Jump to content

Advertisements




Đi tìm cuốn lịch cổ của người Việt


8 replies to this topic

#1 Vị Tế

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 627 Bài viết:
  • 3049 thanks

Gửi vào 09/09/2011 - 13:35

Chu Văn Khánh - TC Xưa & Nay - 2003.

Nếu không có lịch thì một cộng đồng một xã hội khó có thể hoạt động một cách bình thường, họ sẽ không biết những biến cố xảy ra khi nào trong quá khứ và những dự định, những kế hoạch thực hiện ra sao trong tương lai. Tìm hiểu cuốn lịch cũng có nghĩa là tìm hiểu thời gian biểu các hoạt động xã hội, từ sản xuất vật chất đến các sinh hoạt văn hoá tinh thần của một dân tộc, một cộng đồng.

Người Việt xưa đã có lịch của mình?
Ngày nay, chúng ta đang sử dụng song song hai loại lịch: Âm Dương lịch (mà dân ta quen gọi là Âm lịch) và Dương lịch (lịch Gregorius). Âm lịch có nguồn gốc từ Trung Hoa cổ đại được du nhập vào nước ta trong thời kỳ Bắc thuộc và sau khi giành lại độc lập dân tộc, các triều đại phong kiến Việt Nam đã tiếp thu phương pháp tính lịch Trung Hoa để soạn lịch hàng năm ban bố cho dân chúng. Nửa cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta và Dương lịch Gregorius cũng được đưa vào sử dụng.

Vậy người Việt đã có một cuốn lịch riêng của mình trước khi tiếp nhận những cuốn lịch ngoài sinh không? Đây là một câu hỏi rất khó lý giải. Theo các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước thì nước ta là một trong những trung tâm phát sinh nền nông nghiệp trồng trọt vào loại sớm nhất của nhân loại. Canh tác cây lúa nước đòi hỏi phải hội hợp nhiều yếu tố, trong đó yếu tố thời tiết khí hậu đóng vai trò quan trọng hàng đầu:

Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trong gió, trông ngày, trông đêm
.
(Ca dao)

Mặt khác, chu trình thời tiết, khí hậu tạo thành thời vụ canh tác, mà việc xác định đúng mùa vụ có ý nghĩa thiết yếu của nghề nông: “Làm ruộng phải thì, đi buôn phải chuyến”, “hớt hải không bằng phải thì”. Từ đó chúng ta có thể tin chắc chắn rằng, người Việt cổ đã phải có cách tính lịch riêng của mình rồi và nó đã bị đẩy vào quên lãng trong những điều kiện lịch sử nhất định. Theo sách Tiền Hán thư (64 thượng tờ 2a10-b1) ghi lại bản báo cáo của Hoài Nam Vương Lưu An gửi cho vua Hán thì người Việt xưa đã biết tính lịch. Thư có đoạn viết: “Việt là đất phương ngoài, là dân cắt tóc xăm mình, không thể lấy phép tắc của nước mũ đai mà xử lý nó. Từ thời Tam Đại hưng thịnh, Hồ, Việt không chịu nhận chính sóc, chẳng mạnh không thể phục chúng, chẳng uy không thể ngăn chúng, cho là đất không thể ở, là dân không thể chăn, không đáng làm phiền Trung Quốc” [dẫn theo Lê Mạnh Thát 1999:66].

GS Hoàng Xuân Hãn cho rằng: “Nay không thấy dấu tích gì giúp ta biết cách xếp đặt ngày tháng của dân Lạc Việt xưa. Nhưng đoán rằng “văn hoá trống đồng” của nước Văn Lang chắc đã dùng năm 12 tháng, tháng lần lượt 29,30 ngày, cũng không hẳn là vô lý. Tuy ở vùng nhiệt đới, khí nóng lạnh đến cực để làm giới cận cho thời tiết, nhưng gió mùa, nước lũ khá điều hoà, cũng đủ gợi kỳ hạn của năm” (Hoàng Xuân Hãn 1982:54).

Nhưng đó cũng chỉ là phỏng đoán mà chưa có cứ liệu gì minh chứng. Nhà nghiên cứu sử học Bùi Huy Hồng đã từng tìm cách giải mã lịch tính trên trống đồng Hoàng Hạ thông qua cách đo bóng nắng trên mặt trống, song cũng không tìm thấy cấu trúc của cuốn lịch xưa (xem Bùi Huy Hồng 1974: 364-372).

Trong cuốn Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Lê Mạnh Thát đã dành một mục với nhan đề “ Lịch pháp Việt Nam” để tìm cuốn lịch của người Việt xưa. Ông căn cứ vào 10 truyện trong cuốn Lục độ tập kinh có ghi chép các thông tin về lịch để dựng lại cấu trúc lịch cổ. Theo ông: “hệ thống lịch chia năm ra 360 ngày, rồi phân bổ thành bốn mùa, mỗi mùa gồm ba tháng, mỗi tháng có 30 ngày cùng với việc dùng hệ 7 ngày làm tuần là một di sản của lịch pháp thời Hùng Vương còn được bảo lưu trong Lục độ tập kinh qua 10 truyện” (Lê Mạnh Thát 1999:68).

Thực ra đây là cấu trúc của một loại lịch Ấn Độ cổ đại. Tình hình sử dụng lịch của người Ấn thời cổ đại khá phức tạp. Theo Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc quyển “Thiên văn học” thì từ thời kỳ Tiền Vệ Đà từ thế kỷ X trước Công nguyên đến thế kỷ VI trước Công nguyên, có tới 4 loại lịch với độ dài năm và tháng khác nhau: lịch Hằng tinh (1 năm có 324 ngày, 1 tháng có 27 ngày), lịch Thái Âm (1 năm có 354 ngày, 1 tháng có 29 hoặc 30 ngày), lịch Thế gian (1 năm có 360 ngày, 1 tháng có 30 ngày) và lịch Thái Dương giả định (sđd 1988: 511-513). Như vậy cấu trúc lịch được rút ra từ Lục độ tập kinh là loại lịch thế gian trong hệ thống lịch Ấn, đến thế kỷ II sau CN nó vẫn được duy trì. Hơn nữa, Lục độ tập kinh ghi chép những câu truyện về Phật giáo sơ kỳ Ấn Độ thì lẽ dĩ nhiên là họ phải sử dụng lịch Ấn làm thang thời gian cơ bản. Mặt khác, giả thiết về tổ tiên ta đã sử dụng một loại lịch mà năm có 360 ngày, tháng có 30 ngày thì nó vừa không phản ánh được tuần Trăng (29, 530588 ngày), vừa sai lệch với năm Thời tiết (365, 2422 ngày), nghĩa là nó không thể dùng để xác định thời vụ nông nghiệp được.
Vậy tìm cuốn lịch của người Việt cổ xưa ở đâu?

Một mảng trầm tích của cuốn lịch cổ
Tôi cho rằng, một mảng trầm tích của cuốn lịch cổ ấy là bài ca dao nói về sự thay đổi pha. Mặt trăng mà bất kỳ người Việt nào cũng thuộc:
Mồng một lưỡi trai
Mồng hai lá lúa
Mồng ba câu liêm
Mống bốn lưỡi liềm
Mồng năm liềm giật
Mồng sáu thật trăng
Mười rằm trăng náu
Mười sáu trăng treo
Mười bảy xảy giường chiếu
Mười tám rám trấu
Mười chín dụn dịn
Hai mươi giấc tốt
Hăm mốt nửa đêm

Bài ca dao này không phản ánh lịch Âm Dương du nhập của Trung Hoa vì nguyên tắc định ngày đầu tháng (ngày sóc) trong lịch Trung Hoa là ngày không trăng chưa thời điểm giao hội, còn ngày mồng một trong bài ca dao trên lại là ngày có trăng non (Mồng một lưỡi trai). Điều này được khẳng định một lần nữa bằng câu “Tối như đêm ba mươi”, nghĩa là ngày cuối tháng mới là ngày không trăng. Mồng một trong bài ca dao ấy thực chất tương ứng với ngày mồng hai trong Âm Dương lịch. Vậy bài ca dao này phản ảnh cuốn lịch nào?
Chúng tôi bắt gặp ở người Mường Bi (huyện Tân Lạc, Hoà Bình) cũng có một bài ca dao tương tự:
Ngày một nắng lá thai
Ngày hai nắng lá ngải
Ngày pa nắng lại liềm
Ngày pốn tóng đốn clôốc tôồn
Ngày đăm nhăm kháng
Ngày khấu tôống đấu clôốc tôồi
Ngày pảy tẹp tảy clêênh clăng
Ngày thám đét nhạm clêênh clăng
Ngày chín tù tin hôốc clêênh clăng


Dịch nghĩa
Ngày một bằng lá thai (lá cỏ tranh)
Ngày hai bằng lá ngả (lá công chít)
Ngày ba lưỡi liềm
Ngày bốn trăng sáng quầng
Ngày năm giữa tháng
Ngày sáu đóng dấu đồi
Ngày bảy mọi vật đều ngủ say trăng mới lên
Ngày tám trẻ khóc vào ban đêm trăng mới lên
Ngày chín con diều hâu gọi trăng lên.


Bài ca dao này phù hợp với cuốn lịch cổ truyền của người Mường, gọi là Sách Đoi (tiếng Mường đọc là Khách Đoi), hay còn gọi là Lịch Tre. Trong bài “Lịch Tre của người Mường” trên tạp chí Văn hoá dân gian số 5 (77) năm 2001, tôi đã công bố những nhận định sơ bộ ban đầu về cách tính lịch cổ truyền của người Mường và cơ bản khôi phục diện mạo của cuốn lịch này. Có thể tóm tắt như sau:

Cuốn lịch Mường được khắc đầy đủ trên 12 thẻ tre tương ứng với 12 tháng. Trên đó ghi các ký hiệu ngày, tháng, và các hiện tượng tự nhiên như: ngày mưa, ngày bão; các hiện tượng xã hội như: ngày có khách, ngày đi kiếm cá, ngày săn thú… Một ngày chia thành 16 giờ, mỗi giờ tương ứng với 1,5 giờ Dương lich. Người ta không xác định giờ bằng công cụ nhân tạo mà xác định rất linh hoạt thông qua các hiện tượng tự nhiên như: gà gáy, mặt trời mọc, tang tảng sáng… Điều lý thú là ngày không phải bắt đầu từ nửa đêm, bình minh, hay hoàng hôn như các loại lịch khác trên thế giới mà là thời điểm trước bình minh: gà gáy. Tháng phù hợp với tuần trăng, nên có tháng đủ 30 ngày và tháng thiếu 29 ngày. Một tháng chia thành ba tuần, gọi là tuần Cây, tuần Lôồng và tuần Cối tương ứng với thượng tuần, trung tuần và hạ tuần trong lịch Âm Dương phản ánh chu kỳ chợ phiên truyền thống. Mỗi tuần có 10 ngày, nếu tháng thiếu tuần cuối có 9 ngày. Năm thường có 12 tháng, năm nhuận có thêm 1 tháng. Tôi đồng ý với ông Kiều Bá Mộc cho rằng, từ “Lôồng” được bảo lưu và biến âm thành từ “Mồng” dùng để chỉ 10 ngày đầu tháng trong lịch Âm Dương ngày nay của người Việt.

Hiện nay, người Mường tính lịch khá đơn giản, họ sử dụng lịch Âm Dương của Nhà nước phát hành hàng năm đối chiếu tìm ra ngày, tháng Mường. Nguyên tắc đối chiếu là ngày lui, tháng tiến nghĩa là ngày mồng một lịch Mường tương ứng với ngày mồng hai lịch Âm Dương, nhưng tháng Giêng Mường lại trước lịch Âm Dương. Người Mường vùng Hoà Bình lấy đầu năm trùng với tháng Mười lịch ta, còn vùng Bất Bạt, Ba Vì lại lấy tháng đầu năm trùng với tháng Mười một lịch ta. Nếu tháng lịch Âm Dương thiếu, đủ hay nhuận thì tháng Mường tương ứng cũng tính đủ, thiếu và nhuận.

Cách tính Lịch Tre cổ truyền đã bị mai một, nhưng chắc chắn trước khi có lịch Âm Dương họ đã có cách tính riêng của mình. Tôi cho rằng, có lẽ họ đã nhìn trăng đầu tháng để điều chỉnh tháng đủ hay thiếu, điều này đã từng xảy ra trong lịch Ả Rập và Do Thái cổ đại. Về việc định nhuận, họ đã căn cứ vào chu kỳ mặt trăng giao hội với sao Tua Rua (Pleiades thuộc chòm Tuarus-Kim Ngưu) mà họ gọi là sao Đoi để tính. Những năm thường, ngày rằm tháng Giêng lịch Mường (tháng Mười Âm Dương lịch) trăng chuyển động vào khoảng vị trí sao Tua Rua, nhưng năm nào đến rằm tháng Giêng trăng còn cách xa sao Tua Rua thì tháng ấy là tháng nhuận của năm trước và ngày rằm tháng kế tiếp sau trăng mới đi vào sao Tua Rua. Với người Việt sao Tua Rua còn có một vị trí quan trọng trong việc tính toán mùa vụ:
Đi cày mà muốn được mùa
Thì còn phải lấy sao Tua Rua làm chừng.

(Ca dao)

Lịch Tre là sản phẩm của tổ tiên người Việt, người Mường?
Bóc tách từng lớp bụi mờ thời gian, chúng ta nhận thấy trong Lịch Tre của người Mường có những điểm gạch nối với những mảnh vỡ của cuốn lịch Việt cổ còn lại trong ca dao, tục ngữ. Đó là, đầu tháng là ngày có trăng non, cách gọi 10 ngày đầu tháng là “Mồng”…
Hơn nữa, các nhà nhân học trong và ngoài nước khi nghiên cứu về các tộc người ở Việt Nam đều khẳng định rằng, trước Công nguyên ở nước ta đã từng tồn tại một cộng đồng Việt-Mường chung, nói một thứ tiếng Việt-Mường chung và chỉ đến thiên niên kỷ thứ nhất mới dần dần có sự phân hoá thành người Kinh sống chủ yếu ở miền châu thổ và người Mường chủ yếu ở vùng thung, đồi trước núi.
Như vậy, nếu Lịch Tre có từ trước khi cộng đồng chung Việt-Mường chia tách, cũng có nghĩa nó là tài sản chung mà tổ tiên người Việt, người Mường đã sáng tạo nên.

Kiều Bá Mộc đã sưu tầm tại Mường Bi (Tân Lạc, Hoà Bình) một truyền thuyết có liên quan đến nguồn gốc của cuốn Lịch Tre [Kiều Bá Mộc 1988: 86-87]. Truyện kể rằng:
Vào đời Hùng Vương dựng nước, nhà vua có lần dạo thuyền trên sông, do sơ ý mà để rơi một viên ngọc quý. Nhiều người thợ lặn được gọi đến, song không một ai tìm ra. Nhà vua bèn triệu tất cả các đạo sĩ nổi tiếng trong nước để dò tìm viên ngọc, nhưng đều vô hiệu. Một hôm có một thổ lang Mường Bi, tiếng tăm nổi cồn trong ngoài mường xin yết kiến nhà vua. Sau khi xem quẻ bói bằng chân gà, thổ lang bình tĩnh tâu rằng.
-Cúi xin bệ hạ cứ yên tâm. Viên ngọc quý của Người theo thần được biết, không thể nào mất được. Nó đang đợi giờ tốt để trở về với nhà vua.
Vua tỏ lời cảm ơn thổ lang, nhưng lòng dạ vẫn phân vân nghi hoặc.
Bước sang ngày thứ sáu kể từ khi thổ lang Mường Bi gieo quẻ, vào buổi sáng có người dân chài đem dâng vua một con chép to, vừa bắt được ở dưới sông. Nhà vua vẫn trong tâm trạng không vui, vì chưa có tăm hơi gì về viên ngọc quý. Mãi đến chiều tối, người làm bếp của vua mổ thấy trong bụng cá một viên ngọc sáng rực, vội tâu báo cho vua hay. Tìm ra viên ngọc, nhà vua mừng khôn xiết. Không quên công người báo điểm tốt, nhà vua cho gọi thổ lang Mương Bi lại, gia thưởng nhiều châu báu ngọc ngà, nhưng thổ lang Mường Bi đều từ chối. Ông chỉ xin nhà vua gia ân một điều để cho dân vùng thổ lang cai quản ngày thì lui một ngày, và tháng lại tiến sớm hơn ba tháng. Thấy việc đó có nhiều ý nghĩa, nhà vua ưng thuận liền cho lập đàn tế cáo trời đất chứng giám.
Từ đó, người Mường ở Mường Bi lập lịch và giữ mãi về sau này”.

Như đã trình bày ở trên, nguyên tắc ngày lui, tháng tiến là cách tính lịch bằng phương pháp đối chiếu với lịch Âm Dương, nó chỉ xuất hiện sau khi lịch Trung Hoa được du nhập vào nước ta và người Mường đã tiếp nhận, sử dụng nó song song với Lịch Tre. Cách lý giải theo truyền thuyết là nguyên tắc đối chiếu xuất hiện từ thời Hùng Vương hoàn toàn không hợp lý và chắc chắn rằng truyền thuyết này xuất hiện vào thời kỳ muộn khi mà cách tính Lịch Tre cổ truyền đã bị mai một và trở thành hoá thạch.

Trong sử thi “Đẻ đất đẻ nước” đã dành một chương nói về việc đặt ra lịch, đó là chương “VII. Chia năm chia tháng” [Đẻ đất đẻ nước-Sử thi dân tộc Mường 1975: 49-53]. Chương này dành phần lớn nói về chuyện ông Cuông Minh Vàng Rậm và Ả Sấm Trời khai mỏ đồng, mỏ vàng làm thành Mặt trời và Mặt trăng, còn những thông tin về cuốn lịch khá ít ỏi. Theo áng mo, hai nhân vật truyền thuyết là ông Thu Tha và bà Thu Thiên đã sáng tạo ra lịch của họ:
Mường lớn nhất sinh ra ông Thu Tha
Mường ruộng nhì sinh ra bà Thu Thiên
Đứng ra truyền làm năm, làm tháng.

Áng mo ghi nhận cấu trúc cuốn lịch như sau: năm có 12 tháng, một tháng thường có 30 ngày, nhưng cũng có tháng đủ, tháng thiếu:
Đặt ra rằng:
Một năm có mười hai tháng
Một tháng có ba mươi ngày
Có năm đầy, năm no
Có tháng no, tháng thiếu.

Nguồn tư liệu trên không đưa ra một thông tin gì khả dĩ về thời điểm xuất hiện của Lịch Tre, song chúng đều thống nhất cho rằng, từ xa xưa người Mường đã sáng tạo ra một loại lịch riêng của mình.
Xét về mặt lịch pháp, Lịch Tre là một loại lịch nguyên thuỷ, bởi nó dựa vào việc quan sát trăng, sao trực tiếp để tính lịch. So với lịch Âm Dương Trung Hoa, Lịch Tre chưa có một hệ thống tính toán chặt chẽ dựa vào các thuật toán và không thể tính toán trước được cho các năm. Bởi vậy nó không thể nảy sinh sau khi mà người ta tiếp nhận lịch Trung Hoa. Hay nói một cách khác, người ta không bao giờ sáng tạo ra cái lạc hậu hơn những cái cùng loại đã và đang có. Phải chăng, Lịch Tre chính là cuốn lịch của cộng đồng chung Việt-Mường, sau khi khối cư dân này đã chia tách, người Việt đã tiếp thu văn hoá Trung Hoa mạnh mẽ, dấu tích cuốn lịch xưa cũng chỉ còn lại trong ca dao, tục ngữ. Người Mường với đặc trưng cư trú của mình, đã có điều kiện để bảo lưu những giá trị văn hoá cổ truyền, chính vì vậy mà PGS Nguyễn Từ Chi đã đọc được dấu tích Đông Sơn trên hoa văn “đầu váy” Mường. Và số phận của cuốn Lịch Tre cũng không nằm ngoài quy luật này.

Như chúng ta biết, lịch là thời gian biểu của các hoạt động xã hội, văn hoá, kinh tế…Sở dĩ Lịch Tre được bảo lưu một cách lâu dài như vậy bởi các lễ tết truyền thống, chợ phiên, các quan niệm về ngày tốt xấu vẫn được tính theo lịch này. Cần nói thêm, người Mường hiện nay vẫn duy trì được phép xem ngày độc đáo phi Hoa, phi Ấn gọi là “bắt chừ đốt” dựa trên ngày tháng tính theo Lịch Tre. Khi chính quyền phong kiến trung ương thống nhất sử dụng lịch Âm Dương thì người Mường đã có một động tác dung hoà giữa lịch nhà nước ban hành và Lịch Tre một cách tối ưu nhất vừa bảo lưu được đặc trưng cổ truyền, vừa phù hợp với lịch chính thống. Đó là, việc đặt ra nguyên tắc ngày lui, tháng tiến, làm cho Lịch Tre trở nên tiện dụng hơn, việc tính toán không cần quan sát trăng, sao trực tiếp nữa. Nhưng chính quá trình này đã làm thất truyền cách tính lịch nguyên thuỷ, biến Lịch Tre thành một thứ lịch ăn theo, phụ thuộc vào lịch Âm Dương. Rõ ràng, đó là một sáng tạo củ người Việt-Mường trong quá trình tiếp nhận những yếu tố văn hoá ngoại sinh.

Kết luận
Lịch Tre là một chứng tích về cuốn lịch cổ mà tổ tiên người Việt, người Mường đã sáng tạo ra trong tiến trình khám phá các quy luật của tự nhiên nhằm phục vụ sản xuất và đời sống xã hội. Nó góp phần tạo nên nét riêng biệt của cơ tầng văn hoá bản địa. Khi lịch Âm Dương Trung Hoa thâm nhập vào đời sống người Việt, cách tính lịch cổ đã dần dần bị mai một, chỉ để lại cái bóng dáng mờ nhạt trong ký ức dân dã. Người Mường với đặc trưng cư trú, đặc trưng lịch sử của mình đã bảo lưu được nhiều giá trị văn hoá cổ truyền hơn. Lịch Tre là bằng chứng về tri thức của người xưa đã đạt đến một trình độ nhất định, là một thước đo thời gian độc đáo cho các hoạt động xã hội, do vậy nó cũng là di sản văn hoá quý báu cần được bảo tồn.
__________________

1.Bùi Huy Hồng 1974: Lịch thời Hùng Vương trên mặt trống đồng Hoàng Hạ - Tạp chí Khảo cổ học, số 14, tập 2 năm 1974.
2.Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc - Thiên văn học 1988. Trung Quốc Bách khoa toàn thư xuất bản xã, Bắc Kinh - Thượng Hải.
3.Đẻ đất đẻ nước - sử thi dân tộc Mường 1975 (Vương Anh và Hoàng Anh Nhân sưu tầm, biên dịch và chú thích), Ty Văn hoá Thanh Hóa.
4.Lê Mạnh Thát 1999: Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1: từ khởi nguyên đến Lý Nam Đế. NXB Thuận Hoá, Huế.
5.Hoàng Xuân Hãn 1982: Lịch và lịch Viêt Nam- Tập san Khoa học xã hội số 9, tháng 2 năm 1982, Paris.
6.Kiều Bá Lộc 1988: Lịch mường Bi, một di sản văn hoá độc đáo - trong sách Người Mường với văn hoá cổ truyền mường Bi (tập thể tác giả). UBND huyện Tân Lạc và Sở VHTT Hà Sơn Bình.

Sửa bởi Vị Tế: 09/09/2011 - 13:39


#2 PMK

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1540 Bài viết:
  • 1689 thanks

Gửi vào 10/09/2011 - 21:51

Sau trận động đất tại Nhật vừa rồi, trái đất đã quay nhanh hơn. Hiện tại một ngày ngắn hơn trước khoảng 1,8 phần triệu giây. Tôi tự hỏi không biết điều này có ảnh hưởng như thế nào đối với các môn khoa học huyền bí...

#3 Vị Tế

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 627 Bài viết:
  • 3049 thanks

Gửi vào 11/09/2011 - 12:15

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

PMK, on 10/09/2011 - 21:51, said:

Sau trận động đất tại Nhật vừa rồi, trái đất đã quay nhanh hơn. Hiện tại một ngày ngắn hơn trước khoảng 1,8 phần triệu giây. Tôi tự hỏi không biết điều này có ảnh hưởng như thế nào đối với các môn khoa học huyền bí...

Việc động đất làm thay đổi tốc độ quay của trái đất thì đây không phải là lần đầu, cả ngàn năm (phát triển của các môn huyền học) qua có rất nhiều sự kiện tương tự nhưng việc tính gần đúng sự tác động của động đất lên tốc độ quay của trái đất thì chỉ khoảng vài chục năm gần đây mới làm được.

Những tác động đó chỉ có ảnh hưởng rất nhỏ gần như không đáng kể đến đa số môn huyền học. Cứ ví dụ đơn giản là việc ngày bị ngắn lại 1,8 phần triệu giây thì phải tới sau khoảng 1 ngàn rưởi năm nữa mới "mất đi" 1 ngày, nếu tính cả tuế sai và ảnh hưởng đến các điểm phân, điểm chí của năm thì còn nhỏ nữa (có thể tham khảo thêm Milankovich Cycles để rõ hơn).

Việc tác động đáng chú ý hơn 1 chút có lẽ là việc bị lệch trục của trái đất, điều này có thể khiến cho các tương tác âm dương, khí vũ trụ thông qua "sự truyền tải" của trái đất lên con người và vạn vật có thay đổi chút xíu (nhưng có lẽ cũng không đáng kể).

Đấy là chưa kể đến việc trong thời gian khoảng 1,5 ngàn năm đó lại không biết có thể xảy ra bao nhiêu vụ tác động tương tự có thể dẫn đến sự làm cân bằng lại những cái đã bị thay đổi trước đó.

#4 Vị Tế

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 627 Bài viết:
  • 3049 thanks

Gửi vào 11/09/2011 - 12:50

Trong bài trên của tác giả Chu Văn Khánh đã cho ta thấy người Việt cổ (Việt-Mường) đã có cách tính lịch riêng và có sử dụng lịch với 2 nhánh khác nhau:
1, Tháng Giêng kiến Hợi.
2, Tháng Giêng kiến Tý (Mường Bi - mường lớn nhất trong số các tộc Mường).
Bên cạnh đó, người Việt-Mường có cách tính lịch 12 tháng khá hoàn chỉnh so với người Di tính lịch 10 tháng (cũng thuộc giống Bách Việt nhưng sống ở suốt 1 dải địa phận Vân Nam). Do đó có thể nói người Việt-Mường có cách tính lịch 12 tháng độc lập chứ không phải là vay mượn của văn hóa Hán, căn cứ vào gianh giới của dải Vân Nam, nước Đại Lý (cũ) với cách tính lịch 10 tháng của tộc người Di.

Sau đây, chúng ta lại dạo qua 1 vòng về các câu thành ngữ có ý nghĩa về lịch pháp khá thú vị:
- Mường:
"Cơm đồ, nhà gác
Nước vác, lợn thui
Ngày lui, tháng tới".

- Việt:
"Một, Chạp, Giêng, Hai".

Sửa bởi Vị Tế: 11/09/2011 - 12:57


#5 Vị Tế

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 627 Bài viết:
  • 3049 thanks

Gửi vào 11/09/2011 - 13:10

Tháng Giêng, tháng Chạp và 12 con Giáp
Nguyên Nguyên

Qua bài này chúng ta sẽ mượn 12 Con Giáp để thử xem lại tên gọi 12 địa-chi, với mục đích kiểm chứng một vài điểm khá quan trọng trong 'truyền thuyết giải mã' [1] ở đây.

Nhưng trước hết xin thử xem lại phát hiện rất quan trọng trong một bài trước. Đó là chuyện [1] người Tàu rất thích phân loại 'nhóm ngôn ngữ Hán Tạng', với hàm ý: tất cả các phương ngữ bên Tàu, nhất là khối Bách Việt ngày xưa, có cùng chung một gốc với tiếng Hán ròng ở miệt Hoa Bắc của Hoa tộc 'thuần túy', gộp chung nhau thành nhóm Sino-Tibetan tức Hán Tạng. Tiền đề này thật ra hoàn toàn tương phản với lý thuyết chúng tôi ở đây. Nói nôm-na, các lý thuyết lớn về Hoa chủng tương phản với lý thuyết chúng tôi ở chỗ, cả hai bên đều giành người Hẹ, người Mân, người Ngô, người Yuệt (Quảng) ở thời xa xưa, về phía tộc người của mình. Người Tàu có hỗ trợ của rất nhiều học giả Tây Phương lúc nào cũng cho rằng các phương ngữ miền Hoa Nam, khi xưa có chung một gốc với tiếng Hán, và hai khối tộc người, Hán và Bai-Yue (Bách Việt) ở Hoa Nam đó tuy hai mà một. Rất tiện nghi cho mô hình một nước Tàu nhất thống kéo luôn đến Tây Tạng. Bởi trong tên gọi 'Hán-Tạng' đã bao gồm sẵn 'Tây Tạng'.

Một trong những hệ luận hoặc kết quả của thứ tiền đề này chính là công trình tạo dựng lại cách phát âm tiếng Tàu ở thời cổ đại và thời Trung cổ. Nổi tiếng nhất là công trình của nhà ngữ học Bernhard Karlgren. Trong đó việc tái thiết lại các âm cổ bên Tàu, nhất là thời Trung cổ (từ thế kỷ thứ 6 đến 10), đã dựa vào những trang sách rời rạc của một hai bộ sách 'văn vần', như quyển Qie-Yun 切韻 tức Thiết Vận, của Lu Fayan và cộng sự, 'xuất bản' vào năm 601 (đời nhà Tùy), và đối chiếu với lối phát âm của ... các phương ngữ Bách Việt hiện nay. Quan trọng nhất trong các nhóm ngôn ngữ họ jùng để đối chiếu thường bao gồm tiếng Hẹ, Mân, Ngô, và đặc biệt tiếng Hán Hàn, tức tiếng Hán 'du nhập' vào xứ Triều Tiên, và ... tiếng Hán Việt, xử dụng ở thế kỷ 20 tại Việt Nam.

Thí dụ:
(i) 'Thác' trong 'phó thác' tiếng quanthoại hiện tại gọi [tuo]. Mấy học giả căn cứ vào phát âm Hán-Việt gọi 'thác', Hán-Hàn gọi [thak], Mân đọc [thok], Hẹ [t hok] rồi kết luận tiếng Tàu Trung cổ đã phát âm: [thak].

(ii) Phòng= Buồng. Quanthoại hiện nay: [fang]. So với Hán-Hàn: [pang], Hẹ: [fong] (=> phòng), và Mân (Phúc Kiến): [bang]. Rồi để ý tiếng Việt: 'buồng', họ cho tiếng Tàu thời xưa phát âm: [bwang].

(iii) Từ 'Văn' trong 'văn chương / văn hoá', quanthoại đọc [wen], Hẹ: [Vun] (=> văn), Ngô-Việt: [vâng]. Họ dựa thêm vào một chứng liệu nào khác rồi phối hợp với âm quảngđông: [man], và âm Hán-Hàn là [mwun] rồi cho phát âm trungcổ là [mun] [2] (iv) Dù có dễ dãi tạm chấp nhận thứ lí luận 'tầm nguyên' hoặc 'phiên thiết' loại này, theo thiển ý, ai cũng có thể thấy kiểu truy nguồn phát-âm 'cổ đại' hay Trung-cổ của các học giả Tây Tàu có vẻ hơi lủng củng, ngay ở chỗ họ cho ông vua, có lẽ nổi tiếng xưa nhất của họ là Nghiêu, ngày nay tuy mang phát âm [Yao]-quanthoại, nhưng vào thời cổ đại mang phát âm y hệt như tiếng Hẹ và tiếng Việt (Nam) ngày nay: [Ngieu].

Tại sao vậy?
Bởi họ luôn cho rằng người Hẹ là người Hoa nguyên thủy nhất, và đã từng sinh sống ở lưu vực sông Hoàng Hà gần chỗ ông vua cổ xưa của 'Hán tộc' mang tên Nghiêu đó. Hoàn toàn lướt qua, không để ý đến câu hỏi then chốt: 'Thế nhỡ người Hẹ-cổ không phải thuộc Hoa tộc thì sao?'. Hoặc: 'Nền tảng tiếng Hán Việt là gì?' Truy tầm phát âm Hoa cổ đó chỉ có thể đúng khi chính tiếng Hoa đã được phát âm y hệt như vậy vào thế kỷ thứ 6-10 tại xứ An Nam, hay tại Triều Tiên. 'Có thật như vậy hay chăng?' Chúng ta có thể thấy rất rõ và rất nhanh, rằng nếu trả lời các câu hỏi trên nằm trong dạng phủ định, hay ngay cả lưng chừng, lừng khừng, tất cả kết quả các công trình tầm nguyên phát âm tiếng Tàu thời Trung-cổ cần được xem lại kỹ hơn.

Thật ra, nếu đứng ở bờ sông bên này - phía lý thuyết trình bày ở đây - chúng ta có thể nhận ra thêm một vài điểm khá lấn cấn của việc xử dụng tiền đề 'Hán-Tạng' như một nhóm ngôn ngữ chung của các tộc người ở Trung Hoa ngay từ thời cổ đại, trong việc truy tầm phát âm Trung-cổ tiếng Hán, như sau:

(i) Trước hết, ta thấy Hoa tộc, cũng như rất nhiều tộc người ‘thông minh’ khác trên thế giới, rất ít khi chịu khó kiểm chứng lại mớ tiền đề sẵn có. Họ có vẻ rất dễ dãi hoan nghênh chấp nhận công trình nghiên kíu có vẻ rất khoa học của mấy học giả Tây phương. Không để ý rằng những công trình này hoàn toàn dựa trên những tiền đề do người Hoa đã bày sẵn. Điển hình, rất nhiều học giả Âu Mỹ cho rằng Hoa ngữ ngày xưa y hệt như các phương ngữ Hoa Nam, nhưng nay bị biến đổi khá nhiều. Thí dụ, Hoa ngữ theo kiểu quanthoại nay bị mất các âm cuối như {p t k m nh} và chỉ còn lại {n ng}: Yue NaN / YaNG Gui Fei (Việt Nam / Dương Quý Phi). Nếu để ý đến thứ tiền đề này, người ta có thể thắc mắc: 'Tại sao các phương ngữ Hoa Nam (của người Bách Việt cổ) vẫn giữ được nhiều sắc thái ngôn ngữ như xưa trong khi Hoa tộc thuần túy lại không?'

(ii) Nếu người Hẹ là Hán tộc thuần túy, tại sao ngôn ngữ họ lại giống với phương ngữ Hoa Nam (và ... Việt Nam) nhiều hơn giống với tiếng Hán. Tương tự, nếu họ người Hán thuần túy tại sao họ lúc nào cũng cố gắng gìn giữ tập tục ông cha, juy trì văn hoá và tiếng nói dữ dội như vậy, và trong tất cả những bản chất văn hoá họ dzuy trì và gìn giữ được qua cả ngàn năm đó, rất ít điểm giống với thứ của Hoa tộc? Thí dụ: Người Hẹ không hề theo tập tục Hoa chủng, trong việc bắt phụ nữ phải bó quặp bàn chân cho sang.

(iii) Mô hình trình bày trong loạt bài này cho thấy tiếng Hán-Việt và ngay cả một phần khá lớn của tiếng Nôm, đều có gốc gác với các thứ phương ngữ Bách Việt, nhiều hơn với tiếng quanthoại ở phương Bắc [2]. Nhiều dấu hiệu cho thấy tiếng 'Hán-Việt' thật sự chỉ phát triển tại nước Nam, bắt đầu từ thế kỷ 11, tức sau khi đã tạm vượt khỏi ách đô hộ 1000-năm của Bắc phương. Một phần lớn tiếng Hán-Việt đó đã do các người thuộc tộc Lạc Việt từ bên Tàu mang sang, tiêu biểu bằng nhà Lý và nhà Trần. Do đó việc đối chiếu tiếng Hán Việt (phát triển tại Đại Việt từ thế kỷ 11 về sau) để truy tầm phát âm tiếng Hán ở thế kỷ 6-10 bên Tàu là một việc làm dựa trên tiền đề có thể vướng khá nhiều lấn cấn.

(iv) Quan trọng nhất, việc phiên thiết âm vận xưa dựa vào những quyển sách (không đủ bộ) như Qie-Yun cũng có thể dựa vào một số điểm cơ bản không được chuẩn. Nhất là huyết thống của tác giả những quyển văn vần đó. Bởi nếu chính tác giả mang Việt tộc, hoặc sinh sống ở khu vực có đa số là Việt tộc, âm vận của tác giả vẫn có thể không phải thứ âm vận do người Hoa cổ phát ra vào thời đó. Nói một cách khác, người Hoa hiện nay thật sự cũng hãy còn mù mờ trong phân bố của các tộc người, nhất là Hoa tộc thuần túy, vào thời cổ đại ở miền Hoa Bắc (phía bắc sông Dương Tử).

Bây giờ chúng ta hãy 'thử xem lại' 12 con Giáp.
Văn hoá xoay quanh '12 Con Giáp' được thể hiện tại hầu hết các quốc gia vùng Đông Á và Đông Nam Á, trừ một vài nước mang nặng ảnh hưởng Hồi giáo như In-đô-nê-xia, và Mã Lai Á, dù rằng cộng đồng người Hoa tại những nước này vẫn còn hâm mộ việc ăn Tết và xem tuổi coi ngày theo 'Tử Vi 12 Con Giáp', gọi 'Sinh Tiêu' (生肖 [shengxiao]).

Bảng đối chiếu sau sẽ tóm tắt 12 con Giáp, tiếng Tàu gọi 12 địa-chi. Dấu [*] cho thấy tương đồng của phương ngữ Hoa Nam với tiếng Hán Việt.

Địa-chi Hán Hẹ Quảng Q.Thoại Ngô Mân Hải-Nam Cầm-Thú Hán
Tý 子 zii* chi zi* tsưi chi zi* Chuột 鼠
Sửu 丑 chiu chau cho ts hơw thiu siu* Trâu (Bò) 牛
Dần 寅 Jin* Yan* yin iing in yan* Cọp 虎
Mão 卯 mau* maau* mao* mo myo mao* Thỏ (Mèo) 兔
Thìn 晨 shin* san chen ---- sin dièn Rồng 龍
Tỵ 巳 tsih* ji si ---- chi ki Rắn 蛇
Ngọ 午 ng ng wu ngu* ngou ngo* Ngựa 馬
Mùi 未 Mui* Mei* wei vi* bi+ muat Cừu (Dê) 羊
Thân 申 shin san* shen* seng sin diẹn Khỉ 猴
Dậu 酉 ju/riu Yau* you ---- yu jiu Gà 雞
Tuất 戌 sut* seut* xu ---- sut tuat* Chó 狗
Hợi 亥 hoi* hoi* hai ---- hai hai Heo 豬


Sự thật, 12 địa-chi có lẽ xuất phát đầu tiên từ 12 tháng tính theo âm-lịch, tức theo chuyển động mặt trăng. Người xưa, sau vài ngàn năm sinh sống trên trái đất bắt đầu phát hiện cứ thấy 12 lần trăng tròn thì thấy khí hậu trở lại giống như cái 'chu kỳ' cũ: Ấm áp (xuân), nắng chói (hạ), mát mẻ / lá rơi (thu), và băng giá/lạnh lẽo (đông).
Từ đó sinh ra 12 tháng. Thường gọi chung với ‘trăng’ bằng một từ duy nhất. Tức ‘tháng’ mang nghĩa nguyên thủy ‘một chu kỳ Trăng’.
Thí dụ: Tiếng ‘Hán’ (Hẹ) gọi cả ‘trăng’ lẫn ‘tháng’ bằng [ngiet], quốcngữ đã ký âm thành: [nguyệt], có lẽ sau khi phối hợp âm Hẹ [ngiet] [1], với lối phát âm Mân [goeh] và Hải-Nam, [guet].

Rất nhiều ngôn ngữ do đó dùng chung một từ cho 'trăng' và 'tháng'.
Tiếng Persia / Ba-Tư (Iran) gọi cả 'trăng' lẫn 'tháng' bằng [măh].
Tiếng Tàu quanthoại có [yue],
Hán-Việt đọc [nguyệt] theo kiểu Hẹ, mang nghĩa 'tháng' và 'trăng'.
Tiếng Khmer cũng vậy: [khai] mang hai nghĩa 'tháng' và 'trăng'.
Tiếng Myanmar: [lá] => tháng & trăng.
Người dân tộc A-Kha gọi ‘tháng’ bằng [bala] và ‘trăng’ [pala].
Người P’u-Noi, tháng= trăng= [ula].
Tiếng Mã-Lai: [bulan] => tháng & trăng. [Bulan] sinh ra [blang] => [blăng] => tiến đến [trăng] do tác động của kí âm quốc ngữ. Nhưng [bulan] không tiến thẳng đến [tháng] trong Việt ngữ.

'Tháng' lại có vẻ phối hợp [blăng] hay [tlăng] với một từ tiếng Thái chỉ 'mặt trăng' và 'tháng': [deuang]. [Duang] tiếng Thái mang hai nghĩa: {tháng} và {trăng}. Đối với {trăng} rất thường tiếng Thái kèm theo [Jan]: [Duang Jan]. [Jan] sinh ra [giăng] tại một số khu vực Bắc Bộ. [Duang] sinh ra 'tháng' cũng như một lô từ chỉ 'tháng' của các nhóm người dân tộc. Người Pu-Noi gọi 'tháng Giêng' bằng [Dưon Chieng]. Người Mường: 'khảng Chiêng' (tháng Giêng {1}), 'khảng Môch' (tháng 11), 'khảng khảu' (tháng 6), 'khảng chap' (tháng chạp). Người Tày-Nùng [6] yùng [Bươn chiêng] cho 'tháng Giêng', [Bươn nhỉ]: tháng hai, [Bươn êt]: tháng một (mười một), [Bươn lap]: tháng Chạp.
Theo thiển ý, ‘tháng’ có vẻ khác với ‘trăng’ do ở kí âm quốcngữ cố tổng hợp 2 âm [duang] và [tlăng]:
Tháng = {duang} + {tlăng}.
Hoặc đã dựa vào lối phát âm [thang] của người Mân cho từ 朣, mang nghĩa 'trăng mọc'.

Theo Jeanne Cuisinier [7], dẫn từ các công trình của Coedès và Maspéro, người Mường cũng có chu kì 12 năm tương ứng với 12 con Giáp. Nhưng có vẻ như rằng 10 thiên-can (Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý) đến với các mường bản rất trễ. Rất giống với thư tịch tối cổ của Tàu, ít thấy miêu tả đến chu kỳ 60 năm, phối hợp 10 thiêncan với 12 địachi.

Theo [5] cho đến đời Đông Hán bên Tàu (tương đương với Hai Bà Trưng xứ Việt cổ), vẫn chưa thấy xuất hiện 10 thiên-can. Tuy vậy người Mường vẫn có thói quen chia 1 tháng ra làm 3 tuần, mỗi tuần 10 ngày. Đặc biệt một ngày có 12 giờ, mỗi giờ xưa như vậy tương ứng với 2 giờ ngày nay. Giờ Tý đầu tiên bắt đầu từ 11giờ đêm và chấm dứt lúc 1 giờ sáng. Tiếp đó giờ Sửu: 1giờ-3giờ sáng, v.v. Tuy nhiên, theo Cuisinier, 12 con Giáp du nhập sang Thái Lan và các mường bản, từ người Khmer.

Người Yi [4] [8], với dân số ngày nay khoảng 8 triệu tập trung tại Tứ Xuyên, Quí Châu và đông nhất tại Vân Nam - giáp giới với Việt Nam, ngày trước dùng lịch 10 tháng. Mỗi tháng 36 ngày, tức một năm 360 ngày. Năm (5) ngày còn lại của năm họ dùng để ăn...Tết, không tính vào năm [5]. Có lẽ họ tính lịch theo chuyển vận hằng ngày của mặt Trời. Một năm gồm {360 + 5} lần vận chuyển 'mọc' và 'lặn' của mặt trời. Năm 10 tháng của người Yi, được chia thành 5 quí. Một (1) quí = 2 tháng, tức 72 ngày. Mỗi tháng có 3 tiết khí [4]. Mỗi tiết khí có 12 ngày. Tức vào thuở cổ thời, có hai con số đáng nhớ trong khung đối chiếu ngày, tháng, và năm. Đó là số 12 và số 10. Ngoài ra, còn có thêm một con số đáng nhớ nữa. Con số 5. Số 5 tiêu biểu cho thuyết 'âm dương' Ngũ Hành, rất thông thường liên hệ mật thiết đến 12 địa chi và 10 thiên-can (Giáp - Ất - Bính - Đinh - Mậu - Kỷ - Canh - Tân - Nhâm - Quý).

Điểm đáng ghi nhớ: Vân Nam, tức Đại Lý năm xưa, là một ngã 3 rất quan trọng nối liền Trung quốc, Việt Nam với văn minh phương Tây vào lúc cổ thời. Nhiều sách vở mới của Trung Quốc [5] [8] cho biết Vân Nam chính là cái nôi văn hoá Đông Nam Á, do ở vị trí ngã ba đường, tiếp xúc với ba nền văn minh Đông, Tây và Nam, cũng như phong cảnh thần tiên u linh, khí hậu mát mẻ. So với nhiều 'xứ' ở khu vực Bách Việt - Hoa Nam, nền độc lập 'địa phương' của khu Vân Nam (Điền Việt / Nam Chiếu / Đại Lý), cũng được giữ khá vững, cho đến khi nhà Nguyên của tộc Mông Cổ quyết định dứt điểm xứ này vào giữa thế kỷ 13.

Bây giờ xin phép trở lại vấn đề then chốt của bài này: 'Thử mượn 12 con Giáp để tiếp tục minh giải câu chuyện 'hợp chủng' của tộc người Việt Nam'. Đặc biệt chúng ta sẽ tìm cách lý giải tại sao nhiều tộc người tại Đông Dương và khu vực Lưỡng Quảng - Vân Nam lại có thói quen gọi 'tháng 1' bằng 'tháng Giêng' hay những âm vận tương tự. Với chút ít trực giác, chúng ta thấy nếu tìm được lý giải cho 'tháng Giêng / tháng Chạp' chúng ta có thể hiểu rõ hơn một chút những điểm hết sức mù mờ từ trước đến giờ trong lòng cổ sử dân tộc, cũng như của các khối người láng giềng.

(Còn tiếp)

Sửa bởi Vị Tế: 11/09/2011 - 13:20


#6 Vị Tế

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 627 Bài viết:
  • 3049 thanks

Gửi vào 11/09/2011 - 13:27

Tuy nhiên trước hết xin ghi lại một số nhận xét thu thập được từ sách vở và internet.

Hệ thống tử vi Đông và Tây tính theo lịch 12 tháng hoặc chu kỳ 12 năm (địa chi) xoay quanh với 10 thiên-can là một hệ thống hết sức tinh vi. Những tộc người nào phát triển chúng đến nơi đến chốn bắt buộc, theo thiển ý, phải hội đủ các điều kiện sau đây:

a. Phải có sẵn một hệ thống số đếm và chữ viết. Bởi quá phức tạp để phát triển bằng lối truyền miệng trong dân gian;

b. Phải kinh qua hằng trăm hằng ngàn năm để thu thập dữ kiện, tạo nên các định luật tổng hợp;

c. Phải thu thập được rất nhiều chứng liệu lịch sử qua giao tác giữa người với người, dân tộc này với dân tộc kia. Cá tính và cuộc đời của rất nhiều cá nhân khác nhau;

d. Có sự đóng góp trong cốt lõi của các nhà khoa học hay những ‘tu sĩ’ cỡ bự, dù dưới dạng đồng bóng, phù thủy hay tiên tri thời tiết, chứ lê dân bình thường không đủ sức để phân tích / tổng hợp hằng ngàn hằng trăm ngàn dữ kiện khác nhau để hệ thống hoá phương cách 'sinh tiêu' tức xem tử vi bằng 12 con Giáp (Tây và Đông) đối chiếu với ngày năm sinh và cuốn lịch;

và quantrọng nhất:
d. vào cổ thời các dân tộc này phải rất quenthuộc với 'con Ngựa' thuộc địachi thứ 7 của 12 'con Giáp'.
Xin xem chi tiết phía sau.

Trên góc độ thuần lý, chúng ta có thể thấy những tộc người đã thật sự góp công phát triển hệ thống ‘tử vi 12 con Giáp’ đến nơi đến chốn, rất khó hiện thực được nếu địa bàn cư trú của họ nằm ở những nơi xảy ra chiến tranh triền miên, hay họ đã sinh sống bằng lối 'ju mụk' nay đây mai đó. Chúng tôi thật sự cố ý dùng động từ ‘phát triển’ thôi, chứ không dám dùng ‘phát minh’, bởi thật ra hệ thống tử vi biểu tượng bằng sự vật hay sinh vật, đã hiện diện ngay từ thời xa xưa, từ Trung đông sang Âu châu, kéo đến Á châu.

Theo nhà nghiên cứu người Hoa, Thường Tuấn [5], cổ Ai Cập, cổ Babylon, Ấn Độ, Hy Lạp và Trung Quốc đã có tập tục ghi lịch bằng 12 loài vật từ rất sớm. Tại cổ Ai Cập và Hy Lạp, 12 con Giáp gồm có: trâu đực, dê, sư tử, lừa, cua, rắn, chó, chuột (hoặc mèo), cá sấu, hồng hạc, vượn, chim ưng. Cổ Ấn Độ có 12 con giáp rất giống với Trung quốc: chuột, trâu, sư tử, thỏ, rồng, rắn độc, ngựa, dê, khỉ Ma-các, gà, chó, heo. Để ý, con sư tử trở thành 'hổ' (cọp) khi đến Trung Hoa, hoặc ngược lại, bởi bên Tàu, sư tử rất hiếm. Mười-hai con giáp của xứ Babylon ở thời cổ đại là mèo, chó, rắn, bọ-hung, lừa, sư-tử, dê đực, trâu đực, chim cắt, khỉ, hồng hạc, và cá sấu. Trong 12 con giáp Nhật Bản hiện tại, con lợn biến thành lợn rừng giống đực, đồng thời lịch của họ cũng đã biến đổi từ âm-lịch sang dương-lịch. Trong khi, tại nước Hung-ga-ri, do ở ảnh hưởng chiếm đóng ngày xưa (thế kỷ 4-5) của dân 'Hun' (lãnh tụ Hốt Tất Liệt - Attila), 12 con giáp xứ này giống y như của Trung Hoa. 12 con giáp kiểu Tàu cũng được áp dụng trong khối dân Turkestan, và dân xứ Bul-ga-ri ở Đông Âu.

Chúng ta cũng có thể thấy trong khi tử vi Tây Phương quây quần với 12 giáp: Bảo Bình, Song Ngư, Miên Dương, Kim Ngưu, Song Nam, Bắc Giải, Hải Sư, Xử Nữ, Thiên Xứng, Hổ Cáp, Nhân Mã, và Nam Dương, tương ứng với khoảng thời gian trung bình 30 ngày, bắt đầu từ 'khoảng' ngày 20 mỗi tháng tây, tử vi Đông phương vượt luôn qua chu kì 12 tháng, lên đến 12 năm và 10 phân loại (thiêncan), phối hợp với nhau thành 1 chu kỳ chung là 60 năm, tương ứng trên dưới một đời người.

Sở dĩ, Đông phương tiến mạnh đến một chu kì con giáp 12 năm, chứ không phải 12 tháng có lẽ bắt nguồn ở chỗ các nhà thiên văn Đông phương, đã dựa 'khoa tử vi' theo sát với vận chuyển của các tinh tú, đặc biệt 'nhị thập bát tú', tức 28 chòm sao trên trời. Những nhà thiênvăn thuộc các tộc người 'phát triển' tử vi 12 'năm-giáp', đã quan sát chuyển động các hành tinh và biết được rằng Tuế tinh, tức sao Mộc, đi được một vòng quanh bầu trời trong khoảng thời gian đúng 12 năm [5].

Tuy nhiên, có vẻ chưa có luận cứ 'chắc nịch' tương tự về chu kì thiên-can gồm 10 thứ: Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý, ngoài việc cho rằng số 10 cho 10 năm, có lẽ xuất xứ từ lịch cổ 10 tháng (mỗi tháng 36 ngày) của người Yi ở xứ Điền Việt (Nam Chiếu/Đại Lý) xa xưa, hoặc, theo thiển ý, thuyết Âm-Dương Ngũ Hành, bao gồm 5 hành, nhân (x) với nhị nguyên (2) 'Âm' và 'Dương' (Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ (5) nhân với Âm Dương (2) cho ra 10).

Xin được phép nhấn mạnh, tất cả các thư tịch cổ cũng như sách vở hiện đại của người Hoa, không bao giờ ghi chép tên của 12 địa-chi là tên của 12 con cầm-thú tương ứng.

Thí dụ: {Mùi} chỉ là địa chi thứ 8, chứ không phải {Mùi} mang nghĩa {con Dê}. Trong chữ Hán ghi ở bảng phía trên, ta để ý, một lần nữa, phát âm Việt giống phát âm Hẹ nhất: [Mui]. {Mùi} viết theo Hán tự: 未 có nghĩa 'mùi vị' được thể hiện khá đầy đủ trong các phương ngữ Hoa Nam. [Mùi] tương ứng với quanthoại [Wei] chính là [vị] theo tiếng Việt. Phát âm y hệt [vi] trong tiếng Ngô-Việt (Chiết Giang / Thượng Hải). [Vi] lại được phát âm [bi] trong phương ngữ Mân (tức PhúcKiến / TriềuChâu), khá giống [byị] phát âm Nambộ, kí âm quốc tế (lột [y]) thành [bi].

Kiểm chứng với bất cứ người Hoa nào chúng ta sẽ thấy, tên 12 địachi không mang nghĩa 12 con thú hoặc cầm đó. Cả hai quyển từ điển về tiếng Hán và Nôm, của Huình Tịnh Của và Đào Duy Anh, đều cho kết quả tương tự. Không bao giờ có sự việc: Tý = con Chuột, Sửu = con Trâu, Dần = con Hổ, v.v. Tuy nhiên, ở phía dưới, chúng tôi sẽ mạo muội thử tìm tòi, và kiểm chứng, với tính cách sơ lược và tiêu biểu, mối dây liên hệ trong ngôn ngữ giữa tên địachi với tên con cầm-thú tương ứng.

Bây giờ xin xem lại 10 thiên can theo phát âm giữa các phương ngữ, như bảng sau.

Thiên-Can Hán P'u-Noi Dao Hẹ Quảng Q.thoại Ngô Hai-Nam Mân
Giáp 甲 Cáp Chạp gap gaap jia tsia? ga kah
Ất 乙 Hăp Dật jat/ jet yut yi ìI? yat it
Bính 丙 Hoài Pềnh biang bing bing ping bing peng
Đinh 丁 Mừng Tềnh den ding ding ting ding teng
Mậu 戊 Púc Mù meu mou wu ----- mao bou
Kỷ 己 Căt Kỳ gi gei ji i ki ki
Canh 庚 Côt Cành gang gang geng keng keng keN
Tân 辛 Nuông Phiền sin san xin ----- tien sin
Nhâm 壬 Táu Nhiêm nhim yam ren ----- jam jim
Quý 癸 Ca Cuồi gui/ kui gwai gui ----- hui kui

12 địa chi, phát âm theo các thứ tiếng Mường, Thái, Cam-Bốt, và các thứ tiếng người dântộc P'u-Noi và A-Kha được thu thập từ tài liệu của Cuisinier [7] và Roux [10], hoặc internet [13], bổ túc với bảng đối chiếu 12 địachi ở phía trên, được ghi lại như sau. (Tài liệu về tiếng Dao được trích từ một quyển sách mới xuất bản về 'người Dao' [11]).


Địa-chi Hán Mường khmer Thái P'unoi Dao Cầm-Thú Thú (Mường)
Tý 子 ti jut chuat chò chây Chuột tsuôt
Sửu 丑 kheu chlauv châlu páu tsáo Trâu (Bò) tlu / klu
Dần 寅 rân khal khăn nhi diền Cọp khal/khan
Mão 卯 mẻo thoss thóh mau mảo Thỏ (Mèo) tho
Thìn 晨 sin raung mărong si chiàn Rồng ròng
Tỵ 巳 tê msagn maseng so chẩy Rắn ran / zan
Ngọ 午 ngọ momi mamia sănga hử Ngựa ngưa
Mùi 未 mùi momê mamaê môt mảy Cừu (Dê) dê /tê /bê
Thân 申 thân vok wó?k san siên Khỉ vok
Dậu 酉 râu roká raka hau diểu Gà ka
Tuất 戌 tất tso tso sêt phút Chó tsó
Hợi 亥 hơi kau kun khơ hơi Heo kwi / kul/ kun

Quan sát 3 bảng đối chiếu 12 địachi và 10 thiêncan, ta có thể đi đến các nhận xét sau.

(còn tiếp)

Sửa bởi Vị Tế: 11/09/2011 - 13:29


#7 Vị Tế

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 627 Bài viết:
  • 3049 thanks

Gửi vào 11/09/2011 - 13:34

Tất cả các tên địachi và thiêncan ở tiếng Việt đều có âm tương ứng ngay trong các phương ngữ Hoa Nam.
Giống nhất là các thứ tiếng Hẹ, Quảng Đông và Hải Nam. Trong khi Hẹ cho ra 2 từ đặc sệt Việtnam: [Mui] (mùi) và [Hoi] (hợi), Hải Nam cho biết [Ngo] và [Tuat] phát âm y hệt như vậy trong tiếng Việt: [Ngọ] & [Tuất]. Tiếng Quảng Đông cho thấy người Yuệt ở đó có phát âm 12 địachi và 10 thiên-can giống tiếng Việt nhiều nhất, cũng như ảnh hưởng phát âm [Y] cho chữ [D] theo kiểu Nam bộ: [Yan] => [Dần] và [Yâu] => [Dậu]. Xin nhắc lại, trong các phương ngữ BáchViệt cổ, chỉ có phân nửa khối người nói tiếng Hẹ có phátâm [Y] quanthoại thành ra [J]: Duyên-phận (Yuan fen) => [Jen-fen]. Tộc người khác cũng có chút khuynh hướng đổi biến âm [Y] quanthoại chính là người Mân (Phúc Kiến) và Hải Nam. Thông thường tiếng Mân sẽ lột âm [yờ] của [Y] để biến thành [i] như tiếng Việt: [Yao] quanthoại => [iau] Mân => [yêu= iêu] Việt. [Yang] quanthoại (= dê / cừu) => [yeung] quảngđông (= dương) => [jong] Hẹ => [iong] Mân. Trong khi tiếng Hải-Nam chỉ biến một số âm [Y]-quanthoại ra âm [J] mà thôi. Thông thường vẫn giữ âm [Y]: [Yuan fen] => [Juan-fen]. Nhưng [Yao] (dược=thuốc) vẫn giữ [Y]: [Yuk].
Có một điểm trùng hợp: {Mão}, địa chi thứ 4, có phát âm rất giống từ tiếng Việt dùng để chỉ con Mèo. Tiếng Hán Việt thật ra là [miêu] hay [mao], tương ứng với quanthoại [miau] hay [mao], quảngđông [maau] và Hẹ, hai thứ [miau = miêu] và [meu = meo]: Nam xực như hổ nữ thực như miêu. Thật ra địachi {Mão} viết Hán tự 卯 rất khác với Miêu = Mèo: 貓 . Địachi {Mão} mang tên một ngôi sao của 'nhị thập bát tú' ở trên trời. Địachi {Mão} thông thường tương ứng với 'con Thỏ'. Đến xứ Việt đổi thành con Mèo. Rất giống hiện tượng 'sư tử' ở Ấn-Độ, nhưng 'hổ' (cọp) tại Đông Á và Đông-Nam-Á.

Theo [5], các loại cầm thú liên kết với 12 địachi trong tử vi Đôngphương mang xuất xứ từ những vật tổ totem của thời bộ lạc xa xưa. Nhiều bộ lạc khác nhau, tuy cùng một tộc người, vẫn có thể có vật tổ khác nhau. Đó là một giải thích cho việc biến đổi giữa con Thỏ với con Mèo, trong địachi thứ 4 {Mão}. Đặc biệt con Hổ rất phổ biến là một totem chung cho rất nhiều tộc người miền rừng núi Á Châu: Sở Hùng, Xuyên (Thục), Điền Việt, v.v. Con cừu cũng khá phổ biến, và totem của siêu tộc Khương. Để ý từ Khương [qiang] 羌 mang cách viết y hệt hàm ý 'người chăn cừu (hay dê): [Qiang] 羌 giống như [yang] (dương) mang nghĩa 'cừu': 羊 viết chung với [ren] (nhân), tức 'người': 人 . Cũng có bộ lạc như Thái Hạo thờ 'con Rồng', Thiếu Hạo thờ 'con Chim' (tiến đến 'con Gà', tức địachi 'Dậu). Các thần thánh cổ thời như Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông đều có thân rắn: Rắn cũng là một totem khá phổ biến. Con Hổ với con Gà từ ngàn xưa nổi tiếng trong việc 'trấn tà, trị iêu ma'. Khai quật tại Hemudu thuộc tỉnh Chiết Giang (tức xứ Việt của Câu Tiễn hồi xưa) tìm thấy nhiều đồ sứ có hình con Heo, chứng tỏ con Heo có thể là một totem của nhiều bộ tộc ở đó. Ngành khảo cổ cũng cho biết trong số những động vật hoá đá tìm thấy trong nhiều hang núi, con Nai và con Thỏ xuất hiện nhiều nhất, với 'tuổi đời' cũng đến 50000 năm. Nhiều vụ khai quật gần đây tại Tứ Xuyên (địa bàn xưa của rất nhiều tộc 'man-di', như Khương, Thái cổ, ...) [14] tìm thấy một di vật con rắn đầu chó uốn mình quanh thân cây dài 4 thước tây. Trong khi mô-típ hình 3 con Thỏ đuổi nhau thành vòng tròn, với tai chạm vào đầu, tìm được ở miền Tây nước Tàu (khu Tứ Xuyên) cũng rất giống với 3 con thỏ rượt đuổi tương tự tại các thánh đường thời Trung Cổ ở Anh Quốc. 'Chó' cũng là một loại totem khá phổ biến, ở các sắc dân: Mông Cổ, Yi (một nhánh của tộc Khương), Choang (Quảng Tây), Tạng, Miêu, Bố-Y, v.v. Ngoài ra, người ta cũng để ý đến liên hệ giữa cầm thú với địa chi qua tiến trình thuần thục của thú vật, làm bạn hoặc giúp việc với loài người, hay nuôi trong nhà: Chó, heo, bò, trâu, gà, dê, cừu, ngựa, v.v. trước đây khoảng 5000 năm.

Tên tháng dùng tên địa chi có lẽ xuất hiện trước tiên, có thể do ở chỗ tên tháng được đặt nên trước khi số đếm được phổ biến trong dân gian. Cũng như vậy, mới liên kết được với thiên văn, bói toán và không lệ thuộc hoàn toàn vào số đếm. Tây phương cũng trải qua kinh nghiệm tương tự. Tên tháng thường nối kết với tên của thánh thần, vua chúa La Mã. Thí dụ: Tháng Ba March, tên gọi thần chiến tranh Mars - ngày xửa ngày xưa chính là tháng số 1. Tháng Bảy July, sau tên hoàng đế Julius Caesar. Tháng tám August đặt theo tên hoàng đế LaMã Augustus. Tháng Chín September đăt theo số 7: septem, bởi ngày trước chính ra tháng thứ 7. Tháng Mười October, thật ra trước là tháng 8. Số 8: octo. Xin nhắc lại: bát độ trong âm nhạc: octave. Tử vi đôngphương khi xưa cũng quen gọi tháng theo sát với địachi: tháng tý, tháng sửu, tháng dần, tháng mão, tháng thìn, v.v.

Qua 3 bảng đối chiếu trên, để ý phương ngữ Ngô Việt có nhiều khoảng chừa trống nhất. Không có từ xử dụng hằng ngày tươngứng với Hán tự đối chiếu trong cột thứ hai. Hoặc họ là tộc người ít liên hệ đến việc ‘phát triển’ hay thích thú xử dụng 12 con giáp. Hoặc rất có thể người Ngô-Việt gọi thẳng những địachi này bằng tên con Giáp. Tình trạng này cũng thể hiện qua những thứ tiếng khác như: Mường, Thái, Khmer, P'unoi. Chúng ta lại có thể giải thích điểm gút mắt này bằng 'lí thiết' ở đây, cho rằng tiếng Việt, nhất là Hán Việt, thật sự do tiền nhân các tộc người thuộc khối Bai-Yue như: Hẹ, Quảng Đông, Mân, Hải-Nam, Ngô-Việt, mang đến xứ Việt-cổ, ngay từ thời xa xưa. Tộc người Việt Nam chính là hỗn hợp của các tộc người Bách Việt di tản xuống phối hợp với các dân bản địa chủ lực: Môn-Khmer và Thái cổ. Nhiều từ chỉ 'con Giáp' tiếng Thái, Khmer cũng rất giống tiếng Việt: chuat => Chuột; Thoh => Thỏ. Đặc biệt để ý đến: Trâu và Khỉ. 'Trâu' trong tiếng Việt do tôn-sư quốc-ngữ kí âm ra. Có thể dựa theo tiếng Chăm-pa [trêy].

Nhiều giả thuyết ngày trước dựa trên các thư tịch hồi quốc-ngữ mới ra đời cho rằng: ‘Trâu’ xuất thân từ [Tlu] biến thể từ [Klu] hay [Blu], y như: Chúa Blời => Chúa Tlời => Chúa Trời. Để ý tiếng ‘nước’ nào cũng vậy, thường có ít nhất hai từ để chỉ cùng một sự vật. Do ở đóng góp của các bộ tộc khác nhau, sống gần hoặc chung tại một địa bàn. Tiếng Chăm-pa (tộc chủ lực: Môn-Khmer) có ít lắm hai từ chỉ con Trâu, do đóng góp vài bộ tộc khác nhau: [trêy] và [kabau] (hay [kapau]). [Trây] rất gần với [Trâu]. [Bờlu] có âm sau [lu] rất giống tiếng Khmer và Thái: [Chalu]. [Kabau] lại có vẻ (chỉ ‘có vẻ’ thôi) hợp thức giống kiểu tiếng Tàu: [Thủy Ngưu] tức [Shui Niu], 'Ngưu' mang nghĩa {Bò}, 'Thủy' = nước. Tiếng Champa cũng vậy: 'Bau'= bò (giống tiếng P'unoi= pau); [Ka] một tiếp vĩ ngữ hoặc tiếp đầu ngữ của vài từ Chăm chỉ ‘nước’ như: [nưKar] hay [Karam]. Trâu, tức Bò sống dưới nước: Shui Niu / Ka-bau. [Shui niu] tức ‘bò nước’ hay ‘trâu’ có thể dẫn ta đến một giả thiết kiểu bỏ túi: ‘Phải chăng con giáp thứ 2: {Sửu}, đại diện bằng ‘con Trâu’, chính là lối phát âm biến từ nhị âm {Shui Niu} sang đơn âm [Shui] đọc nhanh thành [Sửu]’? Một giả thiết khác, mới nhất và có lẽ hữu lí nhất, dựa trên cách phát âm của tiếng Hẹ, so với quan-thoại. Hễ quanthoại đọc [Zou]1, tức ‘Trâu’ (Trâu: một nước gần Lỗ ở Sơn-Đông. Trâu chính quê hương Mạnh Tử), thì Hẹ phát âm như [zeu], tức [Sửu]. Còn 'Khỉ' tiếng Khmer đọc [vok], Thái [wo?k] và Mường [vok] thì sao? Ta nhớ tiếng Việt thỉnh thoảng ưa dùng từ kép: 'khỉ dộc', và 'dộc' có bà con rất gần với [vok] tiếng Khmer hiện tại. Truy cứu tiếng Môn-Khmer [15], ta thấy có đến cả chục từ dùng để chỉ 'khỉ'. Nhưng một số lớn mang âm cuối [wak]. Thí dụ: 'Khỉ' = [rawak]. Có nơi: [riwak] hay [reyak]. [Riwak] hay [wak] sinh ra [vok] Mường và Khmer, hoặc [wo?k] tiếng Thái hiện nay, và [reYak] => [dộc] trong tiếng Việt. Cũng có bộ tộc dùng [uKi] hay [duk]. [uKi] và [duk] có thể mang cùng gốc với ‘Khỉ đột’.

Thử quan sát con Dê hay con Cừu. Cừu hoặc Dê chính là một yếu điểm của tiếng Tàu, bởi Hoa ngữ dùng chung một từ 'Yang' (Dương) 羊 để chỉ cả hai, Cừu và Dê. Tuy thỉnh thoảng người Hoa phân biệt 山羊 'sơn dương' [shan yang] (sơn= núi) để chỉ con Dê, và 绵羊 'miên dương' [mian yang] (miên= tơ sợi= mien Hakka) chỉ con Cừu, rất thường họ ưa dùng chỉ một từ 羊 [yang] để chỉ cả Dê lẫn Cừu. Vào bất cứ một tiệm ăn Tàu nào, nếu nhìn thực đơn tiếng Anh thấy món 'Lamb Hotpot' hay 'Lamb steam-boat' (tiếng Tàu: [shuang yang rou]), ta phải hiểu đó chính là món 'lẩu Dê' chứ không phải 'lẩu cừu non (lamb)' gì hết. So sánh 'cừu' và 'dê' ở phương diện môi trường sinh sống, cũng giống như 'Thỏ' với 'Mèo'. Cừu và Thỏ thường thích hợp với khí hậu miền ôn đới hơn là Dê và Mèo. Đó là lí-jo chính tử vi con Giáp tại Việt Nam lại dùng 'Dê' và 'Mèo' thay cho 'Cừu' và 'Thỏ', tuần tự, của tử vi Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật, Khmer, và Thái-Lan. Một điểm khác, có liên hệ về ngôn ngữ giữa 'Mùi' với 'Dê' hoặc 'Cừu' hay chăng? Cũng có thể: Có. Hai dẫn chứng tuy không đủ mạnh, nhưng vẫn là dẫn chứng cho những công việc tiếp nối về sau. Thứ nhất, theo bảng trên, địachi 'Mùi' ở tiếng Thái là [mamaê] và Khmer [momê]. Nhưng trong tiếng Ấn Độ, con Cừu được gọi [Memnaa] và tiếng Samoa, thuộc Đa-đảo, là [Mamoe]. Cả hai có phát âm bắt đầu với [M] như [Mùi] nhưng mang nghĩa 'con Cừu'. Thứ hai, tiếng kêu 'be he' của cả cừu lẫn dê trong tiếng Tàu thường bắt đầu bằng âm [M]: Hakka (Hẹ): [moi] hay [mai]; Quảng đông: [me] hay [mai], và quanthoại, 咩 [mie] hoặc [mai]. Tất cả đều giống âm [Mùi].

Con Heo tức con Lợn thì sao? Rất nhiều người Việt thường nhầm lẫn 'Bắc-Nam' giữa 'ô' và 'dù', 'hoa' và 'bông', 'heo' và 'lợn', v.v. Loạt bài này đã giải toả rất nhiều ngộ nhận như vậy. Xin nhắc lại, [ô] chỉ có nghĩa [mưa] trong phương ngữ Phúc kiến (Mân), giống y như [jù] hay [yù] đọc theo kiểu Hakka, hay 'HánViệt' là [vũ] hay [yũ], mang nghĩa 'mưa'. Thật ra, tiếng Tàu dùng để chỉ 'cây Dù' phải dùng nguyên hai chữ [Yu San] (quan thoại) hoặc [Oh San] (phúc kiến). [San] mới thật sự mang nghĩa 'vật che' viết tượng hình giống như cái Ô hay 'cây Dù': 伞. Quốcngữ học thói đơn-âm rất nồng nhiệt nên tự ý gạt bỏ từ then chốt [san] để giữ lại [ô] và [dù], thuần mang nghĩa 'cơn mưa' mà thôi. Lí luận này đã được dùng để lí giải địa chi [Sửu] có thể là lối đơn-âm-hoá một từ kép [Shui Niu] 'Thủy-Ngưu' (chỉ giữ [Shui] => Sửu) dùng để chỉ con Trâu. 'Hoa' và 'Bông' đúng hơn một chút. 'Hoa' xuất xứ từ 花 [hua], đọc theo quảng đông hoặc Hẹ là [waa] hay [faa]. Ngô-Việt: [ho] giống một hai địa phương tại Việt Nam và Phúc Kiến, y hệt đánh vần: [hoa] [17]. Nhưng [bông] lại cùng gốc với tiếng Môn-Khmer, Chămpa, và Mã-Lai: [bunga], và, rất đặc biệt, cũng cùng gốc với một từ Hán rất cổ ít khi dùng: 菶 [beng] hay [peng]. Hakka và Quảngđông đọc [bung] y hệt như tiếng Môn-Khmer bị đơn-âm-hóa, và tiếng Hán-Hàn có phát âm y hệt: [pong]. Heo và Lợn cũng y như vậy. Người Nam-bộ rất ít khi dùng 'Lợn' để chỉ 'Heo' nhưng họ vẫn giữ một thói quen xa xưa gọi một thứ bánh ngọt rất phổ biến: 'bánh Da Lợn'. 'Lợn' thật ra mang cùng gốc với tiếng người bản địa: Môn Khmer. Có chừng cả chục từ khác nhau của các bộ lạc xưa, nhưng có nhiều từ mang phát âm cùng gốc với 'Lợn': [ja-lo] (Semelai), [kaLek] (Danaw), [Le?] (Palaung) (? tắc âm thanh môn, giống âm giữa [uh] và [ah] khi nói: 'uh-ah'), và [Lik] (proto-Waic). Nhưng 'Hợi' lại mang chút ít gốc Hoa-Nam. Tiếng Hoa chính cống là 'Trư' tức 猪 [zhu]. Tiếng Hẹ chỉ 'Heo' là 豨 [Hi] mà người Quảngđông đọc [Hei] rất giống [Hợi] và [Heo]. Để ý tiếng Hẹ và Quảng đọc địachi 'Hợi' y hệt như tiếng Việt: [Hoi]. Thêm một trườnghợp cho thấy tên địachi giống tên ... conthú? [18].

Con Ngựa có lẽ là con thú định đoạt nơi 12 con Giáp được phát triển đến độ hoàn chỉnh. Bởi 2 lí do. Thứ nhất, nó là một trong những con thú chủ lực và nòng cốt của 12 con Giáp. Con Trâu có thể thành Bò. Thỏ thành Mèo. Heo ra Voi [19], Lợn ra Lợn Rừng, Cừu thành Dê, Sư Tử ra Hổ, v.v. Nhưng Ngựa nói chung vẫn giữ nguyên con Ngựa, con chiến Mã. Thứ hai – con Ngựa xuất phát từ vùng bình nguyên phía Tây nước Tàu, địa bàn xưa của người Hung Nô / Mông Cổ, cách đây trên dưới 5000 năm. Ở miền Hoa Nam kéo xuống Đông Nam Á, con Ngựa đến khá muộn. Ở những vùng này, con ‘Woi’ phổ biến hơn [20]. ‘Ngựa hơn Voi’ trong chiến tranh, cũng là lý do chúng tôi đã viện dẫn cho thế giặc mạnh như vũ bão của Hoa tộc khi họ kéo quân tiến chiếm Hoa Nam vào thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên. Chúng tôi đã liu ý phải tốn đến 800 năm mới nhất thống được Hoa Bắc trong khi chiến trận thôn tính Hoa Nam chỉ kéo dài trên dưới 8 năm. Chung quy cũng tại con Ngựa. Theo nguyên lí của ngôn ngữ, nơi nào sự vật xuất hiện đầu tiên, từ vựng nguyên thủy của địa phương đó có khuynh hướng được giữ rất vững, dù 'chuyển ngữ' sang những ngôn ngữ khác. Thí dụ: cà-phê, xuất hiện đầu tiên ở Trung Đông, nơi đó người ta gọi [kaffa] để ghi nhớ nơi chốn tìm ra càphê đầu tiên. Con Ngựa cũng vậy. Rất nhiều tiếng tả Ngựa bằng âm đầu [M] như [momi] (Khmer), [mamia] (Thái) và nhất là [Mã] (Hoa), tất cả đều mang gốc với tiếng Mông-Cổ: [Morb]. Chỉ có tiếng Việt gọi con Mã bằng Ngựa và dính với địa-chi Ngọ, y như tiếng Hải Nam [Ngo] dùng cho địa chi thứ 7 [21]. Xem thật kỹ các thứ tiếng khác, ta sẽ thấy Ngựa (hay Ngọ) có thể mang cùng gốc với các thứ tiếng sau đây:
* Hindi (Ấn Độ): [ghoraa]; Bengali (Bengladesh): [ghora];
* Sinhalese (Tích Lan): [aswaya] và Hmong-Mien (Miêu-Dao): [nees]

Cũng rất có thể người Yi, người Bạch, người Thoãn, người Điền, người Ai-Lao ở Vân Nam, ít ra vào thuở cổ thời, có phát âm cho con Mã giống với kiểu Ấn-Việt: [Gho] => Ngọ => Ngựa. Vân Nam tức nước Điền xa xưa, rồi Nam Chiếu rồi Đại Lý của ngón Nhất Dương Chỉ, chính là nơi có nhiều truyền thuyết về một con ngựa đen tuyền thật tốt mang tên Nguyên Mã [8]. Địa điểm xuất phát của những con Thiên Lý mã này là hai ngọn núi gần nhau mang cả hai tên [Mã] và [Ngọ]: 'Mã Đầu' và 'Ngọ Trà Sơn'. Presto! Truyền tích về loại ngựa đặc biệt này ở xứ Vân Nam (nơi có vẻ hội đủ rất nhiều tiêu chí chúng tôi đề ra ở phía trên) đã được Kim Dung xử dụng trong truyện 'Lộc Đỉnh Ký' ở đoạn đua ngựa do Vi Tiểu Bảo và thái-tử kiêm thái-giám Ngô Ứng Hùng (con trai tướng Ngô Tam Quế) tổ chức.

(còn tiếp)

#8 Vị Tế

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 627 Bài viết:
  • 3049 thanks

Gửi vào 11/09/2011 - 13:37

Xin quay về với đề tài chính: Các vị tiền bối phát triển 'thuyết tử vi 12 con Giáp', xin tạm cho ở khu vực Vân Nam, có liên hệ huyết thống với tộc người Việt Nam sau này hay chăng? Thưa Có. Qua liên hệ giữa tộc Thái cổ hoặc Khương (Di & Bạch, v.v.) ở Vân Nam, với người Mường tại xứ An Nam.

Việt Nam Sử Lược [12] có ghi rằng vào cuối đời nhà Đường bên Tàu, dân Mường Mán bất mãn với chế độ đô hộ, lôi kéo đồng chủng thuộc xứ Nam Chiếu kéo quân qua can thiệp nội bộ An Nam. Ở xứ Nam Chiếu, người ta gọi 'vua' bằng 'Chiếu'. Có tất cả 6 xứ: Mông Huề, Việt Thác, Lãng Khung, Đằng Đạm, Thi Lãng, và Mông Xá. Chiếu Mông Xá ở cực Nam nên gọi Nam Chiếu. Khoảng những năm 713-742, chiếu Bi-La-Cóp lo đút lót quan tiết độ sứ ở Kiếm Nam là Vương Dục để thôn tính 6 chiếu lại làm 1. Từ đó Nam Chiếu rất mạnh, đem quân đánh Thổ Phồn (Tây Tạng). Năm Bính Dần (846) quân Nam Chiếu tràn sang cướp phá Giao-Châu bị quan kinh lược sứ Bùi Nguyên Dụ đánh đuổi đi.

Giặc giã với Nam Chiếu kéo dài đến năm Quí Mùi (863) khi Nam Chiếu chiếm được xứ An Nam và phong Đoàn Tù Thiên (họ hàng với Đoàn Dự) làm Tiết-độ-sứ Giao Châu. Sau 10 năm loạn lạc với Nam Chiếu, trung-tướng Cao Biền chiếm lại được xứ An Nam cho nhà Đường vào năm 856. Cao Biền chính là người đề xuất xây lại thành Đại La bên bờ sông Tô Lịch năm xưa.

Bây giờ xin dùng chuỗi trình lí thuyết ở đây để thử minh giải một vấn đề khá lí thú: Tại sao người Việt có thói quen gọi tháng Mười Một, tháng Mười Hai, và tháng Một, tuần tự, bằng tháng Một, tháng Chạp và tháng Giêng?

Với chút ít trực giác, chúng ta thấy nếu dùng lí thuyết Âu Lạc ở đây lý giải được cội nguồn của tên gọi 3 tháng cuối năm và đầu năm này, lí thuyết sẽ được tăng thêm sức thuyết phục, và người Việt sẽ có dịp tìm hiểu thêm những nét văn hoá cổ thời của tộc người Việt Nam. Tệ nhất, lí giải cũng sẽ tạo nên được một đường hướng mới để thử nhìn lại con đường mà tiền nhân đã đi qua. Cộng thêm vào chút ít trực giác đó với một mớ lô-gích căn bản, chúng ta có thể thấy 'bí ẩn' của cả ba tên gọi tháng 1, tháng Chạp và tháng Giêng, có thể được giải quyết cùng một lượt, bằng một phương pháp phân tích chung.

Trước hết, tháng Một. Hồi còn tuổi ấu thơ, chúng tôi nhớ có nghe đâu đó gọi tháng 11 bằng tháng Một. Xưa nay, vẫn tưởng đó chỉ là một lối gọi tắt: 'Mười Một' => 'Một'. Nhưng không phải. Xem lại phần tóm tắt phía trên, ta thấy ngài Mường gọi tháng 11 bằng [khảng Môch]. 'Môch' chính là 'Một'. Người Tày-Nùng cũng vậy [6]. Họ gọi tháng 11 bằng [Bươn Êt]. [Bươn] = tháng, và [Êt] = 1. Như vậy, người Việt xưa chắc chắn không thể nào nhầm lẫn hoặc gọi tắt 11 thành 1 được. Họ có ít lắm hai 'đồng minh' thuộc tộc Thái cổ, là Mường và Tày - Nùng [22], cùng gọi tháng Mười Một là tháng Một.
Xem lại 12 con Giáp chúng ta sẽ thấy các tên gọi tháng được phân bố như sau:
Tháng Tý= tháng 11; tháng Sửu= tháng 12; tháng Dần= tháng 1; tháng Mão= tháng 2; tháng Thìn= tháng 3; tháng Tỵ= tháng 4; tháng Ngọ= tháng 5; tháng Mùi= tháng 6; v.v.
Như vậy tháng 11 người xưa ưa gọi tháng Tý. Tý là địa chi đầu tiên hay địa chi số 1 của 12 địa chi. Từ đó tháng Tý, tháng số 1 của 12 địa chi, được gọi 'tháng 1'. Tháng Mười Một gọi theo địachi là tháng Tý, tức tháng Một.

Tháng Chạp? Chính là tháng thứ 2, theo kiểu 12 con giáp. Còn gọi tháng Sửu. 'Sửu' phát âm ra sao trong các phương ngữ bên Tàu? Tiếng Hẹ: [chiu], Quảngđông: [chau], Quanthoại: [chou], Ngô-Việt: [ts hơw], Mân: [thiu], Hải-Nam: [siu]. Phát âm Hải Nam giống 'Sửu' nhất, và Quảngđông & Quanthoại giống [chạp] nhất.
Xin để ý tóm tắt phía trên, cho biết người Tày Nùng gọi tháng Chạp bằng [Bươn Lap]. Tại sao [chap] lại biến thái với [lap]. Tra cứu vài quyển từ điển tiếng Tàu trên internet (thí dụ [16]) chúng tôi phát hiện ra 3 từ đặc sệt Hoa, thuần túy dùng để chỉ tháng 11, tháng 12, và tháng Giêng. Phía dưới sẽ bàn đến tháng Giêng. Tháng 11 người Tàu xưa gọi [Dong Yue] 冬月 (Đông Nguyệt), dần dà về sau tách Đông 冬 ra dùng để chỉ mùa Đông. Tháng 12 họ gọi [La Yue] 腊 月 'tháng Lạp' giống người Tày-Nùng thuộc tộc Thái-cổ. 'Lạp' 腊 nghĩa là gì? 'Lạp' tiếng Hẹ đọc y hệt [lap]. Quảng: [laap]. Quanthoại: [la]. Ngô: [la?]. Mân: [lah]. Mang nghĩa: (i) lễ tế vật săn bắn vào cuối năm; (ii) khoảng thời gian cuối năm âm lịch; (iii) làm muối, hoặc phơi khô thức ăn (Thí dụ: lạp xưởng 臘 腸 laap cheung, là thứ 'xúc xích' phơi khô của người Quảng Đông); (iv) giỗ cúng tháng Chạp. (Để ý từ điển của Huình Tịnh Của [23] không có ghi 'tháng Lạp' mà chỉ ghi 'tháng Chạp' với ý nghĩa của 'Lạp'. Luận cứ chúng tôi nhấn mạnh cội nguồn âm [CH] trong [Chạp], và đầu tiên phô trương ra chữ 'Lạp'.
Như vậy ta thấy rõ tháng 12 xưa được gọi tháng Sửu, tức [chou] quanthoại và [chau] quảngđông. Đồng thời, có những bộ tộc khác bên Tàu gọi tháng 12 bằng 'tháng' Lạp, dựa trên một tập tục khác không dính dáng đến 12 địachi. Người Tày-Nùng vẫn giữ lối gọi 'Lạp' này. Nhưng người Việt ở nước Nam, bao gồm nhiều tộc người khác nhau, ra sức tổng hợp hai âm [Chau] và [Lạp] với nhau thành ra [Chạp]:
{Chạp} = {Chau} + {Lạp}

Tháng Giêng? Lý giải về 'tháng Giêng' cho thấy chỉ có 'lí-thiết' của loạt bài này mới có thể đưa đến một giải thích (đầu tiên) ăn khớp với tháng Một - tháng Chạp. Người Hoa vào lúc cổ thời ưa yùng [Zou yue] 陬 月 để chỉ tháng Giêng. [Zou] phát âm theo Hẹ chính là [zeu], và quảngđông: [zau]. Không liên hệ đến 12 con giáp đếm theo tháng, tuy âm hán-việt chính là 'tchâu' như nước 'Trâu' của Mạnh Tử. Thế nhưng đối với hệ thống tử vi 12 địa-chi, tháng Giêng chính là tháng Dần. 'Dần' phát âm ra sao ở các phương ngữ Bách Việt? Quanthoại đọc [Yin], với âm [Y] ở đầu giống Quảng Đông: [Yan]. Ngô-Việt: [Iing]; Mân: [In] và Hải-Nàm: [Yan], giống Quảngđông.
Để ý 2 âm tiếng Hẹ chỉ tháng Giêng: [zeu] và [Jin]. [JIN] chính là phát âm 'Dần' (Jần) trong tiếng Hẹ. Tháng Jần chính là tháng Giêng. [JIN] => 'Giêng'. Âm [zeu] và nhất là âm [JIN] (chỉ tháng Dần) đều có thể tiến đến âm [Giêng] với trợ júp của quốc-ngữ:
(Tháng) GIÊNG = {zeu} + {JIN} từ tiếng Hẹ. QED.

TÓM TẮT
Qua bài này chúng tôi thử quan sát 12 con Giáp dưới góc độ của 'truyền thuyết giải mã' ở đây. Nhân tiện, một số lý giải mới đã được đề ra, dựa trên lý thuyết hợp chủng, để giải thích tại sao người Việt có thói quen dùng tháng Một, tháng Chạp, tháng Giêng để chỉ, tuần tự, tháng 11, 12 và tháng 1.

Đi sâu vào vấn đề lý thuyết và tiền đề, chúng ta bắt đầu thấy rất nhiều công trình hàn lâm rất nổi tiếng xưa nay, vẫn có thể dựa vào một số các tiền đề mà nền tảng hãy còn chứa ít nhiều lấn cấn. Quan trọng nhất là thứ tiền đề đã đưa đến hệ luận tìm tòi lối phát âm xưa của người Tàu dựa trên phát âm của tiếng Hán Việt, hoặc tiếng Hẹ, tiếng Mân ngày nay. Đặc biệt tiếng Hán Việt. Nếu nhớ lại hầu hết sách vở các tiền bối tại Việt Nam đều cho rằng tiền nhân nước Nam đã 'biến chế' cách đọc chữ Hán của người Tàu, theo kiểu Việt để giữ vững tinh thần độc lập kiểu ta. Từ đó sinh ra thứ phát âm Hán Việt.

Thế nhưng ở phần đầu, chúng ta đã thấy các học giả hàng đầu Tây Tàu lại ưa dùng tiếng Hán Việt để truy tầm phát âm cổ tiếng Tàu bởi họ cho rằng, người An Nam học cách phát âm y như người Tàu hồi thời An Nam đô hộ phủ.

Chúng tôi tình cờ phát hiện được điểm tréo cẳng ngỗng ở trên trong tư duy Việt và Hoa, và đã dẫn Lê Ngọc Trụ [3] trong việc nhìn nhận phát âm Hán Việt nhất là các dấu, các thinh. đã được quy định khá cấp tốc, thiếu thốn kiểm chứng với âm Hán tiêu chuẩn. Thêm vào đó chúng tôi đã minh giải trong 3 bài vừa qua, tiếng Hán Việt thật ra là một hỗn hợp rất kì diệu giữa các phương ngữ Hoa Nam, đặc piệt: Hẹ, Quảng Đông, Phúc Kiến - Triều Châu, và Hải Nam. Tiếng Nôm cũng y hệt như vậy. Xưa nay vẫn tưởng là sản phẩm bản địa, nhưng một phần lớn lại chính do người Việt mang sang từ bên Tàu. Rất nhiều thanh điệu được biến đổi, và nhiều từ hoán chuyển tổng hợp với mớ từ vựng có sẵn ở người bản địa: Môn Khmer và Thái cổ.

Giữa một tình trạng rối bời như vậy, tiền nhân nước Nam lại nhất thống được tiếng nói - cả Nôm lẫn quốc-ngữ - và chữ viết (quốc-ngữ) và để lại cho hậu thế cả một kho tàng văn hoá và thi văn bất hủ. Trong những tình huống luôn luôn khẩn trương với đe dọa từ những thế lực bên ngoài. Đặc biệt, họ đã để lại rất ít dấu vết về những khó khăn đã kinh qua. Trong trang sử cũng như trong ngôn ngữ.

-----------------------
CẢM TẠ: Xin thành thật cám ơn anh Nguyễn Cung Thông (Melbourne), đã gợi ý 'thử xem lại 12 con giáp', cùng những trao đổi email, tài liệu riêng về đề tài khá quan-trọng này.

Ghi Chú
[1] Phát âm 'chuyện' => 'chiễn' trong tiếng Mường. Để ý âm vận tiếng Mường khá giống phát âm một số vùng Nam Bộ, trên rất nhiều âm, trong đó có 'uyê', như 'truyền thuyết', đọc như [triền thiết]. Thí dụ: 'chuyện' người Mường phát âm như 'chiễn', 'duyên' Mường đọc như 'diên'. Rất giống biến thái giữa quanthoại và quảngđông: âm [chuan] thường tương ứng với 'chuyền', 'chuyển', 'chuyện' - nhưng biến thái với Hakka rất thường [chon] mang chỉ một mẫu âm [o], quảngđông [chyun] như đảo ngược với tiếng Việt. Biến thái từ [chuan] có vẻ giống Mân nhất bằng âm [chhoan], nhưng đôi khi Mân cũng chuyển thành một mẫu âm, [chheng] hay [chhun]. Một trong những dẫn chứng khá gay cấn chính là 'Việt' trong 'Việt Nam'. Quảngđông đọc 'Yuet' gần giống với 'yuyệt', và quanthoại [yue], cũng một thứ nhị- âm có [u] ở đầu. Một âm nữa của 'việt' chính là 'vượt'. Hakka đọc [zat] hay [jet]. Nhưng Mân đọc [oat] hay [wat], vẫn mang âm [u] trước. Như vậy một ký âm khác có thể lối đọc tiền nhân chính là [vuat] hay [vuợt] với âm [u]. Nhưng các tôn sư quốc ngữ không sáng tác nhị âm [uơ] và đành phải dùng [iê] => [việt]. Như vậy âm [iê] kiểu Mường / Nam bộ thay cho [uyê]: [chiện] < [chuyện] / [Việt] < [Vuyệt] hay [vuật] lại một điểm cần để ý. Tương tự: [giả thiết] mặc dù mang nghĩa hẹp hơn [giả thuyết] nhưng cũng cho thấy tương cận giữa [thuyết] > [thiết].
[2] 'Phiênthiết' của học giả Tây phương và Tàu có vẻ không khác với lối 'phiênthiết' của các tiền bối tại Việtnam vào đầu cho đến giữa thế kỷ 20, khi họ tìm cách đánh dấu lại các từ Hán Việt ít dùng (bởi không ai biết tiền nhân thật sự phát âm ra làm sao). Thí dụ: Lê Ngọc Trụ [3] phân tích phiên thiết 'cây BÚT' và cho rằng đáng lẽ 'Bút' được phát âm 'Bất' mới đúng. Lý giải thật ra, với kính phục hãy còn đó, đã dựa vào một cái vòng lẩn quẩn: {bút}= {bi + ất}, viết và phân âm theo ... tiếng Hán Việt. Thật sự, tra từ điển liên phương ngữ chúng ta sẽ thấy: Hẹ: [bit] => cây biết. Quảng: [bat]=> bất, giống Lê Ngọc Trụ [3]. Quanthoại: [bi3]. Ngô: [pI?] (? tắc âm thanh môn). Mân: [pit], giống Hẹ, nhưng âm đầu [b] => [p].
[3] Lê Ngọc Trụ (1960) Chánh tả Việt ngữ. Nxb Xuân Thu 1991. Trường Thi tái bản.
[4] Người Yi có lẽ thuộc nhóm Môn-Khmer. Ngôn ngữ họ thuộc nhóm Tạng-Miến, và có chữ viết cổ lâu đời khắc trên những mảnh đá hoặc trong động đá. Tộc gốc của họ theo sách vở Tàu chính là siêu tộc Để (hay Địch) + Khương (Di Qiang). Cũng có thể, theo thiển ý, họ thuộc tộc Thái-cổ. Tiền thân của họ chính là nhóm người tạo dựng nên xứ Nam Chiếu, tức Đại Lý của ‘Nhất Dương Chỉ’ Đại sư Đoàn Nam Đế trong truyện của Kim Yung.
[5] Thường Tuấn (2005) Văn Hoá về 12 Con Giáp. (Hàn Ngọc Lan biên tập). Nxb Tổng Hợp Tp H-C-M.
[6] Hoàng Văn Ma - Lục Văn Pảo - Hoàng Chí (1974) Từ điển Tày-Nùng-Việt. Nxb KhoaHọc XãHội (Hànội)
[7] Jeanne Cuisinier (1946) Les Mường - Géographie humaine et Sociologie. Institut d'Ethnologie. Paris
[8] Chiêm Toàn Hữu - Lý Tinh Ích (hiệu đính) (2004) Văn hoá Nam Chiếu Đại Lý. Bản dịch: Nguyễn Thị Thanh Huệ, Nguyễn Mai Lan, Nguyễn Hương Giang, Phan Minh Thanh. Nxb Văn Hoá Thông Tin.
[9]

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


[10] Henri Roux (1954) Quelques Minorités Ethniques du Nord-Indochine. France-Asie. Janvier-Février 92-93. Tome X.
[11] Võ Mai Phương (Chu Thái Sơn chủ biên) (2005) Người Dao. Nxb Trẻ
[12] Trần Trọng Kim ( 1971) Việt Nam Sử Lược. Trung Tâm Học Liệu của Bộ Giáo Dục xuất bản. Đại Nam tái xuất bản tại Hoa Kỳ.
[13]

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


[14] Benjamin Robertson (2005) Ancient ruins rewriting China history. IN:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


[15]

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


[16] www.njstar.com / www.zhongwen.com /

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


[17] Những người học quanthoại sẽ dễ thắc mắc tại sao chử ‘Hoà’ tiếng Việt lại tương đương với lối đọc [He] 和 quanthoại. ‘Hoà’ chính là kí âm của tiếng Mân [hoa] hay Hẹ [wa]. [Wa] giống phát âm Nam Bộ hơn. Chúng ta thấy các tôn-sư quốcngữ đã hết sức lúng túng ở việc kí âm rất nhiều từ sau khi quyết định không dùng chữ cái [W]. Điển hình họ đặt ra [qua] để chỉ ‘Tôi’ theo lối nói Phúckiến, Mường, Nhật và Nam bộ. Thật ra [qua] chỉ {tôi} phải kí âm [wa] mới đúng, bởi người nam bộ không hề phát âm như [kwa] mà chỉ có [wa]: ‘Ngày mai nếu em ở nhà, wa sẽ (k)wa thăm em’. Thí jụ khác: con Quạ (chim) người Hẹ phát âm như [vua], [v] thay [w], vẫn nhẹ hơn [kwạ]. Hiện tượng dùng [kw] thay [w], và [v] thay cho [w] và [by] nhẽ ra phải được nghiên kíu từ lâu. Đối với [v] thay cho [w], mọi việc sẽ đâu ra đó nếu chỉ thay cho [w] y như phát âm người Hẹ và người Sơn Đông hiện nay. Nhưng sai lầm ở chỗ [v] ôm đồm thay luôn cho [by]: ông byua => ông Vua. Hiện tượng [v] biến thái với [w] có thể dễ dàng tìm thấy trong ngôn ngữ Âu Châu: Rượu vang (chát): Vino (Ý) => Vin (Pháp) => Wine (Anh). [V] <=> [W].
[18] Xem bảng đối chiếu phía trên, sẽ thấy còn một từ nữa để chỉ con Heo: [cúi] theo kiểu Mường [kwi] / [kul], hoặc Khmer [kau], hay Thái [kun]. Hiện ‘cúi’ vẫn còn dùng tại một số khu vực bắc Trung bộ. Thêm lần nữa: mỗi bộ tộc có lối dùng từ riêng để chỉ cùng một sự vật. Tiến bộ của văn minh qua phương tiện truyền thông như báo chí, truyền thanh, truyền hình, internet, v.v. đã dẫn đến việc chiết lược bớt những từ đồng nghĩa, và chỉ dùng những từ quen thuộc nhất do người thành thị xử dụng.
[19] Nguyễn Cung Thông (2005) Trao đổi i-meo về 12 con Giáp. (Tháng 8 - 2005)
[20] Thời hai bà Trưng, rồi bà Triệu, xứ Việt cổ vẫn dùng Voi. Hoa tộc đã dùng ngựa trước đó ít lắm cũng 500 năm. Hoa tộc ưa chế giễu Bà Triệu (khởi nghĩa năm 284), ra trận dùng voi bằng cách miêu tả bà không mặc áo để lộ vú dài 3 thước. Sử gia Ngô Sĩ Liên và rất nhiều vị khác đã vô tình không minh giải vấn đề này và ghi lại y chang từ thưtịch cổ của Tàu. Thật ra vú dài 3 thước, theo thiển ý, được dùng để tả cái ‘vòi’ của con voi. ‘Thước’ đọc theo Hải Nam là [xiớk] (Hán-Bách-Việt), HánViệt là [xích]. Hẹ: ch’ak, Quảng đông: [tsek], Ngô: [tsha?], Mân: [chhek]. 1 thước = 0.3333 thước tây (m). Do đó 3 thước xưa gần bằng 1 mét tây. Đúng với chiều dài bình quân của cái vòi đi trước con voi.
[21] Người Hải Nam ngày nay là hậu duệ của hai sắc tộc cổ thời: Lê tộc và Miêu tộc, cộng với nhiều đợt ji tản từ Hoa lục, đông nhất người Mân tức Phúc Kiến - Triều Châu. Tộc Lê có bà con xưa với người Choang ở Quảng Tây, và Tày-Nùng, Mường ở ViệtNam, thuộc chủng Thái cổ.
[22] Nên nhớ, trong tiếng Tày-Nùng hoàn toàn KHÔNG có dấu 'ngã' ~.
[23] Huình Tịnh Paulus Của (1998) Đại Nam Quấc Âm Tự Vị - ấn bản 1895-1896. Nhà xuất bản Trẻ.

#9 PMK

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1540 Bài viết:
  • 1689 thanks

Gửi vào 12/09/2011 - 08:48

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vị Tế, on 11/09/2011 - 12:15, said:

Việc động đất làm thay đổi tốc độ quay của trái đất thì đây không phải là lần đầu, cả ngàn năm (phát triển của các môn huyền học) qua có rất nhiều sự kiện tương tự nhưng việc tính gần đúng sự tác động của động đất lên tốc độ quay của trái đất thì chỉ khoảng vài chục năm gần đây mới làm được.

Những tác động đó chỉ có ảnh hưởng rất nhỏ gần như không đáng kể đến đa số môn huyền học. Cứ ví dụ đơn giản là việc ngày bị ngắn lại 1,8 phần triệu giây thì phải tới sau khoảng 1 ngàn rưởi năm nữa mới "mất đi" 1 ngày, nếu tính cả tuế sai và ảnh hưởng đến các điểm phân, điểm chí của năm thì còn nhỏ nữa (có thể tham khảo thêm Milankovich Cycles để rõ hơn).

Việc tác động đáng chú ý hơn 1 chút có lẽ là việc bị lệch trục của trái đất, điều này có thể khiến cho các tương tác âm dương, khí vũ trụ thông qua "sự truyền tải" của trái đất lên con người và vạn vật có thay đổi chút xíu (nhưng có lẽ cũng không đáng kể).

Đấy là chưa kể đến việc trong thời gian khoảng 1,5 ngàn năm đó lại không biết có thể xảy ra bao nhiêu vụ tác động tương tự có thể dẫn đến sự làm cân bằng lại những cái đã bị thay đổi trước đó.
1,8 phần triệu giây nghe chừng quá chừng nhỏ, cảm giác gần như không làm một ngày thay đổi gì so với trước. Nhưng nếu thử nhìn từ một góc độ khác, trong thời điểm 1,8 phần triệu giây đó cũng vẫn có những sinh linh trên thế giới này chào đời. Vậy không biết nếu các cháu bé sinh ra sau ngày 11/3/2011, và tình cờ sinh đúng vào cái thời điểm 1,8 phần triệu giây ấy thì lá số tử vi, tử bình... sẽ như thế nào?

Trước đây một ngày có 24 giờ được chia ra làm 12 canh giờ, bây giờ là 24giờ - 1,8 phần triệu giây, vậy 12 canh giờ kia phải làm sao? Cho giờ Hợi ngắn hơn các giờ khác 1,8 phần triệu giây hay là chia đều cái 1,8 phần triệu giây đó cho cả 12 canh giờ?

Nếu như trục trái đất bị lệch, có lẽ môn bị ảnh hưởng nhiều nhất sẽ là phong thủy. Còn với các môn khác đều dựa trên thời gian để lập quẻ hay lập lá số, sự chênh lệch thời gian như vậy dù rất vi tế sao có thể không ảnh hưởng được?

1,8 phần triệu giây là quá nhỏ, có thể trong thực tế lập quẻ Dịch này kia không cảm giác có gì khác, nhưng nếu đứng từ góc độ nghiên cứu, lý luận thì cũng rất đáng quan tâm đấy chứ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi PMK: 12/09/2011 - 09:06







Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |