Tuy nhiên tôi cũng chưa có đủ hứng thú để tìm đọc tài liệu này. Lý do tôi không có đủ hứng thú là vì chỉ cần nhìn qua những ai đọc tài liệu này, và những ai trích dẫn tài liệu này, thì cũng có thể lốm đốm nhận ra giá trị của nó là như thế nào. Hôm nay tôi lại tình cờ gặp được Trăm Năm Mệnh Lý Què Quặt khi đang tra web nên tôi có đọc sơ. Phía dưới tôi chia sẻ một số suy nghĩ cá nhân về tài liệu Trăm Năm Mệnh Lý Què Quặt như sau:
Về mặt tốt:
Ông Vương Khánh hoàn toàn có lý khi đề nghị học Tử Bình phải nghiên cứu cả hai trường phái là “Cách Cục Pháp và Tượng Pháp (bao gồm Vượng Suy Pháp)”. Đây cũng là đề nghị của nhiều bậc tông sư như ông Bành Khang Dân chẳng hạn. Thậm chí ông Bành Khang Dân không chỉ học Cách Cục Pháp, Vượng Suy Pháp, mà còn ứng dụng Tinh Tông thập nhị cung trong việc xem mệnh. Theo như cá nhân tôi được biết, hiện có nhiều anh chị em cũng theo hướng nghiên cứu kết hợp Cách Cục Pháp và Vượng Suy Pháp, nhưng hiển nhiên vẫn lấy một trong hai làm chủ, cái còn lại làm phụ, chứ không phủ định Cách Cục Pháp là vô dụng, hoặc Vượng Suy Pháp là sai lầm.
Về mặt chưa được thì có lẽ do tính của tôi là có con mắt diều hâu nên thành ra hơi nhiều. Phía dưới tôi trình bày những nhận xét chung cho toàn tài liệu. Sau đó tôi sẽ phân tích cụ thể những điểm mà tôi cho là thiếu sót thông qua phần luận các ví dụ trong tài liệu. Tôi chỉ tập trung vào các ví dụ, vì các phần khác hơi dài, tôi không đủ kiên nhẫn để đọc hết.
Những điểm chưa được cho toàn tài liệu:
Thứ nhất là ông Vương Khánh (từ đây tôi gọi là Vương Khánh cho ngắn gọn và nhẹ nhàng) định nghĩa tài liệu quá rộng: Trăm Năm Mệnh Lý Què Quặt. Mệnh Lý là một trong Ngũ Thuật, và Mệnh Lý không chỉ có Tử Bình, mà còn bao gồm Tử Vi và nhiều môn khác như Bát Tự Hà Lạc, Quỷ Cốc Toán Mệnh. Nếu chỉ với mục đích là chỉ ra những thiếu sót của nền học thuật Tử Bình đương đại, mà dùng từ Mệnh Lý là không chính xác, dễ gây hiểu nhầm.
Thứ hai, trong tài liệu có chưa đến 10 mệnh lệ, nhưng trong đó đã có 2 cặp mệnh lệ cùng năm, cùng tháng, cùng ngày, chỉ khác giờ. Phải biết bình thường, nếu tìm được 1 cặp mệnh lệ giống niên, nguyệt, nhật là điều vô cùng khó. Đằng này tác giả tìm được 2 cặp mà lại có sự cao thấp rõ ràng trong việc định phú quý bần tiện, thì tôi cho rằng vô cùng hi hữu. Do vô cùng hi hữu như vậy nên mặc dù không cho là Vương Khánh ngụy tạo bát tự, nhưng tôi vẫn bảo lưu quyền nghi ngờ cần phải có khi đọc tài liều này.
Thứ ba, quan điểm của Vương Khánh là học Tử Bình phải hai bút cùng vẽ, phải tinh thông cả Cách Cục Pháp và Vượng Suy Pháp. Tuy nhiên, trong tài liệu này, Vương Khánh chỉ đưa ra những ví dụ chứng minh Vượng Suy Pháp sai và Cách Cục Pháp đúng, nhưng không có ví dụ nào làm ngược lại, tức là chứng minh Cách Cục Pháp sai mà Vượng Suy Pháp đúng. Thành ra tôi suy nghĩ là Vương Khánh nói được mà không làm được, rằng tài liệu này chẳng qua cũng chỉ là một tài liệu đề cao Cách Cục Pháp, xem nhẹ Vượng Suy Pháp như rất nhiều tài liệu Cách Cục Pháp khác; có điều tài liệu này được bọc bằng một cái tên mỹ miều và một quan điểm có vẻ khách quan.
Thứ tư, trong các ví dụ, có nhiều chỗ Vương Khánh luận Vượng Suy Pháp chưa hợp lý. Cũng có nhiều chỗ tôi cho là thể hiện ra việc Vương Khánh không có kinh nghiệm thực chiến xem bát tự. Ví dụ như nguyên cục bát tự thể hiện đương số có bệnh A, nhưng thực chất tại thời điểm xem số, đương số lại không có bệnh này. Đó là do bệnh A này tuy thể hiện ở nguyên cục nhưng không phải bẩm sinh, mà phát ở đại vận, nhưng đại vận phát bệnh lại chưa đến, thành ra đương số chưa có bệnh đó. Hoặc cũng có trường hợp nguyên cục bát tự không thể hiện bệnh A, nhưng ở đại vận lại có bệnh, đều là do tác động của đại vận vào mệnh cục. Vì vậy, chỉ dựa vào nguyên cục bát tự để đoán bệnh thì độ chính xác sẽ bị giảm thấp. Theo tôi thấy, muốn xem bệnh tật, sức khỏe chẳng hạn, thì đầu tiên cần xem nguyên cục bát tự có bệnh gì, sau đó lại xem đại vận đó có bệnh gì. Nếu là vừa vào một đại vận B nào đó, thì phải xem đại vận trước đó đương số có bệnh gì. Bởi vì có thể đại vận B thể hiện sức khỏe đương số tốt, nhưng đó là nhìn chung cho cả đại vận 10 năm. Mà hiện tại, đương số chỉ mới ở năm đầu tiên, hoặc năm thứ hai của đại vận mới, thành ra vấn đề sức khỏe ở đại vận cũ vẫn còn đeo bám, chưa đến thời cơ chữa trị. Việc Vương Khánh xem bệnh tật, tài lộc mà chỉ căn cứ vào nguyên cục bát tự, không đề cập đến hành vận, theo tôi là một thiếu sót không nên có ở một người dày dạn kinh nghiệm thực chiến, có biểu hiện của việc gọt số. Do đó, tôi cũng bảo lưu quyền nghi ngờ chính đáng khi đọc tài liệu này.
Tiếp theo, tôi phân tích những chỗ tôi cho là sơ hở trong các mệnh lệ.
“Ví dụ 3: Càn tạo: Ất Hợi - Kỷ Sửu - Giáp Thìn - Ất Hợi
Bát tự này nhìn giống như thân Tài lưỡng đình, dùng vượng suy pháp xem thì mệnh này tốt. Dùng cách cục pháp xem, dùng Chính Tài cách luận thành bại, cát thần Chính Tài cần có Quan Sát hoặc Thực Thương hộ vệ, hiện thời thì không thấy dụng thần Quan Sát, Thực Thần nào cả, đã thế còn có 2 Kiếp Tài tọa vượng đến khắc, chẳng những không thành cách mà còn bị phá tổn nghiêm trọng. Phú quí thôi đừng mơ nữa, cát thần nắm lệnh bị phá, cách bị phá bởi hung thần Kiếp Tài không có chế hóa, tất là người có tai nạn lớn. Mệnh chủ là người cực kỳ nghèo, sau do sự cố trong lúc mưu sinh mà mất đôi cánh tay, phải đi làm ăn mày. Kiếp Tài là đệ nhị ác thần trong 4 hung thần, cực hung hãn, là cường đạo chuyên môn đoạt Tài, không có Tài thì đoạt mệnh.”
Bát tự này không phải Thân – Tài lưỡng đình, cho nên cũng không phải là mệnh tốt. Bát tự thấu hai Ất một Giáp, tọa chi lại gặp Hợi, Thìn, Hợi là Giáp Ất mộc thâm căn, rất vượng. Chính Tài Kỷ thổ tuy là bản khí tại tháng Sửu nhưng tháng Sửu thổ mỏng (đóng băng), bởi vì trong Sửu có tàng Tân kim và Quý thủy tiết khí Kỷ thổ. Đồng thời Giáp – Kỷ hợp mà gặp hai Ất thấu xuất đố hợp, là Kỷ thổ bị khắc rất mạnh. Trong nguyên cục bát tự, Kỷ thổ không gặp nguyên thần là vô cứu. Hữu bệnh vô dược (có bệnh mà không có thuốc), rất xấu.
“Ví dụ 4: Càn tạo: Đinh Dậu - Quí Mão - Nhâm Ngọ - Canh Tuất
Đại vận: Mậu Tuất
Lưu niên: Mậu Tý
Mệnh này Thất Sát có nguồn ám tàng, trong kết cấu thì Thất sát không bị chế, Sát cơ trùng trùng, đại vận thấu Sát sẽ là ứng kỳ. Vận Mậu Tuất, năm Bính Tuất bị ung thư ruột, năm Mậu Tý không chữa khỏi mà chết. Thất Sát không bị chế, không hợp trói, chỉ cần có lực và có nguồn thì tất sẽ công thân. Thiên can chỉ hung tai hoành họa có tính bất thình lình, địa chi chủ ác tật tuyệt chứng, điều này ít khi không ứng nghiệm. Vượng suy pháp không phân thập thần cát hung, xem thì đơn giản, thực tế thì đã chặn mất nửa con đường dự đoán, càng đi càng hẹp.”
Bát tự này thiên phá địa xung tại niên trụ và nguyệt trụ, tạo thành thế thủy – hỏa thiên chiến. Tại nhật trụ và thời trụ thành thế liên châu, vượng khí vận hành Ngọ -> Tuất -> Canh -> Nhâm, tức là vượng khí đến thân thì dừng. Thành ra bát tự này thiên vượng. Việc Vương Khánh cho là Thất Sát ám tàng (tại Tuất) là đúng, nhưng cho là Thất Sát không bị chế là không đúng, vì có Canh kim thấu xuất hóa (thông quan) Tuất thổ. Cần chú ý Canh kim có tạp căn tại Tuất, thành ra vẫn có lực hóa Mậu thổ.
Điểm cần chú ý tại bát tự này chính là tuy thân vượng (thiên vượng: vượng một chút) nhưng là vô căn, may nhờ có liên châu mà được khí. Những bát tự nhật chủ thiên vượng hoặc thiên nhược vô căn, hoặc nguyên cục có bán hợp, bán hội, khi gặp hành vận thích hợp dễ dàng bị phá cục, tức thân vượng chuyển nhược, thân nhược chuyển vượng.
Vào đại vận Mậu Tuất, đại vận và nguyệt trụ thiên hợp địa hợp hỏa cục, bát tự phá cục, nhật chủ Nhâm thủy chuyển nhược. Năm Mậu Tý, nhật trụ Nhâm Ngọ gặp thiên khắc địa xung, phá thế liên châu, nên nhật chủ Nhâm thủy gặp Sát thần đến khắc, mà khắc tại mệnh cung, tức dễ gặp bổn mệnh hao tổn.
“Ví dụ 5: Càn tạo: Quí Sửu - Ất Mão -Bính Ngọ - Đinh Dậu
Ví dụ 6: Càn tạo: Quí Sửu - Ất Mão - Bính Ngọ -Nhâm Thìn
Theo vượng suy pháp luận mệnh thì nhật chủ của hai người đều rất vượng, nhật chủ hỉ gặp Quan Sát cùng đến chế ngự. Vd (6) hiển nhiên ngon hơn vd (5) nhiều. Thực tế thì lại không phải như vậy. Cách cục pháp giải quyết mối nghi hoặc này khá dễ. Vd (6) Ấn cục dụng Quan, mà Quan Sát lại hỗn tạp, cục không thành. Cho nên mới khó chuyên tâm theo đuồi công việc tính chất Ấn và bị thất nghiệp, chỉ đi làm thuê. Vd (5) Ấn cục dụng Quan, Quan tinh thanh mà không tạp, thành cục. Có điều Quan tinh bị ám thương, cục có tì vết. May mà có thể chuyên tâm theo nghề nghiệp thuộc Ấn.”
Đúng là theo Vượng Suy Pháp thì nhật chủ rất vượng, bởi vì cả ba trụ niên, nguyệt, nhật đều ở thế liên châu, vượng khí đến thân thì dừng, lại Sát, Ất, nhật chủ đều có thể xem là thông căn, tự vượng (niên trụ là thông căn ám sinh, không phải tự vượng). Tuy nhiên, Vượng Suy Pháp khi gặp trường hợp nhật chủ rất vượng, thường không lấy Quan Sát đến chế ngự. Đó là hạ sách. Lấy Thực Thương hóa vượng khí mới là thượng sách, vừa đảm bảo tiết tú lưu hành, vừa tụ khí.
Ngoài ra, ở ví dụ này, Vương Khánh còn bày ra một điểm yếu là không đề cập đến hành vận. Việc người ở ví dụ 6 thất nghiệp phải làm thuê, và người ở ví dụ 5 có nghề nghiệp không nói lên cả đời của họ sẽ vẫn như vậy. Đây là điểm yếu mà tôi cho là thường hay xuất hiện ở những người ít hoặc không có kinh nghiệm thực chiến. Đời người thì có vạn sự, tại một thời điểm trong cuộc đời cũng có vạn sự, một mình nguyên cục bát tự chỉ có 8 chữ, rất khó diễn đạt vạn sự đời người tại một thời điểm cụ thể. Cần phải dựa vào đại vận, lưu niên mà luận.
“Ví dụ 7: Càn tạo: Quí Hợi-Quí Hợi-Mậu Thìn-Kỷ Mùi
Ví dụ 8: Càn tạo: Quí Hợi-Quí Hợi-Mậu Thìn-Mậu Ngọ
Hai bát tự này chỉ khác mỗi giờ sinh, quĩ tích của nhân sinh cũng khá giống. Hai người đều thân vượng Tài vượng, vd (8) Thìn Ngọ giáp Tị, Tỉ Kiên cũng vượng, Mậu Quí hợp, thế đoạt Tài rất lớn. Bát tự như vậy có phải rất giàu không? Tài ở đây không thể xem là tài phú sau khi “thành tài”, bởi vì nó đã không có Quan Sát chế Tỉ Kiếp, cũng không có Thực Thương tiết Tỉ Kiếp để hộ vệ, Tài này tự thân nó cũng khó bảo toàn thì còn có thể xem là tài phú cho mình được chăng? Kiểu Tài không nguồn không hộ vệ này lúc nào cũng bị Tỉ Kiếp uy hiếp là tượng thương thân lao lực. Do đó cả hai người đều là người bình thường, vd (8) còn bị thương tai phá tài liên miên, ngón tay đã bị tàn tật.”
Hai bát tự này không phải Tài Vượng – Thân vượng, bởi vì sinh vào tháng Hợi thổ mỏng. Đây là bát tự Tài vượng – Thân cường (thiên nhược), nhờ vào thời trụ Kỷ Mùi và Mậu Ngọ mà chống lại khí thế của Tài tinh. Lí do “thương thân lao lực”, nếu xét theo Vượng Suy, chính là do nhật chủ Mậu tọa Thìn thổ. Vì sao tọa Thìn thổ là thông căn, nhưng lại thương thân lao lực? Bởi vì Mậu sinh tháng Hợi vốn là thổ mỏng, nay ở đất Thìn thấp thổ là thủy khí ăn luồn vào mệnh cung. Trong mệnh cung (Thìn) lại gặp Ất mộc khắc. Ất mộc và Quý thủy tương sinh mà ám khắc thân. Ất mộc chính là Quan tinh, nay thân thiên nhược bị Quan tinh ám khắc là mệnh thiếu quý khí, phạm quý nhân, thương tổn thân thể (Quan kỵ là Sát). Quý thủy Tài tinh sinh Ất mộc ám khắc, dĩ nhiên là mệnh lao khổ (Tài là nguồn dưỡng mệnh). Còn được chữ “người bình thường” đều là do được nhờ vào thời trụ Kỷ Mùi và Mậu Ngọ, toàn bát tự 8 chữ chỉ ăn được 2 chữ.
“Ví dụ (8) còn bị thương tai phá tài liên miên”: không đề cập ở vận nào thì chỗ này chính là gọt số.
“Cách luận mệnh vượng suy cân bằng lấy nhật chủ làm trung tâm quả thực có thể nhanh chóng suy đoán chính xác không ít chuyện, như tính cách, sức khỏe, hôn nhân như đã nói ở trên. Những thứ này đều là việc cá nhân, bản thân của nhật chủ, lúc luận đoán nhất định phải lấy nhật chủ làm trung tâm, vừa vặn phù hợp lý luận suy đoán lấy nhật chủ làm trung tâm của vượng suy pháp, cho nên tỷ lệ chính xác rất cao. Suy đoán chuyện quá khứ của bản thân hoặc việc bên ngoài bản thân như: giàu có, địa vị, vinh dự, công việc, sự nghiệp, v.v… thế thì không phải lấy nhật chủ làm trung tâm nữa, mà là lấy chủ khí trong mệnh cục làm trung tâm điểm, hoặc thần nắm lệnh hoặc thập thần tích cực nhất trên hàng can làm trung tâm.”
Tôi vẫn luận được như thường. Có lúc luận chơi cho vui, tôi còn dùng bát tự của cháu để luận niên hạn cho dì, vẫn có hiệu quả. Ví dụ này tôi còn lưu lại trên Facebook.
Sửa bởi ThienKhanh: 18/11/2020 - 01:25