Jump to content

Advertisements




Huyền thoại Nghiêm Tân - Khí công hay trường sinh học?


6 replies to this topic

#1 OTacCot

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 84 Bài viết:
  • 157 thanks
  • LocationGiả Heo Ăn Thịt Lợn

Gửi vào 18/04/2020 - 20:29

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Nghiêm Tân sinh trưởng ở một làng nhỏ thuộc huyện Giang Dân, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Nghiêm Tân có vóc người nhỏ nhắn, là con thứ của một gia đình có truyền thống thượng võ nên từ nhỏ đã yêu thích quyền cước. Một chuyện kỳ lạ đã đưa Nghiêm Tân đến với khí công. Vào năm bốn tuổi, một hôm, bé Nghiêm Tân đang nô đùa cùng với bọn trẻ trong rừng, bất ngờ gặp một người đàn ông tuổi trung niên. Với một thứ khinh công tột đỉnh, chỉ trong nháy mắt, ông đã biến mất. Nhìn khắp bốn bề đều không thấy bóng hình, như đã bay lên trời cao hay biến vào lòng đất vậy. Thế rồi, chỉ trong thóang chốc ông lại đột ngột hiện ra, đứng trước bọn trẻ đang ngơ ngác. Bé Nghiêm Tân nhìn đến ngây người và cứ níu ông đòi dạy võ. Cuối cùng vị cao thủ võ lâm ẩn cư tu thân luyện công nơi núi rừng sâu ấy đã nhận cậu bé bốn tuổi này làm đệ tử. Ông cấm Nghiêm Tân tiết lộ thân thế bí ẩn của mình.

Dưới sự chỉ dẫn của sư phụ, Nghiêm Tân tĩnh tâm học khí công. Ba, bốn năm trôi qua, cậu bé cảm thấy xương cốt, thần kinh và máu thịt trong người như đã thay đổi hẳn. Dòng máu trong thân thể như sôi bỏng, hai bàn tay nóng ran rát. Ngày thường luyện công trong phòng, mắt không chút nhìn xiên, nhưng thoàn thân Nghiêm Tân như đã bay ra tới cánh đồng quang đãng. Khi nhắm mắt ngưng thần, trước mắt thấy nổi lên lớp lớp ánh sáng trắng loang loáng. ánh sáng qua đi, trong đầu hiện ra hình dáng những đồ đạc bày trong phòng như bàn, ghế, giường tủ... không bao lâu lại sinh những dải sóng óng ánh các màụ Sư phụ bảo đó là kết quả do chuyên tâm chú thần công lực và thăng hoa đã đạt được.

Năm tám tuổi, nhờ cha thân đến cầu xin, Nghiêm Tân lại được nhà khí công lừng danh là Hải Đăng pháp sư vui lòng truyền dạy bí pháp. Hải Đăng pháp sư là bậc võ lâm lão tiền bối, võ nghệ tinh sâu, công lực phi phàm và cực kỳ nghiêm khắc đối với các đệ tử của mình. Theo tông phái của Hải Đăng pháp sư, Nghiêm Tân nhập môn, nhập đạo, được học tập một cách hoàn chỉnh các môn: Vân thông khí công, Thiếu niên tinh quyền, Tỉnh lã quyền (bao gồm đường quyền từ thứ năm đến thứ chín của phái Thiếu Lâm), Hình ý quyền, La Hán quyền, rồi đao thương, kiếm, côn, kích, roi... Tiếp sau đó, Nghiêm Tân lần lượt luyện công học nghệ với hơn hai mươi vị sư phụ, họ hoặc là võ lâm đại sư, hoặc là những cao thủ trong người nắm những tuyệt chiêu thần kỳ của chư gia môn pháị. Nghiêm Tân nghiền ngẫm, trau dồi những sở trường của từng môn phái và dần hình thành công phu đặc sắc độc đáo của bản thân.

Khi luyện công, Nghiêm Tân chọn giờ Tý và giờ Dần. Theo học thuyết "Tý Ngọ lưu chú" trong y học cổ truyền Trung Hoa, vào giờ Tý và giờ Dần, khí huyết trong cơ thể con người đặc biệt thịnh vượng, luyện công vào thời khác đó sẽ có thêm tác dụng. Nghiêm Tân thường luyện công trong rừng, trên núi, ở những vùng gần mạch nước là những nơi có địa từ mạnh, mượn ngoại lực của địa từ trường trợ lực, có thể thúc đẩy nội khí tăng trưởng.

Để đạt tới đỉnh cao trong võ công, Nghiêm Tân ghi lòng tạc dạ giáo huấn của sư phụ, giữ nghiêm ”Thất giới“ (tức là bảy điều kiêng kỵ). Ngoài kiêng rượu, sắc, tài, khí, còn kỵ ngôn (không xuất ngôn hại người), kỵ ngủ đêm (đêm luyện công vào giờ Tý, buổi sáng lại phải dậy sớm vào giờ Dần để luyện công, rất ít ngủ). Đồng thời Nghiêm Tân quanh năm ăn chay, kiêng mỡ, kỵ tanh. Năm 11 tuổi, khi nhắm mắt phát công, những vật thể trước mắt nổi rõ trong đầu với hình khối và màu sắc hoàn toàn giống và rõ như đang mở mắt nhìn. Khi công phu đã thâm hậu, nhắm mắt phát động, Nghiêm Tân đã có thể thấu thị xuyên suốt cơ thể con người, không chỉ ”thấy được“ hình dáng bên ngoài, mà còn ”thấy được“ cả xương cốt, dây thần kinh phát sáng và dòng máu sẫm đang tuần hoàn trong huyết quản.

Năm 13 tuổi, Nghiêm Tân đã có khả năng phát ra ngoại lực để chữa bệnh cho con ngườị. Năm đó, Tân trở thành học trò của lão y sư Trịnh Bá Chương, một thầy thuốc nổi tiếng trong giới Đông y Trung Quốc. Năm 1974, Nghiêm Tân thi vào Học viện Y khoa Thành Đô, học tập một cách hệ thống kiến thức lý thuyết, thực hành của Đông y và Tây y. Năm tháng trôi qua, Nghiêm Tân đã tập hợp được trong mình những hiểu biết y học, võ thuật, khí công và nhiều công năng đặc dị khác, rèn luyện đạt tới một bản lĩnh kỳ diệu, một tài năng chữa bệnh thần kỳ. Trở thành một thầy thuốc hành nghề giữa dân gian, ông làm được những kỳ tích con người khó tưởng tượng nổi, được thiên hạ tôn xưng là ”Thiên phủ thần y, Hoa Đà tái thế“.

Khí công chữa bệnh mang đầy sắc thái truyền kỳ, nhưng lại là sự việc có thật trong cuộc sống hiện nay ở Trung Quốc, mà Nghiêm Tân là một sự thật sinh động. ”Huyền thoại“ về Nghiêm Tân có rất nhiều.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Rắn như thép

Cuối năm 1986, Nghiêm Tân sang thăm Nhật Bản cùng với đoàn đại biểu Hội Nghiên cứu khoa học khí công Trung Quốc. Vô tình, ông đã tiếp một cuộc thách thức của một đồng nghiệp Nhật Bản, phải đọ khí hết pháp và giành được thắng lợi, làm thành một giai thoại thời ấỵ

Buổi tối ngày 17-11-1986, tại khác sạn Đại Tân Cốc Tokyo, giới đồng nghiệp Nhật mở tiệc chiêu đãi các bạn Trung Quốc. Giữa tiệc, ông Kusudu, Chủ tịch Hội nghiên cứu khoa học khí công của Nhật Bản phàn nàn với trưởng đoàn Trung Quốc Trương Chấn Hoàn về căn bệnh đau khớp khuỷu tay đã nhiều năm chữa trị nhưng vô hiệu và ngỏ ý muốn nhờ một nhà khí công nào trong đoàn Trung Quốc chữa trị giúp. Trương Chấn Hoàn giao nhiệm vụ này cho Nghiêm Tân và đề nghị Nghiêm Tân sẽ dâng năm ly rượu lên Kusudu, khi dâng rượu sẽ phát công chữa bệnh. Phương án trị liệu giàu kịch tính này làm cho người bạn Nhật Bản rất khoái. Kusudu vốn là bậc lão thành trong giới khí công Nhật, công lực không phải loại thường. Hơn nữa, ông ta tửu lượng hơn người, từng uống liền mười tám chai rượu mạnh mà không say, có biệt hiệu ”Hũ rượu đại“. Nhận nhiệm vu, Nghiêm Tân ngầm phát công lực thăm dò và biết rằng dây chằng khoắp của Kusudu bị tổn thương ở dạng mãn tính (trần cựu). Ông rót một ly nhỏ rượu Mao Đài, dùng hai tay dâng cho Kusudu, Kusudu đứng lên nhận lấy, rồi uống một hơi cạn sạch. Lúc Nghiêm Tân định dâng tiếp ly thứ hai thì đâu ngờ ”hũ rượu đại đã có vẻ chếnh choáng, nói: "Thôi, uống bia", rồi lại đòi hai cốc bia có nồng độ thấp hơn hẳn rượu này thành 4 lần uống, gọi là cho đủ năm ly. Sau khi Kusudu nhăn nhó uống hết chỗ bia cuối cùng thì chuyện lạ lập tức xuất hiện: với bộ mặt đỏ gay, Kusudu giơ cao cánh tay đau của mình, co duỗi một lúc rồi vui sướng nói: ”Hết đau rồi, không còn chút đau nào nữa! Công phu của Nghiêm tiên sinh quả thật cao siêu!". Kusudu là người trong nghề, ông hiểu rằng chỗ rượu ấy đã được Nghiêm Tân xử lý bằng công lực, chỗ đau nơi khuỷu tay mình cũng đã được Nghiêm Tân phát khí chữa tri..

Trong giới khí công của Nhật Bản cũng không thiếu những người không tin phục. Một hôm, các đồng nghiệp hai nước Trung-Nhật đang toạ đàm, thì một nhà khí công Nhật Bản tên là Sukitari, thông qua phiên dịch, đề nghị được đấu "khí lực" để phân thắng bại với Nghiêm Tân. Không hiểu là do không nghe rõ ý của Sukitari hay do không hiểu sâu tính cách võ sĩ đạo của một số cao thủ trong giới khí công Ngật Bản, mà người phiên dịch sợ khi chuyển ngữ quá thẳng thì sẽ làm tổn thương đến tình hữu hảo giữa đôi bên, nên đã dịch cho Nghiêm Tân là ”học hỏi lẫn nhau“.

Nghiêm Tân vui vẻ nhận lời, nhưng khi nhìn sang Sukitari, ông biết đó là một người đã luyện công, tập võ nhiều năm, lại có trong người những công năng đặc dị thần kỳ. Nghiêm Tân nhận ra ngay "học hỏi lẫn nhau" ở đây bao hàm ý nghĩa gì. Sang Nhật lần này là một cuộc viếng thăm hữu nghị, Nghiêm Tân không hề chuẩn bị thi thố, đọ sức với bạn, nay họ ra chiếu thư, mà xem ra không phải do ngẫu hứng nhất thời. Vừa rồi, mình đã nhận lời, nếu làm thật Nghiêm Tân tự hiểu công lực của mình có thể làm thương tổn đến đối phương, thậm chí có thể hủy cả lục phủ ngũ tạng, như vậy không phù hợp với đạo đức trong võ lâm, bất lợi cho tình hữu nghị giữa hai nước. Nhìn lại đối phương, rõ ràng không phải cỡ tầm thường, nếu có sơ suất, hậu quả sẽ khôn lường. Nghiên Tân có vẻ trấn tĩnh khác thường, nhưng trong đầu đã suy tính nhanh chóng, Sukitari không chút nể nang, lấy thể vận khí, phát công lực mạnh nhằm thẳng voà mặt Nghiêm Tân. Mọi người đều biết đó là một nhà khí công có hạng của nước Nhật, châm cứu, điển huyệt đều vào loại thượng thặng. Khi Sukitari vận đủ đan điền cho khí phát mạnh vào Nghiêm Tân, thần lực đó hết sức lợi hại, nhưng Nghiêm Tân không hề cảm nhận chút nào, vẫn nói cười bình thường với mọi người, thản nhiên như không.

Thấy luồng khí phủ đầu không có tác dụng gì, Sukitari liên tục tăng lực phát công, mồ hôi trán vã ra nhưng Nghiêm Tân vẫn ngồi vững chãi, Thấy không ổn, Sukitari dùng khí thu công đề nghị được thay đổi phương hướng phát khí từ phía lưng Nghiêm Tân, Nghiêm Tân ưng thuận ngay.

Sukitari lại lấy thế, liên hồi vận khí nhằm đúng lưng Nghiêm Tân phát công dữ dội, nhưng vẫn vô hiệu. Ông ta ướt đẫm mồ hôi, trong lòng cảm thấy lạ lắm. Chính diện tấn công không thấy nhúc nhích, phát công từ phía sau lưng cũng không thấy suy chuyển, hay là do cự ly quá xa, Sukitari liền đến sát bên Nghiêm Tân, áp bàn tay vào lưng Nghiêm Tân, vận tận lực phát khí, dùng cả cánh tay đẩy mạnh, Không ngờ cứ như bị va phải một hòn đá to, Sukitari mệt mỏi thở gấp, mồ hôi vã như tắm, mặt đỏ gaỵ Nghiêm Tân vẫn ngồi như không có việc gì xảy ra, Sukitari hiểu rằng hôm nay đã gặp cao thủ. Nếu như chỉ dựa vào phát lực khí công và cậy sức húc bừa thì chỉ có thất bại thảm hại. Ông ta giơ tay điểm xuống huyệt Bắc Hội trên đỉnh đầu Nghiêm Tân. Đây không phải là trò đùa, nếu huyệt này bị cao thủ điểm trúng thì chí ít cũng bị ngay ra như gỗ. Nhưng Nghiêm Tân vẫn vững như Thái Sơn, an toạ bất động, không hề cảm thấy có gì khác thường. Lúc này, Sukitari mồ hôi đầm đìa, thở hổn hển, trợn tròn hai mắt, bất ngờ vung ra đòn cuối cùng: giơ hai tay tóm mạnh vào động mạch cổ của Nghiêm Tân. Tóm mạnh vào động mạch cổ là ngón đòn hiểm độc nhất, Người bị trúng nếu không chết ngay thì cũng bị trọng thương. Tuy vẫn ngồi yên thản nhiên, nhưng Nghiêm Tân hiểu rất rõ tính chất leo thang trong các động tác mà đối phương tung ra. Nhanh như cắt, khi tay của đối phương vung tới, Nghiêm tân không né tránh, cũng không trả đòn mà ông quay hẳn đầu lại để cho Sukitari tóm bắt "ngon lành". Kết quả là Nghiêm Tân vẫn bình an. Đến nước này, nguyên khí trong người Sukitari mất sạch, chân tay bủn rủn, toàn thân rã rời, Sukitarimowiws biết vị khí công danh sư trước mặt mình này quả là ”danh bất hư truyền“.
Ông ta cúi mình nhận thua tại chỗ và nói thành khẩn: ”Công phu của ngài quả là lợi hại, cao siêu! Xin bái phục“. Rồi gọi người con trai đến, hai cha con cùng khẩn cầu bái Nghiêm Tân là sư phu.. Cuộc đọ võ hấp dẫn này làm cho người Nhật Bản vô cùng thán phục tài nghệ của Nghiêm Tân. Theo kế hoạch, sẽ có một cuộc đọ quyền giữa một quyền sư Nhật Bản với Nghiêm Tân, và một nhà kiếm thuật đọ kiếm với Nghiêm Tân nhưng đối phương chủ động xin rút bỏ.

Hơn ba mươi năm tu thân luyện công, hơn hai mươi năm chữa bệnh, với y thuật thần kỳ và y hiệu như thần thoại của mình, Nghiêm Tân đã để lại nhiều ”câu đố“ không thể giải thích nổị

Tuy có công lực thâm hậu, thần diệu, nhưng Nghiêm Tân không phải thần tiên, không thể chữa trị được bách bệnh. Ông đã nhiều lần nói, những cao thủ có bản lĩnh tuyệt đỉnh không thiếu gì trong dân gian. Ông vẫn phải tiếp tục tầm sư học đạo, tinh luyện công lực. Đồng thời Nghiêm Tân cho rằng khí công cao cấp và những công năng đặc dị không phải là thứ gì thần bí siêu hình. Con người có chừng 14 tỉ tế bào đại não, thông thường mới chỉ sử dụng độ hơn một triệu tế bào, còn tuyệt đại đa số các tế bào não được tồn chứa một cách lặng lẽ, vô dụng. Ông mới luyện công được mấy chục năm, cùng lắm cũng chỉ mới khai thác thêm được một phần nhỏ nữa trong sự tàng trữ khổng lồ ấy. Luyện công lực như vậy còn rất xa mới tới được đáy sâu của công phu, suốt đời cũng không tới nổi sự tận cùng của tiềm năng con người.

Các dạng năng lượng đặc biệt khác thường (hay gọi là công năng đặc biệt khác thường) mà Nghiêm Tân có thể bức xạ mỗi khi "phát công" còn là một thế giới đầy bí ẩn đối với mỗi chúng ta ở đây các dạng bức xạ năng lượng của khí công và trường sinh học (hào quang sinh học, chất plasma học) có mối liên quan chăng? Phải chăng luyện tập khí công có thể khai thác được những năng lượng sinh học tiềm ẩn trong mỗi con người - năng lượng trường sinh học?

Giải đáp được vấn đề này thật không dễ dàng. Chúng ta tin rằng, rồi đây một ngành khoa học mới sẽ ra đời, ngành khoa học của thế kỷ 21 sẽ giúp ta hiểu sâu hơn về những khả năng của chính bản thân mình. Ngành khoa học của tâm linh.

Thanked by 2 Members:

#2 tuantrader

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 2 Bài viết:
  • 1 thanks

Gửi vào 17/05/2020 - 21:37

Mình cũng từng nghe Danh về ông này, tuy nhiên chỉ là nghe thế chứ chưa được nghiệm chứng thực tế nên cũng khó nói. Thường những cao thủ họ ẩn mình tu luyện chứ không lộ tướng để ngưòi khác biết

#3 catdang

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 471 Bài viết:
  • 64 thanks

Gửi vào 18/05/2020 - 10:43

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

OTacCot, on 18/04/2020 - 20:29, said:

Để đạt tới đỉnh cao trong võ công, Nghiêm Tân ghi lòng tạc dạ giáo huấn của sư phụ, giữ nghiêm ”Thất giới“ (tức là bảy điều kiêng kỵ). Ngoài kiêng rượu, sắc, tài, khí, còn kỵ ngôn (không xuất ngôn hại người), kỵ ngủ đêm (đêm luyện công vào giờ Tý, buổi sáng lại phải dậy sớm vào giờ Dần để luyện công, rất ít ngủ). Đồng thời Nghiêm Tân quanh năm ăn chay, kiêng mỡ, kỵ tanh.


Viết ra thì đơn giản vậy thôi, mấy dòng ấy là nói phần tu "tâm tính": "Giữ ngiêm thất giới", "Kỵ rượi, sắc, tài khí, ngôn".....Người bình thường vốn truy cầu "công năng, bản sự" không nhìn thấy thực chất nó là "sản phẩm phụ" của tu luyện, là "bản năng tiên thiên" con người mà thôi, người tu luyện chân chính nếu có "công năng" xuất ra thì cũng không cần nó và không dùng nó. Vậy nên người ta mới nói tu luyện là "Phản bổn quy chân" chữ "bổn" nghĩa là vụng về, sai lạc.
Người không "tu luyện" tâm tính mãi không có gì, khoa học con người nếu chỉ dựa vào "nghiên cứu" để "tận dụng tiềm năng" con người thì mãi mãi không bao giờ có . Các nước tiên tiến như Nga , Mỹ ...nghiên cứu mấy chục năm rồi, Việt Nam không phải cũng có "Trung tâm nghiên cứu tiềm năng" con người, hàng chục năm có nghiên cứu sáng tỏ được cái gì đâu.
Công năng xác thực là có tồn tại nhưng không cho dùng ở xã hội người thường, nếu dùng nó sẽ hạ thấp và biến mất, là vì nếu dùng là phá vỡ "trạng thái thông thường" của xã hội. Khí công Trung Quốc lên cao trào vào cuối thời kỳ "Cách mạng văn hóa" xuất hiện rất nhiều người có "công năng" ý nghĩa thật ra là "lôi kéo" người ta chú ý đến "khí công", ở khía cạnh cao hơn mà xét chính là trải đường đi cho "Khí Công Cao Tầng" mà thôi!
Đến khi PhapLuanCong truyền ra thì tất cả các Khí Công Sư chân chính đều "hồi sơn" vì đã "hoàn thành sứ mệnh", Người ta rất khó để nhận thức ra chân nghĩa ấy!

Sửa bởi catdang: 18/05/2020 - 10:57


#4 catdang

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 471 Bài viết:
  • 64 thanks

Gửi vào 19/05/2020 - 09:07

Hầu Hi Quý- những chuyện thần kỳ xảy ra năm 1979, sau “cách mạng văn hóa”

Nguồn trang :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Tháng 10-1986, những cây phong cổ thụ của Nhạc Long Sơn khoác chiếc áo màu đỏ, dòng nước mùa thu của Tương Giang lấp lánh ánh vàng, Hầu Hi Quý từ Bắc Kinh trở về Bảo Tháp Sơn ở Trường Sa. Ông không quên ấn tượng lần đầu tiên phát hành công khai tập sách chính diện nói về con người của mình. Tạm nghỉ vài ngày, sau đó đến ngôi nhà tôi ở trong hẽm gạch đỏ thành phố Trường Sa thăm tôi. Ông nói : “Giang Nam quái khách – Hầu thần tiên kỳ nhân kỳ sự” có ảnh hưởng rất lớn tại Bắc Kinh, không ít người sau khi thấy ông đều cho biết rằng họ đã đọc tập sách đó. Tôi rất cao hứng, cảm thấy được an ủi rất lớn, vì bài viết của mình có nhiều người đọc. Ông hẹn nếu tôi có rảnh thì đến Bảo Tháp Sơn chơi, nói là muốn báo lại tường tận tình hình của ông tại Bắc Kinh. Tôi đáp ứng ngay, mấy ngày sau, nhân ngày chủ nhật nghỉ, tôi đạp xe lên núi. Gõ cửa, Hầu Hi Quý vui mừng kêu lên “Liêu ký giả đến rồi !”.
“Anh đến thật đúng lúc,” ông vẫn mặc quần cụt áo thun, kéo tôi vào phòng khách, chỉ vào mấy vị khách đang ngồi ở đó, “Có vài người bạn cũ của tôi đến chơi, chắc có lẽ anh đã gặp họ rồi ?”
Mấy người khách đó đều đứng dậy, biết tôi là tác giả của “Giang Nam quái khách”, trên mặt họ đều lộ vẻ kính trọng, nói rằng tôi dũng cảm, nói rằng tôi đã giúp được cho Hầu Hi Quý. Tôi đã có ý muốn gặp những người bạn của Hầu Hi Quý tại Du Huyện, Hán Thọ, hi vọng được trực tiếp nghe chính miệng họ nói về những câu chuyện của Hầu Hi Quý, đây thật là duyên may, cơ hội không thể bỏ qua, vì nếu không lại phải mất một chuyến đi đến Hán Thọ và Du Huyện, như thế sẽ rất khó có cơ hội thích hợp, vì vậy trong số những người này tôi định chọn ba người để làm việc, mời họ đến một phòng khác trong nhà Hầu Hi Quý, đóng cửa lại, bắt đầu nói chuyện không có gì phải bị ràng buộc.
“Tôi là một người đồng sự với Hầu ca tại Hoa cổ Hí kịch đoàn ở Du Huyện.” một người tên là Tạ Sơ Sinh mở miệng đầu tiên, ông ta có vẻ chuyên chú phảng phất nhớ lại những kỷ niệm trong những năm tháng quá khứ. Ông nói : “Tôi đã được lĩnh hội chân công phu của anh ấy.”
Tạ Sơ Sinh là đạo diễn tại Hoa cổ Hí kịch đoàn, ông ta đã có tư duy làm việc chủ yếu qua các nhân vật có tính cách của “thỏ, hổ, trâu, chuột” nói chuyện sôi nổi về việc cũ hơn 10 năm trước.
Tháng 2-1979, đầu mùa xuân, Hầu Hi Quý có người giới thiệu vào Hoa cổ Kịch đoàn của Du Huyện, làm việc tạp dịch đã lâu, xây dựng được tình bạn với đạo diễn Tạ Sơ Sinh, ông rất kính trọng mẹ của Tạ Sơ Sinh. Có một hôm, Hầu Hi Quý ngồi trong phòng của Bà Tạ nhàn đàm, có đứa cháu gái nhỏ của Tạ Sơ Sinh đang chơi trong phòng.
“Ăn kẹo không ?” Hầu Hi Quý hỏi đứa bé.
Đứa cháu gái mới có mấy tuổi, thấy trong tay của Hầu Hi Quý không có cầm cái gì, không biết kẹo ở đâu, giương mắt nhìn ông. Hầu Hi Quý nhìn tứ phía, thấy trên giường có tấm nệm cũ, thấy mặt nệm thêu con công màu lục bị lủng bảy tám lỗ, bỗng nhiên có chủ ý, ngưng mâu (con ngươi) nhìn sau đó đưa tay sờ sờ cái nệm cũ. Nói ra thì kỳ quái, từ bảy tám lỗ thủng đó bỗng nhiên có kẹo dài ba bốn phân xuất hiện, rơi ra mặt đệm. Tạ Sơ Sinh và vợ là Trần Lệ Hoa đang vô cùng nghi ngờ, thì lại có thuốc lá rơi ra từ lỗ nệm thủng đó, khiến cho đứa cháu gái rất mừng rỡ, Bà Tạ cười híp mắt…Tạ Sơ Sinh biết Hầu Hi Quý là kỳ nhân nên đối xử với ông đặc biệt.
Hôm ấy, Tạ Sơ Sinh và Hầu Hi Quý đi ngang qua cửa nhà nghỉ số hai của Huyện Ủy, thấy có vị lão nhân đang ngồi ngây dại ở bậc thềm.
“Ông già này thật đáng thương, ông ấy không phải người ở đây, ông ta bị mất một đứa con trai”.
Hầu Hi Quý dừng bước, nói nhỏ với Tạ Sơ Sinh. Tạ Sơ Sinh lắc đầu cười. Hầu Hi Quý và ông lão này bình sinh không hề biết nhau, làm sao lại biết như thế, vì vậy anh ta nói “Đừng có nói bừa.”
“Không tin hả ? Không tin ông đi hỏi thử xem.”
Tạ Sơ Sinh đến hỏi thật. Ông lão năm mươi tuổi, tóc đã bạc, giọng nói người Sơn Tây, ông ta than thở, nói đến Giang Nam mưu sinh, lại mất đứa con trai.
“Đấy tôi nói mà, tin không ?” Hầu Hi Quý giật giật áo của Tạ Sơ Sinh, “Trong túi tôi không có tiền, ông nên làm chút việc tốt, cho ông ta ăn cơm.”
Thời đó, Tạ Sơ Sinh chỉ có thu nhập 40 nhân dân tệ một tháng, trong túi chỉ còn 5 nguyên. Ông nghe Hầu Hi Quý nói một cách khẩn thiết, cũng sinh lòng trắc ẩn, bèn dẫn ông lão đến một quán ăn nhỏ để ăn cơm, tiêu hết 3 nguyên, còn lại 2 nguyên cho luôn ông già. Ông lão muôn vàn cảm tạ, mỗi bước đi đều quay đầu lại nhìn.
Từ đó về sau, Đoàn kịch mỗi lần đến làng Loan Sơn của Du Huyện trình diễn, có hộ nông dân chuyên chuẩn bị rượu và thức ăn mời Hầu Hi Quý, Tạ Sơ Sinh và thầy đàn Đàm Nhất Tiên, tất cả bảy tám người ăn cơm. Cơm và thức ăn trên bàn, mọi người cũng không khách sáo, cầm đũa ăn. Người già bỗng nhiên phát hiện, mấy diễn viên, miệng nói không khách sáo, nhưng khi hạ đũa gắp thức ăn thì lại rất e dè. Vì vậy bà mẹ của người nông dân bèn gắp một miếng thịt to bỏ vào chén của Hầu Hi Quý ngồi bên cạnh.
“Tôi có, tôi có rồi,” Hầu Hi Quý dời chén đi, cầm đũa từ trong chén gắp ra một miếng thịt lớn, “Dì thấy không, tôi có rồi mà !”
Mọi người đều cảm thấy kỳ lạ, chén cơm của Hầu Hi Quý mới vừa do người khác bới đầy đưa lại, không thể nói rằng phía dưới cơm đã có sẵn một miếng thịt lớn ? lúc nhìn ông thì thấy đang cắn ăn từng miếng thịt lớn, hiển nhiên không phải là thịt giả. Vì thế càng thêm chú ý về Hầu Hi Quý kỳ lạ này.
Thấy Hầu Hi Quý lại ăn một cách dè dặt, bà mẹ nông dân lại gắp miếng thịt to đưa cho.
“Tôi có, tôi có mà.” Hầu Hi Quý lại dời chén, nhanh chóng dùng đũa bươi bươi cơm trong chén, lập tức lại gắp một miếng thịt lớn, đưa lên cho mọi người thấy.
Lần này cả bà mẹ nông dân cũng kinh ngạc, miếng thịt đang gắp ở đầu đũa, một lúc lâu cũng chưa bỏ xuống.
Cơm xong, Đàm Nhất Tiên hỏi Hầu Hi Quý, trong chén cơm không hề có dự tính trước là để sẵn vài miếng thịt, mà nếu có giấu trước cũng không thể giấu được nhiều, thế nhưng ông đã moi ra hết miếng thịt này đến miếng thịt khác, vậy thịt từ đâu đến ?
Hầu Hi Quý vỗ vai Đàm Nhất Tiên. “Hỏi nhiều để làm gì, miễn không phải trộm thì thôi !”
Năm đó, trong những ngày hoa thạch lựu nở đỏ rực, Hoa cổ Kịch đoàn của Du Huyện lại vượt núi vượt đèo đến làng Tào Bạc biểu diễn cho nông dân xem. Lúc đó đúng vào Tết Đoan Ngọ, các diễn viên ở tại hương thôn ăn tết Đoan Ngọ rất vui vẻ. Theo phong tục địa phương, ngoài bánh nếp (bánh ít, bánh tét) và bánh bao, mỗi người còn được ăn hai cái trứng vịt. Kịch đoàn đương nhiên nhập hương tùy tục, người làm bếp phải luộc trứng cho diễn viên và nhân viên trong đoàn, lúc ăn cơm, trong chén của mọi người phải có hai quả trứng. Mọi người vui vẻ tụ họp trong nhà, hỉ hả nói chuyện, đề tài nhanh chóng chuyển sang “ảo thuật đại sư” Hầu Hi Quý.
“Này, Hầu sư truyền, ảo thuật của ông linh nghiệm như vậy, biến ra vài quả trứng để ăn đi, được không ?” Nữ đạo diễn Lưu Hoài Diễm đã sớm nghe nói Hầu Hi Quý có khả năng biến ra đồ ăn, bà đã ăn xong hai quả trứng trong chén, cười híp mắt nhìn ông nói.
Hầu Hi Quý cũng đã ăn thấy ngon, nghe đạo diễn Lưu gọi mình, cũng ngạc nhiên, buông đũa, lau miệng, nhìn vào cái chén không của Lưu Hoài Diễm, nói : “Muốn biến ra cái gì, trong chén của bà chẳng phải đã có rồi sao ?”
“Không có đâu, ăn hết rồi, không có thật mà.” Lưu Hoài Diễm tuy tuổi đã trung niên, nhưng mặt tròn vẫn còn nét thanh tú, hoạt bát nhiệt tình, bà nghe Hầu Hi Quý khẳng định như thế, vội cầm đũa lên khua khua cái chén không trước mặt, “Anh sợ biến à ? người khác anh không sợ, lại sợ tôi ?”
“Không sợ,” Hầu Hi Quý nói, ông bèn đi ngay đến bên Lưu Hoài Diễm, cầm lên cái chén không của bà, một tay bóc trên mặt bàn, giống như cầm cái gì bỏ vào cái chén không. Ánh mắt của mọi người đều theo dõi sự chuyển động của bàn tay ông, bỗng nhiên thấy trong cái chén không xuất hiện hai quả trứng vịt nóng hổi, khiến ai nấy đều kinh ngạc.
“Ái chà chà ! đã biến thật rồi !” đôi đũa trong tay của đạo diễn Lưu được bỏ xuống bàn, bà ngồi xuống, nhưng không dám động đũa.
“Ăn đi, đã muốn thì ăn đi chứ !” Hầu Hi Quý giục.
Lưu Hoài Diễm cầm một quả lên cắn thử, mắt lay động, chẳng thấy có gì khác, bèn mạnh dạn ăn luôn. “Cũng vậy, cũng giống như trứng thiệt thôi.” Bà nói về thiệt và giả nhưng chỉ có bà mới có thể giải thích rõ ràng.
Hôm đó, Đoàn kịch nghỉ đêm tại trường tiểu học Tân Hợp của làng Tào Bạc. Đoàn kịch lên núi xuống làng diễn xuất, đêm ngủ ở trường tiểu học, có khi ngủ ở hội trường của làng là chuyện bình thường, các diễn viên đều tùy hoàn cảnh mà thích ứng. Trường tiểu học Tân Hợp là ngôi nhà cũ hai tầng, các diễn viên ngủ trên lầu, nam nữ mỗi bên có chỗ riêng. Phía diễn viên nam thì ngủ trong một phòng lớn trống trải, bụi bám đầy sàn, chắc là ngày thường ít người lui tới.
“Hầu ca, anh có bản lĩnh đầy người, tôi rất phục.” Trần Tiểu Báo nghiêng mình trên mặt ván sàn, bỗng nhiên nổi hứng ngồi dậy nói, “Anh ấy hôm nay sẽ làm một điều mới lạ náo nhiệt, các anh có tán thành không ?”
Trần Tiểu Báo nói “các anh” là chỉ Tạ Sơ Sinh, Vương Kiến Nghiệp. Tạ, Vương, hai người đương nhiên là lập tức đồng ý. Ở trong một phòng đơn độc nơi một làng hẻo lánh, cùng với những người khác đi nằm sớm trên những tấm ván lót sàn đợi ngủ, chi bằng tìm cái gì vui vui giải trí. Nhưng có thể làm được cái gì vui ? Trần Tiểu Báo còn phải tìm, anh đảo mắt nhìn bốn phía.
“Hầu ca ơi, nếu anh có thể nằm ở đây mà có thể gây ra tiếng động ở cách tường phía bên kia, tôi sẽ rập đầu lạy anh mấy lạy !” anh chỉ tay vào phòng bên kia tường.
“Đang lúc ngủ không được, đùa giỡn thì đùa giỡn” Hầu Hi Quý bản tính vốn không thể nằm yên, thấy mấy người bạn nằm cũng không yên, bèn ngồi dậy, nói với Trần Tiểu Báo to xác ở bên cạnh, “Nhưng mà anh nói thì phải giữ lời đấy nhé.”
“Giữ lời, đương nhiên là giữ lời.” Trần Tiểu Báo vỗ ngực thình thịch nói.
Hầu Hi Quý dỡ tấm nệm bông nhỏ đứng dậy, đi một vòng trên ván lót sàn, miệng huýt sáo một câu trong “Lưu Hải kham tiều” (Lưu Hải đốn củi) “ Tôi thì không so được với La Hà hầy”
Lúc đi nhiễu vòng thứ hai, ông dừng lại trước cửa sổ bằng gỗ, thò đầu ra ngoài nhìn về phía dãy núi tối mịch xa xa, miệng niệm niệm điều gì. Bỗng nhiên phòng lớn ở cách tường có tiếng “bình bình” lớn, rõ ràng có tiếng vật gì rơi xuống tấm ván gỗ. Trần Tiểu Báo, Tạ Sơ Sinh, Vương Kiến Nghiệp, giật mình khiếp sợ, theo bản năng họ dựa vào nhau. Tiếp đó bên phòng lớn truyền lại tiếng “ầm ầm đùng đùng” rõ ràng có tiếng vật gì lăn mạnh trên ván, có vẻ như càng lúc càng nhanh, được vài tràng thì tiếng “ầm ầm đùng đùng” đó mới dừng bặt.
Vương Kiến Nghiệp vốn nhát gan, sợ quá chui vào trong nệm, chỉ ló đầu ra ngoài, và cũng chuẩn bị sẵn sàng thụt vô luôn. Trần Tiểu Báo và Tạ Sơ Sinh thì lại không tin, cho rằng Hầu Hi Quý có ngầm phối hợp với ai đó bên phòng kia.
“Phối hợp cái *** nè !” Hầu Hi Quý liền nổi cáu, nắm đầu tóc Trần Tiểu báo ghì xuống, “Anh muốn hứa lèo hả, nói mà không giữ lời phải không ?”
“Không phải hứa lèo, tôi không tin”
“Được, được, được, làm lại một lần nữa nè !” Hầu Hi Quý buông tay, lại đi tới cửa sổ đứng, đột nhiên quay đầu lại nói, “Tạ Sơ Sinh, anh hãy niệm, niệm ‘năm cây dao nĩa hãy tới’ niệm xong tiếng cuối cùng sẽ có tiếng vang. Chỉ niệm trong tâm thôi. Nhớ kỹ nhé.” Nói xong Hầu Hi Quý quay đầu hướng về phía đêm đen hun hút ngoài cửa sổ.
Tạ Sơ Sinh làm theo lời dặn, nhưng rồi nghĩ, mình không làm đúng theo yêu cầu niệm của Hầu Hi Quý, để xem ông ta có linh hay không. Vì vậy đợi Hầu Hi Quý hô “niệm” anh bèn mặc niệm kéo dài “năm_cây _ dao _ nĩa _ hãy tới” nhưng hai tiếng cuối cùng thì niệm liền nhau, tiếng “tới” vừa dứt, phòng lớn cách tường bỗng có tiếng động lớn, tiếp theo sau là tiếng “ầm ầm đùng đùng” như tiếng sấm từng tràng từng tràng.
Âm thanh của tiếng ván trên lầu lại không dừng, cuối cùng làm kinh động thức giấc Chu sư truyền, người đã ngủ sớm. Chu sư truyền là người quản lý phục trang, đạo cụ, tuổi tác hơi lớn, làm việc suốt ngày nên ngủ sớm. Đang ngủ bỗng nghe trên lầu có tiếng động lớn, không lấy làm phiền, lấy cây quạt hướng lên trần nhà quạt vài cái.
“Mẹ kiếp, tự mình không ngủ, làm om sòm không để người khác ngủ !” Ông vừa cười nói đùa vừa chửi đổng, “Muốn đánh nhau thì ra ngoài lên núi mà đánh !”
Người trên lầu thì cười “ha ha ha”, mỗi người một tay làm náo loạn cả lên. Hầu Hi Quý một tay kéo Trần Tiểu Báo quỳ xuống, đè đầu hắn xuống bắt rập đầu ba cái.
“Hầu ca, rập đầu rồi đó, anh hãy nói cho chúng tôi nghe, chuyện gì đã xảy ra.” Tạ Sơ Sinh muốn biết rốt cuộc như thế nào, khăng khăng đòi Hầu Hi Quý nói cho rõ ràng.
“Thiên cơ bất khả lậu !” có vẻ như ông muốn nằm xuống, dỡ nệm gần như che kín đầu.
Mọi người cũng nghĩ như vậy, vả lại bất luận sự thật “thiên cơ” là thế nào, đó là một chuyện khác, cũng không thể nói không rõ là không rõ sao ?
Thế rồi mọi người nằm xuống tự dỗ giấc ngủ. Lúc nửa đêm, Hầu Hi Quý bỗng nhiên đánh thức Tạ Sơ Sinh.
“Dậy đi, dậy đi, Đi ngoài đi.” Hầu Hi Quý thấy Tạ Sơ Sinh đã tỉnh ngủ, bèn từ trên ván bò dậy.
Tạ Sơ Sinh mở mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, tối mịt, anh ta dẩy nẩy, “Tôi không đi” rồi lại ngủ tiếp. Hầu Hi Quý một mặt kéo Tạ Sơ Sinh dậy : “Hôm nay nhất định buộc anh phải đi ngoài, Tết Đoan Ngọ, đó gọi là “A thần thỉ 屙神屎” (Đi vệ sinh cho sạch).
Tạ Sơ Sinh bị Hầu Hi Quý kéo đẩy mấy lần, không còn buồn ngủ nữa, thuận theo Hầu Hi Quý ra khỏi trường học, trèo lên sườn một ngọn núi nhỏ.
“Này, đi vệ sinh sao phải chạy lên núi vậy, đi bên kia mới đúng.” Tạ Sơ Sinh phát hiện phương hướng không đúng, vội đứng lại.
“Đúng, đúng, đúng, hôm nay Đoan Ngọ, không vào nhà vệ sinh thì phải đi ra đồng để giải quyết”
“Đi vệ sinh mà lên núi, có rắn có độc trùng, tôi sợ đi cầu không được.”
Không ngờ Hầu Hi Quý kéo Tạ Sơ Sinh tới một gốc cây, kề vào tai anh ta nói : “Thật ra tôi cũng đi cầu không được, nói cho anh biết, tôi kéo anh ra ngoài để coi một vật.” Nói đến đây, Hầu Hi Quý quay đầu nhìn một cách thần bí, lại nói : “Nhưng mà anh coi thì cứ coi, đừng nói lộ ra ngoài.”
Nói xong, Hầu Hi Quý đưa tay vẽ một vòng trên mặt đất, “Anh cứ đứng trong vòng tròn này, đừng có loạn động, chú ý nhìn trước mặt.”
Tạ Sơ Sinh nghe Hầu Hi Quý nói thế, lại thấy ông làm trò như Tôn Ngộ Không dùng định thân pháp làm cái gì đó, không thể không cảm thấy căng thẳng, nhưng cũng muốn biết Hầu Hi Quý rốt cuộc muốn cho anh ta thấy cái gì, đang lúc nhìn chăm chăm về phía trước, bỗng nhiên đằng xa xuất hiện một bóng người, dưới ánh trăng có vẻ như lúc có lúc không, đang nhẹ nhàng đi về phía Tạ Sơ Sinh đang đứng, anh nhìn Hầu Hi Quý, Hầu Hi Quý vội ra dấu đừng có gây tiếng động. Anh nghĩ cái vật mà Hầu Hi Quý muốn cho anh thấy đích thị là cái bóng người này. Lúc nhìn kỹ, thì bóng người đã đến ngay trước mặt. Áo đen, quần đen, giày đen, áo chẽn đen, bước chân nhẹ nhàng, thanh thoát như tiên. Gần hơn chút nữa, Tạ Sơ Sinh muốn xem cho rõ người đến là nam hay nữ, già hay trẻ. Không ngờ vừa xem, anh bất giác hít một hơi dài, hai đùi không còn tự chủ nữa, run run lên. Nguyên lai là người đến có đầu có mặt nhưng không có mắt, mũi, miệng : có lông giống như tóc ngắn nhưng không có đôi tai, nói đó là người không bằng nói đó là quỷ. Nhưng ở cái đại thiên thế giới này, quỷ thật sự là từ đâu tới ? Lúc Tạ Sơ Sinh đang bồn chồn sợ hãi, lại nghe Hầu Hi Quý đang cùng “người” đó chào hỏi.
“Ui, chào anh !” ông nói “Anh đang đi qua đường hả, đi tốt đẹp nhé !”
Tạ Sơ Sinh không dám lên tiếng, thấy “người” đó cũng không trả lời Hầu Hi Quý, tự đi thẳng, đi lên quả đồi nhỏ rồi lại xuống đồi rồi đi thẳng về phía trước…
Trở về phòng, Tạ Sơ Sinh không thể chợp mắt. Anh đang định tiếp tục câu chuyện, thì có một người khác chen vào. Anh ta họ Đàm tên Nhất Tiên. Năm ấy cũng là đồng sự với Hầu Hi Quý tại Hoa Cổ Kịch đoàn của Du Huyện, hiện là Trưởng bộ phận phát hành nhà sách Tân Hoa của huyện. Anh ta nhanh chóng kể câu chuyện sau.
Không lâu trước khi Hầu Hi Quý bị buộc phải rời khỏi Hoa Cổ kịch đoàn của Du Huyện, tức giữa mùa hè năm 1979. Hoa Cổ kịch đoàn đến gặp Trưởng Xưởng đường sắt Tửu Phụ Giang xin diễn xuất. Tiếp đãi đoàn là Bí thư đảng ủy Xưởng, kiêm Xưởng trưởng Phan Hải Thọ, được biết trong đoàn có người có khả năng làm mọi việc theo ý muốn, muốn cái gì thì có cái đó, nhân vật giống như thần tiên, ông có lòng hiếu kỳ không thể kềm chế, tìm vài vị phụ trách trong đoàn, để xin gặp làm quen với Hầu Hi Quý. Hôm ấy ông đặc biệt mời Hầu Hi Quý, Đàm Nhất Tiên và Vương Vận Bân đến nhà ông làm khách.
“Hầu sư truyền, nghe nói ông muốn cái gì thì có khả năng biến ra cái đó, tôi kiến thức ít, chưa từng thấy qua.” Vừa ngồi xuống, Phan Hải Thọ đã gấp gáp đi thẳng vào vấn đề. “Hễ đưa tay ra bắt là có thể nắm được vật, đó chẳng phải là Tế Công hòa thượng sao ?” ông ta đưa tay lên không trung làm như nắm bắt vật gì, nhìn Hầu Hi Quý nói.
Hầu Hi Quý nhướng mày, ánh mắt nhìn ra ngoài cửa sổ hướng vào một cội cây, trên đó có vài con chim sẽ gai đang “chi chi cha cha” bay nhảy đuổi nhau, nhìn thần thái của ông, hiển nhiên là có chủ ý đối với câu nói của bí thư đảng ủy.
Đàm Nhất Tiên hiểu Hầu Hi Quý, biết tiếp thu và có khả năng làm được, nhưng làm thế nào để ông chịu mở miệng, để Hầu Hi Quý có thể làm ông thỏa mãn đầy đủ được. Vì vậy ông mới “giải vây”, nói “Tế Công là thần tiên, mà nhiều người còn không tin ông ấy có chân bản lĩnh như thế. Bản lĩnh của Hầu ca của chúng tôi, ông chỉ muốn thấy biết thôi, bèn nói Tế Công không phải giả, cũng giống như nói bản lĩnh của Hầu ca chúng tôi cũng vậy chăng ?”
“Vâng, tôi tin, tôi muốn chính mắt mình thấy, mở rộng tầm mắt …”
“Hãy nói, ông muốn tôi biến ra cái gì ?” Hầu Hi Quý cuối cùng cũng thu ánh mắt lại, nhìn Phan Hải Thọ nói.
“Vậy làm ra cái gì ăn được…”
“Cái mà trong nhà ông ăn thì đã có, làm ra món gì không thể lấy từ đó ra, phải không ?” Hầu Hi Quý nhìn quanh một vòng, mắt nhìn vào tủ đồ trang sức.
“Phải đó, muốn thưởng thức cái gì ông biến ra, cái gì mới mẻ.” Phan Hải Thọ giải thích.
“Được rồi, muốn ăn cái gì, ông cứ nói thẳng ra, không cần úp úp mở mở.” Hầu Hi Quý chau chau mày.
“Rượu, hãy làm ra bình Lưu Dương tiểu khúc !” Phan Hải Thọ buột miệng nói ra.
Thời đó “Văn hóa đại cách mạng” khiến cho việc xây dựng kinh tế quốc gia bị tổn hại mà chưa có cách chữa, thị trường tiêu điều, thương phẩm khan hiếm. Nói về rượu, tại địa phương Tửu Phụ Giang, rượu Lưu Dương tiểu khúc là một thứ rượu ngon khó kiếm. Vì vậy Phan Hải Thọ muốn Hầu Hi Quý làm ra bình Lưu Dương tiểu khúc.
“Được, Lưu Dương tiểu khúc thì Lưu Dương tiểu khúc !”
Hầu Hi Quý nói xong, từ phía dưới bàn kéo ra một cái thùng đựng sơn trống không, ông muốn Phan Hải Thọ, Đàm Nhất Tiên và Vương Vận Bân, mỗi người đưa một tay tiếp xúc cạnh thùng, nhìn tả hữu, quay đầu lấy bộ đồ công tác màu lam của Phan Hải Thọ treo trên tường, tay kéo phủ trùm trên miệng thùng, che bàn tay của ba người Phan, Đàm, Vương, lúc đó mới cười hài lòng, sau đó lùi mấy bước đứng lại. Bỗng nhiên ông quay đầu nhìn về phía ngoài cửa sổ, nói : “Rượu loại này uống nhiều rồi không ngon lắm, muốn loại khác không.?” Ông hỏi Phan Hải Thọ.
“Chỉ muốn Lưu Dương tiểu khúc, không muốn thứ khác.” Phan Hải Thọ cho rằng Hầu Hi Quý thấy khó, thầm nghĩ rằng Hầu Hi Quý có thể là nhân vật khoác lác, trước mặt Phan Hải Thọ này có thể phá sản, nên không chút thỏa hiệp, khăng khăng muốn rượu đó.
“Muốn chắc chứ ?”
“Muốn chắc !”
Hầu Hi Quý không nói thêm lời nào, thở ra một hơi dài, sâu, từ từ bước tới trước cửa sổ, đưa tay gõ gõ tấm kính pha lê, rồi đưa tay ra ngoài quơ quơ, bỗng nhiên quay đầu lại, nói : “Hãy đến, dỡ bộ đồ công tác lên xem.”
Phan Hải Thọ đã rất gấp gáp, Hầu Hi Quý vừa mới nói xong, ông đã dỡ bộ đồ công tác lên, trong thùng đã có sẵn một chai rượu để đứng, chính là Lưu Dương tiểu khúc.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Rượu Lưu Dương tiểu khúc
Bàn tay của ba người vẫn còn vịn chắc trên cạnh thùng, họ không chút cảm giác gì về việc có vật gì xuyên qua cái thùng đựng sơn trống không !
“Thật là kỳ quái ! Thật là kỳ quái !” Phan Hải Thọ luôn miệng kêu kỳ quái, lắc đầu nguầy nguậy như cái trống lắc (hóa lang cổ 货郎鼓)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Cái trống lắc (hóa lang cổ 货郎鼓)
“Không dám tin, Thật là không dám tin”
Đàm Nhất Tiên nhìn Phan Hải Thọ cười. Có vẻ như họ là cán bộ Đảng, đừng nói là họ không tin Hầu Hi Quý di chuyển vật từ trong không trung, dù cho khoa học có kiểm tra trắc định, chứng minh khí công xác thực là có công lực không thể so sánh, lại diện đối diện với nhà khí công họng sắt gân thép, họ cũng không tin là thật. Đàm Nhất Tiên hi vọng Phan Hải Thọ tin phục, cũng hi vọng ông từ nay có thể thay đổi quan niệm. Không lý giải được một sự kiện gì đó cũng không hẳn đó toàn là giả. Duy tâm chủ nghĩa, nghĩ đến đấy, Đàm Nhất Tiên ra “đề” cho Hầu Hi Quý.
“Này, Hầu ca, rượu có rồi, nhưng không thể không có đồ nhắm ? phải chăng sẵn tiện làm thêm một ít ?”
“Thức ăn ? Mấy người các ông ở đây có nhiều trò quá !” Hầu Hi Quý đưa tay gãi gãi cái đầu vừa to vừa tròn của mình, khiến cho Phan Hải Thọ nhe răng cười, “Cũng có lý đấy, uống rượu nóng cổ nên có cái gì ăn để hạ tửu.”
Nói xong, ông đưa tay chỉ cái thau tráng men bên trong không có gì, để trên ghế, nhưng bỗng nhiên trong thau xuất hiện đầy một thau trứng gà.
Phan Hải Thọ lại kinh ngạc. Cái thau tráng men vừa mới trống không, sao bỗng nhiên lại xuất hiện nhiều trứng đến thế ? Vậy phải chăng Hầu Hi Quý chỉ tay một cái, cái thau cũng có thể xuất hiện một thau ngọc, cái thùng cũng có thể trở thành một thùng ngọc ?
“Đáng tiếc là chưa chín, chưa thể nhắm với rượu được.” Vương Vận Bân vốn không nhiều lời, thấy Hầu Hi Quý từ trong không trung làm xuất hiện một thau trứng tươi, nghĩ rằng không luộc không nấu thì ăn không được, buột miệng nói nhỏ một câu, ý nghĩ đương nhiên là mười phần đáng tiếc.
Hầu Hi Quý dĩ nhiên là nghe thấy. Ông nhìn Vương Vận Bân một cái, quay đầu yêu cầu Phan Hải Thọ đem lại một thau nước lạnh. Phan Hải Thọ cũng không dám hỏi nhiều nói nhiều, ông hoàn toàn tin vị khách hôm nay không phải là bọn rỗi hơi vẽ chuyện, muốn ông làm cái gì, ông đều chuẩn bị thực hiện, phục tùng ý kiến của Hầu Hi Quý, lập tức bưng lại một thau nước lạnh để trước mặt Hầu Hi Quý. Hầu Hi Quý ngồi chồm hỗm xuống, cầm từng quả trứng từ thau tráng men bỏ vào thau nước lạnh. Mọi người không biết Hầu Hi Quý muốn làm gì, bèn đồng loạt đến giúp ông. Đợi khi toàn bộ trứng đã bỏ hết vào thau nước, Hầu Hi Quý hít một hơi đứng dậy, dùng bàn tay hướng về thau nước quạt vài cái, xong bước đi với bước dài, ngồi xuống. Khoảng chừng mười phút, ông từ ghế ngồi đứng bật dậy, hướng về mọi người, vẫy tay, nói : “Được rồi, chín rồi, mọi người ăn đi.”
Mọi người lúc đó bán tín bán nghi, đã không thấy trứng gà được cho vào nồi bắc lên bếp, cũng chẳng thấy cái thau nước có củi lửa gì hết, thì làm sao trứng gà được luộc chín ? Đàm Nhất Tiên bước tới trước, đưa ngón tay trỏ nhúng vào nước thử, nóng muốn phỏng tay, ông ta giật mình. Lấy một quả trứng đập, bóc vỏ, ăn thử, quả nhiên chín hết. Phan Hải Thọ và Vương Vận Bân thấy ăn có vẻ ngon, nhìn nhau một cái rồi cũng sáp vô, mạnh ai nấy bóc vỏ và ăn.
Phan Hải Thọ đối với Hầu Hi Quý vừa kính vừa sợ, đã biết rằng cơ hội khó được, được thấy một kỳ nhân như thế, cuộc đời hẳn là không uổng phí, lại cảm thấy chính mắt mình nhìn thấy kỳ công dị thuật của Hầu Hi Quý, thật mười phần thú vị, cũng nghĩ tới việc tự mình can dự một lần xem sao. Vì vậy ông quét mắt nhìn mọi người, nói : “Nhiều trứng như thế, chỉ tiếc rằng rượu chỉ có một chai, chưa đã thèm.”
“Ông cho rằng ít hả ?” Hầu Hi Quý lập tức tiếp lời “Bình trà bên kia toàn là rượu đó.” Ông điềm đạm mỉm cười, nhìn về phía bình trà trên trà kỷ hất hất đầu.
Lần này Đàm Nhất Tiên không tin, ông liền lấy một chung nhỏ rót trà, hớp một cái, cười “hi hi”
“Hầu ca, lần này không linh rồi, đây là trà mà !” Anh ta để cái chung xuống, buông một câu : “Anh gạt chúng tôi rồi.”
Hầu Hi Quý không vui khi nghe chữ “gạt”, ông nhíu mày vươn cổ lên cao “Ông rót thêm một chung nữa xem nào, rót lại một chung nhé ! Nếu không phải rượu, tôi sẽ rập đầu ba cái ra tiếng cho các ông xem !”
Đàm Nhất Tiên nghiêng đầu, rót nước trà vào trong chung, mọi người nhìn trừng trừng vào chung, hớp một cái, quả nhiên là rượu ngon !
Gần như đồng thời khi Đàm Nhất Tiên nâng cái chung lên, Phan Hải Thọ và Vương Vận Bân đều nghe thấy mùi rượu đập vào mũi.
“Tế Công sống ! Tế Công sống !” Phan Hải Thọ không uống rượu, ưỡn thẳng người luôn miệng hô, trong con mắt ánh lên vẻ kính cẩn sợ sệt. “Phục ông rồi, tôi phục ông rồi !”
Đàm Nhất Tiên kể đến đây, đứng dậy đi vài bước trong phòng, trở lại chỗ cũ ngồi xuống, nói : “Chuyện về Hầu Hi Quý kể không hết đâu, chỉ lấy vài câu chuyện trong một lần đi diễn xuất ở làng Loan Sơn, có tính ly kỳ thần thoại nhất thôi.” Ông có vẻ như lục lọi trong ký ức, dừng lại hai ba giây mới lại nói tiếp.
Cũng trong năm đó, giữa mùa hạ, Hoa Cổ kịch đoàn của Du Huyện di chuyển đến làng Loan Sơn, ban đêm ngủ trên những tấm ván lót sàn, nhớ lại đêm đầu khi mới tới làng Loan Sơn, Hầu Hi Quý vừa mới vào nhà, các diễn viên và nhân viên đang nằm trên ván nhao nhao lên :
“Hầu ca ơi, muỗi nhiều quá, ngủ không được, anh hãy cho chúng tôi xem trò gì mới đi.”
Hầu Hi Quý gãi da đầu một cái, chống nạnh đứng giữa phòng, đợi mọi người bớt ồn.
“Hầu ca, lần này anh đừng mặc áo nhé, cứ để mình trần mặc quần đùi thôi !”
Hầu Hi Quý nghiêng nghiêng đầu “Hãy nói đi, các anh muốn trò gì mới ?” Nói xong ông cởi áo thun ra, để lộ ngực bụng, đứng trên ván. Thấy không ai đáp lời, ông nổi dóa la lên “Có mắc *** thì cứ ***, nếu không thì tôi đi ngủ à.”
“Thuốc lá, làm ra gói thuốc lá đi !”
“Thuốc, thuốc thuốc, muốn thuốc lá gì, nói cho rõ ràng !”
“Đỗ Quyên Hoa, muốn Đỗ Quyên Hoa !”

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thuốc lá Đỗ Quyên Hoa
Mọi người cho rằng Hầu Hi Quý nhất định sẽ khó khăn, loại thuốc lá Đỗ Quyên Hoa này, Du Huyện không có hàng, làng Loan Sơn thì càng khỏi nói, đó là loại thuốc lá của tỉnh Thanh Hải, Hầu Hi Quý có thể làm ra rượu Lưu Dương tiểu khúc và trứng gà, những vật này ở vùng này có, còn Đỗ Quyên Hoa ở nơi xa xôi ngàn dặm, làm sao có thể băng rừng vượt núi, qua sông lớn chứ ? không chắc có thể bay tới làng Loan Sơn ?
“Đỗ Quyên Hoa thì Đỗ Quyên Hoa” Hầu Hi Quý lại không cho là như thế, vỗ vỗ da bụng, đứng mặt hướng về cửa sổ, đang chấp hai tay lại.
“Không được, lần này phải để cho Đỗ Quyên Hoa dừng lại trên khuôn cửa, không cho nó rơi xuống đất.” Có người tự đề xuất một chuyện khó. Đỗ Quyên Hoa khi tới, nó phải nằm trên khuôn cửa sổ cách xa Hầu Hi Quý 4 mét nhé ?!
“Được, trên khuôn cửa sổ thì trên khuôn cửa sổ !” Hầu Hi Quý phát biểu đáp ứng yêu cầu, ông quét mắt nhìn mọi người, hỏi “Ai chịu xuất tiền ra ?” Mọi người không ai gật đầu.
“Tôi xuất !” Đàm Nhất Tiên không muốn mất hứng, vỗ ngực nói, móc ra 5 hào 7 xu tiền (đơn giá thời đó), xòe tay đưa cho Hầu Hi Quý.
Hầu Hi Quý không nói gì thêm, ngưng thần mặc niệm, thổi nhẹ vào 5 hào 7 xu trên tay, tiền đó bỗng biến mất không để lại dấu vết, như chưa hề có.
“Xong rồi, đến lấy thuốc lá đi.” Hầu Hi Quý đặt mông ngồi xuống.
Lúc đó mọi người mới đồng loạt chạy đến coi khuôn cửa, quả nhiên có bao thuốc lá nằm ở đó, có người chộp lấy coi, quả nhiên là một hộp thuốc lá hoàn chỉnh Đỗ Quyên Hoa.
Mọi người đều vỗ tay, muốn Hầu Hi Quý làm lại lần nữa.
“Ăn no rồi ? Làm thêm nữa à !” Hầu Hi Quý bình thản nằm dài trên ván lót, “Các anh không ngủ, tôi ngủ !”
Mặc tình cho mọi người kêu gọi, đẩy, kéo, Hầu Hi Quý thôi không đáp ứng nữa.
(Trích sách Đông Phương Kỳ Nhân, Truyền Bình dịch)
Theo: duylucthien.wordpress.com

Sửa bởi catdang: 19/05/2020 - 09:08


#5 catdang

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 471 Bài viết:
  • 64 thanks

Gửi vào 19/05/2020 - 09:41

TRƯƠNG BẢO THẮNG TRONG TRẬN ĐỘNG ĐẤT ĐƯỜNG SƠN KHỦNG KHIẾP.
Nguồn trang:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tỉnh Liêu Ninh có huyện Hoàn Nhân giao thông khá bất tiện, nơi có phần đuôi của dãy núi Trường Bạch. Từ thị trấn Bổn Khê đến huyện Hoàn Nhân không có đường đi, chỉ có đường mòn, xe hơi chạy một ngày mới đến. Một khi đi vào huyện lỵ, khắp nơi chỉ thấy núi xanh đứng sừng sững, suối chảy quanh, khiến người ta có cảm giác giống như câu thơ “Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ”. Tại đây có thể thấy cảnh đại sâm lâm nguyên thủy, xa tít không có khói sinh hoạt của con người, càng có thể thấy rừng cây nhân sâm treo trên núi giống như họa. Có nhiều người già sống tại vùng núi này, cả đời không hề nhìn thấy xe lửa. Xuất phát từ huyện thành, đi vài chục cây số mới đến một nơi có hơn ngàn người khai thác mỏ chì. Huyện Hoàn Nhân xưa nay là huyện ở cuối đường, có điều may mắn là có khoáng sản nên có công nhân khai khoáng kiếm sống qua ngày, tiền công so với nông dân, hơn nhiều. Do đó có nhiều người vốn là nông dân nhưng thích khai hộ khẩu là công nhân công nghiệp. Người cư trú tại thị trấn Bổn Khê đương nhiên không thể thích công tác tại mỏ chì Hoàn Nhân để mang danh “ người trong núi”.
Thời kỳ “Văn hóa đại cách mạng” một số nhà cầm quyền muốn trừng phạt những người “lý lịch có vấn đề”, người “phạm sai lầm”, hoặc là bọn họ muốn tiếp thu công nhân, nông dân thuộc diện “tái giáo dục” bèn đưa họ tới vùng sơn thôn huyện Hoàn Nhân để thi hành tái giáo dục. Có một số người bị bọn họ cho là có sai lầm nhưng không nặng, thì bị đưa tới nơi khai thác mỏ chì. Cả gia đình của Trương Bảo Thắng chính là loại đối tượng này, là người thành thị bị đưa về nông thôn rồi bị đưa đến nơi khai khoáng này.
Theo tuổi tác dần lớn lên, Trương Bảo Thắng nên đi học cho biết chữ. Cả nhà Trương Tây Nghiêu tuy đời sống khó khăn, nhưng vì tương lai của con trẻ, họ tiết kiệm trong ăn uống và chi tiêu, cương quyết đầu tư cho con cái được đi học giống như những nhà khác. Trương Bảo Thắng cũng không ngoại lệ.
“Tự cổ anh hùng xuất thiếu niên” (từ xưa tính chất anh hùng biểu hiện từ lúc thiếu niên). Có người từ lúc tuổi còn rất nhỏ, đã biểu hiện bản sắc anh hùng, lớn trở thành anh hùng hoặc danh nhân, như Nhạc Phi. Có người khi trưởng thành mới thành anh hùng hoặc danh nhân, khi truy nguyên đến thời thiếu niên thì thấy y gan dạ hơn người hoặc có biểu hiện vượt xa người thường, như Tư Mã Quang đập vỡ lu cứu người bị té trong lu đầy nước.
Khi Trương Bảo Thắng đi học, có những việc kỳ lạ xảy ra. Mỗi khi thầy giáo giảng bài, em có một loại cảm nhận kỳ lạ, nó khiến em sau khi lên lớp một hồi thì biết được toàn bộ nội dung thầy muốn giảng. Vì vậy trong một tiết học, em chỉ có thể ngồi yên 15 phút, sau đó em không thể an tâm nghe giảng, không chỉ nói chuyện, tay chân còn táy máy, ảnh hưởng trật tự trong lớp. Các bạn khác nói chuyện, thầy giáo cảnh cáo một hai lần thì sửa đổi, với Bảo Thắng thì không, bạn học nói rằng em : “ Lên lớp thì nói chuyện, xuống lớp thì cãi lộn”. Giáo viên chủ nhiệm không có biện pháp đối trị. Vì vậy trong lớp chỉ có một mình em không một lần nào được nhận cờ đỏ về chấp hành kỷ luật. Để khắc phục việc em nói chuyện trong lớp, chủ nhiệm lớp từng điều em ngồi bên cạnh bạn học có kỷ luật tốt, nhưng cũng vô hiệu, điều đi khắp lớp rồi nhưng vẫn không hiệu quả. Em không có hứng thú đối với môn toán, bài tập toán em toàn nhờ bạn làm giùm, sau đó làm đồ chơi để đền đáp cho bạn. Thế nhưng em lại thích môn văn, từ ngày đầu đi học, em đã viết nhật ký, tuần ký. Thầy giáo cảm thấy kỳ lạ, mỗi buổi chỉ học vài chữ, sao em lại có thể viết nhật ký, tuần ký chứ ?
Thầy giáo cho rằng người lớn trong nhà có dạy em, sau có đến nhà hỏi, người lớn cơ bản là không hề dạy cho em chữ nào. Sau thầy giáo cho rằng hai cô chị của em đã dạy cho em. Nhưng hai người đều nói rằng không biết em mình có viết văn chương.
Thầy giáo dạy ngữ văn dẫn Trương Bảo Thắng đến báo cáo với chủ nhiệm bộ môn về khả năng phi thường của em, chủ nhiệm bộ môn báo cáo với hiệu trưởng, họ đều bán tín bán nghi. Vì vậy họ bàn với nhau mở một cuộc kiểm tra để khảo sát xem hư thực thế nào. Họ gọi Bảo Thắng lên văn phòng, yêu cầu em làm một bài văn xoay quanh đề tài ánh trăng. Bảo Thắng ngồi trước trang giấy trắng suy nghĩ một chút rồi viết bài “Trăng thu” như sau :
Đang lúc sen thu nở đầy ao, tôi theo mẹ về nhà bà ngoại ở Hà Liên thôn. Ban ngày mọi người đều ra đồng gặt lúa. Tối đến mới có thời gian rảnh nói chuyện, chúng tôi ngồi bên ao sen, nhìn mặt trăng dưới nước, trăng thật đẹp, chiếu xuống ngàn dặm, không phân thôn giới, không phân quốc giới, đem toàn bộ ánh sáng cống hiến cho thế gian, trăng là thiên sứ vô tư nhất trong cõi nhân gian
Thầy giáo nhìn đồng hồ, chưa đầy năm phút, Bảo Thắng đã giao bài.
Những người tại hiện trường đều kinh ngạc. Ai trong số họ cũng khó tin : cả trường sàng lọc trong số học sinh giỏi lớp một cũng không thể có, một học sinh không chăm chú nghe giảng bài trong lớp, lại có thể trong vài phút múa bút viết ra bài văn có tư tưởng sâu sắc, có năng lực tưởng tượng phong phú đến thế.
Hiệu trưởng không tin ở mắt mình, nói với Bảo Thắng : “Học sinh Trương Bảo Thắng, bài văn về mặt trăng của em tả rất hay, có thể viết thêm một bài nữa không ?”
Bảo Thắng không chút khách sáo, phủi tay nói “Không viết đâu !” Hiệu trưởng nghi ngờ hỏi : “Vì sao ?” Trương Bảo Thắng đứng lên trịch thượng nói : “ Tôi tả một bài là đủ chứng minh trình độ của mình. Hà tất phải tả bài thứ hai, bài thứ ba ?”
Còn nhỏ tuổi mà nói năng như thế, mọi người nghe xong đều kinh sợ. Để một lần nữa chứng thực năng lực viết văn của Bảo Thắng, để cho hiệu trưởng thấy đáng công rời khỏi ghế ngồi, thầy giáo ngữ văn khuyên giải : “Học sinh Bảo Thắng, chúng tôi yêu cầu em viết thêm một bài nữa thì cứ viết thêm một bài đi”. Bảo Thắng thấy thầy giáo dạy văn của mình đích thân khuyên giải, bèn liếc mắt nói : “Viết gì ?”. Thầy giáo nói : “Viết một bài văn về mặt trời”.
“Vậy thì vì thầy mà viết vậy, nhưng mà bài thứ hai này không cần động bút”. Bảo Thắng mỉm miệng cười hí hí bày tỏ : “Vừa rồi viết về mặt trăng là viết về chính tôi, ánh sáng của tôi là ánh sáng của ông mặt trời phản xạ lại đó nha ! ông càng vô tư, ánh sáng và hơi ấm càng rải xuống nhân gian, chiếu sáng cho vạn vật trên thế gian thành trưởng !”
Mọi người càng thêm kinh ngạc. Đứa trẻ nhỏ tuổi này sao lại có tri thức về thiên văn địa lý thế ! lại còn biểu diễn xuất khẩu thành văn, thật là hài hòa, kỳ tích ! thật là kỳ tích !
Tin tức về việc Bảo Thắng biết làm văn làm phú lan ra khắp trường. Thầy cô giáo bàn tán với nhau : kỳ tài, kỳ tài, tận tâm bồi dưỡng, tương lai khẳng định sẽ thành đại văn hào, đại tác gia !
Do em làm văn rất hay nên về sau có lần từng làm đại biểu học sinh của trường đi dự thi cấp huyện. Kết quả thi, môn toán làm hỏng 3 phần nên không đoạt giải nhất, nhưng cộng chung văn và toán thì đoạt giải ba. Do đó em được phê chuẩn vượt cấp, từ lớp một nhảy lên lớp ba.
Nhưng vì em không có hứng thú đối với việc đọc sách, lại thêm gia cảnh khốn quẫn, chưa học xong lớp ba thì em đã học khóa trình của lớp bốn, chưa học xong lớp 5, lớp 6, em đã học chương trình của sơ trung, chưa hoàn thành sơ trung thì em bỏ học. Để dễ tìm việc làm trong tương lai, chị của em đã nhờ người chạy cửa sau, lo cho em có được văn bằng tốt nghiệp tiểu học.
Tính tình kỳ quái của em càng lúc càng quái. Em đối với tất cả mọi việc trên thế gian giống như không hề tồn tại, chỉ có một điểm, em đối với con gái có một cảm giác thần bí đặc biệt, chỉ cần gặp cô gái mà em thích, thì em nhìn ngó không chớp mắt, rồi cười. Có lúc bị con gái phát hiện, người ta trừng mắt nhìn em thì em mau chóng bỏ đi, nhưng vẫn ngồi ở góc tường, hoặc nấp sau cây to, thò nửa mặt ra tiếp tục nhìn người ta, và cười người ta. Đối với việc này, có người đoán rằng đứa con trai này đã trồng cây si !
Trương Tây Nghiêu là người cha rất nghiêm khắc. Ông không cho phép con cái của mình làm điều gì thương tổn đến thanh danh nhà họ Trương. Bảo Thắng đã không học hành đàng hoàng, lại không nghe quản giáo, lại theo đuổi cười đùa con gái. Điều đó khiến ông cảm thấy thương tổn. Ngoài ra, chính ông cũng đang trong hoàn cảnh bất hạnh. Vì vậy có lúc ông như sư tử nổi giận, đánh mắng Bảo Thắng một cách dữ dằn. Cứ thế, tâm lý đối kháng giữa Tây Nghiêu và Bảo Thắng ngày càng cường liệt, tính cách của em thay đổi, ngày càng quật cường.
Quật cường khiến người ta phấn chấn. Phấn chấn khiến người ta sẵn sàng đương đầu. Bảo Thắng mong muốn sớm thực hiện điều mà thầy bói già đã phán, tranh thủ thực thi “một người không ai bì kịp”.
Do gia cảnh khốn quẫn, cũng do Bảo Thắng không chịu học, Trương Tây Nghiêu quyết định tìm việc làm cho em, một là giải quyết vấn đề ăn cơm, hai là giảm bớt gánh nặng cho gia đình. Về sau do người quen giới thiệu, Trương Bảo Thắng đến mỏ chì Hoàn Sơn làm việc lặt vặt.
Thấm thoát đã 18 năm. Trương Bảo Thắng đã đến tuổi thanh niên. Em đã biết dựa vào chính mình để tự nuôi sống, em cảm thấy nếu cứ ở mãi nơi góc núi có mỏ chì này, sợ rằng tự mình nuôi mình cũng không nổi. Bởi vì bản thân, một là không có tay nghề kỹ thuật, hai là không có trình độ văn hóa. Vì vậy, em cũng giống như một số thanh niên khác, có ý nghĩ chuyển đi nơi khác.
Từ lúc em rời khỏi Nam Kinh, biết rằng mình cũng có gia đình ở Nam Kinh. Cha hãy còn khỏe, ba người anh và ba người chị đang làm việc. Nam Kinh so với mỏ chì ở góc núi này thì rộng lớn hơn. Vì vậy em quyết định tìm đến với họ.
Tại Bổn Khê, nơi phòng bán vé xe lửa, Trương Bảo Thắng cúi đầu, lúc thì nhìn vào cửa sổ bán vé, lúc thì buồn rầu đút hai tay vào túi áo, em không có đủ tiền mua vé.
“Mua vé đi Thẩm Dương” em lớn tiếng nói…
Trước bến xe lửa thành phố Thẩm Dương, em đi chầm chậm trong đám đông, đợi chuyến xe lửa đi Nam Kinh. Em chỉ mua loại vé hơn một nguyên (nhân dân tệ), lòng nghĩ : miễn sao có thể lên được xe lửa là được rồi.
Xe chuyển bánh, luồng suy nghĩ của em lúc lên lúc xuống, lâu lâu rồi mà không thể bình tĩnh, trước mắt chuyện gì đang đợi em. Việc kiểm soát vé bắt đầu. Một nữ nhân viên đi đến trước mặt Trương Bảo Thắng, chỉ thấy em đàng hoàng rút vé xe ra đưa cho nữ nhân viên.
-Không được, phiếu của anh chỉ tới trạm đã qua lâu rồi
-Tôi đi Nam Kinh, nhờ người khác mua giùm vé
-Nhờ ai mua giùm vé ?
-Tại bến xe Thẩm Dương tôi chen không nổi , bèn đưa tiền cho một người cao lớn nhờ anh ta mua giùm vé xe
-Anh đưa cho hắn bao nhiêu tiền ?
-Tôi dựa vào giá vé đi Nam Kinh, giao đủ tiền cho anh ta.
-Anh bị lừa rồi ! Anh phải bổ sung vé xe đi Nam Kinh
-Lúc đi tôi chỉ mang theo đủ tiền mua vé, không có tiền trả thêm, không tin cô xem nè
Trương Bảo Thắng móc túi lấy ra chỉ còn vài nguyên lẻ
-Đây là tiền để ăn cơm
Thừa vụ viên là một cô nương có lòng thương người, chỉ đem sự việc báo cáo với trưởng xa. Qua nghiên cứu, trưởng xa chỉ còn cách viết một tờ trình ghi : cậu bé này đi xa một mình bị gạt, không có tiền bổ sung vé, xin trạm Nam Kinh cho qua.
Trương Bảo Thắng cười. Trước mặt hai người hảo tâm này, em cảm kích nói không nên lời, xét kỹ, chỉ vì bất đắc dĩ mà em phải lừa dối họ.
Trên toa xe, bỗng một cô gái mười sáu, mười bảy tuổi kêu to : “Cái đồng hồ của tôi sao đâu mất rồi ?” Cha cô gái tất bật tìm kiếm. Người chung quanh nhìn quanh quẫn hai cha con với ánh mắt ái ngại. Một bầu không khí không an ninh bao trùm các lữ khách. Lúc đó, cô thừa vụ viên có lòng thương người đi qua, cô lại nhìn tới nhìn lui tìm giúp nhưng cũng không thấy gì. Trương Bảo Thắng không hiểu sao đột nhiên nảy sinh cảm tình đặc biệt đối với cô gái trẻ này : cô ấy rất nhiệt tình với người khác, cô ấy có tấm lòng rất tốt, cô đáng yêu làm sao ! Một tình cảm ái mộ dâng lên. Bảo Thắng bất giác từ đầu kia toa xe đi đến bên cạnh cô gái mất đồng hồ. Em mặc nhiên không nói, chỉ thấy em nhìn lướt qua cô gái phía trước và phía sau một lượt, thò tay vào băng ghế phía sau mò mẫm một chút, rồi lấy ra một cái đồng hồ, bèn kêu lên : “ Cái đồng hồ này của ai ?” Cô gái mất đồng hồ thấy vậy liền đáp : “Đồng hồ đó của tôi”
Mọi người nhìn em với ánh mắt cảm kích, đó không phải chỉ vì em không tham của rơi, mà còn vì em kiếm ra đồng hồ, khiến cho các lữ khách chung quanh không còn bị áp lực nghi ngờ đè nặng nữa.
Cô thừa vụ viên càng cám ơn Trương Bảo Thắng, vì cô có trách nhiệm quản lý toa xe này, nếu đồ vật của lữ khách bị mất thì cô cũng cảm thấy không hoàn thành nhiệm vụ. Sự việc tạo cơ hội cho hai người nói chuyện với nhau. Qua đàm thoại, Bảo Thắng biết cô họ Vương, nhà ở Nam Kinh. Cô gái biết Trương Bảo Thắng cũng là người Nam Kinh, bèn hỏi thêm về tình trạng của em. Bảo Thắng nói với cô gái rằng em công tác tại mỏ chì Hoàn Nhân thị trấn Bổn Khê, độc thân một mình. Thực ra lúc đó em chỉ làm tạp vụ linh hoạt tùy lúc ở vùng núi khoáng sản mà thôi.
Không biết đó là nhiệt tình tuổi trẻ hay tình cảm sơ luyến, hai người càng nói chuyện càng hợp, cuộc gặp gỡ lớn, tiếc vì thời gian đã muộn, phải rời nhau. Sau cùng nữ thừa vụ viên biểu thị : Lộ trình xe lửa của cô thường đi qua Thẩm Dương, Đan Đông, sau này cô sẽ đến Hoàn Nhân thăm Bảo Thắng.
Không biết do cảm động vì nói chuyện với người khác phái, hay do sự kích thích của hoàn cảnh đặc biệt, em thấy tàu hỏa ban đêm đi nhanh, Bảo Thắng nhìn qua cửa sổ xa xa thấy ánh đèn lấp lánh, không phải em thưởng thức cảnh đêm, mà vì em quan sát thấy phía trước xuất hiện một bức màn, em thường nhờ bức màn này mà thấy được những sự vật mà người thường không thể thấy. Hiện tại trên bức màn xuất hiện huyễn ảnh đáng sợ : núi gào biển thét, đất chuyển động, núi lung lay, chớp lóa sấm đùng, lầu phòng ngã đổ, gà chó tán loạn chạy trốn, người bị thanh thép xuyên thấu treo ở trên không. Em trước nay chưa thấy cảnh tượng này, nên cũng không biết đó là cảnh tượng gì. Một loại cảm giác khủng bố kéo đến. Bỗng nhiên con đường phía trước xe lửa hiện ra một vầng sáng, lúc đầu màu xanh lợt, sau lại giống ánh điện chớp. Tiếp đó là âm thanh chát chúa từ xe lửa, đồng thời từ mặt đất bằng nổi lên những âm thanh kinh thiên động địa như tiếng sấm nổ. Người ta kêu thét lên kinh khủng, chờ đợi, người ta dự cảm có tai nạn xảy ra. Chỉ cảm thấy toa xe bị ảnh hưởng địa chấn lồng lên, kêu rầm rầm. “ Xe lửa trật bánh rồi ! trật đường rầy rồi !”
Sau những tiếng kêu hỗn loạn đó, từ phòng phát thanh truyền lại tiếng của trưởng xa : “Các đồng chí hành khách, xin hãy bình tĩnh ! chúng ta gặp phải địa chấn, xe không thể chạy tới được nữa, xin quý vị hành khách đừng hoảng loạn”
Sau họ mới biết, đó là trận động đất cực lớn Đường Sơn chấn động thế giới, xảy ra năm 1976, khiến cho 400.000 người bị thương vong. Cảm nhận của Trương Bảo Thắng trên xe lúc đó, không biết đó là dự cảm hay là cảm giác huyễn ảo, hoặc là năng lực nhìn thấy trước cơn đại địa chấn, chỉ đáng tiếc là em không có cách nào đem thông tin đó báo cho mọi người biết trước, đương nhiên là nếu có báo trước cho người khác biết, vị tất là họ đã tin có sự việc như vậy sắp xảy ra.
Vào hồi 3 giờ 42 phút sáng ngày 28 tháng 7 năm 1976, trận động đất 7.8 độ richter hướng thẳng về thành phố Đường Sơn đang say ngủ thuộc địa phận Hà Bắc, cách thủ đô Bắc Kinh khoảng 140 km về phía Đông. Đường Sơn là thành phố công nghiệp trọng yếu, với nhiều hệ thống đường sắt quan trọng, trong đó có tuyến đường liên thông giữa Bắc Kinh và vùng tây bắc Trung Quốc.
Mặc dù chỉ diễn ra trong vòng 23 giây, đó là trận động đất gây nhiều thiệt hại về người nhất thế kỷ 20. Chỉ 15 giờ đồng hồ sau, nó lại kéo theo một cơn dư chấn, tiếp tục gây ra cái chết của những người sống sót còn kẹt dưới đống đổ nát. Theo con số thống kê chính thức, hơn 242400 người đã chết. 164600 người bị thương nặng và 4200 đứa trẻ rơi vào cảnh mồ côi.
Bản thân thành phố cũng bị san bằng với 93% số hộ dân và 78% công trình công nghiệp bị hủy hoại. Trận động đất đã tàn phá cơ sở hạ tầng của thành phố, làm sập cầu, hỏng hệ thống đường dây điện, nguồn cung cấp nước bị ô nhiễm, hệ thống điện thoại và điện tín không hoạt động. Cả thành phố dường như bị cô lập…
Sau khi trạng thái hỗn loạn đã qua, từ trên xe hướng nhìn về phía xa, thành phố cổ Đường Sơn chỉ còn là một đống đổ nát. Từ bốn phương tám hướng, có những đội quân lớn chạy lại ứng cứu. Có một đoàn người chạy qua chỗ Trương Bảo Thắng ngồi trên xe lửa. Qua lời đàm thoại của những người đó, được biết cần đưa những người trên xe lửa trở về nguyên quán. Để khỏi bị đưa về Bổn Khê, trong lúc gấp gáp, em nẩy ra ý nói gia đình mình ở trong thành phố Đường Sơn. Trong lúc một đồng chí trong đội công tác đưa em đến Đường Sơn tìm nhà, em chỉ vào một đống vách tường bị đổ nói : “Đó là nhà của tôi” em nhờ vào khả năng đặc biệt của bức màn cảm giác trong não, biết rằng bị đè dưới đống đổ nát đó toàn là người chết.
Đội công tác bèn đưa em vào diện cô nhi để xử lý. Em ngồi trên một chiếc xe ca lớn, xe chạy đi, không biết qua bao nhiêu đường lộ mới đến một phi trường. Em và nhiều trẻ khác bị xếp loại là cô nhi sau động đất, được đưa lên một phi cơ quân sự. Đây là lần đầu tiên em ngồi máy bay, nghe nói là sẽ đưa mọi người tới Đại Liên, em rất vui mừng. Không chỉ được đi phi cơ, sau khi tới Đại Liên, còn có thể được đi tàu tới Nam Kinh. Những đứa trẻ khác, nước mắt đầm đìa, chỉ nghĩ đến việc vừa mất người thân, chỉ có em trông đợi mau tới Nam Kinh gặp cha và các anh các chị.
Trong trại tiếp đón ở Đại Liên, Trương Bảo Thắng nói với nhân viên công tác em còn bà con ở Nam Kinh nên muốn đến đó. Lãnh đạo của trại tiếp nhận đương nhiên hi vọng các trẻ có nơi đón tiếp, bèn viết thơ giới thiệu cho em. Em cầm thơ giới thiệu, cùng với cái giấy lúc trước trưởng hỏa xa đã cấp cho em, thuận lợi đến được Nam Kinh, dựa vào ký ức lúc nhỏ, tìm được nhà.
Em kể lại cho người nhà tại Nam Kinh cơn đại địa chấn bi thảm tại Đường Sơn và tình cảnh mình đã gặp, giống như kể truyện cổ tích. Người nhà của em nghe kể say mê giống như nghe truyện thần thoại.
Vài hôm sau Trương Bảo Thắng khẩn cầu cha và các anh chị : “Có thể tìm cho tôi một công việc tại Nam Kinh không ?” Em được lời đáp là : “Khó nha !” Vì Bảo Thắng người gầy nhỏ, nếu cần tìm người lực lưỡng thì chẳng ai chọn, chỉ có ai tìm người nho nhã thì mới được, lại nữa em không có bao nhiêu trình độ văn hóa. Trong tâm mục của gia đình tại Nam Kinh, Bảo Thắng không mang họ Thẩm, Thẩm gia không thể lưu giữ con người “phát tài” này. Chỉ trừ người chị thứ ba vẫn còn nhiệt tình với em, những người khác đối đãi với em rất lạnh nhạt.
Em sống trong gia đình tại Nam Kinh, có lúc nhờ vào khả năng đặc dị của em mà phát hiện trong gia đình có chút bí mật : có bao nhiêu tiền đều để trong tủ, những vật có giá trị trong nhà đều để nơi ấy. Tai hại nhất là em lại đem điều phát hiện này nói ra cho mọi người nghe. Đối với việc này, người nhà lại cho rằng em không phải người ngay thẳng, có thể trộm cắp đồ vật trong nhà, do đó tăng thêm lòng phản cảm.
Trải qua vài tháng làm khách trong sinh hoạt gia đình, một lần nữa, em không thể lưu lại nhà, chỉ còn cách trở về mỏ chì Hoàn Nhân. Trên xe lửa trở về Bổn Khê, em có tìm gặp lại cô thừa vụ viên đã gặp lần trước. Hai người ước hẹn về sau sẽ còn gặp lại.
Theo : duylucthien.wordpress.com



sách "Siêu Nhân Trương Bảo Thắng"

Tác giả sách : Gia Cát Hỉ Hán
Lời tựa sách : Lâm Thanh, Phó tỉnh trưởng tỉnh Liêu Ninh
Lời bạt : Trương Văn, người phụ trách biên tập sách

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Trương Văn – (Nhà xuất bản Nhân dân Quảng Đông) – Dương Thành (Quảng Châu) tháng 11-1990.

#6 catdang

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 471 Bài viết:
  • 64 thanks

Gửi vào 19/05/2020 - 09:58

Cuốn sách “Đông phương Kỳ nhân” viết về Hầu Hi Quý của tác giả Liêu Văn Vĩ.

(Ảnh: Internet)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Trong phần lời bạt của cuốn sách, tác giả Liêu Văn Vĩ viết:
Ngày 10-02-1882, người Anh thành lập “Hội nghiên cứu siêu tâm lý học” (Society for Psychical Reseach), từ đó người châu Âu bắt đầu nghiên cứu về chính mình, về sau người Mỹ, người Liên Xô cũ, người Đức cho tới người Israel đều kế tiếp nhau đầu tư nhiều nhân lực tài lực vào, trải qua công tác gian khổ, cuối cùng khám phá và thừa nhận trong cơ thể con người có tiềm năng về năng lực đặc dị còn gọi là công năng đặc dị…
Vì vậy mà nói công năng đặc dị vẫn là một khái niệm mơ hồ, khi đề cập tới nó, mọi người chỉ có thể ngầm hiểu với nhau rằng “không thể lý giải”, “không thể nắm bắt”, “người bình thường không có cách nào làm được”, muốn đem nó lý giải ra, cho nó một định nghĩa thực tế, đó là phương hướng nghiên cứu của khoa học về nhân thể.
Nghiên cứu về khoa học nhân thể của Trung Quốc bắt đầu từ lúc xuất hiện những nhân vật có công năng đặc dị điển hình tại Trung Quốc đại lục như Trương Bảo Thắng, Nghiêm Tân (xem công năng đặc dị, kỳ 4 – TTVN). Trên thân thể họ biểu hiện ra kỳ tích, sự thần bí của nó không hề kém cạnh so với việc đĩa bay đáp xuống địa cầu.
Bởi vậy, nhà khoa học trứ danh Tiền Học Sâm (người có nhiều đóng góp quan trọng cho các chương trình không gian và tên lửa tự hành của cả Hoa Kỳ và Trung Quốc – TTVN) nói, “Một khoa học nhân thể huyền bí chính là đang sắp sửa hình thành”, nghiên cứu khoa học về nhân thể sẽ “nhất định có thể dẫn đến cuộc cách mạng khoa học, nhận thức về thế giới khách quan của nhân loại sẽ có bước nhảy vọt. Nếu làm tốt, cuộc cách mạng này có thể đến trong thế kỷ 21.”
Cuộc “cách mạng” mà giáo sư Tiền Học Sâm chỉ ra, thực tế sẽ là sự đột phá thâm sâu về nhận thức tự thân của nhân loại; mà cuộc đột phá này đối với bản thân của chính nhân loại, khởi điểm là là tái nhận thức, khám phá những năng lực còn tiềm tàng trong cơ thể, ở cuối con đường sẽ tìm ra kết luận, cứu cánh của những năng lực đặc dị này là sự tiến bộ của khoa học, nó sẽ có tác dụng như thế nào đối với sự phát triển của xã hội loài người, và sẽ được ứng dụng như thế nào trong lĩnh vực công tác và sinh hoạt. Thành thật mà nói, cuộc “cách mạng” này đòi hỏi gian nan và nỗ lực rất lớn, cũng có thể cần nhiều thế hệ tiếp nối của chúng ta, mới có thể khai mở được bí ẩn cốt lõi của thế giới, hiểu được tận cùng bí ẩn của thân thể con người.
Tôi có may mắn từ năm 1984 quen biết người có đặc dị công năng, siêu nhân Hầu Hi Quý, từ ngày quen nhau, tôi tin chắc rằng, phổ biến con người và công năng của ông, thu thập những sự việc liên quan đến ông rải rác trong dân gian, đó chính là công việc giai đoạn đầu của cuộc “cách mạng”. Vì vậy tôi thoát khỏi sự khống chế của những người coi Hầu Hi Quý là một đối tượng nghiên cứu, mà thiết lập mối quan hệ thân thiết đầu năm 1985.
Công năng đặc dị của Hầu Hi Quý khiến người ta suy nghĩ trăm chiều cũng không tìm ra lời giải, những nơi có dấu chân của ông đặt đến đều lưu lại những câu chuyện thần thoại kỳ diệu. Cái mà tôi viết ra, tuy kinh qua phỏng vấn kỹ càng và xử lý thận trọng, nhưng chung quy đều là những câu chuyện về công năng đặc dị của Hầu Hi Quý. Tôi đem chúng cống hiến cho các độc giả quan tâm tới khoa học nhân thể và các khoa học gia nghiên cứu khoa học về trí lực của con người, đem chúng viết thành tài liệu chân thật và sinh động, làm nên một nhân vật văn học tả thực, tôi cho rằng đó là điều có thể…

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tác giả :Liêu Văn Vỹ

Sửa bởi catdang: 19/05/2020 - 09:58


#7 catdang

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 471 Bài viết:
  • 64 thanks

Gửi vào 27/05/2020 - 09:39

Câu chuyện có thật về cuộc đời một người có công năng đặc dị.

Nguồn trang :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Tôi biết rằng, có một số người nghe đến “công năng đặc dị” liền phản cảm, bởi họ vốn dĩ không tin. Điều này không trách mọi người, nhưng tôi khuyên bạn, không nên vội vã phủ định nó, vì có nhiều điều “tin là có” sẽ tốt hơn cho bạn.

Từ bé đã xuất hiện công năng đặc dị, nhưng cũng vì nó mà tai họa bất ngờ ập đến.
Năm 1970, tôi sinh ra tại một thôn trang nhỏ ở Đông Quan, Thiểm Tây. Từ khi bắt đầu hiểu biết những chuyện xung quanh, siêu năng lực của tôi liền hiển lộ.
Ví dụ như khi tôi 3, 4 tuổi, liền có thể dùng mắt nhìn xem trong bụng thai phụ đang mang là nam hay nữ, trăm lần như một, không hề nhìn nhầm. Khi lên 8 tuổi, tôi lại có thể thấy cơ thể người phát sáng. Cơ thể phát sáng được gọi là “hỏa thể“, trên thực tế là trường khí của con người.
Tôi có thể thông qua màu sắc, cường độ của trường khí mà đại khái phán đoán người đó có phẩm chất đạo đức ra sao, khỏe mạnh hay không, vận khí tốt hay xấu.
Vị trí phát quang của thân thể thường nằm ở chính giữa đỉnh đầu, nhìn từ trên xuống như một ngọn nến, người bình thường vầng hào quang có đường kính 30-50 cm như một cái trường khí.
Trường khí của con người tỏa ra năng lượng. Vào thời điểm một người sắp chết, độ sáng sẽ rất yếu, ảm đạm, cho đến khi toàn bộ biến mất, người này như vậy là xem như đã chết hoàn toàn.
Độ sáng sẽ theo trạng thái của con người mà biến đổi sắc diện. Ví như khi người ta bi bệnh nó sẽ phát ra màu đen xám, người khỏe mạnh thì phát ra màu trắng sữa hoặc trắng xám. Người trong thời điểm vận rủi, màu sắc phát ra rất ảm đạm, tản ra năng lượng rất yếu, còn khi người ta có vận may, lại phát sáng chói lóa màu đỏ. Có một số người có quyền cao chức trọng hoặc tướng tá, tôi phát hiện ra “hỏa thể” của họ là màu tím, hơn nữa rất mạnh, vượt xa người bình thường.
Người đầu tiên phát hiện tôi có công năng đặc dị là mẹ tôi. Khoảng năm 1980, bởi vì tôi dự đoán đúng dì hai và dì ba của tôi là sinh con trai hay sinh con gái. Thế là mẹ tôi đi nói với mọi người rằng tôi có con mắt âm dương, có thể thấy thai phụ là sinh nam hay nữ.
Dần dần nổi danh, ở thôn tôi nổi tiếng là “thầy cúng nhỏ tuổi”. Rất nhiều người muốn sinh con trai, đều tìm đến tôi để nhờ xem thai nhi trong bụng là giới tính gì. Lúc đó tính tình tôi còn con nít, thích đùa dai, thế là mặc kệ ai tới tìm, tôi cũng xem, tất cả đều nói là con trai.
Kết quả rất nhiều người bị lừa, sau đó sinh con gái, lãng phí vô ích cho kế hoạch sinh con. Nhưng cái đó cũng không ảnh hướng đến danh tiếng của tôi. Vì cũng có rất nhiều người mong ước con trai. Sau khi sinh được con như ý, thì vui mừng truyền khắp nơi danh tiếng của tôi.
Đến năm tốt nghiệp tiểu học, tôi đã trở nên rất nổi danh. Ngày nào cũng có người đến tìm tôi xin giúp đỡ. Có một số đi cả ô tô, ở những nơi xa vài trăm km như Tây An, Vị Nam.
Những người này ngoài việc nhờ tôi xem giới tính thai nhi, còn hỏi về tài vận của họ, vận làm quan, bệnh tật… Tôi căn cứ theo độ phát sáng của từng người mà phỏng đoán, chính xác cũng đến 8, 9 phần.
Còn nói thêm, vào lúc vừa tốt nghiệp tiểu học, bất kể là đến tìm tôi xem giới tính thai nhi hay là hỏi sự tình khác, mẹ tôi đều lấy tiền của người ta, khoảng 5 đến 10 đồng.
Vào thời điểm đắt khách, một tháng tôi có thể kiếm cho nhà mình đến hàng ngàn đồng. Thu nhập này vào những năm 80 là thuộc hộ khá giả. Cũng chính vì thế, cha mẹ cho tôi nghỉ học 1 năm ở nhà mà “an tâm” kiếm tiền. Nếu như theo cách như vậy mà làm, thì tối đa 5 năm nữa, tôi sẽ thành một ông “thầy cúng” chuyên nghiệp.
Láng giềng hàng xóm rất tôn kính tôi. Cũng không cần đi trồng trọt buôn bán, tôi chỉ cần ở nhà múa mép, cũng có được cuộc sống giàu sang. Nhưng vấn đề là, tôi chỉ ở một trình độ nhất định dự đoán được vận mệnh người khác. Nhưng không cách nào biết trước vận mệnh của mình, tai họa của tôi không lâu sau đã ập đến.
Mùa hè năm 1984, một vị bí thư đảng ủy họ Từ được điều đến quê tôi. Ông ta nghe tôi có thể xem giới tính thai nhi, nên nhờ tôi đoán cho đứa con dâu đang mang thai 4 tháng. Ông nói hy vọng sinh con trai, nếu là con gái thì sẽ phá thai.
Lúc này tôi 14 tuổi, còn không biết quan trường hiểm ác. Thế là tôi dựa theo thói quen cũ, lừa gạt Từ bí thư, nói con dâu ông ta mang thai nhi là con trai, khiến ông ấy yên tâm chờ đến lúc sinh hạ cháu trai.
Kỳ thực tôi xem rất rõ ràng con dâu ông mang thai nhi là con gái. Nhưng tôi đã theo thói quen mà nói là trai, cũng bởi vì tôi rất ghét việc phá thai. Tôi phát hiện hào quang của cán bộ kế hoạch hóa gia đình rất quái dị, đó là một loại ánh sáng màu đen cực mạnh, khiến cho tôi cảm thấy vô cùng khó chịu.
Giao thừa Tết âm lịch năm 1985, con dâu Từ bí thư sinh ra con gái làm cho ông ta vô cùng tức giận. Vì cả nhà họ là cán bộ nên không dám sinh con thứ 2, nói cách khác họ không bao giờ có cháu nữa. Cho nên cả nhà bọn họ sinh lòng thống hận tôi. Tuy nhiên cũng không đến mức muốn tìm tôi báo thù.
Qua tết âm lịch không lâu, tôi đã tìm được bạn gái. Đó là người con gái ở cùng thôn, hơn tôi 2 tuổi, rất xinh đẹp. Hai bên cha mẹ đều rất ưng ý mối lương duyên này.
Tôi là lần đầu tiên trong đời yêu đương, khi đó tuổi lại nhỏ, không biết chuyện. Buổi tối lúc ngồi tâm sự với người yêu, tôi mang chuyện lừa gạt Từ bí thư kể cho bạn gái nghe. Ai ngờ hôm sau chuyện này truyền khắp thôn. Chuyện này sớm đồn đến tai Từ bí thư.
Biết là tôi cố ý lừa bịp ông, họ Từ vô cùng căm tức. Thế là vận mệnh bi thảm của tôi bắt đầu từ đó.
Từ bí thư lệnh cho đồn công an lập cho nhà tôi một bản án, tội danh “tuyên truyền mê tín dị đoan, lừa gạt quần chúng”. Cha mẹ, anh trai cùng chị gái tôi đều bị ép án tù, thời hạn 1 năm.
Bởi vì tôi khi ấy tuổi nhỏ, không đủ điều kiện xử phạt, nên bị xử nửa năm lao động cải tạo. May mắn bà nội tôi vì già yếu mà thoát được tội danh này, bằng không cả nhà đều gặp họa rồi.
Tuổi còn nhỏ, không có quan hệ thân thích gì. Tại trại tạm giam và nơi giáo dục lao động, tôi đều phải chịu rất nhiều khổ cực.
Thời gian đó, tôi thường xuyên ăn không đủ no, bị tù nhân cùng phòng bắt nạt. Khi ngủ còn bị tiểu tiện lên đầy người, hôi thối không sống nổi. Cán bộ quản giáo cũng liên tục hạch sách tôi, luôn đem công việc nặng nhất mệt nhất giao cho tôi, còn thường xuyên phạt đứng…
Tôi vốn từ nhỏ được người ta tôn kính đã quen, thoáng chốc rơi vào tình cảnh này, khó mà chịu đựng được. Khi ấy mỗi ngày đều nghĩ đến chuyện tự sát, không muốn sống nữa. Tuy rằng có công năng đặc dị nhưng lọt vào cảnh này, nó nào có tác dụng gì đâu?
Cắn răng chịu đựng hơn mấy tháng, đại khái là giữa tháng 7 năm 1985, cuối cùng mãn hạn tù giáo dưỡng, tôi được thả về nhà. Tôi tự nhủ chuyến này có thể thở dài nhẹ nhõm rồi, ai ngờ đây cũng là khởi đầu của những tháng ngày cực khổ nhất.
Vừa về đến nhà mấy ngày, còn chưa kịp đi thăm cha mẹ, một người họ hàng làm trong chính quyền chạy đến nhà. Ông bảo tôi: “Tranh thủ thời gian nhanh trốn đến nơi khác! Họ Từ còn nhớ mối hận với tôi, đang chuẩn bị âm mưu hại tôi lần nữa!”

Ở trong trại giáo dưỡng tôi đã quá sợ rồi, tôi không bao giờ dám nghĩ mình sẽ lần nữa vào tù. Thế là vét hết trong nhà vẻn vẹn hơn một ngàn đồng, tôi chạy ra đường lớn quá giang một chiếc xe tải, suốt đêm đi đến Tây An.
Chìm đắm trong danh lợi của đời thường
Người tha hương như tôi trong lúc này, không còn đồng nào trong người, xung quanh cũng không quen biết ai, thử hỏi khác chi rơi vào đường cùng? Nhưng mà, không đợi cảm nhận hết vị chát đắng của cảnh ngộ này, tôi lại ngạc nhiên phát hiện, mình có thêm một công năng đặc dị nữa – đó là thấu thị nhân thể.
Lúc đó tôi cũng không biết vì sao lại xảy ra như vậy. Sau khi tỉnh lại, tôi phát hiện có thể nhìn thấy nội tạng và xương cốt của mình, hơn nữa nhìn khá rõ ràng, có thể nói rõ rành rành.
Thấu thị nhân thể có phải là ai trước mặt tôi đều trần truồng? Không phải vậy! Người đi qua trước mặt tôi, khi nhìn cũng như bình thường. Chỉ sau khi tôi tập trung nhìn một lúc, thì có thể tiến nhập vào trạng thái “thấu thị“, sau đó có thể thấy nội tạng và xương cốt của người ta.
Nhưng lúc đầu nhìn cũng không rõ ràng, phải tiếp tục 5, 6 phút sau mới hoàn toàn thấy rõ. Tuy nhiên nếu là xem chính bản thân mình thì không có hạn chế, vừa liếc mắt liền có thể nhìn rất rõ ràng.
Chỉ là, có công năng như vậy đối với tôi ngay lúc này chẳng có cái tác dụng gì? Công năng đặc dị dù sao cũng không thể đem làm cơm ăn. Mà một người có công năng như tôi, cũng cần phải ăn cơm mới có thể sống chứ!
Tôi cũng không thể đến cơ quan nghiên cứu khí công quốc gia, nói với họ rằng: “tôi có công năng đặc dị, các ông hãy sắp xếp công tác cho tôi“; hoặc chạy đến bệnh viện, nói cho họ biết: “tôi có “thấu thị”, các vị cần chụp X-quang hãy chuyển cho tôi, có tôi là được rồi“. Như vậy làm sao có thể được, người ta sẽ không tin, họ còn sẽ nghĩ tôi mắc bệnh tâm thần.
Tôi phải tìm được cho mình một con đường sống, nếu không đi trộm cắp, cũng chỉ có thể đi ăn xin. Vào năm 1985, ở Trung Quốc, tình hình kinh tế cũng không khấm khá, tình trạng của tôi mà muốn ở Tây An, tìm một công việc thì quả thật là quá khó khăn.
Cũng may trời không tuyệt đường người! Vừa rạng sáng hôm sau, tôi đã tìm được kế sinh nhai, đó chính là nhặt ve chai.
Hàng ngày tôi thường nhìn thấy một bà lão, sáng sớm ra công viên nhặt ve chai và phế liệu cũ về bán kiếm sống. Nên từ đó, tôi trở thành một người nhặt ve chai, bắt đầu kiếp sống lang thang.
Màn trời chiếu đất, chịu đói chịu lạnh, đầu mặt bẩn thỉu, chịu đựng sự quát mắng của cảnh sát và ánh mắt kì thị của người khác, cái khổ này người nhặt ve chai nào cũng gặp, tôi cũng không ngoại lệ. Vậy nên, những khổ sở này tôi đành phải gánh chịu, chi tiết tỉ mỉ cũng không cần kể nữa, bởi ai cũng biết một người vô gia cư sống như thế nào mà!
Vậy niềm vui của người nhặt ve chai là đến từ đâu? Nó đến từ 2 chữ “tự do“. Có câu rằng “ba năm ăn mày, có làm hoàng đế cũng không đổi”.
Tự do, tự tại, không gì ràng buộc, chỉ có ăn và ngủ. Muốn gì làm đó, tùy ý thu xếp, cái sung sướng này người thường không cách nào nhận thức đến được.
Đương nhiên, sao có thể chịu như vậy, tôi cũng là người có công năng đặc dị, cũng không thể cam tâm chấp nhận cả đời đi nhặt ve chai.
Lúc đó tôi có dự tính, trước tiên nán lại Tây An vài năm, đợi Từ bí thư giáng chức, hoặc bị điều đi địa phương khác công tác, tôi lại quay về quê, tiếp tục hành nghề như xưa.
Nhưng “người tính không bằng trời tính”, những gì xảy đến không giống như tôi dự định…
Sống bằng nhặt ve chai thật là chật vật, bởi vì ngày nào cũng phải lo lắng về miếng cơm, đến mùa đông thì lo không có gì sưởi ấm. Bận rộn như vậy, nên tôi cũng không để ý đến thời gian, mới đó mà đã đến tháng 12/1986.
Một buổi sáng, tôi đang đi trên đường lớn, bỗng nhiên thấy trời đất thay đổi, cả thành phố bao phủ bởi một trường ánh sáng cực mạnh. Tôi không biết đã xảy ra chuyện gì, theo bản năng nhìn tứ phía, tìm kiếm nơi phát ra ánh sáng. Nhưng chung quanh không có gì bất thường, chỉ thấy người đi đường đều giống mình kinh hãi tìm kiếm xung quanh.
Rồi bỗng có ai đó đột nhiên hô to: “Mặt trời! 5 Mặt trời!”. Tôi ngẩng đầu nhìn lên, thật sự xuất hiện 5 Mặt trời!
Tôi chưa từng thấy cảnh tượng này bao giờ, bầu trời bốn phía đều có Mặt trời, khiến người ta không phân biệt được đâu là Đông Nam Tây Bắc. Ngay tại lúc tôi vô cùng ngạc nhiên này, trên bầu trời ẩn hiện một vật gì vô cùng to lớn, hình ảnh lóe lên trong phút chốc, nhưng tôi nhận ra đó chính là Phật Thích Ca Mâu Ni.
Tôi tuy có được công năng đặc dị, ngày trước cũng từng đi miếu chùa lễ Phật, nhưng chưa từng thấy qua quỷ Thần, càng chưa từng nhìn thấy Đức Phật, bởi vậy Thần Phật có tồn tại hay không, trong tâm tôi vẫn là dấu hỏi lớn?
Nhưng giờ phút này, tôi không hề còn hoài nghi gì nữa, tôi biết rõ, bên ngoài vũ trụ tối tăm kia, có chín tầng trời, và một điều chắn chắn là con người vĩnh viễn không thể khám phá hết bí ẩn này được. Kể từ giờ phút đó, tôi sinh ra một niệm, muốn tu luyện Phật pháp.
Qua thêm mấy ngày cân nhắc, tôi hạ quyết tâm, chuẩn bị xuất gia làm hòa thượng. Tôi đi thăm dò một số nơi chùa miếu, kết quả người ta đều không quan tâm tôi.
Có nơi tốt, còn kín đáo đưa cho tôi mấy đồng, nơi không tốt liền đuổi đi. Sở dĩ gặp phải sự ghẻ lạnh như vậy, là vì tôi ăn mặc quá rách rưới, so với ăn mày không khác nhau là mấy. Xem ra, muốn xuất gia, trước tiên cần phải kiếm thêm một chút tiền, cải biến điều kiện sống!
Cách kiếm tiền, dựa vào nhặt ve chai là không được, nghĩ tới nghĩ lui, tôi cảm thấy chỉ có dựa vào khả năng bẩm sinh của mình thôi.
Thế là tôi lấy hết tiền tích trữ được hơn 100 đồng, đi tắm rửa, thay đổi y phục, rồi đi đến am Bát Tiên ở cửa đông thành Tây An đặt một cái sạp xem bói.
Am Bát Tiên là ngôi miếu có hương khói vượng nhất Tây An, nhưng người ở vùng khác thì rất ít biết đến. Khi đó xung quanh miếu cũng có mấy quầy bói toán, theo tôi quan sát thì kinh doanh cũng khá, một ngày qua đi cũng kiếm được 20, 30 đồng, cho khách hàng gieo quẻ rồi dùng Chu Dịch mà suy tính. Tôi liền “nhìn hình mà bắt bóng“, cũng biết được một số cách suy tính.
Đương nhiên tôi không hiểu Chu Dịch, chỉ là ngụy trang thôi, tôi vẫn là dựa vào công năng đặc dị của mình mà nói cho họ nghe. Bởi vì tôi có thể nhìn xuyên cơ thể nên có thể đoán bệnh tật rất chuẩn.
Không lâu sau, danh tiếng của tôi đã vang lừng, thu nhập cũng là một đường thẳng tắp. Lúc đầu, tiền 1 quẻ chỉ lấy 1 đồng, đến tháng 4, tháng 5 năm 1987, gieo 1 quẻ tôi lấy 5 đồng, một ngày kiếm được trên dưới 100 đồng là chuyện bình thường.
Thu nhập cao, điều kiện sinh hoạt cũng theo đó mà cải thiện. Tôi thuê một căn hộ nơi ngoại ô gần học viện bưu chính, cuộc sống dần ổn định, nếu tôi không nói thì không ai nghĩ tôi từng là một người nhặt ve chai.
Khi thu nhập khá hơn, thời gian trôi qua, lòng tham của tôi cũng tăng lên, đem ý niệm tu Phật gác lại phía sau, một lòng chỉ nghĩ đến kiếm tiền. Không lâu sau, nhờ thư tín, tôi liên lạc được với người nhà, cha mẹ tôi cũng lên Tây An sống cùng, gia đình đoàn tụ từ đó.
Năm này qua năm khác, ngày này qua ngày khác, cuộc sống bình thản trôi qua, danh tiếng của tôi vang xa, tiền kiếm được càng lúc càng nhiều.
Đến năm 1992 thì tại chốn Tây An đô hội phồn hoa, tôi mua được một căn hộ cấp 4 giá 15 vạn nhân dân tệ, còn đưa anh trai và chị gái lên sống cùng, giúp họ làm ăn buôn bán.
Nếu không có gì biến cố, tôi sẽ sống cảnh giàu sang này cho đến hết đời. Có lẽ tôi sẽ lấy vợ sinh con, cũng có lẽ sẽ thành danh nơi xã hội này, có lẽ… có lẽ rất nhiều …
Chỉ có điều, Thiên thượng giao phó cho tôi năng lực siêu phàm, không phải vì để tôi hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý, số mệnh đã định trước, cơ duyên đã đưa đẩy tôi tới một hoàn cảnh khác …
May mắn gặp minh sư, bước đi trên con đường tu luyện Phật pháp
Tháng 6 năm 1993, trên TV đưa tin tức núi Nga My ở Tứ Xuyên xuất hiện Phật quang, tôi liền nhớ đến năm xưa nhìn thấy Phật Thích Ca Mâu Ni. Vậy nên tôi liền đi đến núi Nga My du lịch. Thế là vào tháng 7 năm đó, tôi 1 mình đi đến núi Nga My. Lúc ấy còn chưa có cáp treo như bây giờ, tôi cũng không đi theo đoàn du lịch, mà một mình chậm rãi đi theo nhóm người leo núi tiến lên đỉnh, trong tâm mong mỏi Phật tổ một lần nữa hiện ra.
Lúc tôi đi đến giữa sườn núi, có một người đàn ông khoảng hơn ba mươi tuổi tiến đến phía tôi, người này mặc quần áo mộc mạc sạch sẽ, gương mặt hiền lành. Nhưng điều này cũng không có gì đặc biệt, mà thứ khiến tôi bị cuốn hút, chính là người này có một loại hào quang mà tôi trước nay chưa từng nhìn thấy. Người bình thường phát sáng đều chỉ là đơn sắc, tối đa cũng chỉ có 3 loại màu khác nhau; theo kinh nghiệm của tôi chỉ có người xuất gia mới có được hào quang gồm 2 màu sắc. Nhưng người này, trên đỉnh đầu ông phát sáng tới 5 loại màu sắc, rực rỡ chói mắt, quả thực không gì sánh được. Hơn nữa, phát sáng mạnh mẽ đến mức không thể tưởng tượng được, chỉ có thể dùng khái niệm ánh quang huy vô tận mà hình dung.
Tôi nhìn ông không chớp mắt, muốn nhìn xem ông ấy có điểm nào khác khác với người bình thường hay không. Không ngờ ông lại nhìn tôi mỉm cười rồi tiến lại gần. Ông nói với tôi: “Cậu đi theo ta, ta có Phật pháp truyền độ cho cậu”.
Lúc đó ngay cả nghĩ tôi cũng không kịp nghĩ, chỉ biết ngay lúc đó lập tức đi theo ông xuống núi. Sau đó ông dẫn tôi vào một khách sạn, tôi ở lại đây 10 ngày, ông truyền cho tôi toàn bộ công pháp và công lý, trước lúc đi còn trao cho tôi một cuốn kinh sách chỉ đạo tu luyện. Và ông chính là Sư Phụ của tôi. Cũng từ sau sự việc đó, tôi chính thức bước vào Phật pháp, bắt đầu bước đi trên con đường tu luyện.
Trừ trước tôi đã có siêu năng lực, điều này đúng là thiên phú cho tu luyện. Sau khi tu luyện Phật pháp, trong một thời gian rất ngắn, khoảng 2 năm sau, tôi đã thay đổi hoàn toàn từ bản thể. Cũng có thể nói, phàm là những công năng mà bạn có thể nghĩ đến, thông qua tu luyện Phật pháp, tôi đều sở hữu, hơn nữa có thể sử dụng bất cứ lúc nào.
Ví như bây giờ bạn đang ngồi trước máy tính đọc bài viết này của tôi, kỳ thực chỉ cần tôi khẽ động niệm là lập tức có thể xuất hiện trước mặt bạn. Nhưng tôi sẽ không làm vậy, bởi vì như vậy cũng là làm hại bạn, nó có thể hủy đi cơ duy tu luyện của bạn trong kiếp này.
Công năng đặc dị chỉ là sản phẩm phụ của tu luyện Phật pháp, vậy nên cũng không nên truy cầu nó. Tôi nhận thấy, thông qua tu luyện Phật pháp, lợi ích thật sự tôi nhận được, đó là giải khai rất nhiều khúc mắc trong lòng tôi. Nhờ nhiều năm tu luyện, tôi sắp đại công cáo thành, hôm nay từ nới chốn xa xăm mà viết lại câu chuyện này, cũng là để chấm dứt rất nhiều duyên nghiệp vẫn còn trước kia.
Tôi trong những năm tu luyện, đã chu du khắp miền đất trung nguyên. Trên thế giới rộng lớn này, các nơi kì quan cảnh đẹp tôi đều đã đi qua, nhưng xin lưu ý là tôi đều là đi bộ, chưa từng sử dụng qua công năng đặc dị. Vân du khắp nơi tôi phát hiện rằng, tất cả các ngọn núi nổi tiếng ở Trung thổ đều có rất nhiều tu sĩ ẩn cư, những người này tu luyện mấy trăm năm, thậm chí hơn cả ngàn năm rồi. Những công năng của các vị này vô cùng lớn, những họ không hề tiếp xúc với người thường, cũng không can dự vào chuyện thế gian, cũng không thu đồ đệ.
Tôi biết rất nhiều bạn trong đầu sẽ nghĩ: “Có thần thông lợi hại vậy, lại trốn trong núi sâu không can dự chuyện đời, không đi cứu vớt người khác. Vậy thì tu luyện cao như vậy cũng đâu có ích lợi gì?”.
Về vấn đề này tôi là có nhận thức như thế này, tất cả những tai nạn ở xã hội loài người, như địa chấn, sóng thần, dịch bệnh, v.v…, đều là có định số. Định số đó, đừng nói là người tu luyện, ngay cả Phật Thích Ca Mâu Ni cũng bất lực. Đây không phải là người tu luyện không từ bi, cũng không phải Thần Phật không từ bi, mà thật sự là không thể làm gì. Bởi cho dù là Thần Phật, cũng phải thuận theo quy luật của vũ trụ mà hành.
Thảm họa là định số, vận mệnh một người cũng là định số, tuổi thọ, giàu nghèo, phú quý hay bần cùng, bệnh tật …, những thứ này đều có định trước, cũng đều căn cứ theo đức và nghiệp của mỗi người mà an bài. Ví như với tôi bây giờ, dùng công lực lớn mạnh của mình, chỉ cần khẽ động niệm, bất kể bệnh tật gì cũng đều có thể trị hết. Nhưng tôi sẽ không vì bất kì ai mà làm điều đó. Tại sao? Bởi vì bệnh tật là do nghiệp báo của con người, kiếp trước làm ác, kiếp này bồi thường, họ nên phải bị bệnh, nên phải gặp khổ nạn. Sinh lão bệnh tử, điều này là quy luật của tự nhiên, ai dám làm hỏng quy luật này, ai khiến thay đổi vận mệnh của con người, vậy thì người ấy sẽ gặp báo ứng.
Nếu muốn thay đổi vận mệnh, muốn nghĩ cách giải thoát luân hồi sinh tử, biện pháp duy nhất là chỉ có tu luyện, ngoài con đường đó ra không còn con đường nào khác.
Hồng Khang, dịch từ qi-gong.me, Tinhhoa

Sửa bởi catdang: 27/05/2020 - 09:44







Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |