Hà Lạc Lý Số
Năm Tân Hợi, lệnh tiết Lập Xuân Canh Dần, ngày Bính Dần, giờ Kỷ Sửu Tiên Thiên - Tiền Vận Hậu Thiên - Hậu Vận Bổn Quẻ
Tốn vi Phong Đại Vận
Tuổi Hỗ Quẻ
Hỏa Trạch Khuê Biến Quẻ
Thủy Phong Tỉnh Đại Vận
Tuổi Hỗ Quẻ
Hỏa Trạch Khuê Tốn ▬▬▬▬▬▬ ▬▬▬▬▬▬ ▬▬▬▬ Tốn ▬▬▬▬▬▬ ▬▬▬▬▬▬ ▬▬▬▬ 25-33 16-24 10-15 1-9 40-48 34-39 Ly ▬▬▬▬▬▬ ▬▬▬▬ ▬▬▬▬▬▬ Đoài ▬▬▬▬ ▬▬▬▬▬▬ ▬▬▬▬▬▬ Khảm ▬▬▬▬ ▬▬▬▬▬▬ ▬▬▬▬ Tốn ▬▬▬▬▬▬ ▬▬▬▬▬▬ ▬▬▬▬ 49-54 85-93 79-84 70-78 61-69 55-60 Ly ▬▬▬▬▬▬ ▬▬▬▬ ▬▬▬▬▬▬ Đoài ▬▬▬▬ ▬▬▬▬▬▬ ▬▬▬▬
Tốn vi Phong hào 3
Thuần Tốn : Tốn là thuận (thuận nhi nhập, thuận theo để đi vào một công việc gì, có mềm dẻo mới thành công).
Trùm Trung Nguyên sinh năm Tân được chữ Hợi và chữ Sửu nên ứng vào bài thơ
Trên non không thấy mắt xanh,
Bên sông gặp gỡ tâm tình thương nhau.
Hàn vi sau ắt sang giàu
Nhờ ơn tri ngộ, công đầu hiển vinh.
Hào 3:
Tần tốn, lận. Ý HÀO: Không khéo tốn thuận nên mắc lỗi.
MỆNH - HỢP - CÁCH: Quá cương, không biết hạ mình xuống với người, lấy thế hiếp người, nên bị đời ghét.
MỆNH - KHÔNG - HỢP: Hay gây hấn, chọc hờn, kiêu hãnh, ngỗ ngược không ai chịu nổi.
XEM - TUẾ - VẬN: _Quan chức: Bị khiển trách, cách giáng. _Giới sĩ: Lo có sự tổn thất. _Người thường: Cùng khốn, càng hoạt động càng thất bại thêm xấu hổ.
HC: đương số hống hách và khoác lác nên bì đời ghét, chịu tổn thất .
Hậu vận: Thủy Phong Tỉnh hào 6
Đại tượng truyện giảng một cách khác: nước (Khảm) ở trên cây (Tốn), tức là nhựa (nước từ dưới đất theo thân cây lên) ở ngọn cây, cũng như mạch nước ở trong giếng, chảy ra, cho nên gọi là quẻ Tỉnh.
Bản thể của cái giếng là ở đâu thì ở đấy, ấp còn có khi thay đổi, chứ giếng thì cố định; có nước mạch chảy vô giếng hoài, nên nước giếng không kiệt, nhưng nước giếng chỉ lên tới một mực nào đó, không khi nào tràn ra. Công dụng của giếng là ai cũng lại giếng để lấy nước (tỉnh tỉnh: chữ tỉnh trên là động từ, chữ tỉnh dưới là danh từ), kẻ qua người lại thường, người nào cũng nhờ nó mà có nước, nó giúp đỡ mọi người mà như vô tâm.
Nói về nhân sự thì người đi lấy nước, đã gần tới rồi, chưa kịp thòng dây gàu (duật) xuống, mà đánh vỡ cái bình đựng nước thì thật uổng công; vậy làm việc gì cũng phải cẩn thận, đến nơi đến chốn để khỏi thất bại nửa chừng.
Thoán truyện bảo giếng ở đâu ở đấy, không thay đổi như ấp, vậy là có đức cương trung của hào 2 và hào 5.
Đại tượng truyện khuyên người quân tử nên coi tượng cái giếng mà nuôi dân và chỉ cho dân cách giúp đỡ lẫn nhau.
Hào 6 của quẻ Tỉnh
6. 上六: 井收, 勿幕, 有孚, 元吉.
Thượng lục: Tỉnh thu, vật mạc, hữu phu, nguyên cát.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Nước giếng múc lên rồi, đừng che đậy, cứ mãi mãi như vậy, không thay đổi thì rất tốt.
Giảng: Hào trên cùng này tuy là âm nhu, nhưng ở cuối cùng quẻ Tỉnh, nó có cái tượng nước giếng đã múc lên rồi, nên để cho mọi người dùng, chứ đừng che đậy, và cứ như vậy giúp đời mãi thì không gì tốt bằng.
***
Chúng ta để ý: quẻ Tỉnh này có điểm đặc biệt là các hào càng lên cao càng tốt, tốt nhất là hào trên cùng.
Thường các quẻ khác, hào trên cùng có nghĩa là cùng cực: hễ là quẻ tốt như quẻ Càn, quẻ thái thì hào trên cùng xấu; nếu là quẻ xấu như quẻ Bĩ, quẻ khốn thì hào trên cùng tốt, vì luật: cực thì phải biến, tốt biến ra xấu, xấu biến thành tốt. quẻ Tỉnh này với quẻ Đỉnh (và một số quẻ nữa như quẻ Tiêm..), hào trên cùng không có nghĩa cùng cực, mà có nghĩa là lúc cuối (chung), lúc nước đã múc lên (Tỉnh) hoặc thức ăn đã chín (đỉnh), tức là lúc thành công, cho nên đều tốt cả.
HC