0
Bên Rặng Tuyết Sơn Phóng Tác: Nguyên Phong
Viết bởi FM_daubac, 06/08/20 13:45
24 replies to this topic
#16
Gửi vào 17/08/2020 - 05:30
Làm sao con người có thể tin tưởng và tôn kính Thượng đế như thế? Làm sao một người còn đầy những ham muốn thấp kém lại có thể đặt trọn cuộc đời vào cái tình thương tuyệt đối đó? Làm sao những người đang chạy đuổi theo lạc thú của thế gian lại có thể ý thức và tôn sùng đấng Tối cao đến vậy? Pháp môn Bhakti Yoga đã vạch rõ những quy tắc căn bản để giúp con người đi từ chỗ bất toàn đến chỗ hoàn toàn qua những bài học về tình thương. Đó cũng là ý nghĩa câu nói của đức Krishna trong Bhagavad Gita: “Kẻ nào không biết yêu thương, kẻ đó không thể gặp Thượng đế”. Cũng vì lý do đó, Bhakti Yoga đôi khi còn được gọi là Con đường Tình thương vì người đi trên đường này phải tập phát triển để mở rộng lòng yêu thương đến tất cả muôn loài chúng sinh, bởi họ hiểu rằng tất cả đều xuất phát từ Thượng đế.
Lòng yêu thương, dù là yêu thương một người, cũng sẽ gợi lên trong tâm trí một ý niệm về tình thương thiêng liêng. Có thể lúc đầu tình yêu đó chỉ là sự biểu lộ của lòng ích kỷ, nghĩ đến mình nhiều hơn người khác. Nhưng khi bắt đầu yêu thương, người đó sẽ bắt đầu học bài học về sự đau khổ, vì yêu thương là một tiến trình gồm nhiều bài học mà trong đó con người sẽ học được qua yếu tố đau khổ. Nhờ đau khổ, thất vọng mà hành giả sẽ phân biệt được lòng ích kỷ và lòng vị tha để rồi biết từ bỏ sự quyến luyến với tiền tài, sắc đẹp, danh vọng để đi đến tình cảm dành cho đấng Tối cao. Đây là một tiến trình khá dài với những bài học đầy đau khổ, nhưng khi đã học được các bài học này và biết kính yêu Thượng đế, họ sẽ thấy tất cả sự vật đều trở nên mờ nhạt trước sự cao đẹp của đấng Tối cao. Ngây ngất trước sự vinh quang, mỹ lệ của ngài, tâm trí hành giả sẽ dần dần biến chuyển, thăng hoa và chuyển hóa. Khi hiểu được lòng bác ái của Thượng đế, các tài sản vật chất sẽ mất hết mọi giá trị. Khi hiểu được lời dạy bảo đầy tình thương của Thượng đế, mọi giá trị vật chất trở nên thô kệch, tầm thường. Lòng yêu thương Thượng đế sẽ biến đổi trọn vẹn cuộc đời của hành giả vì một khi đã biết rõ ngài, họ sẽ không thể sống mà thiếu ngài được.
Kinh Veda có câu chuyện như sau: Một học trò đến thưa với sư phụ rằng anh ta đã trải qua mấy chục năm tu tập để tìm Thượng đế mà sao vẫn không thấy ngài. Vị sư phụ hứa sẽ dẫn học trò đi tìm ngài vào ngày hôm sau. Sáng hôm đó, ông đưa học trò ra sông tắm. Học trò vừa đến giữa dòng thì ông nhấn chìm học trò xuống nước. Một lúc sau ông kéo học trò lên và hỏi: “Khi ngộp nước như vậy con muốn gì?”. Học trò hổn hển trả lời: “Con chỉ muốn thở thôi”. Vị sư phụ bình thản nói: “Nếu con đi tìm Thượng đế một cách khao khát như người ngộp nước cần thở, con sẽ thấy ngài ngay thôi”.
Cũng như thế, một người đi trên Bhakti Yoga phải biết phát nguyện sống trọn vẹn với Thượng đế không ngừng nghỉ thì mới có kết quả. Nhưng trong cuộc đời, đã có bao nhiêu người khát khao Thượng đế như vậy? Khi đau khổ, người ta cầu xin Thượng đế giúp đỡ. Nhưng khi vui sướng thì đa số đều quên ngài ngay. Vì nhân loại không có khát vọng đi tìm Thượng đế như người ngộp nước cần thở nên tuy đi bằng con đường Bhakti Yoga đơn giản như thế nhưng ít ai thành công. Trong Bhagavad Gita, đức Krishna đã nói: “Hầu hết mọi người còn ham muốn tiền tài, danh vọng, sắc đẹp thì sao còn chỗ để Thượng đế ngự trị trong tâm hồn họ nữa!”.
Để giúp một người tiến bộ trên con đường này, các vị sư phụ của Bhakti Yoga đã đưa ra một pháp tu gồm ba giai đoạn căn bản như sau: giai đoạn nuôi dưỡng xác thân, giai đoạn diệt trừ ham muốn và giai đoạn phát triển lòng bác ái để giúp đời.
Trong giai đoạn đầu, hành giả phải tập nuôi dưỡng để xác thân trở nên thanh khiết, từ đó có thể hấp thu các luồng từ điện thiêng liêng của Thượng đế phát ra. Muốn thế, người đi trên đường này phải sáng suốt trong việc chọn lựa những thức ăn tinh khiết hợp với những rung động của tình thương phát xuất từ đấng Tối Cao. Thức ăn tinh khiết là những thứ không gây tổn hại hay đau đớn cho bất kỳ một sinh vật nào. Để có thể thấm nhuần tình thương cao thượng từ đấng Thiêng liêng, người đi trên đường này không thể gây khổ đau cho những sinh vật khác.
Một tu sĩ Bhakti Yoga không bao giờ ăn những thức ăn là kết quả của sự giết chóc vì dùng những thực phẩm ấy sẽ chẳng những làm thân thể họ ô uế mà còn hạ thấp sự rung động của tâm thức khiến họ trở nên ích kỷ thay vì vị tha. Ăn uống các thứ mang tính sát hại là chà đạp lên tình thương. Quy luật đầu tiên của Bhakti Yoga đã ghi rõ: “Thức ăn tinh khiết, tâm trí thanh khiết và luôn luôn nghĩ đến Thượng đế”.
Giai đoạn thứ hai của Bhakti Yoga là diệt trừ mọi dục vọng, ham muốn ngoại trừ nguyện vọng ngưỡng vọng Thượng đế. Muốn thế, người đi trên đường này phải siêng năng cầu nguyện. Cầu nguyện là phương pháp giúp tâm trí họ tập trung vào hình ảnh của Thượng đế để không bị các ham muốn khác lôi kéo. Khi tâm trí họ lúc nào cũng tràn ngập hình ảnh Thượng đế thì không một ham muốn nào khác có thể xen vào được. Nguyện vọng được gần cận, hòa hợp với ngài sẽ tỏa lan khắp thân thể họ, thấm vào mọi tế bào trong họ và các ham muốn vật chất, dù vi tế đến đâu, cũng phải nhường chỗ cho nguyện vọng tha thiết và duy nhất đó. Giai đoạn này đòi hỏi lòng kiên trì thực hành.
Lúc đầu, hành giả Bhakti Yoga luôn cầu nguyện vào những thời khắc nhất định để tạo thói quen. Theo thời gian, họ sẽ cầu nguyện một cách tự nhiên vì đó là một điều bình thường như hơi thở. Sau đó, họ bước qua giai đoạn chiêm bái. Trong đầu óc họ lúc nào cũng có hình ảnh Thượng đế và hình ảnh này sẽ chi phối mọi hoạt động trong đời sống của hành giả. Đây là lúc sự liên hệ giữa hành giả và đấng Tối cao đã được thiết lập và họ sẽ sống trong niềm hân hoan, phúc lạc, an lành. Thân họ tuy vẫn sống nơi cõi trần, nhưng tâm họ đã được bơi lội trong biển tình thương của ngài rồi. Dĩ nhiên người đi trên Bhakti Yoga không tìm lợi lạc cho riêng mình, mà phải biết ban rải ân phước này cho những người xung quanh nữa. Đây là giai đoạn thứ ba, hay sự phát triển lòng bác ái để giúp đời. Quên mình, giúp người cũng là một hình thức tế nhị nhằm diệt trừ lòng ham muốn, ích kỷ vẫn còn tiềm ẩn một cách tinh vi trong tâm thức hành giả. Người đi trên Bhakti Yoga không những sống trong tình thương của Thượng đế mà còn biết trao phát tình thương này ra khắp nơi. Họ ý thức rằng họ đã trở thành một công cụ, một luồng vận hà mà tình thương của Thượng đế chuyển qua đó để ban rải cho những người xung quanh. Đây chính là điều mà Bhagavad Gita đã dạy: “Hãy ban rải ra, hãy cho đi vì ban rải chính là đặc tính của tình thương. Tình thương không đòi hỏi gì hết ngoài sự ban rải khắp bốn phương. Tình thương không có ý nghĩa gì khác hơn việc giúp đỡ người khác. Tình thương chân thật không buộc ai phải trả ơn, đáp nghĩa. Tình thương không cầu xin vui sướng cho riêng mình, mà chỉ xin được tràn lan khắp nơi để tạo hạnh phúc cho muôn loài. Nơi nào khôngcó sự ban rải đó, nơi ấy không thể có chỗ cho Thượng đế”.
Trong cuộc sống hàng ngày, tình thương là một thứ rất hiếm hoi. Khi yêu thương ai, con người thường đòi hỏi được đền đáp. Đó không phải là tình thương mà là một sự tính toán, mua bán, đổi chác được che đậy dưới các danh từ tốt đẹp. Cũng vì thế, các truyền thống tôn giáo thường bị ô uế bởi lòng ích kỷ, lợi dụng của giáo sĩ. Tôn giáo là điều thanh cao, nhẹ nhàng, trong sạch chứ không phải những tính toán lợi hại, những quy luật gắt gao. Chính những kẻ lòng còn đầy tham lam ích kỷ đã bước vào những nơi chốn thiêng liêng rồi biến nơi này thành chỗ buôn thần bán thánh. Chính những tu sĩ bại hoại, lười biếng này đã giảng giải sai lạc các chân lý cao đẹp, biến nó trở thành những tín điều hạn hẹp, khắt khe. Tình thương cao cả không bao giờ phân biệt cái này hay cái kia, người này hay người khác, pháp môn này hay pháp môn nọ. Tình thương cao cả không hề phân biệt đúng sai, tốt xấu mà chỉ là những rung động thanh cao được tuôn trào khắp nơi một cách tựnhiên như nước ở trên cao đổ xuống dưới thấp, như nước sông chảy về biển cả. Tình thương chân thật không bao giờ đòi hỏi hay mong cầu một điều gì khác.
Khi hành giả thanh lọc được phàm ngã ích kỷ, biết thương yêu mọi vật không trừ một ai thì người ấy xứng đáng được hiện diện đấng Tối cao, và đến khi đó, họ sẽ ý thức được chân lý tối thượng rằng Tình thương chính là Thượng đế. Những người thấm nhuần tình thương chính là hình ảnh của Thượng đế vì Thượng đế chính là Tình thương. Đến khi đó, đâu còn gì tách riêng họ và thực thể của họ nữa. Đâu còn gì ngăn cách giữa họ và Thượng đế nữa. Như muôn sông đều chảy vào biển cả, con người tràn đầy tình thương yêu đó cũng trở về nguồn cội của tình thương, trở về với đấng Tối cao. Cái Tiểu ngã nhỏ bé đã được chuyển hóa để hòa nhập vào cái Đại ngã vĩ đại, từ đó hòa với vạn vật. Khi đó hành giả sẽ ý thức rõ rệt rằng nhờ biết tôn sùng, lễ bái, kính yêu Thượng đế và sống trong sự che chở của ngài mà tất cả tế bào của họ trở nên trong sạch, tinh khiết như ngài vậy. Đó là giai đoạn cuối cùng của Bhakti Yoga, giai đoạn hòa hợp với đấng Tối thượng.
Đối với người Ấn, các pháp môn Yoga như Karma, Jnana, hay Bhakti không phải điều xa lạ. Bhagavad Gita là một bộ kinh gần như ai cũng biết nhưng ít có vị sư phụ nào giải thích sự liên hệ giữa các con đường tu bằng các ẩn nghĩa trong kinh sách một cách giản dị, tự nhiên và mạch lạc như vậy. Phần lớn mọi người chỉ coi Yoga như những phương pháp, kỹ thuật rời rạc chứ ít ai có thể giải thích nó như những pháp môn, con đường khác nhau cùng dẫn đến một mục đích chung. Một số đạo sư đã coi Bhagavad Gita chỉ là một bài trường thi ca tụng đấng Tối cao chứ ít ai chịu đào sâu những lời dạy trong đó để tìm ra những khía cạnh khác.
Việc giảng dạy các ẩn nghĩa của kinh sách này khiến danh tiếng Satyakam càng ngày càng lan xa. Hiển nhiên, điều này đã làm nhiều vị sư phụ về Yoga khác khó chịu và nhiều người đã tìm đến để đối chất, tranh luận hay thử thách anh. Tuy nhiên, nhờ khả năng đọc được tư tưởng người khác, Satyakam đã từ chối không chịu tiếp họ. Đôi khi, anh cũng khéo léo nhắc nhở họ về con đường mà họ đang đi cũng như những hậu quả mà họ sẽ phải gánh chịu. Anh thường khuyên: “Hãy ý thức rõ việc mình làm, vì bất cứ hành động nào cũng tạo ra những hậu quả tương xứng. Nhân quả là một quy luật tự nhiên có tính cách bất đi bất dịch, nghĩa là không bao giờ thay đổi trong không gian và thời gian. Nó không hề trừng phạt một cách độc đoán mà chỉ tạo ra một hậu quả không thể tránh, tương đương với nguyên nhân đã gây ra nó. Người đi trên đường đạo là người học hỏi các quy luật tự nhiên này rồi mang ra áp dụng một cách khôn khéo”.
Có lần, một tín đồ đã hỏi:
- Phải chăng đường đạo chỉ là một ý niệm mơ hồ trên lý thuyết?
Satyakam thong thả lắc đầu:
- Không. Đó là một con đường rõ rệt và rất thực tế, nhưng vì đa số đều bị dục vọng lôi cuốn nên không ý thức được nó mà thôi. Hãy thử tưởng tượng vũ trụ này là một ngọn núi rất cao và cuộc đời là con đường quanh co dẫn lên đỉnh núi. Trên đỉnh có một thánh điện nguy nga tượng trưng cho sự toàn thiện vì mục đích của cuộc đời là sự tiến hóa từ thấp lên cao, từ sự bất toàn đến tận thiện. Đa số con người đều lẩn quẩn trên con đường quanh núi, nhưng vì không biết trên đỉnh núi có thánh điện nên họ đi rất chậm, có khi dừng lại nghỉ ngơi, ngắm cảnh. Nói một cách khác, họ chưa hiểu rõ mục đích của cuộc đời. Người đi trên đường đạo là người biết rõ trên đỉnh núi có thánh điện nên thay vì thong thả, nhẩn nha một cách vô ý thức, họ cố gắng đi thật nhanh hoặc cố gắng vạch lối tìm một con đường khác. Dĩ nhiên, có những con đường ngắn hơn, người đi theo lối đó sẽ lên đỉnh núi mau hơn, nhưng nó cũng rất khó đi và có nhiều nguy hiểm hơn con đường thông thường. Đó chính là con đường đạo.
Một tín đồ khác lên tiếng:
- Vậy làm sao để đi trên con đường này một cách an toàn?
- Trước hết, người đó cần có một lý tưởng thanh cao, vì người có lý tưởng là người đã bắt đầu thức tỉnh, bớt tham lam ích kỷ và biết rõ hướng đi của mình. Nhờ biết chú tâm vào đích đến mà họ không bị ngoại cảnh chi phối và có thể đi trọn con đường. Nếu họ có lý tưởng phục vụ, giúp đỡ người khác thì mỗi hành động của họ sẽ là một bước tiến rõ rệt khiến họ có thể đi nhanh hơn người khác. Ngoài ra, người đi trên đường đạo nên giao thiệp, tiếp xúc với những người có cùng mục đích cao cả như mình. Sự giao thiệp với các bậc trí giả này sẽ giúp họ học hỏi thêm nhiều điều lợi ích. Để có thể đi một cách an toàn, hành giả còn cần phải biết áp dụng một số kỷ luật tự giác để tránh các cám dỗ, lầm lạc. Đặc tính chung của kỷ luật này là sự nghiêm khắc với chính mình và khoan dung với người khác.
Một tín đồ khác lên tiếng:
- Như vậy đường đạo và tôn giáo khác nhau thế nào?
Satyakam mỉm cười giải thích:
- Tôn giáo là những quy luật về luân lý và niềm tin giúp ta định hướng và tiến bộ trên con đường đạo. Chúng ta nên hiểu tôn giáo theo nghĩa rộng, nghĩa là những gì có sức biến đổi, chuyển hóa tính chất của ta khiến ta trở nên trong sạch và có thể tiến gần đến chân lý hơn. Sống không tôn giáo là sống không nguyên tắc. Mà sống không nguyên tắc thì không khác gì một chiếc thuyền không có bánh lái, sẽ không thể đi đâu được. Không có sự hy sinh nào có thể gọi là quá đáng nếu sự hy sinh đó làm cho tôn giáo hiển hiện một cách mỹ mãn. Mục đích của tôn giáo là giúp mình tự tìm biết được mình, biết được đấng đã sáng tạo ra mình, và hiểu được mọi liên hệ xác thực giữa mình và đấng sáng tạo ra mình. Một khi chúng ta để mất nền tảng luân lý là chúng ta không còn tôn giáo nữa, vì tôn giáo không thể đảo ngược các quy luật luân lý được.
Một người khác lên tiếng:
- Như vậy những kinh sách có giá trị như thế nào?
- Kinh sách không thể vượt qua các quy luật của luân lý và chân lý. Mục đích của kinh sách là tinh luyện lý tính và làm sáng tỏ chân lý.
- Nhưng tại sao lại có quá nhiều tôn giáo như vậy?
- Sự thực là có bao nhiêu người là có bấy nhiêu tôn giáo, nhưng nếu tìm hiểu thật kỹ về các nguyên tắc căn bản thì tất cả mọi tôn giáo đều được xây dựng trên những quy tắc luân lý và đạo đức như nhau. Người nào đã đạt đến sự tận thiện của tôn giáo mình thì tất nhiên cũng đạt đến sự tận thiện của mọi tôn giáo khác vì muôn sông đều đổ vào biển cả. Chúng ta phải biết chấp nhận sự khác biệt của các tôn giáo, bởi lẽ không một người nào giống người nào, và vì còn bất toàn nên trong chúng ta, mỗi người chỉ thấy được từng mảnh rời rạc của chân lý và thấy ở nhiều góc cạnh khác nhau. Sự hiểu biết hay tin tưởng của chúng ta thường không hoàn toàn và chỉ có thể là những bản đồ chỉ dẫn cho chúng ta hành động, cư xử một cách tương đối thôi. Nếu ta bắt người khác phải tuân theo đường lối cư xử hay hành động của ta thì đó là một sự xâm phạm đến tự do ý thức của người khác.
Một tín đồ khác lên tiếng:
- Chúng ta phải gọi tên Thượng đế là Ishvvara, Brahma, Hari hay Ishtar?
- Thượng đế không thể định vị trong một tên gọi hay danh từ giới hạn. Trên đời này có bao nhiêu tên người là Thượng đế có từng đó tên. Do đó chúng ta nên nói rằng Thượng đế vốn không có tên (Vô Danh). Bởi lẽ Thượng đế có nhiều hình tướng nên chúng ta nên xem ngài như không có tướng (Vô Tướng). Bởi lẽ Thượng đế có nhiều cách nói nên chúng ta nên xem ngài như không nói (Vô Ngôn).
- Trong các khóa giảng, ngài thường đề cập đến vấn đề phải làm chủ vị giác và giới hạn việc ăn uống, nhưng trong các kinh sách đâu thấy nói gì đến vấn đề này?
Satyakam đáp:
- Có lẽ vì đây là một quy tắc khó thực hành nên các vị đại hiền triết xưa không nói đến nó chăng? Chúng ta nên xem vấn đề ăn uống tương tự như việc uống thuốc khi có bệnh, nghĩa là không nên để ý xem nó ngon hay không ngon, mà chỉ dùng vừa đủ cho nhu cầu nuôi dưỡng xác thân mà thôi, uống ít thuốc quá thì sẽ không có hiệu quả, hoặc nếu có hiệu quả thì cũng không đủ liều lượng để trị bệnh; còn ngược lại, uống thuốc nhiều quá thì sẽ có hại cho cơ thể. Tương tự, nếu vì ngon mà ăn nhiều thì có hại cho sức khỏe vô cùng. Chúng ta đều ăn để sống chứ không phải sống để ăn, nhưng ít ai ý thức rằng việc làm chủ vị giác sẽ đưa đến sự tự chủ - một đức tính căn bản của tất cả mọi pháp môn.
Nguồn:
đến trang 93
Lòng yêu thương, dù là yêu thương một người, cũng sẽ gợi lên trong tâm trí một ý niệm về tình thương thiêng liêng. Có thể lúc đầu tình yêu đó chỉ là sự biểu lộ của lòng ích kỷ, nghĩ đến mình nhiều hơn người khác. Nhưng khi bắt đầu yêu thương, người đó sẽ bắt đầu học bài học về sự đau khổ, vì yêu thương là một tiến trình gồm nhiều bài học mà trong đó con người sẽ học được qua yếu tố đau khổ. Nhờ đau khổ, thất vọng mà hành giả sẽ phân biệt được lòng ích kỷ và lòng vị tha để rồi biết từ bỏ sự quyến luyến với tiền tài, sắc đẹp, danh vọng để đi đến tình cảm dành cho đấng Tối cao. Đây là một tiến trình khá dài với những bài học đầy đau khổ, nhưng khi đã học được các bài học này và biết kính yêu Thượng đế, họ sẽ thấy tất cả sự vật đều trở nên mờ nhạt trước sự cao đẹp của đấng Tối cao. Ngây ngất trước sự vinh quang, mỹ lệ của ngài, tâm trí hành giả sẽ dần dần biến chuyển, thăng hoa và chuyển hóa. Khi hiểu được lòng bác ái của Thượng đế, các tài sản vật chất sẽ mất hết mọi giá trị. Khi hiểu được lời dạy bảo đầy tình thương của Thượng đế, mọi giá trị vật chất trở nên thô kệch, tầm thường. Lòng yêu thương Thượng đế sẽ biến đổi trọn vẹn cuộc đời của hành giả vì một khi đã biết rõ ngài, họ sẽ không thể sống mà thiếu ngài được.
Kinh Veda có câu chuyện như sau: Một học trò đến thưa với sư phụ rằng anh ta đã trải qua mấy chục năm tu tập để tìm Thượng đế mà sao vẫn không thấy ngài. Vị sư phụ hứa sẽ dẫn học trò đi tìm ngài vào ngày hôm sau. Sáng hôm đó, ông đưa học trò ra sông tắm. Học trò vừa đến giữa dòng thì ông nhấn chìm học trò xuống nước. Một lúc sau ông kéo học trò lên và hỏi: “Khi ngộp nước như vậy con muốn gì?”. Học trò hổn hển trả lời: “Con chỉ muốn thở thôi”. Vị sư phụ bình thản nói: “Nếu con đi tìm Thượng đế một cách khao khát như người ngộp nước cần thở, con sẽ thấy ngài ngay thôi”.
Cũng như thế, một người đi trên Bhakti Yoga phải biết phát nguyện sống trọn vẹn với Thượng đế không ngừng nghỉ thì mới có kết quả. Nhưng trong cuộc đời, đã có bao nhiêu người khát khao Thượng đế như vậy? Khi đau khổ, người ta cầu xin Thượng đế giúp đỡ. Nhưng khi vui sướng thì đa số đều quên ngài ngay. Vì nhân loại không có khát vọng đi tìm Thượng đế như người ngộp nước cần thở nên tuy đi bằng con đường Bhakti Yoga đơn giản như thế nhưng ít ai thành công. Trong Bhagavad Gita, đức Krishna đã nói: “Hầu hết mọi người còn ham muốn tiền tài, danh vọng, sắc đẹp thì sao còn chỗ để Thượng đế ngự trị trong tâm hồn họ nữa!”.
Để giúp một người tiến bộ trên con đường này, các vị sư phụ của Bhakti Yoga đã đưa ra một pháp tu gồm ba giai đoạn căn bản như sau: giai đoạn nuôi dưỡng xác thân, giai đoạn diệt trừ ham muốn và giai đoạn phát triển lòng bác ái để giúp đời.
Trong giai đoạn đầu, hành giả phải tập nuôi dưỡng để xác thân trở nên thanh khiết, từ đó có thể hấp thu các luồng từ điện thiêng liêng của Thượng đế phát ra. Muốn thế, người đi trên đường này phải sáng suốt trong việc chọn lựa những thức ăn tinh khiết hợp với những rung động của tình thương phát xuất từ đấng Tối Cao. Thức ăn tinh khiết là những thứ không gây tổn hại hay đau đớn cho bất kỳ một sinh vật nào. Để có thể thấm nhuần tình thương cao thượng từ đấng Thiêng liêng, người đi trên đường này không thể gây khổ đau cho những sinh vật khác.
Một tu sĩ Bhakti Yoga không bao giờ ăn những thức ăn là kết quả của sự giết chóc vì dùng những thực phẩm ấy sẽ chẳng những làm thân thể họ ô uế mà còn hạ thấp sự rung động của tâm thức khiến họ trở nên ích kỷ thay vì vị tha. Ăn uống các thứ mang tính sát hại là chà đạp lên tình thương. Quy luật đầu tiên của Bhakti Yoga đã ghi rõ: “Thức ăn tinh khiết, tâm trí thanh khiết và luôn luôn nghĩ đến Thượng đế”.
Giai đoạn thứ hai của Bhakti Yoga là diệt trừ mọi dục vọng, ham muốn ngoại trừ nguyện vọng ngưỡng vọng Thượng đế. Muốn thế, người đi trên đường này phải siêng năng cầu nguyện. Cầu nguyện là phương pháp giúp tâm trí họ tập trung vào hình ảnh của Thượng đế để không bị các ham muốn khác lôi kéo. Khi tâm trí họ lúc nào cũng tràn ngập hình ảnh Thượng đế thì không một ham muốn nào khác có thể xen vào được. Nguyện vọng được gần cận, hòa hợp với ngài sẽ tỏa lan khắp thân thể họ, thấm vào mọi tế bào trong họ và các ham muốn vật chất, dù vi tế đến đâu, cũng phải nhường chỗ cho nguyện vọng tha thiết và duy nhất đó. Giai đoạn này đòi hỏi lòng kiên trì thực hành.
Lúc đầu, hành giả Bhakti Yoga luôn cầu nguyện vào những thời khắc nhất định để tạo thói quen. Theo thời gian, họ sẽ cầu nguyện một cách tự nhiên vì đó là một điều bình thường như hơi thở. Sau đó, họ bước qua giai đoạn chiêm bái. Trong đầu óc họ lúc nào cũng có hình ảnh Thượng đế và hình ảnh này sẽ chi phối mọi hoạt động trong đời sống của hành giả. Đây là lúc sự liên hệ giữa hành giả và đấng Tối cao đã được thiết lập và họ sẽ sống trong niềm hân hoan, phúc lạc, an lành. Thân họ tuy vẫn sống nơi cõi trần, nhưng tâm họ đã được bơi lội trong biển tình thương của ngài rồi. Dĩ nhiên người đi trên Bhakti Yoga không tìm lợi lạc cho riêng mình, mà phải biết ban rải ân phước này cho những người xung quanh nữa. Đây là giai đoạn thứ ba, hay sự phát triển lòng bác ái để giúp đời. Quên mình, giúp người cũng là một hình thức tế nhị nhằm diệt trừ lòng ham muốn, ích kỷ vẫn còn tiềm ẩn một cách tinh vi trong tâm thức hành giả. Người đi trên Bhakti Yoga không những sống trong tình thương của Thượng đế mà còn biết trao phát tình thương này ra khắp nơi. Họ ý thức rằng họ đã trở thành một công cụ, một luồng vận hà mà tình thương của Thượng đế chuyển qua đó để ban rải cho những người xung quanh. Đây chính là điều mà Bhagavad Gita đã dạy: “Hãy ban rải ra, hãy cho đi vì ban rải chính là đặc tính của tình thương. Tình thương không đòi hỏi gì hết ngoài sự ban rải khắp bốn phương. Tình thương không có ý nghĩa gì khác hơn việc giúp đỡ người khác. Tình thương chân thật không buộc ai phải trả ơn, đáp nghĩa. Tình thương không cầu xin vui sướng cho riêng mình, mà chỉ xin được tràn lan khắp nơi để tạo hạnh phúc cho muôn loài. Nơi nào khôngcó sự ban rải đó, nơi ấy không thể có chỗ cho Thượng đế”.
Trong cuộc sống hàng ngày, tình thương là một thứ rất hiếm hoi. Khi yêu thương ai, con người thường đòi hỏi được đền đáp. Đó không phải là tình thương mà là một sự tính toán, mua bán, đổi chác được che đậy dưới các danh từ tốt đẹp. Cũng vì thế, các truyền thống tôn giáo thường bị ô uế bởi lòng ích kỷ, lợi dụng của giáo sĩ. Tôn giáo là điều thanh cao, nhẹ nhàng, trong sạch chứ không phải những tính toán lợi hại, những quy luật gắt gao. Chính những kẻ lòng còn đầy tham lam ích kỷ đã bước vào những nơi chốn thiêng liêng rồi biến nơi này thành chỗ buôn thần bán thánh. Chính những tu sĩ bại hoại, lười biếng này đã giảng giải sai lạc các chân lý cao đẹp, biến nó trở thành những tín điều hạn hẹp, khắt khe. Tình thương cao cả không bao giờ phân biệt cái này hay cái kia, người này hay người khác, pháp môn này hay pháp môn nọ. Tình thương cao cả không hề phân biệt đúng sai, tốt xấu mà chỉ là những rung động thanh cao được tuôn trào khắp nơi một cách tựnhiên như nước ở trên cao đổ xuống dưới thấp, như nước sông chảy về biển cả. Tình thương chân thật không bao giờ đòi hỏi hay mong cầu một điều gì khác.
Khi hành giả thanh lọc được phàm ngã ích kỷ, biết thương yêu mọi vật không trừ một ai thì người ấy xứng đáng được hiện diện đấng Tối cao, và đến khi đó, họ sẽ ý thức được chân lý tối thượng rằng Tình thương chính là Thượng đế. Những người thấm nhuần tình thương chính là hình ảnh của Thượng đế vì Thượng đế chính là Tình thương. Đến khi đó, đâu còn gì tách riêng họ và thực thể của họ nữa. Đâu còn gì ngăn cách giữa họ và Thượng đế nữa. Như muôn sông đều chảy vào biển cả, con người tràn đầy tình thương yêu đó cũng trở về nguồn cội của tình thương, trở về với đấng Tối cao. Cái Tiểu ngã nhỏ bé đã được chuyển hóa để hòa nhập vào cái Đại ngã vĩ đại, từ đó hòa với vạn vật. Khi đó hành giả sẽ ý thức rõ rệt rằng nhờ biết tôn sùng, lễ bái, kính yêu Thượng đế và sống trong sự che chở của ngài mà tất cả tế bào của họ trở nên trong sạch, tinh khiết như ngài vậy. Đó là giai đoạn cuối cùng của Bhakti Yoga, giai đoạn hòa hợp với đấng Tối thượng.
Đối với người Ấn, các pháp môn Yoga như Karma, Jnana, hay Bhakti không phải điều xa lạ. Bhagavad Gita là một bộ kinh gần như ai cũng biết nhưng ít có vị sư phụ nào giải thích sự liên hệ giữa các con đường tu bằng các ẩn nghĩa trong kinh sách một cách giản dị, tự nhiên và mạch lạc như vậy. Phần lớn mọi người chỉ coi Yoga như những phương pháp, kỹ thuật rời rạc chứ ít ai có thể giải thích nó như những pháp môn, con đường khác nhau cùng dẫn đến một mục đích chung. Một số đạo sư đã coi Bhagavad Gita chỉ là một bài trường thi ca tụng đấng Tối cao chứ ít ai chịu đào sâu những lời dạy trong đó để tìm ra những khía cạnh khác.
Việc giảng dạy các ẩn nghĩa của kinh sách này khiến danh tiếng Satyakam càng ngày càng lan xa. Hiển nhiên, điều này đã làm nhiều vị sư phụ về Yoga khác khó chịu và nhiều người đã tìm đến để đối chất, tranh luận hay thử thách anh. Tuy nhiên, nhờ khả năng đọc được tư tưởng người khác, Satyakam đã từ chối không chịu tiếp họ. Đôi khi, anh cũng khéo léo nhắc nhở họ về con đường mà họ đang đi cũng như những hậu quả mà họ sẽ phải gánh chịu. Anh thường khuyên: “Hãy ý thức rõ việc mình làm, vì bất cứ hành động nào cũng tạo ra những hậu quả tương xứng. Nhân quả là một quy luật tự nhiên có tính cách bất đi bất dịch, nghĩa là không bao giờ thay đổi trong không gian và thời gian. Nó không hề trừng phạt một cách độc đoán mà chỉ tạo ra một hậu quả không thể tránh, tương đương với nguyên nhân đã gây ra nó. Người đi trên đường đạo là người học hỏi các quy luật tự nhiên này rồi mang ra áp dụng một cách khôn khéo”.
Có lần, một tín đồ đã hỏi:
- Phải chăng đường đạo chỉ là một ý niệm mơ hồ trên lý thuyết?
Satyakam thong thả lắc đầu:
- Không. Đó là một con đường rõ rệt và rất thực tế, nhưng vì đa số đều bị dục vọng lôi cuốn nên không ý thức được nó mà thôi. Hãy thử tưởng tượng vũ trụ này là một ngọn núi rất cao và cuộc đời là con đường quanh co dẫn lên đỉnh núi. Trên đỉnh có một thánh điện nguy nga tượng trưng cho sự toàn thiện vì mục đích của cuộc đời là sự tiến hóa từ thấp lên cao, từ sự bất toàn đến tận thiện. Đa số con người đều lẩn quẩn trên con đường quanh núi, nhưng vì không biết trên đỉnh núi có thánh điện nên họ đi rất chậm, có khi dừng lại nghỉ ngơi, ngắm cảnh. Nói một cách khác, họ chưa hiểu rõ mục đích của cuộc đời. Người đi trên đường đạo là người biết rõ trên đỉnh núi có thánh điện nên thay vì thong thả, nhẩn nha một cách vô ý thức, họ cố gắng đi thật nhanh hoặc cố gắng vạch lối tìm một con đường khác. Dĩ nhiên, có những con đường ngắn hơn, người đi theo lối đó sẽ lên đỉnh núi mau hơn, nhưng nó cũng rất khó đi và có nhiều nguy hiểm hơn con đường thông thường. Đó chính là con đường đạo.
Một tín đồ khác lên tiếng:
- Vậy làm sao để đi trên con đường này một cách an toàn?
- Trước hết, người đó cần có một lý tưởng thanh cao, vì người có lý tưởng là người đã bắt đầu thức tỉnh, bớt tham lam ích kỷ và biết rõ hướng đi của mình. Nhờ biết chú tâm vào đích đến mà họ không bị ngoại cảnh chi phối và có thể đi trọn con đường. Nếu họ có lý tưởng phục vụ, giúp đỡ người khác thì mỗi hành động của họ sẽ là một bước tiến rõ rệt khiến họ có thể đi nhanh hơn người khác. Ngoài ra, người đi trên đường đạo nên giao thiệp, tiếp xúc với những người có cùng mục đích cao cả như mình. Sự giao thiệp với các bậc trí giả này sẽ giúp họ học hỏi thêm nhiều điều lợi ích. Để có thể đi một cách an toàn, hành giả còn cần phải biết áp dụng một số kỷ luật tự giác để tránh các cám dỗ, lầm lạc. Đặc tính chung của kỷ luật này là sự nghiêm khắc với chính mình và khoan dung với người khác.
Một tín đồ khác lên tiếng:
- Như vậy đường đạo và tôn giáo khác nhau thế nào?
Satyakam mỉm cười giải thích:
- Tôn giáo là những quy luật về luân lý và niềm tin giúp ta định hướng và tiến bộ trên con đường đạo. Chúng ta nên hiểu tôn giáo theo nghĩa rộng, nghĩa là những gì có sức biến đổi, chuyển hóa tính chất của ta khiến ta trở nên trong sạch và có thể tiến gần đến chân lý hơn. Sống không tôn giáo là sống không nguyên tắc. Mà sống không nguyên tắc thì không khác gì một chiếc thuyền không có bánh lái, sẽ không thể đi đâu được. Không có sự hy sinh nào có thể gọi là quá đáng nếu sự hy sinh đó làm cho tôn giáo hiển hiện một cách mỹ mãn. Mục đích của tôn giáo là giúp mình tự tìm biết được mình, biết được đấng đã sáng tạo ra mình, và hiểu được mọi liên hệ xác thực giữa mình và đấng sáng tạo ra mình. Một khi chúng ta để mất nền tảng luân lý là chúng ta không còn tôn giáo nữa, vì tôn giáo không thể đảo ngược các quy luật luân lý được.
Một người khác lên tiếng:
- Như vậy những kinh sách có giá trị như thế nào?
- Kinh sách không thể vượt qua các quy luật của luân lý và chân lý. Mục đích của kinh sách là tinh luyện lý tính và làm sáng tỏ chân lý.
- Nhưng tại sao lại có quá nhiều tôn giáo như vậy?
- Sự thực là có bao nhiêu người là có bấy nhiêu tôn giáo, nhưng nếu tìm hiểu thật kỹ về các nguyên tắc căn bản thì tất cả mọi tôn giáo đều được xây dựng trên những quy tắc luân lý và đạo đức như nhau. Người nào đã đạt đến sự tận thiện của tôn giáo mình thì tất nhiên cũng đạt đến sự tận thiện của mọi tôn giáo khác vì muôn sông đều đổ vào biển cả. Chúng ta phải biết chấp nhận sự khác biệt của các tôn giáo, bởi lẽ không một người nào giống người nào, và vì còn bất toàn nên trong chúng ta, mỗi người chỉ thấy được từng mảnh rời rạc của chân lý và thấy ở nhiều góc cạnh khác nhau. Sự hiểu biết hay tin tưởng của chúng ta thường không hoàn toàn và chỉ có thể là những bản đồ chỉ dẫn cho chúng ta hành động, cư xử một cách tương đối thôi. Nếu ta bắt người khác phải tuân theo đường lối cư xử hay hành động của ta thì đó là một sự xâm phạm đến tự do ý thức của người khác.
Một tín đồ khác lên tiếng:
- Chúng ta phải gọi tên Thượng đế là Ishvvara, Brahma, Hari hay Ishtar?
- Thượng đế không thể định vị trong một tên gọi hay danh từ giới hạn. Trên đời này có bao nhiêu tên người là Thượng đế có từng đó tên. Do đó chúng ta nên nói rằng Thượng đế vốn không có tên (Vô Danh). Bởi lẽ Thượng đế có nhiều hình tướng nên chúng ta nên xem ngài như không có tướng (Vô Tướng). Bởi lẽ Thượng đế có nhiều cách nói nên chúng ta nên xem ngài như không nói (Vô Ngôn).
- Trong các khóa giảng, ngài thường đề cập đến vấn đề phải làm chủ vị giác và giới hạn việc ăn uống, nhưng trong các kinh sách đâu thấy nói gì đến vấn đề này?
Satyakam đáp:
- Có lẽ vì đây là một quy tắc khó thực hành nên các vị đại hiền triết xưa không nói đến nó chăng? Chúng ta nên xem vấn đề ăn uống tương tự như việc uống thuốc khi có bệnh, nghĩa là không nên để ý xem nó ngon hay không ngon, mà chỉ dùng vừa đủ cho nhu cầu nuôi dưỡng xác thân mà thôi, uống ít thuốc quá thì sẽ không có hiệu quả, hoặc nếu có hiệu quả thì cũng không đủ liều lượng để trị bệnh; còn ngược lại, uống thuốc nhiều quá thì sẽ có hại cho cơ thể. Tương tự, nếu vì ngon mà ăn nhiều thì có hại cho sức khỏe vô cùng. Chúng ta đều ăn để sống chứ không phải sống để ăn, nhưng ít ai ý thức rằng việc làm chủ vị giác sẽ đưa đến sự tự chủ - một đức tính căn bản của tất cả mọi pháp môn.
Nguồn:
đến trang 93
#17
Gửi vào 17/08/2020 - 06:05
Mỗi ngày khi mặt trời vừa mọc, người ta đã kéo nhau đến ngôi đền Kali để tham dự các khóa lễ và nghe giảng về giáo nghĩa. Có những ngày sau cơn mưa lớn, lá cây bị gió thổi rụng đầy sân, Satyakam thường tự mình quét dọn. Một tín đồ thấy vậy đã hỏi:
- Tại sao một bậc Maharaj như ngài lại mất công làm những việc thấp kém như thế? Tại sao ngài không để cho người hầu làm?
Satyakam thản nhiên trả lời:
- Chẳng có việc gì trên thế gian này là thấp kém cả. Tất cả mọi việc đều có tầm quan trọng riêng của nó. Đừng gán cho công việc những giá trị này nọ mà quên rằng ta chỉ đạt đến chân lý bằng cách mở rộng trái tim và ý thức hành động của mình qua những công việc dường như thấp kém hay nhỏ nhặt thế này.
Một người khác lên tiếng:
- Thưa Maharaj, điều ông nói rất hay, nhưng làm sao để những người vẫn còn phải làm việc để mưu sinh có thể áp dụng nó trong cuộc sống?
Satyakam đáp:
- Hãy làm việc như thường, nhưng đừng làm việc như một kẻ nô lệ. Vấn đề ở đây không phải là công việc, mà là thái độ đối với công việc. Hầu như tất cả mọi người đều làm việc một cách không ý thức và rồi thấy chán chường, khổ ải. Tại sao việc mưu sinh lại đem đến kết quả thảm hại như vậy? Phải chăng ta đã làm vì nghĩ rằng việc phải làm như thế? Tại sao ta không thể làm những việc đó trong trạng thái tự do hay làm vì tình yêu thương?
Một người lên tiếng:
- Làm việc vì tình thương ư? Xin ngài hãy giải thích rõ hơn.
Satyakam gật đầu:
- Chữ “tình thương” rất khó hiểu. Tình thương không bao giờ có nếu ta không có tự do. Với những kẻ đang bị áp chế sẽ không có chỗ cho tình thương. Kẻ ấy sẽ làm việc như một nạn nhân chứ không bao giờ làm vì tình thương. Tương tự, nếu chúng ta làm việc một cách miễn cưỡng, thiếu vắng tình thương, thì công việc đó không thể là một công việc thực sự mà chỉ là gánh nặng, cho dù đó là việc ta làm cho những người thân như cha mẹ, vợ con, bạn bè hay cho chính bản thân ta.
Một người khác lại hỏi:
- Phải chăng Maharaj muốn nói rằng chúng tôi không biết thương yêu vợ con?
Satyakam nói:
- Nếu một người đàn ông thương yêu một người đàn bà và muốn cô ta thuộc về mình trọn vẹn, muốn cô ta luôn ở bên cạnh mình, ăn uống và hành động theo ý mình thì đó không phải là yêu thương mà là sự luyến ái bệnh hoạn của kẻ chiếm hữu nô lệ tưởng lầm là tình yêu đó thôi. Một thứ luyến ái như thế chắc chắn sẽ mang lại đau khổ. Tình thương chân thật không bao giờ có thể đem đến cho người ban rải nó sự đau khổ được. Nó chỉ mang lại sự sung mãn tràn đầy, niềm hạnh phúc, sự bình an mà thôi. Nếu không được như thế thì chắc chắn đó không phải là tình thương mà chỉ là một cái gì được người ta tưởng là tình thương đó thôi. Khi nào anh có thể yêu vợ con, họ hàng thân thuộc, hay trọn vẹn thế giới, yêu mà không hề đau khổ, ghen tuông, ao ước một cái gì cho mình hay đòi hỏi được đáp lại, thì anh mới có thể nói rằng anh yêu thương thật sự. Trong kinh Rig Veda, đức Krishna đã
nói: “Này Arjuna, hãy nhìn Thượng đế. Nếu ngài chỉ ngừng hoạt động một giây thôi thì cả vũ trụ này sẽ tan rã. Ngài có lợi lạc gì trong việc đó đâu, thế tại sao Ngài lại phải làm như thế? Không phải vì Ngài yêu thương thế gian này hay sao?”. Thượng đế không đòi hỏi chúng ta điều gì cả vì ngài yêu thương chúng ta. Tình thương thật sự không thể nào có sự gắn bó, đòi hỏi hay mong cầu. Nơi nào có sự bám giữ, mong muốn hay đòi hỏi thì ở chỗ đó chỉ có sự đổi chác, mua bán trên phương diện vật chất. Nếu sự mua bán này không được như ý thì đau khổ phát sinh. Tình yêu thật sự không bao giờ căn cứ trên sự luyến ái vật chất vì những người thực sự yêu nhau, dù có xa cách chân trời góc biển, tình yêu đó cũng không bao giờ phai nhạt và không bao giờ gây đau khổ cho nhau.
- Nhưng trên đời này mấy ai có thể bình thản như thế?
Satyakam gật đầu:
- Đúng thế, muốn có thái độ bình thản, chúng ta phải bỏ công tu tập, có khi bài học này kéo dài nhiều đời nhiều kiếp. Khi đã đạt được trạng thái đó, hay có thể yêu thương thật sự, chúng ta sẽ nghiệm ra được thế nào là tự do tuyệt đối. Lúc đó không còn những gì gắn bó, giam giữ hay lôi cuốn nữa! Khi ấy cái ách nô lệ từ trước đến nay vẫn đặt trên vai chúng ta sẽ tự nhiên biến mất, chúng ta sẽ không tùy thuộc vào sự việc và sẽ không lưu ý đến kết quả hành động của chúng ta nữa.
Một người khác phản đối:
- Nhưng đối với các con của tôi, dù yêu thương chúng, tôi cũng có quyền mong mỏi ở chúng một sự biết ơn chứ. Tôi đã hy sinh rất nhiều cho chúng kia mà.
Satyakam lắc đầu:
- Phải chăng anh vẫn còn mong muốn các con sẽ phải làm một cái gì đó để đền bù lại sự hy sinh của anh? Anh hãy nghĩ cho kỹ xem đó là tình thương hay là một sự mua bán, đổi chác được che giấu dưới các danh từ tốt đẹp? Tình thương chân thật là cho đi mà không đòi hỏi gì trở lại. Này anh bạn, nếu các con anh không đền đáp được điều anh mong mỏi thì anh sẽ ra sao? Phải chăng anh sẽ đau khổ vô cùng? Như thế có phải là tình thương không? Tình thương chân thật là cái có thể giải thoát ra khỏi mọi đau khổ, luyến ái chứ không thể gây đau khổ cho ta được. Việc của anh là nuôi dưỡng, dạy dỗ và thương yêu các con.
Còn việc chúng sẽ đối xử với anh ra sao không phải là điều anh cần lưu tâm. Dù muốn, anh cũng không thể bắt buộc chúng phải hành động như ý anh mong cầu. Cũng như thế, trong việc làm, dù làm cho cá nhân nào, công ty nào, thành phố nào hay quốc gia nào, anh cũng phải có thái độ tự do tương tự. Anh đừng bao giờ đòi hỏi được đền đáp, vì anh nên ý thức rằng anh chỉ là người ban rải tình thương mà thôi. Nếu điều anh cho đi là một tặng phẩm thuần túy không cầu được đáp đền thì công việc của anh sẽ thoải mái biết bao. Hãy suy nghĩ cho kỹ. Phải chăng chúng ta chỉ tha thiết với kết quả khi nào ta chờ đợi sự đền bù nào đó? Chính cái ước ao, mong cầu đó đã khiến ta trở thành nô lệ cho việc làm; tình trạng nô lệ này đã phá bỏ tự do sẵn có và mang lại khổ đau.
Ngưng lại giây lát cho mọi người suy nghĩ, Satyakam tiếp tục:
- Nếu các hoạt động nô lệ khiến chúng ta trở nên ích kỷ thì các hoạt động tự chủ sẽ đem lại cho ta sự an lạc và tự do. Chúng ta thường nói đến quyền hạn và công lý, nhưng trên thế giới hiện nay, những danh từ đó đều trống rỗng. Có hai động lực điều khiển đời sống con người: bạo lực và tình thương. Bạo lực là ích kỷ, là áp chế, vì ai cũng muốn lợi dụng triệt để quyền hạn của mình để làm những điều mình muốn mà không hề đếm xỉa gì đến người khác. Tình thương thì ngược lại: nó chỉ quan tâm đến người khác thôi vì người ban rải tình thương là người đã có tất cả, không mong cầu ao ước chi nữa. Chỉ những người thật sự có đời sống nội tâm phong phú mới có thể ban rải tình thương một cách vô tư cho những người khác. Một việc làm không thể thay đổi một người đã biết sống đời vị tha, như nước không thể làm ướt lá sen. Con người vị tha, không màng danh lợi, có thể sống giữa nơi bùn lầy nước đọng, tối tăm tội lỗi mà vẫn an nhiên vì tội lỗi không thể làm ô uế người đó được. Các ông đã quên câu chuyện trong cuốn Marabarata nói về trận đánh Kuruk Ashera rồi sao?
Truyện kể: “Sau trận đánh khốc liệt này, năm anh em nhà Padava mở tiệc ăn mừng và cho tổ chức một buổi lễ bố thí rất lớn[4]. Gia tộc Padava đã mang tất cả vàng bạc, châu báu trong kho ra chia đều cho những người nghèo khổ trong nước. Dân chúng xếp hàng để nhận lấy ngọc ngà châu báu mà gia tộc Padava ban phát trong suốt ba tháng liền. Ai ai cũng ca tụng lễ bố thí lớn chưa từng có này. Khi kỳ lễ vừa chấm dứt, một con chồn có bộ lông nửa xám nửa vàng rất kỳ lạ ở đâu đi đến. Nó đi vòng quanh bàn tiệc rồi nói: ‘Đây không phải là sự bố thí vĩ đại chưa từng thấy đâu!’ Một người trong gia tộc Padava nổi giận:
'Mi nói sao? Đây không phải là một lễ bố thí lớn nhất ư? Mi có biết gia tộc Padava đã bỏ ra mấy vạn cỗ xe vàng xe bạc, cùng hàng trăm rương ngọc ngà châu báu để phát chẩn cho người nghèo không? Mi có biết số người trong nước sẽ sống no ấm, đầy đủ cơm áo trong mấy chục năm nữa nhờ lễ bố thí này không?’. Con chồn trả lời: ‘Cái đó chẳng có nghĩa gì cả. Để tôi kể cho các ông nghe về lễ bố thí vĩ đại: Tại một làng kia, có một gia đình gồm hai ông bà lão, người con trai và người con đâu. Họ sống nghèo nàn, đơn giản và dành nhiều thời giờ đọc các sách về đạo lý. Gặp lúc chiến tranh kéo dài, họ sống bữa đói bữa no, khổ sở muôn vàn nhưng không hề than van. Năm đó, vụ lúa vừa đến thì lại gặp bão lớn, mùa màng thất thu. Dân làng không có gì ăn, gia đình kia cũng phải nhịn đói hơn một tuần lễ. Sau cùng, họ đã bán tất cả mọi thứ trong nhà để đổi lấy một bát lúa. Ông lão nấu cơm rồi chia đều làm bốn phần cho mọi người trong gia đình. Khi họ sắp ăn cơm thì có tiếng gõ cửa rồi một vị tu sĩ Bà La Môn đến nhà khất thực. Là một tín đồ sùng kính, ông lão bèn nhường phần ăn của mình cho khách.
Vị tăng ăn xong rồi nói:‘Ông cho tôi ăn như vậy là giết tôi rồi. Suốt mười hôm nay tôi không có một hột cơm trong bụng, ăn một bát cơm nhỏ như vậy khiến tôi đói thêm’. Bà vợ nghe thế bèn cúng đường phần ăn của mình. Tu sĩ kia ăn xong vẫn còn thèm nên người con trai lấy phần của mình dâng cho vị tu sĩ. Ông này vẫn chưa no, ăn nốt luôn phần của người con đâu dâng cúng. Ăn xong, tu sĩ làm phép ban ơn huệ rồi bỏ đi. Đêm đó, cả gia đình kia đều chết đói. Lúc tôi đi kiếm ăn qua cửa nhà đó, tự nhiên một nửa bộ lông của tôi trở nên vàng chói sáng rực. Từ đó tôi đi khắp thế giới để tìm một sự hy sinh lớn lao như thế nữa mà không gặp. Không một nơi nào có thể làm cho phân nửa bộ lông màu xám của tôi trở nên vàng rực như phần kia. Thế mà các ông tự hào là đã bố thí rất nhiều, đã giúp đỡ rất nhiều rồi sao?”.
Satyakam kết luận:
- Thế giới ngày nay có đầy đủ mọi thứ, nhưng cũng đầy rẫy khổ đau. Cái mà nhân loại cần là tình thương và chỉ trong sự ban rải tình thương này, ta mới đạt được bình an, phúc lạc.
[4] Theo phong tục xứ Ấn, mỗi khi ăn mừng, người ta luôn tổ chức lễ bố thí, phát chẩn cho ngườinghèo. - ND
Nguồn:
đến trang 98
- Tại sao một bậc Maharaj như ngài lại mất công làm những việc thấp kém như thế? Tại sao ngài không để cho người hầu làm?
Satyakam thản nhiên trả lời:
- Chẳng có việc gì trên thế gian này là thấp kém cả. Tất cả mọi việc đều có tầm quan trọng riêng của nó. Đừng gán cho công việc những giá trị này nọ mà quên rằng ta chỉ đạt đến chân lý bằng cách mở rộng trái tim và ý thức hành động của mình qua những công việc dường như thấp kém hay nhỏ nhặt thế này.
Một người khác lên tiếng:
- Thưa Maharaj, điều ông nói rất hay, nhưng làm sao để những người vẫn còn phải làm việc để mưu sinh có thể áp dụng nó trong cuộc sống?
Satyakam đáp:
- Hãy làm việc như thường, nhưng đừng làm việc như một kẻ nô lệ. Vấn đề ở đây không phải là công việc, mà là thái độ đối với công việc. Hầu như tất cả mọi người đều làm việc một cách không ý thức và rồi thấy chán chường, khổ ải. Tại sao việc mưu sinh lại đem đến kết quả thảm hại như vậy? Phải chăng ta đã làm vì nghĩ rằng việc phải làm như thế? Tại sao ta không thể làm những việc đó trong trạng thái tự do hay làm vì tình yêu thương?
Một người lên tiếng:
- Làm việc vì tình thương ư? Xin ngài hãy giải thích rõ hơn.
Satyakam gật đầu:
- Chữ “tình thương” rất khó hiểu. Tình thương không bao giờ có nếu ta không có tự do. Với những kẻ đang bị áp chế sẽ không có chỗ cho tình thương. Kẻ ấy sẽ làm việc như một nạn nhân chứ không bao giờ làm vì tình thương. Tương tự, nếu chúng ta làm việc một cách miễn cưỡng, thiếu vắng tình thương, thì công việc đó không thể là một công việc thực sự mà chỉ là gánh nặng, cho dù đó là việc ta làm cho những người thân như cha mẹ, vợ con, bạn bè hay cho chính bản thân ta.
Một người khác lại hỏi:
- Phải chăng Maharaj muốn nói rằng chúng tôi không biết thương yêu vợ con?
Satyakam nói:
- Nếu một người đàn ông thương yêu một người đàn bà và muốn cô ta thuộc về mình trọn vẹn, muốn cô ta luôn ở bên cạnh mình, ăn uống và hành động theo ý mình thì đó không phải là yêu thương mà là sự luyến ái bệnh hoạn của kẻ chiếm hữu nô lệ tưởng lầm là tình yêu đó thôi. Một thứ luyến ái như thế chắc chắn sẽ mang lại đau khổ. Tình thương chân thật không bao giờ có thể đem đến cho người ban rải nó sự đau khổ được. Nó chỉ mang lại sự sung mãn tràn đầy, niềm hạnh phúc, sự bình an mà thôi. Nếu không được như thế thì chắc chắn đó không phải là tình thương mà chỉ là một cái gì được người ta tưởng là tình thương đó thôi. Khi nào anh có thể yêu vợ con, họ hàng thân thuộc, hay trọn vẹn thế giới, yêu mà không hề đau khổ, ghen tuông, ao ước một cái gì cho mình hay đòi hỏi được đáp lại, thì anh mới có thể nói rằng anh yêu thương thật sự. Trong kinh Rig Veda, đức Krishna đã
nói: “Này Arjuna, hãy nhìn Thượng đế. Nếu ngài chỉ ngừng hoạt động một giây thôi thì cả vũ trụ này sẽ tan rã. Ngài có lợi lạc gì trong việc đó đâu, thế tại sao Ngài lại phải làm như thế? Không phải vì Ngài yêu thương thế gian này hay sao?”. Thượng đế không đòi hỏi chúng ta điều gì cả vì ngài yêu thương chúng ta. Tình thương thật sự không thể nào có sự gắn bó, đòi hỏi hay mong cầu. Nơi nào có sự bám giữ, mong muốn hay đòi hỏi thì ở chỗ đó chỉ có sự đổi chác, mua bán trên phương diện vật chất. Nếu sự mua bán này không được như ý thì đau khổ phát sinh. Tình yêu thật sự không bao giờ căn cứ trên sự luyến ái vật chất vì những người thực sự yêu nhau, dù có xa cách chân trời góc biển, tình yêu đó cũng không bao giờ phai nhạt và không bao giờ gây đau khổ cho nhau.
- Nhưng trên đời này mấy ai có thể bình thản như thế?
Satyakam gật đầu:
- Đúng thế, muốn có thái độ bình thản, chúng ta phải bỏ công tu tập, có khi bài học này kéo dài nhiều đời nhiều kiếp. Khi đã đạt được trạng thái đó, hay có thể yêu thương thật sự, chúng ta sẽ nghiệm ra được thế nào là tự do tuyệt đối. Lúc đó không còn những gì gắn bó, giam giữ hay lôi cuốn nữa! Khi ấy cái ách nô lệ từ trước đến nay vẫn đặt trên vai chúng ta sẽ tự nhiên biến mất, chúng ta sẽ không tùy thuộc vào sự việc và sẽ không lưu ý đến kết quả hành động của chúng ta nữa.
Một người khác phản đối:
- Nhưng đối với các con của tôi, dù yêu thương chúng, tôi cũng có quyền mong mỏi ở chúng một sự biết ơn chứ. Tôi đã hy sinh rất nhiều cho chúng kia mà.
Satyakam lắc đầu:
- Phải chăng anh vẫn còn mong muốn các con sẽ phải làm một cái gì đó để đền bù lại sự hy sinh của anh? Anh hãy nghĩ cho kỹ xem đó là tình thương hay là một sự mua bán, đổi chác được che giấu dưới các danh từ tốt đẹp? Tình thương chân thật là cho đi mà không đòi hỏi gì trở lại. Này anh bạn, nếu các con anh không đền đáp được điều anh mong mỏi thì anh sẽ ra sao? Phải chăng anh sẽ đau khổ vô cùng? Như thế có phải là tình thương không? Tình thương chân thật là cái có thể giải thoát ra khỏi mọi đau khổ, luyến ái chứ không thể gây đau khổ cho ta được. Việc của anh là nuôi dưỡng, dạy dỗ và thương yêu các con.
Còn việc chúng sẽ đối xử với anh ra sao không phải là điều anh cần lưu tâm. Dù muốn, anh cũng không thể bắt buộc chúng phải hành động như ý anh mong cầu. Cũng như thế, trong việc làm, dù làm cho cá nhân nào, công ty nào, thành phố nào hay quốc gia nào, anh cũng phải có thái độ tự do tương tự. Anh đừng bao giờ đòi hỏi được đền đáp, vì anh nên ý thức rằng anh chỉ là người ban rải tình thương mà thôi. Nếu điều anh cho đi là một tặng phẩm thuần túy không cầu được đáp đền thì công việc của anh sẽ thoải mái biết bao. Hãy suy nghĩ cho kỹ. Phải chăng chúng ta chỉ tha thiết với kết quả khi nào ta chờ đợi sự đền bù nào đó? Chính cái ước ao, mong cầu đó đã khiến ta trở thành nô lệ cho việc làm; tình trạng nô lệ này đã phá bỏ tự do sẵn có và mang lại khổ đau.
Ngưng lại giây lát cho mọi người suy nghĩ, Satyakam tiếp tục:
- Nếu các hoạt động nô lệ khiến chúng ta trở nên ích kỷ thì các hoạt động tự chủ sẽ đem lại cho ta sự an lạc và tự do. Chúng ta thường nói đến quyền hạn và công lý, nhưng trên thế giới hiện nay, những danh từ đó đều trống rỗng. Có hai động lực điều khiển đời sống con người: bạo lực và tình thương. Bạo lực là ích kỷ, là áp chế, vì ai cũng muốn lợi dụng triệt để quyền hạn của mình để làm những điều mình muốn mà không hề đếm xỉa gì đến người khác. Tình thương thì ngược lại: nó chỉ quan tâm đến người khác thôi vì người ban rải tình thương là người đã có tất cả, không mong cầu ao ước chi nữa. Chỉ những người thật sự có đời sống nội tâm phong phú mới có thể ban rải tình thương một cách vô tư cho những người khác. Một việc làm không thể thay đổi một người đã biết sống đời vị tha, như nước không thể làm ướt lá sen. Con người vị tha, không màng danh lợi, có thể sống giữa nơi bùn lầy nước đọng, tối tăm tội lỗi mà vẫn an nhiên vì tội lỗi không thể làm ô uế người đó được. Các ông đã quên câu chuyện trong cuốn Marabarata nói về trận đánh Kuruk Ashera rồi sao?
Truyện kể: “Sau trận đánh khốc liệt này, năm anh em nhà Padava mở tiệc ăn mừng và cho tổ chức một buổi lễ bố thí rất lớn[4]. Gia tộc Padava đã mang tất cả vàng bạc, châu báu trong kho ra chia đều cho những người nghèo khổ trong nước. Dân chúng xếp hàng để nhận lấy ngọc ngà châu báu mà gia tộc Padava ban phát trong suốt ba tháng liền. Ai ai cũng ca tụng lễ bố thí lớn chưa từng có này. Khi kỳ lễ vừa chấm dứt, một con chồn có bộ lông nửa xám nửa vàng rất kỳ lạ ở đâu đi đến. Nó đi vòng quanh bàn tiệc rồi nói: ‘Đây không phải là sự bố thí vĩ đại chưa từng thấy đâu!’ Một người trong gia tộc Padava nổi giận:
'Mi nói sao? Đây không phải là một lễ bố thí lớn nhất ư? Mi có biết gia tộc Padava đã bỏ ra mấy vạn cỗ xe vàng xe bạc, cùng hàng trăm rương ngọc ngà châu báu để phát chẩn cho người nghèo không? Mi có biết số người trong nước sẽ sống no ấm, đầy đủ cơm áo trong mấy chục năm nữa nhờ lễ bố thí này không?’. Con chồn trả lời: ‘Cái đó chẳng có nghĩa gì cả. Để tôi kể cho các ông nghe về lễ bố thí vĩ đại: Tại một làng kia, có một gia đình gồm hai ông bà lão, người con trai và người con đâu. Họ sống nghèo nàn, đơn giản và dành nhiều thời giờ đọc các sách về đạo lý. Gặp lúc chiến tranh kéo dài, họ sống bữa đói bữa no, khổ sở muôn vàn nhưng không hề than van. Năm đó, vụ lúa vừa đến thì lại gặp bão lớn, mùa màng thất thu. Dân làng không có gì ăn, gia đình kia cũng phải nhịn đói hơn một tuần lễ. Sau cùng, họ đã bán tất cả mọi thứ trong nhà để đổi lấy một bát lúa. Ông lão nấu cơm rồi chia đều làm bốn phần cho mọi người trong gia đình. Khi họ sắp ăn cơm thì có tiếng gõ cửa rồi một vị tu sĩ Bà La Môn đến nhà khất thực. Là một tín đồ sùng kính, ông lão bèn nhường phần ăn của mình cho khách.
Vị tăng ăn xong rồi nói:‘Ông cho tôi ăn như vậy là giết tôi rồi. Suốt mười hôm nay tôi không có một hột cơm trong bụng, ăn một bát cơm nhỏ như vậy khiến tôi đói thêm’. Bà vợ nghe thế bèn cúng đường phần ăn của mình. Tu sĩ kia ăn xong vẫn còn thèm nên người con trai lấy phần của mình dâng cho vị tu sĩ. Ông này vẫn chưa no, ăn nốt luôn phần của người con đâu dâng cúng. Ăn xong, tu sĩ làm phép ban ơn huệ rồi bỏ đi. Đêm đó, cả gia đình kia đều chết đói. Lúc tôi đi kiếm ăn qua cửa nhà đó, tự nhiên một nửa bộ lông của tôi trở nên vàng chói sáng rực. Từ đó tôi đi khắp thế giới để tìm một sự hy sinh lớn lao như thế nữa mà không gặp. Không một nơi nào có thể làm cho phân nửa bộ lông màu xám của tôi trở nên vàng rực như phần kia. Thế mà các ông tự hào là đã bố thí rất nhiều, đã giúp đỡ rất nhiều rồi sao?”.
Satyakam kết luận:
- Thế giới ngày nay có đầy đủ mọi thứ, nhưng cũng đầy rẫy khổ đau. Cái mà nhân loại cần là tình thương và chỉ trong sự ban rải tình thương này, ta mới đạt được bình an, phúc lạc.
_____________________________________
[4] Theo phong tục xứ Ấn, mỗi khi ăn mừng, người ta luôn tổ chức lễ bố thí, phát chẩn cho ngườinghèo. - ND
Nguồn:
đến trang 98
#18
Gửi vào 21/08/2020 - 05:39
***
Thấm thoắt, Puram đã lên năm. Là một đứa bé thông minh, cậu chỉ cần cha mẹ dạy một lần là hiểu ngay. Hàng ngày, Puram theo mẹ trông nom các nghi lễ trong đền. Cậu bé ngồi im lặng tham dự các khóa lễ. Nhiều người thấy thằng bé dễ thương, muốn đến ôm thì Puram lảng tránh. Puram chỉ thích ngồi yên lặng một mình nên người ta thì thầm rằng hẳn cậu phải là một hành giả Yoga tái sinh. Cuối năm đó, Satyakam cho cử hành nghi lễ nhập môn để truyền dạy riêng cho con. Anh dạy con tập đọc, tập viết và tụng những bộ kinh phổ thông của Ấn giáo. Thỉnh thoảng, anh cũng cho con tham dự những buổi giảng về giáo nghĩa. Puram sáng dạ, lại hiếu học. Cậu bé luôn luôn tìm cơ hội học hỏi thêm nên trong các buổi giảng, cậu đặt những câu hỏi hoặc nêu vấn đề mà cậu còn thắc mắc. Mặc dù tuổi nhỏ nhưng những câu hỏi của Puram đặt ra đã làm nhiều người lớn tuổi phải ngạc nhiên và thán phục. Một hôm trong khóa giảng, Puram hỏi:
- Xin Maharaj nói rõ hơn về việc tu học và người ta cần học hỏi những gì?
Satyakam mỉm cười nhìn con:
- Con hãy lắng nghe đây. Tu học là học hỏi về các quy luật tự nhiên sẵn có trong vũ trụ. Các quy luật này được đặt ra với mục đích hướng dẫn con người tiến đến sự toàn thiện và an lạc. Không ai có thể đạt đến sự toàn thiện mà không thông suốt các định luật bất di dịch này. Theo quy luật tự nhiên, tất cả mọi sinh vật đều có cùng một nguồn gốc như nhau, vì cùng phát sinh từ một đấng Sáng tạo duy nhất. Do đó, vì lợi ích chung cho toàn thể và cũng vì hạnh phúc riêng cho mỗi cá nhân mà con người phải biết thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trong tình anh em một nhà. Hãy lấy tình thương đối đãi với nhau. Đừng phân chia chủng tộc, màu da, nam nữ hay tôn giáo. Tình thương là mối đây liên kết các dân tộc, tôn giáo, chủng tộc, quan niệm và tạo lập một nền tảng xã hội xây dựng trên căn bản tình thương.
Puram cúi đầu suy nghĩ rồi hỏi tiếp:
- Như vậy nền tảng của xã hội hiện nay là gì?
- Xã hội hiện nay đã suy thoái rất nhiều so với thời hoàng kim ngày trước. Hiện nay, nó đặt căn bản trên lòng ích kỷ dưới muôn vàn hình thức khác nhau, nhất là quyền lợi cá nhân. Người ích kỷ lúc nào cũng tỏ ra hung bạo, nghiệt ngã vì chỉ biết sống cho mình. Họ vừa là nô lệ, vừa là nạn nhân của tham vọng. Lúc nào họ cũng khao khát đủ thứ, thấy gì cũng muốn vơ vét, nhìn vật nào cũng muốn thu giữ để thỏa mãn lòng tham, bản năng, dục vọng và lòng kiêu hãnh. Vì quyền lợi cá nhân mà người này tranh giành với người kia, giai cấp này đối chọi với giai cấp khác, và sự tranh giành này chính là nguyên nhân của mọi sự bóc lột, lợi dụng, chia rẽ, xung đột, gây gổ, thù hận, hiềm khích. Khi các gia đình đều ích kỷ thì cả xã hội trở nên tồi tệ, đầy hận thù. Khi các dân tộc ích kỷ thì nước này sẽ chống đối nước kia, chủng tộc này chống chủng tộc nọ, rồi gây nên xung đột, chiến tranh.
- Thưa cha, như vậy không thể nào có tình thương ở trái đất này hay sao?
- Tình thương thường hiện diện nơi những tâm hồn biết hướng thượng, nhưng nó chưa ăn sâu trong lòng mọi người để có thể diệt trừ lòng ích kỷ, hay khiến con người biết tôn trọng lẫn nhau qua các mối giao thiệp giữa cá nhân, quốc gia hay xã hội. Mặc dù đã có những tổ chức từ thiện, xã hội được thành lập để thúc đẩy việc giúp đỡ lẫn nhau, nhưng người ta chỉ coi đó như lòng hảo tâm chứ chưa hẳn là tình thương thực sự.
- Như vậy tình thương phát sinh từ đâu?
- Tình thương phát sinh từ trong gia đình dưới hình thức tình thương yêu giữa cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em. Trong không khí đầm ấm dịu dàng của gia đình, những đức tính tốt sẽ được nảy nở, vun bồi và mở đường cho cách xử thế cao thượng đẹp đẽ về sau. Đời sống gia đình chuẩn bị cho đời sống xã hội và gia đình là nền tảng của tình thương. Tuy nhiên, khi người ta phủ nhận cái căn bản gia đình đó mà chú trọng vào một tập đoàn hay một cá nhân thì cái căn bản của tình thương đã bị thay thế bằng những tham vọng hay ích kỷ cá nhân. Hậu quả là cả một xã hội sẽ dần suy thoái, tạo mầm mống cho sự đau khổ, thù hận, chiến tranh và bạo động.
- Theo cha thì con phải làm gì?
Satyakam âu yếm nhìn con:
- Bằng cách làm gương tốt qua lời nói và hành động của mình, con hãy lo tu học, trau mình, sửa đổi, luyện tính ngay thẳng, tôn trọng sự công bình. Con cần hiểu rằng cách duy nhất để tiêu diệt sự tai hại của tính ích kỷ là sự thực hành tình thương yêu, không những cho những người thân của mình mà đến tất cả muôn loài chúng sinh.
Trong một buổi giảng khác, Puram đặt câu hỏi:
- Xin Maharaj nói rõ hơn về vũ trụ và các định luật của nó.
Mọi người đều kinh ngạc vì một câu hỏi trừu tượng như vậy thường chỉ phát xuất ở những người lớn tuổi. Satyakam thong thả giải thích:
- Này Puram, con hãy lắng nghe đây. Vũ trụ là biểu hiện của sự sống. Trong vũ trụ, không có sự sống nào mà không có vật chất và không có vật chất nào mà không có sự sống. Danh từ “vật chất” ở đây phải hiểu theo nghĩa rất rộng chứ không phải vật chất mà giác quan thông thường của chúng ta có thể nhận biết.
Puram suy nghĩ một lúc rồi hỏi:
- Như thế trước khi vũ trụ được tạo lập thì có những gì?
Satyakam trả lời:
- Chỉ có tinh thần (spirit) hay hơi thở của Thượng đế và vật chất (material) nguyên thủy hay không gian. Vật chất nguyên thủy vốn bất động và không có hình dáng, nhưng nhờ sự sống nhập vào nó, truyền cho nó những đặc tính cần thiết mà nó trở nên sống động và có hình dáng, sắc tướng. Đó là sự Sáng tạo.
- Sự sáng tạo xảy ra như thế nào?
- Kinh sách của Ấn giáo nói đến sự hiện diện của huyền âm OM và chính âm thanh này đã tạo ra vạn vật. Âm thanh nhập vào vật chất làm cho vật chất rung động và sự rung động này chính là năng lượng của tạo hóa, sinh ra muôn loài.
Một tín đồ rụt rè lên tiếng:
- Vậy có cách nào chứng minh các năng lượng này không?
Satyakam gật đầu:
- Khi người ta khảy chiếc đàn đặt trên một lớp cát mỏng, sự rung động của âm thanh sẽ làm cho lớp cát xáo trộn, xếp thành những đường, những góc cạnh và thành các hình kỷ hà[5]. Đức Krishna đã chẳng nói trong Bhagavad Gita rằng: “Thượng đế sáng tạo thế giới theo nguyên tắc kỷ hà” đấy sao? Chính sự rung động này đã tạo ra những vật thể, hình hài, sắc tướng và trải qua những thay đổi, sự sống tiếp tục hiện diện xuyên qua vô số hình hài, sắc tướng đó. Các hình hài, sắc tướng có thể thay đổi, sinh ra, trưởng thành rồi hủy hoại, nhưng sự sống vẫn trường tồn. Tóm lại, sự sống và sự chết, tăng trưởng và hư hoại, biểu hiện và lụi tàn, chỉ là những biến chuyển của sự sốngxuyên qua vật chất. Nhờ sự chuyển biến ấy, các hình thể trở nên hoàn hảo vàsự sống cũng nhờ đó mà trở nên mạnh mẽ, sinh động hơn. Ta có thể nói các sắc tướng là sự biểu lộ trạng thái sung mãn của sự sống tiềm ẩn bên trong. Đó là nguyên tắc của hai định luật trong vũ trụ: sự tăng trưởng, cải thiện để hoàn hảo hay Luật Tiến Hóa và sự thay đổi, hóa sinh trong vô số hình hài, sắc tướng hay Luật Luân Hồi. Nếu không có sự sống, vật chất bất động; với sựsống, vật chất sinh động. Dĩ nhiên lúc bắt đầu, sự sống còn thô sơ, lộn xộn chưa hoàn hảo, nhưng nhờ phát triển mà nó dần dần trở nên điều hòa. Ba yếu tố Tĩnh, Động và Điều Hòa là ba đặc tính (gounas) của vật chất. Mọi vật chất đều ở một trong ba trạng thái nói trên. Vũ trụ thay đổi dựa trên những định luật bất di dịch với một nguyên tắc chính: “Tất cả những gì phát sinh từ Thượng đế sẽ phải về với Thượng đế” và mục đích chính của kiếp người là làm sao để trở về với Thượng đế chứ không gì khác. Vũ trụ là một thể duy nhất, tương đồng, bao la và tràn đầy sự sống. Các hình hài, sắc tướng trong đó nhiều vô kể và dĩ nhiên khác nhau rất nhiều. Có thể nói rằng đó là hàng triệu tia sáng phát xuất từ một điểm linh quang tỏa lan ra khắp trời. Đó cũng là mật nghĩa của câu “vạn thù trong nhất thể”, “sai biệt trong đại đồng”.
Satyakam ngưng một lát như để Puram và mọi người suy nghĩ rồi tiếp tục:
- Khi không tin những định luật vũ trụ như luân hồi, nhân quả hay tiến hóa mà cho rằng đời người chỉ ngắn vỏn vẹn trong một kiếp sống, người ta sẽ không bao giờ hiểu được các vấn đề trọng đại như sự sống và sự chết. Cũng vì thế, nhiều người đã sợ hãi sự chết vì chết là hết, là chấm dứt tất cả, là một cơn ác mộng kéo dài, là những hình phạt ghê gớm. Hiển nhiên qua sự suyluận của lý trí, nhiều người đã phủ nhận những điều này cũng như họ đã phủ nhận Thượng đế. Họ sẽ không bao giờ có thể giải thích câu hỏi: “Con người sinh ra để làm gì?”. Tóm lại, vì tin rằng đời người chỉ có một kiếp thôi nên họ đã sống bừa bãi, chỉ lo hưởng thụ, chạy theo các dục vọng đê hèn, ích kỷ. Nhờ học hỏi các định luật vũ trụ mà chúng ta ý thức được sự thay đổi, tiến hóa của vạn vật, cũng như tính chất tạm thời khi một sự sống vô biên khoác lấy vỏ bọc của các yếu tố vật chất. Nếu xét trên khía cạnh vật chất, đời sống chỉ cho chúng ta một vài phút giây ngắn ngủi, nhưng khi đã biết nhìn nó qua khía cạnh tinh thần, ta sẽ thấy đời sống là một trường học giúp chúng ta rèn luyện phần tinh thần, đưa chúng ta hướng tới Chân, Thiện, Mỹ hay trở về với Thượng đế. Nhờ hiểu biết mà con người biết rằng họ phải tự phát triển và giúp đỡ những người khác. Khi đã chuyển hóa, thăng hoa lên bình diện cao cả đó, con người sẽ thấy rằng các suy luận, tính toán, bận rộn ngày trước vốn ích kỷ, cận hẹp biết bao, và nhờ thế các mối lo âu, buồn rầu sẽ bị thay thế bởi niềm an lạc, hạnh phúc vô biên. Nhờ hiểu biết mà ta có thể vượt qua các đám mây mù để quan sát sự vật một cách chính xác. Nhờ đã thay đổi tâm thức, biết nhìn từ trên cao xuống mà mọi việc hiện ra đúng với bản chất hơn và dĩnhiên khác hẳn cách nhìn thiển cận của ta từ trước vốn chỉ quẩn quanh, chật hẹp. Nhờ biết như thế mà ta dần dần biết vứt bỏ cái bản ngã thấp hèn cùng các thành kiến, ảo tưởng, hay cái nhân sinh quan sai lạc trước kia để bước lên một bình diện cao thượng, tốt đẹp, công bình. Đời sống khi đó sẽ là một ân sủng vì khi đã tiến cao hơn, ta dễ thông cảm với mọi người và nhờ thế tình thương sẽ được khai mở rộng rãi.
Năm tháng trôi qua, Puram đã tiến bộ rất nhiều. Cậu đã thuộc lòng các bộ kinh phổ thông của Ấn giáo cũng như những câu chuyện nói về cuộc đời củacác bậc thánh nhân. Cậu đọc rất nhiều và thường đặt những câu hỏi mà đôi khi cha mẹ cũng phải giật mình ngạc nhiên. Puram càng lớn càng thông minh, khiến Bhairavi không khỏi hãnh diện về con. Satyakam thường mỉm cười mỗi khi thấy Bhairavi khen con. Anh nhẹ nhàng nói:
- Này Bhairavi, Puram là một linh hồn đã tiến hóa rất cao. Nó có khả năng lựa chọn cha mẹ và đến với chúng ta với mục đích để học hỏi thêm mà thôi.
Bhairavi thẹn thùng:
- Em cũng biết thế nhưng là một người mẹ, em có quyền hãnh diện về đứa con của mình chứ!
Satyakam lắc đầu:
- Em đừng nên nghĩ rằng con thuộc về em vì em sinh ra con, mà chỉ nên nghĩ rằng em được giao phó nhiệm vụ trông nom, săn sóc con mà thôi. Một ngày kia, Puram sẽ rời xa em và đi trên đường riêng của nó. Em chớ quyến luyến rồi thất vọng.
Bất chợt Bhairavi nghiêm trang hỏi:
- Phần anh thì sao? Chắc chắn có ngày anh cũng sẽ ra đi vậy?
Satyakam thong thả gật đầu:
- Em nói đúng. Ta đã nghĩ đến ngày ta phải đi nốt quãng đường mà ta phải đi để hoàn tất nguyện vọng tối hậu của mình. Khi ta hoàn tất trách nhiệm trông nom săn sóc Puram, ta sẽ lên đường.
Bhairavi định nói gì rồi lại thôi, nhưng Satyakam đã đọc được tư tưởng đó:
- Em nghĩ đúng. Mỗi kiếp sống, mỗi chặng đi đều là một bài học quan trọng trên con đường phát triển và tiến hóa của mỗi người. Khi đã xong một bài học rồi thì phải tiếp tục lên đường để tiếp thu những bài học khác. Nếu cứ bám víu, quyến luyến thì chỉ tự mình ràng buộc lấy mình một cách không cần thiết mà thôi.
Bhairavi gật đầu thông cảm:
- Như vậy anh sẽ rời bỏ cõi trần này hay sao?
- Có lẽ ngày cuối đời của ta không còn bao xa nữa đâu.
Bhairavi lặng ngắm khuôn mặt trang nghiêm của Satyakam một lúc rồi nói:
- Em không bao giờ nghĩ nó sẽ kết thúc như vậy, ít ra... Cô xúc động không nói tiếp được nữa, Satyakam âu yếm nhìn Bhairavi một lúc rồi thong thả nói:
- Trước sau gì ai cũng phải ra đi. Chúng ta đến cuộc đời này một mình thì khi ra đi cũng vậy thôi. Là người đi trên đường tinh thần, chúng ta đã biết rõ mục đích của cuộc đời là để học hỏi, trải nghiệm và biết tuân theo các quy luật tự nhiên. Luật tự nhiên đã định như thế thì cưỡng lại có ích gì đâu? Ta sẽ ra đi nhưng Puram sẽ trông nom săn sóc cho em. Ngoài ra, em sẽ trở về nương tựa với Mataji - sư mẫu của em nữa...
Bhairavi xúc động:
- Nhưng... nhưng tại sao anh chỉ lo cho sự giải thoát của anh mà không nghĩ đến sự giải thoát của em...
Satyakam nhẹ nhàng đưa tay vuốt tóc Bhairavi:
- Việc giải thoát của em sẽ đến thông qua Puram. Con sẽ đạt được mục đích và sẽ giúp đỡ em.
- Nhưng... tại sao anh không giúp được em?
Satyakam im lặng một lúc rồi trả lời:
- Ta có thể làm được việc đó nhưng duyên nghiệp giữa ta và em không phải như vậy. Chúng ta đến với nhau để học hỏi, để tiến hóa, để trải nghiệm và hiện nay chúng ta đã hoàn tất việc đó. Duyên nợ giữa hai chúng ta sẽ chấm dứt thì chẳng nên ràng buộc thêm làm gì. Hẳn em biết rõ đây chỉ là sự chia tay trên phương diện vật chất mà thôi. Em hãy can đảm vì duyên nghiệp đã xong thì quyến luyến chỉ gây trở ngại cho việc tiến hóa của chúng ta.
Đêm hôm đó, Bhairavi đang ngủ bỗng thấy cánh cửa phòng mở tung rồi một luồng ánh sáng chiếu vào chói lọi. Trong luồng ánh sáng đó, cô thấy Mataji - sư mẫu của cô - xuất hiện. Bà đưa hai tay ra như chào đón. Cô mừng rỡ kêu lớn: “Mataji! Mataji!...” rồi giật mình thức dậy. Thì ra đó là một giấc mơ. Cô toan gọi Satyakam để kể cho anh nghe nhưng không thấy anh đâu cả. Bhairavi bước vội ra khỏi giường, chợt thấy Satyakam đang ngồi xếp bằng trên chiếc ghế kê gần cửa sổ. Anh mỉm cười:
- Phải đấy Bhairavi, sư mẫu của em đang gọi em đấy.
- Phải chăng đã đến lúc em phải trở về với sư mẫu của em?
- Đúng thế! Bà biết trước sự liên hệ giữa ta và em đã đến lúc chấm dứt nên gọi em trở về với bà.
- Sư mẫu biết rõ mọi việc.
- Bà muốn chúng ta đến Calcutta vào ngày trăng tròn sắp tới.
____________________________________
[5] Đường kỷ hà là những nét cơ bản gồm nét thẳng và nét cong. Hình kỷ hà là những hình được cấu tạo từ những nét cơ bản này mà phổ biến nhất là tròn, vuông và tam giác.
Nguồn:
đến trang 105
#19
Gửi vào 23/08/2020 - 12:19
Ngày hôm sau, Satyakam triệu tập mọi người và tuyên bố rằng anh, Bhairavi và Puram sẽ rời Kadambini để đi gặp Mataji tại Calcutta và sẽ không trở về đây nữa. Nhân dịp này, anh cũng giảng dạy bài học cuối cùng: “Con người cần ý thức rõ rằng đời sống còn có một cái gì cao đẹp, mỹ lệ hơn là những tranh đua, tính toán, hơn thiệt, được thua. Trong vũ trụ lúc nào cũng vang rền những âm thanh cao đẹp, thánh thiện, nhưng vì con người quá mải mê đến những chuyện vẩn vơ, lo toan những điều này nọ, nên âm thanh đó chỉ lướt qua tai họ trong khoảnh khắc chứ không thấm nhuần vào tâm họ được. Khi nghe được âm thanh này, họ thấy nó hay, nó đẹp biết bao, nhưng họ lại bỏ qua vì còn mải lo toan những chuyện khác. Cũng như thế, con người đến các nơi thờ phượng tôn nghiêm, đọc các kinh sách thâm diệu và tự nhủ sẽ sống theo tinh thần đó, nhưng chỉ vài giây sau, khi họ quay qua bàn tán những đề tài thời sự hay những lo toan của cuộc đời, thì những tư tưởng thanh cao kia đều biến đi đâu mất hết. Đa số các tín đồ đều nghĩ rằng mình thực sự thiết tha với những lý tưởng cao đẹp, nhưng thực ra họ chỉ hiếu kỳ mà thôi. Họ đến với tôn giáo vì truyền thống sẵn có, vì thói quen hay vì đó là nơi họ cảm thấy thoải mái, chứ không thực sự ý thức gì về sự cao thượng và mục đích tôn giáo. Sở dĩ họ hành động như thế là vì họ thiếu niềm tin vào con đường mà họ muốn theo đuổi. Đa số dễ nản lòng, thoái chí và không có can đảm sửa bỏ các tập quán, thói quen của mình. Khi vừa gặp trở ngại đầu tiên, họ đã rụt rè chùn bước. Họ sợ người này chê cười, lo người kia chế nhạo, và rồi chỉ dám hành động theo dư luận, mặc dù trong tâm họ biết điều đó không chính đáng. Cũng vì thế mà số người đến tham dự các nghi lễ tôn giáo, các buổi giảng dạy về giáo lý tuy nhiều nhưng số người tiến bộ chẳng được bao nhiêu. Con người cần phải thay đổi nếp sống mơ hồ này nếu họ thực sự muốn tiến bộ. Mục đích của các buổi điểm đạo truyền pháp cho người nhập môn là tạo một con người mới với những tập quán hay thói quen mới, để biến đổi cả tâm lẫn trí người đó. Người có lý tưởng là người luôn giữ gìn mức định đó trong tâm, lúc nào cũng suy gẫm về điều mình theo đuổi, thấy rõ kết quả mà họ mong sẽ đạt được, và cương quyết đi trọn con đường. Họ phải biết tuân giữ những định luật bất biến trong vũ trụ và không bao giờ quên rằng chân hạnh phúc - một phần thưởng quý báu - chỉ đến sau khi họ đã vượt qua thử thách mà thôi.
Trong mọi truyền thống tôn giáo, sự biết mình là căn bản quan trọng nhất. Chính vì không biết mình mà nhiều người đã chạy theo những lời hứa hẹn đường mật, những trò bịp bợm. Sự tự biết mình đòi hỏi một công phu tu tập quán chiếu, để phản ánh trung thực các ý tưởng, các điều sâu kín ẩn náu trong nội tâm, chứ không phải điều mà người ta có thể tìm thấy trong sách vở, dù là sách gì chăng nữa. Nhờ đó, người ta sẽ đạt đến tâm trạng ‘minh triết trong tâm hồn’ và từ đó họ có thể vận dụng hợp lý các kiến thức thu tập được. Mọi truyền thống tôn giáo, dù cao siêu đến đâu, cũng quy về con người và những gì ta hiểu biết về chính ta. Nếu không tự biết mình, ta không thể biết cái gì khác được, có chăng chỉ là cảm giác tưởng mình đã biết. Sự liên quan giữa con người và Thượng đế đòi hỏi sự biết mình. Chỉ khi ta biết mình là ai, câu trả lời về Thượng đế sẽ đến một cách rõ ràng hơn bao giờ hết.
Hiện nay, đa số tôn giáo không còn giúp con người biết mình hay biết đến mối liên hệ giữa họ và Thượng đế nữa vì chúng đã bị thay đổi quá nhiều. Trước hết, một tôn giáo phát sinh qua một nhân vật đã giác ngộ hay được mặc khải. Người này thường giảng dạy những điều họ nhận biết cho một số người khác. Những người hiểu được điều này sẽ trở thành đệ tử của vị đó và giúp vị đó truyền bá tư tưởng khắp nơi. Đa số các giáo chủ đều có những sứ mệnh nhất định là truyền bá chân lý dưới một hình thức hợp tình, hợp lý, hợp cảnh và hợp thời. Tuy nhiên, họ không phải là một quyền năng riêng biệt màchỉ là một công cụ của Thượng đế. Sứ mạng của họ là ban rải những hạt giống chân lý để chúng đơm hoa kết trái khắp nhân loại. Khi công việc hoàn tất, các đấng giáo chủ đó rời bỏ thế gian và sau đó, một tôn giáo được thành lập. Lịch sử cho thấy không một đấng giáo chủ chân chính nào lại lo thiết lập một tôn giáo khi các ngài còn sống cả. Các ngài đến với nhân loại để giảng dạy chân lý, chứ không phải thành lập một tổ chức hữu hình nào. Tổ chức chỉ được tín đồ dựng lên sau khi các ngài viên tịch mà thôi. Những người này kết hợp thành một đoàn thể để sống với chân lý đó và quảng bá chân lý đó đến những người khác.
Một tôn giáo thường rất cao đẹp trong một quãng thời gian nào đó sau khi vị sáng lập từ trần, nhưng rồi theo thời gian, nó thay đổi, sa sút và dần trở thành một mớ đức tin lộn xộn, kỳ bí, đượm màu mê tín dị đoan. Các giáo sĩ thường tranh giành quyền lợi, công kích lẫn nhau về điều mà đấng giáo chủ đã chỉ dạy. Họ đòi độc quyền diễn giảng các điều này dựa trên cách hiểu của riêng họ và ai cũng cho rằng chỉ mình mới đầy đủ thẩm quyền, chỉ mình mới có thể giải thích một cách chính xác những lời giảng dạy của đấng giáo chủ đó. Đa số các linh ảnh, các điều tiết lộ nguyên thủy của đấng giáo chủ bị xuyên tạc, thêm bớt, sửa đổi hoặc suy diễn sai lạc bởi các giáo sĩ dốt nát hay quá nhiệt tâm trong việc phát triển tổ chức. Từ đó, tinh hoa tôn giáo dần dần trở nên suy kiệt. Theo thời gian, nền tảng tôn giáo rạn nứt và phân tách ra hàng trăm, hàng ngàn tông phái khác nhau. Hiển nhiên chúng sẽ bị đào thải vì không một tôn giáo nào có thể trường tồn, chỉ có chân lý hay sự thật mới tồn tại đời đời mà thôi.
Tuy nhiên, con người vẫn cần có một tôn giáo. Nếu họ không thể chấp nhận một tôn giáo hiện hữu thì họ vẫn phải xây dựng một mối liên quan nào đó giữa mình và Thượng đế. Nhịp cầu thông cảm này phải là một thứ ‘tôn giáo có tính cách cá nhân’ được đặt ra để tạo mối liên lạc giữa con người và Thượng đế, chứ không nhất thiết phải là một tổ chức nào đó. Tổ chức là do con người, chứ không phải là Thượng đế, thiết lập ra. Thượng đế chỉ có thể tìm thấy tại những nơi sâu kín nhất trong lòng người, do đó sự biết mình luôn luôn là căn bản quan trọng nhất trong việc đi tìm Thượng đế. Tôn giáo phát sinh do lòng sùng kính chứ không phải là kết quả bàn cãi hay lý luận. Điều con người cần hiện nay là sự thờ phụng, tôn kính Thượng đế trong lòng chứ không phải lời kêu gọi ồn ào bên ngoài, hay qua một hình thức quảng cáo thánh thần nào đó. Muốn tôn thờ Thượng đế đúng cách, con người phải biết khiêm tốn, phải biết xem mình như một đứa trẻ ngây thơ trong vòng tay che chở bao la đầy tình thương của ngài. Khiêm tốn là bước đầu trên con đường này, vì chỉ có sự khiêm tốn mới đưa ta đến đức tin chân thật, và chỉ có đức tin chân thật mới hướng dẫn con người đến được nơi Thượng đế ngự trị. Khi con người kiểm soát được thân và tâm nghĩa là họ đã chuẩn bị được một nơi chốn linh thiêng cho Thượng đế ngự tri. Khi con người có nội tâm an tĩnh, sung mãn, nghĩa là họ có một đền đài cao đẹp cho ngài. Sự gìn giữ cho tâm yên lặng là khởi đầu của sự quên mình và chỉ trong sự quên mình, con người mới đến được với Thượng đế”.
Bài giảng cuối cùng của Satyakam được mọi người đón nhận nhiệt thành. Nhiều người đã không cầm được nước mắt khi biết vị hiền giả mà họ kính mến sẽ rời khỏi vùng đất này vào hôm sau.
Từ sáng sớm, dân làng đã xếp hàng quanh ngôi đền Kali để tiễn đưa Satyakam và Bhairavi. Hàng ngàn người cầm hoa đứng dọc hai bên đường từ làng Kadambini đến nhà ga xe lửa. Họ rải hoa đầy mặt đất và thốt lên những lời ca tụng thành kính nhất. Satyakam dắt Bhairavi và Puram thong thả bước đi, thỉnh thoảng họ lại giơ tay ban phước lành cho mọi người. Khi đến nhà ga xe lửa, đám đông vây kín quanh toa xe khiến nhân viên trật tự phải làm việc vất vả mới dọn được đường cho xe đi. Chiếc xe lửa kéo còi rồi từ từ chuyển bánh, để lại sau lưng một đám bụi mờ...
Nguồn:
đến chương 4 trang 109
Trong mọi truyền thống tôn giáo, sự biết mình là căn bản quan trọng nhất. Chính vì không biết mình mà nhiều người đã chạy theo những lời hứa hẹn đường mật, những trò bịp bợm. Sự tự biết mình đòi hỏi một công phu tu tập quán chiếu, để phản ánh trung thực các ý tưởng, các điều sâu kín ẩn náu trong nội tâm, chứ không phải điều mà người ta có thể tìm thấy trong sách vở, dù là sách gì chăng nữa. Nhờ đó, người ta sẽ đạt đến tâm trạng ‘minh triết trong tâm hồn’ và từ đó họ có thể vận dụng hợp lý các kiến thức thu tập được. Mọi truyền thống tôn giáo, dù cao siêu đến đâu, cũng quy về con người và những gì ta hiểu biết về chính ta. Nếu không tự biết mình, ta không thể biết cái gì khác được, có chăng chỉ là cảm giác tưởng mình đã biết. Sự liên quan giữa con người và Thượng đế đòi hỏi sự biết mình. Chỉ khi ta biết mình là ai, câu trả lời về Thượng đế sẽ đến một cách rõ ràng hơn bao giờ hết.
Hiện nay, đa số tôn giáo không còn giúp con người biết mình hay biết đến mối liên hệ giữa họ và Thượng đế nữa vì chúng đã bị thay đổi quá nhiều. Trước hết, một tôn giáo phát sinh qua một nhân vật đã giác ngộ hay được mặc khải. Người này thường giảng dạy những điều họ nhận biết cho một số người khác. Những người hiểu được điều này sẽ trở thành đệ tử của vị đó và giúp vị đó truyền bá tư tưởng khắp nơi. Đa số các giáo chủ đều có những sứ mệnh nhất định là truyền bá chân lý dưới một hình thức hợp tình, hợp lý, hợp cảnh và hợp thời. Tuy nhiên, họ không phải là một quyền năng riêng biệt màchỉ là một công cụ của Thượng đế. Sứ mạng của họ là ban rải những hạt giống chân lý để chúng đơm hoa kết trái khắp nhân loại. Khi công việc hoàn tất, các đấng giáo chủ đó rời bỏ thế gian và sau đó, một tôn giáo được thành lập. Lịch sử cho thấy không một đấng giáo chủ chân chính nào lại lo thiết lập một tôn giáo khi các ngài còn sống cả. Các ngài đến với nhân loại để giảng dạy chân lý, chứ không phải thành lập một tổ chức hữu hình nào. Tổ chức chỉ được tín đồ dựng lên sau khi các ngài viên tịch mà thôi. Những người này kết hợp thành một đoàn thể để sống với chân lý đó và quảng bá chân lý đó đến những người khác.
Một tôn giáo thường rất cao đẹp trong một quãng thời gian nào đó sau khi vị sáng lập từ trần, nhưng rồi theo thời gian, nó thay đổi, sa sút và dần trở thành một mớ đức tin lộn xộn, kỳ bí, đượm màu mê tín dị đoan. Các giáo sĩ thường tranh giành quyền lợi, công kích lẫn nhau về điều mà đấng giáo chủ đã chỉ dạy. Họ đòi độc quyền diễn giảng các điều này dựa trên cách hiểu của riêng họ và ai cũng cho rằng chỉ mình mới đầy đủ thẩm quyền, chỉ mình mới có thể giải thích một cách chính xác những lời giảng dạy của đấng giáo chủ đó. Đa số các linh ảnh, các điều tiết lộ nguyên thủy của đấng giáo chủ bị xuyên tạc, thêm bớt, sửa đổi hoặc suy diễn sai lạc bởi các giáo sĩ dốt nát hay quá nhiệt tâm trong việc phát triển tổ chức. Từ đó, tinh hoa tôn giáo dần dần trở nên suy kiệt. Theo thời gian, nền tảng tôn giáo rạn nứt và phân tách ra hàng trăm, hàng ngàn tông phái khác nhau. Hiển nhiên chúng sẽ bị đào thải vì không một tôn giáo nào có thể trường tồn, chỉ có chân lý hay sự thật mới tồn tại đời đời mà thôi.
Tuy nhiên, con người vẫn cần có một tôn giáo. Nếu họ không thể chấp nhận một tôn giáo hiện hữu thì họ vẫn phải xây dựng một mối liên quan nào đó giữa mình và Thượng đế. Nhịp cầu thông cảm này phải là một thứ ‘tôn giáo có tính cách cá nhân’ được đặt ra để tạo mối liên lạc giữa con người và Thượng đế, chứ không nhất thiết phải là một tổ chức nào đó. Tổ chức là do con người, chứ không phải là Thượng đế, thiết lập ra. Thượng đế chỉ có thể tìm thấy tại những nơi sâu kín nhất trong lòng người, do đó sự biết mình luôn luôn là căn bản quan trọng nhất trong việc đi tìm Thượng đế. Tôn giáo phát sinh do lòng sùng kính chứ không phải là kết quả bàn cãi hay lý luận. Điều con người cần hiện nay là sự thờ phụng, tôn kính Thượng đế trong lòng chứ không phải lời kêu gọi ồn ào bên ngoài, hay qua một hình thức quảng cáo thánh thần nào đó. Muốn tôn thờ Thượng đế đúng cách, con người phải biết khiêm tốn, phải biết xem mình như một đứa trẻ ngây thơ trong vòng tay che chở bao la đầy tình thương của ngài. Khiêm tốn là bước đầu trên con đường này, vì chỉ có sự khiêm tốn mới đưa ta đến đức tin chân thật, và chỉ có đức tin chân thật mới hướng dẫn con người đến được nơi Thượng đế ngự trị. Khi con người kiểm soát được thân và tâm nghĩa là họ đã chuẩn bị được một nơi chốn linh thiêng cho Thượng đế ngự tri. Khi con người có nội tâm an tĩnh, sung mãn, nghĩa là họ có một đền đài cao đẹp cho ngài. Sự gìn giữ cho tâm yên lặng là khởi đầu của sự quên mình và chỉ trong sự quên mình, con người mới đến được với Thượng đế”.
Bài giảng cuối cùng của Satyakam được mọi người đón nhận nhiệt thành. Nhiều người đã không cầm được nước mắt khi biết vị hiền giả mà họ kính mến sẽ rời khỏi vùng đất này vào hôm sau.
Từ sáng sớm, dân làng đã xếp hàng quanh ngôi đền Kali để tiễn đưa Satyakam và Bhairavi. Hàng ngàn người cầm hoa đứng dọc hai bên đường từ làng Kadambini đến nhà ga xe lửa. Họ rải hoa đầy mặt đất và thốt lên những lời ca tụng thành kính nhất. Satyakam dắt Bhairavi và Puram thong thả bước đi, thỉnh thoảng họ lại giơ tay ban phước lành cho mọi người. Khi đến nhà ga xe lửa, đám đông vây kín quanh toa xe khiến nhân viên trật tự phải làm việc vất vả mới dọn được đường cho xe đi. Chiếc xe lửa kéo còi rồi từ từ chuyển bánh, để lại sau lưng một đám bụi mờ...
Nguồn:
đến chương 4 trang 109
#20
Gửi vào 23/08/2020 - 12:40
Chương 4
Kalighat là một khu phố nhỏ nằm ở phía Nam thành phố Calcutta; đó cũng là nơi ở của Mataji - sư mẫu của Bhairavi.
Căn nhà nhỏ của Mataji có một mảnh sân hẹp trồng rất nhiều hoa. Mặc dù trời nắng chói chang nhưng không khí quanh nhà mát dịu một cách lạ thường.
Ba người bước qua mảnh sân hẹp để vào căn phòng chính, trong phòng chỉ có một người đàn bà đang tĩnh tọa. Đó là Mataji.
Satyakam vội quỳ mọp xuống trước mặt bà. Mataji im lặng chờ anh làm đủ các nghi thức diện kiến rồi mới đưa tay ban phước lành:
- Con ngồi xuống đây để ta nói chuyện với Bhairavi và cậu bé kia trước đã.
Bà ra hiệu cho Bhairavi và Puram đến ngồi cạnh mình rồi âu yếm hỏi cậu bé:
- Con tên gì?
Puram cung kính thưa:
- Thưa con tên là Puram.
- Hay lắm! Cha mẹ thật khéo đặt tên con. Ta mong con sẽ hoàn tất sứ mạng của mình và trở thành một người toàn thiện như tên gọi của con vậy.
Puram quỳ xuống cảm ơn. Bhairavi nhìn con hãnh diện:
- Thưa sư mẫu, Puram đã được điểm đạo vào dòng tu.
Mataji mỉm cười, trong ánh mắt bà long lanh một niềm vui khó tả:
- Thế ư? Puram, con thấy thế nào?
Puram chắp tay thong thả nói:
- Thưa sư tổ mẫu, con rất hãnh diện đã được cha con điểm đạo và mở cửa cho con bước vào con đường sáng. Tuy nhiên, sự hiểu biết của con vẫn còn khiếm khuyết rất nhiều, xin sư tổ chỉ dạy thêm.
Mataji mỉm cười hài lòng. Bà lên tiếng:
- Này Puram, con đường của chúng ta là con đường phụng sự nhân loại. Kẻ nào muốn đi trên con đường này phải biết từ bỏ con đường riêng của họ và bước qua con đường của chúng ta. Điều này nghĩa là con phải từ bỏ hoàn toàn thái độ cũng như tư tưởng của thế gian để áp dụng thái độ của một người đi trên đường đạo. Con hiểu điều ta muốn nói chứ?
Puram cúi rạp mình xuống:
- Con chỉ hiểu đôi chút, xin sư tổ giải thích thêm.
Bhairavi và Satyakamgật đầu tỏ ý hài lòng vì thái độ khiêm tốn của Puram.
Mataji mỉm cười nói tiếp:
- Này Puram, người thế gian nhìn những sự việc xảy ra trong đời sống hàng ngày xem liệu chúng sẽ ảnh hưởng thế nào đến bản thân và quyền lợi cá nhân họ. Trái lại, người đi trên đường đạo nhìn những sự kiện đó xem chúng sẽ ảnh hưởng thế nào đến sự tiến bộ và ích lợi chung của nhân loại. Bất cứ việc gì giúp ích cho sự tiến bộ, tăng trưởng của nhân loại đều là việc cần làm và đáng khuyến khích, còn những việc gì làm cản trở ích lợi chung, bằng cách này hay cách khác, đều phải loại trừ. Đây là một tiêu chuẩn khác hẳn với những tiêu chuẩn của thế gian, để giúp cho những người đi trên đường đạo có thể quyết định mau chóng những gì phải làm và những gì cần loại bỏ. Con chỉ là người hữu dụng trên con đường đạo khi nào con biết áp dụng quy luật trên dù bằng những cách nhỏ bé nhất, khiêm tốn nhất. Này Puram, Thượng đế tạo ra thế giới này với những mục đích hết sức vĩ đại mà ít ai biết rõ. Chỉ những kẻ nào mong muốn hiểu biết thêm và tiến đến gần ngài thì đường đạo mới mở ra cho họ. Ta chỉ có thể tiến đến gần Thượng đế bằng cách phát triển tình thương, vì Thượng đế là một biển tình thương bao la vô tận. Ta không thể hòa vào biển tình thương đó bằng kiến thức nhỏ bé hay lòng tự hào của người đời được, do đó những kẻ đi tìm Thượng đế qua kiến thức hay các hình thức bên ngoài không bao giờ có thể gặp được ngài. Này Puram, con cần phải phát triển lòng vị tha bằng cách quên mình và tự hiến mình trọn vẹn cho công việc phụng sự nhân loại. Sự tiến hóa của cá nhân tuy chậm chạp nhưng vẫn diễn ra một cách thường xuyên và số người hòa vào biển tình thương của Thượng đế vẫn gia tăng không ngừng.
Puram im lặng một lúc rồi hỏi:
- Thưa Mataji, như vậy con phải làm gì?
- Con hãy làm bất cứ việc gì mà con có thể làm để giúp ích cho nhân loại. Con hãy làm những việc mà con có thể làm ngay bây giờ. Có thể đó là một việc nhỏ nhặt, tầm thường nhưng đối với Thượng đế, trong thế gian này chẳng có việc gì gọi là nhỏ nhặt, tầm thường cả. Đừng chờ đợi một trách nhiệm lớn lao hay một điều to tát, vĩ đại, vì như thế con sẽ bỏ lỡ cơ hội phụng sự nhân loại. Khi con đã có đủ các đức tính và khả năng cần thiết, việc lớn sẽ đến với con. Nhưng hiện nay hãy làm việc và làm việc không ngừng để giúp đỡ nhân loại. Đừng chờ đợi một ai yêu cầu con làm một việc gì đó, mà hãy tự bắt tay vào việc. Trên thế gian không thiếu những công việc vị tha, phụng sự nhân loại, nhưng thói thường người ta chỉ muốn chờ những việc to tát, vĩ đại mà thôi, thế nên họ không bao giờ được giao phó việc gì cả.
Puram gật đầu, tỏ vẻ đã hiểu:
- Thưa sư tổ, phải chăng vì thế mà không mấy người đi trọn con đường đạo?
Mataji mỉm cười gật đầu:
- Đúng thế! Đa số người bước chân vào đường đạo đều sốt sắng và nhiệt tâm, nhưng vì không có khả năng tu tập nội quán để biết rõ mình, để sửa đổi tâm tánh nên họ thường vi phạm những lỗi lầm nhỏ nhặt và dần dần xa rời con đường mình theo đuổi. Đường đạo không bằng phẳng dễ đi, mà đầy chông gai và thử thách, nên chỉ một số rất ít người đủ can đảm, nghị lực và cương quyết mới có thể đi trọn mà thôi. Trong thế giới đầy xáo trộn hiện nay, con người thường nóng nảy, căng thẳng. Họ muốn thứ gì thì muốn có ngay lập tức. Không mấy ai tập được tính kiên nhẫn và bền chí nên chỉ gặp vài trở ngại thông thường họ đã nản lòng, bỏ cuộc. Nhiều người còn có thói quen tọc mạch, tò mò muốn biết việc riêng của người khác, nhất là muốn biết đạo căn hay sự phát triển tâm linh của những người khác ra sao. Con đường đạo chẳng phải là một cuộc thi đua để xem ai hơn ai, ai đi trước ai, nên những kẻ tò mò không mấy khi đi xa được. Nhiều người còn có tính hay hờn giận nên khó có thể làm việc chung với ai. Họ chỉ muốn được giao phó một trách nhiệm mà họ có thể độc quyền hành xử nên họ không mấy khi thành công. Này Puram, con nên biết rằng trên đường đạo không thể có biện pháp lưng chừng: hoặc là con đi trọn con đường, hoặc là con không đi đến nơi, chứ không thể có việc đi được một nửa. Đây là điều quan trọng, con cần ghi nhớ kỹ.
Puram quỳ xuống cảm ơn lời chỉ dẫn của Mataji. Satyakam và Bhairavi cũng quỳ xuống đa tạ sự chỉ dẫn quý báu của bà.
Nguồn:
đến trang 112
#21
Gửi vào 24/08/2020 - 13:03
Chiều hôm đó, một số đệ tử của Mataji được tin Bhairavi trở về cùng chồng và con đã vội vã kéo đến thăm và tham dự buổi lễ cầu nguyện kéo dài đến khuya. Trong lúc mọi ngươi đang tấp nập sửa soạn các nghi thức cúng lễ thì Satyakam lặng lẽ rời nhà. Anh đi dọc theo con đường nhỏ đến một trạm xe buýt để đáp chuyến xe đi lên miền Bắc. Chiếc xe thả anh xuống một bến đò vắng cách thành phố khoảng vài dặm. Anh thong thả bước đến bờ sông ngắm bóng mình soi trên dòng sông Hằng. Đã lâu lắm rồi anh không đến tắm gội trong dòng sông linh thiêng này. Dòng nước soi rõ khuôn mặt của một người trung niên với những nếp nhăn và mái tóc bắt đầu lốm đốm bạc. Thời gian! Sao thời gian trôi nhanh quá! Mới ngày nào anh còn là một thanh niên khỏe mạnh, cường tráng mà giờ đây anh đã bước vào tuổi trung niên và chẳng bao lâu nữa sẽ già.
Satyakam quỳ xuống bên bờ sông, thong thả vốc một vốc nước vỗ nhẹ lên mặt mình rồi thì thầm: “Hỡi mẹ Hằng hà linh thiêng, xin mẹ hãy giúp con trở nên thánh thiện, trong sạch như mẹ. Hãy giúp con hoàn tất số phận đã định như mẹ đã giúp biết bao nhiêu người khác ý thức được sự linh thiêng, hoàn hảo vô cùng của mẹ...”.
Anh quỳ mọp bên dòng sông không biết trong bao lâu cho đến khi nghe thấy tiếng chân bước nhẹ sau lưng. Anh quay đầu lại nhưng không thấy ai cả, chỉ có tiếng gió xào xạc qua mấy hàng cây. Satyakam ngắm dòng nước lững lờ trôi. Mặt trời từ từ lặn. Anh ngồi xếp bằng theo tư thế liên hoa và bắt đầu nhập thiền. Hơn mười hai năm nay anh mới ngồi một mình như vậy. Một cảm giác bình an kỳ lạ chợt dâng lên. Anh nghĩ đến thời gian tu tập trong đãy Tuyết sơn với vị đạo sư già. Chưa bao giờ anh nhớ sư phụ đến vậy. Hình ảnh vị ân sư hiện lên rõ mồn một trong tâm khảm, anh buột miệng kêu:
- Sư phụ ơi!
Bất chợt, một giọng nói hiền từ vang lên:
- Ta ở đây.
Satyakam giật mình mở mắt ra. Anh trông thấy vị đạo sư già đang chống gậy đứng ngay trước mặt anh. Anh vui mừng kêu lớn:
- Sư phụ, người đã đến! Phải chăng sư phụ đã đến đây từ lúc nãy? Vậy tại sao con không thấy gì mặc dù con nghe tiếng chân người?
- Có lẽ con đã mất đi phần nào khả năng lắng nghe rồi nên chẳng biết ta đã đến từ lâu. Phải chăng con mải lo nghĩ đến những chuyện khác nên không thể nhìn thấy ta? Ta phải đợi con nhập thiền để tâm tư lắng xuống, khi đó con mới có thể nhìn thấy ta được.
Satyakam bối rốì, anh muốn nói nhưng không thốt nên lời. Cuối cùng, anh thu hết can đảm:
- Xin sư phụ chỉ dẫn cho con.
Vị đạo sư mỉm cười nhìn học trò một lúc rồi thong thả:
- Con hãy đón chuyến xe lửa đi lên miền Đông của đãy Tuyết Sơn, đến một nơi gọi là Siliguri. Ta sẽ chờ con ở đó.
Đoạn, ông thong thả chống gậy bước đi. Satyakam định bước theo nhưng hồ như có một sức mạnh giữ anh ngồi yên ở đó. Anh nhìn dòng nước sông Hằng trước mặt. Chắc chắn nó sẽ chảy qua Kalighat, nơi Bhairavi và Puram đang sống.
Satyakam ngồi yên hồi tưởng về kinh nghiệm tu tập của mình cũng như cuộc sống vừa trải qua tại Kadambini. Tất cả đều thoáng qua như một giấc mộng, nhanh chóng và phù du một cách lạ thường. Mặc dù đã trải nghiệm những điều anh muốn, học hỏi được những điều anh cần, sở hữu những kiến thức không mấy ai chạm tới, nhưng anh thấy mình vẫn chưa đến gần mục đích bao nhiêu.
Mặt trời từ từ ló dạng phía chân mây, báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Satyakam rời chỗ ngồi, bước xuống dòng sông cho đến khi nước ngập đến gần cổ. Đã lâu lắm anh không thực hành nghi thức này. Anh đọc bài chú mà sư phụ đã truyền dạy khi xưa. Tâm anh dần dần bình an. Anh thong thả đọc từng chữ của bài chú. Vừa khi bài chú chấm dứt, anh bỗng cảm thấy toàn thân tràn ngập một cảm giác lâng lâng kỳ lạ. Hình như thân tâm anh vừa được gột tẩy, mọi phiền não đều tiêu tan. Anh thấy như mình vừa trở thành một con người mới. Satyakam ngẩng đầu lên, chắp hai tay vào nhau, cung kính: “Xin cám ơn mẹ Hằng hà linh thiêng đã giúp con”.
Anh bước lên bờ. Mặt trời đã lên cao. Những tia nắng ấm tiếp tục nhảy múa trên dòng nước sông Hằng. Xa xa, một đàn cò trắng bay lượn trên những thửa ruộng xanh ngắt. Vài nông dân đang dắt trâu ra đồng. Một phiên chợ nhỏ bắt đầu nhóm họp ở gần đó. Tiếng cười nói vang lên khắp nơi.Từ Calcutta đến Saliguri đường không xa lắm, nhưng xe lửa đi mất gần một ngày vì phải dừng lại nhiều trạm dọc đường. Xe lửa đến Saliguri khi trời đã xế chiều. Đây là một thị trấn nhỏ, dân cư thưa thớt nên chỉ có vài hành khách xuống ga. Vừa ra khỏi nhà ga, Satyakam đã chú ý ngay đến một người hành khất gầy gò, ốm yếu ngồi nép bên vệ đường. Hồ như có một động năng thúc giục, anh vội bước ngay đến trước mặt người này. Anh định lên tiếng thì người hành khất đã gật đầu như có vẻ hài lòng rồi nói ngay: “Khá lắm! Ta biết ngươi sẽ nhận ra ta. Ta vâng lệnh sư phụ đến đón ngươi”.
Sau khi ra hiệu cho Satyakam theo mình, người hành khất rảo bước đi
ngay. Họ băng qua những khu phố nhỏ đường sá vắng tanh, chỉ có vài con chó sủa vu vơ. Người hành khất dường như quen đường nên đi khá nhanh. Ông ta len lỏi qua những đường hẻm ngoằn ngoèo nằm khuất dưới các hàng cây lớn. Satyakam phải cố gắng lắm mới bước theo kịp. Sau khi ra khỏi làng,họ băng qua những ngọn đồi khá cao trồng đầy những cây trà được cắt tỉa gọn ghẽ. Người hành khất cứ thế lầm lũi đi, không nói câu nào. Đêm đó, trăng rất sáng nên dù trời tối đã lâu mà Satyakam vẫn nhìn rõ lối đi trước mặt. Vượt qua một khúc quanh ở sườn đồi, người hành khất đứng lại chỉ tay về phía trước. Trước mặt họ là một rặng núi lớn, trên đỉnh phủ đầy tuyết trắng. Dưới ánh trăng, đỉnh núi tuyết phảng phất một vẻ hùng tráng pha lẫn huyền bí. Satyakam buột miệng kêu lớn:
- Tuyết Sơn!
- Phải. Đây là đỉnh Tuyết Lãnh nằm ở sườn Đông rặng Tuyết Sơn.
Satyakam lặng ngắm rặng núi thân yêu. Chưa bao giờ anh xúc động như thế. Phải rồi, đó chính là rặng núi quen thuộc mà nhiều năm nay anh chưa gặp lại. Cuộc sống chốn thị thành đã khiến anh quên hẳn nếp sống bình dị an lành trên Tuyết Sơn khi xưa. Anh thấy trong lòng dâng lên một cảm giác ấm áp, êm đềm như người đi xa vừa trở về.
Người hành khất quan sát Satyakam một lúc rồi nói:
- Ta thấy ngươi đã mệt mỏi lắm rồi. Thôi, chúng ta hãy tạm dừng chân tại đây, sáng mai sẽ lên đường tiếp.
Satyakam ngần ngại. Anh nóng lòng muốn gặp sư phụ nên gặng hỏi:
- Từ đây đến chỗ ở của sư phụ còn xa lắm không?
- Với ta thì không xa lắm, nhưng với ngươi thì... có lẽ ngươi đi không nổi đâu!
Rồi ông ta bật cười lớn:
- Ngươi nghĩ rằng ta không biết ngươi đã từng sống trên đãy Tuyết Sơn và đã từng leo đồi, vượt núi hay sao? Ha.. ha... Đó là chuyện ngày trước chứ ngày nay, ngươi hãy nhìn lại mình xem, mới đi có mấy dặm mà ngươi đã thở hổn hển. Thế thì làm sao vượt rừng leo núi cho được?
Satyakam sượng sùng nhìn lại thân thể mình. Quả thật, thời gian sống đủ đầy, thoải mái tại Kadambini đã biến anh thành một người trung niên to lớn đẫy đà, khác hẳn người thanh niên săn chắc, khỏe mạnh tại Sonar Linga khi xưa. Người hành khất ngồi xuống tảng đá bên đường, mở chiếc túi bên hông, lấy ra hai mẩu bánh mì khô đưa cho Satyakam:
- Đi đường mệt rồi, ngươi hãy ăn miếng bánh này cho đỡ đói.
Satyakam nhận mẩu bánh, cắn vài miếng rồi hỏi:
- Sư huynh đã tu học với sư phụ được bao lâu rồi?
Người hành khất thong thả vừa ăn vừa trả lời:
- Ta không nhớ đã theo học với sư phụ từ lúc nào, nhưng khi ta đắc đạo xuống núi thì Kapalak mới bắt đầu đến làm lễ nhập môn.
Satyakam nhìn kỹ người hành khất. Trông ông còn trẻ hơn Kapalak nhiều lắm.
- Có gì ngạc nhiên chứ? Đáng lẽ ngươi phải biết hình dáng bên ngoài chỉ biểu hiện của trạng thái bên trong mà thôi. Một người thoải mái, bình an bên trong thì hình dáng bên ngoài sẽ tươi trẻ mãi, làm sao thời gian có thể ảnh hưởng cho được!
Satyakam gật đầu. Hiển nhiên đây không phải là một điều mới lạ đối với anh, nhưng không hiểu sao anh vẫn chưa hết ngạc nhiên trước người hành khất kia:
- Như vậy sư huynh hẳn đã theo hầu sư phụ từ lâu lắm rồi, nhưng sao em không nghe sư phụ nói gì về huynh cả?
- Ngươi phải biết sư phụ vốn là người thâm trầm ít nói. Nếu không cần thiết, chẳng bao giờ người nói gì cả. Ta biết trước khi thu nhận ta, sư phụ đã thu nhận nhiều đệ tử khác nữa, nhưng ông không khi nào nói về những người đó cả.
Satyakam rụt rè hỏi:
- Như vậy, sư huynh biết gì về sư phụ?
- Ta không biết nhiều hơn ngươi đâu. Ta chỉ biết sư phụ là người đã sở đắc nhiều kiến thức và quyền năng rất cao. Ông là hiện thân của những bậc thánh nhân, hiền triết của một nền văn minh cổ xưa mà nhân loại ngày nay ít ai biết đến. Ta nhớ có một lần, sau khi luyện thành công một phương pháp, ta đã kể với sư phụ rằng kiến thức mà ta mới thu tập được qua sự dạy dỗ của ông đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời ta. Sư phụ thản nhiên nói: “Con hỡi, đó chỉ là một phần rất nhỏ, một mảnh vụn của kho tàng minh triết cổ xưa mà ta chỉ mới hé mở cho con thôi. Tùy theo sự tu tập và tiến bộ của con mà ta sẽ khai nhãn cho con thêm nữa”.
Satyakam gật đầu đồng ý:
- Thì ra thế. Em cũng đã từng nghĩ sư phụ là người như vậy.
Người hành khất lắc đầu nói ngay:
- Ngươi chớ nên vội kết luận. Chúng ta không thể biết được những người như sư phụ đâu. Có lẽ chúng ta không bao giờ có thể hiểu được người, trừ khi chúng ta phát triển được một khả năng tâm linh cao thượng như người.
Satyakam không đồng ý. Anh ngần ngại một lúc rồi lên tiếng:
- Nói như vậy thì dường như sư phụ không phải là một con người nữa.
Người hành khất bật cười lớn:
- Sư phụ là một con người bằng xương bằng thịt, hệt như chúng ta vậy thôi, nhưng khả năng tâm linh của người thì vượt xa chúng ta nhiều lắm. Mặc dù thu nhận rất nhiều đệ tử nhưng không khi nào người nói về họ cả. Ta nghĩ có thể người có những lý do riêng. Khi xưa, đã có lúc ta cũng tò mò muốn biết về những người đó, nhưng bây giờ ta thấy những điều đó không còn quan trọng nữa. Mỗi người có một con đường và trình độ tâm linh khác nhau, nếu không cần thiết thì để ý những điều đó làm chi? Chúng ta tuy cùng học một thầy, nhưng không tu tập cùng một pháp môn, sự lựa chọn và ý nguyện của mỗi người có lẽ cũng khác nhau. Sư phụ chỉ chọn lựa và dạy dỗ người nào mà thầy thấy có triển vọng. Người không thiên vị một ai hay đối xử đặc biệt với một người nào. Thầy chỉ quan tâm đến công việc mình phải làm để góp phần cho công cuộc tiến hóa chung của nhân loại mà thôi. Người lựa chọn học trò tùy theo khả năng của họ đối với công việc phụng sự nhân loại vĩ đại. Nếu chúng ta biết tu tập để có khả năng đóng góp vào công cuộc chung này thì chúng ta sẽ tiến bộ rất nhiều. Thôi, nói như thế đã nhiều rồi, ngươi hãy nghỉ đi vì sáng mai chúng ta phải lên đường sớm. Sư phụ hiện sống bên một dòng suối nhỏ cách đây không xa, nhưng đường đi trơn trượt, khó đi nên ít ai đến chỗ đó.
Nguồn:
đến trang 118
Satyakam quỳ xuống bên bờ sông, thong thả vốc một vốc nước vỗ nhẹ lên mặt mình rồi thì thầm: “Hỡi mẹ Hằng hà linh thiêng, xin mẹ hãy giúp con trở nên thánh thiện, trong sạch như mẹ. Hãy giúp con hoàn tất số phận đã định như mẹ đã giúp biết bao nhiêu người khác ý thức được sự linh thiêng, hoàn hảo vô cùng của mẹ...”.
Anh quỳ mọp bên dòng sông không biết trong bao lâu cho đến khi nghe thấy tiếng chân bước nhẹ sau lưng. Anh quay đầu lại nhưng không thấy ai cả, chỉ có tiếng gió xào xạc qua mấy hàng cây. Satyakam ngắm dòng nước lững lờ trôi. Mặt trời từ từ lặn. Anh ngồi xếp bằng theo tư thế liên hoa và bắt đầu nhập thiền. Hơn mười hai năm nay anh mới ngồi một mình như vậy. Một cảm giác bình an kỳ lạ chợt dâng lên. Anh nghĩ đến thời gian tu tập trong đãy Tuyết sơn với vị đạo sư già. Chưa bao giờ anh nhớ sư phụ đến vậy. Hình ảnh vị ân sư hiện lên rõ mồn một trong tâm khảm, anh buột miệng kêu:
- Sư phụ ơi!
Bất chợt, một giọng nói hiền từ vang lên:
- Ta ở đây.
Satyakam giật mình mở mắt ra. Anh trông thấy vị đạo sư già đang chống gậy đứng ngay trước mặt anh. Anh vui mừng kêu lớn:
- Sư phụ, người đã đến! Phải chăng sư phụ đã đến đây từ lúc nãy? Vậy tại sao con không thấy gì mặc dù con nghe tiếng chân người?
- Có lẽ con đã mất đi phần nào khả năng lắng nghe rồi nên chẳng biết ta đã đến từ lâu. Phải chăng con mải lo nghĩ đến những chuyện khác nên không thể nhìn thấy ta? Ta phải đợi con nhập thiền để tâm tư lắng xuống, khi đó con mới có thể nhìn thấy ta được.
Satyakam bối rốì, anh muốn nói nhưng không thốt nên lời. Cuối cùng, anh thu hết can đảm:
- Xin sư phụ chỉ dẫn cho con.
Vị đạo sư mỉm cười nhìn học trò một lúc rồi thong thả:
- Con hãy đón chuyến xe lửa đi lên miền Đông của đãy Tuyết Sơn, đến một nơi gọi là Siliguri. Ta sẽ chờ con ở đó.
Đoạn, ông thong thả chống gậy bước đi. Satyakam định bước theo nhưng hồ như có một sức mạnh giữ anh ngồi yên ở đó. Anh nhìn dòng nước sông Hằng trước mặt. Chắc chắn nó sẽ chảy qua Kalighat, nơi Bhairavi và Puram đang sống.
Satyakam ngồi yên hồi tưởng về kinh nghiệm tu tập của mình cũng như cuộc sống vừa trải qua tại Kadambini. Tất cả đều thoáng qua như một giấc mộng, nhanh chóng và phù du một cách lạ thường. Mặc dù đã trải nghiệm những điều anh muốn, học hỏi được những điều anh cần, sở hữu những kiến thức không mấy ai chạm tới, nhưng anh thấy mình vẫn chưa đến gần mục đích bao nhiêu.
Mặt trời từ từ ló dạng phía chân mây, báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Satyakam rời chỗ ngồi, bước xuống dòng sông cho đến khi nước ngập đến gần cổ. Đã lâu lắm anh không thực hành nghi thức này. Anh đọc bài chú mà sư phụ đã truyền dạy khi xưa. Tâm anh dần dần bình an. Anh thong thả đọc từng chữ của bài chú. Vừa khi bài chú chấm dứt, anh bỗng cảm thấy toàn thân tràn ngập một cảm giác lâng lâng kỳ lạ. Hình như thân tâm anh vừa được gột tẩy, mọi phiền não đều tiêu tan. Anh thấy như mình vừa trở thành một con người mới. Satyakam ngẩng đầu lên, chắp hai tay vào nhau, cung kính: “Xin cám ơn mẹ Hằng hà linh thiêng đã giúp con”.
Anh bước lên bờ. Mặt trời đã lên cao. Những tia nắng ấm tiếp tục nhảy múa trên dòng nước sông Hằng. Xa xa, một đàn cò trắng bay lượn trên những thửa ruộng xanh ngắt. Vài nông dân đang dắt trâu ra đồng. Một phiên chợ nhỏ bắt đầu nhóm họp ở gần đó. Tiếng cười nói vang lên khắp nơi.Từ Calcutta đến Saliguri đường không xa lắm, nhưng xe lửa đi mất gần một ngày vì phải dừng lại nhiều trạm dọc đường. Xe lửa đến Saliguri khi trời đã xế chiều. Đây là một thị trấn nhỏ, dân cư thưa thớt nên chỉ có vài hành khách xuống ga. Vừa ra khỏi nhà ga, Satyakam đã chú ý ngay đến một người hành khất gầy gò, ốm yếu ngồi nép bên vệ đường. Hồ như có một động năng thúc giục, anh vội bước ngay đến trước mặt người này. Anh định lên tiếng thì người hành khất đã gật đầu như có vẻ hài lòng rồi nói ngay: “Khá lắm! Ta biết ngươi sẽ nhận ra ta. Ta vâng lệnh sư phụ đến đón ngươi”.
Sau khi ra hiệu cho Satyakam theo mình, người hành khất rảo bước đi
ngay. Họ băng qua những khu phố nhỏ đường sá vắng tanh, chỉ có vài con chó sủa vu vơ. Người hành khất dường như quen đường nên đi khá nhanh. Ông ta len lỏi qua những đường hẻm ngoằn ngoèo nằm khuất dưới các hàng cây lớn. Satyakam phải cố gắng lắm mới bước theo kịp. Sau khi ra khỏi làng,họ băng qua những ngọn đồi khá cao trồng đầy những cây trà được cắt tỉa gọn ghẽ. Người hành khất cứ thế lầm lũi đi, không nói câu nào. Đêm đó, trăng rất sáng nên dù trời tối đã lâu mà Satyakam vẫn nhìn rõ lối đi trước mặt. Vượt qua một khúc quanh ở sườn đồi, người hành khất đứng lại chỉ tay về phía trước. Trước mặt họ là một rặng núi lớn, trên đỉnh phủ đầy tuyết trắng. Dưới ánh trăng, đỉnh núi tuyết phảng phất một vẻ hùng tráng pha lẫn huyền bí. Satyakam buột miệng kêu lớn:
- Tuyết Sơn!
- Phải. Đây là đỉnh Tuyết Lãnh nằm ở sườn Đông rặng Tuyết Sơn.
Satyakam lặng ngắm rặng núi thân yêu. Chưa bao giờ anh xúc động như thế. Phải rồi, đó chính là rặng núi quen thuộc mà nhiều năm nay anh chưa gặp lại. Cuộc sống chốn thị thành đã khiến anh quên hẳn nếp sống bình dị an lành trên Tuyết Sơn khi xưa. Anh thấy trong lòng dâng lên một cảm giác ấm áp, êm đềm như người đi xa vừa trở về.
Người hành khất quan sát Satyakam một lúc rồi nói:
- Ta thấy ngươi đã mệt mỏi lắm rồi. Thôi, chúng ta hãy tạm dừng chân tại đây, sáng mai sẽ lên đường tiếp.
Satyakam ngần ngại. Anh nóng lòng muốn gặp sư phụ nên gặng hỏi:
- Từ đây đến chỗ ở của sư phụ còn xa lắm không?
- Với ta thì không xa lắm, nhưng với ngươi thì... có lẽ ngươi đi không nổi đâu!
Rồi ông ta bật cười lớn:
- Ngươi nghĩ rằng ta không biết ngươi đã từng sống trên đãy Tuyết Sơn và đã từng leo đồi, vượt núi hay sao? Ha.. ha... Đó là chuyện ngày trước chứ ngày nay, ngươi hãy nhìn lại mình xem, mới đi có mấy dặm mà ngươi đã thở hổn hển. Thế thì làm sao vượt rừng leo núi cho được?
Satyakam sượng sùng nhìn lại thân thể mình. Quả thật, thời gian sống đủ đầy, thoải mái tại Kadambini đã biến anh thành một người trung niên to lớn đẫy đà, khác hẳn người thanh niên săn chắc, khỏe mạnh tại Sonar Linga khi xưa. Người hành khất ngồi xuống tảng đá bên đường, mở chiếc túi bên hông, lấy ra hai mẩu bánh mì khô đưa cho Satyakam:
- Đi đường mệt rồi, ngươi hãy ăn miếng bánh này cho đỡ đói.
Satyakam nhận mẩu bánh, cắn vài miếng rồi hỏi:
- Sư huynh đã tu học với sư phụ được bao lâu rồi?
Người hành khất thong thả vừa ăn vừa trả lời:
- Ta không nhớ đã theo học với sư phụ từ lúc nào, nhưng khi ta đắc đạo xuống núi thì Kapalak mới bắt đầu đến làm lễ nhập môn.
Satyakam nhìn kỹ người hành khất. Trông ông còn trẻ hơn Kapalak nhiều lắm.
- Có gì ngạc nhiên chứ? Đáng lẽ ngươi phải biết hình dáng bên ngoài chỉ biểu hiện của trạng thái bên trong mà thôi. Một người thoải mái, bình an bên trong thì hình dáng bên ngoài sẽ tươi trẻ mãi, làm sao thời gian có thể ảnh hưởng cho được!
Satyakam gật đầu. Hiển nhiên đây không phải là một điều mới lạ đối với anh, nhưng không hiểu sao anh vẫn chưa hết ngạc nhiên trước người hành khất kia:
- Như vậy sư huynh hẳn đã theo hầu sư phụ từ lâu lắm rồi, nhưng sao em không nghe sư phụ nói gì về huynh cả?
- Ngươi phải biết sư phụ vốn là người thâm trầm ít nói. Nếu không cần thiết, chẳng bao giờ người nói gì cả. Ta biết trước khi thu nhận ta, sư phụ đã thu nhận nhiều đệ tử khác nữa, nhưng ông không khi nào nói về những người đó cả.
Satyakam rụt rè hỏi:
- Như vậy, sư huynh biết gì về sư phụ?
- Ta không biết nhiều hơn ngươi đâu. Ta chỉ biết sư phụ là người đã sở đắc nhiều kiến thức và quyền năng rất cao. Ông là hiện thân của những bậc thánh nhân, hiền triết của một nền văn minh cổ xưa mà nhân loại ngày nay ít ai biết đến. Ta nhớ có một lần, sau khi luyện thành công một phương pháp, ta đã kể với sư phụ rằng kiến thức mà ta mới thu tập được qua sự dạy dỗ của ông đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời ta. Sư phụ thản nhiên nói: “Con hỡi, đó chỉ là một phần rất nhỏ, một mảnh vụn của kho tàng minh triết cổ xưa mà ta chỉ mới hé mở cho con thôi. Tùy theo sự tu tập và tiến bộ của con mà ta sẽ khai nhãn cho con thêm nữa”.
Satyakam gật đầu đồng ý:
- Thì ra thế. Em cũng đã từng nghĩ sư phụ là người như vậy.
Người hành khất lắc đầu nói ngay:
- Ngươi chớ nên vội kết luận. Chúng ta không thể biết được những người như sư phụ đâu. Có lẽ chúng ta không bao giờ có thể hiểu được người, trừ khi chúng ta phát triển được một khả năng tâm linh cao thượng như người.
Satyakam không đồng ý. Anh ngần ngại một lúc rồi lên tiếng:
- Nói như vậy thì dường như sư phụ không phải là một con người nữa.
Người hành khất bật cười lớn:
- Sư phụ là một con người bằng xương bằng thịt, hệt như chúng ta vậy thôi, nhưng khả năng tâm linh của người thì vượt xa chúng ta nhiều lắm. Mặc dù thu nhận rất nhiều đệ tử nhưng không khi nào người nói về họ cả. Ta nghĩ có thể người có những lý do riêng. Khi xưa, đã có lúc ta cũng tò mò muốn biết về những người đó, nhưng bây giờ ta thấy những điều đó không còn quan trọng nữa. Mỗi người có một con đường và trình độ tâm linh khác nhau, nếu không cần thiết thì để ý những điều đó làm chi? Chúng ta tuy cùng học một thầy, nhưng không tu tập cùng một pháp môn, sự lựa chọn và ý nguyện của mỗi người có lẽ cũng khác nhau. Sư phụ chỉ chọn lựa và dạy dỗ người nào mà thầy thấy có triển vọng. Người không thiên vị một ai hay đối xử đặc biệt với một người nào. Thầy chỉ quan tâm đến công việc mình phải làm để góp phần cho công cuộc tiến hóa chung của nhân loại mà thôi. Người lựa chọn học trò tùy theo khả năng của họ đối với công việc phụng sự nhân loại vĩ đại. Nếu chúng ta biết tu tập để có khả năng đóng góp vào công cuộc chung này thì chúng ta sẽ tiến bộ rất nhiều. Thôi, nói như thế đã nhiều rồi, ngươi hãy nghỉ đi vì sáng mai chúng ta phải lên đường sớm. Sư phụ hiện sống bên một dòng suối nhỏ cách đây không xa, nhưng đường đi trơn trượt, khó đi nên ít ai đến chỗ đó.
Nguồn:
đến trang 118
#22
Gửi vào 25/08/2020 - 07:35
Quả đúng như lời người hành khất, đó là một sườn núi khá dốc, cây cối mọc chằng chịt và lối đi trơn vô cùng. Satyakam phải cố gắng lắm mới bước đi được.
Vượt qua một cánh rừng rậm rạp, cây cối phủ kín, họ đến một thung lũng nhỏ nằm lọt giữa hai khe núi. Người hành khất chỉ về phía trước:
- Sư phụ sống ở kia.
Đó là một cái hang nhỏ nằm cạnh dòng suối nước chảy xiết. Vị đạo sư già đang chống gậy đứng trước cửa hang. Đã nhiều năm qua mà trông ông vẫn không hề thay đổi: vẫn chòm râu bạc trắng, vẫn thân hình gầy gò như hồi còn ở Sonar Linga.
Satyakam và người hành khất vội quỳ trước sư phụ. Ông ra hiệu cho Satyakam đứng lên:
- Này Satyakam, bây giờ đã đến một khúc quanh quan trọng trong cuộc đời tu hành của con. Liệu con có đủ sức đi nốt chặng đường còn lại không?
- Thưa sư phụ, con đã sẵn sàng.
- Tốt lắm! Bây giờ con hãy nhìn thật sâu vào tâm hồn mình xem con đã thực sự sẵn sàng chưa! Nếu con đã cương quyết, hãy ra suối tắm rửa rồi vào hang đá kia nghỉ ngơi. Sáng mai, chúng ta sẽ bắt đầu.
Sáng hôm sau, khi Satyakam vừa bước ra khỏi hang thì đã thấy thầy ngồi thiền trên một tảng đá lớn. Ông ra hiệu cho anh bước đến gần rồi từ tốn nói:
- Này Satyakam, hôm nay ta dạy cho con những quy tắc chính của quãng đường còn lại mà con sẽ phải đi qua. Đây là quy tắc thứ nhất: Con phải diệt trừ tất cả mọi tham vọng. Con hãy suy ngẫm để hiểu điều này một cách thấu đáo và đừng bao giờ tự dối gạt mình. Hiện nay, trong khúc quanh quan trọng này, con cần phải nỗ lực để diệt trừ mọi tham vọng, kể cả những tham vọng vi tế nhất. Nếu không trừ được nó trong lúc này, để nó tiềm ẩn và tiếp tục mọc rễ trong tâm con, con sẽ còn phải trả những cái giá đau đớn và chỉ đến khi đó con mới có thể tiếp tục theo đuổi quãng đường cuối cùng này. Quy tắc này xét ra giản dị, nhưng thật ra đó là một điều rất khó làm vì lòng tham luôn luôn thay đổi, biến hóa dưới những hình thức mà ít ai ngờ. Nhiều người đi trên đường đạo tưởng mình đã được giải thoát, tưởng mình đã trong sạch,tưởng mình đã thánh thiện, tưởng mình đã diệt trừ được những tham vọng, nhưng thật ra họ vẫn bị lòng tham lừa gạt mà không hay biết. Tham luyến một cái gì đẹp đẽ, thánh thiện cũng là tham lam; mong muốn được trong sạch cũng là tham lam; ngay cả những việc tinh thần, tâm linh tốt đẹp nhất cũng thường bị lòng tham chi phối. Này Satyakam, lòng tham là năng lượng chi phối mọi hoạt động của những người sống mà không biết ý thức. Dù có ý thức, nhưng mấy ai có thể theo dõi tư tưởng của mình từng giây hay từng phút được, do đó mới có chuyện sai một li đi một dặm.
Khi trước, ta đã dạy cho con cách theo dõi hơi thở, cách theo dõi tư tưởng, bây giờ là lúc con phải quán xét nội tâm mình một cách thành thật để biết mình muốn gì và tại sao mình lại hành động như vậy. Con hãy vào trong hang đá kia để tu tập và quán sát tư tưởng của mình trong bốn mươi ngày liền. Con đừng ra khỏi hang đá trước ngày thứ bốn mươi, mọi việc ăn uống hay những thứ cần dùng đã có ta lo liệu. Con đã từng lắng nghe, từng quán sát những tư tưởng nảy sinh, từng tư tưởng nhen nhúm trong lòng con, xem nó từ đâu đến và đi về đâu. Lần này, con hãy cố gắng theo dõi xem tư tưởng tham lam của mình để xem nó phát xuất từ đâu và lần ngược lên tận cội nguồn của nó. Khi con tìm đến tận nguồn thì con sẽ hiểu rõ về nó, và khi con đã biết rõ về nó thì nó sẽ không còn chi phối được con nữa. Kẻ học đạo phải biết tu tập nội quán để biết rõ các yếu tố chi phối mình và tìm cách giải thoát khỏi các ràng buộc của nó.
Satyakam chắp tay quỳ rạp xuống đất để tỏ lòng cung kính rồi quay vào trong hang đá. Anh ngồi xếp bằng theo tư thế liên hoa và khởi sự việc theo dõi tư tưởng của mình. Công phu này anh đã tu luyện thuần thục nên chẳng mấy chốc anh đã cảm thấy các tư tưởng đến và đi qua tâm mình một cách rõ rệt. Anh bắt đầu theo dõi từng tư tưởng nảy sinh từ những chỗ sâu kín nhất trong tâm hồn. Anh theo dõi nó, đi ngược vào các nguyên nhân, các động năng thầm kín nhất đã sai khiến những tư tưởng kia nảy sinh, và cứ thế, anh quán sát nó nảy sinh, lộ diện, đến và đi dưới muôn hình vạn trạng trong tâm thức.
Bốn mươi ngày trôi qua nhanh chóng. Khi Satyakam bước ra khỏi hang, anh đã thấy sư phụ đang ngồi trên tảng đá quen thuộc.
Ông lên tiếng:
- Hẳn con đã ý thức rõ được lòng tham bắt nguồn từ đâu rồi chứ?
- Thưa sư phụ, con đã ý thức rõ về nó.
- Thế thì con đã đạt đến kết quả nào chưa?
- Thưa sư phụ, con nghĩ mình đã có thể chinh phục được tham vọng. Con đã có thể tách rời ra khỏi những tư tưởng xấu xa, thấp hèn qua những kỷ luật tự giác, những công phu hành xác, kiểm soát nội tâm.
Đạo sư nheo mắt nhìn học trò rồi lắc đầu:
- Này Satyakam, con đã bị những tham vọng đó lừa rồi! Ta không thể tiêu diệt lòng tham bằng cách tách rời mình ra khỏi mọi sự như con đã quán xét đâu. Không phải thế! Ta biết khi trước ở Sonar Linga, con vẫn còn một chút tập khí tham lam tiềm ẩn mà con không thể vượt qua được và chính cái tập khí đó đã tạo ra những khó khăn khiến con phải rời núi. Do đó, lần này khi trở về đây, ta muốn con suy ngẫm thật kỹ về lòng tham.
Satyakam ngạc nhiên:
- Con vẫn còn một chút tập khí tham lam ư?
- Này Satyakam, công phu tu hành của con không phải tầm thường, nhưng con có nhớ khi con theo ta lên đỉnh Tuyết Sơn, khi con trải nghiệm khả năng thần thông của mình, khai mở được ký ức, nhớ được các kinh nghiệm về tiền kiếp, thì con đã thay đổi. Con tự cho mình quan trọng hơn người, và có ý muốn trở thành một bậc đạo sư và chính cái ý mong cầu đó đã thúc giục con xuống núi.
Satyakam giật mình. Câu nói của thầy như một tiếng sét khiến anh bàng hoàng. Vị đạo sư mỉm cười, tiếp:
- Con là người có tánh thiện, muốn giúp đỡ mọi người nên việc trở nên một bậc đạo sư hướng dẫn người khác cũng là điều tự nhiên thôi. Tuy nhiên, con chưa hoàn toàn giải thoát được mình, chưa ý thức rõ các động năng tế nhị vẫn chi phối tư tưởng và hành động của mình nên con đã để cho cái tập khí tham lam, mong cầu kia chi phối.
Ta biết rõ như vậy nên mới chỉ dẫn cho con đến học hỏi thêm với Kapalak để phát triển về Kundalini Yoga, giúp con khai mở những kiến thức huyền môn, học hỏi thêm những điều mà từ trước đến nay con chưa trải nghiệm và trả các nghiệp quả giữa con và Bhairavi. Hiển nhiên, con đã trở thành một bậc hiền giả, chỉ dẫn và giúp đỡ được nhiều người, nhưng tập khí tham lam kia của con lại có cơ hội phát triển hơn nữa.
Satyakam nghẹn ngào:
- Thưa sư phụ, hiện nay con phải làm thế nào để diệt trừ hạt giống tham vọng kia?
- Này Satyakam, con hãy suy ngẫm thật kỹ về điều thứ hai mà ta chỉ dạy cho con đây. Con phải diệt trừ tất cả mọi ý thức về sự chia rẽ, phân biệt. Con đừng nghĩ rằng với công phu tu tập của mình con có thể vượt lên trên những
người thấp kém, hèn hạ, trụy lạc hay các sự kiện xấu xa. Đây là một nhầm lẫn lớn của những kẻ đi trên đường đạo. Họ không ý thức rằng kẻ xấu xa, thấp kém kia cũng chính là họ. Một khi con nghĩ mình đã vượt lên cao, đã đắc những quả vị, đã sở hữu những khả năng thần thông và không còn liên quan đến những kẻ yếu đuối trụy lạc hay các sự kiện xấu xa, thì con đã tự tạo ra một nghiệp quả ràng buộc con với những điều đó, hoặc người đó. Con phải học bài học cần thiết rằng con không thể sống tách biệt với mọi sự vật trong thế gian này được.
Đạo sư chăm chú nhìn Satyakam rồi nói tiếp:
- Con phải suy ngẫm cẩn thận để biết rằng mọi sự xấu xa nhất, tội lỗi nhất, bẩn thỉu nhất của cuộc đời cũng chính là tội lỗi, bẩn thỉu của chính con, bởi con là một phần của thế gian này. Nghiệp quả của con liên đới chặt chẽ với nghiệp quả của mọi người. Trước khi con bước chân vào ngưỡng cửa các vị thánh, con cũng phải trải qua mọi hoàn cảnh, trong sạch cũng như xấu xa, tội lỗi cũng như thánh thiện, cao thượng cũng như thấp hèn. Con càng tránh né chúng bao nhiêu, chúng sẽ càng bám chặt lấy con bấy nhiêu. Kẻ nào tự hào về đức hạnh của mình tức là đang chuẩn bị một bãi bùn dơ để tự bước vào đó. Con đã học hỏi được nhiều. Con đã biết phân tích tất cả các kinh nghiệm để học hỏi và nhẫn nại chịu đựng các thử thách, nhưng con đừng bao giờ nghĩ mình đã tiến bộ hơn người khác. Con chớ lên án những người sa ngã, chớ coi thường những kẻ yếu đuối dễ nản lòng, mà con phải biết đưa tay dìu dắt họ như bạn đồng hành của mình. Con phải biết rằng khoảng cách giữa kẻ thánh thiện và kẻ tội lỗi tuy có xa, nhưng khoảng cách giữa kẻ thánh thiện và người đã giác ngộ còn dài gấp muôn lần. Do đó, con hãy cẩn thận trong mọi tư tưởng cũng như hành động. Ta muốn con trở vào hang đá tu tập thêm bốn mươi ngày nữa để quán xét thật kỹ về những điều ta vừa chỉ dạy. Con phải tu tập đúng thời gian mà ta quy định, chớ rời khỏi hang đá trước khi ta cho phép.
Một lần nữa, Satyakam quỳ mọp xuống đất cung kính vái chào sư phụ trước khi quay trở vào trong hang đá. Lần này, anh vận dụng mọi công phu tu tập và quán xét những mầm mống chia rẽ mà anh đã vô tình thêu dệt trong tâm mình. Hơn bao giờ hết, anh ý thức rõ năng lượng tham lam mà anh đã vô tình để nó chi phối tâm mình. Anh sử dụng khả năng theo dõi tư tưởng để đào
sâu vào nội tâm, để chiêm nghiệm các sự kiện liên quan giữa mọi vật với nhau. Sau nhiều ngày suy ngẫm, anh bỗng nhận thức rằng trên thế gian này không thứ gì có thể tồn tại độc lập được. Mọi vật đều nương tựa vào nhau để hiện hữu, và đó là chân lý vô cùng quan trọng. Cũng ngay lúc khi đó, anh chợt ý thức rõ về nguyên nhân của tham vọng mà anh đã suy ngẫm mấy ngày trước. Tất cả đều bắt nguồn từ ý thức về bản ngã. Khi còn bản ngã, còn ý thức về sự hiện diện của một cá thể riêng biệt, tất cả mọi vấn đề như chia rẽ, tham lam đều nảy sinh. Khi không còn tự ngã, không còn thấy có mình, có người, có chủ thể hay đối tượng thì tất cả mọi sự đều trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Đây không phải là điều mới lạ vì anh đã học hỏi nó qua pháp môn Yoga, nhưng đây là lần đầu anh ý thức về nó. Anh chợt nhận ra rằng kiến thức và kinh nghiệm khác nhau rất xa. Ta có thể hiểu một cách lý thuyết rằng vạn vật đều là một, hay có một khái niệm rằng vạn vật đều bắt nguồn từ một nguồn gốc chung, nhưng quán triệt được nó và sự liên quan của vạn vật với nhau lại đòi hỏi một trải nghiệm đặc biệt.
Khi vừa ý thức được những sự kiện này, Satyakam thấy rõ các làn sóng tư tưởng đang nảy sinh trong tâm anh bỗng dưng chấm dứt. Đây là lần đầu anh thấy mình có thể chặn đứng được làn sóng của tư tưởng. Dĩ nhiên khi xưa, qua công phu tu tập, anh có thể làm cho các làn sóng tư tưởng phát sinh chậm lại hay tạm thời ngưng trễ, nhưng nay anh thấy tâm đã đổi khác. Khi mọi tư tưởng chấm dứt, anh có thể trải nghiệm sự sống một cách hoàn hảo, tốt đẹp hơn lên vì các luồng sóng tư tưởng vẫn dồn dập nảy sinh đã không còn. Anh như bước vào một trạng thái hoàn toàn an lạc, hạnh phúc chưa từng thấy. Satyakam mừng rỡ định bước ra khỏi hang để gặp vị đạo sư già, nhưng anh biết lúc đó chưa đến kỳ hạn bốn mươi ngày. Anh không hiểu tại sao sư phụ lại muốn mình ở trong hang lâu như vậy. Tuy nhiên, anh biết hẳn sư phụ có nguyên do nên tiếp tục tu tập thêm nữa.
Nguồn:
đến trang 123
Vượt qua một cánh rừng rậm rạp, cây cối phủ kín, họ đến một thung lũng nhỏ nằm lọt giữa hai khe núi. Người hành khất chỉ về phía trước:
- Sư phụ sống ở kia.
Đó là một cái hang nhỏ nằm cạnh dòng suối nước chảy xiết. Vị đạo sư già đang chống gậy đứng trước cửa hang. Đã nhiều năm qua mà trông ông vẫn không hề thay đổi: vẫn chòm râu bạc trắng, vẫn thân hình gầy gò như hồi còn ở Sonar Linga.
Satyakam và người hành khất vội quỳ trước sư phụ. Ông ra hiệu cho Satyakam đứng lên:
- Này Satyakam, bây giờ đã đến một khúc quanh quan trọng trong cuộc đời tu hành của con. Liệu con có đủ sức đi nốt chặng đường còn lại không?
- Thưa sư phụ, con đã sẵn sàng.
- Tốt lắm! Bây giờ con hãy nhìn thật sâu vào tâm hồn mình xem con đã thực sự sẵn sàng chưa! Nếu con đã cương quyết, hãy ra suối tắm rửa rồi vào hang đá kia nghỉ ngơi. Sáng mai, chúng ta sẽ bắt đầu.
Sáng hôm sau, khi Satyakam vừa bước ra khỏi hang thì đã thấy thầy ngồi thiền trên một tảng đá lớn. Ông ra hiệu cho anh bước đến gần rồi từ tốn nói:
- Này Satyakam, hôm nay ta dạy cho con những quy tắc chính của quãng đường còn lại mà con sẽ phải đi qua. Đây là quy tắc thứ nhất: Con phải diệt trừ tất cả mọi tham vọng. Con hãy suy ngẫm để hiểu điều này một cách thấu đáo và đừng bao giờ tự dối gạt mình. Hiện nay, trong khúc quanh quan trọng này, con cần phải nỗ lực để diệt trừ mọi tham vọng, kể cả những tham vọng vi tế nhất. Nếu không trừ được nó trong lúc này, để nó tiềm ẩn và tiếp tục mọc rễ trong tâm con, con sẽ còn phải trả những cái giá đau đớn và chỉ đến khi đó con mới có thể tiếp tục theo đuổi quãng đường cuối cùng này. Quy tắc này xét ra giản dị, nhưng thật ra đó là một điều rất khó làm vì lòng tham luôn luôn thay đổi, biến hóa dưới những hình thức mà ít ai ngờ. Nhiều người đi trên đường đạo tưởng mình đã được giải thoát, tưởng mình đã trong sạch,tưởng mình đã thánh thiện, tưởng mình đã diệt trừ được những tham vọng, nhưng thật ra họ vẫn bị lòng tham lừa gạt mà không hay biết. Tham luyến một cái gì đẹp đẽ, thánh thiện cũng là tham lam; mong muốn được trong sạch cũng là tham lam; ngay cả những việc tinh thần, tâm linh tốt đẹp nhất cũng thường bị lòng tham chi phối. Này Satyakam, lòng tham là năng lượng chi phối mọi hoạt động của những người sống mà không biết ý thức. Dù có ý thức, nhưng mấy ai có thể theo dõi tư tưởng của mình từng giây hay từng phút được, do đó mới có chuyện sai một li đi một dặm.
Khi trước, ta đã dạy cho con cách theo dõi hơi thở, cách theo dõi tư tưởng, bây giờ là lúc con phải quán xét nội tâm mình một cách thành thật để biết mình muốn gì và tại sao mình lại hành động như vậy. Con hãy vào trong hang đá kia để tu tập và quán sát tư tưởng của mình trong bốn mươi ngày liền. Con đừng ra khỏi hang đá trước ngày thứ bốn mươi, mọi việc ăn uống hay những thứ cần dùng đã có ta lo liệu. Con đã từng lắng nghe, từng quán sát những tư tưởng nảy sinh, từng tư tưởng nhen nhúm trong lòng con, xem nó từ đâu đến và đi về đâu. Lần này, con hãy cố gắng theo dõi xem tư tưởng tham lam của mình để xem nó phát xuất từ đâu và lần ngược lên tận cội nguồn của nó. Khi con tìm đến tận nguồn thì con sẽ hiểu rõ về nó, và khi con đã biết rõ về nó thì nó sẽ không còn chi phối được con nữa. Kẻ học đạo phải biết tu tập nội quán để biết rõ các yếu tố chi phối mình và tìm cách giải thoát khỏi các ràng buộc của nó.
Satyakam chắp tay quỳ rạp xuống đất để tỏ lòng cung kính rồi quay vào trong hang đá. Anh ngồi xếp bằng theo tư thế liên hoa và khởi sự việc theo dõi tư tưởng của mình. Công phu này anh đã tu luyện thuần thục nên chẳng mấy chốc anh đã cảm thấy các tư tưởng đến và đi qua tâm mình một cách rõ rệt. Anh bắt đầu theo dõi từng tư tưởng nảy sinh từ những chỗ sâu kín nhất trong tâm hồn. Anh theo dõi nó, đi ngược vào các nguyên nhân, các động năng thầm kín nhất đã sai khiến những tư tưởng kia nảy sinh, và cứ thế, anh quán sát nó nảy sinh, lộ diện, đến và đi dưới muôn hình vạn trạng trong tâm thức.
Bốn mươi ngày trôi qua nhanh chóng. Khi Satyakam bước ra khỏi hang, anh đã thấy sư phụ đang ngồi trên tảng đá quen thuộc.
Ông lên tiếng:
- Hẳn con đã ý thức rõ được lòng tham bắt nguồn từ đâu rồi chứ?
- Thưa sư phụ, con đã ý thức rõ về nó.
- Thế thì con đã đạt đến kết quả nào chưa?
- Thưa sư phụ, con nghĩ mình đã có thể chinh phục được tham vọng. Con đã có thể tách rời ra khỏi những tư tưởng xấu xa, thấp hèn qua những kỷ luật tự giác, những công phu hành xác, kiểm soát nội tâm.
Đạo sư nheo mắt nhìn học trò rồi lắc đầu:
- Này Satyakam, con đã bị những tham vọng đó lừa rồi! Ta không thể tiêu diệt lòng tham bằng cách tách rời mình ra khỏi mọi sự như con đã quán xét đâu. Không phải thế! Ta biết khi trước ở Sonar Linga, con vẫn còn một chút tập khí tham lam tiềm ẩn mà con không thể vượt qua được và chính cái tập khí đó đã tạo ra những khó khăn khiến con phải rời núi. Do đó, lần này khi trở về đây, ta muốn con suy ngẫm thật kỹ về lòng tham.
Satyakam ngạc nhiên:
- Con vẫn còn một chút tập khí tham lam ư?
- Này Satyakam, công phu tu hành của con không phải tầm thường, nhưng con có nhớ khi con theo ta lên đỉnh Tuyết Sơn, khi con trải nghiệm khả năng thần thông của mình, khai mở được ký ức, nhớ được các kinh nghiệm về tiền kiếp, thì con đã thay đổi. Con tự cho mình quan trọng hơn người, và có ý muốn trở thành một bậc đạo sư và chính cái ý mong cầu đó đã thúc giục con xuống núi.
Satyakam giật mình. Câu nói của thầy như một tiếng sét khiến anh bàng hoàng. Vị đạo sư mỉm cười, tiếp:
- Con là người có tánh thiện, muốn giúp đỡ mọi người nên việc trở nên một bậc đạo sư hướng dẫn người khác cũng là điều tự nhiên thôi. Tuy nhiên, con chưa hoàn toàn giải thoát được mình, chưa ý thức rõ các động năng tế nhị vẫn chi phối tư tưởng và hành động của mình nên con đã để cho cái tập khí tham lam, mong cầu kia chi phối.
Ta biết rõ như vậy nên mới chỉ dẫn cho con đến học hỏi thêm với Kapalak để phát triển về Kundalini Yoga, giúp con khai mở những kiến thức huyền môn, học hỏi thêm những điều mà từ trước đến nay con chưa trải nghiệm và trả các nghiệp quả giữa con và Bhairavi. Hiển nhiên, con đã trở thành một bậc hiền giả, chỉ dẫn và giúp đỡ được nhiều người, nhưng tập khí tham lam kia của con lại có cơ hội phát triển hơn nữa.
Satyakam nghẹn ngào:
- Thưa sư phụ, hiện nay con phải làm thế nào để diệt trừ hạt giống tham vọng kia?
- Này Satyakam, con hãy suy ngẫm thật kỹ về điều thứ hai mà ta chỉ dạy cho con đây. Con phải diệt trừ tất cả mọi ý thức về sự chia rẽ, phân biệt. Con đừng nghĩ rằng với công phu tu tập của mình con có thể vượt lên trên những
người thấp kém, hèn hạ, trụy lạc hay các sự kiện xấu xa. Đây là một nhầm lẫn lớn của những kẻ đi trên đường đạo. Họ không ý thức rằng kẻ xấu xa, thấp kém kia cũng chính là họ. Một khi con nghĩ mình đã vượt lên cao, đã đắc những quả vị, đã sở hữu những khả năng thần thông và không còn liên quan đến những kẻ yếu đuối trụy lạc hay các sự kiện xấu xa, thì con đã tự tạo ra một nghiệp quả ràng buộc con với những điều đó, hoặc người đó. Con phải học bài học cần thiết rằng con không thể sống tách biệt với mọi sự vật trong thế gian này được.
Đạo sư chăm chú nhìn Satyakam rồi nói tiếp:
- Con phải suy ngẫm cẩn thận để biết rằng mọi sự xấu xa nhất, tội lỗi nhất, bẩn thỉu nhất của cuộc đời cũng chính là tội lỗi, bẩn thỉu của chính con, bởi con là một phần của thế gian này. Nghiệp quả của con liên đới chặt chẽ với nghiệp quả của mọi người. Trước khi con bước chân vào ngưỡng cửa các vị thánh, con cũng phải trải qua mọi hoàn cảnh, trong sạch cũng như xấu xa, tội lỗi cũng như thánh thiện, cao thượng cũng như thấp hèn. Con càng tránh né chúng bao nhiêu, chúng sẽ càng bám chặt lấy con bấy nhiêu. Kẻ nào tự hào về đức hạnh của mình tức là đang chuẩn bị một bãi bùn dơ để tự bước vào đó. Con đã học hỏi được nhiều. Con đã biết phân tích tất cả các kinh nghiệm để học hỏi và nhẫn nại chịu đựng các thử thách, nhưng con đừng bao giờ nghĩ mình đã tiến bộ hơn người khác. Con chớ lên án những người sa ngã, chớ coi thường những kẻ yếu đuối dễ nản lòng, mà con phải biết đưa tay dìu dắt họ như bạn đồng hành của mình. Con phải biết rằng khoảng cách giữa kẻ thánh thiện và kẻ tội lỗi tuy có xa, nhưng khoảng cách giữa kẻ thánh thiện và người đã giác ngộ còn dài gấp muôn lần. Do đó, con hãy cẩn thận trong mọi tư tưởng cũng như hành động. Ta muốn con trở vào hang đá tu tập thêm bốn mươi ngày nữa để quán xét thật kỹ về những điều ta vừa chỉ dạy. Con phải tu tập đúng thời gian mà ta quy định, chớ rời khỏi hang đá trước khi ta cho phép.
Một lần nữa, Satyakam quỳ mọp xuống đất cung kính vái chào sư phụ trước khi quay trở vào trong hang đá. Lần này, anh vận dụng mọi công phu tu tập và quán xét những mầm mống chia rẽ mà anh đã vô tình thêu dệt trong tâm mình. Hơn bao giờ hết, anh ý thức rõ năng lượng tham lam mà anh đã vô tình để nó chi phối tâm mình. Anh sử dụng khả năng theo dõi tư tưởng để đào
sâu vào nội tâm, để chiêm nghiệm các sự kiện liên quan giữa mọi vật với nhau. Sau nhiều ngày suy ngẫm, anh bỗng nhận thức rằng trên thế gian này không thứ gì có thể tồn tại độc lập được. Mọi vật đều nương tựa vào nhau để hiện hữu, và đó là chân lý vô cùng quan trọng. Cũng ngay lúc khi đó, anh chợt ý thức rõ về nguyên nhân của tham vọng mà anh đã suy ngẫm mấy ngày trước. Tất cả đều bắt nguồn từ ý thức về bản ngã. Khi còn bản ngã, còn ý thức về sự hiện diện của một cá thể riêng biệt, tất cả mọi vấn đề như chia rẽ, tham lam đều nảy sinh. Khi không còn tự ngã, không còn thấy có mình, có người, có chủ thể hay đối tượng thì tất cả mọi sự đều trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Đây không phải là điều mới lạ vì anh đã học hỏi nó qua pháp môn Yoga, nhưng đây là lần đầu anh ý thức về nó. Anh chợt nhận ra rằng kiến thức và kinh nghiệm khác nhau rất xa. Ta có thể hiểu một cách lý thuyết rằng vạn vật đều là một, hay có một khái niệm rằng vạn vật đều bắt nguồn từ một nguồn gốc chung, nhưng quán triệt được nó và sự liên quan của vạn vật với nhau lại đòi hỏi một trải nghiệm đặc biệt.
Khi vừa ý thức được những sự kiện này, Satyakam thấy rõ các làn sóng tư tưởng đang nảy sinh trong tâm anh bỗng dưng chấm dứt. Đây là lần đầu anh thấy mình có thể chặn đứng được làn sóng của tư tưởng. Dĩ nhiên khi xưa, qua công phu tu tập, anh có thể làm cho các làn sóng tư tưởng phát sinh chậm lại hay tạm thời ngưng trễ, nhưng nay anh thấy tâm đã đổi khác. Khi mọi tư tưởng chấm dứt, anh có thể trải nghiệm sự sống một cách hoàn hảo, tốt đẹp hơn lên vì các luồng sóng tư tưởng vẫn dồn dập nảy sinh đã không còn. Anh như bước vào một trạng thái hoàn toàn an lạc, hạnh phúc chưa từng thấy. Satyakam mừng rỡ định bước ra khỏi hang để gặp vị đạo sư già, nhưng anh biết lúc đó chưa đến kỳ hạn bốn mươi ngày. Anh không hiểu tại sao sư phụ lại muốn mình ở trong hang lâu như vậy. Tuy nhiên, anh biết hẳn sư phụ có nguyên do nên tiếp tục tu tập thêm nữa.
Nguồn:
đến trang 123
#23
Gửi vào 25/08/2020 - 13:12
Ngày hôm sau, Satyakam thấy khắp mình đau nhức, nhiều cảm giác bứt rứt kỳ lạ nổi lên khiến anh thấy như không thể chịu nổi. Đây là một điều lạ vì đã nhiều năm nay, sau khi luyện thành công luồng hỏa hầu Kundalini, Satyakam có thể sai khiến được mọi cơ quan trong thân thể như ý muốn. Việc đau ốm, nóng lạnh, bệnh tật không còn gây phiền phức cho anh nữa. Tại sao lần này anh lại có cảm giác kỳ lạ khác thường như vậy? Đến hôm sau, khắp mình anh trở nên nóng ran như một khối lửa. Anh có cảm tưởng toàn thân mình đang cháy đỏ lên trong hang sâu tối. Các bắp thịt dường như không tuân theo mệnh lệnh của anh. Luồng hỏa hầu vẫn thuần thục nay bỗng phát động một cách khác thường. Chiều hôm đó, anh cảm thấy đuối sức, không còn kiểm soát được thân thể nữa. Đã có lần anh định lên tiếng cầu cứu sư phụ, nhưng lại cố gắng kiềm chế ý tưởng này. Vốn là người can đảm, anh biết có thể đây là một thử thách nên tiếp tục nghiến răng chịu đựng. Cứ thế, anh như trôi nổi trong biển cả, dù thân thể bị các luồng sóng vùi đập mãnh liệt nhưng anh vẫn cố gắng giữ vững công phu.
Những ngày tiếp theo, Satyakam cũng trải qua những cơn đau nhức như vậy nên anh không còn ý thức về ngày hay đêm nữa. Cho đến một hôm, trong cơn mê sảng kỳ lạ, anh biết thời hạn bốn mươi ngày đã đến.
Satyakam bò ra cửa hang. Anh thấy vị đạo sư già đang chống gậy đứng chờ. Ông cúi xuống xoa nhẹ lên đầu anh, một luồng từ điện phát ra từ bàn tay đạo sĩ truyền đi khắp người khiến anh cảm thấy thoải mái, dễ chịu. Anh thu hết tàn lực, lắp bắp:
- Xin... cảm ơn... sư phụ...
- Này Satyakam, ta biết con vừa có một trải nghiệm lớn. Hiển nhiên phải thế rồi vì đó là thử thách cuối cùng của con. Con nên biết những tàn lực của bản ngã con đang phản ứng và trước khi những năng lượng này được chuyển hóa, nó sẽ cố gắng phá rối công phu của con.
Đạo sư nâng Satyakam ngồi dậy và chỉ vào những bụi hoa đang nở quanh đó:
- Này Satyakam, con hãy nhìn những bông hoa đang nở khắp nơi kia. Sau những cơn mưa lớn, cây cối phát triển, nảy nở, đơm bông kết trái. Tương tự như thế, tâm thức của con không bao giờ thực sự phát triển trước khi bản ngã của con bị tận diệt và tiễu trừ. Tất cả mọi kinh nghiệm tu tập đều đưa đến thử thách cuối cùng này, và chỉ khi nào con chiến thắng được bản ngã, con mới thực sự bước chân vào ngưỡng cửa của sự minh triết lớn lao.
Này Satyakam, sau cơn mưa trời quang đãng, tâm thức của con cũng thế. Đây không phải là sự bình an mà trước kia con có được trong lúc thực hành những pháp môn thiền định cao siêu. Đây cũng không phải là sự bình an khi con trú vào những cảnh giới của các hành giả Yoga thượng thừa, mà đây là sự bình an vĩnh cửu khi ta bước vào ngưỡng cửa của ngôi đền minh triết. Con muốn gọi nó là gì cũng được, vì chỉ trong trạng thái này con mới nghe được những tiếng vô thanh; đó là tiếng nói vang lên ở nơi không có một người nào cả. Con có thể coi đó là tiếng nói của chư thiên, của các sứ giả của Thượng đế, của các thiên sứ hay là tiếng nói của một nội tâm vô nhiễm. Không một ngôn ngữ nào có thể diễn tả được điều này vì giờ phút huy hoàng ấy là kinh nghiệm vô cùng lớn lao, nó báo hiệu cho con biết rằng con đã đủ hiểu biết để tiếp tục con đường này một mình. Từ nay, con không cần có ta nữa. Bây giờ, con hãy trở vào trong hang và đắm mình trong tĩnh lặng. Đừng để một tư tưởng nào nảy sinh mà chỉ để sự bình an chi phối. Hãy để sự yên lặng tuyệt đối trở thành chỗ trú ẩn của tâm con. Ta chúc con bình an.
Vị đạo sư già đưa tay xoa nhẹ lên đầu Satyakam. Ánh mắt ông toát lên một niềm vui khó tả. Satyakam cũng cảm động không kém. Anh ôm lấy đôi chân thầy để tỏ lòng kính phục và biết ơn. Anh biết rõ đây là lần cuối anh gặp vị đạo sư và từ đây anh sẽ phải lên đường một mình.
Satyakam quay trở lại hang đá. Anh cảm thấy mỗi bước chân là một bước đi vững chãi, thong dong hơn bao giờ hết. Anh ngồi xuống chiếc thảm bằng cỏ, xếp hai chân theo tư thế liên hoa và thoải mái nhập thiền. Một cảm giác bình an tràn ngập khắp cơ thể anh, mọi mệt mỏi khi trước dường như tan biến.
Thời gian tiếp tục trôi, ngày đi đêm đến, nhưng Satyakam vẫn yên lặng đắm chìm trong cơn thiền định. Đã bao lần thời tiết đổi mùa, hết Xuân rồi sang Đông, nhưng anh chẳng màng. Anh không cần phải ăn nữa, một chút nước mưa, một ít ánh sáng mặt trời cũng đủ nuôi sống anh rồi. Đối với anh, mọi ý niệm về thời gian dường như đã không còn. Tóc anh mọc dài xuống tận hai vai, râu ria kín hàm, phủ xuống cổ, thân thể anh gầy khô. Những điều đó không còn quan trọng với anh nữa, vì sẽ đến lúc anh có thể vứt bỏ nó như vứt một chiếc áo cũ.
Một ngày nọ, Satyakam biết thời gian tu tập đã chấm dứt. Anh thong thả bước ra khỏi hang đá và trèo lên đỉnh Tuyết Lãnh. Anh đi nhẹ nhàng, thảnh thơi, biết rõ cuộc đời mình ở cõi này đã chấm dứt. Dĩ nhiên, anh không hề luyến tiếc vì anh biết mình đã đạt đến mục đích cuối cùng.
Đó là một ngày dày đặc sương mù, trời rất lạnh. Chân anh dẫm lên tuyết phát ra những âm thanh nhẹ và khô, nhưng anh vẫn tiếp tục đi về phía trước như bị một động năng vô hình thúc đẩy. Lên đến đỉnh núi cao tuyết phủ kín vạn vật một màu trắng xóa, anh rùng mình. Một cảm giác kỳ lạ dội mạnh vào lồng ngực khiến anh lảo đảo. Anh biết giây phút cuối cùng đã đến. Anh gượng đứng yên, nhưng rồi ngã nhào xuống tuyết. Anh muốn ngẩng mặt lên, nhưng không sao ngẩng lên được nữa. Mặt anh ngập sâu trong tuyết. Khi xưa, anh vẫn có ý sẽ được bỏ thân trên đỉnh Tuyết Sơn, và nay, anh biết mình đã thỏa ước vọng. Anh kêu lớn: “Xin Thượng đế hãy giúp con được trở về với ngài!”.
Satyakam không biết mình đã nằm trong tuyết bao lâu, nhưng trong sự yên tĩnh tuyệt đối của rặng Tuyết Sơn, anh nghe rõ một tiếng nói vô thanh ở đâu vang lên: “Này Satyakam, bấy nhiêu đó chưa đủ đâu. Con đã gặt và bây giờ con phải gieo”. Âm thanh đó vang rền khiến Satyakam bừng tỉnh. Hai mắt anh hoa lên và đột nhiên, toàn thân anh như vừa nhận được một luồng xung điện khiến anh ngồi bật dậy. Mọi vật xung quanh vẫn không thay đổi. Màu trắng của tuyết đập mạnh vào mắt anh. Anh thấy rõ vết chân mình vẫn còn in trên tuyết. Anh đứng dậy nhìn những rặng núi phủ đầy tuyết trắng. Núi vẫn là núi, tuyết vẫn là tuyết, nhưng nay anh thấy mình và núi gần gũi vô tả. Anh sung sướng bật lên một tiếng kêu lớn, âm thanh vang động núi rừng.
Satyakam chắp tay quỳ mọp xuống đất cung kính thưa: “Xin Thượng đế hãy hướng dẫn cho con. Con xin tuân theo lệnh ngài”.
Tiếng nói vô thanh kia lại vang lên: “Này Satyakam, con đã đủ sức đứng vững một mình và phát triển được khả năng nhận thức. Giờ đây, con có thể giúp đỡ nhân loại hiệu quả hơn, vì con đã chiến thắng được bản ngã, đã vượt qua những thử thách tối hậu của kẻ đi trên đường đạo, đã nghe được tiếng nói của ta mà không bị ù tai, bối rối, sợ hãi nữa. Tiếng nói của ta chính là khúc ca của sự sống, là giai điệu âm thầm sâu thẳm nhưng trỗi lên khắp vũ trụ. Chỉ những kẻ có đức tin, biết hướng vào bên trong mới có thể nghe được mà thôi. Hiện nay, đa số nhân loại không có đầy đủ đức tin hay lòng can đảm để
hướng vào nội tâm vì họ cho rằng sống theo bản năng và dục vọng thì dễ dàng hơn. Tuy nhiên, họ không hề biết rằng sự sống là một năng lực mãnh liệt chi phối tất cả và tất cả đều là những phần tử của nó. Không ai có thể tách rời khỏi sự sống. Cũng như loài cá sống trong nước mà không hề ý thức được nước là gì, nhân loại đang chạy đuổi theo những dục vọng của ảo giác mà quên rằng họ đều là một phần của sự sống linh thiêng và duy nhất này. Ngay như những kẻ đang dò dẫm trên đường đạo cũng chỉ có thể nghe thấy một vài nốt nhạc rời rạc của khúc ca này cho đến khi họ biết quên mình, hoàn toàn diệt trừ được bản ngã. Chỉ khi đó họ mới có thể nghe được trọn vẹn hòa tấu khúc của sự sống. Này Satyakam, khi con đã biết quên mình để lắng nghe,con sẽ hiểu rằng khúc ca bất diệt này lúc nào cũng vang rền khắp vũ trụ và chính con cũng là một phần của bản hòa âm tuyệt diệu đó. Nhờ biết như thế mà con sẽ hiểu rõ hơn mọi định luật của vũ trụ. Nhờ biết lắng nghe từng nốt nhạc, từng âm thanh mà con sẽ không còn thấy có mình, có người, có chủ thể, có đối tượng hay có thù, có bạn, mà tất cả đều chỉ là những tiết tấu hòa diệu của vũ trụ. Nhờ đó, con biết trước được những biến chuyển của cuộc đời đang thay đổi như sóng thủy triều, như mây trôi, như gió thổi. Nhờ biết quán sát nhân tâm hay những nốt nhạc mà con có thể hiểu được cấu trúc của bản đại hòa tấu của sự sống. Khi con thực sự hiểu rõ mọi việc, con sẽ hiểu được chân lý, và khi con đã biết được chân lý, con có thể nói được sự thật. Khi đó,con sẽ hiểu rằng lời thật vốn vô ngôn”.
Nguồn:
đến chương cuối trang 128
Những ngày tiếp theo, Satyakam cũng trải qua những cơn đau nhức như vậy nên anh không còn ý thức về ngày hay đêm nữa. Cho đến một hôm, trong cơn mê sảng kỳ lạ, anh biết thời hạn bốn mươi ngày đã đến.
Satyakam bò ra cửa hang. Anh thấy vị đạo sư già đang chống gậy đứng chờ. Ông cúi xuống xoa nhẹ lên đầu anh, một luồng từ điện phát ra từ bàn tay đạo sĩ truyền đi khắp người khiến anh cảm thấy thoải mái, dễ chịu. Anh thu hết tàn lực, lắp bắp:
- Xin... cảm ơn... sư phụ...
- Này Satyakam, ta biết con vừa có một trải nghiệm lớn. Hiển nhiên phải thế rồi vì đó là thử thách cuối cùng của con. Con nên biết những tàn lực của bản ngã con đang phản ứng và trước khi những năng lượng này được chuyển hóa, nó sẽ cố gắng phá rối công phu của con.
Đạo sư nâng Satyakam ngồi dậy và chỉ vào những bụi hoa đang nở quanh đó:
- Này Satyakam, con hãy nhìn những bông hoa đang nở khắp nơi kia. Sau những cơn mưa lớn, cây cối phát triển, nảy nở, đơm bông kết trái. Tương tự như thế, tâm thức của con không bao giờ thực sự phát triển trước khi bản ngã của con bị tận diệt và tiễu trừ. Tất cả mọi kinh nghiệm tu tập đều đưa đến thử thách cuối cùng này, và chỉ khi nào con chiến thắng được bản ngã, con mới thực sự bước chân vào ngưỡng cửa của sự minh triết lớn lao.
Này Satyakam, sau cơn mưa trời quang đãng, tâm thức của con cũng thế. Đây không phải là sự bình an mà trước kia con có được trong lúc thực hành những pháp môn thiền định cao siêu. Đây cũng không phải là sự bình an khi con trú vào những cảnh giới của các hành giả Yoga thượng thừa, mà đây là sự bình an vĩnh cửu khi ta bước vào ngưỡng cửa của ngôi đền minh triết. Con muốn gọi nó là gì cũng được, vì chỉ trong trạng thái này con mới nghe được những tiếng vô thanh; đó là tiếng nói vang lên ở nơi không có một người nào cả. Con có thể coi đó là tiếng nói của chư thiên, của các sứ giả của Thượng đế, của các thiên sứ hay là tiếng nói của một nội tâm vô nhiễm. Không một ngôn ngữ nào có thể diễn tả được điều này vì giờ phút huy hoàng ấy là kinh nghiệm vô cùng lớn lao, nó báo hiệu cho con biết rằng con đã đủ hiểu biết để tiếp tục con đường này một mình. Từ nay, con không cần có ta nữa. Bây giờ, con hãy trở vào trong hang và đắm mình trong tĩnh lặng. Đừng để một tư tưởng nào nảy sinh mà chỉ để sự bình an chi phối. Hãy để sự yên lặng tuyệt đối trở thành chỗ trú ẩn của tâm con. Ta chúc con bình an.
Vị đạo sư già đưa tay xoa nhẹ lên đầu Satyakam. Ánh mắt ông toát lên một niềm vui khó tả. Satyakam cũng cảm động không kém. Anh ôm lấy đôi chân thầy để tỏ lòng kính phục và biết ơn. Anh biết rõ đây là lần cuối anh gặp vị đạo sư và từ đây anh sẽ phải lên đường một mình.
Satyakam quay trở lại hang đá. Anh cảm thấy mỗi bước chân là một bước đi vững chãi, thong dong hơn bao giờ hết. Anh ngồi xuống chiếc thảm bằng cỏ, xếp hai chân theo tư thế liên hoa và thoải mái nhập thiền. Một cảm giác bình an tràn ngập khắp cơ thể anh, mọi mệt mỏi khi trước dường như tan biến.
Thời gian tiếp tục trôi, ngày đi đêm đến, nhưng Satyakam vẫn yên lặng đắm chìm trong cơn thiền định. Đã bao lần thời tiết đổi mùa, hết Xuân rồi sang Đông, nhưng anh chẳng màng. Anh không cần phải ăn nữa, một chút nước mưa, một ít ánh sáng mặt trời cũng đủ nuôi sống anh rồi. Đối với anh, mọi ý niệm về thời gian dường như đã không còn. Tóc anh mọc dài xuống tận hai vai, râu ria kín hàm, phủ xuống cổ, thân thể anh gầy khô. Những điều đó không còn quan trọng với anh nữa, vì sẽ đến lúc anh có thể vứt bỏ nó như vứt một chiếc áo cũ.
Một ngày nọ, Satyakam biết thời gian tu tập đã chấm dứt. Anh thong thả bước ra khỏi hang đá và trèo lên đỉnh Tuyết Lãnh. Anh đi nhẹ nhàng, thảnh thơi, biết rõ cuộc đời mình ở cõi này đã chấm dứt. Dĩ nhiên, anh không hề luyến tiếc vì anh biết mình đã đạt đến mục đích cuối cùng.
Đó là một ngày dày đặc sương mù, trời rất lạnh. Chân anh dẫm lên tuyết phát ra những âm thanh nhẹ và khô, nhưng anh vẫn tiếp tục đi về phía trước như bị một động năng vô hình thúc đẩy. Lên đến đỉnh núi cao tuyết phủ kín vạn vật một màu trắng xóa, anh rùng mình. Một cảm giác kỳ lạ dội mạnh vào lồng ngực khiến anh lảo đảo. Anh biết giây phút cuối cùng đã đến. Anh gượng đứng yên, nhưng rồi ngã nhào xuống tuyết. Anh muốn ngẩng mặt lên, nhưng không sao ngẩng lên được nữa. Mặt anh ngập sâu trong tuyết. Khi xưa, anh vẫn có ý sẽ được bỏ thân trên đỉnh Tuyết Sơn, và nay, anh biết mình đã thỏa ước vọng. Anh kêu lớn: “Xin Thượng đế hãy giúp con được trở về với ngài!”.
Satyakam không biết mình đã nằm trong tuyết bao lâu, nhưng trong sự yên tĩnh tuyệt đối của rặng Tuyết Sơn, anh nghe rõ một tiếng nói vô thanh ở đâu vang lên: “Này Satyakam, bấy nhiêu đó chưa đủ đâu. Con đã gặt và bây giờ con phải gieo”. Âm thanh đó vang rền khiến Satyakam bừng tỉnh. Hai mắt anh hoa lên và đột nhiên, toàn thân anh như vừa nhận được một luồng xung điện khiến anh ngồi bật dậy. Mọi vật xung quanh vẫn không thay đổi. Màu trắng của tuyết đập mạnh vào mắt anh. Anh thấy rõ vết chân mình vẫn còn in trên tuyết. Anh đứng dậy nhìn những rặng núi phủ đầy tuyết trắng. Núi vẫn là núi, tuyết vẫn là tuyết, nhưng nay anh thấy mình và núi gần gũi vô tả. Anh sung sướng bật lên một tiếng kêu lớn, âm thanh vang động núi rừng.
Satyakam chắp tay quỳ mọp xuống đất cung kính thưa: “Xin Thượng đế hãy hướng dẫn cho con. Con xin tuân theo lệnh ngài”.
Tiếng nói vô thanh kia lại vang lên: “Này Satyakam, con đã đủ sức đứng vững một mình và phát triển được khả năng nhận thức. Giờ đây, con có thể giúp đỡ nhân loại hiệu quả hơn, vì con đã chiến thắng được bản ngã, đã vượt qua những thử thách tối hậu của kẻ đi trên đường đạo, đã nghe được tiếng nói của ta mà không bị ù tai, bối rối, sợ hãi nữa. Tiếng nói của ta chính là khúc ca của sự sống, là giai điệu âm thầm sâu thẳm nhưng trỗi lên khắp vũ trụ. Chỉ những kẻ có đức tin, biết hướng vào bên trong mới có thể nghe được mà thôi. Hiện nay, đa số nhân loại không có đầy đủ đức tin hay lòng can đảm để
hướng vào nội tâm vì họ cho rằng sống theo bản năng và dục vọng thì dễ dàng hơn. Tuy nhiên, họ không hề biết rằng sự sống là một năng lực mãnh liệt chi phối tất cả và tất cả đều là những phần tử của nó. Không ai có thể tách rời khỏi sự sống. Cũng như loài cá sống trong nước mà không hề ý thức được nước là gì, nhân loại đang chạy đuổi theo những dục vọng của ảo giác mà quên rằng họ đều là một phần của sự sống linh thiêng và duy nhất này. Ngay như những kẻ đang dò dẫm trên đường đạo cũng chỉ có thể nghe thấy một vài nốt nhạc rời rạc của khúc ca này cho đến khi họ biết quên mình, hoàn toàn diệt trừ được bản ngã. Chỉ khi đó họ mới có thể nghe được trọn vẹn hòa tấu khúc của sự sống. Này Satyakam, khi con đã biết quên mình để lắng nghe,con sẽ hiểu rằng khúc ca bất diệt này lúc nào cũng vang rền khắp vũ trụ và chính con cũng là một phần của bản hòa âm tuyệt diệu đó. Nhờ biết như thế mà con sẽ hiểu rõ hơn mọi định luật của vũ trụ. Nhờ biết lắng nghe từng nốt nhạc, từng âm thanh mà con sẽ không còn thấy có mình, có người, có chủ thể, có đối tượng hay có thù, có bạn, mà tất cả đều chỉ là những tiết tấu hòa diệu của vũ trụ. Nhờ đó, con biết trước được những biến chuyển của cuộc đời đang thay đổi như sóng thủy triều, như mây trôi, như gió thổi. Nhờ biết quán sát nhân tâm hay những nốt nhạc mà con có thể hiểu được cấu trúc của bản đại hòa tấu của sự sống. Khi con thực sự hiểu rõ mọi việc, con sẽ hiểu được chân lý, và khi con đã biết được chân lý, con có thể nói được sự thật. Khi đó,con sẽ hiểu rằng lời thật vốn vô ngôn”.
Nguồn:
đến chương cuối trang 128
#24
Gửi vào 26/08/2020 - 11:41
Chương cuối
Satyakam thong thả chống gậy xuống núi. Vừa đến một ngã rẽ, anh thấy một đạo sĩ trẻ tuổi, quần áo rách rưới lầm lũi đi tới. Thấy anh, đạo sĩ mừng rỡ chạy vội đến quỳ mọp xuống đất:
- Thưa sư phụ, quả sư phụ chính là người mà con đã đi tìm kiếm từ bao lâu nay.
Satyakam mỉm cười nhìn vị đạo sĩ trẻ:
- Atyananda, rốt cuộc con cũng tìm được ta.
- Nhưng... nhưng sao ngài lại biết tên con?
Satyakam không đáp. Đạo sĩ trẻ bối rối:
- Thưa ngài, hình như... ngài biết trước rằng con sẽ đến đây?
Satyakam gật đầu:
- Ta biết chứ!
- Nhưng... nhưng con chưa nói rõ về mục đích của con. Thưa ngài, con đã đi tìm ngài suốt bao năm nay. Con đã trèo đèo, lội suối, trải qua bao khó nhọc mới đến được đây để xin học hỏi với ngài.
- Ta đã biết rồi.
- Xin ngài chỉ dẫn thêm cho con.
Satyakam chậm rãi quan sát đạo sĩ trẻ rồi nhẹ nhàng nói:
- Này Atyananda, con đã rời nhà rất sớm để theo đuổi con đường đạo. Con đã tu hành khổ hạnh, đã vượt qua nhiều thử thách và có một tâm hồn trong sáng. Thượng đế đã ban cho con khả năng thương yêu vô hạn và con đã biết gieo rắc ánh sáng chân lý cho đồng loại. Con đã làm nhiều việc tốt đẹp, nhưng con nên cẩn thận vì trong tâm hồn con vẫn tồn tại những mầm mống kiêu căng, ngã mạn. Nếu con không biết hướng vào bên trong để tu tập nội quán, những mầm mống này sẽ phát triển và phá hỏng công phu của con.
Vị đạo sĩ trẻ ngập ngừng:
- Kính xin sư phụ chỉ dẫn thêm.
Satyakam trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Này Atyananda, nếu muốn đi xa, con hãy tập tính khiêm tốn, và nếu đã biết khiêm tốn, con lại phải khiêm tốn hơn nữa cho đến khi đức tính đó hoàn toàn chuyển hóa tâm hồn lẫn thể xác của con. Này Atyananda, con nên biết rằng khả năng thần thông mà con đã sở đắc hay khả năng chữa bệnh cho người chỉ là kết quả rất thô thiển nhờ công phu tu tập của con, nhưng tự nó không phải là vật sở hữu của con. Nó chỉ là một ân huệ để con sử dụng mà thôi. Con chớ tưởng lầm ân huệ này là thứ của mình, do mình sáng tạo ra mà tăng thêm sự kiêu căng ngã mạn rồi ngày càng rời xa sự thật.
Đạo sĩ trẻ cúi mọp xuống đất:
- Ngài nói rất đúng. Đó chính là lý do con rời bỏ đạo viện của mình trong thành phố để tìm lên đây học hỏi thêm với ngài. Thưa ngài, con là một đạo sĩ Yoga đã phát triển được quyền năng chữa bệnh, nhưng dù chữa được bệnh cho người khác nhưng sao con vẫn không chữa được bệnh cho mình. Bệnh của con là tâm bệnh, vì con vẫn có những dằn vặt, khắc khoải, không làm sao thoải mái được với chính mình. Hồ như có một áp lực kỳ lạ cứ làm con thao thức mãi!
Satyakam gật đầu:
- Hiển nhiên ta biết điều này, vì sư phụ dạy Yoga cho con chính là bạn đồng môn với ta và chính người đã gửi thông điệp nhờ ta trông nom con.
Atyananda ngạc nhiên:
- Như vậy... như vậy hẳn ngài biết sư phụ Kapalak?
Satyakam gật đầu:
- Dĩ nhiên rồi. Quy luật dòng tu của chúng ta là phụng sự thế gian. Con là học trò của Kapalak thì dĩ nhiên là người cùng đi trên con đường này rồi. Việc quên mình tuyệt đối để phụng sự thế gian không dễ vì nó đòi hỏi một sự thanh lọc bản ngã rất chặt chẽ. Con còn trẻ mà đã biết làm việc lành việc thiện, điều đó rất hay, nhưng trước mắt vẫn còn nhiều việc phải làm. Con cần nhớ rằng công việc phụng sự không phải là việc khi mình muốn thì làm, mà là tất cả những gì mình có thể làm để giúp đỡ người khác. Con cần biết quên mình và chú ý đến người khác, không phải chỉ đôi lúc mà là mọi lúc. Con hãy ý thức rằng giây phút con không dùng để phụng sự nhân loại hoặc để giúp đỡ người khác đều là những thời khắc lãng phí vô ích. Trong thời gian qua, con đã tu tập chuyên cần và đã khổ luyện pháp môn Yoga đến mức thuần thục, nhưng con quá chú trọng đến những phương pháp, kỹ thuật mà quên rằng tinh hoa của Yoga không nằm trong các kỹ thuật đó mà ở sự hiểu biết chính mình. Con cũng cần phải tu tập nội quán để tiệt trừ những mầm mống của sự kiêu căng khi nó vừa chớm lên trong tâm con. Hãy cố gắng vun trồng đức tính khiêm tốn, hy sinh và nồng nhiệt phụng sự cho ý tưởng. Bây giờ ta sẽ chỉ dạy thêm cho con phương pháp tu tập nội quán.
Jaganath là một ngôi đền nằm ở phía Đông thành phố Puri. Đây là một trong những ngôi đền to lớn, kiên trúc đẹp đẽ nhất vùng. Vị tu sĩ trông coi ngôi đền đã sống ở đây nhiều năm, đã tiếp xúc với nhiều đạo sư, giáo sĩ đến thăm viếng ngôi đền nổi tiếng này, nhưng hôm nay, ông giật mình khi thấy một đạo sư râu tóc rất dài cùng một đệ tử từ xa đi đến. Hồ như có một cái gì kỳ lạ, thánh thiện toát lên từ con người này khiến ông không cầm được nỗi vui mừng, vội bước ra đón tiếp. Những tín đồ đang hành lễ trong đền cũng ngừng lại nhìn sững vị đạo sư kia. Sau một lúc bỡ ngỡ, mọi người vội quỳ rạp xuống thi lễ tỏ lòng cung kính trước vẻ uy nghi của vị đạo sư.
Vị tu sĩ trông coi ngôi đền lên tiếng:
- Xin đạo sư cho biết quý danh.
- Ta là Satyananda[6].
Phải, vị đạo sư đó chính là Satyakam, nhưng hiện nay anh không còn là người đi tìm kiếm nữa mà đã trở thành một người khác: một người biết sống trọn vẹn trong chân lý. Cuộc tìm kiếm đã chấm dứt và những bí ẩn của vũ trụ đều được phơi bày trọn vẹn khi anh chiến thắng được bản ngã. Anh không còn là một đạo sư có kiến thức về chân lý như khi còn sống ở Kadambini, mà đã trở thành một người sống trọn vẹn với chân lý. Anh và chân lý đã hòa làm một, không còn phân chia, không còn giới hạn, không còn là hai thực thể tách biệt.
Vị tu sĩ trông coi ngôi đền vội mời Satyananda bước vào chánh điện. Anh quỳ xuống đảnh lễ trước pho tượng Thượng đế rồi bước đến một góc đền, ngồi xuống ngay ngắn. Một số tín đồ vội vã mang ít trái cây, hoa quả đến dâng cúng. Satyananda chắp tay cám ơn. Vị tu sĩ trông coi ngôi đền lên tiếng:
- Hân hạnh được ngài đến viếng thăm. Xin ngài ban cho ít lời giáo huấn.
Satyananda mỉm cười nhìn vị tu sĩ già:
- Này Upasak, chắc ông không nhớ tôi, nhưng tôi thì biết ông đấy.
Upasak - vị tu sĩ trông coi ngôi đền - ngạc nhiên:
- Tại sao... tại sao ngài lại biết tên tôi?
- Phải chăng trong suốt mấy chục năm tu tập tại ngôi đền này, ông vẫn có một thắc mắc chưa được giải đáp? Ông là một tu sĩ chuyên cần và tinh tấn, nhưng trải qua nhiều năm mà vẫn chưa tiến bộ được bao nhiêu. Dù bỏ nhiều công phu tu tập nhưng ông vẫn gặp những chướng ngại không thể giải thích.
Upasak ngập ngừng:
- Quả có thế. Ngài quả đã biết rõ tâm tư tôi, vậy xin ngài chỉ dẫn cho.
Satyananda lên tiếng:
- Này Upasak, khi xưa lúc thọ giới tu sĩ, ông đã phát nguyện: “Tôi thề hiến dâng đời tôi và trọn thân thể tôi cho sự phát triển của nhân loại về mọi
phương diện”. Ông đã bước chân vào con đường đạo nhiệm màu, nhưng vì thiếu hướng dẫn của một vị sư phụ và thay vì tu tập với các bạn đồng môn tại tu viện Surajath nơi ông thọ giới, ông đã xin đến đây để trở thành một tu sĩ trông coi ngôi đền. Ở đây, ông đã vi phạm kỷ luật của dòng tu là nhận thù lao cho các công việc tinh thần. Một trong những giới luật của dòng tu Swami là cấm ngặt việc đòi hỏi hay lãnh tiền công, tiền cúng lễ hay những bổng lộc liên quan đến việc giúp đỡ, chỉ dẫn mọi người về phương diện tinh thần. Trong giới luật có ghi: “Một tu sĩ không bao giờ được đòi hỏi tặng vật, tiền thưởng hay định giá tiền về những gì mà họ ban rải vì những tặng phẩm của tinh thần không có giá trị buôn bán”. Là một tu sĩ, ông được giao phó sứ mạng thiêng liêng là hướng dẫn và phụng sự người khác, nhưng ông đã tự coi chúng như vật sở hữu của riêng mình. Ông đã biến các nghi thức thiêng liêng thành một nguồn lợi tức, một tài sản mà ông có thể khai thác, đổi chác, bán buôn. Vì thế tôn giáo đối với ông trở thành những nghi thức khô cằn, lặp đi lặp lại, do đó việc tu hành của ông hóa vô ích. Một kẻ lãnh tiền công không thể là một sứ giả gieo rắc tình thương, hướng dẫn tín đồ về sự sống nhiệm màu được. Đó không phải là sự hiến dâng hay phụng sự, mà chỉ là một nghề sinh nhai được che đậy dưới các hình thức khôn khéo hay các danh từ hào nhoáng mà thôi. Vì thế, mặc dù tu tập chuyên cần, nhưng ông chẳng tiến bộ được bao nhiêu.
Upasak run giọng:
- Quả... đúng như thế nhưng... nhưng đa số các tu sĩ ai cũng làm thế cả.
- Đó là việc của những người ấy. Thế còn tiến bộ tâm linh của ông? Phải chăng trở thành một tu sĩ chỉ là một cái cớ hay một nghề nghiệp? Con đường hy sinh là con đường quên mình cho người khác chứ không phải sự đòi hỏi được đền bù xứng đáng hay sự tưởng thưởng nào đó.
Upasak nghẹn ngào:
- Như vậy... như vậy tôi phải làm gì?
- Hãy tự quên mình và chỉ thiết tha với lý tưởng mà ông theo đuổi. Lý do ông đã quên mất lý tưởng cao quý này là vì ông còn thiết tha đến mình nhiều quá: lo cho sự an toàn của mình, lo cho mình một chỗ trú thân, một nơi có tiện nghi với những phẩm vật dâng cúng... và những thứ này đã cản trở sự tiến hóa tâm linh của ông. Nói cách khác, ông chưa thực sự biết điều mình muốn, vì thế ông cần biết hướng vào bên trong, tu tập nội quán để biết mình là ai đã trước khi ông có thể định hướng cho mình.
Upasak vội quỳ xuống:
- Xin ngài thu nhận tôi làm đệ tử và chỉ dẫn cho tôi.
Satyananda mỉm cười:
- Dĩ nhiên rồi, đó là lý do tôi đến đây tìm ông mà. Khi xưa, chúng ta đã cùng tu học chung một nơi và chúng ta đã hứa với nhau rằng ai thành công trước sẽ giúp đỡ cho người kia. Và tôi không hề quên lời hứa này.
___________________________________
[6] Có nghĩa “Người Sống Trong Chân Lý”, còn Satyakam là “Người Đi Tìm Chân Lý” - ND
Nguồn:
đến trang 133
#25
Gửi vào 26/08/2020 - 12:21
Ngày hôm sau, Satyananda rời Puri lên đường cùng với Upasak và Atyananda. Họ đi qua nhiều làng mạc, giúp đỡ và chỉ dẫn cho mọi người. Không như khi còn ở Kadambini, anh thường thuyết giảng rất lâu, lần này Satyananda chỉ nói vắn tắt về phương pháp tu tập nội quán và sự tự biết mình, nhưng những câu nói giản dị, chân thành của anh đã đi thẳng vào lòng mọi người và hầu như ai nghe được cũng đều ngộ ra rất nhiều điều. Danh tiếng của anh mỗi lúc một vang xa. Tuy nhiên, anh không trú ngụ tại ngôi đền Kali ở Kadambini để giảng đạo như khi xưa, mà anh và học trò đi khắp nơi để truyền dạy. Khi các học giả tìm đến chất vấn anh về các đề tài trừu tượng, anh chỉ trả lời một cách ngắn gọn rằng con người không thể phí thì giờ vô ích về những ý niệm không liên quan đến sự tiến bộ chung của nhân loại, và anh gọi đó là “căn bệnh của trí thức”. Hiển nhiên, những người này không hài lòng về câu trả lời trên và đòi hỏi một cuộc tranh luận.
Một học giả nói:
- Theo ông thì phương pháp tu tập của ông không cần các nghi thức căn bản mà chỉ hướng vào bên trong để tìm hiểu chính mình. Phải chăng điều đó đi ngược với các truyền thống tâm linh sẵn có?
- Sự tự biết mình chính là căn bản của mọi truyền thống tâm linh. Chính sự không biết mình đã đưa đến các nghi thức rườm rà không cần thiết. Lý do là vì người ta không thực sự hiểu biết khi thực hành những nghi thức nói trên một cách vô ý thức.
- Phải chăng ông đã chống lại những truyền thống sẵn có?
- Khi ta biết mình, ta sẽ biết rằng chân lý không phải là những lý luận trừu tượng hay lý thuyết này chống lại lý thuyết khác, mà chân lý là một khái niệm vượt lên trên tất cả các quan điểm thông thường.
Câu trả lời của Satyananda khiến họ khó chịu và thế là bắt đầu một cuộc tranh luận ồn ào.
Satyananda lên tiếng:
- Này các ông, chính sự kiêu căng, đầy thành kiến của các ông đã khiến các ông xa rời sự thật. Nếu các ông biết lắng nghe thay vì tranh luận, có lẽ các ông sẽ tiến bộ hơn. Chân lý là điều để sống theo chứ không phải để mang ra tranh luận, bàn cãi thế này. Con người không được lợi lộc gì khi làm như vậy đâu.
Câu nói nhẹ nhàng của Satyananda có một mãnh lực kỳ lạ khiến nhóm học giả thông thái bỗng trở nên yên lặng. Một số người lẳng lặng bỏ đi, nhưng một vài người vẫn nán lại để nghe anh chỉ dẫn thêm. Trong số những học giả này có một người được anh nhận làm đệ tử và ban cho pháp danh Vidyapati.
Satyananda cùng học trò tiếp tục cuộc hành trình qua miền Đông xứ Ấn. Khi đi qua làng Dwarka, họ gặp một thanh niên đứng chờ ở ven đường. Anh lễ phép hỏi:
- Xin ngài cho biết công việc thực sự của con người là gì?
Satyananda trả lời:
- Con nghĩ như thế nào về công việc của một con người? Phải chăng là đi học, thi đậu, tìm việc làm, lập gia đình, sinh con đẻ cái? Phải chăng là do gia nhập nhóm này hội nọ, đến các cơ sở tôn giáo thực hành những nghi thức hay phát động những phong trào cải thiện xã hội? Phải chăng là xây dựng những công trình lớn lao, lập nhà máy, đắp đường, làm cầu cống, đào giếng, khai thác các tài nguyên thiên nhiên? Phải chăng là làm thơ, vẽ tranh, sáng tác âm nhạc để ca ngợi thiên nhiên hay tung hô một người nào đó? Phải chăng tất cả những việc trên là công việc của một con người? Phải chăng con đã tự hỏi:
“Còn gì nữa không? Còn gì để làm nữa không?”. Nếu con không tự biết mình, con sẽ không bao giờ tìm ra câu trả lời, và con sẽ mãi mãi đi tìm. Ngược lại, nếu con biết mình, con sẽ thấy rõ công việc cao quý nhất của con người là tìm ra sự thật về chính mình chứ không phải điều gì khác.
Chàng thanh niên xin Satyananda thu nhận làm đệ tử và anh đã ban cho thanh niên kia pháp danh Shrikant. Satyananda cùng học trò tiếp tục đi về miền Đông. Đôi khi họ dừng lại ở một đền thờ để chiêm bái các thánh tích nhưng ít khi họ ở chỗ nào lâu dài.
Một hôm, khi họ ghé qua đền Meenakshi, vị tu sĩ coi đền đã hỏi:
- Xin ngài cho chúng tôi biết phải thờ phụng Thượng đế như thế nào cho đúng cách?
Satyananda đã trả lời:
- Tại sao lại có quan niệm đúng sai trong việc thờ phụng Thượng đế? Phải chăng ông lo sợ những nghi thức thường nhật không đủ trang nghiêm mà cần có thêm những nghi thức khác nữa? Có bao giờ ông tự hỏi về mối liên hệ giữa ông và Thượng đế không? Phải chăng ông thờ phụng ngài vì ông sợ hãi ngài? Tại sao ông lại sợ hãi?
Phải chăng vì ông nghĩ ngài sẽ trừng phạt ông khi ông không làm đúng các nghi thức này nọ? Có bao giờ ông tự hỏi rằng ai đã đặt ra các nghi thức đó? Thượng đế hay con người? Một người không biết mình thì làm sao có thể biết được người khác hay Thượng đế? Vì không biết về mình nên họ đã đưa ra những quan niệm sai lạc, các nghi thức cúng bái như một hình thức hối lộ, mua chuộc. Tóm lại, Thượng đế chỉ là một cái cớ cho lòng tham lam hay sự sợ hãi của ông mà thôi. Nếu ông biết ngưng những việc này lại và hướng vào bên trong để biết mình, ông sẽ thấy rõ Thượng đế không phải một vị thần ban phúc hay giáng họa. Đó chỉ là một phóng ảnh của lòng sợ hãi và nỗi bất an mà thôi.
Khi họ đi qua làng Krushestra, một học giả đã đến chất vấn:
- Xin ngài giải thích cho tôi về sự sống thật sự.
- Sự sống, hay là tính chất của vạn vật trong vũ trụ, vốn ẩn tàng, chỉ có các biểu hiện của nó được bộc lộ. Nhờ có sự sống mà một hạt giống đâm chồi nảy lộc rồi lớn thành cây, và cũng từ đó mà con người biết suy tư hay có cảm giác. Sự sống biểu lộ qua những hiện tượng thiên nhiên, nhưng các hiện tượng này không phải là sự sống. Con người chỉ có thể ý niệm về sự sống qua việc nghiên cứu các hiện tượng thiên nhiên, nhưng kinh nghiệm về sự sống thì lại khác. Chính vì cứ mải chạy theo những ý niệm về sự sống mà con người vô tình đuổi bắt những ảo tưởng, những biểu lộ của sự sống chứ không phải là sự sống đích thực.
- Như vậy, tôi phải định nghĩa sự sống như thế nào?
- Sự sống tuôn chảy, thay đổi không ngừng, nên không thể giới hạn nó trong một định nghĩa cố định được. Sự giới hạn hay cố định là sự chết.
- Như thế, phải chăng ta không thể định nghĩa được sự sống?
Satyananda giải thích:
- Tại sao anh cứ lo phải tìm cho được một định nghĩa thật chính xác? Cái trò chơi chữ này có liên quan gì đến sự sống quanh anh đâu? Điều anh đang làm chính là thảm kịch của kiếp người. Họ chỉ muốn bám víu lấy một thứ cố định, thường hằng, một định nghĩa mà họ có thể cho là có giá trị vĩnh cửu. Họ tự tìm ra những danh từ, tự nhốt sự sống vào đó cùng các quan niệm riêng của họ rồi dựng lên các giá trị bao bọc quanh nó. Họ tìm ra những triết lý, những giả thuyết về xã hội, chính trị, kinh tế để biện minh cho hành động này, nhưng họ không biết rằng sự sống vẫn trôi qua không ngừng. Thay vì đi tìm những định nghĩa vô ích, anh cần phải biết hướng vào bên trong để thực sự biết mình, và khi đã biết mình, tất cả mọi sự vật hiển nhiên phơi bày mà không cần đến các định nghĩa hay danh từ.
- Nhưng làm sao ta có thể biết mình?
Satyananda trả lời:
- Anh biết rõ khuôn mặt của anh vì hàng ngày anh thường quan sát nó trong gương. Hãy tưởng tượng có một cái gương khác mà có thể nhìn thấy mình một cách trọn vẹn, không phải chỉ khuôn mặt, thân thể anh mà tất cả những gì anh suy nghĩ, cảm xúc, ưu tư, lo lắng. Cái gương này chính là tâm anh đấy. Một khi biết hướng vào bên trong để quán xét nội tâm, anh sẽ tự biết mình. Sở dĩ người ta không dám hướng vào bên trong vì họ sợ phải đối diệnvới thứ không như họ muốn. Khi nhìn hình ảnh bên ngoài, anh sẽ thấy mình là người khỏe mạnh, đẹp đẽ; nhưng khi nhìn vào cái gương bên trong, có thể anh sẽ thấy một người yếu đuối, đầy sợ hãi, lo lắng, có những thèm muốn đê hèn, mà anh thì không muốn như vậy. Biết mình chính là bước đầu của tiến trình xây dựng, là một phát hiện mới lạ mà từ đó ta có thể đi rất sâu vào sự hiểu biết vô cùng. Chỉ khi tìm vào nơi sâu thẳm này, ta mới thấy Thượng đế, sự thật và cả những bí mật của thiên nhiên. Một người biết mình không thể tự dối mình được và khi không tự lừa dối mình, họ sẽ biết sống một cách trung thực, và nhờ biết sống thực, họ sẽ có thể bước vào ngưỡng cửa của minh triết.
Vị học giả kia vội quỳ xuống xin Satyananda thu nhận làm đệ tử. Anh chấp nhận và ban cho người này pháp danh Pavitra. Cứ như thế, Satyanandađi khắp xứ Ấn giúp đỡ, khuyến khích mọi người và thu nhận một số đệ tử. Cứ vài năm, anh và học trò lại lên Tuyết Sơn tu tập một thời gian trước khi tiếp tục công việc hoằng hóa, giúp đỡ mọi người. Satyananda không chủ trương lập một dòng tu riêng hay một giáo phái nào. Anh chỉ khuyên mọi người hãy tiếp tục theo đuổi con đường của họ, nhưng phải đặt nền móng trên sự tự biết mình.
Sau hai mươi năm dạy dỗ học trò, một hôm Satyananda cho họ biết rằng đã đến lúc anh từ bỏ xác thân để hợp nhất với đấng vô cùng:
- Đã đến lúc ta phải tiếp tục cuộc hành trình còn dang dở. Ta đã làm tất cả những gì cần làm và cũng đã truyền dạy các con những gì ta hiểu biết. Tuy nhiên, điều quan trọng là các con hãy tiếp tục hành trình riêng của mỗi người.
- Xin sư phụ đừng đi vì chúng con cần có thầy.
- Đừng nghĩ rằng mình không thể tiến bộ được nếu không có sự giúp đỡ của kẻ khác, dù đó là một vị sư phụ. Khi các con còn phụ thuộc một người hay một quan niệm nào đó nghĩa là các con chưa đạt đến sự hiểu biết thật sự. Một người sư phụ chỉ là người đã đi trước, là người dẫn đường, chứ không phải là một cỗ xe để đưa các con đến đích. Ta có hành trình riêng của ta và các con cũng có những cuộc hành trình riêng của mình, nhưng chúng ta đều chung một hướng đi.
Khi Satyananda bước lên đỉnh Saraswati Kund, cảnh vật vẫn như xưa. Hồ nước trong vắt in rõ rặng Tuyết Sơn phủ đầy tuyết trắng. Mới ngày nào, anh đã cùng vị đạo sư già đến đây tu học, vậy mà giờ đây anh đã trở thành một đạo sư râu tóc bạc như cước. Satyananda thong thả bước đến bên hốc đá quen thuộc, nơi anh từng tu tập trong nhiều kiếp sống. Anh thản nhiên nằm xuống. Toàn thân anh bỗng rung lên và môi anh khẽ mỉm một nụ cười an lạc. Không gian vang rền thánh ngữ “Om”. Bên hồ nước, dưới ánh sáng rạng rỡ của buổi bình minh, một đôi thiên nga trắng xuất hiện, đôi chân khua nước nhẹ nhàng, êm đềm...
Nguồn:
Một học giả nói:
- Theo ông thì phương pháp tu tập của ông không cần các nghi thức căn bản mà chỉ hướng vào bên trong để tìm hiểu chính mình. Phải chăng điều đó đi ngược với các truyền thống tâm linh sẵn có?
- Sự tự biết mình chính là căn bản của mọi truyền thống tâm linh. Chính sự không biết mình đã đưa đến các nghi thức rườm rà không cần thiết. Lý do là vì người ta không thực sự hiểu biết khi thực hành những nghi thức nói trên một cách vô ý thức.
- Phải chăng ông đã chống lại những truyền thống sẵn có?
- Khi ta biết mình, ta sẽ biết rằng chân lý không phải là những lý luận trừu tượng hay lý thuyết này chống lại lý thuyết khác, mà chân lý là một khái niệm vượt lên trên tất cả các quan điểm thông thường.
Câu trả lời của Satyananda khiến họ khó chịu và thế là bắt đầu một cuộc tranh luận ồn ào.
Satyananda lên tiếng:
- Này các ông, chính sự kiêu căng, đầy thành kiến của các ông đã khiến các ông xa rời sự thật. Nếu các ông biết lắng nghe thay vì tranh luận, có lẽ các ông sẽ tiến bộ hơn. Chân lý là điều để sống theo chứ không phải để mang ra tranh luận, bàn cãi thế này. Con người không được lợi lộc gì khi làm như vậy đâu.
Câu nói nhẹ nhàng của Satyananda có một mãnh lực kỳ lạ khiến nhóm học giả thông thái bỗng trở nên yên lặng. Một số người lẳng lặng bỏ đi, nhưng một vài người vẫn nán lại để nghe anh chỉ dẫn thêm. Trong số những học giả này có một người được anh nhận làm đệ tử và ban cho pháp danh Vidyapati.
Satyananda cùng học trò tiếp tục cuộc hành trình qua miền Đông xứ Ấn. Khi đi qua làng Dwarka, họ gặp một thanh niên đứng chờ ở ven đường. Anh lễ phép hỏi:
- Xin ngài cho biết công việc thực sự của con người là gì?
Satyananda trả lời:
- Con nghĩ như thế nào về công việc của một con người? Phải chăng là đi học, thi đậu, tìm việc làm, lập gia đình, sinh con đẻ cái? Phải chăng là do gia nhập nhóm này hội nọ, đến các cơ sở tôn giáo thực hành những nghi thức hay phát động những phong trào cải thiện xã hội? Phải chăng là xây dựng những công trình lớn lao, lập nhà máy, đắp đường, làm cầu cống, đào giếng, khai thác các tài nguyên thiên nhiên? Phải chăng là làm thơ, vẽ tranh, sáng tác âm nhạc để ca ngợi thiên nhiên hay tung hô một người nào đó? Phải chăng tất cả những việc trên là công việc của một con người? Phải chăng con đã tự hỏi:
“Còn gì nữa không? Còn gì để làm nữa không?”. Nếu con không tự biết mình, con sẽ không bao giờ tìm ra câu trả lời, và con sẽ mãi mãi đi tìm. Ngược lại, nếu con biết mình, con sẽ thấy rõ công việc cao quý nhất của con người là tìm ra sự thật về chính mình chứ không phải điều gì khác.
Chàng thanh niên xin Satyananda thu nhận làm đệ tử và anh đã ban cho thanh niên kia pháp danh Shrikant. Satyananda cùng học trò tiếp tục đi về miền Đông. Đôi khi họ dừng lại ở một đền thờ để chiêm bái các thánh tích nhưng ít khi họ ở chỗ nào lâu dài.
Một hôm, khi họ ghé qua đền Meenakshi, vị tu sĩ coi đền đã hỏi:
- Xin ngài cho chúng tôi biết phải thờ phụng Thượng đế như thế nào cho đúng cách?
Satyananda đã trả lời:
- Tại sao lại có quan niệm đúng sai trong việc thờ phụng Thượng đế? Phải chăng ông lo sợ những nghi thức thường nhật không đủ trang nghiêm mà cần có thêm những nghi thức khác nữa? Có bao giờ ông tự hỏi về mối liên hệ giữa ông và Thượng đế không? Phải chăng ông thờ phụng ngài vì ông sợ hãi ngài? Tại sao ông lại sợ hãi?
Phải chăng vì ông nghĩ ngài sẽ trừng phạt ông khi ông không làm đúng các nghi thức này nọ? Có bao giờ ông tự hỏi rằng ai đã đặt ra các nghi thức đó? Thượng đế hay con người? Một người không biết mình thì làm sao có thể biết được người khác hay Thượng đế? Vì không biết về mình nên họ đã đưa ra những quan niệm sai lạc, các nghi thức cúng bái như một hình thức hối lộ, mua chuộc. Tóm lại, Thượng đế chỉ là một cái cớ cho lòng tham lam hay sự sợ hãi của ông mà thôi. Nếu ông biết ngưng những việc này lại và hướng vào bên trong để biết mình, ông sẽ thấy rõ Thượng đế không phải một vị thần ban phúc hay giáng họa. Đó chỉ là một phóng ảnh của lòng sợ hãi và nỗi bất an mà thôi.
Khi họ đi qua làng Krushestra, một học giả đã đến chất vấn:
- Xin ngài giải thích cho tôi về sự sống thật sự.
- Sự sống, hay là tính chất của vạn vật trong vũ trụ, vốn ẩn tàng, chỉ có các biểu hiện của nó được bộc lộ. Nhờ có sự sống mà một hạt giống đâm chồi nảy lộc rồi lớn thành cây, và cũng từ đó mà con người biết suy tư hay có cảm giác. Sự sống biểu lộ qua những hiện tượng thiên nhiên, nhưng các hiện tượng này không phải là sự sống. Con người chỉ có thể ý niệm về sự sống qua việc nghiên cứu các hiện tượng thiên nhiên, nhưng kinh nghiệm về sự sống thì lại khác. Chính vì cứ mải chạy theo những ý niệm về sự sống mà con người vô tình đuổi bắt những ảo tưởng, những biểu lộ của sự sống chứ không phải là sự sống đích thực.
- Như vậy, tôi phải định nghĩa sự sống như thế nào?
- Sự sống tuôn chảy, thay đổi không ngừng, nên không thể giới hạn nó trong một định nghĩa cố định được. Sự giới hạn hay cố định là sự chết.
- Như thế, phải chăng ta không thể định nghĩa được sự sống?
Satyananda giải thích:
- Tại sao anh cứ lo phải tìm cho được một định nghĩa thật chính xác? Cái trò chơi chữ này có liên quan gì đến sự sống quanh anh đâu? Điều anh đang làm chính là thảm kịch của kiếp người. Họ chỉ muốn bám víu lấy một thứ cố định, thường hằng, một định nghĩa mà họ có thể cho là có giá trị vĩnh cửu. Họ tự tìm ra những danh từ, tự nhốt sự sống vào đó cùng các quan niệm riêng của họ rồi dựng lên các giá trị bao bọc quanh nó. Họ tìm ra những triết lý, những giả thuyết về xã hội, chính trị, kinh tế để biện minh cho hành động này, nhưng họ không biết rằng sự sống vẫn trôi qua không ngừng. Thay vì đi tìm những định nghĩa vô ích, anh cần phải biết hướng vào bên trong để thực sự biết mình, và khi đã biết mình, tất cả mọi sự vật hiển nhiên phơi bày mà không cần đến các định nghĩa hay danh từ.
- Nhưng làm sao ta có thể biết mình?
Satyananda trả lời:
- Anh biết rõ khuôn mặt của anh vì hàng ngày anh thường quan sát nó trong gương. Hãy tưởng tượng có một cái gương khác mà có thể nhìn thấy mình một cách trọn vẹn, không phải chỉ khuôn mặt, thân thể anh mà tất cả những gì anh suy nghĩ, cảm xúc, ưu tư, lo lắng. Cái gương này chính là tâm anh đấy. Một khi biết hướng vào bên trong để quán xét nội tâm, anh sẽ tự biết mình. Sở dĩ người ta không dám hướng vào bên trong vì họ sợ phải đối diệnvới thứ không như họ muốn. Khi nhìn hình ảnh bên ngoài, anh sẽ thấy mình là người khỏe mạnh, đẹp đẽ; nhưng khi nhìn vào cái gương bên trong, có thể anh sẽ thấy một người yếu đuối, đầy sợ hãi, lo lắng, có những thèm muốn đê hèn, mà anh thì không muốn như vậy. Biết mình chính là bước đầu của tiến trình xây dựng, là một phát hiện mới lạ mà từ đó ta có thể đi rất sâu vào sự hiểu biết vô cùng. Chỉ khi tìm vào nơi sâu thẳm này, ta mới thấy Thượng đế, sự thật và cả những bí mật của thiên nhiên. Một người biết mình không thể tự dối mình được và khi không tự lừa dối mình, họ sẽ biết sống một cách trung thực, và nhờ biết sống thực, họ sẽ có thể bước vào ngưỡng cửa của minh triết.
Vị học giả kia vội quỳ xuống xin Satyananda thu nhận làm đệ tử. Anh chấp nhận và ban cho người này pháp danh Pavitra. Cứ như thế, Satyanandađi khắp xứ Ấn giúp đỡ, khuyến khích mọi người và thu nhận một số đệ tử. Cứ vài năm, anh và học trò lại lên Tuyết Sơn tu tập một thời gian trước khi tiếp tục công việc hoằng hóa, giúp đỡ mọi người. Satyananda không chủ trương lập một dòng tu riêng hay một giáo phái nào. Anh chỉ khuyên mọi người hãy tiếp tục theo đuổi con đường của họ, nhưng phải đặt nền móng trên sự tự biết mình.
Sau hai mươi năm dạy dỗ học trò, một hôm Satyananda cho họ biết rằng đã đến lúc anh từ bỏ xác thân để hợp nhất với đấng vô cùng:
- Đã đến lúc ta phải tiếp tục cuộc hành trình còn dang dở. Ta đã làm tất cả những gì cần làm và cũng đã truyền dạy các con những gì ta hiểu biết. Tuy nhiên, điều quan trọng là các con hãy tiếp tục hành trình riêng của mỗi người.
- Xin sư phụ đừng đi vì chúng con cần có thầy.
- Đừng nghĩ rằng mình không thể tiến bộ được nếu không có sự giúp đỡ của kẻ khác, dù đó là một vị sư phụ. Khi các con còn phụ thuộc một người hay một quan niệm nào đó nghĩa là các con chưa đạt đến sự hiểu biết thật sự. Một người sư phụ chỉ là người đã đi trước, là người dẫn đường, chứ không phải là một cỗ xe để đưa các con đến đích. Ta có hành trình riêng của ta và các con cũng có những cuộc hành trình riêng của mình, nhưng chúng ta đều chung một hướng đi.
Khi Satyananda bước lên đỉnh Saraswati Kund, cảnh vật vẫn như xưa. Hồ nước trong vắt in rõ rặng Tuyết Sơn phủ đầy tuyết trắng. Mới ngày nào, anh đã cùng vị đạo sư già đến đây tu học, vậy mà giờ đây anh đã trở thành một đạo sư râu tóc bạc như cước. Satyananda thong thả bước đến bên hốc đá quen thuộc, nơi anh từng tu tập trong nhiều kiếp sống. Anh thản nhiên nằm xuống. Toàn thân anh bỗng rung lên và môi anh khẽ mỉm một nụ cười an lạc. Không gian vang rền thánh ngữ “Om”. Bên hồ nước, dưới ánh sáng rạng rỡ của buổi bình minh, một đôi thiên nga trắng xuất hiện, đôi chân khua nước nhẹ nhàng, êm đềm...
Nguồn:
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Những phong tục tập quán ở Việt namphong tục tập quán |
Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Fanmen |
|
|
|
Các bài viết về Phong Thủy của Chu Thần Bân đăng trên báo |
Địa Lý Phong Thủy | htran |
|
|
|
Phong Thuỷ Nghịch Thiên Cải Mệnh [video] |
Tử Vi | administrator |
|
||
Đương số Nguyễn Đức Kiên |
Tử Vi | Hà Uyên |
|
||
Nghiên cứu tinh mệnh học - Nguyễn Anh VũTử Vi |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | huygen |
|
|
|
Bài cơ bút của Công Chúa Liễu Hạnh về quốc vận thời Nguyễn |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Hoangtb |
|
4 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 4 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |