Phần Một
Lời mở đầu.
Kính thưa quý độc giả,
Trong cuộc sống hàng ngày, từ lúc mới sinh ra đời cho đến khi đầu bạc răng long, chúng ta đã đối diện với biết bao nhiêu biến cố từ hỷ nộ ái ố đến việc tìm kiếm miếng cơm manh áo và thế đứng trong xã hội. Cho rằng xã hội Việt Nam của chúng ta dù nó có nhỏ bé và lạc lậu đến đâu, thì cũng vẫn là một xã hội với những tín ngưỡng và những đức tin của những người Việt Nam thuộc mọi tầng lớp, đã qua bao nhiêu thế kỷ cho đến bây giờ cũng vẫn không bao giờ thay đổi. Chúng tôi cũng vậy, với những thăng trầm của cuộc sống từ lúc cất tiếng khóc chào đời cho đến khi bước chân vào đời chúng tôi đã trải qua trong hơn bảy mươi năm tuổi.
Ngoài cuộc sống hàng ngày, tôi còn được cái may mắn là đã ghi nhận được những sự việc, mà rất ít sách vở trên thế giới, lại có thể diễn đạt được những sự kiện thuộc về Thế Giới Tâm Linh, của con người trong Thế Kỷ thứ hai mươi vậy. Phải thành thật mà nói, tôi không tự tạo cho mình một chỗ đứng trong những câu chuyện, mà tôi sẽ kể dưới đây, vì tất cả chỉ là một sự tình cờ trong công việc hàng ngày của tôi, rồi từ đó cũng do những hiểu biết bắt nguồn từ nhửng trò chơi dại dột, đến những hành động liên quan đến việc phải giải quyết, những sự việc thuộc về thế giới vô hình, mà tôi đã tham gia. Ngay khi còn mài đũng quần tại trường trung học Chu Văn An Hà Nội, để rồi từ đó tôi có linh cảm rằng có lẽ tôi cũng thuộc vào một “hạng người” nào đó, có thể có “quyền lực” để giải quyết những vấn đề liên quan đến, người sống và người chết trong thời đại văn minh hiện nay, của Thế Kỷ thứ hai mươi vừa qua.
Nội dung những câu truyện dưới đây đều là chuyện có thật 100% nhưng vì kể lại để hầu chuyện quý bạn đọc, cho nên phải có sửa đổi đôi chút để khi đọc đến nó không bị nhàm chán, tuy nhiên thời gian và không gian của câu chuyện, không có thay đổi. Nhưng riêng về con người và tên các nhân vật, lúc thực, lúc hư cũng tùy theo hoàn cảnh của nó cho phù hợp với thực tế hiện tại. Tác giả mong rằng quý bạn sẽ hài lòng khi đọc đến những câu chuyện thuộc vể Thế Giới Tâm Linh trong cuốn sách nhỏ bé này.
Vào đời với tuổi học trò.
Vào một buổi sáng sớm của ngày Nguyệt tận, 29 tháng Sáu năm Quý Dậu, tôi cất tiếng khóc chào đời với hai con mắt nhắm lại, có lẽ vì tôi không muốn nhìn những vật thể chung quanh đang quay cuồng trong cái xã hội Việt Nam vào những năm đầu của Thập Niên 1930. Tôi không chịu mở mắt khi chào đời mà chỉ khóc cho cuộc đời, vì tôi được sinh ra sớm hơn hai tháng cho nên mấy ngày sau hai con mắt của tôi mới hé nhìn cảnh vật chung quanh giống như mấy con chó cún sau mấy ngày sinh ra chúng mới mở mắt vậy. Thế rồi tôi cũng được Bố Mẹ tôi mướn người chăm sóc đồng thời đã đưa tôi về Quê Nội ở làng Kiều Trung, Huyện Thạch Thất Tỉnh Sơn Tây, nay được đổi là Thôn Kiều Trung, Thị Trấn Phúc Thọ, Huyện Phúc Thọ Tỉnh Hà Tây. Để tôi không phải sống trong cái không khí ồn ào, ô nhiễm của thành phố Hà Nội vào năm 1933, tôi đã sống với Bà Nội ở quê tôi cho đến khi được bốn tuổi tôi mới trở về với Bố, với Mẹ và với các anh chị em như là một đứa trẻ bình thường.
Khi được sáu tuổi tôi cũng được đưa đến trường Mẫu Giáo ở gần nhà, để chập chững bước vào đời như những người bạn cùng lứa tuổi, đến lúc này khối óc non nớt của tôi cũng đã bắt đầu ghi nhận được, những sự việc đang xẩy ra hàng ngày chung quanh tôi. Bộ nhớ của khối óc bắt đầu cảm nhận và in vào tiềm thức để rồi khi tới tuổi xế chiều, ngồi ôn lại quá khứ như các bậc sinh thành thường nói: “già sống với kỷ niệm” tôi mới thấy tuổi thơ của tôi cũng có nhiều thăng trầm, như khi đến tuổi trưởng thành vậy. Sau đây tôi xin kể hầu quý bạn những chuyện thuộc về Thế Giới Tâm Linh, mà tôi đã gặp cũng như phải giải quyết, đã được bắt nguồn từ những trò chơi dại dột khi tôi còn nhỏ tuổi, câu chuyện bắt đầu:
Tuổi thơ với những trò chơi dại dột:
Vào những năm 1941, 1942, khi mà người Pháp còn đang cai trị Việt Nam, mặc dầu đệ nhị Thế Chiến đang đến hồi quyết liệt, nhưng Quân Đội Nhật cũng chưa đặt chân được vào Đông Dương, cho nên gia đình Bố mẹ và anh chị em tôi vẫn còn buôn bán và ở dưới phố Khâm Thiên. Lúc đó tôi đang ở cái tuổi nghịch ngợm nhất của tuổi thơ, cho nên chị em chúng tôi mới tổ chức những trò chơi dại dột dưới đây:
Phụ đồng chổi.
Phụ đồng chổi và phụ đồng cóc, là mấy trò chơi của những người thuộc thế hệ chúng tôi, phụ đồng cóc thì tôi chưa dám thực hiện. Vì nhà của Bố Mẹ tôi không đủ chỗ cho người ngồi đồng “nhảy như cóc nhảy”, riêng phụ đồng chổi thì chị em chúng tôi có thử chơi một lần rồi, sau đó chúng tôi không dám làm đến lần thứ hai. Muốn phụ đồng chổi phải làm như sau: Người ngồi đồng, anh người làm của mẹ tôi, tuổi chừng 17 có tên là Dương, ngồi xổm trên mặt đất, mắt nhắm lại, tay phải cầm một cái chổi thường dùng để quét nhà, tôi cầm ba nén nhang quơ đi quơ lại trước mặt anh Dương. Mấy người ngồi chung quanh gồm có chị tôi, cô em họ tên Nhung, và chú em tôi, tất cả là bốn người cùng đọc "Thần Chú" bài phụ đồng như sau:
“Phụ đồng Chổi
Thôi lổi mà lên
Ba bề bốn bên
Đồng lên cho chóng
Nhược bằng cửa đóng
Phá ra mà vào
Cách sông cách ao
Thì vào cho được
Cách roi cách vọt
Thì đánh cho đau
Hàng trầu hàng cau
Là hàng con gái
Hàng bánh hàng trái
Là hàng bà già
Hàng hương hàng hoa
Là hàng cúng Phật
Đội mũ đi tế
Là ông Cẩm Đô
Đánh trống phất cờ
Là phụ đồng chổi”.
Cứ như thế chị em chúng tôi đọc chừng năm hay sáu lần bài phụ đồng nói trên, thì anh Dương bắt đầu mở mắt, hai con mắt của anh trông lờ đờ, rồi cứ thế anh cầm cây chổi quét đi quét lại chung quanh gian nhà chúng tôi đang chơi trò chơi phụ đồng chổi. Nghe chúng tôi ồn ào dưới nhà ngang, mẹ tôi vội chạy xuống, và khi thấy anh Dương đang cầm cái chổi quét qua quét lại, biết chúng tôi tinh nghịch nên mẹ tôi đã cầm nguyên thau nước lạnh, rồi tạt vào người anh Dương và thế là “thăng đồng”.
Linh hồn người sống không nhập được vào xác phàm khi đang nằm ngủ trên giường.
Lần tinh nghịch thứ hai của anh em chúng tôi sau phụ đồng chổi, là một trò chơi mà chúng tôi nghịch vào lúc bấy giờ, chúng tôi không nghĩ rằng thân xác chúng ta lại có hai phần: Phần một là xác phàm và phần hai là Linh Hồn; tôi xin kể ra đây để quý bạn đọc cùng suy ngẫm về con người hiện tại của chúng ta. Trò chơi tinh nghịch được bắt đầu như sau: Một ngày nắng ráo của mùa hè năm 1942, buổi trưa hôm đó vào khoảng hai giờ chiều, tôi và chú em tôi thấy anh Dương đang nằm ngủ say trên lầu (gác) tại nhà của bố mẹ tôi ở Phố khâm Thiên.
Tôi bèn cùng với chú em tôi lấy sợi giây đay, môt loại dây được dùng để khâu hay cột hoặc dệt thành những bao đựng gạo lúc bấy giờ, chúng tôi cột chặt hai ngón chân cái của anh Dương lại với nhau, rồi cột vào chân giường. Vì chúng tôi cứ nghĩ rằng khi anh Dương tỉnh dậy và bước xuống giường thì thế nào cũng ngã (té) và chúng tôi sẽ có một trận cười ngả nghiêng, nhưng thưa quý bạn, anh Dương đã ngủ luôn cho đến 4 giờ chiều mà không thấy dậy. Sau mấy tiếng đồng hồ không thấy anh người làm xuống phụ buôn bán, nên mẹ tôi mới gọi vọng lên trên gác nơi anh em chúng tôi đang rình xem chừng nào anh người làm tỉnh giấc, mẹ tôi gọi lớn tiếng:
- Thằng Dương đâu rồi? ngủ gì mà ngủ kỹ vậy? mấy anh em con gọi nó xuống giúp mẹ cái coi.
Chúng tôi sợ quá bèn lay anh Dương để đánh thức anh dậy, nhưng chúng tôi không làm sao cho anh ấy thức giấc được, nên sau đó chúng tôi vội nói với mẹ tôi:
- Mẹ ơi, anh Dương ngủ trên này nhưng chúng con gọi mãi mà không thấy anh ấy dậy, mẹ lên mà coi đi.
Nghe vậy mẹ tôi cầm cái roi mây chạy lên lầu và khi thấy hai ngón chân của anh Dương bị cột chặt lại với nhau, mẹ tôi quay sang hỏi chúng tôi:
- Đứa nào cột chân thằng Dương lại với nhau như thế này? Sau câu nói đó là anh em chúng tôi mỗi đứa ăn mấy cái roi mây ngồi khóc với nhau, trong lúc mẹ tôi vừa cởi trói cho anh Dương vừa gọi lớn tiếng:
- Hú ba hồn bảy vía thằng Dương ở đâu thì về.
Nghe tiếng ồn ào ở trên lầu, mấy người bạn của mẹ tôi vội chạy lên, nhưng khi nhìn thấy quang cảnh trong căn nhà và anh Dương thì nằm bất động như người chết rồi và chỉ còn thoi thóp thở mà thôi, mấy bà bèn phụ mẹ tôi để gọi hồn vía của anh Dương về để nhập vào xác anh đang nằm trên giường. Một bà thì giật tóc mai để anh tỉnh lại, một bà khác lấy một cái tô lớn bắt anh em chúng tôi tiểu vào để lấy nước tiểu rồi cậy miệng anh Dương đổ hết tô nước tiểu thì anh ta tỉnh dậy. Sau khi tỉnh lại, anh có kể cho mọi người nghe trong lúc “hồn anh lìa khỏi xác” như sau:
- Khi anh Dương ngủ say, anh mơ thấy anh đang đi lang thang gần đó, bất chợt bị trói hai ngón chân cái lại với nhau, thì cũng là lúc anh trở về nhà, nhưng khi thấy hai ngón chân bị trói chặt lại, Linh Hồn anh đã không thể nào nhập được vào thân xác của anh đang nằm ở trên giường. Thế rồi “linh hồn” anh cứ đi lang thang chung quanh nhà, anh được chứng kiến mọi chuyện xẩy ra trong nhà cho đến khi anh nghe tiếng mẹ tôi gọi “Ba hồn bảy vía của anh” đồng thời cởi trói cho anh, lúc đó linh hồn anh mới nhập được vào thân xác đang nằm trên giường, để mở mắt tỉnh dậy như người bệnh sau một giấc ngủ dài.
Tôi viết ra đây câu chuyện này để quý bạn đọc suy ngẫm thôi nhé, chứ đừng có ai dại dột mà bắt chước anh em chúng tôi, để rồi mang họa và tôi không chịu trách nhiệm, nếu có ai tinh nghịch như anh em chúng tôi, khi chúng tôi còn nhỏ tuổi vào những năm đầu của thập niên 1940. Cũng kể từ sau lần tinh nghịch này, chúng tôi không còn nghĩ đến những trò chơi táo bạo nào khác, cho đến mười năm sau, năm 1952, tôi mới gặp lại một “biến cố” của gia đình bố mẹ tôi, qua việc những người đã chết nhập vào người sống để “xin ăn”. Mời quý bạn coi câu truyện dưới đây thì sẽ rõ.


THẾ GIỚI TÂM LINH
Viết bởi hiendde, 19/09/11 04:05
6 replies to this topic
#2
Gửi vào 19/09/2011 - 04:36
THẾ GIỚI TÂM LINH
Phần Hai
Những Linh Hồn và ông thầy Phù Thủy
Tôi có bà chị gái tuổi Nhâm Thân, chị tôi lúc còn con gái thì cũng hay đi lễ chùa, cúng Phật. Cũng vì những việc này mà chị tôi bày đặt “đồng bóng” vào những ngày lễ tại những đền, miếu chung quanh Hà Nội. Năm 1952, nhân dịp Lễ Vu Lan, ngày rằm tháng Bảy, chị tôi đã đi về Quê Nội của chúng tôi ở Phủ Từ Sơn Tỉnh Bắc Ninh, à quên tôi không thưa với quý anh rằng Bà Nội tôi qua đời vào năm 1935, do đó Ông Nội tôi đã tục huyền cho nên chúng tôi mới có hai Quê Nội đó là Huyện Thạch Thất Tỉnh Sơn Tây và Phủ Từ Sơn Tỉnh Bắc Ninh là vậy.
Khi đi ngang qua nghĩa trang đầu làng, chị tôi thấy dân làng đang tảo mộ và cúng cô hồn, thay vì đi luôn để về thăm họ hàng, thì chị lại đi vào nghĩa trang để thăm mấy ngôi mộ của những người không quen biết và cũng bày đặt cúng cúng, vái vái cầu phước, có lẽ“cho con xin lấy được người con thương chăng? Ngày hôm sau chị tôi trở về lại Hà Nội và thấy trong người không được khỏe như mọi khi, tôi thấy chị lúc nào cũng thờ thẫn như người mất hồn, và có lúc nói năng lảm nhảm như bị ma làm thì phải.
Mẹ tôi cũng thấy vậy nhưng lại nghĩ rằng chị đi về thăm quê, ra đường bị nắng bị gió cho nên chắc là bị cảm mạo phong sương, nên mẹ tôi đến gặp ông bác của tôi là Y Sĩ Nguyễn Xuân Chữ tại Bệnh viện Phủ Doãn để xin điều trị. Sau khi khám bệnh chị tôi xong, ông bác của tôi đã cho mẹ tôi biết rằng: chị tôi chỉ bị cảm cúm qua loa nên chỉ cần uống thuốc chừng vài ngày thì hết. Sau vài ngày uống thuốc, bệnh của chị tôi không thuyên giảm mà lại có chiều hướng gia tăng, nên chị lại được đưa đến gặp Bác Sĩ về tim mạch và thần kinh để khám bệnh. Kết quả là tim không sao nhưng thần kinh thì có giao động, nên được đưa đi chạy điện hàng ngày tại phòng Quang Tuyến của Bệnh viện Phủ Doãn.
Sau hơn mười lần chạy điện, bệnh tình chị tôi không thuyên giảm mà lúc nào cũng nói năng lảm nhảm, nên mẹ tôi lại sợ chị bị yếu tim, nên cho người đi mua Châu Sa, Thần Sa ở tiệm thuốc Bắc phố Hải Thượng Lãn Ông đem về chưng cách thủy với tim heo cho chị ăn hàng ngày. Một thời gian, sau khi ăn hết cũng cả chục cái tim heo nhưng không hết, cuối cùng qua mấy lời cố vấn của những bà bạn, mẹ tôi đã đi coi thầy thì được thầy phán rằng:
- Người nữ này bị ma làm, nhà chị phải lập đàn để cầu xin những linh hồn người khuất mặt buông tha thì người nữ này mới hết bệnh được.
Nhớ lại ngày về quê bên Bắc Ninh, chị tôi có đi cùng với cô em họ, nên mẹ tôi mới hỏi xem hai chị em đi đến những đâu mà bị ma làm. Cô em họ tôi mới cho biết những gì đã xẩy ra vào hôm rằm tháng bảy vừa qua, đồng thời tin vào lời của ông thầy bói, cho nên mẹ tôi đã vội vàng về quê để rồi cho người ra mấy ngôi mộ, tại nghĩa trang của làng để cúng kiến xin tha mạng cho chị. Đến khi trở về lại Hà Nội mẹ tôi cũng không quên đem theo mấy cành dâu, loại dâu cho tằm ăn, để làm roi trị tà ma. Trong lúc nói năng lảm nhảm thì không một ai kiềm hãm được sự phá phách của chị ngoài tôi ra, có nghĩa là khi đang đập phá hay la hét, thì chỉ có mỗi một mình tôi, mới bắt chị ngồi yên ở chỗ nào thì ngồi yên tại chỗ đó, và không còn la hét hay phá phách nữa. Mà chỉ còn nói lảm nhảm những câu không ra đâu vào đâu, và vẽ nhăng vẽ cuội những hình vẽ trên bộ ván, mà không ai hiểu nổi là những hình gì.
Thấy vậy mẹ tôi nói với tôi:
- Con xin nghỉ học để coi chừng nó cho mẹ, chừng nào mẹ tìm được ông thầy lúc bấy giờ con mới đi học lại.
Nói vậy thì nói, tôi vẫn đi học hàng ngày nhưng đến khi về đến nhà, lại phải săn sóc chị cho nên bài vở tôi học không ra làm sao và chú em tôi đã luôn luôn phải giải các phương trình đại số dùm tôi, rồi giải nghĩa luôn để tôi nạp bài cho thầy giáo. Ngày lại qua ngày, cho đến hơn hai tháng sau, mẹ tôi rất mệt mỏi còn tôi thì cứ sau giờ học ở trường về đến nhà là lại phải canh chừng chị, cho nên tôi học cũng không khá được, nhất là về đêm sự phá phách của chị cũng có lúc gây ồn ào cả khu phố Mã Mây vậy. Gần nhà tôi, cách chừng một trăm thước nhưng nằm vào một khu phố khác, đường Đinh Công Tráng hiện nay, có Đền Thờ Đức Trần Hưng Đạo và còn được gọi là Đền thờ Đức Thánh Trần. Tại đây việc nhang đèn cúng vái xẩy ra hàng ngày nên mẹ tôi nghĩ, có lẽ nên đưa chị tôi sang đền thờ để xin Đức Thánh Trần trị tà ma đang nhập trong người chị tôi. Hôm đó là ngày Mồng Một tháng mười Âm Lịch, chị tôi được đưa sang bên đền thờ lần đầu tiên. Sau một hồi cúng vái, có ngồi đồng cũng như yểm bùa, đốt bùa thành tro rồi hòa tan trong nước để chị tôi uống.
Vì theo lời mấy ông thầy, những con ma này sẽ không còn nhập vào chị tôi nữa, và hơn một giờ sau mới thăng đồng để đưa chị tôi về nhà, coi như buổi lễ khoán bùa đã chấm dứt. Nhưng thưa quý bạn, khi về đến nhà hai con mắt của chị long lên sòng sọc coi rất dữ dằn, và thế là chị tôi đập phá lung tung không có ai cản nổi. Vóc dáng con người thì nhỏ bé, cao chỉ có 1.52m, cân nặng chưa tới bốn mươi ký lô, vậy mà hai anh phu vác gạo rất lực lưỡng, anh nào cũng có thể vác trên vai một bao gạo chỉ xanh nặng tới 120kgs, cũng không thể nào kiềm chế được sự phá hoại của chị vào buổi chiều hôm đó. Do vậy Mẹ tôi đã cấp tốc cho người gọi tôi từ trường về để ngăn cản chị không cho đập phá nữa. Khi tôi về đến nơi, thì mới chỉ nhìn thấy tôi bước chân vào nhà, chị đã len lén vào một góc nhà để ngồi im thin thít. Vì trên tay của tôi đang cầm cành dâu tằm ăn có tẩm nước tiểu của chính tôi từ trước. Thấy vậy mẹ tôi nói:
- Thôi con nghỉ học đi để giữ nó vì mẹ mệt quá rồi.
Ngày rằm tháng mười âm lịch năm 1952, chị tôi lại được đưa sang Đền Thờ lần thứ hai. Buổi sáng hôm đó là ngày nghỉ, nên tôi và chú em tôi đã phụ để đưa chị sang đền thờ Đức Thánh Trần. Khi trở về đâu cũng đến mười một giờ trưa, ngay lúc đó tôi thấy anh họ tôi tên là Nguyễn Ngọc Diệp, con trai của người anh thứ ba của mẹ tôi, từ Nam Định lên, bước vào nhà và chào mẹ tôi:
- Thưa mẹ con đã về.
Quá đỗi ngạc nhiên vì mẹ tôi là Cô ruột của anh Diệp, thì Diệp phải gọi mẹ tôi bằng Cô mới đúng, mà lúc vào nhà lại gọi là Mẹ và xưng Con nên mẹ tôi nói:
- Diệp, tôi là cô của cháu chứ đâu có phải là mẹ của cháu đâu mà cháu ăn nói như vây?
- Dạ “thưa mẹ” con không phải là Diệp, con là Đỉnh, con của mẹ. Con biết ở nhà có chuyện lộn xộn con tính “về nhiều lần” để giải quyết chuyện của em Phượng (tên chị gái tôi). Nhưng con phải chờ mãi cho đến hôm nay, con mới xin được phép để về thăm nhà. Con bận lắm mà thời gian thì có hạn thôi, vậy mẹ cho đưa em về đây để con giải quyết.
- Ôi trời đất ơi là trời đất ơi, hết “con” bây giờ lại đến “cháu” thế này thì làm sao tôi sống nổi?
Mẹ tôi đã vừa khóc vừa kể lể như vậy. Tới đây tôi xin phép kể qua gia phả của gia đình bố mẹ tôi, có liên quan đến người anh cả của tôi tên là Ngô Hán Đỉnh, chết khi vừa đươc mười lăm tuổi. Gia đình của bố mẹ tôi có được bảy người con, anh Cả của tôi là Ngô Hán Đỉnh, chết năm lên mười lăm tuổi vì bị bệnh thương hàn, mặc dầu đã được đưa vào Bệnh viện Cống Vọng, nhưng vì không có thuốc nên đã chết tại bệnh viện mấy ngày sau đó 1929-1944. Người anh thứ hai của tôi là Cố chuẩn Tướng Ngô Hán Đồng, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Đoàn I Vùng I Chiến Thuật, tử nạn phi cơ trực thăng khi cùng Thiếu Tướng Phan Đình Soạn, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn I của Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm tại Đà nẵng đi thăm chiến hạm Destroyer thuộc Đệ Thất Hạm Đội của Hải Quân Hoa Kỳ đang biểu diễn Hải Pháo tại cửa biển Đà Nẵng vào năm 1972. Người thứ ba là chị gái của tôi, Ngô Minh Phượng, hiện định cư tại Melbourne, rồi đến tôi. Sau đó là chú em tôi tên là Ngô Xuân Sơn, Giảng viên của Trường đại học Sư Phạm Hà Nội, hồi hưu năm 2003. Đến cô em gái kế tiếp là Ngô Thuý Loan, giáo viên, có chồng là Giáo sư Trần Quốc Vượng, và là nhà khảo cổ của Hà Nội. Cuối cùng là Ngô Bạch Yến, giáo viên, có chồng đã hồi hưu vào mấy năm vừa qua. Như vậy tính đến năm 1952 thì anh Cả của tôi cũng đã chết được tám năm, chuyện quá lạ đấy. Sau đó quay sang tôi, anh nói:
- Lâm sang bên đền thờ Đức Thánh Trần đưa chị Phượng về đây cho anh để anh coi.
Nghe đến đây tôi thấy có lý lắm vì khi người chết đã trở về thì mọi việc sẽ êm xuôi. Tôi vừa quay ra đến cửa thì nghe tiếng mẹ tôi nói như hét lên:
- Đi vào, để yên con Phượng ở bên đó cho tôi.
Tôi quay lại nhìn anh, tôi thấy người thở dài rồi bước vào nhà trong, trả lại cửa hàng cho mẹ tôi buôn bán. Tôi và Sơn vội đi theo “ông anh đã chết” vào phía sau và lên ngồi trên bộ phản bằng gỗ Lim trong tư thế chờ đợi. Trong gian phòng này có bàn thờ Thổ Công được treo trên tường, và cũng đang được nhang đèn nghi ngút vì là ngày rằm tháng 10, khoảng chừng một lát sau anh tôi mới nói với tôi rằng:
- Anh chỉ được phép về lo việc nhà có mười phút mà thôi, nay mẹ không tin tưởng vào anh, bây giờ cũng đã đến giờ phải về cõi âm để làm việc, thôi anh sẽ chờ vào dịp khác, hoặc sẽ nhờ người ta làm dùm để giải quyết tình trạng của em Phượng.
Nói xong anh tôi đến đứng trước bàn thờ Thổ Công, thắp ba nén nhang rồi khấn như sau:
- Đệ tử là Ngô Hán Đỉnh, sinh năm 1929 và chết năm 1944; Đệ tử được phép về thăm nhà để giải quyết tình trạng của em gái Đệ Tử là Ngô Minh Phượng đã bị những vong hồn nơi cõi âm quấy phá. Vì thời gian có hạn trong lúc mẹ của Đệ Tử không tin tưởng nơi Đệ Tử, cho nên đã đến giờ phải về cõi Âm. Đệ Tử thành kính biết ơn Đức Thổ Thần đã cho phép Đệ Tử được bước chân vào nhà này, nhưng không thể ở lâu được nữa. Đệ Tử kính lạy Đức Thổ Thần để đi về Âm Cảnh.
Khấn xong, ông anh của tôi lạy trước bàn thờ Thổ Công bốn lạy, rồi đứng chụm hai chân và dang hai tay theo hình chữ thập, rồi đổ ngửa về phía sau như cây chuối đổ, hai tay vẫn dang ra và không có cách gì gập lại đựơc. Thân xác cứng nhắc, mặt mày tái mét, hai hàm răng nghiến chặt, hai môi mím lại, hai mắt nhắm nghiền trong lúc đó thì Sơn và tôi vội đỡ anh dậy, nhưng chúng tôi không thể nào nhắc anh lên được, vì sức nặng ngàn cân đang đè nặng lên con người của anh. Nghe tiếng ồn ào và tiếng la hét của hai anh em tôi, mẹ tôi và mấy người quen chạy vào coi, cùng lúc đó, chừng không tới một phút, anh Diệp đã lồm cồm ngồi dậy, vừa dụi mắt vừa nhìn mẹ tôi rồi anh nói:
- Thưa Cô, con mới ở Nam Định lên.
Khoảng chừng một tháng sau có người nói với mẹ tôi rằng:
- Ở dưới Ngã Tư Sở có một ông thầy phù thuỷ tuy đã già nhưng thầy trị tà ma hay lắm, bà xuống thử coi xem sao.
Được người mách bảo, mẹ tôi và tôi đã đi xuống Ngã Tư Sở để gặp ông thầy để trình bày câu chuyện cho thầy biết. Nghe xong ông ta lại trước bàn thờ Phật, thỉnh chuông, thắp nhang rồi lạy Phật, xong ông bấm mấy đốt ngón tay bên trái, miệng thì lẩm bẩm những gì tôi không biết; chừng vài phút sau ông Thày nói với mẹ tôi:
- Nhà chị cho nó xuống đây vào ngày.. để tôi coi nó xem sao.
Đền thờ của ông thầy pháp, còn gọi là Pháp Sư, là một căn phố nhưng cửa ở mặt tiền lúc nào cũng đóng kín, muốn vào nhà phải đi bằng một con hẻm bên hông nhà, với bề ngang độ chừng chín mươi phân tây, để ra phía đằng sau nhà, tới một cái sân rộng rồi mới vào đến điện thờ bằng cửa sau. Như vậy trọn căn nhà được chia làm hai: phần trước là mặt tiền thì đặt bàn thờ, được gọi là Điện Thờ còn gian trong có một bộ ván bằng gổ lim để ngả lưng, và một bộ tràng kỷ để tiếp khách. Tại điện thờ, tôi thấy sát tường là một bệ thờ được xây bằng gạch, có một tấm đan đúc bằng bê tông cốt sắt, trông giống như lò suởi chụm củi vậy. Bệ thờ có kích thước bề cao một thước, bề rộng một thước hai, và bề sâu cũng tới tám mươi phân. Trên bệ thờ có đặt một pho Tượng Phật ngồi trên toà sen cao ước chừng hơn một thước, mà tôi không biết là Tượng Phật Bà Quan Âm hay Tượng Đức Phật Di Lặc.
Phía dưới bệ thờ Phật có một khoảng trống được trang trí như quang cảnh dưới Địa Ngục với những quỷ sứ Đầu Trâu, Mặt Ngựa, tay cầm đinh ba và có một ông quỷ đang nắm một tội nhân để bỏ vào vạc dầu. Ngoài ra còn có những cảnh đang tra tấn mà tội nhân bị nắm cổ đến le lưỡi, sơn đỏ chót trông cũng rùng rợn lắm. Bên cạnh bàn thờ Phật, và cảnh địa ngục về phía bên phải có để một giá bằng gỗ có cắm những: Đinh Ba, Thanh Long Đao, Bát Xà Mâu… tổng công tám loại vũ khí trong truyện Tàu ngày xưa, cái giá gỗ có vũ khí này còn được gọi la Bát Bửu. Những vũ khí này dài đến hai thước và nó rất nặng vì là vũ khí của các Tướng Lãnh người Tàu như Quan Vân Trường, Trương Phi trong truyện Tam Quốc Chí. Còn bên trái bệ thờ thì cũng có một cái giá gỗ có cắm những lá cờ bằng vải đỏ, lớn cỡ 80x80cm và cán cờ làm bằng cây Mây, có đường kính tới hơn hai phân và dài đến hai thước.
Ngoài ra trên vách tường còn treo những bức hình tượng trưng cho Ông Thiện và Ông Ác, mà mỗi khi ta đến thăm các đền đài hay chùa chiền miếu mạo, ta thường thấy những pho tượng Ông Thiện và Ông Ác đứng trấn ở ngoài mặt tiền ở những nơi này. Đúng ngày đã định, mẹ tôi thuê một chiếc xe du lịch, hồi đó nếu ai ở Hà Nội thì sẽ thấy loại xe Vedette 8 máy, là xe thông dụng nhất trong việc cho thuê, vì rộng rãi và được các cô gái Hànội thường dùng làm xe rước dâu trong những dịp cưới hỏi. Khi xe đến mẹ tôi, tôi và cô bạn gái tên là Phụng cùng hai anh công nhân làm nghề khuân vác, đã đưa chị tôi ra xe để xuống nhà ông Thầy Phù Thuỷ. Để chị tôi không phá phách lúc ra xe, mẹ tôi đã nói:
- Để mẹ đưa con đến Bệnh viện Phủ Doãn cho Bác sĩ chạy điện nhé.
Nhờ câu nói dối này cho nên chị tôi đã lặng lẽ ra xe và xe chạy dọc đường không có gì trục trặc. Khi xe ngừng trước cửa nhà ông thầy là bắt đầu có chuyện. Chị tôi sau khi nhìn dáo dác hai bên đường như tìm kiếm cái gì, nhưng khi nhìn thấy nhà ông Thầy thì: dang hai tay, dang hai chân, mắt nhắm nghiền, môi mím chặt, nghiến răng và mặt mày xanh lét trông rất ghê sợ. Hai anh công nhân vác gạo ngồi hai bên chị từ lúc xe chạy, đã thật là vất vả mới đưa được chị tôi ra khỏi xe. Khi vào đến lối đi để ra sân đằng sau nhà thì ôi thôi, thật không thể nào tin vào con mắt của chính mình nữa, bốn người gồm hai anh công nhân, anh tài xế và tôi, lúc này tôi cũng đã mười chín tuổi rồi còn gì, đã vất vả xoay nghiêng chị tôi, như ta mang một hình nhân bằng thép vì nó nặng có tới hơn 100kgs để vào nhà ông thầy pháp. Vào đến nơi tôi thấy ông thầy đang ngồi trên ghế tràng kỷ cạnh bàn nước, miệng nhai trầu bỏm bẻm, khi nhìn thấy chúng tôi đã đưa được chị vào đến sân Thầy nói với mẹ tôi:
- Nhà chị đưa con nhỏ đó vào đây và để nó nằm trên phản cho tôi.
Chúng tôi làm theo lời thầy dạy rồi ra ngoài nghỉ mệt vì mất cũng đến gần mười phút, mới đưa được người bệnh vào nhà, với khoảng cách chỉ có hơn hai mươi thước mà thôi. Nằm trên bộ ván, con gái gì mà nằm dang chân dang tay hình chữ đại (viết theo chữ Nho) trông mất nết quá, trong lúc mắt nhắm lại, răng cắn chặt, coi bộ giận dữ lắm. Ông Thầy nhìn thấy vậy bèn cười rồi nói với mẹ tôi:
- Nhà chị cứ yên tâm, để nó đấy cho tôi, đã vào đến đây thì thép cũng phải chảy thành nước.
Nói xong ông gọi vọng xuống nhà dưới ở phía cuối sân. Ông Thầy không có vợ con mà chỉ có ba anh con nuôi mà thôi, và được gọi thứ tự ngoài Bắc như: Anh Cả, Anh Hai và Anh Ba.
- Thằng Cả đâu, cho nó con "Bạch Xà" cho tao coi.
- Dạ thưa Thầy có con đây.
Trả lời xong anh con Cả của ông Thầy xuất hiện nơi cửa sau, đó là một người trên dưới năm mươi tuổi, trên tay ông Cả có một cái khay, trên có phủ một vuông vải điều (vải đỏ) có kích thước cỡ 50x50cm. Trên vuông vải đỏ có để một cái đĩa có hình Thất Hiền, Bát Tiên, trên đĩa là một mảnh giấy quyến, loại giấy mà các ông thầy phù thủy thường dùng để vẽ bùa cho con nít đeo nếu khó nuôi. Mảnh giấy cỡ 5x30cm, bên cạnh tờ giấy quyến tôi còn thấy có ba cây nhang nhưng chưa đốt, Ông thầy Cả mang khay tới trước bàn thờ Phật để lên bàn thờ, sau đó đốt ba cây nhang để cúng Phật. Cúng xong ông mới đốt ba cây nhang trên khay, rồi mang khay đến bộ ván gỗ nơi có chị tôi nằm, đặt khay xuống một bên, rồi ông ta ngồi lên bộ ván chân xếp bằng, bàn tay phải cầm ba cây nhang để chuẩn bị thư bùa vào tờ giấy quyến.
Khi thư bùa, miệng ông lâm râm đọc thần chú trong lúc đó ngón tay cái của bàn tay trái, thì được dùng để bấm vào những đốt ngón tay của những cung Tý, Ngọ, Mẹo Dậu... của thập nhị chi để bắt quyết. Mỗi lần ngón cái bấm vào một vị trí nào quan trọng của thập nhị chi, thì bàn tay trái được giơ cao lên rồi đánh cách không (đánh dứ) trên tờ giấy quyến. Trong lúc đó tay phải với ba cây nhang cũng được viết những chữ nho (Hán Tự) “cách không” (không đụng đến) trên tờ giấy quyến, và miệng đọc thần chú những câu mà tôi không hiểu nghĩa là gì. Sau khi đọc hết bài thần chú thì "Quyết" cũng vừa bắt xong, ông thầy Cả bèn đặt ba cây nhang xuống khay, cầm tờ giấy quyến đã thư bùa lên rồi se nó lại chỉ nhỏ và dài như chiếc đũa ăn cơm.
Se xong thì chập đôi lại rồi vặn tiếp cho nó không bung ra và để một đầu, chỗ gập đôi của đạo bùa, vào lỗ tai bên phải của chị tôi. Sau khi đặt xong con Bạch Xà vào lỗ tai trông rất là nhẹ nhàng, tôi không thấy ảnh hưởng gì đến người bệnh và cũng không có triệu chứng gì là đau đớn cả và rồi thì ông thầy Cả tay phải cầm cái quạt giấy, phe phẩy như ta quạt cho mát; miệng ông đọc thần chú, tay trái lại bắt quyết ở những cung trong thập nhị chi trên những lóng tay. Tôi nhìn chị Phượng với đạo bùa và thấy con Bạch Xà đang từ từ đi sâu vào lỗ tai của chị. Khuôn mặt chị Phượng đang tái mét đã bắt đầu ửng đỏ nhưng vẫn nhắm mắt và nghiến răng để chịu đựng con Bạch Xà. Một lúc sau tôi thấy toàn thân chị đã bắt đầu run rẩy nên khi nhìn hình ảnh đó lòng tôi cũng thấy nao nao như thế nào ấy mà không thể nói ra được; thế rồi ông thầy phù thủy lại gọi xuống nhà dưới:
- Thằng Hai đâu, lên cho nó con Bạch Xà nữa cho tao coi.
- Dạ thưa thầy con lên ngay.
Thế là lại cũng những hành động như ông thầy Cả đã làm, Ông thầy Hai sau khi đặt con Bạch Xà thứ hai vào lỗ tai trái của chị tôi rồi cũng cầm quạt phe phẩy, bắt quyết và niệm thần chú. Chừng chưa tới một phút sau tôi thấy toàn thân chị Phượng run lên bần bật như có ai đang tra khảo dữ dội lắm. Bất chợt chị đưa hai tay lên nắm lấy hai con Bạch Xà rồi kéo chúng ra khỏi lỗ tai và vứt chúng lên bộ ván gỗ sau đó chị lồm cồm ngồi dậy, bò vào một góc nhà, hai con mắt ngó láo liên như muốn tìm đường chạy trốn; khi ánh mắt đụng đến ông thầy phù thủy chị vội vàng cúi xuống trong sợ hãi. Thưa quý bạn, một trong hai con Bạch Xà, con thứ nhất ở lỗ tai bên phải máu tươi của chị Phượng đã nhuộm đỏ chừng hơn một phân tây ngay phần đầu của con Bạch Xà. Nhìn thấy máu của con gái mình mẹ tôi đã phát khóc nhưng được ông thầy phù thủy trấn an:
- Không có sao đâu, nhà chị đừng sợ, sau khi ra khỏi đây thì kể như con cháu không còn cảm thấy đau đớn nữa đâu.
Nói xong ông quay sang tôi rồi hỏi:
- Thằng nhỏ này là thế nào với con nhỏ kia?
- Dạ thưa Cụ, nó là em ruột của con gái tôi.
- A! trông thằng nhỏ cũng được việc đấy. Nhỏ ra cúng Phật rồi ngồi đồng nghe chưa?
Mẹ tôi nghe vậy liền dẫn tôi ra điện thờ, ông thầy Cả đã thắp nhang và đưa cho tôi để cúng Phật. Sau khi cúng Phật xong, ông thầy Cả bắt tôi ngồi xếp bằng trên một bục gỗ chỉ cao hơn mặt đất có chừng mười phân mà thôi. Hai tay tôi được lật ngửa và để trên hai đầu gối; sau đó ông thầy Cả lấy một chiếc khăn đỏ (vải điều) có kích thước vuông vắn chừng một thước vuông, chùm lên đầu tôi và bắt tôi nhắm mắt lại để ông phụ đồng. Bản tính nghịch ngợm từ lúc còn bé nên trước khi nhắm hai con mắt lại, tôi cũng ngẩng mặt lên để nhìn khuôn mặt Đức Phật xem “nó ra làm sao” và tôi thấy cũng bình thường thôi rồi tôi mới làm theo lời ông thầy Cả. Khi những câu Thần chú được đọc trong lúc tôi nhắm mắt để ngồi đồng, thì áng chừng một phút sau tôi thấy người tôi, phần trên từ bụng trở lên đã bắt đầu quay vòng tròn như ta lắc vòng vậy.
Trong bụng tôi lúc bấy giờ rất tỉnh táo nên sau khi quay vài vòng, tôi lại tự ý rùng mình thì thấy hết quay như trước. Ít lâu sau đó thân mình tôi lại bắt đầu quay mòng mòng như lần trước, nhưng quay nhanh hơn nhiều với một góc độ quay của cơ thể đã ở sáu mươi độ so với mặt phẳng của sạp gổ. Trong bụng cũng vẫn tỉnh táo cho nên tôi lại rùng mình thật mạnh lần thứ hai, tôi thấy mất hiệu lực của những câu thần chú, tôi chợt nghe tiếng mẹ tôi nói:
- Con để yên cho thầy phụ đồng chứ, con đừng làm vậy mất linh thiêng nghe.
- Ôi cái nhà chị này khéo lo, nó đang thử tài thầy đấy, cứ để nó tự do thử pháp thuật của thầy rồi sẽ biết.
Sau câu nói của ông Thầy, những câu thần chú cũng được đọc càng lúc càng nhanh hơn, và thế là đến lần thứ ba tôi đành chịu thua ông thầy Cả, sau khi đã rùng mình nhiều lần nhưng không phá được pháp thuật của thầy. Ông thầy Cả đã phạt tôi bằng cách bắt tôi quay cho đến khi cái trán của tôi đụng sạp gỗ phía trước, còn cái gáy thì chạm mặt sạp phía sau, có nghĩa là thân mình tôi khi quay lúc sấp lúc ngửa đã gần như song song với mặt đất. Cứ như thế tôi quay cho đến khi hết bài thần chú tôi mới được ngồi thẳng người như trước. Sau khi lột bỏ vuông vải điều, tôi ngẩng mặt nhìn lên bàn thờ Phật tôi thấy “Khuôn mặt Đức Phật như có Hào Quang”.
Quá sợ hãi tôi bèn cúi xuống, thì mắt tôi lại nhìn thấy những hình ảnh tra tấn nơi “Địa Ngục”, thế là tôi bèn ngó mênh ngó mông ở những chổ đâu đâu chứ không còn dám nhìn thẳng về phía trước nữa. Ông thầy phù thủy lúc này đã đứng dậy và đi đến chỗ tôi, đồng thời kéo theo một cái ghế đẩu cao chừng hai mươi cm để ngồi. Phản ứng tự nhiên, không phải do tôi muốn, tôi đã thò tay cầm lấy cái ghế và tính kéo ra chỗ khác để cho ông thày “té cái chơi”. Nhưng thiên bất dung gian, trong lúc tôi có ý đồ đen tối thì cây cờ cán bằng mây đã được ông thầy rút ra khỏi giá cờ từ lúc nào tôi đâu có thấy, và thế là một cái vụt bằng roi mây được giáng thẳng cánh từ vai trái của tôi xuống đến mông đít bên phải, làm cho ruột gan tôi đau như có ai cắt thịt, cái đau như có muôn vàn mũi kim nhọn đang chích vào cơ thể của tôi vậy. Đau quá tôi vội rút tay lại trong lúc ông thầy ngồi xuống, đồng thời hỏi tôi và bắt tôi phải khai gia phả để thầy xét. Bụng mình thì vẫn tỉnh, nhưng hành động thì lý trí không thể kiểm soát được, nên tôi đã nói với ông thầy phù thuỷ:
- Ông không có quyền hỏi và bắt tôi phải khai gia phả với ông.
- A thằng này láo, mày đã đến trước bàn thờ Phật, mày phải khai những gì thầy muốn biết. Thằng Cả đâu, cho nó con Bạch Xà.
Ngồi nhìn ông thầy Cả đọc thần chú để làm con Bạch Xà xong, và được nhét nó vào lỗ tai trái của tôi, rồi phe phẩy cái quạt giấy trong lúc miệng lâm râm đọc thần chú, tôi thấy như có ai đó lấy cái búa và cái đục đóng vào đầu tôi làm đầu tôi nhức nhối vô cùng tưỏng chừng như cái đầu muốn vỡ làm đôi vậy. Tôi không thể nào chịu nổi lâu được, cho nên không đầy một phút sau tôi đã lấy tay trái để rút con Bạch Xà và vứt nó xuống sàn nhà, kể từ lúc đó tôi mới bắt đầu trả lời những gì ông thầy hỏi. Tôi còn nhớ những lời khai như sau:
- "Gia đình tôi" người làng Du Lâm, Phủ Từ Sơn, Tỉnh Bắc Ninh, toàn gia đình bảy người gồm có hai vợ chồng, một cô em gái và bốn đứa con đã bị chết khi Phát Xít Nhật ném bom vào sân bay Gia Lâm, bên kia bờ đê của Sông Hồng thuộc Thành Phố Hà Nội, và những vùng phụ cận. Vì chết hết cả nhà nên không có ai ma chay cúng kiếng rồi kể từ ngày đó gia đình tôi đã trở thành ma đói đi lang thang để xin ăn. Tháng Bảy Âm Lịch vừa qua, khi chúng tôi thấy cô này có lòng nhân hậu, nên đi theo cô này chỉ để xin ăn mà thôi chứ không có ý định gì khác.
Lúc này chị Phương vẫn còn ngồi trên bộ phản gỗ ở gian trong, chị nhìn ra Điện Thờ và lặng thinh không nói một câu nào. Sau khi nghe những lời khai báo tên tuổi của từng người một trong gia đình xong, ông thầy phù thủy mới yêu cầu “tôi”, tức gia đình những người quá cố, phải buông tha chị Phượng để rồi sẽ được ông thầy giúp đỡ cho đi đầu thai kiếp khác. “Tôi” nằng nặc không chịu mặc dầu đã ăn thêm một roi mây từ vai phải xuống đến mông đít trái, hai cái đau đớn vô cùng nhưng củng nhất định không chịu nên thầy nổi nóng và gọi to xuống nhà dưới:
- Thằng Hai đâu lên chặt tay nó cho tao coi.
Nghe đến chặt tay, trong lúc bụng tôi thì vẫn tỉnh nên thấy ghê quá. Dao thớt được đem ra từ trong Hoả Ngục và được để ở bên cạnh tôi, rồi ông thầy Hai một tay cầm bàn tay trái của tôi đặt lên cái thớt, trong lúc tay kia thì cầm con dao thật lớn, loại dao mổ trâu, để chuẩn bị chặt bàn tay trái của tôi. Trong bụng của tôi thì rất tỉnh táo tôi nhớ tất cả những gì tôi đã nói và làm, nhưng khi thấy thầy Hai sửa soạn phập bàn tay thì không biết bởi nguyên nhân nào tôi đã tự động rút tay lại và chấp nhận điều kiện của ông thầy. Điều kiện thì cũng dễ thôi, đó là buông tha chị tôi, không được lẽo đẽo đòi ăn và không được phá phách kể từ lúc này. Nếu chấp nhận thì ông thầy sẽ giúp cho toàn gia đình được đi đầu thai kiếp khác đồng thời gia đình của cô gái này sẽ mua bảy hình nhân để thế mạng, mua nhà cửa, xe cộ quần áo và vàng bạc để gia đình người chết có nơi ăn chốn ở và no đủ trước khi đi đầu thai kiếp khác.
Sau khi thoả thuận xong, ông thầy Cả đã làm một ít thủ tục mà tôi không biết như thế nào, rồi sau đó tôi được thăng đồng và tỉnh lại. Phụng, cô bạn gái đi theo tôi đã lại giở áo lên để coi xem vết roi đánh ở trên lưng nó ra làm sao, rồi lấy dầu nóng thoa cho tôi cho nó tan máu bầm, do hai vết roi đánh chéo vào nhau như hình chữ X. Khi chưa thăng đồng tôi cảm thấy đau đớn triền miên không lúc nào ngớt, nhưng sau khi thăng đồng tôi không còn thấy đau đớn, mà chỉ còn lại hai vết roi mây mà thôi, đúng như lời ông thầy đã nói. Phía gian trong của căn nhà, trên bộ phản, khi tôi thăng đồng thì chị Phượng cũng bừng tỉnh như sau một giấc ngủ dài, và vì quá mệt mỏi nên lại nằm xuống và ngủ một giấc chừng mười lăm phút sau mới thực sự tỉnh hẳn. Hai con mắt của chị tôi đã trở lại bình thường nhưng có nhiều mệt mỏi vì thiếu ngủ và bệnh hoạn. Trước khi ra xe về, ông Thầy Cả còn làm một đạo bùa cho chị tôi đeo, một đạo bùa khác được đưa cho mẹ tôi để đem về nhà, chôn ngay tại ngưỡng cửa ra vào của căn nhà cùng với đầu một con chó mực để gia đình người chết không còn bước chân trở lại căn nhà của mẹ tôi để quấy phá nữa đồng thời ông thầy phù thuỷ còn nói với mẹ tôi rằng:
- Đúng ngày giờ đã định, chị nhớ cho thằng em nó xuống theo để nó ngồi đồng nhé.
Kể từ lúc ra khỏi nhà ông thầy, chị tôi đã đi lại bình thường, ăn uống được và cũng không còn phá phách hay nói năng lảm nhảm nữa nhưng người thì cứ như là ốm tương tư ai vậy đó. Cuộc sống của bố mẹ và anh chị em chúng tôi đã trở lại bình thường cho đến ngày đem lễ vật xuống nhà ông thầy để đút lót những linh hồn của gia đình người quá cố. Một buổi sáng trước ngày ấn định, mẹ tôi đã thuê xe để đem xuống nhà ông Thầy tại Ngã Tư Sở: vàng mã, nhà lầu, xe hơi, bảy hình nhân thế mạng tất cả đều làm bằng giấy trông cũng đẹp lắm, nhất là những người nữ thì cũng mặt hoa da phấn để thay thế cho những người đã chết vì bom đạn trong thời kỳ chiến tranh. Để rồi ngày hôm sau, mẹ tôi và chúng tôi mới xuống nhà ông thầy. Khi xuống đến nơi, bước chân vào nhà tôi thấy chị tôi có hơi do dự một chút. Nhìn khuôn mặt và hai con mắt của chị Phượng mới thấy được rằng, gia đình người chết đã oán hận ông thầy ghê gớm lắm, vì đã khoán bùa không cho lai vãng vào nhà sau khi đã ký hoà ước thành ra mất ăn tới mấy tuần lễ.
Tôi lại được làm thủ tục để ngồi đồng cho gia đình người chết nhập vào, để tiếp nhận tặng vật mà gia đình nạn nhân đã hứa vào mấy tuần trước. Lần ngồi đồng này vì đã bị khuất phục bởi tài nghệ của Thầy, nên tôi cứ để đồng lên sau khi hết bài thần chú, tôi được bỏ vuông vải điều để nhìn lên tượng Đức Phật, rồi lại nhìn xuống Hoả Ngục, tôi thấy hình như tôi không còn cảm thấy sợ hãi nhiều như lần trước. Thủ tục tiếp nhận tặng vật được bắt đầu bằng việc điểm chỉ trên lá bùa do ông thầy Cả đưa ra thì tôi lại cưỡng lại và không chịu cho lấy dấu tay (lăn mấy ngón tay trên đạo bùa) để xác nhận có sự thoả thuận giữa Âm và Dương. Và những linh hồn này kể từ nay không còn được xuất hiện trên dương thế để phá phách mọi người. Thế là lại một con Bạch Xà rồi cũng với hai cái roi mây, lúc bấy giờ tôi mới thuận ký Hiệp Định đình chiến với ông thầy.
Điểm chỉ xong, đạo bùa được để lên bàn thờ Phật đồng thời ông thầy Cả đọc một bài thần chú rồi thỉnh mấy hồi chuông xong thì đốt đạo bùa. Lúc này ngoài sân, vàng mã đã được “Tôi” kiểm nhận từng món một, và được ông thầy Hai cho đốt cho đến khi cháy hết và chỉ còn lại một đống tro hồng. Lúc đốt, ở trong Điện Thờ tôi nhìn ra đống lửa và khi thấy tro sắp tàn, không hiểu sao tôi thở dài làm như luyến tiếc lắm thì phải. Đúng lúc này ông thầy Cả đã mang ly nước lạnh trên bàn thờ Phật đến bên cạnh đống lửa, rồi lại niệm thần chú gọi tên từng Linh Hồn của người chết, rồi hất ly nước lạnh vào đống tro còn đỏ hồng thì ở trong Điện thờ. Tôi tự động bật ngửa và thế là thăng đồng, tôi lồm cồm bò dậy mà nghe mỏi hết tứ chi, đi cũng không muốn nổi, mẹ tôi và Phụng đã phải đỡ tôi lên ngồi trên ghế mất vài phút sau mới hoàn hồn.
Thế là kể từ ngày rằm tháng bảy năm 1952, ngày chị tôi bị ma nhập cho đến ngày dứt nợ với bảy Linh Hồn thì cũng gần nửa năm. Và cũng kể từ ngày ký hoà ước với những người chết, chị tôi đã trở về nếp sống bình thường, cũng lập gia đình 1953, rồi sinh chín người con trai và chỉ có một cô con gái mà thôi. Vì thời cuộc đưa đẩy, miền Nam Việt Nam bị mất, chị tôi đã cùng với các cháu đến định cư tại Melbourne, trong đó có hai người con trai đã cắt tóc đi tu tại Linh Sơn Tự Melbourne. Đó là: Thượng Tọa Thích Tịnh Đạo, Đại Đức Thích Tịnh Giác; suốt ngày đêm các thầy đã đem tiếng kinh tiếng kệ để đưa những Linh Hồn của những người đã khuất về ăn mày Phật.
Phần Hai
Những Linh Hồn và ông thầy Phù Thủy
Tôi có bà chị gái tuổi Nhâm Thân, chị tôi lúc còn con gái thì cũng hay đi lễ chùa, cúng Phật. Cũng vì những việc này mà chị tôi bày đặt “đồng bóng” vào những ngày lễ tại những đền, miếu chung quanh Hà Nội. Năm 1952, nhân dịp Lễ Vu Lan, ngày rằm tháng Bảy, chị tôi đã đi về Quê Nội của chúng tôi ở Phủ Từ Sơn Tỉnh Bắc Ninh, à quên tôi không thưa với quý anh rằng Bà Nội tôi qua đời vào năm 1935, do đó Ông Nội tôi đã tục huyền cho nên chúng tôi mới có hai Quê Nội đó là Huyện Thạch Thất Tỉnh Sơn Tây và Phủ Từ Sơn Tỉnh Bắc Ninh là vậy.
Khi đi ngang qua nghĩa trang đầu làng, chị tôi thấy dân làng đang tảo mộ và cúng cô hồn, thay vì đi luôn để về thăm họ hàng, thì chị lại đi vào nghĩa trang để thăm mấy ngôi mộ của những người không quen biết và cũng bày đặt cúng cúng, vái vái cầu phước, có lẽ“cho con xin lấy được người con thương chăng? Ngày hôm sau chị tôi trở về lại Hà Nội và thấy trong người không được khỏe như mọi khi, tôi thấy chị lúc nào cũng thờ thẫn như người mất hồn, và có lúc nói năng lảm nhảm như bị ma làm thì phải.
Mẹ tôi cũng thấy vậy nhưng lại nghĩ rằng chị đi về thăm quê, ra đường bị nắng bị gió cho nên chắc là bị cảm mạo phong sương, nên mẹ tôi đến gặp ông bác của tôi là Y Sĩ Nguyễn Xuân Chữ tại Bệnh viện Phủ Doãn để xin điều trị. Sau khi khám bệnh chị tôi xong, ông bác của tôi đã cho mẹ tôi biết rằng: chị tôi chỉ bị cảm cúm qua loa nên chỉ cần uống thuốc chừng vài ngày thì hết. Sau vài ngày uống thuốc, bệnh của chị tôi không thuyên giảm mà lại có chiều hướng gia tăng, nên chị lại được đưa đến gặp Bác Sĩ về tim mạch và thần kinh để khám bệnh. Kết quả là tim không sao nhưng thần kinh thì có giao động, nên được đưa đi chạy điện hàng ngày tại phòng Quang Tuyến của Bệnh viện Phủ Doãn.
Sau hơn mười lần chạy điện, bệnh tình chị tôi không thuyên giảm mà lúc nào cũng nói năng lảm nhảm, nên mẹ tôi lại sợ chị bị yếu tim, nên cho người đi mua Châu Sa, Thần Sa ở tiệm thuốc Bắc phố Hải Thượng Lãn Ông đem về chưng cách thủy với tim heo cho chị ăn hàng ngày. Một thời gian, sau khi ăn hết cũng cả chục cái tim heo nhưng không hết, cuối cùng qua mấy lời cố vấn của những bà bạn, mẹ tôi đã đi coi thầy thì được thầy phán rằng:
- Người nữ này bị ma làm, nhà chị phải lập đàn để cầu xin những linh hồn người khuất mặt buông tha thì người nữ này mới hết bệnh được.
Nhớ lại ngày về quê bên Bắc Ninh, chị tôi có đi cùng với cô em họ, nên mẹ tôi mới hỏi xem hai chị em đi đến những đâu mà bị ma làm. Cô em họ tôi mới cho biết những gì đã xẩy ra vào hôm rằm tháng bảy vừa qua, đồng thời tin vào lời của ông thầy bói, cho nên mẹ tôi đã vội vàng về quê để rồi cho người ra mấy ngôi mộ, tại nghĩa trang của làng để cúng kiến xin tha mạng cho chị. Đến khi trở về lại Hà Nội mẹ tôi cũng không quên đem theo mấy cành dâu, loại dâu cho tằm ăn, để làm roi trị tà ma. Trong lúc nói năng lảm nhảm thì không một ai kiềm hãm được sự phá phách của chị ngoài tôi ra, có nghĩa là khi đang đập phá hay la hét, thì chỉ có mỗi một mình tôi, mới bắt chị ngồi yên ở chỗ nào thì ngồi yên tại chỗ đó, và không còn la hét hay phá phách nữa. Mà chỉ còn nói lảm nhảm những câu không ra đâu vào đâu, và vẽ nhăng vẽ cuội những hình vẽ trên bộ ván, mà không ai hiểu nổi là những hình gì.
Thấy vậy mẹ tôi nói với tôi:
- Con xin nghỉ học để coi chừng nó cho mẹ, chừng nào mẹ tìm được ông thầy lúc bấy giờ con mới đi học lại.
Nói vậy thì nói, tôi vẫn đi học hàng ngày nhưng đến khi về đến nhà, lại phải săn sóc chị cho nên bài vở tôi học không ra làm sao và chú em tôi đã luôn luôn phải giải các phương trình đại số dùm tôi, rồi giải nghĩa luôn để tôi nạp bài cho thầy giáo. Ngày lại qua ngày, cho đến hơn hai tháng sau, mẹ tôi rất mệt mỏi còn tôi thì cứ sau giờ học ở trường về đến nhà là lại phải canh chừng chị, cho nên tôi học cũng không khá được, nhất là về đêm sự phá phách của chị cũng có lúc gây ồn ào cả khu phố Mã Mây vậy. Gần nhà tôi, cách chừng một trăm thước nhưng nằm vào một khu phố khác, đường Đinh Công Tráng hiện nay, có Đền Thờ Đức Trần Hưng Đạo và còn được gọi là Đền thờ Đức Thánh Trần. Tại đây việc nhang đèn cúng vái xẩy ra hàng ngày nên mẹ tôi nghĩ, có lẽ nên đưa chị tôi sang đền thờ để xin Đức Thánh Trần trị tà ma đang nhập trong người chị tôi. Hôm đó là ngày Mồng Một tháng mười Âm Lịch, chị tôi được đưa sang bên đền thờ lần đầu tiên. Sau một hồi cúng vái, có ngồi đồng cũng như yểm bùa, đốt bùa thành tro rồi hòa tan trong nước để chị tôi uống.
Vì theo lời mấy ông thầy, những con ma này sẽ không còn nhập vào chị tôi nữa, và hơn một giờ sau mới thăng đồng để đưa chị tôi về nhà, coi như buổi lễ khoán bùa đã chấm dứt. Nhưng thưa quý bạn, khi về đến nhà hai con mắt của chị long lên sòng sọc coi rất dữ dằn, và thế là chị tôi đập phá lung tung không có ai cản nổi. Vóc dáng con người thì nhỏ bé, cao chỉ có 1.52m, cân nặng chưa tới bốn mươi ký lô, vậy mà hai anh phu vác gạo rất lực lưỡng, anh nào cũng có thể vác trên vai một bao gạo chỉ xanh nặng tới 120kgs, cũng không thể nào kiềm chế được sự phá hoại của chị vào buổi chiều hôm đó. Do vậy Mẹ tôi đã cấp tốc cho người gọi tôi từ trường về để ngăn cản chị không cho đập phá nữa. Khi tôi về đến nơi, thì mới chỉ nhìn thấy tôi bước chân vào nhà, chị đã len lén vào một góc nhà để ngồi im thin thít. Vì trên tay của tôi đang cầm cành dâu tằm ăn có tẩm nước tiểu của chính tôi từ trước. Thấy vậy mẹ tôi nói:
- Thôi con nghỉ học đi để giữ nó vì mẹ mệt quá rồi.
Ngày rằm tháng mười âm lịch năm 1952, chị tôi lại được đưa sang Đền Thờ lần thứ hai. Buổi sáng hôm đó là ngày nghỉ, nên tôi và chú em tôi đã phụ để đưa chị sang đền thờ Đức Thánh Trần. Khi trở về đâu cũng đến mười một giờ trưa, ngay lúc đó tôi thấy anh họ tôi tên là Nguyễn Ngọc Diệp, con trai của người anh thứ ba của mẹ tôi, từ Nam Định lên, bước vào nhà và chào mẹ tôi:
- Thưa mẹ con đã về.
Quá đỗi ngạc nhiên vì mẹ tôi là Cô ruột của anh Diệp, thì Diệp phải gọi mẹ tôi bằng Cô mới đúng, mà lúc vào nhà lại gọi là Mẹ và xưng Con nên mẹ tôi nói:
- Diệp, tôi là cô của cháu chứ đâu có phải là mẹ của cháu đâu mà cháu ăn nói như vây?
- Dạ “thưa mẹ” con không phải là Diệp, con là Đỉnh, con của mẹ. Con biết ở nhà có chuyện lộn xộn con tính “về nhiều lần” để giải quyết chuyện của em Phượng (tên chị gái tôi). Nhưng con phải chờ mãi cho đến hôm nay, con mới xin được phép để về thăm nhà. Con bận lắm mà thời gian thì có hạn thôi, vậy mẹ cho đưa em về đây để con giải quyết.
- Ôi trời đất ơi là trời đất ơi, hết “con” bây giờ lại đến “cháu” thế này thì làm sao tôi sống nổi?
Mẹ tôi đã vừa khóc vừa kể lể như vậy. Tới đây tôi xin phép kể qua gia phả của gia đình bố mẹ tôi, có liên quan đến người anh cả của tôi tên là Ngô Hán Đỉnh, chết khi vừa đươc mười lăm tuổi. Gia đình của bố mẹ tôi có được bảy người con, anh Cả của tôi là Ngô Hán Đỉnh, chết năm lên mười lăm tuổi vì bị bệnh thương hàn, mặc dầu đã được đưa vào Bệnh viện Cống Vọng, nhưng vì không có thuốc nên đã chết tại bệnh viện mấy ngày sau đó 1929-1944. Người anh thứ hai của tôi là Cố chuẩn Tướng Ngô Hán Đồng, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Đoàn I Vùng I Chiến Thuật, tử nạn phi cơ trực thăng khi cùng Thiếu Tướng Phan Đình Soạn, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn I của Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm tại Đà nẵng đi thăm chiến hạm Destroyer thuộc Đệ Thất Hạm Đội của Hải Quân Hoa Kỳ đang biểu diễn Hải Pháo tại cửa biển Đà Nẵng vào năm 1972. Người thứ ba là chị gái của tôi, Ngô Minh Phượng, hiện định cư tại Melbourne, rồi đến tôi. Sau đó là chú em tôi tên là Ngô Xuân Sơn, Giảng viên của Trường đại học Sư Phạm Hà Nội, hồi hưu năm 2003. Đến cô em gái kế tiếp là Ngô Thuý Loan, giáo viên, có chồng là Giáo sư Trần Quốc Vượng, và là nhà khảo cổ của Hà Nội. Cuối cùng là Ngô Bạch Yến, giáo viên, có chồng đã hồi hưu vào mấy năm vừa qua. Như vậy tính đến năm 1952 thì anh Cả của tôi cũng đã chết được tám năm, chuyện quá lạ đấy. Sau đó quay sang tôi, anh nói:
- Lâm sang bên đền thờ Đức Thánh Trần đưa chị Phượng về đây cho anh để anh coi.
Nghe đến đây tôi thấy có lý lắm vì khi người chết đã trở về thì mọi việc sẽ êm xuôi. Tôi vừa quay ra đến cửa thì nghe tiếng mẹ tôi nói như hét lên:
- Đi vào, để yên con Phượng ở bên đó cho tôi.
Tôi quay lại nhìn anh, tôi thấy người thở dài rồi bước vào nhà trong, trả lại cửa hàng cho mẹ tôi buôn bán. Tôi và Sơn vội đi theo “ông anh đã chết” vào phía sau và lên ngồi trên bộ phản bằng gỗ Lim trong tư thế chờ đợi. Trong gian phòng này có bàn thờ Thổ Công được treo trên tường, và cũng đang được nhang đèn nghi ngút vì là ngày rằm tháng 10, khoảng chừng một lát sau anh tôi mới nói với tôi rằng:
- Anh chỉ được phép về lo việc nhà có mười phút mà thôi, nay mẹ không tin tưởng vào anh, bây giờ cũng đã đến giờ phải về cõi âm để làm việc, thôi anh sẽ chờ vào dịp khác, hoặc sẽ nhờ người ta làm dùm để giải quyết tình trạng của em Phượng.
Nói xong anh tôi đến đứng trước bàn thờ Thổ Công, thắp ba nén nhang rồi khấn như sau:
- Đệ tử là Ngô Hán Đỉnh, sinh năm 1929 và chết năm 1944; Đệ tử được phép về thăm nhà để giải quyết tình trạng của em gái Đệ Tử là Ngô Minh Phượng đã bị những vong hồn nơi cõi âm quấy phá. Vì thời gian có hạn trong lúc mẹ của Đệ Tử không tin tưởng nơi Đệ Tử, cho nên đã đến giờ phải về cõi Âm. Đệ Tử thành kính biết ơn Đức Thổ Thần đã cho phép Đệ Tử được bước chân vào nhà này, nhưng không thể ở lâu được nữa. Đệ Tử kính lạy Đức Thổ Thần để đi về Âm Cảnh.
Khấn xong, ông anh của tôi lạy trước bàn thờ Thổ Công bốn lạy, rồi đứng chụm hai chân và dang hai tay theo hình chữ thập, rồi đổ ngửa về phía sau như cây chuối đổ, hai tay vẫn dang ra và không có cách gì gập lại đựơc. Thân xác cứng nhắc, mặt mày tái mét, hai hàm răng nghiến chặt, hai môi mím lại, hai mắt nhắm nghiền trong lúc đó thì Sơn và tôi vội đỡ anh dậy, nhưng chúng tôi không thể nào nhắc anh lên được, vì sức nặng ngàn cân đang đè nặng lên con người của anh. Nghe tiếng ồn ào và tiếng la hét của hai anh em tôi, mẹ tôi và mấy người quen chạy vào coi, cùng lúc đó, chừng không tới một phút, anh Diệp đã lồm cồm ngồi dậy, vừa dụi mắt vừa nhìn mẹ tôi rồi anh nói:
- Thưa Cô, con mới ở Nam Định lên.
Khoảng chừng một tháng sau có người nói với mẹ tôi rằng:
- Ở dưới Ngã Tư Sở có một ông thầy phù thuỷ tuy đã già nhưng thầy trị tà ma hay lắm, bà xuống thử coi xem sao.
Được người mách bảo, mẹ tôi và tôi đã đi xuống Ngã Tư Sở để gặp ông thầy để trình bày câu chuyện cho thầy biết. Nghe xong ông ta lại trước bàn thờ Phật, thỉnh chuông, thắp nhang rồi lạy Phật, xong ông bấm mấy đốt ngón tay bên trái, miệng thì lẩm bẩm những gì tôi không biết; chừng vài phút sau ông Thày nói với mẹ tôi:
- Nhà chị cho nó xuống đây vào ngày.. để tôi coi nó xem sao.
Đền thờ của ông thầy pháp, còn gọi là Pháp Sư, là một căn phố nhưng cửa ở mặt tiền lúc nào cũng đóng kín, muốn vào nhà phải đi bằng một con hẻm bên hông nhà, với bề ngang độ chừng chín mươi phân tây, để ra phía đằng sau nhà, tới một cái sân rộng rồi mới vào đến điện thờ bằng cửa sau. Như vậy trọn căn nhà được chia làm hai: phần trước là mặt tiền thì đặt bàn thờ, được gọi là Điện Thờ còn gian trong có một bộ ván bằng gổ lim để ngả lưng, và một bộ tràng kỷ để tiếp khách. Tại điện thờ, tôi thấy sát tường là một bệ thờ được xây bằng gạch, có một tấm đan đúc bằng bê tông cốt sắt, trông giống như lò suởi chụm củi vậy. Bệ thờ có kích thước bề cao một thước, bề rộng một thước hai, và bề sâu cũng tới tám mươi phân. Trên bệ thờ có đặt một pho Tượng Phật ngồi trên toà sen cao ước chừng hơn một thước, mà tôi không biết là Tượng Phật Bà Quan Âm hay Tượng Đức Phật Di Lặc.
Phía dưới bệ thờ Phật có một khoảng trống được trang trí như quang cảnh dưới Địa Ngục với những quỷ sứ Đầu Trâu, Mặt Ngựa, tay cầm đinh ba và có một ông quỷ đang nắm một tội nhân để bỏ vào vạc dầu. Ngoài ra còn có những cảnh đang tra tấn mà tội nhân bị nắm cổ đến le lưỡi, sơn đỏ chót trông cũng rùng rợn lắm. Bên cạnh bàn thờ Phật, và cảnh địa ngục về phía bên phải có để một giá bằng gỗ có cắm những: Đinh Ba, Thanh Long Đao, Bát Xà Mâu… tổng công tám loại vũ khí trong truyện Tàu ngày xưa, cái giá gỗ có vũ khí này còn được gọi la Bát Bửu. Những vũ khí này dài đến hai thước và nó rất nặng vì là vũ khí của các Tướng Lãnh người Tàu như Quan Vân Trường, Trương Phi trong truyện Tam Quốc Chí. Còn bên trái bệ thờ thì cũng có một cái giá gỗ có cắm những lá cờ bằng vải đỏ, lớn cỡ 80x80cm và cán cờ làm bằng cây Mây, có đường kính tới hơn hai phân và dài đến hai thước.
Ngoài ra trên vách tường còn treo những bức hình tượng trưng cho Ông Thiện và Ông Ác, mà mỗi khi ta đến thăm các đền đài hay chùa chiền miếu mạo, ta thường thấy những pho tượng Ông Thiện và Ông Ác đứng trấn ở ngoài mặt tiền ở những nơi này. Đúng ngày đã định, mẹ tôi thuê một chiếc xe du lịch, hồi đó nếu ai ở Hà Nội thì sẽ thấy loại xe Vedette 8 máy, là xe thông dụng nhất trong việc cho thuê, vì rộng rãi và được các cô gái Hànội thường dùng làm xe rước dâu trong những dịp cưới hỏi. Khi xe đến mẹ tôi, tôi và cô bạn gái tên là Phụng cùng hai anh công nhân làm nghề khuân vác, đã đưa chị tôi ra xe để xuống nhà ông Thầy Phù Thuỷ. Để chị tôi không phá phách lúc ra xe, mẹ tôi đã nói:
- Để mẹ đưa con đến Bệnh viện Phủ Doãn cho Bác sĩ chạy điện nhé.
Nhờ câu nói dối này cho nên chị tôi đã lặng lẽ ra xe và xe chạy dọc đường không có gì trục trặc. Khi xe ngừng trước cửa nhà ông thầy là bắt đầu có chuyện. Chị tôi sau khi nhìn dáo dác hai bên đường như tìm kiếm cái gì, nhưng khi nhìn thấy nhà ông Thầy thì: dang hai tay, dang hai chân, mắt nhắm nghiền, môi mím chặt, nghiến răng và mặt mày xanh lét trông rất ghê sợ. Hai anh công nhân vác gạo ngồi hai bên chị từ lúc xe chạy, đã thật là vất vả mới đưa được chị tôi ra khỏi xe. Khi vào đến lối đi để ra sân đằng sau nhà thì ôi thôi, thật không thể nào tin vào con mắt của chính mình nữa, bốn người gồm hai anh công nhân, anh tài xế và tôi, lúc này tôi cũng đã mười chín tuổi rồi còn gì, đã vất vả xoay nghiêng chị tôi, như ta mang một hình nhân bằng thép vì nó nặng có tới hơn 100kgs để vào nhà ông thầy pháp. Vào đến nơi tôi thấy ông thầy đang ngồi trên ghế tràng kỷ cạnh bàn nước, miệng nhai trầu bỏm bẻm, khi nhìn thấy chúng tôi đã đưa được chị vào đến sân Thầy nói với mẹ tôi:
- Nhà chị đưa con nhỏ đó vào đây và để nó nằm trên phản cho tôi.
Chúng tôi làm theo lời thầy dạy rồi ra ngoài nghỉ mệt vì mất cũng đến gần mười phút, mới đưa được người bệnh vào nhà, với khoảng cách chỉ có hơn hai mươi thước mà thôi. Nằm trên bộ ván, con gái gì mà nằm dang chân dang tay hình chữ đại (viết theo chữ Nho) trông mất nết quá, trong lúc mắt nhắm lại, răng cắn chặt, coi bộ giận dữ lắm. Ông Thầy nhìn thấy vậy bèn cười rồi nói với mẹ tôi:
- Nhà chị cứ yên tâm, để nó đấy cho tôi, đã vào đến đây thì thép cũng phải chảy thành nước.
Nói xong ông gọi vọng xuống nhà dưới ở phía cuối sân. Ông Thầy không có vợ con mà chỉ có ba anh con nuôi mà thôi, và được gọi thứ tự ngoài Bắc như: Anh Cả, Anh Hai và Anh Ba.
- Thằng Cả đâu, cho nó con "Bạch Xà" cho tao coi.
- Dạ thưa Thầy có con đây.
Trả lời xong anh con Cả của ông Thầy xuất hiện nơi cửa sau, đó là một người trên dưới năm mươi tuổi, trên tay ông Cả có một cái khay, trên có phủ một vuông vải điều (vải đỏ) có kích thước cỡ 50x50cm. Trên vuông vải đỏ có để một cái đĩa có hình Thất Hiền, Bát Tiên, trên đĩa là một mảnh giấy quyến, loại giấy mà các ông thầy phù thủy thường dùng để vẽ bùa cho con nít đeo nếu khó nuôi. Mảnh giấy cỡ 5x30cm, bên cạnh tờ giấy quyến tôi còn thấy có ba cây nhang nhưng chưa đốt, Ông thầy Cả mang khay tới trước bàn thờ Phật để lên bàn thờ, sau đó đốt ba cây nhang để cúng Phật. Cúng xong ông mới đốt ba cây nhang trên khay, rồi mang khay đến bộ ván gỗ nơi có chị tôi nằm, đặt khay xuống một bên, rồi ông ta ngồi lên bộ ván chân xếp bằng, bàn tay phải cầm ba cây nhang để chuẩn bị thư bùa vào tờ giấy quyến.
Khi thư bùa, miệng ông lâm râm đọc thần chú trong lúc đó ngón tay cái của bàn tay trái, thì được dùng để bấm vào những đốt ngón tay của những cung Tý, Ngọ, Mẹo Dậu... của thập nhị chi để bắt quyết. Mỗi lần ngón cái bấm vào một vị trí nào quan trọng của thập nhị chi, thì bàn tay trái được giơ cao lên rồi đánh cách không (đánh dứ) trên tờ giấy quyến. Trong lúc đó tay phải với ba cây nhang cũng được viết những chữ nho (Hán Tự) “cách không” (không đụng đến) trên tờ giấy quyến, và miệng đọc thần chú những câu mà tôi không hiểu nghĩa là gì. Sau khi đọc hết bài thần chú thì "Quyết" cũng vừa bắt xong, ông thầy Cả bèn đặt ba cây nhang xuống khay, cầm tờ giấy quyến đã thư bùa lên rồi se nó lại chỉ nhỏ và dài như chiếc đũa ăn cơm.
Se xong thì chập đôi lại rồi vặn tiếp cho nó không bung ra và để một đầu, chỗ gập đôi của đạo bùa, vào lỗ tai bên phải của chị tôi. Sau khi đặt xong con Bạch Xà vào lỗ tai trông rất là nhẹ nhàng, tôi không thấy ảnh hưởng gì đến người bệnh và cũng không có triệu chứng gì là đau đớn cả và rồi thì ông thầy Cả tay phải cầm cái quạt giấy, phe phẩy như ta quạt cho mát; miệng ông đọc thần chú, tay trái lại bắt quyết ở những cung trong thập nhị chi trên những lóng tay. Tôi nhìn chị Phượng với đạo bùa và thấy con Bạch Xà đang từ từ đi sâu vào lỗ tai của chị. Khuôn mặt chị Phượng đang tái mét đã bắt đầu ửng đỏ nhưng vẫn nhắm mắt và nghiến răng để chịu đựng con Bạch Xà. Một lúc sau tôi thấy toàn thân chị đã bắt đầu run rẩy nên khi nhìn hình ảnh đó lòng tôi cũng thấy nao nao như thế nào ấy mà không thể nói ra được; thế rồi ông thầy phù thủy lại gọi xuống nhà dưới:
- Thằng Hai đâu, lên cho nó con Bạch Xà nữa cho tao coi.
- Dạ thưa thầy con lên ngay.
Thế là lại cũng những hành động như ông thầy Cả đã làm, Ông thầy Hai sau khi đặt con Bạch Xà thứ hai vào lỗ tai trái của chị tôi rồi cũng cầm quạt phe phẩy, bắt quyết và niệm thần chú. Chừng chưa tới một phút sau tôi thấy toàn thân chị Phượng run lên bần bật như có ai đang tra khảo dữ dội lắm. Bất chợt chị đưa hai tay lên nắm lấy hai con Bạch Xà rồi kéo chúng ra khỏi lỗ tai và vứt chúng lên bộ ván gỗ sau đó chị lồm cồm ngồi dậy, bò vào một góc nhà, hai con mắt ngó láo liên như muốn tìm đường chạy trốn; khi ánh mắt đụng đến ông thầy phù thủy chị vội vàng cúi xuống trong sợ hãi. Thưa quý bạn, một trong hai con Bạch Xà, con thứ nhất ở lỗ tai bên phải máu tươi của chị Phượng đã nhuộm đỏ chừng hơn một phân tây ngay phần đầu của con Bạch Xà. Nhìn thấy máu của con gái mình mẹ tôi đã phát khóc nhưng được ông thầy phù thủy trấn an:
- Không có sao đâu, nhà chị đừng sợ, sau khi ra khỏi đây thì kể như con cháu không còn cảm thấy đau đớn nữa đâu.
Nói xong ông quay sang tôi rồi hỏi:
- Thằng nhỏ này là thế nào với con nhỏ kia?
- Dạ thưa Cụ, nó là em ruột của con gái tôi.
- A! trông thằng nhỏ cũng được việc đấy. Nhỏ ra cúng Phật rồi ngồi đồng nghe chưa?
Mẹ tôi nghe vậy liền dẫn tôi ra điện thờ, ông thầy Cả đã thắp nhang và đưa cho tôi để cúng Phật. Sau khi cúng Phật xong, ông thầy Cả bắt tôi ngồi xếp bằng trên một bục gỗ chỉ cao hơn mặt đất có chừng mười phân mà thôi. Hai tay tôi được lật ngửa và để trên hai đầu gối; sau đó ông thầy Cả lấy một chiếc khăn đỏ (vải điều) có kích thước vuông vắn chừng một thước vuông, chùm lên đầu tôi và bắt tôi nhắm mắt lại để ông phụ đồng. Bản tính nghịch ngợm từ lúc còn bé nên trước khi nhắm hai con mắt lại, tôi cũng ngẩng mặt lên để nhìn khuôn mặt Đức Phật xem “nó ra làm sao” và tôi thấy cũng bình thường thôi rồi tôi mới làm theo lời ông thầy Cả. Khi những câu Thần chú được đọc trong lúc tôi nhắm mắt để ngồi đồng, thì áng chừng một phút sau tôi thấy người tôi, phần trên từ bụng trở lên đã bắt đầu quay vòng tròn như ta lắc vòng vậy.
Trong bụng tôi lúc bấy giờ rất tỉnh táo nên sau khi quay vài vòng, tôi lại tự ý rùng mình thì thấy hết quay như trước. Ít lâu sau đó thân mình tôi lại bắt đầu quay mòng mòng như lần trước, nhưng quay nhanh hơn nhiều với một góc độ quay của cơ thể đã ở sáu mươi độ so với mặt phẳng của sạp gổ. Trong bụng cũng vẫn tỉnh táo cho nên tôi lại rùng mình thật mạnh lần thứ hai, tôi thấy mất hiệu lực của những câu thần chú, tôi chợt nghe tiếng mẹ tôi nói:
- Con để yên cho thầy phụ đồng chứ, con đừng làm vậy mất linh thiêng nghe.
- Ôi cái nhà chị này khéo lo, nó đang thử tài thầy đấy, cứ để nó tự do thử pháp thuật của thầy rồi sẽ biết.
Sau câu nói của ông Thầy, những câu thần chú cũng được đọc càng lúc càng nhanh hơn, và thế là đến lần thứ ba tôi đành chịu thua ông thầy Cả, sau khi đã rùng mình nhiều lần nhưng không phá được pháp thuật của thầy. Ông thầy Cả đã phạt tôi bằng cách bắt tôi quay cho đến khi cái trán của tôi đụng sạp gỗ phía trước, còn cái gáy thì chạm mặt sạp phía sau, có nghĩa là thân mình tôi khi quay lúc sấp lúc ngửa đã gần như song song với mặt đất. Cứ như thế tôi quay cho đến khi hết bài thần chú tôi mới được ngồi thẳng người như trước. Sau khi lột bỏ vuông vải điều, tôi ngẩng mặt nhìn lên bàn thờ Phật tôi thấy “Khuôn mặt Đức Phật như có Hào Quang”.
Quá sợ hãi tôi bèn cúi xuống, thì mắt tôi lại nhìn thấy những hình ảnh tra tấn nơi “Địa Ngục”, thế là tôi bèn ngó mênh ngó mông ở những chổ đâu đâu chứ không còn dám nhìn thẳng về phía trước nữa. Ông thầy phù thủy lúc này đã đứng dậy và đi đến chỗ tôi, đồng thời kéo theo một cái ghế đẩu cao chừng hai mươi cm để ngồi. Phản ứng tự nhiên, không phải do tôi muốn, tôi đã thò tay cầm lấy cái ghế và tính kéo ra chỗ khác để cho ông thày “té cái chơi”. Nhưng thiên bất dung gian, trong lúc tôi có ý đồ đen tối thì cây cờ cán bằng mây đã được ông thầy rút ra khỏi giá cờ từ lúc nào tôi đâu có thấy, và thế là một cái vụt bằng roi mây được giáng thẳng cánh từ vai trái của tôi xuống đến mông đít bên phải, làm cho ruột gan tôi đau như có ai cắt thịt, cái đau như có muôn vàn mũi kim nhọn đang chích vào cơ thể của tôi vậy. Đau quá tôi vội rút tay lại trong lúc ông thầy ngồi xuống, đồng thời hỏi tôi và bắt tôi phải khai gia phả để thầy xét. Bụng mình thì vẫn tỉnh, nhưng hành động thì lý trí không thể kiểm soát được, nên tôi đã nói với ông thầy phù thuỷ:
- Ông không có quyền hỏi và bắt tôi phải khai gia phả với ông.
- A thằng này láo, mày đã đến trước bàn thờ Phật, mày phải khai những gì thầy muốn biết. Thằng Cả đâu, cho nó con Bạch Xà.
Ngồi nhìn ông thầy Cả đọc thần chú để làm con Bạch Xà xong, và được nhét nó vào lỗ tai trái của tôi, rồi phe phẩy cái quạt giấy trong lúc miệng lâm râm đọc thần chú, tôi thấy như có ai đó lấy cái búa và cái đục đóng vào đầu tôi làm đầu tôi nhức nhối vô cùng tưỏng chừng như cái đầu muốn vỡ làm đôi vậy. Tôi không thể nào chịu nổi lâu được, cho nên không đầy một phút sau tôi đã lấy tay trái để rút con Bạch Xà và vứt nó xuống sàn nhà, kể từ lúc đó tôi mới bắt đầu trả lời những gì ông thầy hỏi. Tôi còn nhớ những lời khai như sau:
- "Gia đình tôi" người làng Du Lâm, Phủ Từ Sơn, Tỉnh Bắc Ninh, toàn gia đình bảy người gồm có hai vợ chồng, một cô em gái và bốn đứa con đã bị chết khi Phát Xít Nhật ném bom vào sân bay Gia Lâm, bên kia bờ đê của Sông Hồng thuộc Thành Phố Hà Nội, và những vùng phụ cận. Vì chết hết cả nhà nên không có ai ma chay cúng kiếng rồi kể từ ngày đó gia đình tôi đã trở thành ma đói đi lang thang để xin ăn. Tháng Bảy Âm Lịch vừa qua, khi chúng tôi thấy cô này có lòng nhân hậu, nên đi theo cô này chỉ để xin ăn mà thôi chứ không có ý định gì khác.
Lúc này chị Phương vẫn còn ngồi trên bộ phản gỗ ở gian trong, chị nhìn ra Điện Thờ và lặng thinh không nói một câu nào. Sau khi nghe những lời khai báo tên tuổi của từng người một trong gia đình xong, ông thầy phù thủy mới yêu cầu “tôi”, tức gia đình những người quá cố, phải buông tha chị Phượng để rồi sẽ được ông thầy giúp đỡ cho đi đầu thai kiếp khác. “Tôi” nằng nặc không chịu mặc dầu đã ăn thêm một roi mây từ vai phải xuống đến mông đít trái, hai cái đau đớn vô cùng nhưng củng nhất định không chịu nên thầy nổi nóng và gọi to xuống nhà dưới:
- Thằng Hai đâu lên chặt tay nó cho tao coi.
Nghe đến chặt tay, trong lúc bụng tôi thì vẫn tỉnh nên thấy ghê quá. Dao thớt được đem ra từ trong Hoả Ngục và được để ở bên cạnh tôi, rồi ông thầy Hai một tay cầm bàn tay trái của tôi đặt lên cái thớt, trong lúc tay kia thì cầm con dao thật lớn, loại dao mổ trâu, để chuẩn bị chặt bàn tay trái của tôi. Trong bụng của tôi thì rất tỉnh táo tôi nhớ tất cả những gì tôi đã nói và làm, nhưng khi thấy thầy Hai sửa soạn phập bàn tay thì không biết bởi nguyên nhân nào tôi đã tự động rút tay lại và chấp nhận điều kiện của ông thầy. Điều kiện thì cũng dễ thôi, đó là buông tha chị tôi, không được lẽo đẽo đòi ăn và không được phá phách kể từ lúc này. Nếu chấp nhận thì ông thầy sẽ giúp cho toàn gia đình được đi đầu thai kiếp khác đồng thời gia đình của cô gái này sẽ mua bảy hình nhân để thế mạng, mua nhà cửa, xe cộ quần áo và vàng bạc để gia đình người chết có nơi ăn chốn ở và no đủ trước khi đi đầu thai kiếp khác.
Sau khi thoả thuận xong, ông thầy Cả đã làm một ít thủ tục mà tôi không biết như thế nào, rồi sau đó tôi được thăng đồng và tỉnh lại. Phụng, cô bạn gái đi theo tôi đã lại giở áo lên để coi xem vết roi đánh ở trên lưng nó ra làm sao, rồi lấy dầu nóng thoa cho tôi cho nó tan máu bầm, do hai vết roi đánh chéo vào nhau như hình chữ X. Khi chưa thăng đồng tôi cảm thấy đau đớn triền miên không lúc nào ngớt, nhưng sau khi thăng đồng tôi không còn thấy đau đớn, mà chỉ còn lại hai vết roi mây mà thôi, đúng như lời ông thầy đã nói. Phía gian trong của căn nhà, trên bộ phản, khi tôi thăng đồng thì chị Phượng cũng bừng tỉnh như sau một giấc ngủ dài, và vì quá mệt mỏi nên lại nằm xuống và ngủ một giấc chừng mười lăm phút sau mới thực sự tỉnh hẳn. Hai con mắt của chị tôi đã trở lại bình thường nhưng có nhiều mệt mỏi vì thiếu ngủ và bệnh hoạn. Trước khi ra xe về, ông Thầy Cả còn làm một đạo bùa cho chị tôi đeo, một đạo bùa khác được đưa cho mẹ tôi để đem về nhà, chôn ngay tại ngưỡng cửa ra vào của căn nhà cùng với đầu một con chó mực để gia đình người chết không còn bước chân trở lại căn nhà của mẹ tôi để quấy phá nữa đồng thời ông thầy phù thuỷ còn nói với mẹ tôi rằng:
- Đúng ngày giờ đã định, chị nhớ cho thằng em nó xuống theo để nó ngồi đồng nhé.
Kể từ lúc ra khỏi nhà ông thầy, chị tôi đã đi lại bình thường, ăn uống được và cũng không còn phá phách hay nói năng lảm nhảm nữa nhưng người thì cứ như là ốm tương tư ai vậy đó. Cuộc sống của bố mẹ và anh chị em chúng tôi đã trở lại bình thường cho đến ngày đem lễ vật xuống nhà ông thầy để đút lót những linh hồn của gia đình người quá cố. Một buổi sáng trước ngày ấn định, mẹ tôi đã thuê xe để đem xuống nhà ông Thầy tại Ngã Tư Sở: vàng mã, nhà lầu, xe hơi, bảy hình nhân thế mạng tất cả đều làm bằng giấy trông cũng đẹp lắm, nhất là những người nữ thì cũng mặt hoa da phấn để thay thế cho những người đã chết vì bom đạn trong thời kỳ chiến tranh. Để rồi ngày hôm sau, mẹ tôi và chúng tôi mới xuống nhà ông thầy. Khi xuống đến nơi, bước chân vào nhà tôi thấy chị tôi có hơi do dự một chút. Nhìn khuôn mặt và hai con mắt của chị Phượng mới thấy được rằng, gia đình người chết đã oán hận ông thầy ghê gớm lắm, vì đã khoán bùa không cho lai vãng vào nhà sau khi đã ký hoà ước thành ra mất ăn tới mấy tuần lễ.
Tôi lại được làm thủ tục để ngồi đồng cho gia đình người chết nhập vào, để tiếp nhận tặng vật mà gia đình nạn nhân đã hứa vào mấy tuần trước. Lần ngồi đồng này vì đã bị khuất phục bởi tài nghệ của Thầy, nên tôi cứ để đồng lên sau khi hết bài thần chú, tôi được bỏ vuông vải điều để nhìn lên tượng Đức Phật, rồi lại nhìn xuống Hoả Ngục, tôi thấy hình như tôi không còn cảm thấy sợ hãi nhiều như lần trước. Thủ tục tiếp nhận tặng vật được bắt đầu bằng việc điểm chỉ trên lá bùa do ông thầy Cả đưa ra thì tôi lại cưỡng lại và không chịu cho lấy dấu tay (lăn mấy ngón tay trên đạo bùa) để xác nhận có sự thoả thuận giữa Âm và Dương. Và những linh hồn này kể từ nay không còn được xuất hiện trên dương thế để phá phách mọi người. Thế là lại một con Bạch Xà rồi cũng với hai cái roi mây, lúc bấy giờ tôi mới thuận ký Hiệp Định đình chiến với ông thầy.
Điểm chỉ xong, đạo bùa được để lên bàn thờ Phật đồng thời ông thầy Cả đọc một bài thần chú rồi thỉnh mấy hồi chuông xong thì đốt đạo bùa. Lúc này ngoài sân, vàng mã đã được “Tôi” kiểm nhận từng món một, và được ông thầy Hai cho đốt cho đến khi cháy hết và chỉ còn lại một đống tro hồng. Lúc đốt, ở trong Điện Thờ tôi nhìn ra đống lửa và khi thấy tro sắp tàn, không hiểu sao tôi thở dài làm như luyến tiếc lắm thì phải. Đúng lúc này ông thầy Cả đã mang ly nước lạnh trên bàn thờ Phật đến bên cạnh đống lửa, rồi lại niệm thần chú gọi tên từng Linh Hồn của người chết, rồi hất ly nước lạnh vào đống tro còn đỏ hồng thì ở trong Điện thờ. Tôi tự động bật ngửa và thế là thăng đồng, tôi lồm cồm bò dậy mà nghe mỏi hết tứ chi, đi cũng không muốn nổi, mẹ tôi và Phụng đã phải đỡ tôi lên ngồi trên ghế mất vài phút sau mới hoàn hồn.
Thế là kể từ ngày rằm tháng bảy năm 1952, ngày chị tôi bị ma nhập cho đến ngày dứt nợ với bảy Linh Hồn thì cũng gần nửa năm. Và cũng kể từ ngày ký hoà ước với những người chết, chị tôi đã trở về nếp sống bình thường, cũng lập gia đình 1953, rồi sinh chín người con trai và chỉ có một cô con gái mà thôi. Vì thời cuộc đưa đẩy, miền Nam Việt Nam bị mất, chị tôi đã cùng với các cháu đến định cư tại Melbourne, trong đó có hai người con trai đã cắt tóc đi tu tại Linh Sơn Tự Melbourne. Đó là: Thượng Tọa Thích Tịnh Đạo, Đại Đức Thích Tịnh Giác; suốt ngày đêm các thầy đã đem tiếng kinh tiếng kệ để đưa những Linh Hồn của những người đã khuất về ăn mày Phật.
#3
Gửi vào 19/09/2011 - 05:56
THẾ GIỚI TÂM LINH
Phần Ba
Tháng 6 năm 1954, tôi nhận được lệnh nhập ngũ và phải nhập học tại Liên Trường Võ khoa Trừ Bị Thủ Đức. Đầu năm 1955, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu Úy, tôi được thuyên chuyển ra miền Trung, đóng quân tại Thành Phố Quảng Trị rồi đến quận Đông Hà gần Vỹ Tuyến mười bảy chia đôi đất nước Việt Nam theo Hiệp Định Geneva. Sau khi truất phế Hoàng Đế Bảo Đại qua cuộc trung cầu dân ý ngày 23-10-1955, để rồi thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hòa cho miền Nam Việt Nam vào ngày 26-10-1955 cũng là lúc Binh Chủng Công Binh được Quân Đội Pháp giao cho Quân Đội Việt Nam dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Do đó việc mở rộng Binh Chủng đến những vùng Chiến Thuật và việc thành lập những Tiểu Đoàn Công Binh cấp Sư Đoàn đã là việc cần thiết để đáp ứng nhu cầu của việc cải tổ Quân Đội.
Nhưng các sĩ quan Công Binh, nòng cốt là cấp Trung Đội Trưởng, đã thiếu rất nhiều do đó tôi xin theo học Khoá sáu Công Binh tại Trường Công Binh Thủ Dầu Một thuộc Tỉnh Bình Dương gần Sàigòn. Trở vào lại Thủ Đô Sàigòn sau hơn một năm xa cách để rồi đến Trường Công Binh Bình Dương, tôi đã học ở đây cho đến tháng 6 năm 1957 mới mãn khoá học, trong thời gian đang học, ngày 01-02-1957 tôi được thăng cấp Trung Uý thực thụ nên cũng thấy đời lên hương một chút. Trong lúc học khoá sáu Công Binh, chúng tôi đã được đưa xuống Năm Căn thuộc Tỉnh Cà Mau để quan sát việc đóng cừ, và phóng cầu Năm Căn của Tiểu Đoàn một Công Binh Chiến Đấu.
Muỗi Năm Căn ghê quá, may mà chúng tôi chỉ phải ở lại có hai đêm mà thôi, nhưng tôi cũng đã học được một số kinh nghiệm khi đóng những cây cừ làm trụ trung gian cho cầu Năm Căn, là vùng đất sình lầy của miền Hậu Giang. Sau khi ra trường tôi được chọn Vùng Chiến Thuật để về làm việc vì tôi thi đậu thủ khoa, cho nên tôi đã xin về làm việc tại Hóc Môn, Thành Ông Năm, gần Sài gòn, nơi đồn trú của Liên Đoàn một Công Binh Chiến Đấu do Thiếu Tá Nguyễn văn Quý làm Liên Đoàn Trưởng. Trình diện Liên Đoàn xong tôi được thuyên chuyển về Tiểu Đoàn một Công Binh Kiến Tạo, sau này cải danh là Tiểu Đoàn năm mươi ba Công Binh Kiến Tạo, do cố Đại Tá Lê Văn Nghĩa làm Tiểu Đoàn Trưởng vào lúc bấy giờ.
Sau đó tôi được đưa về Đại Đội ba của Đại Uý Nguyễn Đình Cận và Đại Đội hiện tạm thời đóng quân gần cầu tầu Quận Châu Phú (Tỉnh Châu Đốc cũ) thuộc Tỉnh An Giang. Đại Đội của Đại Uý Cận đang đảm nhận công tác xây đồn dọc theo Kinh Vĩnh Tế thuộc Quận Châu Phú và một số đồn dọc theo Biên giới Việt Miên tại Quận An Phú cũng thuộc Tỉnh An Giang. Xuống đến Quận Châu phú, tôi được chỉ định làm Trung Đội Trưởng Trung Đội hai Công Binh và thế là đầu tháng 7-1957 tôi đã khăn gói lên đường qua Kinh Vĩnh Tế để đến Xã Vĩnh Ngươn nhận Trung Đội của tôi. Xã Vĩnh Ngươn nằm ngay trên ngã ba của Kinh Vĩnh Tế và Sông Châu Đốc, trên đường đến biên giói Việt Miên bằng đường thuỷ, và chỉ cách chỗ đóng quân của Đại Úy Nguyễn Đình Cận không đầy một cây số.
Sự liên hệ giữa các Vong Hồn Trong việc xây dựng Đất Nước Việt Nam.
Đang ở giáp ranh Bến Hải, nay xuống vùng giáp ranh biên giới với nước bạn Cao Miên, tôi thấy lần chuyển dịch này của tôi cũng lên đến hơn một ngàn năm trăm cây số. Trung Đội của tôi do anh Thượng sĩ nhất Vấn đang làm Trung Đội Trưởng, nhưng vì sự cải tổ Quân Đội vào những lúc này, cho nên các Thượng sĩ chỉ còn được giữ chức vụ Trung Đội phó mà thôi. Sau khi nhận bàn giao đơn vị xong, tôi thấy nơi đóng quân của tôi là một ngôi đình bỏ hoang của Xã Vĩnh Ngươn. Đền thờ “Thần Hoàng Làng” được dọn sạch để quân nhân các cấp có gia đình cũng như còn độc thân, cùng chung sống dưới một mái đình, “trống thiên trống địa” trông không ra làm sao cả.
Anh Thượng sĩ nhất Vấn, lúc này là Trung Đội Phó của tôi, đã thu xếp cho tôi một chỗ ngủ ở phía trước bệ thờ, bên trái là chỗ ngủ của mấy chú lính độc thân, còn bên phải là chỗ của mấy quân nhân có gia đình, có mang theo vợ và con nhỏ, cho nên đến đêm tối thì đình xã Vĩnh Ngươn có một âm thanh hỗn loạn như ở những trại tạm cư, khi chúng tôi trở về lại Hànội vào năm 1948 vậy. Sáng ngày hôm sau, vì tình hình lúc bấy giờ không có gì là nguy hiểm, nên tôi bèn ra nhà dân để thuê một gian nhà để ở trọ, đồng thời cũng nhờ ông bà chủ nhà nấu cơm nước cho tôi luôn cho nó tiện.
Tôi đã được anh chủ nhà tên là Út Trọn, làm nghề y tá, cho ở trong nhà của anh ta và nấu cơm cho tôi hàng ngày, cho đến khi tôi hoàn tất công việc xây đồn tôi mới chia tay với anh Út Trọn. Yên ổn chỗ ăn và chỗ ở xong tôi mới bắt tay vào việc đi thăm địa điểm xây cất đồn, nơi mà công tác đã khởi công từ bốn tháng qua, trong khi vật liệu xây cất đã được chở đến đầy đủ, nhưng công việc thì hầu như chưa đuơc hoàn tất phần làm đất và làm móng cho công tác xây tường đồn. Ra đến địa điểm xây cất, tôi thấy nơi đây là một cái gò đất nổi lên ở giữa cánh đồng lúa bát ngát, gò đất chỉ cao hơn mặt ruộng chưa tới một thước, diện tích của gò đất thì không quá 2000 mét vuông.
Phía xa xa ta có thể thấy đựoc nhũng ngôi nhà của người Miên, cách chỗ xây đồn chừng hơn một cây số, đó là những làng của người Miên được thành lập dọc theo biên giới Việt Miên từ xa xưa, và lẫn trong những ngôi nhà này, cũng có một đồn lính có treo cờ của Vương Quốc Cao Miên. Xe ủi đất được đem tới đây và cũng đã ủi được một ít đất ruộng lên gò đất, để đắp nền đồn cho cao thêm lên hầu tránh cho đồn không bị chìm trong nước, hàng năm vào mùa nước nổi là mùa lụt của Châu Phú, khi nước sông Châu Đốc dâng lên theo mực nước của sông Cửu Long. Một số móng của tường đồn cũng đã được đào xong, nhưng cừ tràm được dùng để tăng cường sức chịu nén cho nền móng của tường đồn, thì không thể nào đóng sâu được vào trong nền của móng và anh Thượng sĩ nhất Vấn cũng không hiểu tại sao.
Việc đóng cừ được thực hiện bằng máy ép hơi có áp xuất là 210 psi (14,78 kgs/cm2) với cái vồ (cái đầm) bằng thép, cán vồ cũng bằng thép hình lục giác có đường kính chừng 5cm (2”) còn đường kính của cừ tràm khoảng 8cm ở phần gốc. Khi coi tổng quát xong, tôi cho đóng thử mấy cây cừ tràm chỉ dài có hơn hai thước xem sao, khi đóng cừ xuống được chừng 30 phân tây, thì làm như có cái gì cản lại không cho cừ đóng xuống sâu hơn nửa. Tôi bèn cho tăng sức ép của máy để tiếp tục đóng, tôi thấy cây cừ run rẩy nhưng không gẫy và cũng “nhất định” không xuống sâu thêm một tấc nào. Thế rồi trong tiếng “gầm gừ” của máy ép hơi, cán vồ bằng thép đã bị bẻ “gãy làm đôi”.
Tôi cho ngưng đóng rồi thay cán vồ khác để lại tiếp tục công việc, nhưng thưa quý bạn: “cán vồ mới thay lại bị bẻ gẫy làm ba khúc”. Cán vồ chỉ dài có hơn 30 phân mà bị bẻ gẫy làm ba đoạn trong lúc cây cừ tràm lại không bị sứt mẻ chút nào thật là điều quá lạ. Báo cáo với ông Đại Đội Trưởng Nguyễn Đình Cận để trình về Tiểu Đoàn ở Hóc Môn xin tiếp liệu thay thế; trong khi chờ đợi, tôi cho người mang hai cái cán vồ bị gãy ra Quận Châu Phú để hàn lại rồi đem về tiếp tục công việc. Sau khi hàn xong, buổi chiều hôm đó, tôi cho khởi sự việc đóng cừ tiếp thì lần này: cừ không xuống, cán vồ không gãy nhưng cái vồ (cái đầm) có kích thước với đường kính là 20cm, bề dầy của cái vồ từ ngoài bìa vào đến giữa từ 2,5cm đến 5cm đã bị bể làm năm mảnh thế là hết làm việc.
Trong lúc thu xếp dụng cụ để rút quân về đình làng Vĩnh Ngươn, tôi đi một vòng chung quanh khu đất làm đồn, tôi thấy “mấy lóng xương chân, xương tay” bị xe ủi đất cầy lên và đã bị cán bể nát ra thành từng mảnh. Giật mình tôi vội gọi anh Vấn và hỏi:
- Cái này là cái gì đây anh Vấn?
- Dạ thưa Trung Uý, “xương người chết”
- Ở đâu ra mà nhiều thế này? Bộ xe ủi đất của mình đào lên để đắp nền đồn có phải không?
- Dạ đúng Trung Uý. Hôm trước còn đào được mấy sọ người, lớn có, bé cũng có.
- Thế mấy cái sọ người anh để ở đâu rồi?
- Dạ lấp đất luôn vì có mấy thằng lính mất dạy của Trung Đội lấy sọ người đứng tiểu vào đó cho nên tôi cho chôn lại rồi.
- Thật bậy quá, sao anh không cho tôi biết khi tôi vừa mới tới nhận việc?
- Dạ tôi thấy Trung Uý còn trẻ, sợ rằng Trung Uý không tin nên không dám nói ra.
- Thế mấy người có tin là người ta có “linh hồn” hay không?
- Dạ tôi tin người ta khi chết đi thì linh hồn vẫn còn tồn tại mà Trung Uý.
- Thế phản ứng của anh và của trung đội ra sao khi xe ủi đất ngày nào cũng cầy lên những “hài cốt của người quá cố”?
- Dạ thưa Trung Uý, mấy cậu không tin và muốn phá ảnh hưởng “ma quái” tụi nó có ý định dùng đồ ô uế vứt tùm lum trên mặt đất để làm khu vực này không còn trong sạch nữa thì các Linh Hồn sẽ “đi chơi” chỗ khác.
- Kết quả ra sao anh kể cho tôi nghe đi.
- Da, thế rồi mấy cậu lính của trung đội đều bị quẳng xuống ruộng nước hết, sợ quá cho nên từ đó cho đến này không một đứa nào còn dám nghĩ đến chuyện phá phách những linh hồn của người đã khuất.
- Thôi được rồi anh cho rút quân và nghỉ làm việc ba ngày để tôi tìm biện pháp đối phó và sẽ có quyết định sau.
Khi về đến nhà của anh Út Trọn tôi hỏi anh chủ nhà về tình hình trong mùa nước nổi, những thi hài của người chết được chôn cất ở đâu và như thế nào, nghe tôi hỏi, anh Út Trọn mới kể cho tôi biết như sau:
- Hằng năm cứ vào mùa nước lụt, cánh đồng lúa nước ngập mênh mông vì nước sông Châu Đốc tràn vào đồng, và chỉ còn có mỗi một cái gò đất hiện được chọn làm nơi xây cất đồn, là không ngập nước mà thôi.
Những người già cả, hay trẻ thơ trong Xã kể cả dân chúng chung quanh vùng này, nếu có ai bị chết đều được đưa lén về đây để chôn cất. Dân làng đều biết việc này nhưng không một ai dám ngăn cản, và cứ thế hết năm này sang năm khác, người chết cứ chôn đè lên nhau cho đến lúc này thì chính tôi cũng không biết đã có bao nhiêu người được chôn cất tại đây. Gò đất này nằm phía sau nhà anh Út Trọn chừng 400 thước. Sau khi kể cho tôi nghe đến đây, tôi cũng nói cho anh Út Trọn biết về vụ gẫy cán đầm và bể mặt đầm vừa mới xẩy ra trong ngày hôm nay, nghe xong anh Út Trọn mới hỏi tôi:
- Bây giờ Trung Uý tính sao?
- Gần đây có ngôi chùa nào không anh Út?
- Dạ gần nhà mình chừng vài trăm thước về hướng biên giới, có một ngôi chùa của người Miên, tất cả sư, sãi đều là người Miên nhưng họ nói được tiếng Việt, mà Trung Uý tính chi vậy?
- Sáng mai, anh Út dẫn tôi lên chùa để gặp nhà sư trụ trì của ngôi chùa này nhé.
Thế là sáng ngày hôm sau, tôi và anh Út Trọn lên chùa và đươc vị sư trụ trì của ngôi chùa Việt Miên độc nhất của xã Vĩnh Ngươn tiếp chuyện. Sau khi thăm hỏi xã giao xong tôi mới vào thẳng vấn đề với nhà sư để xin được giúp đỡ, tôi trình bày tất cả những sự việc xẩy ra trước khi tôi đên đây, và những việc mới xẩy ra vào ngày hôm trước, đồng thời tôi xin nhà Chùa dọn cho tôi một bàn thờ để Rước Vong (những linh hồn người chết) về chùa Ăn mày Phật, sớm tối nghe tiếng kinh tiếng kệ để những linh hồn này được siêu thoát. Để trả ơn nhà chùa, tôi hứa sau khi xây xong đồn những vật liệu còn dư tôi sẽ cúng chùa, và cho lính Công Binh sửa chữa lại ngôi chùa cho khang trang hơn.
Chấp nhận lời yêu cầu của tôi, nhà Sư đã đồng ý ngày hôm sau sẽ cho làm lễ rước vong về chùa vào đúng giờ Ngọ, việc tổ chức lễ rước vong sẽ được nhà chùa lo liệu tất cả. Trở về đơn vị, đúng giờ ngọ của ngày hôm đó tôi đã ra gò đất một mình, đứng giữa gò đất tôi bắt đầu nói:
- Tôi là Trung Uý Ngô Duy Lâm, Trung Đội Trưởng Trung Đội 2, Đại Đội 3, Tiểu Đoàn 1 Công Binh Kiến Tạo, tôi đựoc lệnh xuống đây để xây cất một đồn lính để bảo vệ nhân dân địa phương chống lại sự quấy phá của người Miên. Vị trí xây đồn được chỉ định là gò đất này, nhưng tôi được biết nơi đây là nơi an nghỉ của những Linh Hồn già cũng như trẻ từ bao nhiêu năm qua, tôi rất tiếc là vì việc nước không thể không làm được, vậy tôi có mấy đề nghị với những linh hồn đang yên nghỉ tại đây như sau:
· Đúng giờ Ngọ ngày mai, chúng tôi sẽ làm lễ rước vong về chùa tại Xã Vĩnh Ngươn để các linh hồn, không phân biệt tôn giáo, được ăn mày Phật. Sớm tối nghe kinh kệ để được siêu thoát và đầu thai kiếp khác.
· Nếu Linh Hồn nào có những điều ước muốn nào khác với ý định của tôi trong việc đưa linh hồn về chùa, thì trong đêm nay hãy về báo mộng cho tôi biết, trong quyền hạn cùng như khả năng của tôi, tôi làm được điều gì tôi xin hứa sẽ làm theo ước muốn của người báo mộng.
· Nếu đến sáng ngày mai, tôi không được linh hồn nào báo mộng, tôi coi như các vong hồn đã chấp nhận lời yêu cầu của tôi, và nghi lễ về Phật giáo sẽ được xúc tiến vào giờ Ngọ, để “thỉnh các vong hồn” về chùa, “trả đất lại cho chính phủ” để tôi xây đồn bảo vệ đất nước. Tôi xin thành thật cám ơn các linh hồn trước.
· Sau buổi lễ ngày mai nếu mọi công tác xây cất không được xúc tiến như ấn định, tôi cũng xin lỗi quý vong hồn tôi sẽ xoá bài làm lại. Tôi sẽ sử dụng một khối lượng thuốc nổ để san thành bình địa khu vực này, và các linh hồn sẽ không còn nơi tá túc. Đó không phải là ước muốn của tôi, xin quý vong hồn thông cảm. Đây là việc nước chứ không phải là việc nhà, vậy xin quý vong hồn hãy chấp nhận lời yêu cầu của tôi để về chùa “ăn mày Phật”. Tôi xin đa tạ.
Sau khi tuyên bố với những người khuất mặt xong, trở về lại nơi đóng quân, tôi nhờ vợ của Trung Sĩ An và vợ Trung sĩ Tô Hồng Lạc hai anh đang là Tiểu Đội Trưởng của tôi, vì hai chị theo đạo Phật để sáng hôm sau mua nhang đèn, vàng mã, tiền giấy và hoa quả để rồi tôi cho lập bàn thờ tại nơi xây đồn vào ngày cúng vong. Tôi cũng yêu cầu anh Út Trọn cho tôi được ăn cơm chay ngày hôm đó, để chờ đến đêm xem có linh hồn nào báo mộng chăng. Tôi cũng đã thắp nhang cúng Phật và Đức Thổ Thần của gia đình anh Út Trọn xin cho phép các vong hồn được nhập cư để báo mộng cho tôi, sau đó tôi cho người liên lạc lên chùa, để xin tổ chức đưa vong về chùa vào ngày giờ đã được ấn định trước.
Mọi việc diễn biến đúng như tôi đã tính, tôi không được vong hồn nào báo mộng, nên Lễ Rước Vong được nhà Chùa tổ chức rất trọng thể vào ngày hôm sau, và được bà con nhân dân Xã Vĩnh Ngươn tham dự rất đông đảo. Nhà chùa đã tụng kinh cầu siêu cho các vong hồn trong suốt ba ngày đêm, với sự tham dự của một số gia đình có người thân được chôn trên gò đất làm đồn. Vàng mã và tiền giấy (tiền Âm Phủ) được chúng tôi đốt khi “tiễn vong ra khỏi nơi cư trú của họ”, việc làm này đã đem đến cho chúng tôi, những người lính Công Binh xây đồn, một sự thoải mái trong tinh thần, vì đã làm được một việc mà chúng tôi cứ nghĩ rằng khó mà làm nổi.
Trưa ngày hôm sau đúng giờ Ngọ, tôi dẫn quân và đem cơ giới công binh đến gò đất để chuẩn bị làm việc, trước khi tái khởi công công tác, tôi cũng thắp mấy nén nhang, và nói mấy lời cám ơn những người đã khuất rồi mới cho tiếp tục công tác đắp nền, đào móng, đóng cừ. Trong lúc làm, nếu thấy nhũng hài cốt nổi lên thì đều được đặt vào một thùng gỗ để rồi đem lên chùa hoả thiêu, công tác đã được Trung Đội của tôi tiến hành một cách nhanh chóng và đặc biệt là không có một trục trặc nhỏ nào xẩy ra. Gần bốn tháng sau thì việc xây cất hoàn tất, như đã hứa, tôi cho thuộc cấp đem hết vật liêu dư thừa lên tu bổ chùa trong một tuần lễ rồi mới từ giã nhà Chùa, từ giã người sống cũng như người chết, để di chuyển Trung Đội đến nhận công tác xây một đồn khác, tại Xã Bắc Đay Quân An Phú, bên bờ sông Châu Đốc trên đường sang Miên.
Vào năm 1981 khi còn đang ở tù tại Trại tù Vĩnh Quang, thuộc Tỉnh Vĩnh Phú, Tam Đảo thì con trai anh Út Trọn, cấp bậc Đại Uý cũng đang ở tù như tôi, đã tìm lại gặp tôi khi anh ta thấy tôi đang đi lang thang trong sân trại có gần một ngàn người. Ngày tôi ở Vĩnh Ngươn anh ta mới chỉ được chừng tám hay chín tuổi. Đó là năm 1957, hai mươi bốn năm sau, 1981 anh còn nhớ đến tôi, để rồi cho tôi biết tình hình ở Vĩnh Ngươn như sau: Đồn vẫn còn đó và bà con Vĩnh Ngươn lúc nào cũng nhớ đến người lính Công Binh đến xây đồn hồi năm nào, và hy vọng sẽ có một ngày tôi trở về thăm nơi tôi đã để lại bao nhiêu kỷ niệm cho người dân quê của Xã Vĩnh Ngươn.
Tôi tuy lúc đó còn độc thân nhưng cũng đứng ra cưới vợ cho chú lính của tôi tên là Cương, vợ Cương là cháu gọi Út Trọn bằng Cậu ruột, đến năm 1975 Cương giải ngũ và có mười người con và hai vợ chồng sống rất hạnh phúc tại Quân Châu Phú. Viết đến đây tôi còn thấy nao nao trong lòng, vì những kỷ niệm đầu tiên của đời lính và tôi tự hỏi: “biết đến bao giờ tôi mới trở lại quê tôi để về thăm Xã Vĩnh Ngươn”?
Phần Ba
Tháng 6 năm 1954, tôi nhận được lệnh nhập ngũ và phải nhập học tại Liên Trường Võ khoa Trừ Bị Thủ Đức. Đầu năm 1955, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu Úy, tôi được thuyên chuyển ra miền Trung, đóng quân tại Thành Phố Quảng Trị rồi đến quận Đông Hà gần Vỹ Tuyến mười bảy chia đôi đất nước Việt Nam theo Hiệp Định Geneva. Sau khi truất phế Hoàng Đế Bảo Đại qua cuộc trung cầu dân ý ngày 23-10-1955, để rồi thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hòa cho miền Nam Việt Nam vào ngày 26-10-1955 cũng là lúc Binh Chủng Công Binh được Quân Đội Pháp giao cho Quân Đội Việt Nam dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Do đó việc mở rộng Binh Chủng đến những vùng Chiến Thuật và việc thành lập những Tiểu Đoàn Công Binh cấp Sư Đoàn đã là việc cần thiết để đáp ứng nhu cầu của việc cải tổ Quân Đội.
Nhưng các sĩ quan Công Binh, nòng cốt là cấp Trung Đội Trưởng, đã thiếu rất nhiều do đó tôi xin theo học Khoá sáu Công Binh tại Trường Công Binh Thủ Dầu Một thuộc Tỉnh Bình Dương gần Sàigòn. Trở vào lại Thủ Đô Sàigòn sau hơn một năm xa cách để rồi đến Trường Công Binh Bình Dương, tôi đã học ở đây cho đến tháng 6 năm 1957 mới mãn khoá học, trong thời gian đang học, ngày 01-02-1957 tôi được thăng cấp Trung Uý thực thụ nên cũng thấy đời lên hương một chút. Trong lúc học khoá sáu Công Binh, chúng tôi đã được đưa xuống Năm Căn thuộc Tỉnh Cà Mau để quan sát việc đóng cừ, và phóng cầu Năm Căn của Tiểu Đoàn một Công Binh Chiến Đấu.
Muỗi Năm Căn ghê quá, may mà chúng tôi chỉ phải ở lại có hai đêm mà thôi, nhưng tôi cũng đã học được một số kinh nghiệm khi đóng những cây cừ làm trụ trung gian cho cầu Năm Căn, là vùng đất sình lầy của miền Hậu Giang. Sau khi ra trường tôi được chọn Vùng Chiến Thuật để về làm việc vì tôi thi đậu thủ khoa, cho nên tôi đã xin về làm việc tại Hóc Môn, Thành Ông Năm, gần Sài gòn, nơi đồn trú của Liên Đoàn một Công Binh Chiến Đấu do Thiếu Tá Nguyễn văn Quý làm Liên Đoàn Trưởng. Trình diện Liên Đoàn xong tôi được thuyên chuyển về Tiểu Đoàn một Công Binh Kiến Tạo, sau này cải danh là Tiểu Đoàn năm mươi ba Công Binh Kiến Tạo, do cố Đại Tá Lê Văn Nghĩa làm Tiểu Đoàn Trưởng vào lúc bấy giờ.
Sau đó tôi được đưa về Đại Đội ba của Đại Uý Nguyễn Đình Cận và Đại Đội hiện tạm thời đóng quân gần cầu tầu Quận Châu Phú (Tỉnh Châu Đốc cũ) thuộc Tỉnh An Giang. Đại Đội của Đại Uý Cận đang đảm nhận công tác xây đồn dọc theo Kinh Vĩnh Tế thuộc Quận Châu Phú và một số đồn dọc theo Biên giới Việt Miên tại Quận An Phú cũng thuộc Tỉnh An Giang. Xuống đến Quận Châu phú, tôi được chỉ định làm Trung Đội Trưởng Trung Đội hai Công Binh và thế là đầu tháng 7-1957 tôi đã khăn gói lên đường qua Kinh Vĩnh Tế để đến Xã Vĩnh Ngươn nhận Trung Đội của tôi. Xã Vĩnh Ngươn nằm ngay trên ngã ba của Kinh Vĩnh Tế và Sông Châu Đốc, trên đường đến biên giói Việt Miên bằng đường thuỷ, và chỉ cách chỗ đóng quân của Đại Úy Nguyễn Đình Cận không đầy một cây số.
Sự liên hệ giữa các Vong Hồn Trong việc xây dựng Đất Nước Việt Nam.
Đang ở giáp ranh Bến Hải, nay xuống vùng giáp ranh biên giới với nước bạn Cao Miên, tôi thấy lần chuyển dịch này của tôi cũng lên đến hơn một ngàn năm trăm cây số. Trung Đội của tôi do anh Thượng sĩ nhất Vấn đang làm Trung Đội Trưởng, nhưng vì sự cải tổ Quân Đội vào những lúc này, cho nên các Thượng sĩ chỉ còn được giữ chức vụ Trung Đội phó mà thôi. Sau khi nhận bàn giao đơn vị xong, tôi thấy nơi đóng quân của tôi là một ngôi đình bỏ hoang của Xã Vĩnh Ngươn. Đền thờ “Thần Hoàng Làng” được dọn sạch để quân nhân các cấp có gia đình cũng như còn độc thân, cùng chung sống dưới một mái đình, “trống thiên trống địa” trông không ra làm sao cả.
Anh Thượng sĩ nhất Vấn, lúc này là Trung Đội Phó của tôi, đã thu xếp cho tôi một chỗ ngủ ở phía trước bệ thờ, bên trái là chỗ ngủ của mấy chú lính độc thân, còn bên phải là chỗ của mấy quân nhân có gia đình, có mang theo vợ và con nhỏ, cho nên đến đêm tối thì đình xã Vĩnh Ngươn có một âm thanh hỗn loạn như ở những trại tạm cư, khi chúng tôi trở về lại Hànội vào năm 1948 vậy. Sáng ngày hôm sau, vì tình hình lúc bấy giờ không có gì là nguy hiểm, nên tôi bèn ra nhà dân để thuê một gian nhà để ở trọ, đồng thời cũng nhờ ông bà chủ nhà nấu cơm nước cho tôi luôn cho nó tiện.
Tôi đã được anh chủ nhà tên là Út Trọn, làm nghề y tá, cho ở trong nhà của anh ta và nấu cơm cho tôi hàng ngày, cho đến khi tôi hoàn tất công việc xây đồn tôi mới chia tay với anh Út Trọn. Yên ổn chỗ ăn và chỗ ở xong tôi mới bắt tay vào việc đi thăm địa điểm xây cất đồn, nơi mà công tác đã khởi công từ bốn tháng qua, trong khi vật liệu xây cất đã được chở đến đầy đủ, nhưng công việc thì hầu như chưa đuơc hoàn tất phần làm đất và làm móng cho công tác xây tường đồn. Ra đến địa điểm xây cất, tôi thấy nơi đây là một cái gò đất nổi lên ở giữa cánh đồng lúa bát ngát, gò đất chỉ cao hơn mặt ruộng chưa tới một thước, diện tích của gò đất thì không quá 2000 mét vuông.
Phía xa xa ta có thể thấy đựoc nhũng ngôi nhà của người Miên, cách chỗ xây đồn chừng hơn một cây số, đó là những làng của người Miên được thành lập dọc theo biên giới Việt Miên từ xa xưa, và lẫn trong những ngôi nhà này, cũng có một đồn lính có treo cờ của Vương Quốc Cao Miên. Xe ủi đất được đem tới đây và cũng đã ủi được một ít đất ruộng lên gò đất, để đắp nền đồn cho cao thêm lên hầu tránh cho đồn không bị chìm trong nước, hàng năm vào mùa nước nổi là mùa lụt của Châu Phú, khi nước sông Châu Đốc dâng lên theo mực nước của sông Cửu Long. Một số móng của tường đồn cũng đã được đào xong, nhưng cừ tràm được dùng để tăng cường sức chịu nén cho nền móng của tường đồn, thì không thể nào đóng sâu được vào trong nền của móng và anh Thượng sĩ nhất Vấn cũng không hiểu tại sao.
Việc đóng cừ được thực hiện bằng máy ép hơi có áp xuất là 210 psi (14,78 kgs/cm2) với cái vồ (cái đầm) bằng thép, cán vồ cũng bằng thép hình lục giác có đường kính chừng 5cm (2”) còn đường kính của cừ tràm khoảng 8cm ở phần gốc. Khi coi tổng quát xong, tôi cho đóng thử mấy cây cừ tràm chỉ dài có hơn hai thước xem sao, khi đóng cừ xuống được chừng 30 phân tây, thì làm như có cái gì cản lại không cho cừ đóng xuống sâu hơn nửa. Tôi bèn cho tăng sức ép của máy để tiếp tục đóng, tôi thấy cây cừ run rẩy nhưng không gẫy và cũng “nhất định” không xuống sâu thêm một tấc nào. Thế rồi trong tiếng “gầm gừ” của máy ép hơi, cán vồ bằng thép đã bị bẻ “gãy làm đôi”.
Tôi cho ngưng đóng rồi thay cán vồ khác để lại tiếp tục công việc, nhưng thưa quý bạn: “cán vồ mới thay lại bị bẻ gẫy làm ba khúc”. Cán vồ chỉ dài có hơn 30 phân mà bị bẻ gẫy làm ba đoạn trong lúc cây cừ tràm lại không bị sứt mẻ chút nào thật là điều quá lạ. Báo cáo với ông Đại Đội Trưởng Nguyễn Đình Cận để trình về Tiểu Đoàn ở Hóc Môn xin tiếp liệu thay thế; trong khi chờ đợi, tôi cho người mang hai cái cán vồ bị gãy ra Quận Châu Phú để hàn lại rồi đem về tiếp tục công việc. Sau khi hàn xong, buổi chiều hôm đó, tôi cho khởi sự việc đóng cừ tiếp thì lần này: cừ không xuống, cán vồ không gãy nhưng cái vồ (cái đầm) có kích thước với đường kính là 20cm, bề dầy của cái vồ từ ngoài bìa vào đến giữa từ 2,5cm đến 5cm đã bị bể làm năm mảnh thế là hết làm việc.
Trong lúc thu xếp dụng cụ để rút quân về đình làng Vĩnh Ngươn, tôi đi một vòng chung quanh khu đất làm đồn, tôi thấy “mấy lóng xương chân, xương tay” bị xe ủi đất cầy lên và đã bị cán bể nát ra thành từng mảnh. Giật mình tôi vội gọi anh Vấn và hỏi:
- Cái này là cái gì đây anh Vấn?
- Dạ thưa Trung Uý, “xương người chết”
- Ở đâu ra mà nhiều thế này? Bộ xe ủi đất của mình đào lên để đắp nền đồn có phải không?
- Dạ đúng Trung Uý. Hôm trước còn đào được mấy sọ người, lớn có, bé cũng có.
- Thế mấy cái sọ người anh để ở đâu rồi?
- Dạ lấp đất luôn vì có mấy thằng lính mất dạy của Trung Đội lấy sọ người đứng tiểu vào đó cho nên tôi cho chôn lại rồi.
- Thật bậy quá, sao anh không cho tôi biết khi tôi vừa mới tới nhận việc?
- Dạ tôi thấy Trung Uý còn trẻ, sợ rằng Trung Uý không tin nên không dám nói ra.
- Thế mấy người có tin là người ta có “linh hồn” hay không?
- Dạ tôi tin người ta khi chết đi thì linh hồn vẫn còn tồn tại mà Trung Uý.
- Thế phản ứng của anh và của trung đội ra sao khi xe ủi đất ngày nào cũng cầy lên những “hài cốt của người quá cố”?
- Dạ thưa Trung Uý, mấy cậu không tin và muốn phá ảnh hưởng “ma quái” tụi nó có ý định dùng đồ ô uế vứt tùm lum trên mặt đất để làm khu vực này không còn trong sạch nữa thì các Linh Hồn sẽ “đi chơi” chỗ khác.
- Kết quả ra sao anh kể cho tôi nghe đi.
- Da, thế rồi mấy cậu lính của trung đội đều bị quẳng xuống ruộng nước hết, sợ quá cho nên từ đó cho đến này không một đứa nào còn dám nghĩ đến chuyện phá phách những linh hồn của người đã khuất.
- Thôi được rồi anh cho rút quân và nghỉ làm việc ba ngày để tôi tìm biện pháp đối phó và sẽ có quyết định sau.
Khi về đến nhà của anh Út Trọn tôi hỏi anh chủ nhà về tình hình trong mùa nước nổi, những thi hài của người chết được chôn cất ở đâu và như thế nào, nghe tôi hỏi, anh Út Trọn mới kể cho tôi biết như sau:
- Hằng năm cứ vào mùa nước lụt, cánh đồng lúa nước ngập mênh mông vì nước sông Châu Đốc tràn vào đồng, và chỉ còn có mỗi một cái gò đất hiện được chọn làm nơi xây cất đồn, là không ngập nước mà thôi.
Những người già cả, hay trẻ thơ trong Xã kể cả dân chúng chung quanh vùng này, nếu có ai bị chết đều được đưa lén về đây để chôn cất. Dân làng đều biết việc này nhưng không một ai dám ngăn cản, và cứ thế hết năm này sang năm khác, người chết cứ chôn đè lên nhau cho đến lúc này thì chính tôi cũng không biết đã có bao nhiêu người được chôn cất tại đây. Gò đất này nằm phía sau nhà anh Út Trọn chừng 400 thước. Sau khi kể cho tôi nghe đến đây, tôi cũng nói cho anh Út Trọn biết về vụ gẫy cán đầm và bể mặt đầm vừa mới xẩy ra trong ngày hôm nay, nghe xong anh Út Trọn mới hỏi tôi:
- Bây giờ Trung Uý tính sao?
- Gần đây có ngôi chùa nào không anh Út?
- Dạ gần nhà mình chừng vài trăm thước về hướng biên giới, có một ngôi chùa của người Miên, tất cả sư, sãi đều là người Miên nhưng họ nói được tiếng Việt, mà Trung Uý tính chi vậy?
- Sáng mai, anh Út dẫn tôi lên chùa để gặp nhà sư trụ trì của ngôi chùa này nhé.
Thế là sáng ngày hôm sau, tôi và anh Út Trọn lên chùa và đươc vị sư trụ trì của ngôi chùa Việt Miên độc nhất của xã Vĩnh Ngươn tiếp chuyện. Sau khi thăm hỏi xã giao xong tôi mới vào thẳng vấn đề với nhà sư để xin được giúp đỡ, tôi trình bày tất cả những sự việc xẩy ra trước khi tôi đên đây, và những việc mới xẩy ra vào ngày hôm trước, đồng thời tôi xin nhà Chùa dọn cho tôi một bàn thờ để Rước Vong (những linh hồn người chết) về chùa Ăn mày Phật, sớm tối nghe tiếng kinh tiếng kệ để những linh hồn này được siêu thoát. Để trả ơn nhà chùa, tôi hứa sau khi xây xong đồn những vật liệu còn dư tôi sẽ cúng chùa, và cho lính Công Binh sửa chữa lại ngôi chùa cho khang trang hơn.
Chấp nhận lời yêu cầu của tôi, nhà Sư đã đồng ý ngày hôm sau sẽ cho làm lễ rước vong về chùa vào đúng giờ Ngọ, việc tổ chức lễ rước vong sẽ được nhà chùa lo liệu tất cả. Trở về đơn vị, đúng giờ ngọ của ngày hôm đó tôi đã ra gò đất một mình, đứng giữa gò đất tôi bắt đầu nói:
- Tôi là Trung Uý Ngô Duy Lâm, Trung Đội Trưởng Trung Đội 2, Đại Đội 3, Tiểu Đoàn 1 Công Binh Kiến Tạo, tôi đựoc lệnh xuống đây để xây cất một đồn lính để bảo vệ nhân dân địa phương chống lại sự quấy phá của người Miên. Vị trí xây đồn được chỉ định là gò đất này, nhưng tôi được biết nơi đây là nơi an nghỉ của những Linh Hồn già cũng như trẻ từ bao nhiêu năm qua, tôi rất tiếc là vì việc nước không thể không làm được, vậy tôi có mấy đề nghị với những linh hồn đang yên nghỉ tại đây như sau:
· Đúng giờ Ngọ ngày mai, chúng tôi sẽ làm lễ rước vong về chùa tại Xã Vĩnh Ngươn để các linh hồn, không phân biệt tôn giáo, được ăn mày Phật. Sớm tối nghe kinh kệ để được siêu thoát và đầu thai kiếp khác.
· Nếu Linh Hồn nào có những điều ước muốn nào khác với ý định của tôi trong việc đưa linh hồn về chùa, thì trong đêm nay hãy về báo mộng cho tôi biết, trong quyền hạn cùng như khả năng của tôi, tôi làm được điều gì tôi xin hứa sẽ làm theo ước muốn của người báo mộng.
· Nếu đến sáng ngày mai, tôi không được linh hồn nào báo mộng, tôi coi như các vong hồn đã chấp nhận lời yêu cầu của tôi, và nghi lễ về Phật giáo sẽ được xúc tiến vào giờ Ngọ, để “thỉnh các vong hồn” về chùa, “trả đất lại cho chính phủ” để tôi xây đồn bảo vệ đất nước. Tôi xin thành thật cám ơn các linh hồn trước.
· Sau buổi lễ ngày mai nếu mọi công tác xây cất không được xúc tiến như ấn định, tôi cũng xin lỗi quý vong hồn tôi sẽ xoá bài làm lại. Tôi sẽ sử dụng một khối lượng thuốc nổ để san thành bình địa khu vực này, và các linh hồn sẽ không còn nơi tá túc. Đó không phải là ước muốn của tôi, xin quý vong hồn thông cảm. Đây là việc nước chứ không phải là việc nhà, vậy xin quý vong hồn hãy chấp nhận lời yêu cầu của tôi để về chùa “ăn mày Phật”. Tôi xin đa tạ.
Sau khi tuyên bố với những người khuất mặt xong, trở về lại nơi đóng quân, tôi nhờ vợ của Trung Sĩ An và vợ Trung sĩ Tô Hồng Lạc hai anh đang là Tiểu Đội Trưởng của tôi, vì hai chị theo đạo Phật để sáng hôm sau mua nhang đèn, vàng mã, tiền giấy và hoa quả để rồi tôi cho lập bàn thờ tại nơi xây đồn vào ngày cúng vong. Tôi cũng yêu cầu anh Út Trọn cho tôi được ăn cơm chay ngày hôm đó, để chờ đến đêm xem có linh hồn nào báo mộng chăng. Tôi cũng đã thắp nhang cúng Phật và Đức Thổ Thần của gia đình anh Út Trọn xin cho phép các vong hồn được nhập cư để báo mộng cho tôi, sau đó tôi cho người liên lạc lên chùa, để xin tổ chức đưa vong về chùa vào ngày giờ đã được ấn định trước.
Mọi việc diễn biến đúng như tôi đã tính, tôi không được vong hồn nào báo mộng, nên Lễ Rước Vong được nhà Chùa tổ chức rất trọng thể vào ngày hôm sau, và được bà con nhân dân Xã Vĩnh Ngươn tham dự rất đông đảo. Nhà chùa đã tụng kinh cầu siêu cho các vong hồn trong suốt ba ngày đêm, với sự tham dự của một số gia đình có người thân được chôn trên gò đất làm đồn. Vàng mã và tiền giấy (tiền Âm Phủ) được chúng tôi đốt khi “tiễn vong ra khỏi nơi cư trú của họ”, việc làm này đã đem đến cho chúng tôi, những người lính Công Binh xây đồn, một sự thoải mái trong tinh thần, vì đã làm được một việc mà chúng tôi cứ nghĩ rằng khó mà làm nổi.
Trưa ngày hôm sau đúng giờ Ngọ, tôi dẫn quân và đem cơ giới công binh đến gò đất để chuẩn bị làm việc, trước khi tái khởi công công tác, tôi cũng thắp mấy nén nhang, và nói mấy lời cám ơn những người đã khuất rồi mới cho tiếp tục công tác đắp nền, đào móng, đóng cừ. Trong lúc làm, nếu thấy nhũng hài cốt nổi lên thì đều được đặt vào một thùng gỗ để rồi đem lên chùa hoả thiêu, công tác đã được Trung Đội của tôi tiến hành một cách nhanh chóng và đặc biệt là không có một trục trặc nhỏ nào xẩy ra. Gần bốn tháng sau thì việc xây cất hoàn tất, như đã hứa, tôi cho thuộc cấp đem hết vật liêu dư thừa lên tu bổ chùa trong một tuần lễ rồi mới từ giã nhà Chùa, từ giã người sống cũng như người chết, để di chuyển Trung Đội đến nhận công tác xây một đồn khác, tại Xã Bắc Đay Quân An Phú, bên bờ sông Châu Đốc trên đường sang Miên.
Vào năm 1981 khi còn đang ở tù tại Trại tù Vĩnh Quang, thuộc Tỉnh Vĩnh Phú, Tam Đảo thì con trai anh Út Trọn, cấp bậc Đại Uý cũng đang ở tù như tôi, đã tìm lại gặp tôi khi anh ta thấy tôi đang đi lang thang trong sân trại có gần một ngàn người. Ngày tôi ở Vĩnh Ngươn anh ta mới chỉ được chừng tám hay chín tuổi. Đó là năm 1957, hai mươi bốn năm sau, 1981 anh còn nhớ đến tôi, để rồi cho tôi biết tình hình ở Vĩnh Ngươn như sau: Đồn vẫn còn đó và bà con Vĩnh Ngươn lúc nào cũng nhớ đến người lính Công Binh đến xây đồn hồi năm nào, và hy vọng sẽ có một ngày tôi trở về thăm nơi tôi đã để lại bao nhiêu kỷ niệm cho người dân quê của Xã Vĩnh Ngươn.
Tôi tuy lúc đó còn độc thân nhưng cũng đứng ra cưới vợ cho chú lính của tôi tên là Cương, vợ Cương là cháu gọi Út Trọn bằng Cậu ruột, đến năm 1975 Cương giải ngũ và có mười người con và hai vợ chồng sống rất hạnh phúc tại Quân Châu Phú. Viết đến đây tôi còn thấy nao nao trong lòng, vì những kỷ niệm đầu tiên của đời lính và tôi tự hỏi: “biết đến bao giờ tôi mới trở lại quê tôi để về thăm Xã Vĩnh Ngươn”?
#4
Gửi vào 19/09/2011 - 06:04
THẾ GIỚI TÂM LINH
Phần Bốn
Sau khi chấm dứt công tác xây hai đồn, một tại xã Vĩnh Ngươn quận Châu Phú và một đồn tại xã Bắc Đay quận An Phú cũng thuộc tỉnh An Giang, tôi trở về Sàigòn rồi sau đó du học Hoa Kỳ vào năm 1959. Sau khi hoàn tất khóa học vào tháng chín năm 1959 tôi trở về Việt Nam và được trở về nhiệm sở cũ là Tiểu Đoàn một Công Binh Kiến Tạo tại Hóc Môn gần Sàigòn. Tôi đã làm việc tại đây cho đến đầu năm 1961 tôi mới rời Liên Đoàn một Công Binh Chiến Đấu tại Hóc Môn, vì được thuyên chuyển lên Kontum, thuộc Liên Đoàn bốn Công Binh Chiến Đấu, nơi đồn trú của Liên Đoàn là Kôn Trang Kla, còn gọi là Ngô Trang, cách Thị Trấn Kontum mười ba cây số về hướng Tân Cảnh.
Nhưng đến cuối năm 1961 Liên Đoàn bốn Công Binh Chiến Đấu, đã rời về đóng quân tại Quận Lệ Trung thuộc Tỉnh Pleiku trên Quốc Lộ số mười chín gần đèo Mang Yang. Sau ngày tôi được cử đi học Khoá một sĩ quan Tâm Lý Chiến tại Sàigòn. Sau khi tốt nghiệp khóa một Chiến Tranh Chính Trị, tôi trở về lại Liên Đoàn hai mươi Công Binh Chiến Đấu và được đề cử giữ chức vụ Trưởng phòng Tâm Lý chiến phòng năm của Liên Đoàn tại Suối Đôi thuộc Quân Lệ Trung, trên Quốc Lộ mười chín từ Pleiku đi về Quy Nhơn.
Tôi đã đưa vợ và đứa con trai đầu lòng về Suối Đôi sống bên nhau và rồi thì tại đây gia đình chúng tôi đã gặp một chuyện không vui đó là: Trò chơi giấu quần áo, giữa người sống và người chết tại Suối Đôi.
Suối Đôi là một căn trại của một Công Ty làm đường Hoa Kỳ còn được gọi là RMK. Khi họ rút đi sau khi đã hoàn thành đoạn đường Pleiku, Đèo Mang Yang, Thị Xã An Khê và Quy Nhơn. Liên Đoàn hai mươi Công Binh Chiến Đấu của Cố Đại Tá Nguyễn văn Bạch, ông còn được gọi là Bạch Râu vì ông để râu mép điều này rất đặc biệt đối với Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ, và ông Bạch mặc dù lên đến cấp bậc Thiếu Tá nhưng vẫn còn sống độc thân. Liên Đoàn được Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn hai, Vùng hai Chiến Thuật điều động về trấn đóng ở Suối Đôi, để tiện cho mọi hoạt động của Liên Đoàn, khi công tác phải bao trùm hết lãnh thổ của Vùng hai Chiến Thuật.
Sau khi trình diện ông Bạch xong, gia đình tôi được đưa về khu cư xá sĩ quan có gia đình, và chúng tôi đã cư ngụ trong một căn nhà với kích thước 4x4 mét, nhưng được làm thêm một mái phụ để làm bếp và nhà tắm. Tôi được ở căn nhà đầu tiên sát với phòng ăn của Liên Đoàn. Căn nhà kế tiếp là nhà của Thiếu Úy Lê Bá Thu, riêng anh chị Nguyễn Thu Hồ Virginia, và anh chị Lê Thanh Tùng San José, thì ở hai căn nhà không phải là nhà sàn như Thu và tôi và rộng rãi hơn nhiều. Mới có đứa con đầu lòng lại còn quá trẻ, nên trước khi đem con lên Pleiku để ở với tôi, nhà tôi cũng đã may năm bộ đồ lụa với năm màu sắc khác nhau để thay đổi hàng ngày. Một hôm sau bữa cơm chiều, mẹ con tắm xong, thì nhà tôi thay bộ đồ để chờ sáng ngày hôm sau sẽ giặt luôn với đồ của tôi.
Nhưng đến sáng hôm sau thì bộ quần áo lụa của vợ tôi đã “không có cánh” mà bay mất tiêu rồi. Chái nhà làm bếp và phòng tắm cùng hầm trú ẩn, có khoét một lỗ trên vách tôn của chái nhà, để cho xe nước của Đại Đội chỉ huy và công vụ thuộc Liên Đoàn hàng ngày tiếp tế nước cho mọi gia đình. Cái lỗ tiếp nước chỉ có đường kính chừng mười phân vậy thì ai đã lấy mất bộ đồ ngủ của nhà tôi? cũng cần nói thêm ở đây là gia đình vợ tôi theo đạo Công Giáo, còn tôi thì theo Đạo vợ. Thế rồi tôi cũng chẳng quan tâm đến việc mất bộ đồ này, nhưng đến ngày hôm sau bộ đồ thứ hai cũng lại bị lấy mất đi như bộ đồ ngày hôm trước, tức quá tôi lục khắp nhà để coi xem nhà tôi có để lẫn vào đâu hay không, sau một hồi tìm kiếm nhưng không thấy nên tôi đành an ủi nhà tôi:
- Chắc có ai lấy chứ nhà này đâu có ma mà có thể giấu đồ, thôi để đấy rồi mai sẽ tính sau.
Sang đến ngày thứ ba, vợ tôi sau khi thay xong bộ đồ thì không đem xuống để ở dưới phòng tắm như hai lần trước, mà lại giấu trong giường ngủ của con trai chúng tôi, rồi buông màn cho cháu ngủ, sau đó vợ chồng tôi đã sang nhà mấy người bạn chơi cho đến khi trời chạng vạng tối mới trở về. Khi vén màn coi thấy con chưa thức giấc, nhưng khi nhìn đến bộ đồ giấu ở dưới chân thằng bé, thì nó cũng lại không cánh mà bay mất tiêu rồi, trong lúc cậu cả của tôi vẫn còn ngủ một cách say sưa. Khi hay được tin vợ tôi mất thêm bộ đồ thứ ba, ông Liên Đoàn Trưởng của tôi đã nổi cơn lôi đình thật sự, vì ông nghĩ là một người nào đó của gia đình binh sĩ trong trại gia binh đã lấy cắp mấy bộ đồ của nhà tôi.
Thiếu Tá Bạch đã chỉ thị Trung Uý Trần văn Đoàn, Đại Đội Trưởng Đại Đội Chỉ Huy và Công Vụ của Liên Đoàn cùng với sĩ quan An Ninh và các sĩ quan tham mưu của Liên Đoàn, xuống tổng kiểm soát tư trang của các gia đình Hạ sĩ quan và binh sĩ đang cư ngụ trong trại gia binh của Liên Đoàn, để tìm lại những bộ đồ đã mất. Các anh Trần Xuân Dục San José. Cố Trung Tá Trần Quốc Quy, anh Trung Uý Chánh, Thiếu Uý Triết, Thiếu Uý Hạnh đều có tham gia vào việc kiểm kê tư trang của các gia đình Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ thuộc Đại Đội Chỉ Huy và Công Vụ của Liên Đoàn. Sau gần một ngày làm việc nhưng không có kết quả, mọi người đành ra về để tường trình lên ông Liên Đoàn Trưởng, với nhiều nghi vấn không thể nào hiểu nổi trong việc mất mấy bộ đồ.
"Viết tới đây tôi xin thưa với quý anh chị em trong trại Gia Binh, thuộc Đại Đội Chỉ Huy và Công Vụ, Liên Đoàn hai mươi CBCĐ đồn trú tại Suối Đôi năm 1962, là những người bị quấy nhiễu trong lúc tìm lại những bộ đồ đã mất, xin quý anh chị thông cảm và thứ lỗi cho tôi vì cuộc lục soát này ngoài ý muốn của tất cả mọi người".
Sau khi không tìm thấy gì, lúc bấy giờ tôi mới được nghe một tin động trời về căn nhà vợ chồng tôi đang ở. Căn nhà này đã được sử dụng làm Bệnh Xá của Liên Đoàn, trong lúc mới di chuyển từ Ngô Trang cách Thị Xã Kontum 13 cây số về hướng bắc, hướng Tân Cảnh, để về Suối Đôi khi tôi đang theo học Khoá Tâm lý Chiến tại Sàigòn. Bệnh xá đã đón nhận một chú lính bị chết vì bệnh từ công trường, chở về để chờ mai táng tại Suối Đôi. Trong lúc tiễn đưa áo quan ra khỏi Bệnh Xá, mọi người đã quên không làm thủ tục đưa linh hồn theo xác chết ra nghĩa địa, nên linh hồn người chết vẫn còn quanh quất trong nhà và gia đình của tôi đã chiếm ngụ căn nhà này mà không có lời yêu cầu đối với người chết. Khi biết được đến đây thì đúng giờ Ngọ của ngày hôm đó, tôi đã nói với Vong Hồn người quá cố:
- Anh là Trung Uý, còn chú mày là lính của Liên Đoàn, đùa như vậy là đủ rồi, xin chú mày trả lại quần áo cho chị nhé.
Đến buổi chiều, bộ quần áo thứ tư được thay xong để chờ giặt, thì sáng ngày hôm sau nó cũng lại biến mất nhưng hai bộ đồ đã mất, bộ thứ nhất và thứ nhì được trả lại trên dây phơi đồ ở trong nhà tắm. Nhà tôi cầm lấy hai bộ đồ chưa giặt rồi nói:
- “Nó” trả lại hai bộ đồ đầu tiên, nhưng còn giữ lại hai bộ kế tiếp em sợ quá.
- Thì đem giặt sạch rồi mặc không có sao đâu, đừng có sợ.
Nhà tôi đem giặt sạch rồi buổi chiều hôm đó lại thay bộ đồ khác, và để trong đống đồ dơ chờ giặt thì ngày hôm sau, bộ đồ số năm cũng lại biến luôn, nhưng được trả lại bộ đồ số ba. Rồi cứ như thế lúc nào “nó” cũng giữ lại hai bộ đồ dơ không biết để làm gì? Ông Bố vợ của tôi là Sĩ quan Pháo Binh của Quân Đoàn hai, khi biết được tin này đã hối thúc bà mẹ vợ tôi vào Suối Đôi, để đón vợ con tôi rồi đưa về Sàigòn, vì theo bố mẹ vợ tôi nói:
- Người sống không thể ở chung với người chết được.
Nhà tôi ẵm con về Sàigòn được mấy hôm thì Thiếu Tá Nguyễn văn Bạch, còn được chúng tôi gọi là Anh Cả, về Sàigòn công tác, ở Liên Đoàn lúc này chỉ còn ông Liên Đoàn Phó là Đại Uý Nguyễn Như Quảng, còn được gọi là Anh Trưởng. Đúng lúc tôi đang đánh xi đôi giầy trận thì Anh Trưởng, Đại Uý Nguyễn Như Quảng, xuất hiện tại chân cầu thang của nhà tôi anh nói:
- Thằng Năm cậu ở nhà thủ trại anh đi xuống An Khê thăm Lê Viết Tri...
Thường khi Anh Cả và Anh Trưởng đi vắng lẽ ra anh Quy, sĩ quan thâm niên nhất của Liên Đoàn phải giữ chức vụ Xử Lý Thường Vụ Chức vụ Liên Đoàn Trưởng, nhưng anh Quy không bao giờ nhận nhiệm vụ này, do đó chuyển đến tôi vì theo các anh thì tôi nhanh nhẹn và tháo vát đến nỗi anh Dục thường nói:
- Anh Năm lẹ còn hơn tép.
Khi Anh Quảng đến nhà tôi, tôi quăng bàn chải và hôp xi đánh giầy trên sàn nhà, để đứng dậy nói chuyện với Anh Quảng, lúc quay vào tôi thấy chỉ còn đôi giầy mà thôi còn hộp xi và cái bàn chải đã biến mất tiêu đâu rồi.
Tôi hét toáng lên. Nghe thế anh Quảng quay lại hỏi:
- Cái gì mà thằng Năm la um sùm vậy?
- Dạ anh coi, mới đánh đôi giầy chưa xong thì anh đến. Ra nói chuyện với anh xong quay vào thì hộp xi và cái bàn chải giầy đã bị nó giấu mất rồi thế này thì còn gì là thể thống của Quân Đội nữa?
- Ôi trời! cậu kiếm lại coi.
Và sau một hồi lục lạo đồ của tôi và của anh Quảng, chúng tôi cũng không thể nào kiếm ra hộp xi và bàn chải giầy được. Sau khi đi ăn cơm trưa ở trên Câu Lạc Bộ sĩ quan xong, tôi trở về nhà thì nó đã nằm lù lù giữa nhà. Hai bộ đồ bị giấu trước ngày vợ tôi về Sàigòn, đã không được trả lại cho vợ tôi, tất cả mọi người đều không hiểu tại sao, và cho đến lúc ngồi viết những trang hồi ký này thì cũng đã bốn mươi hai năm qua đi. Tôi viết ra đây câu truyện này để quý bạn đọc thấy được rằng: người chết nhưng linh hồn không chết và vẫn còn có thể theo ta để chọc phá.
Phần Bốn
Sau khi chấm dứt công tác xây hai đồn, một tại xã Vĩnh Ngươn quận Châu Phú và một đồn tại xã Bắc Đay quận An Phú cũng thuộc tỉnh An Giang, tôi trở về Sàigòn rồi sau đó du học Hoa Kỳ vào năm 1959. Sau khi hoàn tất khóa học vào tháng chín năm 1959 tôi trở về Việt Nam và được trở về nhiệm sở cũ là Tiểu Đoàn một Công Binh Kiến Tạo tại Hóc Môn gần Sàigòn. Tôi đã làm việc tại đây cho đến đầu năm 1961 tôi mới rời Liên Đoàn một Công Binh Chiến Đấu tại Hóc Môn, vì được thuyên chuyển lên Kontum, thuộc Liên Đoàn bốn Công Binh Chiến Đấu, nơi đồn trú của Liên Đoàn là Kôn Trang Kla, còn gọi là Ngô Trang, cách Thị Trấn Kontum mười ba cây số về hướng Tân Cảnh.
Nhưng đến cuối năm 1961 Liên Đoàn bốn Công Binh Chiến Đấu, đã rời về đóng quân tại Quận Lệ Trung thuộc Tỉnh Pleiku trên Quốc Lộ số mười chín gần đèo Mang Yang. Sau ngày tôi được cử đi học Khoá một sĩ quan Tâm Lý Chiến tại Sàigòn. Sau khi tốt nghiệp khóa một Chiến Tranh Chính Trị, tôi trở về lại Liên Đoàn hai mươi Công Binh Chiến Đấu và được đề cử giữ chức vụ Trưởng phòng Tâm Lý chiến phòng năm của Liên Đoàn tại Suối Đôi thuộc Quân Lệ Trung, trên Quốc Lộ mười chín từ Pleiku đi về Quy Nhơn.
Tôi đã đưa vợ và đứa con trai đầu lòng về Suối Đôi sống bên nhau và rồi thì tại đây gia đình chúng tôi đã gặp một chuyện không vui đó là: Trò chơi giấu quần áo, giữa người sống và người chết tại Suối Đôi.
Suối Đôi là một căn trại của một Công Ty làm đường Hoa Kỳ còn được gọi là RMK. Khi họ rút đi sau khi đã hoàn thành đoạn đường Pleiku, Đèo Mang Yang, Thị Xã An Khê và Quy Nhơn. Liên Đoàn hai mươi Công Binh Chiến Đấu của Cố Đại Tá Nguyễn văn Bạch, ông còn được gọi là Bạch Râu vì ông để râu mép điều này rất đặc biệt đối với Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ, và ông Bạch mặc dù lên đến cấp bậc Thiếu Tá nhưng vẫn còn sống độc thân. Liên Đoàn được Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn hai, Vùng hai Chiến Thuật điều động về trấn đóng ở Suối Đôi, để tiện cho mọi hoạt động của Liên Đoàn, khi công tác phải bao trùm hết lãnh thổ của Vùng hai Chiến Thuật.
Sau khi trình diện ông Bạch xong, gia đình tôi được đưa về khu cư xá sĩ quan có gia đình, và chúng tôi đã cư ngụ trong một căn nhà với kích thước 4x4 mét, nhưng được làm thêm một mái phụ để làm bếp và nhà tắm. Tôi được ở căn nhà đầu tiên sát với phòng ăn của Liên Đoàn. Căn nhà kế tiếp là nhà của Thiếu Úy Lê Bá Thu, riêng anh chị Nguyễn Thu Hồ Virginia, và anh chị Lê Thanh Tùng San José, thì ở hai căn nhà không phải là nhà sàn như Thu và tôi và rộng rãi hơn nhiều. Mới có đứa con đầu lòng lại còn quá trẻ, nên trước khi đem con lên Pleiku để ở với tôi, nhà tôi cũng đã may năm bộ đồ lụa với năm màu sắc khác nhau để thay đổi hàng ngày. Một hôm sau bữa cơm chiều, mẹ con tắm xong, thì nhà tôi thay bộ đồ để chờ sáng ngày hôm sau sẽ giặt luôn với đồ của tôi.
Nhưng đến sáng hôm sau thì bộ quần áo lụa của vợ tôi đã “không có cánh” mà bay mất tiêu rồi. Chái nhà làm bếp và phòng tắm cùng hầm trú ẩn, có khoét một lỗ trên vách tôn của chái nhà, để cho xe nước của Đại Đội chỉ huy và công vụ thuộc Liên Đoàn hàng ngày tiếp tế nước cho mọi gia đình. Cái lỗ tiếp nước chỉ có đường kính chừng mười phân vậy thì ai đã lấy mất bộ đồ ngủ của nhà tôi? cũng cần nói thêm ở đây là gia đình vợ tôi theo đạo Công Giáo, còn tôi thì theo Đạo vợ. Thế rồi tôi cũng chẳng quan tâm đến việc mất bộ đồ này, nhưng đến ngày hôm sau bộ đồ thứ hai cũng lại bị lấy mất đi như bộ đồ ngày hôm trước, tức quá tôi lục khắp nhà để coi xem nhà tôi có để lẫn vào đâu hay không, sau một hồi tìm kiếm nhưng không thấy nên tôi đành an ủi nhà tôi:
- Chắc có ai lấy chứ nhà này đâu có ma mà có thể giấu đồ, thôi để đấy rồi mai sẽ tính sau.
Sang đến ngày thứ ba, vợ tôi sau khi thay xong bộ đồ thì không đem xuống để ở dưới phòng tắm như hai lần trước, mà lại giấu trong giường ngủ của con trai chúng tôi, rồi buông màn cho cháu ngủ, sau đó vợ chồng tôi đã sang nhà mấy người bạn chơi cho đến khi trời chạng vạng tối mới trở về. Khi vén màn coi thấy con chưa thức giấc, nhưng khi nhìn đến bộ đồ giấu ở dưới chân thằng bé, thì nó cũng lại không cánh mà bay mất tiêu rồi, trong lúc cậu cả của tôi vẫn còn ngủ một cách say sưa. Khi hay được tin vợ tôi mất thêm bộ đồ thứ ba, ông Liên Đoàn Trưởng của tôi đã nổi cơn lôi đình thật sự, vì ông nghĩ là một người nào đó của gia đình binh sĩ trong trại gia binh đã lấy cắp mấy bộ đồ của nhà tôi.
Thiếu Tá Bạch đã chỉ thị Trung Uý Trần văn Đoàn, Đại Đội Trưởng Đại Đội Chỉ Huy và Công Vụ của Liên Đoàn cùng với sĩ quan An Ninh và các sĩ quan tham mưu của Liên Đoàn, xuống tổng kiểm soát tư trang của các gia đình Hạ sĩ quan và binh sĩ đang cư ngụ trong trại gia binh của Liên Đoàn, để tìm lại những bộ đồ đã mất. Các anh Trần Xuân Dục San José. Cố Trung Tá Trần Quốc Quy, anh Trung Uý Chánh, Thiếu Uý Triết, Thiếu Uý Hạnh đều có tham gia vào việc kiểm kê tư trang của các gia đình Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ thuộc Đại Đội Chỉ Huy và Công Vụ của Liên Đoàn. Sau gần một ngày làm việc nhưng không có kết quả, mọi người đành ra về để tường trình lên ông Liên Đoàn Trưởng, với nhiều nghi vấn không thể nào hiểu nổi trong việc mất mấy bộ đồ.
"Viết tới đây tôi xin thưa với quý anh chị em trong trại Gia Binh, thuộc Đại Đội Chỉ Huy và Công Vụ, Liên Đoàn hai mươi CBCĐ đồn trú tại Suối Đôi năm 1962, là những người bị quấy nhiễu trong lúc tìm lại những bộ đồ đã mất, xin quý anh chị thông cảm và thứ lỗi cho tôi vì cuộc lục soát này ngoài ý muốn của tất cả mọi người".
Sau khi không tìm thấy gì, lúc bấy giờ tôi mới được nghe một tin động trời về căn nhà vợ chồng tôi đang ở. Căn nhà này đã được sử dụng làm Bệnh Xá của Liên Đoàn, trong lúc mới di chuyển từ Ngô Trang cách Thị Xã Kontum 13 cây số về hướng bắc, hướng Tân Cảnh, để về Suối Đôi khi tôi đang theo học Khoá Tâm lý Chiến tại Sàigòn. Bệnh xá đã đón nhận một chú lính bị chết vì bệnh từ công trường, chở về để chờ mai táng tại Suối Đôi. Trong lúc tiễn đưa áo quan ra khỏi Bệnh Xá, mọi người đã quên không làm thủ tục đưa linh hồn theo xác chết ra nghĩa địa, nên linh hồn người chết vẫn còn quanh quất trong nhà và gia đình của tôi đã chiếm ngụ căn nhà này mà không có lời yêu cầu đối với người chết. Khi biết được đến đây thì đúng giờ Ngọ của ngày hôm đó, tôi đã nói với Vong Hồn người quá cố:
- Anh là Trung Uý, còn chú mày là lính của Liên Đoàn, đùa như vậy là đủ rồi, xin chú mày trả lại quần áo cho chị nhé.
Đến buổi chiều, bộ quần áo thứ tư được thay xong để chờ giặt, thì sáng ngày hôm sau nó cũng lại biến mất nhưng hai bộ đồ đã mất, bộ thứ nhất và thứ nhì được trả lại trên dây phơi đồ ở trong nhà tắm. Nhà tôi cầm lấy hai bộ đồ chưa giặt rồi nói:
- “Nó” trả lại hai bộ đồ đầu tiên, nhưng còn giữ lại hai bộ kế tiếp em sợ quá.
- Thì đem giặt sạch rồi mặc không có sao đâu, đừng có sợ.
Nhà tôi đem giặt sạch rồi buổi chiều hôm đó lại thay bộ đồ khác, và để trong đống đồ dơ chờ giặt thì ngày hôm sau, bộ đồ số năm cũng lại biến luôn, nhưng được trả lại bộ đồ số ba. Rồi cứ như thế lúc nào “nó” cũng giữ lại hai bộ đồ dơ không biết để làm gì? Ông Bố vợ của tôi là Sĩ quan Pháo Binh của Quân Đoàn hai, khi biết được tin này đã hối thúc bà mẹ vợ tôi vào Suối Đôi, để đón vợ con tôi rồi đưa về Sàigòn, vì theo bố mẹ vợ tôi nói:
- Người sống không thể ở chung với người chết được.
Nhà tôi ẵm con về Sàigòn được mấy hôm thì Thiếu Tá Nguyễn văn Bạch, còn được chúng tôi gọi là Anh Cả, về Sàigòn công tác, ở Liên Đoàn lúc này chỉ còn ông Liên Đoàn Phó là Đại Uý Nguyễn Như Quảng, còn được gọi là Anh Trưởng. Đúng lúc tôi đang đánh xi đôi giầy trận thì Anh Trưởng, Đại Uý Nguyễn Như Quảng, xuất hiện tại chân cầu thang của nhà tôi anh nói:
- Thằng Năm cậu ở nhà thủ trại anh đi xuống An Khê thăm Lê Viết Tri...
Thường khi Anh Cả và Anh Trưởng đi vắng lẽ ra anh Quy, sĩ quan thâm niên nhất của Liên Đoàn phải giữ chức vụ Xử Lý Thường Vụ Chức vụ Liên Đoàn Trưởng, nhưng anh Quy không bao giờ nhận nhiệm vụ này, do đó chuyển đến tôi vì theo các anh thì tôi nhanh nhẹn và tháo vát đến nỗi anh Dục thường nói:
- Anh Năm lẹ còn hơn tép.
Khi Anh Quảng đến nhà tôi, tôi quăng bàn chải và hôp xi đánh giầy trên sàn nhà, để đứng dậy nói chuyện với Anh Quảng, lúc quay vào tôi thấy chỉ còn đôi giầy mà thôi còn hộp xi và cái bàn chải đã biến mất tiêu đâu rồi.
Tôi hét toáng lên. Nghe thế anh Quảng quay lại hỏi:
- Cái gì mà thằng Năm la um sùm vậy?
- Dạ anh coi, mới đánh đôi giầy chưa xong thì anh đến. Ra nói chuyện với anh xong quay vào thì hộp xi và cái bàn chải giầy đã bị nó giấu mất rồi thế này thì còn gì là thể thống của Quân Đội nữa?
- Ôi trời! cậu kiếm lại coi.
Và sau một hồi lục lạo đồ của tôi và của anh Quảng, chúng tôi cũng không thể nào kiếm ra hộp xi và bàn chải giầy được. Sau khi đi ăn cơm trưa ở trên Câu Lạc Bộ sĩ quan xong, tôi trở về nhà thì nó đã nằm lù lù giữa nhà. Hai bộ đồ bị giấu trước ngày vợ tôi về Sàigòn, đã không được trả lại cho vợ tôi, tất cả mọi người đều không hiểu tại sao, và cho đến lúc ngồi viết những trang hồi ký này thì cũng đã bốn mươi hai năm qua đi. Tôi viết ra đây câu truyện này để quý bạn đọc thấy được rằng: người chết nhưng linh hồn không chết và vẫn còn có thể theo ta để chọc phá.
#5
Gửi vào 19/09/2011 - 06:41
THẾ GIỚI TÂM LINH
Phần Năm
QUY HỒI CỐ THỔ
Tôi có ông anh ruột tên là Ngô Hán Đồng, anh tôi sinh năm Canh Ngọ tháng 12 năm 1930 tại Hà Nội. Giữa anh tôi và tôi lúc nào cũng như có một khoảng cách không gian làm chia rẽ tình anh em ruột thịt của chúng tôi, đó cũng là lý do anh tôi và tôi cứ vài năm mới được gặp nhau một lần. Lúc tôi còn nhỏ, khi mà khối óc non nớt của tôi bắt đầu ghi nhận vào bộ nhớ những sự việc xẩy ra trong cuộc sống hàng ngày, tôi chỉ được gặp anh tôi có vài lần cho đến khi tôi vào đời vào năm 1954 vì anh tôi không sống với Bố Mẹ chúng tôi ở Hà Nội mà xuống Nam Định, quê Ngoại, để cùng học chung với mấy anh là con của ông anh ruột mẹ tôi.
Thường thì những lúc gặp nhau đều xẩy ra vào những dịp gia đình của Bố mẹ và anh chị em chúng tôi có những sự kiện cần ghi nhớ như những lúc gia đình có dịp cưới, gả... anh tôi mới trở lên Hà Nội ít ngày rồi lại về Nam Định. Còn trong chiến tranh giữa Pháp với Việt Minh, anh tôi cũng không về với bố mẹ mà chạy loạn theo gia đình của người chị họ, anh chị Trần Doãn Thường, cho đến khi an toàn mới "dinh tê" về thành phố vào năm 1948. Sau đó một thời gian, Anh Trần Doãn Thường (Đại Tá, Pasadena, USA) đã cùng với anh tôi nhập học Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, Khóa hai, năm 1952 rồi ra trường với cấp bậc Thiếu Úy ngành Pháo Binh.
Khi ra đến Hà Nội, anh tôi được thuyên chuyển về Tiểu Đoàn ba Pháo Binh đóng tại Hưng Yên. Khi Hiệp định Geneva ra đời, Tiểu Đòan ba Pháo Binh phải di chuyển vào Nam trên chuyến tầu Abberville trong lúc đó tôi đang học Khóa năm, khóa Vì Dân, tại Liên Trường Võ Khoa Trừ Bị Thủ Đức cho nên anh em chúng tôi cũng không hề gặp nhau ở trong Nam cho đến năm 1958 và 1959 mới gặp lại khi anh tôi và anh chị Trần Doãn Thường đứng ra cưới vợ cho tôi vào mấy năm này. Những năm tiếp theo thỉnh thoảng tôi có gặp anh tôi là vào khoảng thời gian anh tôi giữ chức vụ Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Truởng Tỉnh Phú Bổn (Cheo Reo) và Tỉnh Ninh Thuận (Phan Rang) vào mấy năm 1967, 1968, 1969.... còn tôi lúc đó trong chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 202 Công Binh Chiến Đấu tại Pleiku.
Lần chót tôi gặp anh là vào giữa năm 1971 tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn khi anh em chúng tôi cùng du học ở Hoa Kỳ, anh tôi học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp tại Fort Leavenworth, Kansas USA, còn tôi học khóa Công Binh Cao Cấp tại Engineer School, Fort Belvoir Virginia USA. Sau khi thăm viếng Thủ Đô Hoa kỳ, anh tôi về Việt Nam và được thuyên chuyển ra Đà Nẵng giữ chức vụ Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Đoàn một Vùng một Chiến Thuật khoảng tháng chín hay tháng mười năm 1971, Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm là Tư Lệnh Quân Đoàn lúc bấy giờ.
Đến đầu năm 1972 Chuẩn Tướng Phan Đình Soạn, cựu Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh cũa Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được thuyên chuyển ra Quân Đoàn một Vùng một Chiến Thuật để giữ chức vụ Tư Lệnh Phó Quân Đoàn cho Tướng Lãm. Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Quân Đoàn một do anh tôi chỉ huy đóng ở Phước Tường, Trại Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trên Quốc Lộ số một từ Đà Nẵng đi về hướng Sàigòn. Ngày 25-2-1972, tôi đang làm việc ở Trường Công Binh Bình Dương, tôi nhận được một cú điện thoại của Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, báo cho tôi biết anh tôi đã tử nạn cùng với Tướng Soạn khi hai ông ra thăm viếng Khu Trục Hạm (Destroyer) thuộc Đệ Thất Hạm Đội đang hoạt động ngoài khơi cửa biển Đà Nẵng. Vợ chồng tôi vội ôm mấy đứa con về Sàigòn giao chúng cho ông Bà Ngoại các cháu rồi chúng tôi bay ra Đà Nẵng vào ngày hôm sau. Tôi được Ông Đại Tá Phan Văn Điển, Chỉ Huy Trưởng Trường Công Binh Bình Dương cấp cho bảy ngày phép để lo liệu cho anh tôi.
Hồi đó Air Việt Nam có hai loại máy bay đi Đà Nẵng: mấy bay cánh quạt DC6 (Douglas Constellation) và phản lực Boeing 727. Máy bay DC6 không còn chỗ cho ngày hôm sau nhưng Boeing 727 thì còn nhưng giá vé quá cao tuy nhiên vợ chồng tôi không thể trì hoãn được cho nên chúng tôi đã ra đến Đà nẵng vào sáng ngày 26-2-1972 và được Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Quân Đoàn, Thiếu Tá Lê Văn Sanh, Houston Texas USA, cho xe ra đón và đưa về trại Sĩ Quan Pháo Binh để gặp Chị dâu tôi, hiện định cư tại Na Uy, đồng thời thu xếp mọi việc. Sau đó tôi sang bên văn phòng của Bộ Chỉ Huy Pháo Binh và được biết mọi tin tức liên quan đến cái chết của Anh tôi vào ngày hôm trước. Ngược thời gian, khi anh tôi làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Phú Bổn (Cheo Reo), năm đó là năm 1967, sau khi anh tôi chấm dứt nhiệm vụ Tiểu Khu phó Tiểu Khu Bình Định, anh tôi có quen biết với một Đại Đức đang trụ trì tại một ngôi Chùa thuộc Tỉnh Giáo Hội Phật Giáo Phú Bổn.
Không biết do ai giới thiệu, anh tôi được nhà Chùa lấy cho một lá số Tử Vi, trong đó có một câu chú thích có lẽ cũng làm cho anh tôi không được vui lắm, tuy nhiên nó là chuyện tương lai nên chị dâu tôi có nói là anh tôi không quan tâm đến và cũng có thể là đã quên lá số Tử Vi này. Sau Tết Mậu Thân, qua năm Kỷ Dậu 1969, anh chị tôi có thêm một cậu con trai Út khi về làm Tỉnh Trưởng Phan Rang, cháu hiện định cư tại Nauy cùng với mẹ và mấy anh chị em của cháu, tôi lại cũng không được biết do ai giới thiệu mà anh chị tôi lấy một lá số hay coi bói cho cháu với lời giải đoán khi cháu ra đời thì sẽ "có nhiều bất lợi" cho anh tôi vì sự xung khắc giữa Canh Ngọ và Kỷ Dậu. Chị tôi cũng không nhớ ông Thầy Bói hay ông Thầy Tướng số đã chấm lá số Tử Vi cho người con trai út của anh tôi là ai nữa.
Anh chị tôi đổi ra Đà Nẵng được chừng vài tháng thì đến Tết năm Nhâm Tý, 1972; có lẽ cũng tin vào Tướng Số Tử Vi hay sao cho nên anh tôi đã nhờ một ông Thầy ở Đà Nẵng coi dùm xem trong mấy ngày Tết, ngày nào thì tốt cho việc chào cờ đầu năm của Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Quân Đoàn vì Anh tôi tuổi Canh Ngọ mà nhằm năm Nhâm Tý (Tý Ngọ Mẹo Dậu: tứ hành xung) e rằng sẽ có nhiều điều không tốt cho anh tôi. Ông Thầy sau khi bấm quẻ đã cho giờ chào cờ đầu năm là giờ Tuất (tám đến mười giờ sáng, giờ Việt Nam lúc đó tăng một giờ cho phù hợp với múi giờ của Hoa kỳ chênh nhau mười hai tiếng); ngày thượng kỳ là ngày mồng ba Tết.
Đúng ngày giờ ấn định, mặc dầu còn nghỉ ăn Tết, quân nhân các cấp thuộc Bộ Chỉ Huy Pháo Binh tại Phước Tường đều tề tựu để làm lễ "Chào Cờ Đầu Năm" dưới quyền của Anh tôi, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Đoàn. Khi lá Đại Kỳ kéo lên đến lưng chừng của cây cột cờ cao hơn mười hai thước, lúc đó là chín giờ sáng ngày mồng ba Tết, một ngọn gió, đúng ra là một cơn gió lốc nhỏ đã cuốn tung lá cờ, bụi đất mịt mù, khi ngọn gió qua đi trong mấy giây đồng hồ, lá Đại Kỳ đã không còn được đưa lên hay hạ xuống theo nhịp kéo dây của hai anh Hạ Sĩ Quan hầu cờ. Sau mấy lần vật lộn với việc kéo dây cờ, lá cờ của Đơn Vị nhất định không lên cũng không xuống mà trở thành "cờ tang" (Half mast) trong Đơn Vị vì dây cờ đã mắc kẹt vào ròng rọc ở trên ngọn cột cờ khi trời nổi gió.
Các sĩ quan dưới quyền anh tôi đã chịu trận, chết trân nhìn anh tôi trong lúc anh đang mồ hôi vã ra như tắm vì điềm dữ quá. Đơn Vị phải đưa xe cứu nạn (Wrecker) đến để hạ cây cột cờ, sửa lại dây cờ rồi buổi lễ mới hoàn tất. Mọi người trong Đơn Vị tuy có bàn tán xôn xao nhưng không ai dám nghĩ đến một tai nạn thảm khốc sắp xẩy đến cho đại gia đình Pháo Binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Khoảng ngày mồng tám Tết, văn phòng Tư Lệnh Phó Quân Đoàn, Tướng Soạn nhận được thư của Hạm Trưởng Khu Trục Hạm thuộc Đệ Thất Hạm Đội mời ra thăm viếng Chiến Hạm Destroyer đồng thời quan sát Hải Pháo yểm trợ chiến trường đang diễn ra ở một vài nơi trên dãy núi Trường Sơn.
Đây là một lời mời có tính cách xã giao vì Trướng Soạn là Cựu Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh của Quân Đội Việt Nam đồng thời Hạm Trưởng Khu Trục Hạm Hoa Kỳ cũng muốn tiếp đón một Tướng Lãnh Pháo Binh của Việt Nam trong lúc chiến hạm đang hoạt động ở ngoài khơi Đà Nẵng. Chuẩn Tướng Phan Đình Soạn và anh tôi, hai người rất thân với nhau vì cùng là dân pháo thủ cho nên ông Soạn đã rủ anh tôi đi theo, một phần cho có bạn còn phần kia là vì anh tôi đang là Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Đoàn, người có hỗn danh là Phù Thủy Pháo Binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vì tài chính xác khi yểm trợ chiến trường. Khi nhận được giấy mời Trung Tướng Tư Lệnh Hoàng Xuân Lãm đã đồng ý cho hai ông đi thăm chiến hạm của Đệ Thất Hạm Đội và để có trực thăng đưa Tướng Soạn và anh tôi ra chiến hạm, Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm đã cho ông Soạn xử dụng trực thăng của Tư Lệnh mà bay ra khơi.
Phi công trực thăng của Tướng Lãm là một ông Đại Tá thuộc Lục Quân Hoa Kỳ, ông Đại Tá này sắp chấm dứt nhiệm kỳ thứ hai của ông trong vài tuần lễ tới, sẽ lái tàu đưa phái đoàn của ông Soạn ra thăm chiến hạm. Vì là Phi công trực thăng của Lục Quân, không quen cất cánh và hạ cánh trên sàn tàu trong khi tàu vẫn di chuyển cho nên Hạm Trưởng Khu trục hạm đã cử một sĩ quan Hải quân của chiến hạm tập dượt cho ông Đại Tá Lục quân cách lên xuống sàn tàu mấy lần trước ngày thăm viếng của Tướng Soạn. Thế rồi ngày 25-2-1972, là ngày 11 Tháng Giêng năm Nhâm Tý, lúc chín giờ sáng, phái đoàn của Chuẩn Tướng Phan Đình Soạn gồm có: Phía Hoa Kỳ: Ngoài hai phi công chính và phụ cũng như hai xạ thủ đại liên ở hai bên thân tàu, còn có: một sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ và một cố vấn, tôi không nhớ là cố vấn của anh tôi hay của ông Soạn như vậy phía Hoa Kỳ gồm có sáu người.
Bên Việt Nam: Tướng Soạn, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn một V1CT; tùy viên của Tướng Soạn là Trung Úy Phương; Anh tôi, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Đoàn và Thiếu Tá Lê văn Sanh. Tuy nhiên khi ra đến trực thăng, Thiếu Tá Lê văn Sanh đã phải ở lại vì không còn chỗ trên tàu cho nên Thiếu Tá Lê Văn Sanh đã thoát chết trong tai nạn này. Hiện nay Thiếu Tá Lê Văn Sanh đang sinh sống ở Houston Texas, USA. Sau khi trực thăng rời Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, mấy phút sau phái đoàn của Tướng Soạn đã đáp an toàn trên sàn chiến hạm, sau đó trực thăng quay vào đất liền trong lúc Tướng Soạn và anh tôi được hướng dẩn thăm tàu cũng như tham dự cuộc Hải Pháo yểm trợ cho mấy Đơn Vị của Việt Nam đang hành quân trong dãy Trường Sơn. Sau bữa ăn trưa, trực thăng cũa Tướng Lãm mới được gọi ra tàu để đưa phái đoàn vào lại đất liền.
Khoảng hai giờ chiều, sau lễ đưa tiễn phái đoàn của Tướng Soạn, mọi người kéo nhau lên tàu và trực thăng cất cánh ngay sau đó. Khi trực thăng rời sàn tàu với chiều cao chừng hơn hai thước và chuẩn bị chuyển hướng vào đất liền thì bất chợt một ngọn cuồng phong thổi ngang trên sàn của chiến hạm, ngọn gió đã quật chiếc trực thăng xoay hơn một nửa vòng tròn cho nên đuôi trực thăng đã đập vào cột antenna của chiến hạm. Kết quả là trực thăng gẫy làm đôi, đuôi trực thăng rớt ngay xuống nước còn thân trực thăng thì xoáy nhanh theo với chong chóng rồi rớt xuống sàn chiến hạm trước khi rơi xuống biển với kết quả như sau:
. Ông sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ vì chưa cột dây an toàn nên văng lên trên sàn tàu, bị thương nặng nhưng được cứu sống.
· Một xạ thủ đại liên vì cũng chưa cột dây an toàn bị văng ra khỏi trực thăng và cánh quạt trực thăng đã phạt ngang cần cổ của anh ta nên anh chết ngay tức khắc nhưng thi hài thì vớt được liền trong ngày hôm đó.
· Phi công chính, ông Đại Tá Lục Quân Hoa Kỳ sắp hết nhiệm kỳ, kẹt trong thân tàu, thi hài được tìm thấy sau này. Phi công phụ tìm cách ra được nhưng không hiểu sao một ngày sau mới vớt được thi hài của phi công phụ.
· Anh xạ thủ đại liên thứ hai chết theo tàu, mấy ngày sau cũng mới vớt được xác.
· Chuẩn Tướng Phan Đình Soạn và anh tôi cùng anh sĩ quan tùy viên của ông Soạn đã chết theo tàu nhưng thi hài của anh Trung Úy Phương được trôi dạt vào bờ mấy ngày sau còn riêng ba người là ông Soạn, anh tôi và ông Đại Tá Phi công thì không tìm thấy đâu.
Ngay khi tai nạn xẩy ra, mọi thủ tục cấp cứu và tìm kiếm người mất tích đã được Hải Quân Hoa Kỳ cũng như bên Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng một Chiến Thuật cho thi hành. Máy Sonar được đem đến nhưng hai mươi bốn giờ qua đi mà chúng tôi chưa nhận được kết quả. Sau khi nói chuyện với mấy sĩ quan Pháo Binh về những nguyên nhân dẫn đến cái chết của anh tôi, tôi trở về nhà chị dâu tôi để sắp xếp nhưng giấy tờ cùng chuẩn bị mọi việc phải làm cho gia đình chị tôi trong lúc chờ đợi tin tức tìm lại thi hài những người mất tích. Trong lúc lục và sắp xếp những giấy tờ quan trọng của anh trong hộc tủ, tôi mới thấy được lá số Tử vi của một Đại Đức trên Phú Bổn chấm số cho anh tôi vào năm 1967.
Cầm lá số trên tay, tôi đọc những dòng chữ bằng nét mực xanh và thấy chữ viết như cua bò, không ngay hàng thẳng lối đồng thời tôi lại chẳng biết một tý gì về Tử Vi nên coi mà cũng như không, nhưng khi nhìn thấy ở giữa trang giấy có một dòng chữ viết bằng mực đỏ, có gạch đít dòng chữ này với nguyên văn câu viết tôi vẫn còn nhớ cho đến ngày nay:
"Năm 1972, nếu xuất dương thì thọ tử".
Cầm lá số, tôi hỏi chị tôi:
- Chị, ai đã chấm lá số Tử vi này cho anh Đồng?
- Ông Đại Đức trụ trì ngôi Chùa ở Phú Bổn.
- Chị có đọc lá số này hay chưa?
- Có tôi có đọc và biết câu ghi chú trong lá số nhưng cũng cứ nghĩ rằng anh đi du học năm 1970–1971 là xuất dương, năm nay mới là năm 1972, anh chú đâu có đi học mà sợ? Ai dè, xuất dương là đi ra biển nên anh mới gặp nạn đến nay chưa kiếm được thi hài.
Nói đến đây chị tôi lại khóc. Tôi hỏi tiếp:
- Hồi đêm hôm qua, nghe cháu Thủy, con gái lớn của anh chị tôi, nói là chị có được anh về báo mộng, có thật hay không đấy hả chị?
- Vâng chiều hôm qua khi nghe tin anh mất tích thì đêm đến, cháu Thủy đang ngủ bên cạnh tôi còn tôi vẫn còn thức, tôi nghe tiếng mở của phòng, tôi hỏi ai nhưng không có tiếng trả lời, tôi nhìn về phía cửa, tôi thấy anh chú đứng ở đó, quần áo ướt xũng, nước rỏ ròng ròng trên nền nhà. Tôi gọi tên anh, anh đứng yên, nhìn tôi rồi khóc. Tôi thấy con mắt bên trái của anh bị vỡ do một vật gì đó đụng vào và còn ra máu. Tôi bật khóc và tính chạy về hướng anh thì anh quay đi và khuất sau cánh cửa. Suốt đêm qua tôi không ngủ được và mong sao cho mau sáng để hy vọng tìm được xác anh.
Vợ tôi nói mấy lời an ủi chị, còn tôi, tôi tiếp tục lo thu xếp những hồ sơ giấy tờ của anh tôi và chuẩn bị đưa gia đình chị và các cháu vào Sàigòn khi tìm được hay không tìm được thi hài của anh vì thời gian của tôi ở Đà Nẵng chỉ có hạn. Hai ngày sau tôi được tin Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm đã phúc trình lên Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu để xin truy thăng thêm một cấp cho ông Soạn và cho anh tôi một sao. Tôi được biết ông Thiệu đồng ý truy thăng cho ông Soạn thêm một sao, riêng anh tôi thì nhất định không vì lý do khi anh tôi làm Tỉnh Trưởng Tỉnh Ninh Thuận đã thiếu tế nhị đối với những người thân thuộc của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu. Chuyện truy thăng hay không truy thăng gia đình chúng tôi cũng đã mất anh, nên chị tôi không đặt nặng trong phần được hay không được mà chỉ chú tâm vào việc tìm kiếm thi hài của anh để đem về chôn cất cho được mồ yên mả đẹp.
Tôi nóng ruột hết sức vì còn ba ngày nữa là hết phép, tôi chưa biết tính sao trong lúc thi hài của Trung Úy Phương đã trôi dạt lên bờ biển giữa Đà Nẵng và Hội An vào lúc 10 giờ sáng do đó Tư Lệnh Quân Đoàn chỉ thị Không Đoàn Đà Nẵng cho máy bay quan sát L19 thay phiên bay dọc theo bờ biển từ Đà Nẵng xuống đến Quảng Nam những mong rằng hai ông Soạn và Đồng sẽ nổi lên như anh Trung Úy Phương. Thật vậy, không uổng công của Không Quân Đà Nẵng khi máy bay quan sát bắt gặp một xác người đang trôi về hướng Hội An vào lúc 11:30 giờ cùng ngày. Trong khi chờ đợi người nhái Việt Nam ở Chu Lai được phái tới, một trực thăng và người nhái Hoa Kỳ đã từ ngoài khơi Đà Nẵng bay vào và tìm cách đưa thi hài mới tìm thấy lên máy bay.
Trực thăng đã đứng trên cao cách mặt biển chừng mười thước để thả người nhái xuống nhưng vì cánh quạt trực thăng quạt mạnh quá để giữ thăng bằng cho máy bay nên sức ép của gió đã lại nhận chìm cái xác này. Sau một thời gian tìm kiếm, trong lúc đó người nhái Việt Nam cũng vừa tới nơi nên xác này đã đem được lên xuồng phao cao su vào khoảng một giờ chiều nhưng người chết lại là thi hài của anh Xạ thủ đại liên, còn Ông Soạn, Đại Tá Phi Công Hoa Kỳ và anh tôi thì vẫn chưa có tin tức. Buổi chiều hôm đó, tôi được một người bên Bộ Chỉ Huy Pháo Binh mách nước là nên hỏi một ông Thầy nổi tiếng ở Đà Nẵng xem sao. Tôi đến nhà ông Thầy lúc hai giờ chiều, bước chân lên cầu thang tôi thấy Thầy khoảng trên dưới tám mươi tuổi, rất đẹp lão với một chòm râu bạc dưới cằm dài có tới hơn mười phân tây. Thầy đang coi cho một bà, gần đó còn có mấy bà đang chờ đến phiên.
Thấy tình cảnh như vậy, tôi hơi lưỡng lự vì nếu thầy coi hết cho mấy bà cũng phải mất vài tiếng đồng hồ nhưng tôi cũng nghĩ đã lỡ vậy cho lỡ luôn; bất chợt tôi nghe tiếng ông Thầy:
- Chú em lên đây, chú em cần hỏi Thầy có việc gì?
- Dạ kính chào Cụ, cháu có ít việc xin Cụ giúp đỡ nhưng Cụ còn mấy bà khách, cháu xin chờ.
- Không sao đâu chú em, cứ nói đi
- Dạ thưa Cụ, thế là tôi kể sơ lược câu chuyện cho ông Thầy nghe.
Nghe xong, ông Cụ cầm tờ giấy và cây viết đưa cho tôi rồi nói:
- Chú em viết cho tôi mấy chữ để tôi coi.
Cầm tờ giấy và cây viết, không biết lý do nào thúc đẩy mà tôi viết bốn chữ:
"Quy hồi cố thổ" (tạm dịch là "trở về quê cũ").
viết xong tôi đưa cho ông Thầy coi. Nhìn bốn chữ tôi viết trên trang giấy, ông Thầy nhìn tôi rồi vừa cười vừa nói:
- Chú em về đi, Bạch Hổ (có lẽ ám chỉ máy sonar) đã gầm lên rồi, về nhanh lên, ở nhà đã có tin và bà chị đang chờ Chú em đấy.
Mừng quá, tôi tính lấy tiền trả công Ông Cụ nhưng bị chặn lại: Chú em Thầy không lấy tiền công đâu, chú em giữ lấy để còn nhiều việc phải tiêu đến; thôi Chú em đi đi. Về đến nhà, chị tôi cho biết lúc hai giờ chiều, Sonar của Hải Quân Hoa Kỳ đã tìm thấy máy bay ở cách chổ tai nạn chừng mười cây số về phía nam Đà Nẵng. Hiện Trung Tướng Tư Lệnh đã cho Hải Quân Việt Nam và Người Nhái đang lặn tìm xem có thấy mấy anh hay không. Hồi hộp quá tôi chạy sang bên Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Quân Đoàn, găp anh Thiếu Tá Sanh và chúng tôi ngồi chờ tin tức từ ngoài khơi gửi về, tôi nghĩ rằng: Ông Thầy hay thiệt, chỉ nhìn bốn chữ mà biết đã tìm được chiếc trực thăng gặp nạn.
Đến năm giờ chiều, tôi buồn bã từ biệt mấy anh sĩ quan Pháo Binh về nhà để cho chị tôi biết là chỉ tìm được có phần đuôi của trực thăng mà thôi còn cái bụng (chúng tôi còn gọi nó là cái hột vịt) thì chưa thấy nó vì nó đang ở đâu trong Vịnh Đà Nẵng. Không thể chờ lâu hơn được, hôm sau tôi yêu cầu Pháo Binh Quân Đoàn cho tôi hai xe vận tải của Đơn Vị để dọn nhà chị tôi vào Sàigòn, sau đó Bà Soạn và Chị tôi quyết định trước ngày vào Nam sẽ làm một lễ cầu siêu và cầu hồn nhập vào cành phan để đem về Sàigòn thờ cúng anh tôi. Đến ngày thứ sáu khi anh tôi chết, ngày 17 Tháng Giêng năm Nhâm Tý, hai gia đình đã ra bãi biển Nam Ô, có mời mấy vị Đại Đức đến để làm lễ cầu hồn. Trong lúc làm lễ, việc khóc than không thể tránh được thì tôi gặp một ông Cụ người địa phương chống gậy đến gặp tôi rồi nói:
- Chú em, tôi biết gia đình chú em đang có chuyện buồn, nhưng tôi biết tôi có thể giúp được, vậy chú em nói với mấy bà chị đừng khóc than nhiều quá có hại cho sức khỏe.
- Thưa Cụ, vì từ ngày gặp nạn cho đến hôm nay cũng đã sáu ngày, gia đình hai chị tôi không hy vọng gì tìm lại được thi hài của mấy anh tôi, nay được Cụ giúp cho chúng tôi xin hậu tạ.
- Chú em đừng có lo, tôi đã tính rồi, tôi sẽ chọn ngày tốt rồi đón mấy ông ấy về tôi sẽ cho chú em hay sau.
- Dạ thưa Cụ vâng, chúng tôi cũng hứa sẽ bồi hoàn tất cả mọi chi phí liên quan đến buổi lễ đón các anh tôi về.
Buổi lễ chấm dứt, hai gia đình quay về lại Đà Nẵng để rồi ngày hôm sau vợ chồng tôi đưa gia đình chị tôi về Sàigòn. Thực tình mà nói, tôi không tin tưởng lắm đến lời hứa của ông Cụ tại Nam Ô vì tôi cứ nghĩ là máy móc tinh vi của Hải Quân Việt Mỹ còn tìm không ra "cái hột vịt" đang ở đâu thì làm sao mà người dân chài lưới của Nam Ô lại có thể tìm được ông Soạn và anh tôi trong cái mênh mông của Vịnh Đà Nẵng? Nhưng tôi chợt nhớ khi tôi còn làm việc ở Nha Trang, từ năm 1963 đến năm 1967, tôi có quen một ông Trưởng ấp chài lưới ở Xóm Cồn sau Chợ Đầm Nha Trang, khi tôi làm chiếc cầu bằng bê tông cốt sắt thay thế cái cầu khỉ để các em học sinh cũng như dân Xóm Cồn qua lại, tôi có nghe nói về cách thức tìm xác người chết trên biển hay trên sông hồ của người dân chài như sau:
Những người dân khi đi đánh cá, chẳng may gặp tai nạn như giông bão, chìm ghe, xác thường bị chìm theo ghe không có cách gì vớt được để đem vào đất liên mà chôn cất; tuy nhiên, cha truyền con nối, họ có một cách tìm lại những thi hài của những bạn chài ngoài biển cho nên rất ít khi bị mất tích hoàn toàn trong lòng biển. Phương pháp tìm kiếm những người chết chìm trên biển hay trên sông hồ đều giống nhau và chỉ diễn ra vào lúc nào mà ông Thầy cúng ở trong Làng sau khi bấm số của người chết và thân nhân của họ để tìm một ngày tốt mới làm lễ đón người quá cố trở về.
Tôi không biết thế nào là ngày tốt, nhưng tựu chung có lẽ là ngày hợp với ngày sinh, tháng đẻ cũng như ngày gặp nạn của người chết, sau đó dân chài bèn làm một cái lễ rước thi hài về đất liền và tùy theo khu vực mà trong đó người mất tích được coi như đã chết chìm, rộng lớn hay nhỏ hẹp để dân làng cho một số ghe chài loại nhỏ ra khơi, dàn hàng ngang, cách vài trăm thước mới có một ghe, mỗi ghe mang theo một thùng dầu đậu phụng chừng hai mươi lít rồi từ từ đổ dầu xuống biển.
Dầu đậu phụng (peanut oil) đã loang ra và tản mát theo sóng biển, lững lờ trôi vào một nơi "hữu định" trong lúc đó sau khi đổ hết dầu xuống nước, những chiếc ghe câu này cứ tà tà lần theo dấu vết loang của dầu đang trôi ở phía trước; đến một lúc nào đó, tất cả số dầu đậu phụng được đổ xuống nước mấy giờ trước đã tập trung lại một chổ, dù có ngọn sóng đánh chúng văng ra xa thì sau đó dầu lại gom đến nơi chúng vừa gặp nhau; người chủ lễ sau đó đốt nhang, khấn vái và quăng lưới ngay giữa vũng dầu và thế là thi hài người chết được vớt lên, đem về đất liền để mai táng.
Nghe câu truyện này của ông Trưởng Ấp Xóm Cồn Nha Trang, tôi thấy nó có vẻ huyền bí và giống như trong mấy câu truyện thần thoại để kể cho mấy cháu bé trước khi chúng ngủ. Nhưng lần này, khi không tìm lại được anh tôi, tôi đã cầu xin phương cách tìm thi hài anh tôi và ông Soạn của dân chài Nha Trang sẽ ứng dụng và trở thành hiện thực đối với hai gia đình sĩ quan Pháo Binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Thế rồi thời gian cứ chầm chậm trôi qua, tôi được biết Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm đã điện cho ông Cậu hay ông Chú của Tổng Thống Thiệu đang ở Phan Rang để xin can thiệp với Tổng Thống xét lại việc truy thăng cho anh tôi; sau đó ông Thiệu có hứa là khi nào tìm được thi hai anh tôi thì chấp thuận cho một sao.
May quá đây không phải là lời hứa cuội tuy nhiên chúng tôi thấy nó khôi hài ở chỗ có rất ít hy vọng tìm lại được thi hài anh tôi và ông Soạn vào những ngày kế tiếp vậy theo tôi thì lấy đâu ra xác anh tôi để được truy thăng cho người chết? Hai mươi sáu ngày đã trôi qua kể từ ngày anh tôi gặp nạn: 25-2-1972 tức là ngày 11 Tháng Giêng Năm Nhâm Tý, mọi chuyện hầu như vô vọng vì Hải Quân Hoa Kỳ cũng như Hải Quân Việt Nam đã chấm dứt việc tìm kiếm sau gần hai tuần lễ mà không có kết quả. Hy vọng của chị tôi và các cháu cũng đã trôi theo với thời gian vì cuộc sống bương trải để kiếm sống và lo việc học hành cho các cháu.
Ngày thứ hai mươi bảy, ngày 23-3-1972, (tháng hai 1972 có 29 ngày) tôi đang làm việc ở Trường Công Binh Bình Dương, vào lúc hai giờ chiều tôi nhận được hai cú điện thoại: một của Bộ Chỉ Huy Binh Chủng Pháo Binh và một của chị tôi cho tôi biết là dân chài Nam Ô vừa tìm thấy thân tàu vào trưa ngày hôm nay, ngày 23-3-1972; họ đã thả phao đánh dấu nơi "hột vịt" cách bờ biển Thị xã Đà Nẵng có vài cây số nhưng cách nơi bị nạn có đến gần hai mươi cây số. Sau khi được tin Trung Tướng Tư Lệnh Hoàng Xuân Lãm đã chỉ thị cho căn cứ người nhái tại Chu Lai đưa một toán người nhái do một Đại Úy chỉ huy để đưa các ông về vào sáng ngày mai, ngày thứ hai mươi tám, 2-/3-1972; nghe đến đây, tôi có nói với chị tôi:
- Chị đi trước, còn em ngày mai mới lên đường được; khi gặp anh, chị nhớ coi xem con mắt trái của anh có bị chảy máu như tối hôm anh gặp nạn, anh đã về thăm chị không nhé, đồng thời chị đừng quên mang theo tiền để trả ơn những người dân chài ở Nam Ô, chị cũng nhắc cho Bà Soạn biết việc này nghe chị, em cũng sẽ xuống Sàigòn giữ chỗ ngay bây giò.
Nói với chị dâu tôi xong, tôi thu xếp một ít công việc nhà và giao việc điều hành các khóa học của Trường Công Binh cho anh phụ tá rồi cầm giấy phép đặc biệt bốn ngày của Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Trường Phạm Văn Điển. Xuống đến Sài gòn đâu cũng gần bốn giờ chiều, tôi tạt vào nhà Bố Mẹ vợ của tôi và báo tin cho ông Bố vợ biết kết quả của việc tìm kiếm anh tôi cũng như nhờ ông bà chăm sóc vợ con tôi trên Bình Dương; gặp ông tôi nói:
- Ba, xác anh Đồng con người ta đã tìm ra rồi, bây giờ con phải đi lấy vé máy bay ngay cho kịp.
- Thế vợ con có đi với con không?
- Dạ không mà Ba, nhà con ở lại lo cho mấy cháu, đi nữa cũng chẳng làm được gì chỉ thêm tốn kém lại nữa chưa đến ngày lãnh lương.
- Ba biết, con cầm lấy tiền đi ngay ra Hãng Air Việt Nam cho kịp lấy vé mà ra Đà Nẵng vào ngày mai, mọi chuyện ở nhà có Ba lo cho, nhớ lấy vé Boeing 727 cho nó nhanh và không sợ trễ nải.
Ông Cụ tinh tế quá, tôi chưa kịp hỏi ông tiền thì ông đã đưa ngay cho tôi. Bố vợ tôi mấy năm về trước có làm việc chung với anh tôi ở Tiểu Đoàn Pháo Binh tại Dĩ An Biên Hòa, do đó tôi đã phỗng mất cô con gái rượu độc nhất của ông. Ông rất thương và quý anh tôi cho nên ông không thắc mắc khi tôi vào làm rể.
- Cám ơn Ba, con cũng tính hỏi Ba cho con mượn...
- Thôi đi đi con, gần đến giờ nghỉ việc rồi, nhớ cho Ba biết tin tức khi vớt được anh Đồng con nhé.
- Dạ vâng, con đi đây.
Sau đó tôi chào Bố Mẹ vợ rồi đi mua vé và máy bay cất cánh vào lúc năm giờ chiều ngày hôm sau. Đêm đến, tôi trằn trọc khó ngủ và hồi tưởng lại lời hứa của ông Cụ mà tôi gặp khi làm lễ cầu hồn vào ba tuần trước, cho nên khi tôi ra đến nơi vào lúc tám giờ tối của ngày hôm 24-3-72 thì việc tẩm liệm ông Soạn và anh tôi đã hoàn tất vào buổi trưa. Thật tốt cho tôi vì anh tôi tuổi Canh Ngọ, còn tôi tuổi Quý Dậu, xung khắc, khi nhập quan tôi phải tránh mặt. Tướng Soạn và anh tôi đã trở về đất liền sau hai mươi tám ngày ngâm mình trong biển, và sau đây là câu truyện tìm người chết và đưa người chết trở về mà tôi được biết khi tiếp xúc với những người đã giúp đỡ hai gia đình Soạn và Đồng.
Lời kể của anh Thượng Sĩ Nhất Trung Đội Trưởng Trung Đội Chung Sự thuộc Đại Đội Tổng Hành Dinh Quân Đoàn 1 Vùng 1 Chiến Thuật:
- Vào ban đêm của ngày thứ hai mươi sáu, 22-3-1972, tôi (Trung Đội Trưởng) trong lúc ngủ, tôi thấy "hai ông" mở cửa bước vào nhà, nhìn lên tôi thấy ông Soạn và Ông Đồng trông người rất to lớn, quần áo mặc chật ních, nước rỏ ròng ròng trên sàn nhà; tôi vừa đứng lên chào, tôi nghe Ông Đồng nói với tôi:
- Thượng Sĩ cho dọn chỗ để chúng tôi về.
Sau câu nói, hai ông quay ra cửa là lúc tôi toát mồ hôi và tỉnh dậy chờ cho đến sáng. Sáng hôm qua 23-3, tôi gọi anh Trung Đội Phó của tôi rồi lấy tiền đưa cho anh ta để đi mua gỗ Giáng Hương đem về làm hai cỗ áo quan cho hai ông, tôi nói:
- Hồi đêm tôi nằm mộng thấy ông Soạn và ông Đồng về gặp tôi và yêu cầu tụi mình dọn chỗ để hai ông về. Chú cầm tiền ra mua hai cỗ bằng gỗ Hương và nhớ là cho lính đóng áo quan lớn hơn thường lệ vì tôi thấy hai ông to lớn lắm, anh Thượng sĩ Trung đội Phó nói:
- Thượng Sĩ, mình đâu đã có tin gì về việc tìm thấy hai ông ấy mà đi mua gỗ, nhỡ một cái thì hai "Cỗ áo" này dùng cho ai?
- Thì chú cứ đi mau lên, không có sao đâu, sáng mai các ông ấy về đây thì lấy đâu ra "hàng" để tẩm liệm? Bảo mấy thằng em làm nhanh tay nghe.
Anh Thượng Sĩ Trung Đội Phó đã đi ra trại Cưa ở Phước Tường mua gỗ Hương vừa đem về đến nhà Quàn thì có tin đã tìm được ông Soạn và anh tôi đúng như trong giấc mơ của anh Trung Đội Trưởng Trung Đội Chung Sự vào đêm hôm trước.
Lời kể của một người Dân Chài Nam Ô:
- Sau buổi lễ cầu hồn vào ba tuần trước của hai gia đình mấy ông, chúng tôi tìm được ngày tốt là ngày 22-3 để đón mấy ông về và chúng tôi đã làm lễ cầu hồn hai ông theo thủ tục của Dân Chài chúng tôi, sau đó chúng tôi ra khơi rồi bủa lưới thì lưới vướng vào "càng của thân tàu". Sau khi lặn khoãng bốn mươi sải nước (trung bình một sải là 1.3 thước), chúng tôi sờ được thân tầu rồi cột phao đánh dấu nơi tàu chìm sau đó báo cho mấy ông ở Quân Đoàn biết để đưa thi hài mấy ông ấy về; công việc như vậy là hoàn tất, chúng tôi đã tìm được thi hài của mấy ông cho gia đình rồi đấy.
Tôi hỏi anh ta vì tôi muốn tìm gặp ông Cụ, người đã hứa giúp gia đình chị tôi, để trả ơn nhưng không gặp tuy nhiên bà Soạn và chị tôi đã đưa mấy trăm ngàn trả tiền công và tiền mua lễ vật để cúng trước khi tìm được thi hài hai anh.
Lời kể của một Sĩ quan Pháo Binh Quân Đoàn.
- Sau khi được thông báo dân chài lưới ở Nam Ô đã tìm được xác chiếc trực thăng, người nhái tại Chu Lai được đưa đến vào sáng sớm ngày 24-3. Người đầu tiên lặn xuông thám sát rồi sau khi trồi lên mặt nước anh ta cho biết: Thân tàu ngập trong đám bùn và cát của cửa biển Đà Nẵng, thân tàu lật úp đưa hai càng lên nên khi bủa lưới, lưới đã mắc vào càng của trực thăng sau đó dân chài đã cột giây phao để đánh dấu nơi trực thăng được tìm thấy, chỗ này sâu hơn 40 thước nước. Nhận được báo cáo của anh chuyên viên người nhái, anh Đại Úy trưởng toán gọi một nhân viên đi theo rồi lặn xuống để tìm cách đưa tàu ra khỏi vũng bùn, khi đến nơi, anh sờ và nhìn thấy 2 càng của trực thăng, còn cửa và thân tàu hoàn toàn ngập trong lớp bùn dầy đặc của cửa biển Đà Nẵng.
Anh Đại úy tìm cách lật nghiêng thân tàu để xem có ông nào còn ở bên trong thân tàu hay đã văng ra ngoài ngay khi bị nạn, khi "hột vịt" được lật nghiêng, một bóng đen từ trong thân tàu thoát ra khỏi cửa và như "ôm" lấy người anh Đại Úy, anh Đại Úy đã xô vật này ra vì chưa biết là cái gì nhưng khi định thần thì thấy là thi hài của một trong số những người mất tích đang trồi lên mặt nước. Giật mình vì sợ bị mất thi hài nên anh Đại Úy Trưởng toán đã vội nắm lấy cổ chân của xác chết giữ lại nhưng vì xác chềt trồi lên quá nhanh trong lúc anh Đại Úy không đủ sức nặng để trì lại nên đã bị xác chết kéo theo trồi lên mặt nước cùng với xác chết, việc lên khỏi mặt nước quá nhanh tạo nên thế mất quân bình áp xuất của cơ thể và kết quả là trên xuồng phao cao su, nhân viên người nhái thấy ông Đại Úy ngất xỉu bên cạnh thi hài của anh Đại Tá phi công.
Toán người nhái trên tàu đã vội đưa anh Đại Úy lên thuyền đồng thời gọi trực thăng tản thương đem về Bệnh viện Đà Nẵng cấp cứu, sau đó họ cũng vớt được ông Đại Tá Hoa Kỳ và giao cho văn phòng Cố Vấn Quân Đoàn một. Rút kinh nghiệm, lần này hai người nhái lặn xuống và cùng làm một động tác để tìm những người còn kẹt lại trong tàu, khi hai anh người nhái đứng một bên và cùng nhau dở càng trực thăng để lật nghiêng, anh Đồng tôi, thân thể đã trương phình chật cứng trong bộ quân phục tác chiến, trong tư thế ngồi co hai chân như ta ngồi ghế dựa, dây an toàn đã được tháo, hai tay khùynh ra như muốn ôm một vật gì, xác của anh đã từ từ trôi ra phía cửa, hai anh người nhái, mỗi anh một bên đã dìu anh tôi lên mặt nước, để đem lên thuyền. Sau đó đến phiên ông Soạn; ông chưa gỡ được dây an toàn cho nên chết trong lúc vẫn còn ngồi trên ghế dây vải của trực thăng, hai anh người nhái phải cắt dây để đưa ông lên mặt nước, công việc tìm kiếm những người còn lại chấm dứt với việc ông Đại Úy người nhái phải nhập viên mất hơn một tuần lễ mới khỏi bệnh.
Sáng ngày thứ hai mươi tám, 24-2-1972, chị dâu tôi đã nhận được xác anh tôi và thấy con mắt bên trái của anh đã bị vỡ như chị thấy trong giấc mơ ngay hôm gặp nạn, thật là một điều kỳ diệu. Trước khi đưa thi hài ông Soạn và anh tôi về Sài gòn, Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm đã thay mặt Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Truy Thăng cho ông Soạn thêm một sao, và anh tôi cũng được một sao như lời hứa của Ông Thiệu; ngoài ra ông Soạn còn được nâng cấp Bảo Quốc Huân Chương lên Đệ Nhị Đẳng trong lúc đó anh tôi cũng được truy tặng Đệ Tam Đẳng Bảo Quấc Huân Chương. Sau phần nghi lễ, quan tài của ông Soạn và anh tôi được đặt lên hai xe Thiết vận Xa M113 để đưa ra phi trường Đà Nặng. Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm đã đưa tiễn hai ông Soạn và Đồng một quãng đường; tôi đã thay mặt hai gia đình để lạy tạ những người đưa tiễn Ông Soạn và Anh tôi vào Sàigòn.
Chúng tôi đã đưa hai Anh vào Sàigòn bằng hai máy bay C119 của Không Quân Việt Nam, khi máy bay "bình phi" sau khi lên đến cao độ được chỉ định, tôi thấy không xong vì hòm thiếc đã hàn không kỹ khi nhập quan, tôi lên buồng lái gặp anh Đại Úy Trưởng tầu:
- Đại Úy, mình đang bay ở cao độ bao nhiêu đấy?
- Dạ, tầu mình đang ở cao độ bốn ngàn bộ (1,200m)
- Không xong rồi Đại Úy, hòm kẽm hàn không kỹ, Đại Úy cho tụt cao độ được không?
- Không được đâu Trung Tá, tàu đang bay dọc Quốc Lộ một, nếu xuống thấp thì có thể ăn đạn thêm nữa Tân Sơn Nhất đã chỉ định cao độ và hướng bay cho tàu.
- Đại Úy, theo tôi anh xin Trung Tâm kiểm soát không lưu Tân Sơn Nhất để xuống cao độ khoảng một ngàn bộ (300m) và bay ra biển, dọc theo bờ biển đến Vũng Tàu mới quẹo vào Sàigòn, tôi thấy an toàn cho tàu và cho "mấy ổng ở trong đó", được không?
- Vâng để tôi coi, thế rồi chừng một phút sau chúng tôi đã lạng ra bờ biển Quảng Ngãi và bay dọc theo bờ biển từ Quảng Ngãi vào Sàigòn với cao độ khoảng 300 thước cho nên đây cũng là lần cuối cùng tôi được nhìn bờ biển Việt Nam thân yêu từ trên phi cơ cho đến ngày nay.
Khi đang bay, tôi nghe tiếng lụp bụp của một trong hai động cơ của C119, tôi cũng ngán quá vì nhỡ một cái mà xuống biển thì ai vớt tôi đây? Nhìn anh Trưởng Tàu đang xoay xoay mấy cái núm trên bảng điều khiển tôi hỏi:
- Có gì trục trặc hay sao hả anh, tôi thấy máy nổ lụp bụp rồi xì khói, mình có sao không?
- Yên trí mà ông, nó có tên là "Quan Tài Bay" do giới phi công chúng tôi đặt tên cho nó đấy nên không có sao đâu.
- Trời đất, tên gì mà kỳ cục vậy?
- Máy móc thì hay hư bất tử, không tin tưởng được. Hư và nhập xưởng để sửa hoài hoài à.
- Chúng tôi luôn luôn được "mấy ông" phù hộ cho nên chưa rớt phi vụ nào.
Gần đến Sài gòn, anh Đại Úy Trưởng tàu rời khỏi ghế xuống gặp tôi:
- Trung Tá, có lệnh khi về đến Tân Sơn Nhất, tàu mình sẽ đáp sau tầu của Tướng Soạn khoảng mười lăm phút vì cần thời gian để làm lễ tiếp đón Tướng Soạn tại Phi Trường, như vậy tôi sẽ lượn vài vòng và lên cao độ sáu trăm thước chung quanh Phi Trường cho ăn chắc.
Khi nào lễ đón Tướng Soạn xong lúc đó tôi mới đáp và đưa tàu vào khu vực hành lễ của đại diện các Quân Binh Chủng. Trung Tá nói với gia đình chỉ rời tàu khi nào Đại Đội Danh Dự đón chào đã chuẩn bị xong nhé.
- Okay, khi nào anh mở cũa hậu chúng tôi mới xuống.
Sau lễ nghi quân cách tại Tân Sơn Nhất, thi hài anh tôi được đưa về quàn tại Chùa Vĩnh Nghiêm, một tuần sau Anh tôi mới được chôn cất tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa còn Ông Soạn được an táng tại đâu tôi không biết. Mấy năm sau khi mất nước, gia đình chúng tôi và các cháu đã cải táng để rồi cho đến bây giờ Anh tôi đang ăn mày Phật tại Chùa Pháp Vân Phú Nhuận thành phố ***. Lúc này gia đình chị tôi hiện định cư tại Na Uy còn gia đình bà Tướng Soạn thì bất hạnh thay, khi Bà và mấy cháu vượt biên, ghe bị vỡ và bà Soạn đã gặp được chồng cũng trong làn nước biển trong xanh tại Hải phận Vũng Tầu.
Viết lại câu truyện này tôi muốn nêu lên mấy khía cạnh thuộc về sự mầu nhiệm và huyền bí của Dân Tộc Việt Nam trong mấy chục năm qua; tôi xin tóm lược những suy nghĩ của tôi gửi đến quý bạn đọc để quý bạn giúp tôi tìm một câu giải đáp sao cho thỏa đáng nhé:
1. Ông Đại Đức tu hành tại Chùa Tỉnh Giáo Hội Phú Bổn vào năm 1967. Ông đã viết vào giữa là số của Anh tôi một câu: "Năm 1972 nếu xuất dương thì THỌ TỬ" (thì chết).
Nói về người con Út của Anh tôi khi cháu chào đời: "Cậu bé này ra đời thì Cha cậu bé sẽ HẾT SỐ".
Sự xung khắc giữa Canh Ngọ 1930 với Kỷ Dậu 1969. Và Anh tôi đã "hết số" vào ba năm sau 1972, năm Nhâm Tý.
2. Ngày Mồng Ba Tết năm Nhâm Tý, 17-2-1972, trong buổi lễ Thượng Kỳ đầu năm, mặc dầu đã đi "coi Thầy" và được Thầy cho ngày giờ để làm lễ nhưng có lẽ vì đã tới số rồi cho nên một trận cuồng phong, bụi đất mịt mù và "Lá Cờ" của Đơn Vị, được coi là "Bản Mệnh của người Chỉ Huy", khi đang kéo lên đã bị kẹt lại và trở thành "Cờ Tang" của Đơn vị. Đây có phải là điềm báo trước cho cái chết của Chỉ Huy Trưởng sẽ xẩy ra trong nay mai?
3. Ngày 11 tháng Giêng năm Nhâm Tý, 25-2-1972 sau khi thăm viếng ở ngoài khơi Đà Nẵng, giữa cái mênh mông của biển cả sao lại có một ngọn gió "quái ác" thổi ngang thân tàu đễ gây nên việc gẫy làm đôi chiếc trực thăng? Đây có phải là: đúng giờ, đúng ngày, đúng tháng mà tám trong số chín người người "phải chết" (người sống sót là anh sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ).
4. Tám ngày sau lễ chào cờ, ngày 11 Tháng Giêng Năm Nhâm Tý, 25-2-1972, khi tai nạn xẩy ra vào lúc buổi chiều, đêm đến, Anh tôi đã về gặp chị dâu tôi, quần áo ướt xũng nước chảy ròng ròng trên nền nhà, đứng lắc đầu rồi khóc, một con mắt đã bị vỡ khi gặp nạn. Hai mươi tám ngày sau, khi vớt được xác, chi dâu tôi xác nhận con mắt anh tôi đã bị vỡ như có vật gì bén nhọn đâm vào và có máu chảy.
5. Chuyện gì đã xẩy ra và sự huyền bí cùng linh thiêng của buổi lễ tại Nam ô khi những người dân chài địa phương làm lễ rồi ra khơi tìm anh tôi và ông Soạn. Tại sao lại dùng dầu đậu phụng như tôi được nghe kể ở Nha Trang trong những năm 1963-1967 mà không dùng loại dầu nào khác? Buổi lễ tìm anh tôi có đúng như lời ông Trưởng Ấp Xóm Cồn bên sau Chợ Đầm Nha Trang đã kể cho tôi nghe hay là một buổi lễ với nhưng nghi thức khác và phương pháp khác mà tôi vì không có thời gian nên không hỏi được đến nơi đến chốn.
6. Trước ngày dân chài tìm được những người mất tích một đêm, anh Trung Đội Trưởng Trung Đội Chung Sự nằm mộng gặp Ông Soạn và Anh tôi, yêu cầu dọn chỗ để hai ông về.
Thực hay hư chưa được biết nhưng anh Trung Đội Trưởng cũng bỏ tiền riêng của anh đễ mua hai cỗ áo quan bằng gỗ Hương, loại gỗ đắt tiền chỉ dùng để đóng bàn ghế, để lo chỗ nằm cho hai người vừa chết. Mười ngày đã trôi qua kể từ khi gặp nạn, trong lúc việc đi tìm thi hài ông Soạn và anh tôi đã không còn được Hải Quân Mỹ Việt lưu tâm đến chúng tôi mới được tin ông Thiệu chấp thuận truy thăng cho Anh tôi khi nào đem được xác về. Xét về tình thì hợp lý nhưng xét về lý thì nếu ông Thiểu muốn cho truy thăng thì lúc nào cũng làm được đâu phải chờ đến khi mang được xác về. Vậy lời hứa này coi như "hứa để mà hứa", tìm được thì "Ta" cho còn mất xác thì "Không".
Nhưng đúng ngày thứ hai mươi tám (Nhị Thập Bát Tú = hai mươi tám vì sao trong truyện Tàu) hai anh đã về để tiếp nhận sự Truy Thăng và Truy Tặng theo đứng lễ nghi của Quân Đội Miền Nam dành cho những người chết vì công vụ. Anh Thiếu Tá Lê Văn Sanh, người có tên trong danh sách ra thăm Chiến Hạm nhưng vì "số chưa chết" cho nên anh phải trở về trong nuối tiếc vì mất một dịp may hiếm có để thăm Đệ Thất Hạm Đội. Anh đã "không được đi chung một tàu với những người sắp chết". Khi tôi viết câu truyện này anh Lê văn Sanh đang sinh sống ở Houston Texas USA. Chúng tôi mừng anh vì anh được thêm tuổi thọ. Câu giải đáp chúng tôi xin dành cho quý bạn, chúng tôi cũng chân thành cám ơn quý độc giả đã theo dõi câu truyện riêng tư của gia đình chúng tôi, xin đa tạ.
Phần Năm
QUY HỒI CỐ THỔ
Tôi có ông anh ruột tên là Ngô Hán Đồng, anh tôi sinh năm Canh Ngọ tháng 12 năm 1930 tại Hà Nội. Giữa anh tôi và tôi lúc nào cũng như có một khoảng cách không gian làm chia rẽ tình anh em ruột thịt của chúng tôi, đó cũng là lý do anh tôi và tôi cứ vài năm mới được gặp nhau một lần. Lúc tôi còn nhỏ, khi mà khối óc non nớt của tôi bắt đầu ghi nhận vào bộ nhớ những sự việc xẩy ra trong cuộc sống hàng ngày, tôi chỉ được gặp anh tôi có vài lần cho đến khi tôi vào đời vào năm 1954 vì anh tôi không sống với Bố Mẹ chúng tôi ở Hà Nội mà xuống Nam Định, quê Ngoại, để cùng học chung với mấy anh là con của ông anh ruột mẹ tôi.
Thường thì những lúc gặp nhau đều xẩy ra vào những dịp gia đình của Bố mẹ và anh chị em chúng tôi có những sự kiện cần ghi nhớ như những lúc gia đình có dịp cưới, gả... anh tôi mới trở lên Hà Nội ít ngày rồi lại về Nam Định. Còn trong chiến tranh giữa Pháp với Việt Minh, anh tôi cũng không về với bố mẹ mà chạy loạn theo gia đình của người chị họ, anh chị Trần Doãn Thường, cho đến khi an toàn mới "dinh tê" về thành phố vào năm 1948. Sau đó một thời gian, Anh Trần Doãn Thường (Đại Tá, Pasadena, USA) đã cùng với anh tôi nhập học Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, Khóa hai, năm 1952 rồi ra trường với cấp bậc Thiếu Úy ngành Pháo Binh.
Khi ra đến Hà Nội, anh tôi được thuyên chuyển về Tiểu Đoàn ba Pháo Binh đóng tại Hưng Yên. Khi Hiệp định Geneva ra đời, Tiểu Đòan ba Pháo Binh phải di chuyển vào Nam trên chuyến tầu Abberville trong lúc đó tôi đang học Khóa năm, khóa Vì Dân, tại Liên Trường Võ Khoa Trừ Bị Thủ Đức cho nên anh em chúng tôi cũng không hề gặp nhau ở trong Nam cho đến năm 1958 và 1959 mới gặp lại khi anh tôi và anh chị Trần Doãn Thường đứng ra cưới vợ cho tôi vào mấy năm này. Những năm tiếp theo thỉnh thoảng tôi có gặp anh tôi là vào khoảng thời gian anh tôi giữ chức vụ Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Truởng Tỉnh Phú Bổn (Cheo Reo) và Tỉnh Ninh Thuận (Phan Rang) vào mấy năm 1967, 1968, 1969.... còn tôi lúc đó trong chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 202 Công Binh Chiến Đấu tại Pleiku.
Lần chót tôi gặp anh là vào giữa năm 1971 tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn khi anh em chúng tôi cùng du học ở Hoa Kỳ, anh tôi học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp tại Fort Leavenworth, Kansas USA, còn tôi học khóa Công Binh Cao Cấp tại Engineer School, Fort Belvoir Virginia USA. Sau khi thăm viếng Thủ Đô Hoa kỳ, anh tôi về Việt Nam và được thuyên chuyển ra Đà Nẵng giữ chức vụ Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Đoàn một Vùng một Chiến Thuật khoảng tháng chín hay tháng mười năm 1971, Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm là Tư Lệnh Quân Đoàn lúc bấy giờ.
Đến đầu năm 1972 Chuẩn Tướng Phan Đình Soạn, cựu Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh cũa Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được thuyên chuyển ra Quân Đoàn một Vùng một Chiến Thuật để giữ chức vụ Tư Lệnh Phó Quân Đoàn cho Tướng Lãm. Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Quân Đoàn một do anh tôi chỉ huy đóng ở Phước Tường, Trại Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trên Quốc Lộ số một từ Đà Nẵng đi về hướng Sàigòn. Ngày 25-2-1972, tôi đang làm việc ở Trường Công Binh Bình Dương, tôi nhận được một cú điện thoại của Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, báo cho tôi biết anh tôi đã tử nạn cùng với Tướng Soạn khi hai ông ra thăm viếng Khu Trục Hạm (Destroyer) thuộc Đệ Thất Hạm Đội đang hoạt động ngoài khơi cửa biển Đà Nẵng. Vợ chồng tôi vội ôm mấy đứa con về Sàigòn giao chúng cho ông Bà Ngoại các cháu rồi chúng tôi bay ra Đà Nẵng vào ngày hôm sau. Tôi được Ông Đại Tá Phan Văn Điển, Chỉ Huy Trưởng Trường Công Binh Bình Dương cấp cho bảy ngày phép để lo liệu cho anh tôi.
Hồi đó Air Việt Nam có hai loại máy bay đi Đà Nẵng: mấy bay cánh quạt DC6 (Douglas Constellation) và phản lực Boeing 727. Máy bay DC6 không còn chỗ cho ngày hôm sau nhưng Boeing 727 thì còn nhưng giá vé quá cao tuy nhiên vợ chồng tôi không thể trì hoãn được cho nên chúng tôi đã ra đến Đà nẵng vào sáng ngày 26-2-1972 và được Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Quân Đoàn, Thiếu Tá Lê Văn Sanh, Houston Texas USA, cho xe ra đón và đưa về trại Sĩ Quan Pháo Binh để gặp Chị dâu tôi, hiện định cư tại Na Uy, đồng thời thu xếp mọi việc. Sau đó tôi sang bên văn phòng của Bộ Chỉ Huy Pháo Binh và được biết mọi tin tức liên quan đến cái chết của Anh tôi vào ngày hôm trước. Ngược thời gian, khi anh tôi làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Phú Bổn (Cheo Reo), năm đó là năm 1967, sau khi anh tôi chấm dứt nhiệm vụ Tiểu Khu phó Tiểu Khu Bình Định, anh tôi có quen biết với một Đại Đức đang trụ trì tại một ngôi Chùa thuộc Tỉnh Giáo Hội Phật Giáo Phú Bổn.
Không biết do ai giới thiệu, anh tôi được nhà Chùa lấy cho một lá số Tử Vi, trong đó có một câu chú thích có lẽ cũng làm cho anh tôi không được vui lắm, tuy nhiên nó là chuyện tương lai nên chị dâu tôi có nói là anh tôi không quan tâm đến và cũng có thể là đã quên lá số Tử Vi này. Sau Tết Mậu Thân, qua năm Kỷ Dậu 1969, anh chị tôi có thêm một cậu con trai Út khi về làm Tỉnh Trưởng Phan Rang, cháu hiện định cư tại Nauy cùng với mẹ và mấy anh chị em của cháu, tôi lại cũng không được biết do ai giới thiệu mà anh chị tôi lấy một lá số hay coi bói cho cháu với lời giải đoán khi cháu ra đời thì sẽ "có nhiều bất lợi" cho anh tôi vì sự xung khắc giữa Canh Ngọ và Kỷ Dậu. Chị tôi cũng không nhớ ông Thầy Bói hay ông Thầy Tướng số đã chấm lá số Tử Vi cho người con trai út của anh tôi là ai nữa.
Anh chị tôi đổi ra Đà Nẵng được chừng vài tháng thì đến Tết năm Nhâm Tý, 1972; có lẽ cũng tin vào Tướng Số Tử Vi hay sao cho nên anh tôi đã nhờ một ông Thầy ở Đà Nẵng coi dùm xem trong mấy ngày Tết, ngày nào thì tốt cho việc chào cờ đầu năm của Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Quân Đoàn vì Anh tôi tuổi Canh Ngọ mà nhằm năm Nhâm Tý (Tý Ngọ Mẹo Dậu: tứ hành xung) e rằng sẽ có nhiều điều không tốt cho anh tôi. Ông Thầy sau khi bấm quẻ đã cho giờ chào cờ đầu năm là giờ Tuất (tám đến mười giờ sáng, giờ Việt Nam lúc đó tăng một giờ cho phù hợp với múi giờ của Hoa kỳ chênh nhau mười hai tiếng); ngày thượng kỳ là ngày mồng ba Tết.
Đúng ngày giờ ấn định, mặc dầu còn nghỉ ăn Tết, quân nhân các cấp thuộc Bộ Chỉ Huy Pháo Binh tại Phước Tường đều tề tựu để làm lễ "Chào Cờ Đầu Năm" dưới quyền của Anh tôi, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Đoàn. Khi lá Đại Kỳ kéo lên đến lưng chừng của cây cột cờ cao hơn mười hai thước, lúc đó là chín giờ sáng ngày mồng ba Tết, một ngọn gió, đúng ra là một cơn gió lốc nhỏ đã cuốn tung lá cờ, bụi đất mịt mù, khi ngọn gió qua đi trong mấy giây đồng hồ, lá Đại Kỳ đã không còn được đưa lên hay hạ xuống theo nhịp kéo dây của hai anh Hạ Sĩ Quan hầu cờ. Sau mấy lần vật lộn với việc kéo dây cờ, lá cờ của Đơn Vị nhất định không lên cũng không xuống mà trở thành "cờ tang" (Half mast) trong Đơn Vị vì dây cờ đã mắc kẹt vào ròng rọc ở trên ngọn cột cờ khi trời nổi gió.
Các sĩ quan dưới quyền anh tôi đã chịu trận, chết trân nhìn anh tôi trong lúc anh đang mồ hôi vã ra như tắm vì điềm dữ quá. Đơn Vị phải đưa xe cứu nạn (Wrecker) đến để hạ cây cột cờ, sửa lại dây cờ rồi buổi lễ mới hoàn tất. Mọi người trong Đơn Vị tuy có bàn tán xôn xao nhưng không ai dám nghĩ đến một tai nạn thảm khốc sắp xẩy đến cho đại gia đình Pháo Binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Khoảng ngày mồng tám Tết, văn phòng Tư Lệnh Phó Quân Đoàn, Tướng Soạn nhận được thư của Hạm Trưởng Khu Trục Hạm thuộc Đệ Thất Hạm Đội mời ra thăm viếng Chiến Hạm Destroyer đồng thời quan sát Hải Pháo yểm trợ chiến trường đang diễn ra ở một vài nơi trên dãy núi Trường Sơn.
Đây là một lời mời có tính cách xã giao vì Trướng Soạn là Cựu Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh của Quân Đội Việt Nam đồng thời Hạm Trưởng Khu Trục Hạm Hoa Kỳ cũng muốn tiếp đón một Tướng Lãnh Pháo Binh của Việt Nam trong lúc chiến hạm đang hoạt động ở ngoài khơi Đà Nẵng. Chuẩn Tướng Phan Đình Soạn và anh tôi, hai người rất thân với nhau vì cùng là dân pháo thủ cho nên ông Soạn đã rủ anh tôi đi theo, một phần cho có bạn còn phần kia là vì anh tôi đang là Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Đoàn, người có hỗn danh là Phù Thủy Pháo Binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vì tài chính xác khi yểm trợ chiến trường. Khi nhận được giấy mời Trung Tướng Tư Lệnh Hoàng Xuân Lãm đã đồng ý cho hai ông đi thăm chiến hạm của Đệ Thất Hạm Đội và để có trực thăng đưa Tướng Soạn và anh tôi ra chiến hạm, Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm đã cho ông Soạn xử dụng trực thăng của Tư Lệnh mà bay ra khơi.
Phi công trực thăng của Tướng Lãm là một ông Đại Tá thuộc Lục Quân Hoa Kỳ, ông Đại Tá này sắp chấm dứt nhiệm kỳ thứ hai của ông trong vài tuần lễ tới, sẽ lái tàu đưa phái đoàn của ông Soạn ra thăm chiến hạm. Vì là Phi công trực thăng của Lục Quân, không quen cất cánh và hạ cánh trên sàn tàu trong khi tàu vẫn di chuyển cho nên Hạm Trưởng Khu trục hạm đã cử một sĩ quan Hải quân của chiến hạm tập dượt cho ông Đại Tá Lục quân cách lên xuống sàn tàu mấy lần trước ngày thăm viếng của Tướng Soạn. Thế rồi ngày 25-2-1972, là ngày 11 Tháng Giêng năm Nhâm Tý, lúc chín giờ sáng, phái đoàn của Chuẩn Tướng Phan Đình Soạn gồm có: Phía Hoa Kỳ: Ngoài hai phi công chính và phụ cũng như hai xạ thủ đại liên ở hai bên thân tàu, còn có: một sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ và một cố vấn, tôi không nhớ là cố vấn của anh tôi hay của ông Soạn như vậy phía Hoa Kỳ gồm có sáu người.
Bên Việt Nam: Tướng Soạn, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn một V1CT; tùy viên của Tướng Soạn là Trung Úy Phương; Anh tôi, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Đoàn và Thiếu Tá Lê văn Sanh. Tuy nhiên khi ra đến trực thăng, Thiếu Tá Lê văn Sanh đã phải ở lại vì không còn chỗ trên tàu cho nên Thiếu Tá Lê Văn Sanh đã thoát chết trong tai nạn này. Hiện nay Thiếu Tá Lê Văn Sanh đang sinh sống ở Houston Texas, USA. Sau khi trực thăng rời Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, mấy phút sau phái đoàn của Tướng Soạn đã đáp an toàn trên sàn chiến hạm, sau đó trực thăng quay vào đất liền trong lúc Tướng Soạn và anh tôi được hướng dẩn thăm tàu cũng như tham dự cuộc Hải Pháo yểm trợ cho mấy Đơn Vị của Việt Nam đang hành quân trong dãy Trường Sơn. Sau bữa ăn trưa, trực thăng cũa Tướng Lãm mới được gọi ra tàu để đưa phái đoàn vào lại đất liền.
Khoảng hai giờ chiều, sau lễ đưa tiễn phái đoàn của Tướng Soạn, mọi người kéo nhau lên tàu và trực thăng cất cánh ngay sau đó. Khi trực thăng rời sàn tàu với chiều cao chừng hơn hai thước và chuẩn bị chuyển hướng vào đất liền thì bất chợt một ngọn cuồng phong thổi ngang trên sàn của chiến hạm, ngọn gió đã quật chiếc trực thăng xoay hơn một nửa vòng tròn cho nên đuôi trực thăng đã đập vào cột antenna của chiến hạm. Kết quả là trực thăng gẫy làm đôi, đuôi trực thăng rớt ngay xuống nước còn thân trực thăng thì xoáy nhanh theo với chong chóng rồi rớt xuống sàn chiến hạm trước khi rơi xuống biển với kết quả như sau:
. Ông sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ vì chưa cột dây an toàn nên văng lên trên sàn tàu, bị thương nặng nhưng được cứu sống.
· Một xạ thủ đại liên vì cũng chưa cột dây an toàn bị văng ra khỏi trực thăng và cánh quạt trực thăng đã phạt ngang cần cổ của anh ta nên anh chết ngay tức khắc nhưng thi hài thì vớt được liền trong ngày hôm đó.
· Phi công chính, ông Đại Tá Lục Quân Hoa Kỳ sắp hết nhiệm kỳ, kẹt trong thân tàu, thi hài được tìm thấy sau này. Phi công phụ tìm cách ra được nhưng không hiểu sao một ngày sau mới vớt được thi hài của phi công phụ.
· Anh xạ thủ đại liên thứ hai chết theo tàu, mấy ngày sau cũng mới vớt được xác.
· Chuẩn Tướng Phan Đình Soạn và anh tôi cùng anh sĩ quan tùy viên của ông Soạn đã chết theo tàu nhưng thi hài của anh Trung Úy Phương được trôi dạt vào bờ mấy ngày sau còn riêng ba người là ông Soạn, anh tôi và ông Đại Tá Phi công thì không tìm thấy đâu.
Ngay khi tai nạn xẩy ra, mọi thủ tục cấp cứu và tìm kiếm người mất tích đã được Hải Quân Hoa Kỳ cũng như bên Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng một Chiến Thuật cho thi hành. Máy Sonar được đem đến nhưng hai mươi bốn giờ qua đi mà chúng tôi chưa nhận được kết quả. Sau khi nói chuyện với mấy sĩ quan Pháo Binh về những nguyên nhân dẫn đến cái chết của anh tôi, tôi trở về nhà chị dâu tôi để sắp xếp nhưng giấy tờ cùng chuẩn bị mọi việc phải làm cho gia đình chị tôi trong lúc chờ đợi tin tức tìm lại thi hài những người mất tích. Trong lúc lục và sắp xếp những giấy tờ quan trọng của anh trong hộc tủ, tôi mới thấy được lá số Tử vi của một Đại Đức trên Phú Bổn chấm số cho anh tôi vào năm 1967.
Cầm lá số trên tay, tôi đọc những dòng chữ bằng nét mực xanh và thấy chữ viết như cua bò, không ngay hàng thẳng lối đồng thời tôi lại chẳng biết một tý gì về Tử Vi nên coi mà cũng như không, nhưng khi nhìn thấy ở giữa trang giấy có một dòng chữ viết bằng mực đỏ, có gạch đít dòng chữ này với nguyên văn câu viết tôi vẫn còn nhớ cho đến ngày nay:
"Năm 1972, nếu xuất dương thì thọ tử".
Cầm lá số, tôi hỏi chị tôi:
- Chị, ai đã chấm lá số Tử vi này cho anh Đồng?
- Ông Đại Đức trụ trì ngôi Chùa ở Phú Bổn.
- Chị có đọc lá số này hay chưa?
- Có tôi có đọc và biết câu ghi chú trong lá số nhưng cũng cứ nghĩ rằng anh đi du học năm 1970–1971 là xuất dương, năm nay mới là năm 1972, anh chú đâu có đi học mà sợ? Ai dè, xuất dương là đi ra biển nên anh mới gặp nạn đến nay chưa kiếm được thi hài.
Nói đến đây chị tôi lại khóc. Tôi hỏi tiếp:
- Hồi đêm hôm qua, nghe cháu Thủy, con gái lớn của anh chị tôi, nói là chị có được anh về báo mộng, có thật hay không đấy hả chị?
- Vâng chiều hôm qua khi nghe tin anh mất tích thì đêm đến, cháu Thủy đang ngủ bên cạnh tôi còn tôi vẫn còn thức, tôi nghe tiếng mở của phòng, tôi hỏi ai nhưng không có tiếng trả lời, tôi nhìn về phía cửa, tôi thấy anh chú đứng ở đó, quần áo ướt xũng, nước rỏ ròng ròng trên nền nhà. Tôi gọi tên anh, anh đứng yên, nhìn tôi rồi khóc. Tôi thấy con mắt bên trái của anh bị vỡ do một vật gì đó đụng vào và còn ra máu. Tôi bật khóc và tính chạy về hướng anh thì anh quay đi và khuất sau cánh cửa. Suốt đêm qua tôi không ngủ được và mong sao cho mau sáng để hy vọng tìm được xác anh.
Vợ tôi nói mấy lời an ủi chị, còn tôi, tôi tiếp tục lo thu xếp những hồ sơ giấy tờ của anh tôi và chuẩn bị đưa gia đình chị và các cháu vào Sàigòn khi tìm được hay không tìm được thi hài của anh vì thời gian của tôi ở Đà Nẵng chỉ có hạn. Hai ngày sau tôi được tin Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm đã phúc trình lên Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu để xin truy thăng thêm một cấp cho ông Soạn và cho anh tôi một sao. Tôi được biết ông Thiệu đồng ý truy thăng cho ông Soạn thêm một sao, riêng anh tôi thì nhất định không vì lý do khi anh tôi làm Tỉnh Trưởng Tỉnh Ninh Thuận đã thiếu tế nhị đối với những người thân thuộc của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu. Chuyện truy thăng hay không truy thăng gia đình chúng tôi cũng đã mất anh, nên chị tôi không đặt nặng trong phần được hay không được mà chỉ chú tâm vào việc tìm kiếm thi hài của anh để đem về chôn cất cho được mồ yên mả đẹp.
Tôi nóng ruột hết sức vì còn ba ngày nữa là hết phép, tôi chưa biết tính sao trong lúc thi hài của Trung Úy Phương đã trôi dạt lên bờ biển giữa Đà Nẵng và Hội An vào lúc 10 giờ sáng do đó Tư Lệnh Quân Đoàn chỉ thị Không Đoàn Đà Nẵng cho máy bay quan sát L19 thay phiên bay dọc theo bờ biển từ Đà Nẵng xuống đến Quảng Nam những mong rằng hai ông Soạn và Đồng sẽ nổi lên như anh Trung Úy Phương. Thật vậy, không uổng công của Không Quân Đà Nẵng khi máy bay quan sát bắt gặp một xác người đang trôi về hướng Hội An vào lúc 11:30 giờ cùng ngày. Trong khi chờ đợi người nhái Việt Nam ở Chu Lai được phái tới, một trực thăng và người nhái Hoa Kỳ đã từ ngoài khơi Đà Nẵng bay vào và tìm cách đưa thi hài mới tìm thấy lên máy bay.
Trực thăng đã đứng trên cao cách mặt biển chừng mười thước để thả người nhái xuống nhưng vì cánh quạt trực thăng quạt mạnh quá để giữ thăng bằng cho máy bay nên sức ép của gió đã lại nhận chìm cái xác này. Sau một thời gian tìm kiếm, trong lúc đó người nhái Việt Nam cũng vừa tới nơi nên xác này đã đem được lên xuồng phao cao su vào khoảng một giờ chiều nhưng người chết lại là thi hài của anh Xạ thủ đại liên, còn Ông Soạn, Đại Tá Phi Công Hoa Kỳ và anh tôi thì vẫn chưa có tin tức. Buổi chiều hôm đó, tôi được một người bên Bộ Chỉ Huy Pháo Binh mách nước là nên hỏi một ông Thầy nổi tiếng ở Đà Nẵng xem sao. Tôi đến nhà ông Thầy lúc hai giờ chiều, bước chân lên cầu thang tôi thấy Thầy khoảng trên dưới tám mươi tuổi, rất đẹp lão với một chòm râu bạc dưới cằm dài có tới hơn mười phân tây. Thầy đang coi cho một bà, gần đó còn có mấy bà đang chờ đến phiên.
Thấy tình cảnh như vậy, tôi hơi lưỡng lự vì nếu thầy coi hết cho mấy bà cũng phải mất vài tiếng đồng hồ nhưng tôi cũng nghĩ đã lỡ vậy cho lỡ luôn; bất chợt tôi nghe tiếng ông Thầy:
- Chú em lên đây, chú em cần hỏi Thầy có việc gì?
- Dạ kính chào Cụ, cháu có ít việc xin Cụ giúp đỡ nhưng Cụ còn mấy bà khách, cháu xin chờ.
- Không sao đâu chú em, cứ nói đi
- Dạ thưa Cụ, thế là tôi kể sơ lược câu chuyện cho ông Thầy nghe.
Nghe xong, ông Cụ cầm tờ giấy và cây viết đưa cho tôi rồi nói:
- Chú em viết cho tôi mấy chữ để tôi coi.
Cầm tờ giấy và cây viết, không biết lý do nào thúc đẩy mà tôi viết bốn chữ:
"Quy hồi cố thổ" (tạm dịch là "trở về quê cũ").
viết xong tôi đưa cho ông Thầy coi. Nhìn bốn chữ tôi viết trên trang giấy, ông Thầy nhìn tôi rồi vừa cười vừa nói:
- Chú em về đi, Bạch Hổ (có lẽ ám chỉ máy sonar) đã gầm lên rồi, về nhanh lên, ở nhà đã có tin và bà chị đang chờ Chú em đấy.
Mừng quá, tôi tính lấy tiền trả công Ông Cụ nhưng bị chặn lại: Chú em Thầy không lấy tiền công đâu, chú em giữ lấy để còn nhiều việc phải tiêu đến; thôi Chú em đi đi. Về đến nhà, chị tôi cho biết lúc hai giờ chiều, Sonar của Hải Quân Hoa Kỳ đã tìm thấy máy bay ở cách chổ tai nạn chừng mười cây số về phía nam Đà Nẵng. Hiện Trung Tướng Tư Lệnh đã cho Hải Quân Việt Nam và Người Nhái đang lặn tìm xem có thấy mấy anh hay không. Hồi hộp quá tôi chạy sang bên Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Quân Đoàn, găp anh Thiếu Tá Sanh và chúng tôi ngồi chờ tin tức từ ngoài khơi gửi về, tôi nghĩ rằng: Ông Thầy hay thiệt, chỉ nhìn bốn chữ mà biết đã tìm được chiếc trực thăng gặp nạn.
Đến năm giờ chiều, tôi buồn bã từ biệt mấy anh sĩ quan Pháo Binh về nhà để cho chị tôi biết là chỉ tìm được có phần đuôi của trực thăng mà thôi còn cái bụng (chúng tôi còn gọi nó là cái hột vịt) thì chưa thấy nó vì nó đang ở đâu trong Vịnh Đà Nẵng. Không thể chờ lâu hơn được, hôm sau tôi yêu cầu Pháo Binh Quân Đoàn cho tôi hai xe vận tải của Đơn Vị để dọn nhà chị tôi vào Sàigòn, sau đó Bà Soạn và Chị tôi quyết định trước ngày vào Nam sẽ làm một lễ cầu siêu và cầu hồn nhập vào cành phan để đem về Sàigòn thờ cúng anh tôi. Đến ngày thứ sáu khi anh tôi chết, ngày 17 Tháng Giêng năm Nhâm Tý, hai gia đình đã ra bãi biển Nam Ô, có mời mấy vị Đại Đức đến để làm lễ cầu hồn. Trong lúc làm lễ, việc khóc than không thể tránh được thì tôi gặp một ông Cụ người địa phương chống gậy đến gặp tôi rồi nói:
- Chú em, tôi biết gia đình chú em đang có chuyện buồn, nhưng tôi biết tôi có thể giúp được, vậy chú em nói với mấy bà chị đừng khóc than nhiều quá có hại cho sức khỏe.
- Thưa Cụ, vì từ ngày gặp nạn cho đến hôm nay cũng đã sáu ngày, gia đình hai chị tôi không hy vọng gì tìm lại được thi hài của mấy anh tôi, nay được Cụ giúp cho chúng tôi xin hậu tạ.
- Chú em đừng có lo, tôi đã tính rồi, tôi sẽ chọn ngày tốt rồi đón mấy ông ấy về tôi sẽ cho chú em hay sau.
- Dạ thưa Cụ vâng, chúng tôi cũng hứa sẽ bồi hoàn tất cả mọi chi phí liên quan đến buổi lễ đón các anh tôi về.
Buổi lễ chấm dứt, hai gia đình quay về lại Đà Nẵng để rồi ngày hôm sau vợ chồng tôi đưa gia đình chị tôi về Sàigòn. Thực tình mà nói, tôi không tin tưởng lắm đến lời hứa của ông Cụ tại Nam Ô vì tôi cứ nghĩ là máy móc tinh vi của Hải Quân Việt Mỹ còn tìm không ra "cái hột vịt" đang ở đâu thì làm sao mà người dân chài lưới của Nam Ô lại có thể tìm được ông Soạn và anh tôi trong cái mênh mông của Vịnh Đà Nẵng? Nhưng tôi chợt nhớ khi tôi còn làm việc ở Nha Trang, từ năm 1963 đến năm 1967, tôi có quen một ông Trưởng ấp chài lưới ở Xóm Cồn sau Chợ Đầm Nha Trang, khi tôi làm chiếc cầu bằng bê tông cốt sắt thay thế cái cầu khỉ để các em học sinh cũng như dân Xóm Cồn qua lại, tôi có nghe nói về cách thức tìm xác người chết trên biển hay trên sông hồ của người dân chài như sau:
Những người dân khi đi đánh cá, chẳng may gặp tai nạn như giông bão, chìm ghe, xác thường bị chìm theo ghe không có cách gì vớt được để đem vào đất liên mà chôn cất; tuy nhiên, cha truyền con nối, họ có một cách tìm lại những thi hài của những bạn chài ngoài biển cho nên rất ít khi bị mất tích hoàn toàn trong lòng biển. Phương pháp tìm kiếm những người chết chìm trên biển hay trên sông hồ đều giống nhau và chỉ diễn ra vào lúc nào mà ông Thầy cúng ở trong Làng sau khi bấm số của người chết và thân nhân của họ để tìm một ngày tốt mới làm lễ đón người quá cố trở về.
Tôi không biết thế nào là ngày tốt, nhưng tựu chung có lẽ là ngày hợp với ngày sinh, tháng đẻ cũng như ngày gặp nạn của người chết, sau đó dân chài bèn làm một cái lễ rước thi hài về đất liền và tùy theo khu vực mà trong đó người mất tích được coi như đã chết chìm, rộng lớn hay nhỏ hẹp để dân làng cho một số ghe chài loại nhỏ ra khơi, dàn hàng ngang, cách vài trăm thước mới có một ghe, mỗi ghe mang theo một thùng dầu đậu phụng chừng hai mươi lít rồi từ từ đổ dầu xuống biển.
Dầu đậu phụng (peanut oil) đã loang ra và tản mát theo sóng biển, lững lờ trôi vào một nơi "hữu định" trong lúc đó sau khi đổ hết dầu xuống nước, những chiếc ghe câu này cứ tà tà lần theo dấu vết loang của dầu đang trôi ở phía trước; đến một lúc nào đó, tất cả số dầu đậu phụng được đổ xuống nước mấy giờ trước đã tập trung lại một chổ, dù có ngọn sóng đánh chúng văng ra xa thì sau đó dầu lại gom đến nơi chúng vừa gặp nhau; người chủ lễ sau đó đốt nhang, khấn vái và quăng lưới ngay giữa vũng dầu và thế là thi hài người chết được vớt lên, đem về đất liền để mai táng.
Nghe câu truyện này của ông Trưởng Ấp Xóm Cồn Nha Trang, tôi thấy nó có vẻ huyền bí và giống như trong mấy câu truyện thần thoại để kể cho mấy cháu bé trước khi chúng ngủ. Nhưng lần này, khi không tìm lại được anh tôi, tôi đã cầu xin phương cách tìm thi hài anh tôi và ông Soạn của dân chài Nha Trang sẽ ứng dụng và trở thành hiện thực đối với hai gia đình sĩ quan Pháo Binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Thế rồi thời gian cứ chầm chậm trôi qua, tôi được biết Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm đã điện cho ông Cậu hay ông Chú của Tổng Thống Thiệu đang ở Phan Rang để xin can thiệp với Tổng Thống xét lại việc truy thăng cho anh tôi; sau đó ông Thiệu có hứa là khi nào tìm được thi hai anh tôi thì chấp thuận cho một sao.
May quá đây không phải là lời hứa cuội tuy nhiên chúng tôi thấy nó khôi hài ở chỗ có rất ít hy vọng tìm lại được thi hài anh tôi và ông Soạn vào những ngày kế tiếp vậy theo tôi thì lấy đâu ra xác anh tôi để được truy thăng cho người chết? Hai mươi sáu ngày đã trôi qua kể từ ngày anh tôi gặp nạn: 25-2-1972 tức là ngày 11 Tháng Giêng Năm Nhâm Tý, mọi chuyện hầu như vô vọng vì Hải Quân Hoa Kỳ cũng như Hải Quân Việt Nam đã chấm dứt việc tìm kiếm sau gần hai tuần lễ mà không có kết quả. Hy vọng của chị tôi và các cháu cũng đã trôi theo với thời gian vì cuộc sống bương trải để kiếm sống và lo việc học hành cho các cháu.
Ngày thứ hai mươi bảy, ngày 23-3-1972, (tháng hai 1972 có 29 ngày) tôi đang làm việc ở Trường Công Binh Bình Dương, vào lúc hai giờ chiều tôi nhận được hai cú điện thoại: một của Bộ Chỉ Huy Binh Chủng Pháo Binh và một của chị tôi cho tôi biết là dân chài Nam Ô vừa tìm thấy thân tàu vào trưa ngày hôm nay, ngày 23-3-1972; họ đã thả phao đánh dấu nơi "hột vịt" cách bờ biển Thị xã Đà Nẵng có vài cây số nhưng cách nơi bị nạn có đến gần hai mươi cây số. Sau khi được tin Trung Tướng Tư Lệnh Hoàng Xuân Lãm đã chỉ thị cho căn cứ người nhái tại Chu Lai đưa một toán người nhái do một Đại Úy chỉ huy để đưa các ông về vào sáng ngày mai, ngày thứ hai mươi tám, 2-/3-1972; nghe đến đây, tôi có nói với chị tôi:
- Chị đi trước, còn em ngày mai mới lên đường được; khi gặp anh, chị nhớ coi xem con mắt trái của anh có bị chảy máu như tối hôm anh gặp nạn, anh đã về thăm chị không nhé, đồng thời chị đừng quên mang theo tiền để trả ơn những người dân chài ở Nam Ô, chị cũng nhắc cho Bà Soạn biết việc này nghe chị, em cũng sẽ xuống Sàigòn giữ chỗ ngay bây giò.
Nói với chị dâu tôi xong, tôi thu xếp một ít công việc nhà và giao việc điều hành các khóa học của Trường Công Binh cho anh phụ tá rồi cầm giấy phép đặc biệt bốn ngày của Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Trường Phạm Văn Điển. Xuống đến Sài gòn đâu cũng gần bốn giờ chiều, tôi tạt vào nhà Bố Mẹ vợ của tôi và báo tin cho ông Bố vợ biết kết quả của việc tìm kiếm anh tôi cũng như nhờ ông bà chăm sóc vợ con tôi trên Bình Dương; gặp ông tôi nói:
- Ba, xác anh Đồng con người ta đã tìm ra rồi, bây giờ con phải đi lấy vé máy bay ngay cho kịp.
- Thế vợ con có đi với con không?
- Dạ không mà Ba, nhà con ở lại lo cho mấy cháu, đi nữa cũng chẳng làm được gì chỉ thêm tốn kém lại nữa chưa đến ngày lãnh lương.
- Ba biết, con cầm lấy tiền đi ngay ra Hãng Air Việt Nam cho kịp lấy vé mà ra Đà Nẵng vào ngày mai, mọi chuyện ở nhà có Ba lo cho, nhớ lấy vé Boeing 727 cho nó nhanh và không sợ trễ nải.
Ông Cụ tinh tế quá, tôi chưa kịp hỏi ông tiền thì ông đã đưa ngay cho tôi. Bố vợ tôi mấy năm về trước có làm việc chung với anh tôi ở Tiểu Đoàn Pháo Binh tại Dĩ An Biên Hòa, do đó tôi đã phỗng mất cô con gái rượu độc nhất của ông. Ông rất thương và quý anh tôi cho nên ông không thắc mắc khi tôi vào làm rể.
- Cám ơn Ba, con cũng tính hỏi Ba cho con mượn...
- Thôi đi đi con, gần đến giờ nghỉ việc rồi, nhớ cho Ba biết tin tức khi vớt được anh Đồng con nhé.
- Dạ vâng, con đi đây.
Sau đó tôi chào Bố Mẹ vợ rồi đi mua vé và máy bay cất cánh vào lúc năm giờ chiều ngày hôm sau. Đêm đến, tôi trằn trọc khó ngủ và hồi tưởng lại lời hứa của ông Cụ mà tôi gặp khi làm lễ cầu hồn vào ba tuần trước, cho nên khi tôi ra đến nơi vào lúc tám giờ tối của ngày hôm 24-3-72 thì việc tẩm liệm ông Soạn và anh tôi đã hoàn tất vào buổi trưa. Thật tốt cho tôi vì anh tôi tuổi Canh Ngọ, còn tôi tuổi Quý Dậu, xung khắc, khi nhập quan tôi phải tránh mặt. Tướng Soạn và anh tôi đã trở về đất liền sau hai mươi tám ngày ngâm mình trong biển, và sau đây là câu truyện tìm người chết và đưa người chết trở về mà tôi được biết khi tiếp xúc với những người đã giúp đỡ hai gia đình Soạn và Đồng.
Lời kể của anh Thượng Sĩ Nhất Trung Đội Trưởng Trung Đội Chung Sự thuộc Đại Đội Tổng Hành Dinh Quân Đoàn 1 Vùng 1 Chiến Thuật:
- Vào ban đêm của ngày thứ hai mươi sáu, 22-3-1972, tôi (Trung Đội Trưởng) trong lúc ngủ, tôi thấy "hai ông" mở cửa bước vào nhà, nhìn lên tôi thấy ông Soạn và Ông Đồng trông người rất to lớn, quần áo mặc chật ních, nước rỏ ròng ròng trên sàn nhà; tôi vừa đứng lên chào, tôi nghe Ông Đồng nói với tôi:
- Thượng Sĩ cho dọn chỗ để chúng tôi về.
Sau câu nói, hai ông quay ra cửa là lúc tôi toát mồ hôi và tỉnh dậy chờ cho đến sáng. Sáng hôm qua 23-3, tôi gọi anh Trung Đội Phó của tôi rồi lấy tiền đưa cho anh ta để đi mua gỗ Giáng Hương đem về làm hai cỗ áo quan cho hai ông, tôi nói:
- Hồi đêm tôi nằm mộng thấy ông Soạn và ông Đồng về gặp tôi và yêu cầu tụi mình dọn chỗ để hai ông về. Chú cầm tiền ra mua hai cỗ bằng gỗ Hương và nhớ là cho lính đóng áo quan lớn hơn thường lệ vì tôi thấy hai ông to lớn lắm, anh Thượng sĩ Trung đội Phó nói:
- Thượng Sĩ, mình đâu đã có tin gì về việc tìm thấy hai ông ấy mà đi mua gỗ, nhỡ một cái thì hai "Cỗ áo" này dùng cho ai?
- Thì chú cứ đi mau lên, không có sao đâu, sáng mai các ông ấy về đây thì lấy đâu ra "hàng" để tẩm liệm? Bảo mấy thằng em làm nhanh tay nghe.
Anh Thượng Sĩ Trung Đội Phó đã đi ra trại Cưa ở Phước Tường mua gỗ Hương vừa đem về đến nhà Quàn thì có tin đã tìm được ông Soạn và anh tôi đúng như trong giấc mơ của anh Trung Đội Trưởng Trung Đội Chung Sự vào đêm hôm trước.
Lời kể của một người Dân Chài Nam Ô:
- Sau buổi lễ cầu hồn vào ba tuần trước của hai gia đình mấy ông, chúng tôi tìm được ngày tốt là ngày 22-3 để đón mấy ông về và chúng tôi đã làm lễ cầu hồn hai ông theo thủ tục của Dân Chài chúng tôi, sau đó chúng tôi ra khơi rồi bủa lưới thì lưới vướng vào "càng của thân tàu". Sau khi lặn khoãng bốn mươi sải nước (trung bình một sải là 1.3 thước), chúng tôi sờ được thân tầu rồi cột phao đánh dấu nơi tàu chìm sau đó báo cho mấy ông ở Quân Đoàn biết để đưa thi hài mấy ông ấy về; công việc như vậy là hoàn tất, chúng tôi đã tìm được thi hài của mấy ông cho gia đình rồi đấy.
Tôi hỏi anh ta vì tôi muốn tìm gặp ông Cụ, người đã hứa giúp gia đình chị tôi, để trả ơn nhưng không gặp tuy nhiên bà Soạn và chị tôi đã đưa mấy trăm ngàn trả tiền công và tiền mua lễ vật để cúng trước khi tìm được thi hài hai anh.
Lời kể của một Sĩ quan Pháo Binh Quân Đoàn.
- Sau khi được thông báo dân chài lưới ở Nam Ô đã tìm được xác chiếc trực thăng, người nhái tại Chu Lai được đưa đến vào sáng sớm ngày 24-3. Người đầu tiên lặn xuông thám sát rồi sau khi trồi lên mặt nước anh ta cho biết: Thân tàu ngập trong đám bùn và cát của cửa biển Đà Nẵng, thân tàu lật úp đưa hai càng lên nên khi bủa lưới, lưới đã mắc vào càng của trực thăng sau đó dân chài đã cột giây phao để đánh dấu nơi trực thăng được tìm thấy, chỗ này sâu hơn 40 thước nước. Nhận được báo cáo của anh chuyên viên người nhái, anh Đại Úy trưởng toán gọi một nhân viên đi theo rồi lặn xuống để tìm cách đưa tàu ra khỏi vũng bùn, khi đến nơi, anh sờ và nhìn thấy 2 càng của trực thăng, còn cửa và thân tàu hoàn toàn ngập trong lớp bùn dầy đặc của cửa biển Đà Nẵng.
Anh Đại úy tìm cách lật nghiêng thân tàu để xem có ông nào còn ở bên trong thân tàu hay đã văng ra ngoài ngay khi bị nạn, khi "hột vịt" được lật nghiêng, một bóng đen từ trong thân tàu thoát ra khỏi cửa và như "ôm" lấy người anh Đại Úy, anh Đại Úy đã xô vật này ra vì chưa biết là cái gì nhưng khi định thần thì thấy là thi hài của một trong số những người mất tích đang trồi lên mặt nước. Giật mình vì sợ bị mất thi hài nên anh Đại Úy Trưởng toán đã vội nắm lấy cổ chân của xác chết giữ lại nhưng vì xác chềt trồi lên quá nhanh trong lúc anh Đại Úy không đủ sức nặng để trì lại nên đã bị xác chết kéo theo trồi lên mặt nước cùng với xác chết, việc lên khỏi mặt nước quá nhanh tạo nên thế mất quân bình áp xuất của cơ thể và kết quả là trên xuồng phao cao su, nhân viên người nhái thấy ông Đại Úy ngất xỉu bên cạnh thi hài của anh Đại Tá phi công.
Toán người nhái trên tàu đã vội đưa anh Đại Úy lên thuyền đồng thời gọi trực thăng tản thương đem về Bệnh viện Đà Nẵng cấp cứu, sau đó họ cũng vớt được ông Đại Tá Hoa Kỳ và giao cho văn phòng Cố Vấn Quân Đoàn một. Rút kinh nghiệm, lần này hai người nhái lặn xuống và cùng làm một động tác để tìm những người còn kẹt lại trong tàu, khi hai anh người nhái đứng một bên và cùng nhau dở càng trực thăng để lật nghiêng, anh Đồng tôi, thân thể đã trương phình chật cứng trong bộ quân phục tác chiến, trong tư thế ngồi co hai chân như ta ngồi ghế dựa, dây an toàn đã được tháo, hai tay khùynh ra như muốn ôm một vật gì, xác của anh đã từ từ trôi ra phía cửa, hai anh người nhái, mỗi anh một bên đã dìu anh tôi lên mặt nước, để đem lên thuyền. Sau đó đến phiên ông Soạn; ông chưa gỡ được dây an toàn cho nên chết trong lúc vẫn còn ngồi trên ghế dây vải của trực thăng, hai anh người nhái phải cắt dây để đưa ông lên mặt nước, công việc tìm kiếm những người còn lại chấm dứt với việc ông Đại Úy người nhái phải nhập viên mất hơn một tuần lễ mới khỏi bệnh.
Sáng ngày thứ hai mươi tám, 24-2-1972, chị dâu tôi đã nhận được xác anh tôi và thấy con mắt bên trái của anh đã bị vỡ như chị thấy trong giấc mơ ngay hôm gặp nạn, thật là một điều kỳ diệu. Trước khi đưa thi hài ông Soạn và anh tôi về Sài gòn, Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm đã thay mặt Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Truy Thăng cho ông Soạn thêm một sao, và anh tôi cũng được một sao như lời hứa của Ông Thiệu; ngoài ra ông Soạn còn được nâng cấp Bảo Quốc Huân Chương lên Đệ Nhị Đẳng trong lúc đó anh tôi cũng được truy tặng Đệ Tam Đẳng Bảo Quấc Huân Chương. Sau phần nghi lễ, quan tài của ông Soạn và anh tôi được đặt lên hai xe Thiết vận Xa M113 để đưa ra phi trường Đà Nặng. Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm đã đưa tiễn hai ông Soạn và Đồng một quãng đường; tôi đã thay mặt hai gia đình để lạy tạ những người đưa tiễn Ông Soạn và Anh tôi vào Sàigòn.
Chúng tôi đã đưa hai Anh vào Sàigòn bằng hai máy bay C119 của Không Quân Việt Nam, khi máy bay "bình phi" sau khi lên đến cao độ được chỉ định, tôi thấy không xong vì hòm thiếc đã hàn không kỹ khi nhập quan, tôi lên buồng lái gặp anh Đại Úy Trưởng tầu:
- Đại Úy, mình đang bay ở cao độ bao nhiêu đấy?
- Dạ, tầu mình đang ở cao độ bốn ngàn bộ (1,200m)
- Không xong rồi Đại Úy, hòm kẽm hàn không kỹ, Đại Úy cho tụt cao độ được không?
- Không được đâu Trung Tá, tàu đang bay dọc Quốc Lộ một, nếu xuống thấp thì có thể ăn đạn thêm nữa Tân Sơn Nhất đã chỉ định cao độ và hướng bay cho tàu.
- Đại Úy, theo tôi anh xin Trung Tâm kiểm soát không lưu Tân Sơn Nhất để xuống cao độ khoảng một ngàn bộ (300m) và bay ra biển, dọc theo bờ biển đến Vũng Tàu mới quẹo vào Sàigòn, tôi thấy an toàn cho tàu và cho "mấy ổng ở trong đó", được không?
- Vâng để tôi coi, thế rồi chừng một phút sau chúng tôi đã lạng ra bờ biển Quảng Ngãi và bay dọc theo bờ biển từ Quảng Ngãi vào Sàigòn với cao độ khoảng 300 thước cho nên đây cũng là lần cuối cùng tôi được nhìn bờ biển Việt Nam thân yêu từ trên phi cơ cho đến ngày nay.
Khi đang bay, tôi nghe tiếng lụp bụp của một trong hai động cơ của C119, tôi cũng ngán quá vì nhỡ một cái mà xuống biển thì ai vớt tôi đây? Nhìn anh Trưởng Tàu đang xoay xoay mấy cái núm trên bảng điều khiển tôi hỏi:
- Có gì trục trặc hay sao hả anh, tôi thấy máy nổ lụp bụp rồi xì khói, mình có sao không?
- Yên trí mà ông, nó có tên là "Quan Tài Bay" do giới phi công chúng tôi đặt tên cho nó đấy nên không có sao đâu.
- Trời đất, tên gì mà kỳ cục vậy?
- Máy móc thì hay hư bất tử, không tin tưởng được. Hư và nhập xưởng để sửa hoài hoài à.
- Chúng tôi luôn luôn được "mấy ông" phù hộ cho nên chưa rớt phi vụ nào.
Gần đến Sài gòn, anh Đại Úy Trưởng tàu rời khỏi ghế xuống gặp tôi:
- Trung Tá, có lệnh khi về đến Tân Sơn Nhất, tàu mình sẽ đáp sau tầu của Tướng Soạn khoảng mười lăm phút vì cần thời gian để làm lễ tiếp đón Tướng Soạn tại Phi Trường, như vậy tôi sẽ lượn vài vòng và lên cao độ sáu trăm thước chung quanh Phi Trường cho ăn chắc.
Khi nào lễ đón Tướng Soạn xong lúc đó tôi mới đáp và đưa tàu vào khu vực hành lễ của đại diện các Quân Binh Chủng. Trung Tá nói với gia đình chỉ rời tàu khi nào Đại Đội Danh Dự đón chào đã chuẩn bị xong nhé.
- Okay, khi nào anh mở cũa hậu chúng tôi mới xuống.
Sau lễ nghi quân cách tại Tân Sơn Nhất, thi hài anh tôi được đưa về quàn tại Chùa Vĩnh Nghiêm, một tuần sau Anh tôi mới được chôn cất tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa còn Ông Soạn được an táng tại đâu tôi không biết. Mấy năm sau khi mất nước, gia đình chúng tôi và các cháu đã cải táng để rồi cho đến bây giờ Anh tôi đang ăn mày Phật tại Chùa Pháp Vân Phú Nhuận thành phố ***. Lúc này gia đình chị tôi hiện định cư tại Na Uy còn gia đình bà Tướng Soạn thì bất hạnh thay, khi Bà và mấy cháu vượt biên, ghe bị vỡ và bà Soạn đã gặp được chồng cũng trong làn nước biển trong xanh tại Hải phận Vũng Tầu.
Viết lại câu truyện này tôi muốn nêu lên mấy khía cạnh thuộc về sự mầu nhiệm và huyền bí của Dân Tộc Việt Nam trong mấy chục năm qua; tôi xin tóm lược những suy nghĩ của tôi gửi đến quý bạn đọc để quý bạn giúp tôi tìm một câu giải đáp sao cho thỏa đáng nhé:
1. Ông Đại Đức tu hành tại Chùa Tỉnh Giáo Hội Phú Bổn vào năm 1967. Ông đã viết vào giữa là số của Anh tôi một câu: "Năm 1972 nếu xuất dương thì THỌ TỬ" (thì chết).
Nói về người con Út của Anh tôi khi cháu chào đời: "Cậu bé này ra đời thì Cha cậu bé sẽ HẾT SỐ".
Sự xung khắc giữa Canh Ngọ 1930 với Kỷ Dậu 1969. Và Anh tôi đã "hết số" vào ba năm sau 1972, năm Nhâm Tý.
2. Ngày Mồng Ba Tết năm Nhâm Tý, 17-2-1972, trong buổi lễ Thượng Kỳ đầu năm, mặc dầu đã đi "coi Thầy" và được Thầy cho ngày giờ để làm lễ nhưng có lẽ vì đã tới số rồi cho nên một trận cuồng phong, bụi đất mịt mù và "Lá Cờ" của Đơn Vị, được coi là "Bản Mệnh của người Chỉ Huy", khi đang kéo lên đã bị kẹt lại và trở thành "Cờ Tang" của Đơn vị. Đây có phải là điềm báo trước cho cái chết của Chỉ Huy Trưởng sẽ xẩy ra trong nay mai?
3. Ngày 11 tháng Giêng năm Nhâm Tý, 25-2-1972 sau khi thăm viếng ở ngoài khơi Đà Nẵng, giữa cái mênh mông của biển cả sao lại có một ngọn gió "quái ác" thổi ngang thân tàu đễ gây nên việc gẫy làm đôi chiếc trực thăng? Đây có phải là: đúng giờ, đúng ngày, đúng tháng mà tám trong số chín người người "phải chết" (người sống sót là anh sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ).
4. Tám ngày sau lễ chào cờ, ngày 11 Tháng Giêng Năm Nhâm Tý, 25-2-1972, khi tai nạn xẩy ra vào lúc buổi chiều, đêm đến, Anh tôi đã về gặp chị dâu tôi, quần áo ướt xũng nước chảy ròng ròng trên nền nhà, đứng lắc đầu rồi khóc, một con mắt đã bị vỡ khi gặp nạn. Hai mươi tám ngày sau, khi vớt được xác, chi dâu tôi xác nhận con mắt anh tôi đã bị vỡ như có vật gì bén nhọn đâm vào và có máu chảy.
5. Chuyện gì đã xẩy ra và sự huyền bí cùng linh thiêng của buổi lễ tại Nam ô khi những người dân chài địa phương làm lễ rồi ra khơi tìm anh tôi và ông Soạn. Tại sao lại dùng dầu đậu phụng như tôi được nghe kể ở Nha Trang trong những năm 1963-1967 mà không dùng loại dầu nào khác? Buổi lễ tìm anh tôi có đúng như lời ông Trưởng Ấp Xóm Cồn bên sau Chợ Đầm Nha Trang đã kể cho tôi nghe hay là một buổi lễ với nhưng nghi thức khác và phương pháp khác mà tôi vì không có thời gian nên không hỏi được đến nơi đến chốn.
6. Trước ngày dân chài tìm được những người mất tích một đêm, anh Trung Đội Trưởng Trung Đội Chung Sự nằm mộng gặp Ông Soạn và Anh tôi, yêu cầu dọn chỗ để hai ông về.
Thực hay hư chưa được biết nhưng anh Trung Đội Trưởng cũng bỏ tiền riêng của anh đễ mua hai cỗ áo quan bằng gỗ Hương, loại gỗ đắt tiền chỉ dùng để đóng bàn ghế, để lo chỗ nằm cho hai người vừa chết. Mười ngày đã trôi qua kể từ khi gặp nạn, trong lúc việc đi tìm thi hài ông Soạn và anh tôi đã không còn được Hải Quân Mỹ Việt lưu tâm đến chúng tôi mới được tin ông Thiệu chấp thuận truy thăng cho Anh tôi khi nào đem được xác về. Xét về tình thì hợp lý nhưng xét về lý thì nếu ông Thiểu muốn cho truy thăng thì lúc nào cũng làm được đâu phải chờ đến khi mang được xác về. Vậy lời hứa này coi như "hứa để mà hứa", tìm được thì "Ta" cho còn mất xác thì "Không".
Nhưng đúng ngày thứ hai mươi tám (Nhị Thập Bát Tú = hai mươi tám vì sao trong truyện Tàu) hai anh đã về để tiếp nhận sự Truy Thăng và Truy Tặng theo đứng lễ nghi của Quân Đội Miền Nam dành cho những người chết vì công vụ. Anh Thiếu Tá Lê Văn Sanh, người có tên trong danh sách ra thăm Chiến Hạm nhưng vì "số chưa chết" cho nên anh phải trở về trong nuối tiếc vì mất một dịp may hiếm có để thăm Đệ Thất Hạm Đội. Anh đã "không được đi chung một tàu với những người sắp chết". Khi tôi viết câu truyện này anh Lê văn Sanh đang sinh sống ở Houston Texas USA. Chúng tôi mừng anh vì anh được thêm tuổi thọ. Câu giải đáp chúng tôi xin dành cho quý bạn, chúng tôi cũng chân thành cám ơn quý độc giả đã theo dõi câu truyện riêng tư của gia đình chúng tôi, xin đa tạ.
#6
Gửi vào 20/09/2011 - 17:21
THẾ GIỚI TÂM LINH
Phần Sáu
Miền Nam Việt Nam bị bức tử vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng tôi, những quân nhân thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, không phân biệt cấp bậc hay Quân Binh Chủng, chúng tôi đã theo nhau vào những nhà tù cải tạo, có lẽ lớn nhất nhì Thế Giới, để rồi tôi lại gặp một chuyện liên quan đến:
Thế Giới Vô Hình Trên Hoàng Liên Sơn 1979
Ngày tháng lại tiếp tục qua đi chúng tôi vẫn còn bị giam lỏng ở Hoàng Liên Sơn. Các bạn tôi vẫn tiếp tục đi rừng, phát quang, làm rẫy để trồng khoai mì còn tôi vì là con cháu Bà Hỏa cho nên tôi lại được cử vào nhà bếp để nấu nướng cho ba trăm anh em cùng cải tạo như tôi, sau đây là câu chuyện "Ma nữ với Chảo Bắp" tôi xin kể ra đây để quý bạn thưởng lãm. Khi Trại tám thành lập thì nơi đây chỉ là một sườn đồi và được dân địa phương canh tác các loại hoa mầu cũng đã lâu đời rồi; tại đây có một căn nhà ba gian lợp bằng lá và cột kèo đều là tre, nứa và cây rừng. Trong căn nhà này có một gian để một cái trõng tre một thước bề rộng và hai thước bề dài có lẽ là dùng để cho người coi rẫy ngả lưng vào những giấc ngủ buổi trưa thì phải.
Trại tám cho xử dụng căn nhà này làm bếp cho Trại cải tạo và cho nới thêm hai gian nữa cho thành năm gian và được bố trí như sau: một gian làm kho có cửa sổ để phân phát thức ăn, một gian làm chỗ ngủ có cái trỏng tre và để dụng cụ nhà bếp, hai gian kế tiếp thì xây năm lò cho năm chảo để nấu nước và nấu thức ăn cho Trại; gian nhà còn lại thì làm sàn nước, có che thêm mái cho đủ rộng để lấy chỗ làm trâu và heo những khi chúng tôi được bồi dưỡng. Lúc tôi đổi đến trại và được điều động xuống bếp, tôi lấy làm lạ là không có anh nào trong nhóm nhà bếp ngủ trên cái trõng tre này hàng đêm khi lên phiên trực, tôi hỏi mấy bạn thì ai cũng nói:
- Lạ lắm nhưng nếu muốn thì cậu cứ ngủ thử một đêm thì biết.
Thì ra hiện tượng lạ xẩy ra hàng đêm khi anh trực bếp mang đồ ngủ xuống và giăng màn rồi ngả lưng trên cái trõng tre này thì cứ vào nửa đêm về sáng, nhà bếp gồm 15 đến 17 anh lần lượt đều bị ném xuống đất với một câu nói mơ hồ bên tai:
- Trả chỗ này lại cho tôi.
Chỉ có hai trong mười bảy anh làm bếp là có quyền nằm trên cái Trõng Tre này mà thôi. Đó là Anh Trung Tá Sáu Nhỏ, Binh Chủng Nhẩy Dù, bếp Trưởng và anh Trung Tá Khuyến, Không Đoàn Trưởng Không Đoàn Khu Trục Đà Nẵng, còn tôi là người thứ mười tám. Khi nghe được câu chuyện này và anh em trong nhà bếp ai cũng muốn tôi thử xem sao, thế là tôi đồng ý ngay và tối hôm đó tôi dọn đồ xuống bếp và nằm lên trõng tre để ngủ cho đến sáng mà không có chuyện gì xẩy ra cho tôi. Sau này tôi được biết là nơi đây:
Một cô Thôn nữ đã nằm xuống và thi hài của cô được đặt trên cái trõng tre này để chờ mai táng. Kể từ đó những anh nào không được phép đều dọn chỗ ngủ ở trong kho hay gần lò nấu, còn ba anh em chúng tôi (cấp Trung Tá) thì khi lên phiên đều được linh hồn người quá cố cho phép ngủ qua đêm mà không bao giờ bị quấy phá hay đuổi đi chổ khác. Riêng tôi những lúc sau này mỗi lần xuống ngủ dưới bếp, trước khi ngả lưng tôi cũng thầm khấn linh hồn cô bé để xin được ngủ qua đêm trong yên ổn. Sau đó một hôm tôi lên phiên trực nấu bắp, sau khi gạt than ba lò nấu vào lúc mười giờ tối như thông lệ, rồi bình tĩnh để lên trõng tre giăng màn và nằm ngủ, vào lúc nửa khuya thì văng vẳng bên tai tôi có tiếng nói mơ hồ từ đâu vọng lại:
- Dậy.. dậy.. khéo không thì chảo số ba sẽ bị khét..
Đồng thời làm như có ai nắm hai ngón chân cái của tôi để đánh thức tôi dậy, trong lúc đó tôi ngửi được mùi bắp bị khê. Tôi bật dậy như cái lò so, tung mùng chạy vội ra bếp, mở nắp chảo số ba, cầm cái xẻng đẩy xuống sát đáy chảo và lật lên, thì bắp đã bắt đầu hết nước, hơi khô nhưng chưa khét. Trộn đều chảo bắp xong tôi vội chữa cháy bằng mấy thau nước lạnh tạt vào trong lò để làm nguội thành lò chờ sáng mới không bị khê. Anh vệ binh thấy tôi hùng hục chữa lửa bèn lại hỏi tôi tại sao tôi thức dậy sớm thế, vì mới có hơn một giờ sáng mà thôi, tôi trả lời cho qua câu chuyện rồi thầm cám ơn người khuất mặt để rồi lại tiếp tục đi ngủ.
Riêng rằm tháng 7 năm 1979, anh bếp phó Thiếu Tá Nguyễn Ky Biệt Động Quân, đã yêu cầu Hậu Cần cung cấp cho nhà bếp mấy thẻ nhang, rồi chúng tôi làm mâm cơm tươm tất để cúng Cô Hồn tại bếp, riêng tại lò bánh mì do tôi phụ trách, tôi cúng bánh mì nhưng cũng có vài nén nhang. Lý do chúng tôi cúng cô hồn ở lò bánh mì là vì căn chòi này, một căn nhà lá có chiều rộng 2.5 thước và chiều dài là ba thước, trước khi tôi đến Trại tám là nơi quàn xác một anh bạn, Thiếu Tá hay Đại uý tên là Tấn bị chết khi cải tạo tại Trại tám, thi hài anh Tấn được để tại đây một đêm và một ngày rồi mới được chôn cất.
Khi tôi phụ trách nướng bánh mì, Trại đã chỉ thị cho tôi lấy căn chòi này mà làm lò nướng bánh, tôi đã phải khấn anh Tấn để xin anh cho phép dùng nơi ở của anh để phục vụ những người cùng cảnh ngộ như anh nhưng chưa chết. Khi nướng bánh mì mẻ đầu tiên, tôi lấy năm ổ bánh rồi xếp lên mặt lò để cúng anh Tấn. Sau khi chúng tôi ra được mấy mẻ bánh tiếp theo thì nhang cũng đã tàn, đâu cũng có tới gần một tiếng đống hồ, tôi thấy tự dưng một trong năm ổ bánh để trên miệng lò đã tự động nhẩy xuống đất; thấy vậy tôi nói với anh Trung Tá Nguyễn Quang Lan, Tham mưu Trưởng Tiểu Khu Phú Bổn:
- Anh Lan làm ơn cất dùm tôi năm ổ bánh mì vào bao bố đi, anh Tấn đã dùng bữa xong rồi, cất đi anh Lan kẻo không thì khi Vệ binh của trại đến chúng ta khó mà trả lời đây.
Anh Lan làm theo lời tôi vừa xong thì một anh vệ binh của trại đã ló đầu vào cửa gian nhà và hỏi:
- Các anh đang nướng bánh mì đấy hả?
Tôi trả lời:
- Dạ vâng, chúng tôi đang nướng bánh.
Đứng nhìn một hồi lâu rồi sau đó anh vệ binh của Trại mới bỏ ra ngoài; chúng tôi nhìn nhau và thở dài nhẹ nhõm vì anh Tấn đã kịp thời báo động cho nên chúng tôi mới không bị rắc rối.
Phần Sáu
Miền Nam Việt Nam bị bức tử vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng tôi, những quân nhân thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, không phân biệt cấp bậc hay Quân Binh Chủng, chúng tôi đã theo nhau vào những nhà tù cải tạo, có lẽ lớn nhất nhì Thế Giới, để rồi tôi lại gặp một chuyện liên quan đến:
Thế Giới Vô Hình Trên Hoàng Liên Sơn 1979
Ngày tháng lại tiếp tục qua đi chúng tôi vẫn còn bị giam lỏng ở Hoàng Liên Sơn. Các bạn tôi vẫn tiếp tục đi rừng, phát quang, làm rẫy để trồng khoai mì còn tôi vì là con cháu Bà Hỏa cho nên tôi lại được cử vào nhà bếp để nấu nướng cho ba trăm anh em cùng cải tạo như tôi, sau đây là câu chuyện "Ma nữ với Chảo Bắp" tôi xin kể ra đây để quý bạn thưởng lãm. Khi Trại tám thành lập thì nơi đây chỉ là một sườn đồi và được dân địa phương canh tác các loại hoa mầu cũng đã lâu đời rồi; tại đây có một căn nhà ba gian lợp bằng lá và cột kèo đều là tre, nứa và cây rừng. Trong căn nhà này có một gian để một cái trõng tre một thước bề rộng và hai thước bề dài có lẽ là dùng để cho người coi rẫy ngả lưng vào những giấc ngủ buổi trưa thì phải.
Trại tám cho xử dụng căn nhà này làm bếp cho Trại cải tạo và cho nới thêm hai gian nữa cho thành năm gian và được bố trí như sau: một gian làm kho có cửa sổ để phân phát thức ăn, một gian làm chỗ ngủ có cái trỏng tre và để dụng cụ nhà bếp, hai gian kế tiếp thì xây năm lò cho năm chảo để nấu nước và nấu thức ăn cho Trại; gian nhà còn lại thì làm sàn nước, có che thêm mái cho đủ rộng để lấy chỗ làm trâu và heo những khi chúng tôi được bồi dưỡng. Lúc tôi đổi đến trại và được điều động xuống bếp, tôi lấy làm lạ là không có anh nào trong nhóm nhà bếp ngủ trên cái trõng tre này hàng đêm khi lên phiên trực, tôi hỏi mấy bạn thì ai cũng nói:
- Lạ lắm nhưng nếu muốn thì cậu cứ ngủ thử một đêm thì biết.
Thì ra hiện tượng lạ xẩy ra hàng đêm khi anh trực bếp mang đồ ngủ xuống và giăng màn rồi ngả lưng trên cái trõng tre này thì cứ vào nửa đêm về sáng, nhà bếp gồm 15 đến 17 anh lần lượt đều bị ném xuống đất với một câu nói mơ hồ bên tai:
- Trả chỗ này lại cho tôi.
Chỉ có hai trong mười bảy anh làm bếp là có quyền nằm trên cái Trõng Tre này mà thôi. Đó là Anh Trung Tá Sáu Nhỏ, Binh Chủng Nhẩy Dù, bếp Trưởng và anh Trung Tá Khuyến, Không Đoàn Trưởng Không Đoàn Khu Trục Đà Nẵng, còn tôi là người thứ mười tám. Khi nghe được câu chuyện này và anh em trong nhà bếp ai cũng muốn tôi thử xem sao, thế là tôi đồng ý ngay và tối hôm đó tôi dọn đồ xuống bếp và nằm lên trõng tre để ngủ cho đến sáng mà không có chuyện gì xẩy ra cho tôi. Sau này tôi được biết là nơi đây:
Một cô Thôn nữ đã nằm xuống và thi hài của cô được đặt trên cái trõng tre này để chờ mai táng. Kể từ đó những anh nào không được phép đều dọn chỗ ngủ ở trong kho hay gần lò nấu, còn ba anh em chúng tôi (cấp Trung Tá) thì khi lên phiên đều được linh hồn người quá cố cho phép ngủ qua đêm mà không bao giờ bị quấy phá hay đuổi đi chổ khác. Riêng tôi những lúc sau này mỗi lần xuống ngủ dưới bếp, trước khi ngả lưng tôi cũng thầm khấn linh hồn cô bé để xin được ngủ qua đêm trong yên ổn. Sau đó một hôm tôi lên phiên trực nấu bắp, sau khi gạt than ba lò nấu vào lúc mười giờ tối như thông lệ, rồi bình tĩnh để lên trõng tre giăng màn và nằm ngủ, vào lúc nửa khuya thì văng vẳng bên tai tôi có tiếng nói mơ hồ từ đâu vọng lại:
- Dậy.. dậy.. khéo không thì chảo số ba sẽ bị khét..
Đồng thời làm như có ai nắm hai ngón chân cái của tôi để đánh thức tôi dậy, trong lúc đó tôi ngửi được mùi bắp bị khê. Tôi bật dậy như cái lò so, tung mùng chạy vội ra bếp, mở nắp chảo số ba, cầm cái xẻng đẩy xuống sát đáy chảo và lật lên, thì bắp đã bắt đầu hết nước, hơi khô nhưng chưa khét. Trộn đều chảo bắp xong tôi vội chữa cháy bằng mấy thau nước lạnh tạt vào trong lò để làm nguội thành lò chờ sáng mới không bị khê. Anh vệ binh thấy tôi hùng hục chữa lửa bèn lại hỏi tôi tại sao tôi thức dậy sớm thế, vì mới có hơn một giờ sáng mà thôi, tôi trả lời cho qua câu chuyện rồi thầm cám ơn người khuất mặt để rồi lại tiếp tục đi ngủ.
Riêng rằm tháng 7 năm 1979, anh bếp phó Thiếu Tá Nguyễn Ky Biệt Động Quân, đã yêu cầu Hậu Cần cung cấp cho nhà bếp mấy thẻ nhang, rồi chúng tôi làm mâm cơm tươm tất để cúng Cô Hồn tại bếp, riêng tại lò bánh mì do tôi phụ trách, tôi cúng bánh mì nhưng cũng có vài nén nhang. Lý do chúng tôi cúng cô hồn ở lò bánh mì là vì căn chòi này, một căn nhà lá có chiều rộng 2.5 thước và chiều dài là ba thước, trước khi tôi đến Trại tám là nơi quàn xác một anh bạn, Thiếu Tá hay Đại uý tên là Tấn bị chết khi cải tạo tại Trại tám, thi hài anh Tấn được để tại đây một đêm và một ngày rồi mới được chôn cất.
Khi tôi phụ trách nướng bánh mì, Trại đã chỉ thị cho tôi lấy căn chòi này mà làm lò nướng bánh, tôi đã phải khấn anh Tấn để xin anh cho phép dùng nơi ở của anh để phục vụ những người cùng cảnh ngộ như anh nhưng chưa chết. Khi nướng bánh mì mẻ đầu tiên, tôi lấy năm ổ bánh rồi xếp lên mặt lò để cúng anh Tấn. Sau khi chúng tôi ra được mấy mẻ bánh tiếp theo thì nhang cũng đã tàn, đâu cũng có tới gần một tiếng đống hồ, tôi thấy tự dưng một trong năm ổ bánh để trên miệng lò đã tự động nhẩy xuống đất; thấy vậy tôi nói với anh Trung Tá Nguyễn Quang Lan, Tham mưu Trưởng Tiểu Khu Phú Bổn:
- Anh Lan làm ơn cất dùm tôi năm ổ bánh mì vào bao bố đi, anh Tấn đã dùng bữa xong rồi, cất đi anh Lan kẻo không thì khi Vệ binh của trại đến chúng ta khó mà trả lời đây.
Anh Lan làm theo lời tôi vừa xong thì một anh vệ binh của trại đã ló đầu vào cửa gian nhà và hỏi:
- Các anh đang nướng bánh mì đấy hả?
Tôi trả lời:
- Dạ vâng, chúng tôi đang nướng bánh.
Đứng nhìn một hồi lâu rồi sau đó anh vệ binh của Trại mới bỏ ra ngoài; chúng tôi nhìn nhau và thở dài nhẹ nhõm vì anh Tấn đã kịp thời báo động cho nên chúng tôi mới không bị rắc rối.
#7
Gửi vào 20/09/2011 - 17:38
THẾ GIỚI TÂM LINH
Thần Trùng
Phần Bảy
Tháng 6 năm 1994 khi thấy đa số cựu Quân Nhân của Quân đội Việt Nam Cộng Hoà được định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O, mà bản thân tôi vào năm 1992 người mua căn nhà cũ của bà ngoại, mấy cháu có nhận được thư của Sở Công An Thành Phố Sài Gòn gọi tôi lên để lập hồ sơ cho tôi xuất ngoại, mặc dù tôi đã định cư tại Úc Châu đã có hơn tám năm rồi. Do đó tôi quyết định về Việt Nam để thăm Bố Mẹ tôi tại Hà Nội và thăm lại Quê Cha Đất Tổ là nơi mà tôi đã xa cách có đến bốn mươi năm chưa về thăm lại từ năm 1954 đến 1994. Trong lúc xếp đặt chương trình đi thăm Hà Nội, tôi được ông bố chồng của con gái lớn của tôi, bảo lãnh để về Sàigòn thăm hai đứa con gái còn sót lại, vì chúng đã có chồng trước khi tôi làm bảo lãnh cho vợ con tôi vào năm 1984.
Khi mua vé máy bay, cô bán vé là con người bạn mới quen biết cho tôi hay rằng, cháu xin Visa cho tôi ra và vào Việt Nam trong vòng ba tháng, trong lúc tôi chỉ tính đi có bốn tuần. Sang tuần lễ thứ ba ở Hà Nội vợ chồng tôi đã về Sơn Tây để thăm mồ mả tổ tiên trong nghĩa trang của dòng họ Ngô tại làng Kiểu Trung chợ gạch, nay được đổi tên là thôn Kiều Trung thị trấn Phúc Thọ, huyện Phúc Thọ tỉnh Hà Tây, mấy ngày trước khi chúng tôi trở vào lại trong Nam để lên đường về Úc. Ngày vợ chồng tôi thắp nhang trước ngôi mộ của Bà Nội tôi, Bà đã nuôi tôi từ khi tôi vừa mới chào đời được hơn một tháng, cầm ba nén nhang tôi khấn Bà:
- Vợ chồng con về thăm Nội sau hơn bốn mươi năm con lưu lạc giang hồ, Nội nhận ra con không?
Sau khi khấn xong tôi mới cắm mấy cây nhang vào bát hương trên ngôi mộ của Bà, trong lúc cắm mấy cây hương thì không hiểu tại sao, lại có một cọng cỏ mảnh mai như cọng bún đã đâm vào ngón tay trỏ cũa tôi đến chảy máu, như ta cầm ống chích để rút máu vậy. Phải chăng Bà Nội tôi đã nhận ra thằng cháu mà Bà nuôi nấng cưng chiều hơn sáu mươi năm về trước, nếu không có Bà thì tôi đâu có cơ hội sống cho đến bây giờ? Máu của tôi đã để lại trên bát nhang của Bà như những chứng tích của sự thăm viếng của tôi sau hơn bốn mươi năm tôi mới về lại quê tôi, khi thấy việc này xẩy ra một cách quá bất ngờ nhưng tiềm ẩn một sự mầu nhiệm của huyết thống, Bố tôi đã phải nói:
- Bà Nội nhận ra anh là cháu của bà rồi đấy.
Buổi chiều khi về lại Hà Nội, tôi đã kể sự việc vừa xẩy ra cho Mẹ tôi nghe, đồng thời vì nhớ lại ngày nào khi tôi còn bé, mẹ tôi đã nói về Bà sau khi Bà chết, tôi nói:
- Mẹ, bà nội mất gần sáu mươi năm rồi, sao bà lại lấy máu của con để nghiệm xem có phải con là cháu nội của bà hay không, nếu đúng thì bà đâu đã siêu thoát?
- Câu chuyện lấy máu của anh hồi sáng tôi nghĩ là có thật, còn chuyện bà nội anh có siêu thoát hay không thì tôi không biết.
- Vậy mẹ kể lại cho con nghe câu chuyện hồi xưa khi gia đình mình còn ở dưới phố Khâm Thiên, liên quan đến bà nội về thăm Bố Mẹ mà hôm ngày giỗ bà, mẹ gặp bà đấy.
- Ừ tôi kể lại để anh nghe nhé, câu chuyện xẩy ra đã lâu rồi tôi cũng không còn nhớ nhiều đâu, tuy nhiên anh còn trẻ anh còn nhớ những chi tiết tôi nói cho anh nghe vào những năm 1942 hay 1943 thì phải, câu chuyện như sau:
- Bà Nội của anh ngày còn sinh tiền bà mở tiệm thuốc Bắc tại Chợ Gạch Sơn Tây, do vậy khi anh sinh thiếu tháng mà nguyên nhân có lẽ Dì Sáu của anh, là em ruột tôi, lấy chồng là em ruột của Bố anh. Sau khi sinh được mấy ngày Dì Sáu vì ghen tuông, nên đã nhẩy xuống giếng nước trong làng tự tử chết đi để lại cô Nhung, mà sau này tôi nuôi như anh thấy đấy. Do cái chết của em tôi, tôi có buồn phiền mà cũng có người lại nói rằng, tôi đưa Dì Sáu anh đi sinh nên anh đòi ra sớm nên tôi mới sinh ra anh trong lúc anh ở trong bụng tôi mới chỉ có hơn bảy tháng, cho nên khi ra đời tôi đã phải đưa anh về quê để bà, chăm sóc anh với sâm nhung quế phụ cho nên anh mới còn sống đến ngày nay vậy.
Người ta thường nói: mẹ chồng thường ghét bỏ con dâu, hay nói xấu con dâu... nhưng với bà nội của anh thì khác, bà rất thương Bác Hai gái, thương tôi và thương Dì Sáu. Tôi chưa thấy ai thương những người con dâu như bà cho nên sau này, bắt chước bà cũng như học theo tính bà, nên tôi đã thương mấy cô con dâu của tôi như anh thấy đấy. Bà thương chị em bạn dâu chúng tôi quá, cho nên nó cũng là cái tội của chúng tôi sau khi bà chết đi được ít ngày, để tôi nhớ lại kể cho anh nghe: Ngày bà vừa trút hơi thở thì lúc đó trong làng có một ông thầy cúng, tôi từ Hà Nội về quê trước đó mấy ngày nên khi bà vừa nhắm mắt, tôi ghé thăm ông thầy cúng để xin ngày giờ tốt làm ma chay cho bà. Vì các bác chú cô của anh đều là những người có vai vế ở Chợ Gạch và làng Kiều Trung như: Bác Lý Trưởng, bác Chánh Tổng và bác Tổng Sư... cho đến bố anh cũng tốt nghiệp phổ thông và làm việc ở Hà Nội. Sau khi lấy số, coi giờ ông thầy nói cho tôi biết như sau:
- Cụ chết vào ngày giờ không được tốt, ảnh hưởng đến tương lai và sự nghiệp của con cháu sau này, nhưng điều này không quan trọng mà điều tôi quan tâm đến là Cụ chết vào giờ “Trùng Năm” nguy hiểm lắm.
- Thưa thầy “trùng năm” là cái gì, tôi hỏi lại ông thầy.
- Trùng năm là cứ đến ngày giỗ cụ, cụ sẽ bắt đi một người trong gia đình.
- Thưa thầy, thầy cho tôi hỏi là thầy có biết bà nội mấy cháu có ý định bắt ai không, con trai, con gái hay con dâu con rể?
- Nhà chị là thế nào với bà cụ?
Ông thầy hỏi ngược lại.
- Dạ thưa thầy, cháu là con dâu thứ hai của Cụ Đồ (bà nội tôi).
- À thế thì không xong rồi, bà có tiếng là người thương và quý con dâu, theo tôi tính toán thì bà sẽ bắt người con dâu thứ nhất của bà vào ngày giỗ đầu đấy.
Nghe đến đây tôi sợ quá nên tôi hỏi lại ông thầy:
- Thưa thầy, nếu vậy thì chúng cháu phải làm sao bây giờ?
- Chuyện không đơn giản, nếu nhà chị cần đến thầy thì: cụ phải được chôn cất vào ngày giờ tôi ghi cho chị đây, đồng thời thầy cũng phải làm một cái lễ để yểm một đạo bùa vào trong áo quan của cụ trước khi hạ huyệt.
Nếu nhà chị thuận làm việc này, thì ngay bây giờ lấy tên tuổi của mấy bà con dâu của Cụ Đồ, đem lại đây để tôi thư bùa.
- Vâng thưa thầy, cháu sẽ báo cho mấy chị em chúng cháu biết, rồi sẽ ra gặp thầy vào sáng sớm ngày mai.
- Thôi được rồi nhà chị về đi nhưng chị cho tôi biết tên và ngày sinh tháng đẻ của chị, tôi sẽ cố gắng giúp chị, vì tôi biết ông Hai (anh ruột của bố tôi) cũng gàn lắm và không tin vào tôi đâu.
Sau khi chào ông thầy cúng xong, mẹ tôi về nhà của bà chị bố tôi, bà có ông chồng là thầy đồ dạy chữ nho cho cả Tổng, nên ông được mọi người trong Tổng gọi là ông Tổng Sư, kể lại câu chuyện vừa rồi cho bà Cô Tổng tôi nghe xong, mẹ tôi nói:
- Bây giờ thì chị tính sao, em sợ bác Hai, em không dám nói câu chuyện này đâu, bác Hai nổi cơn lên là em ăn đòn đấy.
- Mợ để đấy cho tôi, ông thầy giỏi có tiếng hàng Huyện nhà mình, tôi sẽ lựa lời nói với bác Hai rồi sẽ cho mợ biết sau.
Bà Tổng sau đó đã đi sang thăm ông anh ruột, nơi mà thi hài bà nội tôi được quàn tại đây, gặp ông Hai bà nói:
- Em vừa đi coi thầy để tìm ngày và giờ tốt an táng mẹ trong thửa đất của nhà. Ông thầy sau khi bấm số đã cho biết mẹ chết vào giờ rất “linh thiêng” nhưng có một điều là không được tốt cho chị Hai và mấy bà con dâu như mợ Tư (mẹ tôi) mợ Sáu chẳng hạn. Em có lấy ý kiến Thầy thì muốn vậy phải bỏ một đạo bùa vào trong áo quan truớc khi hạ huyệt, anh đồng ý nhé?
- Đồng ý cái gì? Cô nói với thím Tư là không được lộn xộn, tôi mà điên tiết lên là không xong đâu.
Hoảng sợ bà Tổng về gặp mẹ tôi:
- Không xong rồi mợ, mợ tránh mặt đi, lấy cớ về Hànội lo cho con của mợ, để cậu Tư ở đây là được rồi, khi nào gần đến giờ động quan tôi sẽ nhắn mợ lên để đưa Cụ ra nghĩa trang.
Nghe lời bà chị của bố tôi, mẹ tôi đã về Hànội ngay buổi chiều hôm đó và thế rồi mọi việc cũng qua đi, trong lúc mải lo cho cái sống cho mấy anh chị em chúng tôi gồm năm đứa, mà chú em tôi nhỏ nhất mới được hơn một năm, cho nên mẹ tôi cũng quên luôn chuyện “chết trùng” của bà mẹ chồng.
- Một năm sau,
Mẹ tôi kể tiếp:
- Đúng vào ngày giỗ đầu của bà nội anh, tôi cũng quên luôn chuyện chết trùng, tôi lại không về quê để dự đám giỗ, vì em Sơn của anh mới hơn hai tuổi, cho nên tôi chỉ được tin Bác Hai gái, không bệnh mà chết vào ngày giỗ cụ. Tôi cũng không quan tâm đến cái chết này phần vì lo buôn bán, phần thì cũng không mấy tin vào những lời nói của ông thầy cúng trên Sơn Tây, thêm nửa ông Thầy cũng không còn thờ cúng thần linh nữa vì già yếu và bệnh hoạn. Lại một năm nữa qua đi gần đến ngày giỗ hết, mẹ tôi mới nói với bố tôi ngày giỗ hết sẽ làm ở nhà bố mẹ tôi tại phố Khâm Thiên, vì trên Sơn Tây Bác Hai ngoài giỗ bà nội còn phải làm giỗ cho bà Hai. Bố tôi đồng ý cho nên sau bữa giỗ “thiên thường" (trước ngày giỗ một ngày) vào lúc sáu giờ chiều thì ngay trong đêm hôm đó, mẹ tôi kể tiếp:
- Tối hôm đó, Bố anh, anh Đỉnh, anh Đồng, Cô Phượng và anh đều nằm ngủ ở phòng ngoài trên gác, còn tôi và chú Sơn nằm ở phòng trong nơi có cửa cầu thang xuống nhà dưới, chắc anh còn nhớ, cái cầu thang lên lầu ở ngoài sân sau của nhà mình. Vào khoảng gần nửa đêm, chú Sơn thức giấc khóc tôi ngồi dậy dỗ chú nín khóc, trong cái tĩnh mịch của nửa đêm nơi nhà mình cũng gần như nửa quê nửa tỉnh thành, tôi chỉ còn nghe tiếng nút sữa của chú Sơn. Trong lúc đó nhìn qua của sổ, những con đom đóm đang lập lòe bay qua bay lại làm tôi cũng thấy hơi rợn người. Bất chợt tôi nghe tiếng ai mở cửa nơi cầu thang để vào buồng của tôi, ngẩng lên tôi thấy một bóng người sau khi vào nhà đã quay lưng đóng cửa ra vào. Giật mình tôi hỏi:
- Ai đó?
Tôi không nghe tiếng trả lời mà lại thấy một bóng người đàn bà hình dáng quen thuộc, thò tay vén màn của tôi. Sợ quá tôi hét ầm lên:
- Trộm, trộm ...
Đến đây tôi thấy bóng người đi nhanh ra buồng ngủ phía ngoài, nơi bố anh và các anh chị đang ngủ, nhưng tại buồng này cũng có đặt bàn thờ của Bà Nội và bóng người biến mất. Bố anh nghe tôi la trộm, trộm... ông thức dậy vào buồng tôi rồi nói:
- Không phải trộm đâu, Bà Nội về đấy tôi thấy bà lên bàn thờ.
Nghe bố anh nói vậy tôi sợ quá, và nhớ lại lời ông Thầy trên Sơn Tây đã nói là Bà chết vào ngày trùng năm, và sẽ bắt mỗi năm một người con dâu đi theo Bà, do đó tôi bắt bố anh canh thức cho đến sáng. Khi có bóng mặt trời, tôi bỏ cả buôn bán mà chạy xuống dưới Ấp Thái Hà tìm đến đền thờ của ông Thầy cúng của Ấp để nhờ giúp đỡ. Sau khi làm những thủ tục cúng vái, ông thầy giao cho tôi một đạo bùa và nói rằng:
- Nhà chị đem đạo bùa này về Sơn Tây, đúng tám giờ tối hôm nay, mang đạo bùa này ra nơi ngôi mộ của cụ rồi đào đất tại một góc mộ, chôn đạo bùa này là xong, năm sau cụ sẽ không còn về bắt cô con dâu nào nữa.
Mẹ tôi nói tiếp:
- Buổi chiều hôm đó, tôi đã về Phố Gạch vào lúc sáu giờ chiều, tôi không vào làng mà tạt vào nhà Thím Sáu (người vợ thứ hai của em ruột bố tôi) ở ngoài chợ. Tôi kể cho thím Sáu anh nghe những lời ông thầy nói cho nên thím Sáu đã đồng ý với tôi, chờ đến tám giờ tối hai chị em tôi ra nghĩa trang chôn đạo bùa tại ngôi mộ bà nội anh. Công việc làm xong tôi về ngay Hà Nội, nên trong làng không một ông bà nào biết hai chị em tôi vừa ra mộ cụ để yểm bùa, cũng kể từ ngày chôn đạo bùa, bà Nội anh đã không về bắt tôi hay bắt thím Sáu là những người con dâu còn lại của cụ nữa.
Nghe xong câu chuyện Thần Trùng mà mẹ tôi vừa kể, tôi lại chợt nhớ đến người anh Cả của tôi, tên là Ngô Hán Đỉnh chết khi vừa được mười lăm tuổi, cũng đã có lần về thăm chúng tôi nên tôi hỏi:
- Mẹ làm con nhớ lại hồi năm 1945 trong ngày giỗ đầu của anh Đỉnh, lúc đó mẹ có nói đến đêm hôm mẹ cúng cơm anh Đỉnh, anh ấy có về thăm mẹ và chúng con có phải không?
- Ừ đúng đấy, anh làm tôi cũng nhớ lại câu chuyện này.
- Vậy mẹ kể lại cho chúng con nghe đi.
Mẹ tôi yên lặng một chút như nhớ lại dĩ vãng rồi bà kể:
- Như anh biết, anh Đỉnh sau khi đi học về đã ra tắm sông, khi trở về nhà anh Đỉnh bị lên cơn sốt, người anh nóng có lúc lên đến 40 độ, nhờ Dì Thoa của anh là Y Tá Trưởng của Bệnh viện Cống Vọng cho nên tôi đã đưa được anh Đỉnh vào điều trị tại đây. Sau khi khám nghiệm, Bác sĩ Tây (người Pháp) cho biết anh Đỉnh bị bệnh thương hàn trong lúc đó thuốc của nhà thương chỉ còn vài ba mũi, và được bệnh viện dành cho bệnh nhân người Pháp, như vậy thì anh Đỉnh không qua khỏi vì bệnh viện thiếu thuốc. Dì Thoa đã yêu cầu bệnh viện cho một mũi, nếu sau mấy giờ có thuyên giảm thì sẽ tiếp tục chích để cứu sống, còn không không nên phí thuốc. Sau một mũi thuốc, nhiệt độ cơ thể chỉ có tăng mà không thấy giảm cho nên mấy giờ sau Bác sĩ trưởng phòng đã quyết định không chích thêm thuốc cho nên anh Đỉnh đã chết vào hai ngày sau, anh còn nhớ chuyện này không?
- Dạ con nhớ, con có vào thăm anh trước khi anh chết tại bệnh viện Cống Vọng, ngày đó Dì Thoa có uy tín với những người Pháp lắm.
- Đúng đấy nhưng anh Đỉnh vắn số, mũi thuốc đầu tiên không công hiệu cho nên mẹ chết cả nửa người khi anh tắt thở trên tay mẹ.
- Rồi sao nữa, mẹ kể con nghe đi.
- Ngày giỗ đầu của anh Đỉnh, chiều hôm trước mẹ có làm mâm cơm cúng anh, đêm đến phòng ngoài ở trên gác chỉ có bố anh, chị Phượng, anh, chú Sơn và cô Loan nằm ngủ trên sàn nhà trước bàn thờ các cụ và bàn thờ anh Đỉnh. Phòng cầu thang lên gác tôi và cô Yến (em út của tôi) nằm vì Yến cũng mới có ba tuổi. Lúc nửa đêm tôi trằn trọc không ngủ được, tôi nhìn ra cửa sổ, xa xa có những con đom đóm lập lòe, trong đó tôi thấy có một con đom đóm lớn, sáng như một vì sao cùng bay trong đám đom đóm này. Không biết anh có nhớ không, lúc đó phía sau nhà mình có mấy căn nhà, rồi tiếp đến là những ruộng rau muống và mấy thửa ruộng trồng ngô; mấy căn nhà này có nuôi chó, trong đó có một con chó mực. Khi đám đom đóm đến gần, tôi thấy bầy chó hực lên rồi tôi nghe tiếng sủa của cả bầy chó phía sau nhà. Tiếng chó sủa mỗi lúc một dữ dội lẫn trong đó là tiếng ư ử đầy sợ hãi của nhửng con chó nhỏ. Tôi ngồi dậy ra mở rộng cửa sổ để coi xem có kẻ trộm nào vào nhà hay không, vì nhà mình cũng đã mấy lần bị trộm thăm viếng. Bất chợt tôi thấy con đom đóm lớn tách bầy và bay thẳng về phía tôi, tuy có sợ hãi nhưng vì chỉ còn nghe có một tiếng con chó mực sủa mà thôi, cho nên tôi linh cảm rằng anh Đỉnh về thăm nhà. Khi con đom đóm còn cách của sổ chừng vài thước, tôi nói:
- Phải Đỉnh đấy không con, ngày mai là ngày giỗ con, con về thăm bố mẹ và các em phải không? Nếu đúng thì con vào đây với mẹ...
Anh biết không, con đom đóm đúng là linh hồn của anh Đỉnh, anh đã bay vào trong phòng qua cửa sổ chỗ tôi đang đứng, ánh sáng lân tinh đã rà sát mặt tôi, tôi muốn giơ tay ôm lấy nó, nhưng không được, trong lúc đó tiếng sủa của bầy chó đã tắt hẳn, tôi mới nói:
- Bố và các em ở phòng ngoài, anh ra thăm bố và các em đi, sau khi nói tôi đi ra phòng ngoài thì bóng sáng bay theo tôi, tôi thấy “linh hồn” anh qua ánh sáng lân tinh của con đom đóm đã rà sát mặt từng người một, lúc đó bố anh cũng như cô Phượng (Pháp Danh Nguyên Hoa, quá vãng năm 2004 tại Linh Sơn Tự Melbourne), chú Sơn (Cựu phó Hiệu Trưởng Trường Đại Học Sư Phạm Hànội) và anh đều thức giấc, chỉ có cô Loan (chết năm 1980 tại Hànội, chồng là Giáo Sư Sử Học Trần Quốc Vượng) là còn ngủ.
Bố anh nói:
- Con về thăm nhà bố mẹ mừng, thôi âm dương cách trở con nên về đi thì hơn.
Sau câu nói của bố anh, con đom đóm đã bay lên bàn thờ gia tiên và bàn thờ của anh Đỉnh, rồi bay một vòng khắp phòng ngoài lại trở vào phòng trong, đến giường cô Yến (hiện là giáo viên tại Hải Phòng) đang ngủ, đảo vài vòng vì cửa màn tôi gài kỹ, cuối cùng anh bay vọt ra của sổ đúng lúc này tiếng con chó mực lại hực lên coi dữ dằn lắm. Tôi nhìn theo bóng anh cho đến khi khuất dạng cũng là lúc cả nhà thức giấc chờ sáng, anh còn nhớ câu chuyện này mà?
- Dạ con còn nhớ lúc đom đóm vờn trên mặt con, con nghe lạnh xương sống, nhưng khi bố nói với anh Đỉnh, con thấy vững tâm vì không phải là ma đang nhát con.
- Đúng đấy người ta khi chết đi, thân xác tan rữa nhưng linh hồn thì vẫn còn tồn tại mãi mãi trong không gian vô tận phải không anh?
Chấm dứt câu chuyện của gia đình của chúng tôi, tôi hy vọng nếu có ai muốn tìm hiểu về con người với “xác phàm và linh hồn” quý bạn sẽ có thêm tài liệu để nghiên cứu, mong lắm thay.
Ngô Duy Lâm
Thần Trùng
Phần Bảy
Tháng 6 năm 1994 khi thấy đa số cựu Quân Nhân của Quân đội Việt Nam Cộng Hoà được định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O, mà bản thân tôi vào năm 1992 người mua căn nhà cũ của bà ngoại, mấy cháu có nhận được thư của Sở Công An Thành Phố Sài Gòn gọi tôi lên để lập hồ sơ cho tôi xuất ngoại, mặc dù tôi đã định cư tại Úc Châu đã có hơn tám năm rồi. Do đó tôi quyết định về Việt Nam để thăm Bố Mẹ tôi tại Hà Nội và thăm lại Quê Cha Đất Tổ là nơi mà tôi đã xa cách có đến bốn mươi năm chưa về thăm lại từ năm 1954 đến 1994. Trong lúc xếp đặt chương trình đi thăm Hà Nội, tôi được ông bố chồng của con gái lớn của tôi, bảo lãnh để về Sàigòn thăm hai đứa con gái còn sót lại, vì chúng đã có chồng trước khi tôi làm bảo lãnh cho vợ con tôi vào năm 1984.
Khi mua vé máy bay, cô bán vé là con người bạn mới quen biết cho tôi hay rằng, cháu xin Visa cho tôi ra và vào Việt Nam trong vòng ba tháng, trong lúc tôi chỉ tính đi có bốn tuần. Sang tuần lễ thứ ba ở Hà Nội vợ chồng tôi đã về Sơn Tây để thăm mồ mả tổ tiên trong nghĩa trang của dòng họ Ngô tại làng Kiểu Trung chợ gạch, nay được đổi tên là thôn Kiều Trung thị trấn Phúc Thọ, huyện Phúc Thọ tỉnh Hà Tây, mấy ngày trước khi chúng tôi trở vào lại trong Nam để lên đường về Úc. Ngày vợ chồng tôi thắp nhang trước ngôi mộ của Bà Nội tôi, Bà đã nuôi tôi từ khi tôi vừa mới chào đời được hơn một tháng, cầm ba nén nhang tôi khấn Bà:
- Vợ chồng con về thăm Nội sau hơn bốn mươi năm con lưu lạc giang hồ, Nội nhận ra con không?
Sau khi khấn xong tôi mới cắm mấy cây nhang vào bát hương trên ngôi mộ của Bà, trong lúc cắm mấy cây hương thì không hiểu tại sao, lại có một cọng cỏ mảnh mai như cọng bún đã đâm vào ngón tay trỏ cũa tôi đến chảy máu, như ta cầm ống chích để rút máu vậy. Phải chăng Bà Nội tôi đã nhận ra thằng cháu mà Bà nuôi nấng cưng chiều hơn sáu mươi năm về trước, nếu không có Bà thì tôi đâu có cơ hội sống cho đến bây giờ? Máu của tôi đã để lại trên bát nhang của Bà như những chứng tích của sự thăm viếng của tôi sau hơn bốn mươi năm tôi mới về lại quê tôi, khi thấy việc này xẩy ra một cách quá bất ngờ nhưng tiềm ẩn một sự mầu nhiệm của huyết thống, Bố tôi đã phải nói:
- Bà Nội nhận ra anh là cháu của bà rồi đấy.
Buổi chiều khi về lại Hà Nội, tôi đã kể sự việc vừa xẩy ra cho Mẹ tôi nghe, đồng thời vì nhớ lại ngày nào khi tôi còn bé, mẹ tôi đã nói về Bà sau khi Bà chết, tôi nói:
- Mẹ, bà nội mất gần sáu mươi năm rồi, sao bà lại lấy máu của con để nghiệm xem có phải con là cháu nội của bà hay không, nếu đúng thì bà đâu đã siêu thoát?
- Câu chuyện lấy máu của anh hồi sáng tôi nghĩ là có thật, còn chuyện bà nội anh có siêu thoát hay không thì tôi không biết.
- Vậy mẹ kể lại cho con nghe câu chuyện hồi xưa khi gia đình mình còn ở dưới phố Khâm Thiên, liên quan đến bà nội về thăm Bố Mẹ mà hôm ngày giỗ bà, mẹ gặp bà đấy.
- Ừ tôi kể lại để anh nghe nhé, câu chuyện xẩy ra đã lâu rồi tôi cũng không còn nhớ nhiều đâu, tuy nhiên anh còn trẻ anh còn nhớ những chi tiết tôi nói cho anh nghe vào những năm 1942 hay 1943 thì phải, câu chuyện như sau:
- Bà Nội của anh ngày còn sinh tiền bà mở tiệm thuốc Bắc tại Chợ Gạch Sơn Tây, do vậy khi anh sinh thiếu tháng mà nguyên nhân có lẽ Dì Sáu của anh, là em ruột tôi, lấy chồng là em ruột của Bố anh. Sau khi sinh được mấy ngày Dì Sáu vì ghen tuông, nên đã nhẩy xuống giếng nước trong làng tự tử chết đi để lại cô Nhung, mà sau này tôi nuôi như anh thấy đấy. Do cái chết của em tôi, tôi có buồn phiền mà cũng có người lại nói rằng, tôi đưa Dì Sáu anh đi sinh nên anh đòi ra sớm nên tôi mới sinh ra anh trong lúc anh ở trong bụng tôi mới chỉ có hơn bảy tháng, cho nên khi ra đời tôi đã phải đưa anh về quê để bà, chăm sóc anh với sâm nhung quế phụ cho nên anh mới còn sống đến ngày nay vậy.
Người ta thường nói: mẹ chồng thường ghét bỏ con dâu, hay nói xấu con dâu... nhưng với bà nội của anh thì khác, bà rất thương Bác Hai gái, thương tôi và thương Dì Sáu. Tôi chưa thấy ai thương những người con dâu như bà cho nên sau này, bắt chước bà cũng như học theo tính bà, nên tôi đã thương mấy cô con dâu của tôi như anh thấy đấy. Bà thương chị em bạn dâu chúng tôi quá, cho nên nó cũng là cái tội của chúng tôi sau khi bà chết đi được ít ngày, để tôi nhớ lại kể cho anh nghe: Ngày bà vừa trút hơi thở thì lúc đó trong làng có một ông thầy cúng, tôi từ Hà Nội về quê trước đó mấy ngày nên khi bà vừa nhắm mắt, tôi ghé thăm ông thầy cúng để xin ngày giờ tốt làm ma chay cho bà. Vì các bác chú cô của anh đều là những người có vai vế ở Chợ Gạch và làng Kiều Trung như: Bác Lý Trưởng, bác Chánh Tổng và bác Tổng Sư... cho đến bố anh cũng tốt nghiệp phổ thông và làm việc ở Hà Nội. Sau khi lấy số, coi giờ ông thầy nói cho tôi biết như sau:
- Cụ chết vào ngày giờ không được tốt, ảnh hưởng đến tương lai và sự nghiệp của con cháu sau này, nhưng điều này không quan trọng mà điều tôi quan tâm đến là Cụ chết vào giờ “Trùng Năm” nguy hiểm lắm.
- Thưa thầy “trùng năm” là cái gì, tôi hỏi lại ông thầy.
- Trùng năm là cứ đến ngày giỗ cụ, cụ sẽ bắt đi một người trong gia đình.
- Thưa thầy, thầy cho tôi hỏi là thầy có biết bà nội mấy cháu có ý định bắt ai không, con trai, con gái hay con dâu con rể?
- Nhà chị là thế nào với bà cụ?
Ông thầy hỏi ngược lại.
- Dạ thưa thầy, cháu là con dâu thứ hai của Cụ Đồ (bà nội tôi).
- À thế thì không xong rồi, bà có tiếng là người thương và quý con dâu, theo tôi tính toán thì bà sẽ bắt người con dâu thứ nhất của bà vào ngày giỗ đầu đấy.
Nghe đến đây tôi sợ quá nên tôi hỏi lại ông thầy:
- Thưa thầy, nếu vậy thì chúng cháu phải làm sao bây giờ?
- Chuyện không đơn giản, nếu nhà chị cần đến thầy thì: cụ phải được chôn cất vào ngày giờ tôi ghi cho chị đây, đồng thời thầy cũng phải làm một cái lễ để yểm một đạo bùa vào trong áo quan của cụ trước khi hạ huyệt.
Nếu nhà chị thuận làm việc này, thì ngay bây giờ lấy tên tuổi của mấy bà con dâu của Cụ Đồ, đem lại đây để tôi thư bùa.
- Vâng thưa thầy, cháu sẽ báo cho mấy chị em chúng cháu biết, rồi sẽ ra gặp thầy vào sáng sớm ngày mai.
- Thôi được rồi nhà chị về đi nhưng chị cho tôi biết tên và ngày sinh tháng đẻ của chị, tôi sẽ cố gắng giúp chị, vì tôi biết ông Hai (anh ruột của bố tôi) cũng gàn lắm và không tin vào tôi đâu.
Sau khi chào ông thầy cúng xong, mẹ tôi về nhà của bà chị bố tôi, bà có ông chồng là thầy đồ dạy chữ nho cho cả Tổng, nên ông được mọi người trong Tổng gọi là ông Tổng Sư, kể lại câu chuyện vừa rồi cho bà Cô Tổng tôi nghe xong, mẹ tôi nói:
- Bây giờ thì chị tính sao, em sợ bác Hai, em không dám nói câu chuyện này đâu, bác Hai nổi cơn lên là em ăn đòn đấy.
- Mợ để đấy cho tôi, ông thầy giỏi có tiếng hàng Huyện nhà mình, tôi sẽ lựa lời nói với bác Hai rồi sẽ cho mợ biết sau.
Bà Tổng sau đó đã đi sang thăm ông anh ruột, nơi mà thi hài bà nội tôi được quàn tại đây, gặp ông Hai bà nói:
- Em vừa đi coi thầy để tìm ngày và giờ tốt an táng mẹ trong thửa đất của nhà. Ông thầy sau khi bấm số đã cho biết mẹ chết vào giờ rất “linh thiêng” nhưng có một điều là không được tốt cho chị Hai và mấy bà con dâu như mợ Tư (mẹ tôi) mợ Sáu chẳng hạn. Em có lấy ý kiến Thầy thì muốn vậy phải bỏ một đạo bùa vào trong áo quan truớc khi hạ huyệt, anh đồng ý nhé?
- Đồng ý cái gì? Cô nói với thím Tư là không được lộn xộn, tôi mà điên tiết lên là không xong đâu.
Hoảng sợ bà Tổng về gặp mẹ tôi:
- Không xong rồi mợ, mợ tránh mặt đi, lấy cớ về Hànội lo cho con của mợ, để cậu Tư ở đây là được rồi, khi nào gần đến giờ động quan tôi sẽ nhắn mợ lên để đưa Cụ ra nghĩa trang.
Nghe lời bà chị của bố tôi, mẹ tôi đã về Hànội ngay buổi chiều hôm đó và thế rồi mọi việc cũng qua đi, trong lúc mải lo cho cái sống cho mấy anh chị em chúng tôi gồm năm đứa, mà chú em tôi nhỏ nhất mới được hơn một năm, cho nên mẹ tôi cũng quên luôn chuyện “chết trùng” của bà mẹ chồng.
- Một năm sau,
Mẹ tôi kể tiếp:
- Đúng vào ngày giỗ đầu của bà nội anh, tôi cũng quên luôn chuyện chết trùng, tôi lại không về quê để dự đám giỗ, vì em Sơn của anh mới hơn hai tuổi, cho nên tôi chỉ được tin Bác Hai gái, không bệnh mà chết vào ngày giỗ cụ. Tôi cũng không quan tâm đến cái chết này phần vì lo buôn bán, phần thì cũng không mấy tin vào những lời nói của ông thầy cúng trên Sơn Tây, thêm nửa ông Thầy cũng không còn thờ cúng thần linh nữa vì già yếu và bệnh hoạn. Lại một năm nữa qua đi gần đến ngày giỗ hết, mẹ tôi mới nói với bố tôi ngày giỗ hết sẽ làm ở nhà bố mẹ tôi tại phố Khâm Thiên, vì trên Sơn Tây Bác Hai ngoài giỗ bà nội còn phải làm giỗ cho bà Hai. Bố tôi đồng ý cho nên sau bữa giỗ “thiên thường" (trước ngày giỗ một ngày) vào lúc sáu giờ chiều thì ngay trong đêm hôm đó, mẹ tôi kể tiếp:
- Tối hôm đó, Bố anh, anh Đỉnh, anh Đồng, Cô Phượng và anh đều nằm ngủ ở phòng ngoài trên gác, còn tôi và chú Sơn nằm ở phòng trong nơi có cửa cầu thang xuống nhà dưới, chắc anh còn nhớ, cái cầu thang lên lầu ở ngoài sân sau của nhà mình. Vào khoảng gần nửa đêm, chú Sơn thức giấc khóc tôi ngồi dậy dỗ chú nín khóc, trong cái tĩnh mịch của nửa đêm nơi nhà mình cũng gần như nửa quê nửa tỉnh thành, tôi chỉ còn nghe tiếng nút sữa của chú Sơn. Trong lúc đó nhìn qua của sổ, những con đom đóm đang lập lòe bay qua bay lại làm tôi cũng thấy hơi rợn người. Bất chợt tôi nghe tiếng ai mở cửa nơi cầu thang để vào buồng của tôi, ngẩng lên tôi thấy một bóng người sau khi vào nhà đã quay lưng đóng cửa ra vào. Giật mình tôi hỏi:
- Ai đó?
Tôi không nghe tiếng trả lời mà lại thấy một bóng người đàn bà hình dáng quen thuộc, thò tay vén màn của tôi. Sợ quá tôi hét ầm lên:
- Trộm, trộm ...
Đến đây tôi thấy bóng người đi nhanh ra buồng ngủ phía ngoài, nơi bố anh và các anh chị đang ngủ, nhưng tại buồng này cũng có đặt bàn thờ của Bà Nội và bóng người biến mất. Bố anh nghe tôi la trộm, trộm... ông thức dậy vào buồng tôi rồi nói:
- Không phải trộm đâu, Bà Nội về đấy tôi thấy bà lên bàn thờ.
Nghe bố anh nói vậy tôi sợ quá, và nhớ lại lời ông Thầy trên Sơn Tây đã nói là Bà chết vào ngày trùng năm, và sẽ bắt mỗi năm một người con dâu đi theo Bà, do đó tôi bắt bố anh canh thức cho đến sáng. Khi có bóng mặt trời, tôi bỏ cả buôn bán mà chạy xuống dưới Ấp Thái Hà tìm đến đền thờ của ông Thầy cúng của Ấp để nhờ giúp đỡ. Sau khi làm những thủ tục cúng vái, ông thầy giao cho tôi một đạo bùa và nói rằng:
- Nhà chị đem đạo bùa này về Sơn Tây, đúng tám giờ tối hôm nay, mang đạo bùa này ra nơi ngôi mộ của cụ rồi đào đất tại một góc mộ, chôn đạo bùa này là xong, năm sau cụ sẽ không còn về bắt cô con dâu nào nữa.
Mẹ tôi nói tiếp:
- Buổi chiều hôm đó, tôi đã về Phố Gạch vào lúc sáu giờ chiều, tôi không vào làng mà tạt vào nhà Thím Sáu (người vợ thứ hai của em ruột bố tôi) ở ngoài chợ. Tôi kể cho thím Sáu anh nghe những lời ông thầy nói cho nên thím Sáu đã đồng ý với tôi, chờ đến tám giờ tối hai chị em tôi ra nghĩa trang chôn đạo bùa tại ngôi mộ bà nội anh. Công việc làm xong tôi về ngay Hà Nội, nên trong làng không một ông bà nào biết hai chị em tôi vừa ra mộ cụ để yểm bùa, cũng kể từ ngày chôn đạo bùa, bà Nội anh đã không về bắt tôi hay bắt thím Sáu là những người con dâu còn lại của cụ nữa.
Nghe xong câu chuyện Thần Trùng mà mẹ tôi vừa kể, tôi lại chợt nhớ đến người anh Cả của tôi, tên là Ngô Hán Đỉnh chết khi vừa được mười lăm tuổi, cũng đã có lần về thăm chúng tôi nên tôi hỏi:
- Mẹ làm con nhớ lại hồi năm 1945 trong ngày giỗ đầu của anh Đỉnh, lúc đó mẹ có nói đến đêm hôm mẹ cúng cơm anh Đỉnh, anh ấy có về thăm mẹ và chúng con có phải không?
- Ừ đúng đấy, anh làm tôi cũng nhớ lại câu chuyện này.
- Vậy mẹ kể lại cho chúng con nghe đi.
Mẹ tôi yên lặng một chút như nhớ lại dĩ vãng rồi bà kể:
- Như anh biết, anh Đỉnh sau khi đi học về đã ra tắm sông, khi trở về nhà anh Đỉnh bị lên cơn sốt, người anh nóng có lúc lên đến 40 độ, nhờ Dì Thoa của anh là Y Tá Trưởng của Bệnh viện Cống Vọng cho nên tôi đã đưa được anh Đỉnh vào điều trị tại đây. Sau khi khám nghiệm, Bác sĩ Tây (người Pháp) cho biết anh Đỉnh bị bệnh thương hàn trong lúc đó thuốc của nhà thương chỉ còn vài ba mũi, và được bệnh viện dành cho bệnh nhân người Pháp, như vậy thì anh Đỉnh không qua khỏi vì bệnh viện thiếu thuốc. Dì Thoa đã yêu cầu bệnh viện cho một mũi, nếu sau mấy giờ có thuyên giảm thì sẽ tiếp tục chích để cứu sống, còn không không nên phí thuốc. Sau một mũi thuốc, nhiệt độ cơ thể chỉ có tăng mà không thấy giảm cho nên mấy giờ sau Bác sĩ trưởng phòng đã quyết định không chích thêm thuốc cho nên anh Đỉnh đã chết vào hai ngày sau, anh còn nhớ chuyện này không?
- Dạ con nhớ, con có vào thăm anh trước khi anh chết tại bệnh viện Cống Vọng, ngày đó Dì Thoa có uy tín với những người Pháp lắm.
- Đúng đấy nhưng anh Đỉnh vắn số, mũi thuốc đầu tiên không công hiệu cho nên mẹ chết cả nửa người khi anh tắt thở trên tay mẹ.
- Rồi sao nữa, mẹ kể con nghe đi.
- Ngày giỗ đầu của anh Đỉnh, chiều hôm trước mẹ có làm mâm cơm cúng anh, đêm đến phòng ngoài ở trên gác chỉ có bố anh, chị Phượng, anh, chú Sơn và cô Loan nằm ngủ trên sàn nhà trước bàn thờ các cụ và bàn thờ anh Đỉnh. Phòng cầu thang lên gác tôi và cô Yến (em út của tôi) nằm vì Yến cũng mới có ba tuổi. Lúc nửa đêm tôi trằn trọc không ngủ được, tôi nhìn ra cửa sổ, xa xa có những con đom đóm lập lòe, trong đó tôi thấy có một con đom đóm lớn, sáng như một vì sao cùng bay trong đám đom đóm này. Không biết anh có nhớ không, lúc đó phía sau nhà mình có mấy căn nhà, rồi tiếp đến là những ruộng rau muống và mấy thửa ruộng trồng ngô; mấy căn nhà này có nuôi chó, trong đó có một con chó mực. Khi đám đom đóm đến gần, tôi thấy bầy chó hực lên rồi tôi nghe tiếng sủa của cả bầy chó phía sau nhà. Tiếng chó sủa mỗi lúc một dữ dội lẫn trong đó là tiếng ư ử đầy sợ hãi của nhửng con chó nhỏ. Tôi ngồi dậy ra mở rộng cửa sổ để coi xem có kẻ trộm nào vào nhà hay không, vì nhà mình cũng đã mấy lần bị trộm thăm viếng. Bất chợt tôi thấy con đom đóm lớn tách bầy và bay thẳng về phía tôi, tuy có sợ hãi nhưng vì chỉ còn nghe có một tiếng con chó mực sủa mà thôi, cho nên tôi linh cảm rằng anh Đỉnh về thăm nhà. Khi con đom đóm còn cách của sổ chừng vài thước, tôi nói:
- Phải Đỉnh đấy không con, ngày mai là ngày giỗ con, con về thăm bố mẹ và các em phải không? Nếu đúng thì con vào đây với mẹ...
Anh biết không, con đom đóm đúng là linh hồn của anh Đỉnh, anh đã bay vào trong phòng qua cửa sổ chỗ tôi đang đứng, ánh sáng lân tinh đã rà sát mặt tôi, tôi muốn giơ tay ôm lấy nó, nhưng không được, trong lúc đó tiếng sủa của bầy chó đã tắt hẳn, tôi mới nói:
- Bố và các em ở phòng ngoài, anh ra thăm bố và các em đi, sau khi nói tôi đi ra phòng ngoài thì bóng sáng bay theo tôi, tôi thấy “linh hồn” anh qua ánh sáng lân tinh của con đom đóm đã rà sát mặt từng người một, lúc đó bố anh cũng như cô Phượng (Pháp Danh Nguyên Hoa, quá vãng năm 2004 tại Linh Sơn Tự Melbourne), chú Sơn (Cựu phó Hiệu Trưởng Trường Đại Học Sư Phạm Hànội) và anh đều thức giấc, chỉ có cô Loan (chết năm 1980 tại Hànội, chồng là Giáo Sư Sử Học Trần Quốc Vượng) là còn ngủ.
Bố anh nói:
- Con về thăm nhà bố mẹ mừng, thôi âm dương cách trở con nên về đi thì hơn.
Sau câu nói của bố anh, con đom đóm đã bay lên bàn thờ gia tiên và bàn thờ của anh Đỉnh, rồi bay một vòng khắp phòng ngoài lại trở vào phòng trong, đến giường cô Yến (hiện là giáo viên tại Hải Phòng) đang ngủ, đảo vài vòng vì cửa màn tôi gài kỹ, cuối cùng anh bay vọt ra của sổ đúng lúc này tiếng con chó mực lại hực lên coi dữ dằn lắm. Tôi nhìn theo bóng anh cho đến khi khuất dạng cũng là lúc cả nhà thức giấc chờ sáng, anh còn nhớ câu chuyện này mà?
- Dạ con còn nhớ lúc đom đóm vờn trên mặt con, con nghe lạnh xương sống, nhưng khi bố nói với anh Đỉnh, con thấy vững tâm vì không phải là ma đang nhát con.
- Đúng đấy người ta khi chết đi, thân xác tan rữa nhưng linh hồn thì vẫn còn tồn tại mãi mãi trong không gian vô tận phải không anh?
Chấm dứt câu chuyện của gia đình của chúng tôi, tôi hy vọng nếu có ai muốn tìm hiểu về con người với “xác phàm và linh hồn” quý bạn sẽ có thêm tài liệu để nghiên cứu, mong lắm thay.
Ngô Duy Lâm
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối |
---|
1 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:
An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |
Quỷ Cốc Toán Mệnh |
Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |
Quẻ Mai Hoa Dịch Số |
Bát Tự Hà Lạc |
Thái Ât Thần Số |
Căn Duyên Tiền Định |
Cao Ly Đầu Hình |
Âm Lịch |
Xem Ngày |
Lịch Vạn Niên |
So Tuổi Vợ Chồng |
Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












