người thân không bằng lòng theo, tức thì sanh tâm giận ghét. Thế không phải chấp thiện thành ác là gì? Tuy là việc ác, chúng ta ý thức được liền bỏ là trở thành thiện. Như anh A nghe theo bạn bè làm việc trộm cắp, gặp người tốt nhắc nhở giải thích cho A biết việc làm ấy là xấu xa, tội lỗi, A liền bỏ nghề trộm cắp. Quả thật ác biết bỏ liền trở thành thiện.
Phải quấy cũng không có tiêu chuẩn cố định, nếu ta chấp vào cái phải của mình liền trở thành quấy. Bao nhiêu việc cãi vã chửi lộn đánh lộn đâu không phải do chấp phải mà ra. Có người nào sau khi đánh lộn, bị người hỏi, dám nhận là tôi quấy đâu. Mọi người đều thấy mình phải nên có ẩu đả. Ngược lại, người ý thức việc làm của mình là quấy tự bỏ, liền trở thành phải. Những người lầm đường lạc lối, khi họ thức tỉnh xoay trở lại đường lành liền trở thành người tốt. Mọi sự việc trong đối đãi đều như thế cả, không có một sự việc gì là cố định. Cái phải của A không phải là cái phải của B. Cái phải của nhóm C không phải là cái phải của nhóm D. Cái phải của xứ này không phải là cái phải của xứ khác. Cái phải của thời gian trước không phải là cái phải của thời gian sau. Thế thì, lấy đâu làm tiêu chuẩn mà chấp phải quấy! Chấp chặt phải quấy là ngu xuẩn là khổ đau. Biết buông xả linh động tùy thời là người khôn ngoan an ổn.
CHỮ TỨC ĐỐI TRONG VẠN VẬT
Ta đi xa hơn ra ngoại giới, với mọi sự vật dùng chữ TỨC vẫn đúng lẽ thật. Như nói "thể lỏng tức là thể hơi" hoặc nói "thể hơi tức là thể lỏng". Nước là thể lỏng đun nóng bốc lên thành hơi, hơi nước lên cao gặp khí lạnh đọng lại rơi xuống thành nước thể lỏng. Cũng có thể nói "thể lỏng tức là thể cứng, thể cứng tức là thể lỏng". Nước là thể lỏng khi để vào tủ lạnh cô đọng thành nước đá thể cứng; nước đá đem để ngoài nắng tan thành nước thể lỏng. Ngoài nước ra, các loại chì, đồng, sắt..., từ thể cứng để vào lò nấu sức nóng lên đến 1.000 độ C trở lên sẽ chảy thành thể lỏng, thể lỏng đó đem ra để nguội trở thành cứng... Vì thế, thấu hiểu chữ TỨC là thấy đúng lẽ thật, cũng là thấy tột cùng lý tùy duyên chuyển biến của các pháp. Môn hóa học hiện tại chứng minh sự vật không tự tồn tại, không có cá thể độc lập, không giữ nguyên một vị trí.
Một vật thể này bị thay đổi chất liệu liền biến thành vật thể khác. Thế nên, con người có thể dùng các thứ nguyên liệu khoa học đã tìm được, biến chế thành những sản phẩm hữu ích cung ứng cho nhân loại cần dùng. Mọi vật thể kết hợp không phải đơn thuần, mà sự cấu tạo rất phức tạp. Biết được sự cấu tạo của vật thể, người ta sẽ tạo điều kiện biến nó thành những vật theo nhu cầu của mình. Sự biến hóa đổi thay trong mỗi vật thể đã là bằng chứng hùng hồn về lý không cố định của sự vật. Thấy được lý không cố định là thấy tột bản tánh của sự vật. Những nguyên tố hợp thành sự vật tuy nhiều song chẳng lắm, do sự kết hợp tăng giảm biến thành muôn vàn sự vật có đủ thiên hình vạn trạng trên thế gian này. Quả là trong vật này có những nguyên tố của vật khác, trong vật khác có những nguyên tố của vật này. Thế nên, nói "A tức B, B tức A" là đúng lẽ thật đâu có sai ngoa.
HIỆU DỤNG CHỮ "TỨC" TRONG SỰ TU HÀNH
Hiểu rõ chữ TỨC có công hiệu rất lớn trong việc tu hành. A tức là B, thì A không thật A, B tức là A thì B không thật B. Muôn vật tùy duyên thay hình đổi dạng, có cái gì cố định mà chấp. Bệnh lớn của con người là cố chấp, chấp càng nặng thì khổ càng nhiều. Mỗi người chấp theo cái thấy, cái nghe, cái sở học, cái suy nghĩ, cái tưởng tượng của mình hoặc của nhóm người thân mình, nếu người khác thấy đồng cái thấy của mình, nhóm mình thì thân; thấy khác cái thấy cái chấp của mình, nhóm mình thì thù. Đây là gốc đấu tranh gây ra đau khổ cho nhân loại. Sự vật là một dòng biến thiên, mà mình nhìn theo cái chấp cố định thì làm sao thấy được lẽ thật, làm sao đem lại sự an bình. Con người khủng khiếp hãi hùng khi nghe tin mình sắp chết. Sợ chết vì chấp thân là chắc thật lâu dài, bỗng dưng nó sắp tan hoại nên hoảng sợ. Sự nghiệp tài sản cũng chấp cố định bền lâu, xảy ra tai nạn hỏa hoạn, binh đao, trộm cướp... khiến phải tan hoại, người ta sẽ đau khổ vô hạn. Tình cảm bạn bè, thân hữu..., chấp mãi mãi không đổi thay; một khi gặp cảnh đổi thay, người ta sẽ thảm sầu vô kể.
Người nắm vững nguyên tắc "các pháp không cố định", mọi cố chấp trên từ từ tan rã, khổ đau, sầu thảm, hoảng sợ, hãi hùng dần dần tan biến theo mây khói. Thân sắp chết, sự nghiệp tan vỡ, bạn bè chia lìa... cũng là lẽ đương nhiên trong dòng biến thiên của vạn vật. Chúng ta chưa can đảm cười trước cảnh ấy, song cũng can đảm nhìn chúng trôi qua với tâm niệm an bình. Bởi người tu hành là huân tập phát minh những lẽ thật ấy. Sở dĩ hiện nay có lắm người tu khi gặp hoàn cảnh tang thương biến cố liền hoảng sợ bất an, do họ không phát minh những lẽ thật này. Họ nghĩ rằng tụng kinh nhiều, niệm Phật lắm, cúng kính hậu là đầy đủ công phu tu hành. Tu bằng cách nhắm ra ngoài, chạy theo hình thức làm sao đạt được lẽ thật, mà làm suy giảm khổ đau. Họ càng tu thì chấp càng nặng, chấp nặng thì đau khổ càng nhiều. Thế là, tu chỉ tăng khổ, chớ không hết khổ.
A tức là B, thì A không thật là A, B tức là A, thì B không thật là B, hai bên đều không cố định. Đã không cố định thì làm sao dám bảo là thật. Hai bên đều không thật thì không thể thành hai. Bởi không thể thành hai là tiến thẳng vào "Pháp môn bất nhị". Thấy vạn vật đối đãi không thật, còn gì để lý giải luận bàn. Vừa phát ra ngôn ngữ là nằm trong đối đãi, đối đãi thuộc hai bên. Muốn chỉ chỗ cứu kính của "Pháp môn bất nhị", ngài Duy-ma-cật chỉ còn cách lên tòa ngồi lặng thinh. Chính thế mà Bồ-tát Văn-thù tán thán không tiếc lời.
HT Thích Thanh Từ

Thanked by 2 Members:

#6 QuyenLocTamMinh

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 471 Bài viết:
  • 124 thanks

Gửi vào 18/11/2021 - 17:59

18.7 CHÚNG SANH HỎI PHẬT
---- HT : Thích Thanh Từ ---
-Ngày kia, tình cờ đọc tản văn thấy tác giả ghi: “Không phải Phật chỉ ở trên bàn thờ, không phải Phật chỉ ở trong tâm tôi, Phật còn ở chung quanh tôi, Phật ở cùng khắp, chỗ nào cũng có Phật, nơi gió thoảng, nơi tiếng con chim hót, nơi bước chân tôi đi, nơi cả trong lời tôi nói, nơi cả trong ý nghĩ của tôi.”*. Tôi tán thán: Hay quá! Ở đâu cũng có Phật hết. Nhưng sao tôi lại không thấy ?!!
Hôm xuống nhà khách, nhìn lên bức hình Phật không gian ba chiều. Tôi đứng chính giữa bức hình, thấy đôi mắt Phật đang nhìn vào tôi; tôi đứng sang bên phải thấy đôi mắt Phật cũng hướng về bên phải; tôi đi sang bên trái thấy đôi mắt Phật cũng nhìn sang bên trái. Tôi ồ lên ngạc nhiên: Bức hình lạ quá, đứng nơi đâu cũng thấy Phật nhìn. Một huynh đứng cạnh đó lên tiếng: Bao giờ mà Phật chẳng nhìn em, tại em không chịu nhìn Phật thôi.
Tôi bâng khuâng, tư lự. Thế Tôn lúc nào cũng nhìn con sao? Vậy thì Ngài cho con hỏi vài câu được không ?
Không có tiếng đáp lại, như vậy Thế Tôn đã đồng ý cho con hỏi rồi.
Con nghe những người đến chiêm bái Thánh tích nơi Phật Đản sanh về đều kể: Xứ Phật nghèo lắm, đất cát khô cằn, người dân lam lũ, trẻ em thất học, đói khát, ăn xin đầy đường. Rồi đọc sử Phật con thấy ngày xưa nơi Thế Tôn sống có rất nhiều tôn giáo, tín ngưỡng đủ loại thờ Thần Rắn, Thần Lửa, ăn lá cây, nằm trên gai, đứng một chân v.v…để mong cầu sau khi chết được sanh về cảnh giới vui sướng hơn. Chưa hết, Ấn Độ là xứ phân biệt giai cấp bậc nhất, nào là: Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Phệ Xá, Thủ Đà; giai cấp dưới không được đi chung đường, không được nhìn giai cấp trên. Thưa Thế Tôn, Ngài đến một nơi như vậy có chủ ý gì ?
- Để xoa dịu nỗi đau, để chuyển hóa kiến chấp, để xóa bỏ giai cấp, để gầy dựng niềm tin cho chúng sanh biết mình là Phật sẽ thành. Con thấy Như Lai đến một nơi có nhiều ý nghĩa không.
Con đọc trong kinh nghe Thế Tôn nói: Phật thì thường hằng bất biến, không sanh không diệt. Sao những người đến Ấn Độ chẳng thấy được Ngài, chỉ còn là dấu tích chốn xưa, vỏn vẹn có trụ đá ghi khắc đánh dấu nơi Thế Tôn đã từng đi qua thôi ?
- À, con muốn thấy thân Ta với 32 tướng tốt và 80 vẽ đẹp đó hả? Thân tướng đó đã thiêu thành xá lợi lâu rồi. Chẳng lẽ con muốn Thế Tôn sống cho đến hai ngàn mấy trăm tuổi sao? Như vậy con sẽ thấy một ông già lụ khụ chẳng có uy phong tí nào. Ngày trước Ta được sinh ra từ mẹ và cha, có dòng máu cùng đỏ nước mắt cùng mặn. Lớn lên Ta có gia đình, cũng yêu vợ thương con, nhưng trong Ta lại khao khát một chân lý giải thoát cho chính mình và nhân sinh, nên Ta đã nhìn vợ con một lần sau cùng rồi ra đi tìm đạo. Khi thành đạo, Ta quay về thành Ca Tỳ La Vệ độ song thân và những người có duyên với Ta. Lúc đó chủng tử La Hầu La chạy đến bên Ta “xin cha cho con gia tài”. Thay vì cho một gia tài sinh diệt của thế gian Ta đã cho La Hầu La Thánh tài của Như Lai, để rồi từ đó La Hầu La theo tăng đoàn tu học, sau chứng Thánh quả hưởng trọn cả một gia sản vô sanh. Và Ta cũng thương tất cả chúng sanh như La Hầu La vậy, Ta muốn trao cho chúng sanh Thánh tài của Như Lai nhưng đôi khi chúng sanh không thèm nhận…
Thưa Thế Tôn, xin Ngài dừng lại cho con hỏi một câu: Con nghe kể Như Lai vào Niết-bàn lúc 80 tuổi, vậy Thế Tôn đâu còn ở cõi đời này mà trao Thánh tài cho chúng con ?
- Như Lai nào vào Niết-bàn ?! Con muốn nói Sa môn Cồ Đàm thuộc dòng họ Thích Ca đó à. Thế Tôn quên mất, con người đó do tứ đại hợp thành khi hết duyên phải trả về cho đất nước lửa gió chứ. Là con người có sanh phải có tử, Ta hiện thân trên cuộc đời này để rồi thị tịch là muốn cho chúng sanh biết định luật vô thường không từ chối một ai, kể cả Thế Tôn. Ta cũng từng vùi mình trong ngũ dục thế gian, cũng lăn lộn trong cạm bẫy cuộc đời nhưng Ta biết thoát ra khổ đau vươn tới chân hạnh phúc. Thế Tôn làm được, chúng sanh cũng sẽ làm được, vì ai cũng được tạo từ ngũ uẩn, đều có thân và tâm.
Như vậy vào Niết-bàn là Thế Tôn thị hiện, thật ra Thế Tôn vẫn còn có mặt trên cõi đời này ?
- Đúng rồi, nếu chúng sanh nhớ đến Như Lai, Như Lai liền hiện hữu. Chúng sanh mê chơi quên Như Lai, Như Lai vẫn đứng bên cạnh chúng sanh. Con có thấy được Như Lai chưa?
Nhưng thưa Thế Tôn, con lại thắc mắc…?
- Con mãi thắc mắc nên chẳng nhìn thấy Ta. Thôi, Thế Tôn đi nha, vì còn nhiều chúng sanh muốn hỏi Ta như con hỏi vậy. Ta phải đến đó để trả lời nhưng không biết bao giờ mới xong. Con hãy ngồi nghiệm lại những lời Thế Tôn đã nói, bao giờ con hiểu được thì sẽ thấy Như Lai.
Nhưng…?
- Con mãi như thế, bao giờ mới thấy Như Lai đây ?! Mới biết Ta có mặt khắp nơi mà có người thấy, có người lại không thấy. Thật tiếc thay!
HỒI HƯỚNG
Chúng con nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT ..

Thanked by 3 Members:

#7 xyzt

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 137 Bài viết:
  • 123 thanks

Gửi vào 20/11/2021 - 07:27

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Test, on 18/11/2021 - 17:59, said:

18.7 CHÚNG SANH HỎI PHẬT
---- HT : Thích Thanh Từ ---
Như vậy vào Niết-bàn là Thế Tôn thị hiện, thật ra Thế Tôn vẫn còn có mặt trên cõi đời này ?
- Đúng rồi, nếu chúng sanh nhớ đến Như Lai, Như Lai liền hiện hữu. Chúng sanh mê chơi quên Như Lai, Như Lai vẫn đứng bên cạnh chúng sanh. Con có thấy được Như Lai chưa?
Nhưng thưa Thế Tôn, con lại thắc mắc…?
- Con mãi thắc mắc nên chẳng nhìn thấy Ta. Thôi, Thế Tôn đi nha, vì còn nhiều chúng sanh muốn hỏi Ta như con hỏi vậy. Ta phải đến đó để trả lời nhưng không biết bao giờ mới xong. Con hãy ngồi nghiệm lại những lời Thế Tôn đã nói, bao giờ con hiểu được thì sẽ thấy Như Lai.
Nhưng…?
- Con mãi như thế, bao giờ mới thấy Như Lai đây ?! Mới biết Ta có mặt khắp nơi mà có người thấy, có người lại không thấy. Thật tiếc thay!
HỒI HƯỚNG
Chúng con nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT ..
Còn thương còn nhớ đến Như Lai là còn vọng tưởng. Vậy sao thấy Như Lai?.
Thấy có 2: thấy bằng tâm và thấy bằng mắt.
Nếu nói thấy dc Như lai bằng mắt vậy là điên đảo. Còn nói thấy được bằng tâm là ngớ ngẩn.
Có 2 sai lầm căn bản của người hành Thiền.
Sai lầm căn bản thứ nhất của mọi người hành thiền đó là CHẤP-THẬT. Một khi đã CHẤP-THẬT thì mọi chuyện đều có vấn đề.
Sai lầm ngớ ngẩn thứ hai đó là mặc định cái gì Thầy mình nói cũng đều là chân lý.

Sửa bởi TheConqueror: 20/11/2021 - 07:28


Thanked by 2 Members:

#8 hoadung

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 307 Bài viết:
  • 380 thanks

Gửi vào 20/11/2021 - 12:29

Thấy "Như Lai" tức thấy "tánh" đó mà...

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |