Nếu không có lịch thì một cộng đồng một xã hội khó có thể hoạt động một cách bình thường, họ sẽ không biết những biến cố xảy ra khi nào trong quá khứ và những dự định, những kế hoạch thực hiện ra sao trong tương lai. Tìm hiểu cuốn lịch cũng có nghĩa là tìm hiểu thời gian biểu các hoạt động xã hội, từ sản xuất vật chất đến các sinh hoạt văn hoá tinh thần của một dân tộc, một cộng đồng.
Người Việt xưa đã có lịch của mình?
Ngày nay, chúng ta đang sử dụng song song hai loại lịch: Âm Dương lịch (mà dân ta quen gọi là Âm lịch) và Dương lịch (lịch Gregorius). Âm lịch có nguồn gốc từ Trung Hoa cổ đại được du nhập vào nước ta trong thời kỳ Bắc thuộc và sau khi giành lại độc lập dân tộc, các triều đại phong kiến Việt Nam đã tiếp thu phương pháp tính lịch Trung Hoa để soạn lịch hàng năm ban bố cho dân chúng. Nửa cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta và Dương lịch Gregorius cũng được đưa vào sử dụng.
Vậy người Việt đã có một cuốn lịch riêng của mình trước khi tiếp nhận những cuốn lịch ngoài sinh không? Đây là một câu hỏi rất khó lý giải. Theo các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước thì nước ta là một trong những trung tâm phát sinh nền nông nghiệp trồng trọt vào loại sớm nhất của nhân loại. Canh tác cây lúa nước đòi hỏi phải hội hợp nhiều yếu tố, trong đó yếu tố thời tiết khí hậu đóng vai trò quan trọng hàng đầu:
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trong gió, trông ngày, trông đêm.
(Ca dao)
Mặt khác, chu trình thời tiết, khí hậu tạo thành thời vụ canh tác, mà việc xác định đúng mùa vụ có ý nghĩa thiết yếu của nghề nông: “Làm ruộng phải thì, đi buôn phải chuyến”, “hớt hải không bằng phải thì”. Từ đó chúng ta có thể tin chắc chắn rằng, người Việt cổ đã phải có cách tính lịch riêng của mình rồi và nó đã bị đẩy vào quên lãng trong những điều kiện lịch sử nhất định. Theo sách Tiền Hán thư (64 thượng tờ 2a10-b1) ghi lại bản báo cáo của Hoài Nam Vương Lưu An gửi cho vua Hán thì người Việt xưa đã biết tính lịch. Thư có đoạn viết: “Việt là đất phương ngoài, là dân cắt tóc xăm mình, không thể lấy phép tắc của nước mũ đai mà xử lý nó. Từ thời Tam Đại hưng thịnh, Hồ, Việt không chịu nhận chính sóc, chẳng mạnh không thể phục chúng, chẳng uy không thể ngăn chúng, cho là đất không thể ở, là dân không thể chăn, không đáng làm phiền Trung Quốc” [dẫn theo Lê Mạnh Thát 1999:66].
GS Hoàng Xuân Hãn cho rằng: “Nay không thấy dấu tích gì giúp ta biết cách xếp đặt ngày tháng của dân Lạc Việt xưa. Nhưng đoán rằng “văn hoá trống đồng” của nước Văn Lang chắc đã dùng năm 12 tháng, tháng lần lượt 29,30 ngày, cũng không hẳn là vô lý. Tuy ở vùng nhiệt đới, khí nóng lạnh đến cực để làm giới cận cho thời tiết, nhưng gió mùa, nước lũ khá điều hoà, cũng đủ gợi kỳ hạn của năm” (Hoàng Xuân Hãn 1982:54).
Nhưng đó cũng chỉ là phỏng đoán mà chưa có cứ liệu gì minh chứng. Nhà nghiên cứu sử học Bùi Huy Hồng đã từng tìm cách giải mã lịch tính trên trống đồng Hoàng Hạ thông qua cách đo bóng nắng trên mặt trống, song cũng không tìm thấy cấu trúc của cuốn lịch xưa (xem Bùi Huy Hồng 1974: 364-372).
Trong cuốn Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Lê Mạnh Thát đã dành một mục với nhan đề “ Lịch pháp Việt Nam” để tìm cuốn lịch của người Việt xưa. Ông căn cứ vào 10 truyện trong cuốn Lục độ tập kinh có ghi chép các thông tin về lịch để dựng lại cấu trúc lịch cổ. Theo ông: “hệ thống lịch chia năm ra 360 ngày, rồi phân bổ thành bốn mùa, mỗi mùa gồm ba tháng, mỗi tháng có 30 ngày cùng với việc dùng hệ 7 ngày làm tuần là một di sản của lịch pháp thời Hùng Vương còn được bảo lưu trong Lục độ tập kinh qua 10 truyện” (Lê Mạnh Thát 1999:68).
Thực ra đây là cấu trúc của một loại lịch Ấn Độ cổ đại. Tình hình sử dụng lịch của người Ấn thời cổ đại khá phức tạp. Theo Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc quyển “Thiên văn học” thì từ thời kỳ Tiền Vệ Đà từ thế kỷ X trước Công nguyên đến thế kỷ VI trước Công nguyên, có tới 4 loại lịch với độ dài năm và tháng khác nhau: lịch Hằng tinh (1 năm có 324 ngày, 1 tháng có 27 ngày), lịch Thái Âm (1 năm có 354 ngày, 1 tháng có 29 hoặc 30 ngày), lịch Thế gian (1 năm có 360 ngày, 1 tháng có 30 ngày) và lịch Thái Dương giả định (sđd 1988: 511-513). Như vậy cấu trúc lịch được rút ra từ Lục độ tập kinh là loại lịch thế gian trong hệ thống lịch Ấn, đến thế kỷ II sau CN nó vẫn được duy trì. Hơn nữa, Lục độ tập kinh ghi chép những câu truyện về Phật giáo sơ kỳ Ấn Độ thì lẽ dĩ nhiên là họ phải sử dụng lịch Ấn làm thang thời gian cơ bản. Mặt khác, giả thiết về tổ tiên ta đã sử dụng một loại lịch mà năm có 360 ngày, tháng có 30 ngày thì nó vừa không phản ánh được tuần Trăng (29, 530588 ngày), vừa sai lệch với năm Thời tiết (365, 2422 ngày), nghĩa là nó không thể dùng để xác định thời vụ nông nghiệp được.
Vậy tìm cuốn lịch của người Việt cổ xưa ở đâu?
Một mảng trầm tích của cuốn lịch cổ
Tôi cho rằng, một mảng trầm tích của cuốn lịch cổ ấy là bài ca dao nói về sự thay đổi pha. Mặt trăng mà bất kỳ người Việt nào cũng thuộc:
Mồng một lưỡi trai
Mồng hai lá lúa
Mồng ba câu liêm
Mống bốn lưỡi liềm
Mồng năm liềm giật
Mồng sáu thật trăng
Mười rằm trăng náu
Mười sáu trăng treo
Mười bảy xảy giường chiếu
Mười tám rám trấu
Mười chín dụn dịn
Hai mươi giấc tốt
Hăm mốt nửa đêm
Bài ca dao này không phản ánh lịch Âm Dương du nhập của Trung Hoa vì nguyên tắc định ngày đầu tháng (ngày sóc) trong lịch Trung Hoa là ngày không trăng chưa thời điểm giao hội, còn ngày mồng một trong bài ca dao trên lại là ngày có trăng non (Mồng một lưỡi trai). Điều này được khẳng định một lần nữa bằng câu “Tối như đêm ba mươi”, nghĩa là ngày cuối tháng mới là ngày không trăng. Mồng một trong bài ca dao ấy thực chất tương ứng với ngày mồng hai trong Âm Dương lịch. Vậy bài ca dao này phản ảnh cuốn lịch nào?
Chúng tôi bắt gặp ở người Mường Bi (huyện Tân Lạc, Hoà Bình) cũng có một bài ca dao tương tự:
Ngày một nắng lá thai
Ngày hai nắng lá ngải
Ngày pa nắng lại liềm
Ngày pốn tóng đốn clôốc tôồn
Ngày đăm nhăm kháng
Ngày khấu tôống đấu clôốc tôồi
Ngày pảy tẹp tảy clêênh clăng
Ngày thám đét nhạm clêênh clăng
Ngày chín tù tin hôốc clêênh clăng
Dịch nghĩa
Ngày một bằng lá thai (lá cỏ tranh)
Ngày hai bằng lá ngả (lá công chít)
Ngày ba lưỡi liềm
Ngày bốn trăng sáng quầng
Ngày năm giữa tháng
Ngày sáu đóng dấu đồi
Ngày bảy mọi vật đều ngủ say trăng mới lên
Ngày tám trẻ khóc vào ban đêm trăng mới lên
Ngày chín con diều hâu gọi trăng lên.
Bài ca dao này phù hợp với cuốn lịch cổ truyền của người Mường, gọi là Sách Đoi (tiếng Mường đọc là Khách Đoi), hay còn gọi là Lịch Tre. Trong bài “Lịch Tre của người Mường” trên tạp chí Văn hoá dân gian số 5 (77) năm 2001, tôi đã công bố những nhận định sơ bộ ban đầu về cách tính lịch cổ truyền của người Mường và cơ bản khôi phục diện mạo của cuốn lịch này. Có thể tóm tắt như sau:
Cuốn lịch Mường được khắc đầy đủ trên 12 thẻ tre tương ứng với 12 tháng. Trên đó ghi các ký hiệu ngày, tháng, và các hiện tượng tự nhiên như: ngày mưa, ngày bão; các hiện tượng xã hội như: ngày có khách, ngày đi kiếm cá, ngày săn thú… Một ngày chia thành 16 giờ, mỗi giờ tương ứng với 1,5 giờ Dương lich. Người ta không xác định giờ bằng công cụ nhân tạo mà xác định rất linh hoạt thông qua các hiện tượng tự nhiên như: gà gáy, mặt trời mọc, tang tảng sáng… Điều lý thú là ngày không phải bắt đầu từ nửa đêm, bình minh, hay hoàng hôn như các loại lịch khác trên thế giới mà là thời điểm trước bình minh: gà gáy. Tháng phù hợp với tuần trăng, nên có tháng đủ 30 ngày và tháng thiếu 29 ngày. Một tháng chia thành ba tuần, gọi là tuần Cây, tuần Lôồng và tuần Cối tương ứng với thượng tuần, trung tuần và hạ tuần trong lịch Âm Dương phản ánh chu kỳ chợ phiên truyền thống. Mỗi tuần có 10 ngày, nếu tháng thiếu tuần cuối có 9 ngày. Năm thường có 12 tháng, năm nhuận có thêm 1 tháng. Tôi đồng ý với ông Kiều Bá Mộc cho rằng, từ “Lôồng” được bảo lưu và biến âm thành từ “Mồng” dùng để chỉ 10 ngày đầu tháng trong lịch Âm Dương ngày nay của người Việt.
Hiện nay, người Mường tính lịch khá đơn giản, họ sử dụng lịch Âm Dương của Nhà nước phát hành hàng năm đối chiếu tìm ra ngày, tháng Mường. Nguyên tắc đối chiếu là ngày lui, tháng tiến nghĩa là ngày mồng một lịch Mường tương ứng với ngày mồng hai lịch Âm Dương, nhưng tháng Giêng Mường lại trước lịch Âm Dương. Người Mường vùng Hoà Bình lấy đầu năm trùng với tháng Mười lịch ta, còn vùng Bất Bạt, Ba Vì lại lấy tháng đầu năm trùng với tháng Mười một lịch ta. Nếu tháng lịch Âm Dương thiếu, đủ hay nhuận thì tháng Mường tương ứng cũng tính đủ, thiếu và nhuận.
Cách tính Lịch Tre cổ truyền đã bị mai một, nhưng chắc chắn trước khi có lịch Âm Dương họ đã có cách tính riêng của mình. Tôi cho rằng, có lẽ họ đã nhìn trăng đầu tháng để điều chỉnh tháng đủ hay thiếu, điều này đã từng xảy ra trong lịch Ả Rập và Do Thái cổ đại. Về việc định nhuận, họ đã căn cứ vào chu kỳ mặt trăng giao hội với sao Tua Rua (Pleiades thuộc chòm Tuarus-Kim Ngưu) mà họ gọi là sao Đoi để tính. Những năm thường, ngày rằm tháng Giêng lịch Mường (tháng Mười Âm Dương lịch) trăng chuyển động vào khoảng vị trí sao Tua Rua, nhưng năm nào đến rằm tháng Giêng trăng còn cách xa sao Tua Rua thì tháng ấy là tháng nhuận của năm trước và ngày rằm tháng kế tiếp sau trăng mới đi vào sao Tua Rua. Với người Việt sao Tua Rua còn có một vị trí quan trọng trong việc tính toán mùa vụ:
Đi cày mà muốn được mùa
Thì còn phải lấy sao Tua Rua làm chừng.
(Ca dao)
Lịch Tre là sản phẩm của tổ tiên người Việt, người Mường?
Bóc tách từng lớp bụi mờ thời gian, chúng ta nhận thấy trong Lịch Tre của người Mường có những điểm gạch nối với những mảnh vỡ của cuốn lịch Việt cổ còn lại trong ca dao, tục ngữ. Đó là, đầu tháng là ngày có trăng non, cách gọi 10 ngày đầu tháng là “Mồng”…
Hơn nữa, các nhà nhân học trong và ngoài nước khi nghiên cứu về các tộc người ở Việt Nam đều khẳng định rằng, trước Công nguyên ở nước ta đã từng tồn tại một cộng đồng Việt-Mường chung, nói một thứ tiếng Việt-Mường chung và chỉ đến thiên niên kỷ thứ nhất mới dần dần có sự phân hoá thành người Kinh sống chủ yếu ở miền châu thổ và người Mường chủ yếu ở vùng thung, đồi trước núi.
Như vậy, nếu Lịch Tre có từ trước khi cộng đồng chung Việt-Mường chia tách, cũng có nghĩa nó là tài sản chung mà tổ tiên người Việt, người Mường đã sáng tạo nên.
Kiều Bá Mộc đã sưu tầm tại Mường Bi (Tân Lạc, Hoà Bình) một truyền thuyết có liên quan đến nguồn gốc của cuốn Lịch Tre [Kiều Bá Mộc 1988: 86-87]. Truyện kể rằng:
Vào đời Hùng Vương dựng nước, nhà vua có lần dạo thuyền trên sông, do sơ ý mà để rơi một viên ngọc quý. Nhiều người thợ lặn được gọi đến, song không một ai tìm ra. Nhà vua bèn triệu tất cả các đạo sĩ nổi tiếng trong nước để dò tìm viên ngọc, nhưng đều vô hiệu. Một hôm có một thổ lang Mường Bi, tiếng tăm nổi cồn trong ngoài mường xin yết kiến nhà vua. Sau khi xem quẻ bói bằng chân gà, thổ lang bình tĩnh tâu rằng.
-Cúi xin bệ hạ cứ yên tâm. Viên ngọc quý của Người theo thần được biết, không thể nào mất được. Nó đang đợi giờ tốt để trở về với nhà vua.
Vua tỏ lời cảm ơn thổ lang, nhưng lòng dạ vẫn phân vân nghi hoặc.
Bước sang ngày thứ sáu kể từ khi thổ lang Mường Bi gieo quẻ, vào buổi sáng có người dân chài đem dâng vua một con chép to, vừa bắt được ở dưới sông. Nhà vua vẫn trong tâm trạng không vui, vì chưa có tăm hơi gì về viên ngọc quý. Mãi đến chiều tối, người làm bếp của vua mổ thấy trong bụng cá một viên ngọc sáng rực, vội tâu báo cho vua hay. Tìm ra viên ngọc, nhà vua mừng khôn xiết. Không quên công người báo điểm tốt, nhà vua cho gọi thổ lang Mương Bi lại, gia thưởng nhiều châu báu ngọc ngà, nhưng thổ lang Mường Bi đều từ chối. Ông chỉ xin nhà vua gia ân một điều để cho dân vùng thổ lang cai quản ngày thì lui một ngày, và tháng lại tiến sớm hơn ba tháng. Thấy việc đó có nhiều ý nghĩa, nhà vua ưng thuận liền cho lập đàn tế cáo trời đất chứng giám.
Từ đó, người Mường ở Mường Bi lập lịch và giữ mãi về sau này”.
Như đã trình bày ở trên, nguyên tắc ngày lui, tháng tiến là cách tính lịch bằng phương pháp đối chiếu với lịch Âm Dương, nó chỉ xuất hiện sau khi lịch Trung Hoa được du nhập vào nước ta và người Mường đã tiếp nhận, sử dụng nó song song với Lịch Tre. Cách lý giải theo truyền thuyết là nguyên tắc đối chiếu xuất hiện từ thời Hùng Vương hoàn toàn không hợp lý và chắc chắn rằng truyền thuyết này xuất hiện vào thời kỳ muộn khi mà cách tính Lịch Tre cổ truyền đã bị mai một và trở thành hoá thạch.
Trong sử thi “Đẻ đất đẻ nước” đã dành một chương nói về việc đặt ra lịch, đó là chương “VII. Chia năm chia tháng” [Đẻ đất đẻ nước-Sử thi dân tộc Mường 1975: 49-53]. Chương này dành phần lớn nói về chuyện ông Cuông Minh Vàng Rậm và Ả Sấm Trời khai mỏ đồng, mỏ vàng làm thành Mặt trời và Mặt trăng, còn những thông tin về cuốn lịch khá ít ỏi. Theo áng mo, hai nhân vật truyền thuyết là ông Thu Tha và bà Thu Thiên đã sáng tạo ra lịch của họ:
Mường lớn nhất sinh ra ông Thu Tha
Mường ruộng nhì sinh ra bà Thu Thiên
Đứng ra truyền làm năm, làm tháng.
Áng mo ghi nhận cấu trúc cuốn lịch như sau: năm có 12 tháng, một tháng thường có 30 ngày, nhưng cũng có tháng đủ, tháng thiếu:
Đặt ra rằng:
Một năm có mười hai tháng
Một tháng có ba mươi ngày
Có năm đầy, năm no
Có tháng no, tháng thiếu.
Nguồn tư liệu trên không đưa ra một thông tin gì khả dĩ về thời điểm xuất hiện của Lịch Tre, song chúng đều thống nhất cho rằng, từ xa xưa người Mường đã sáng tạo ra một loại lịch riêng của mình.
Xét về mặt lịch pháp, Lịch Tre là một loại lịch nguyên thuỷ, bởi nó dựa vào việc quan sát trăng, sao trực tiếp để tính lịch. So với lịch Âm Dương Trung Hoa, Lịch Tre chưa có một hệ thống tính toán chặt chẽ dựa vào các thuật toán và không thể tính toán trước được cho các năm. Bởi vậy nó không thể nảy sinh sau khi mà người ta tiếp nhận lịch Trung Hoa. Hay nói một cách khác, người ta không bao giờ sáng tạo ra cái lạc hậu hơn những cái cùng loại đã và đang có. Phải chăng, Lịch Tre chính là cuốn lịch của cộng đồng chung Việt-Mường, sau khi khối cư dân này đã chia tách, người Việt đã tiếp thu văn hoá Trung Hoa mạnh mẽ, dấu tích cuốn lịch xưa cũng chỉ còn lại trong ca dao, tục ngữ. Người Mường với đặc trưng cư trú của mình, đã có điều kiện để bảo lưu những giá trị văn hoá cổ truyền, chính vì vậy mà PGS Nguyễn Từ Chi đã đọc được dấu tích Đông Sơn trên hoa văn “đầu váy” Mường. Và số phận của cuốn Lịch Tre cũng không nằm ngoài quy luật này.
Như chúng ta biết, lịch là thời gian biểu của các hoạt động xã hội, văn hoá, kinh tế…Sở dĩ Lịch Tre được bảo lưu một cách lâu dài như vậy bởi các lễ tết truyền thống, chợ phiên, các quan niệm về ngày tốt xấu vẫn được tính theo lịch này. Cần nói thêm, người Mường hiện nay vẫn duy trì được phép xem ngày độc đáo phi Hoa, phi Ấn gọi là “bắt chừ đốt” dựa trên ngày tháng tính theo Lịch Tre. Khi chính quyền phong kiến trung ương thống nhất sử dụng lịch Âm Dương thì người Mường đã có một động tác dung hoà giữa lịch nhà nước ban hành và Lịch Tre một cách tối ưu nhất vừa bảo lưu được đặc trưng cổ truyền, vừa phù hợp với lịch chính thống. Đó là, việc đặt ra nguyên tắc ngày lui, tháng tiến, làm cho Lịch Tre trở nên tiện dụng hơn, việc tính toán không cần quan sát trăng, sao trực tiếp nữa. Nhưng chính quá trình này đã làm thất truyền cách tính lịch nguyên thuỷ, biến Lịch Tre thành một thứ lịch ăn theo, phụ thuộc vào lịch Âm Dương. Rõ ràng, đó là một sáng tạo củ người Việt-Mường trong quá trình tiếp nhận những yếu tố văn hoá ngoại sinh.
Kết luận
Lịch Tre là một chứng tích về cuốn lịch cổ mà tổ tiên người Việt, người Mường đã sáng tạo ra trong tiến trình khám phá các quy luật của tự nhiên nhằm phục vụ sản xuất và đời sống xã hội. Nó góp phần tạo nên nét riêng biệt của cơ tầng văn hoá bản địa. Khi lịch Âm Dương Trung Hoa thâm nhập vào đời sống người Việt, cách tính lịch cổ đã dần dần bị mai một, chỉ để lại cái bóng dáng mờ nhạt trong ký ức dân dã. Người Mường với đặc trưng cư trú, đặc trưng lịch sử của mình đã bảo lưu được nhiều giá trị văn hoá cổ truyền hơn. Lịch Tre là bằng chứng về tri thức của người xưa đã đạt đến một trình độ nhất định, là một thước đo thời gian độc đáo cho các hoạt động xã hội, do vậy nó cũng là di sản văn hoá quý báu cần được bảo tồn.
__________________
1.Bùi Huy Hồng 1974: Lịch thời Hùng Vương trên mặt trống đồng Hoàng Hạ - Tạp chí Khảo cổ học, số 14, tập 2 năm 1974.
2.Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc - Thiên văn học 1988. Trung Quốc Bách khoa toàn thư xuất bản xã, Bắc Kinh - Thượng Hải.
3.Đẻ đất đẻ nước - sử thi dân tộc Mường 1975 (Vương Anh và Hoàng Anh Nhân sưu tầm, biên dịch và chú thích), Ty Văn hoá Thanh Hóa.
4.Lê Mạnh Thát 1999: Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1: từ khởi nguyên đến Lý Nam Đế. NXB Thuận Hoá, Huế.
5.Hoàng Xuân Hãn 1982: Lịch và lịch Viêt Nam- Tập san Khoa học xã hội số 9, tháng 2 năm 1982, Paris.
6.Kiều Bá Lộc 1988: Lịch mường Bi, một di sản văn hoá độc đáo - trong sách Người Mường với văn hoá cổ truyền mường Bi (tập thể tác giả). UBND huyện Tân Lạc và Sở VHTT Hà Sơn Bình.
Sửa bởi Vị Tế: 09/09/2011 - 13:39