Jump to content

Advertisements




NHÂN GIAN DU KÝ


35 replies to this topic

#16 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 05/09/2011 - 20:20

NHÂN GIAN DU KÝ

HỒI MƯỜI MỘT

TẾ PHẬT LUẬN VỀ SỰ BỐ THÍ BỎ CHẤP TƯỚNG GIỮ TÂM THÀNH NHIỀU ỨNG NGHIỆM

THÁNH MẪU BÀN VỀ LUẬT NHÂN QUẢ THIỆN ÁC BÁO ỨNG ĐỀU DO TÂM

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 16 tháng 12 năm Tân Dậu (1981)

Thơ

Nhân quả luân hồi chuyển bất tức
Chân ngã diện mục mỗi thường nghi
Tiền thế bố thí đa phùng vận
Tác nghiệt chi đồ vĩnh trường thê.

Dịch

Nhân quả luân hồi chuyển chẳng ngưng
Chân tâm diện mục phải coi chừng
Ban ơn lúc sống nhiều ơn phước
Gây nghiệp trọn đời chịu thảm thương.

Tế Phật: Nhân quả vô hình, định luật luân hồi chuyển biến hoài không ngừng nghỉ, chúng sinh thường tự hỏi, cái ta chân thật và cái ta giả dối từ đâu tới? Kiếp này sao ta phải nhiều nỗi gian truân khổ cực thế này? Làm cách nào để thay đổi được đây? Người hiền bố thí để cầu được nhiều ơn phước, kẻ dữ gây tội ác tự tạo oan nghiệp. Song thiện và ác cùng tồn tại, một đàng hạnh phúc đời đời, một đàng hủy diệt tương lai, một đàng ngày một hưng thịnh, một đàng ngày một đọa lạc.

Thái Sinh: Có nhiều kẻ nghèo khổ tự oán trách mình, sinh lòng bạo ngược đố kỵ người, thưa ân sư có phương cách nào để giải quyết vấn đề nghèo khổ không?

Tế Phật: Đem sự nghèo khổ bán đi há chẳng giải quyết được sao?

Thái Sinh: A, thầy dạy thật lạ lùng, há lại có người bỏ tiền ra mua sự nghèo khổ sao?

Tế Phật: Hãy đem sự nghèo khổ bán cho ta.

Thái Sinh: Thật kỳ lạ, sự nghèo khổ cũng có kẻ bán người mua, trò ngu chưa từng bao giờ nghe nói như vậy.

Tế Phật: Giả sử không thể mua hay bán thì trên đời há lại có kẻ nghèo khổ người sung sướng sao? Phải hiểu là sự giàu nghèo của kiếp này đều do nhân duyên kiếp trước, kiếp trước bán nghèo, đời này được giàu có; kiếp trước bán giàu đời này nghèo khổ.

Thái Sinh: Lời dạy của ân sư quá siêu diệu, song thưa con vẫn chưa rõ làm cách nào để bán được sự nghèo khổ?

Tế Phật: “Bố thí” là cách bán cái nghèo đi.

Thái Sinh: Kẻ nghèo ngày kiếm ba bữa ăn còn khó, thì lấy của đâu mà bố thí?

Tế Phật: Không cần phải có nhiều tiền mới làm được việc bố thí, mà chỉ cần có quyết tâm làm công việc bố thí. Sự bố thí chân thành thì vật tuy nhỏ mọn, song lượng lại rất lớn.

Thái Sinh: À, thì ra đó là phương cách tuyệt diệu để bán sự nghèo, những ai còn oán hận sự nghèo khổ hãy đem sự nghèo khổ bán đi, chớ để tâm oán trách mỗi ngày, nghèo nàn vật chất, càng nghèo nàn tâm linh.

Tế Phật: Ha ha, phải giải trừ mê hoặc, người đời hiện nay chỉ ham thích giàu có. Thôi, thầy trò mình hãy bắt đầu cuộc vân du nhân gian của bữa nay.

Thái Sinh: Thưa con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã tới nơi.

Thái Sinh: Tới khu phố này, xe cộ đông nghẹt vô cùng náo nhiệt, phía trước có một ngôi đền lớn, không rõ đó là đền gì?

Tế Phật: Đó là đền Phong Nguyên Từ Tế.

Thái Sinh: Không ngờ bữa nay lại tới được đây, tiền đường đang chiếu phim, người xem đông đúc, chuyện phim hấp dẫn, rất lôi cuốn khán giả, nữ diễn viên đóng vai chính là...

Tế Phật: Trò ngoan có thể làm tài tử đóng phim được đấy, còn thầy ngược lại chẳng thể làm được công việc này.

Thái Sinh: Thưa ân sư, quả đúng như vậy, người đời đã coi chiếu bóng đương nhiên phải hiểu biết hơn người chưa coi chiếu bóng, còn trường hợp của ân sư lại chưa từng coi bao giờ.

Tế Phật: Ha ha, hiện thời thầy cũng đang coi chiếu bóng đấy chứ.

Thái Sinh: Thưa phải, thưa phải.

Tế Phật: Năm hết tết đến nơi, muôn nghề phát đạt, các xe quảng cáo rao hàng qua lại.

Thái Sinh: Ha ha, những xe quảng cáo đó đều không phải là xe quảng cáo mỹ phẩm, mà là quảng cáo nhân phẩm.

Tế Phật: Thật không tưởng tượng nổi, việc tuyển cử ở nhân gian lại phải cần quảng cáo để cạnh tranh, thấy cảnh này rồi, nếu phải đầu thai làm kiếp con người lần nữa, có ra tranh cử chắc cũng khó đắc cử nổi.

Thái Sinh: Trò ngu sẽ bỏ cho ân sư một phiếu.

Tế Phật: Ha ha, đó là lá phiếu thần, lá phiếu thánh.

Thái Sinh: Tiếng la cổ động la hét ầm ĩ song vẫn khó lọt tai dân thành thị.

Tế Phật: Đúng như vậy, những cổ động viên trên xe la lớn những khẩu hiệu vì dân, hiện tại họ đang còn vận động chứ đã đắc cử đâu mà đã la to những khẩu hiệu hết lòng vì dân.

Thái Sinh: Ha ha, Đó chỉ là cách bày tỏ quan điểm, song có nhiều lúc vì tiếng loa kêu quá lớn khiến chói tai dân chúng, thành ra thay vì gây được cảm tình lại khiến dân chúng ghét. Thưa, còn tôn ý của ân sư như thế nào?

Tế Phật: Theo thầy nghĩ, vì mong được đắc cử nên đã mị dân ngoài miệng lưỡi, thì đương nhiên bị dân khinh bỉ.

Thái Sinh: Ngôi đền này xây cất đã quá lâu, coi vẻ thật là cổ kính, trang nghiêm, diễm lệ, thiện nam tín nữ tới chiêm bái rất đông. (Ông Từ giữ đền tiến ra nghênh tiếp, đức Thánh Mẫu cũng từ trên ngai bước xuống hàn huyên cùng Tế phật, Thái Sinh vội vàng lạy chào Thánh Mẫu, ông Từ mang trà thơm ra mời).

Thánh Mẫu: Miễn lễ, Thái Sinh hãy đứng lên, Thánh Hiền Đường vì sứ mệnh phổ hóa chúng sinh đã ra sức hi sinh, Mẫu vô cùng cảm kích. Mẫu cũng hi vọng Thái Sinh lo tròn được phận sự.

Thái Sinh: Thưa, đức Mẫu quá khen ngợi, con tài hèn sức kém, kính mong đức Mẫu gia ân chỉ giáo cho... Kính thưa đức Mẫu có nhiều quý Thần, quý Thánh ngự tại đền này, xin đức Mẫu giới thiệu sơ qua để con được thấu tỏ.

Thánh Mẫu: Được lắm, điện Hương Lúa phía trước là nơi thờ đức thần Nông Đại Đế, kế tiếp là bàn thờ ngài Văn Xương Đế Quân, ngài giữ chức vụ xét công tội các văn nhân, thi sĩ để thưởng phạt. Thứ đến là điện thờ đức Tam Sơn Quốc Vương, sau cùng là điện thờ đức Quán Âm Đại Sĩ, điện Già Lam thờ các vị Thành Hoàng, thần Phúc Đức, ngoài ra còn có điện thờ tiên cô Nương Nương, đức Văn Hành Thánh Đế ngự tại điện Hán Thọ, vị nào vị nấy chăm lo cai quản theo đúng chức vị của mình.

Thái Sinh: Thưa, còn hai bên là tướng quân Thiên Lý Nhãn và tướng quân Thuận Phong Nhĩ coi vẻ uy vũ, dũng lược vô cùng kể, khiến phàm nhân nhìn thấy ai cũng đem lòng kính sợ... A, đúng rồi, lúc này có nhiều thiện nam tín nữ đang khấn khứa kêu cầu, thưa liệu đức Mẫu có ban ân đúng như lời cầu xin của mọi người không?

Thánh Mẫu: Chúng sinh đau khổ, Mẫu đang lo tận tình cứu giúp. Song “Họa phước không có cửa, do người tự chuốc” (Họa phúc vô môn, duy nhân tự chiêu). Chúng sinh luôn luôn u mê, khi hạnh phúc sung sướng lại chẳng biết giữ gìn quý trọng, không lo làm việc phước thiện, tới khi gặp hoạn nạn mới tới cầu xin Mẫu, Mẫu phải xét xem sự thành tâm sám hối nhiều hay ít, xét công và tội xem bên nào nặng bên nào nhẹ, sau đó mới quyết định. Nên biết, chúng sinh đắm chìm trong chốn trần ai ô trược, đương nhiên phải chịu nhiều nỗi bất bình, song trong họa có phúc, trong phúc có họa, nếu biết dốc tâm vun bồi cội phúc, thì dầu có bị đày đọa cách mấy cũng được ban ân cứu rỗi.

Thái Sinh: Thưa lời đức Mẫu dạy vô cùng hữu lý, thuở sinh thời công đức tu trì của đức Mẫu cao dày bậc nhất, kính xin đức Mẫu thuật lại quá trình tu đạo của đức Mẫu, hầu giúp chúng sinh học hỏi được tinh thần cứu nhân độ thế.

Thánh Mẫu: Được lắm, để giúp việc phổ hóa chúng sinh, Mẫu tạm kể sơ lược về thân thế của Mẫu như sau: Mẫu sinh vào đời Minh, niên hiệu Gia Tĩnh, phụ thân sống bằng nghề buôn đồ sứ, trên Mẫu có hai người chị, lúc sinh tiền tên của Mẫu là Cửu Hoa, lúc chưa xuất gia, sau khi cha mẹ sinh hạ người chị cả và người chị thứ hai xong, liên tiếp sinh thêm ba người em trai nữa, song chẳng bao lâu cả ba em trai đều mất. Và không hiểu tại sau thân phụ lại nghi là vía của chị thứ hai đã là nguyên nhân chính gây nên sự chẳng lành này, do đó thường ghét bỏ chị, nên cũng kể từ đó gia đình không được yên ấm. Sau khi gả chồng cho chị cả và cho người chồng đó ở rể, chị thứ hai thường kết giao với những thứ bạn bất lương, chuyên hành động gian manh, mặc dù người trong nhà hết sức khuyên nhủ nhưng chẳng hề nghe, vẫn chứng nào tật đó. Ngày nọ, phụ thân vì bận việc kinh doanh phải xa nhà, được dịp may hiếm có, chị thứ hai liền dẫn cướp về nhà vơ vét tiền của, khi đó chồng chị cả cũng đi khỏi do đó không lấy được vàng bạc, nên phá phách nhà cửa, bắt cả chó cả gà, rồi bỏ đi.Ít bữa sau thân phụ và chồng chị cả trở về, chị thứ hai liền báo cho bọn cướp biết, chúng liền trở lại tra khảo để cướp tiền và vàng, chồng chị cả nhất định không chịu dâng nộp, chúng đánh đập tàn nhẫn khiến bị trọng thương, thấy chị thứ hai hành động như vậy, phụ thân vô cùng uất hận, hỏa khí bốc lên, té lăn ra đất, hồn lìa khỏi xác. Gia đình khi ấy bèn lâm vào cảnh thảm sầu, chồng chị cả bị những vết thương quá nặng nên mặc dù hết sức thuốc thang chạy chữa, nhưng cũng không tránh khỏi lưỡi hái tử thần. Mẫu thân nước mắt đầm đìa khóc thương hết ngày này qua ngày nọ, cuối cùng cũng lâm trọng bệnh, lìa bỏ cõi đời.

Thái Sinh: Ôi! Thật quả là tai họa dập dồn.

Thánh Mẫu: Từ đó trong nhà chỉ còn chị cả, cháu Chí Khanh và tôi chung sống nương tựa, giúp đỡ lẫn nhau, cùng tiếp tục xây dựng lại cơ nghiệp. Tới năm tôi hai mươi ba tuổi, chị cả nghĩ tới việc gả chồng cho tôi, song vì tôi đã có lời nguyền từ trước, do đó quyết tâm ở vậy trai tịnh tu hành. Chị thứ hai vì tội ác chồng chất, bị quả báo nhãn tiền, trải muôn phần khổ cực, mặc dù đã ăn năn hối cải những tội lỗi xưa kia, song chưa biết tới bao giờ mới giải được nghiệp, đã vậy lại còn phải nuôi một đứa con hoang, chịu đựng nhiều nỗi đắng cay, cho nên đã có lần nhảy xuống sông tự vẫn, mong rũ sạch mọi ác nghiệp trần gian. Song may mắn được một vị tiều phu cứu thoát, cùng chỉ dẫn cách nương náo ở trong núi, kiếm củi bán để tạm sống qua ngày. Có một bữa đi lượm củi mang con gái theo, con lại ham đuổi bắt khỉ, nên mẹ con lạc nhau, gặp lúc tôi đi lễ chùa về, tới giữa đường nghe trẻ lạc khóc, tôi liền kiếm quanh và đã tìm ra đứa nhỏ dẫn về nhà. Tôi cũng dặn lại sư trụ trì rằng, nếu như có ai tìm kiếm đứa trẻ lạc này, thì nhờ ngài cho họ hay, để họ tới nhà tôi lãnh đứa nhỏ về. Chẳng bao lâu, chị thứ hai tìm tới chùa và được rõ là con mình đang được tôi chăm sóc dùm, chị thứ hai liền hết lo, xong sau đó lại tự thấy xấu hổ không dám tới gặp thẳng tôi, mà chỉ lén nhìn trộm con.

Thời gian qua mau, cháu Chí Khanh, chị cả và tôi cùng lo nuôi nấng chăm nom Hạnh Nữ đã được hơn mười năm vì gần gũi nhau nên quen hơi bén nết, chị cả và tôi đã tác thành duyên đôi lứa cho hai trẻ. Chị thứ hai một mình vẫn tiếp tục kiếm củi sinh sống trong núi, một bữa nọ té bị thương, đau đớn rên siết, được sư trưởng đem về chùa thuốc thang nuôi nấng, song bệnh tình cứ mỗi ngày một thêm trầm trọng, trong phút hấp hối, tự khai ra chính mình là người trước đây đã tới chùa tìm đứa con gái lạc. Giờ đây xin sư trụ trì giúp cách gặp lại con gái, sư trưởng khi đó mới chợt nhớ ra, liền hoan hỷ giúp đỡ ngay bằng cách báo tin cho tôi hay liền, tôi liền đưa cháu Hạnh Nữ tới chùa để mẹ con gặp lại nhau, phút giây tương ngộ hai mẹ con ôm nhau khóc nức nở. Còn riêng chị thứ hai khi gặp tôi lại che mặt vì quá mắc cở, khiến tôi càng áy náy, lúc ấy Hạnh Nữ yên chí là sau khi lo liệu cho thân mẫu xong, ắt sẽ gặp tôi để bày tỏ sự cảm tạ.

Chị thứ hai với tôi vốn cùng chung máu mủ, tôi cũng dần dần nhận ra điều đó, lúc đó nước mắt chị thứ hai chảy ròng ròng như suối tuôn trào, lớn tiếng khóc than, kể lể lại sự lỗi lầm khi trước, chị em nghẹn ngào ôm nhau. Chị thứ hai lần lượt thuật lại hết những nỗi đắng cay gian khổ đã trải qua, cùng ngỏ lời nhờ tôi trông nom tương lai của Hạnh Nữ dùm, sau đó nghẹn ngào nấc lên mấy tiếng rồi trút hơi thở cuối cùng... Tới đây Hạnh Nữ mới rõ tôi là dì ruột, sau khi lo việc an táng chị thứ hai xong, Chí Khanh và Hạnh Nữ cũng lập gia đình. Tôi thấy trách nhiệm của mình đã hoàn tất, bèn dốc tâm công phu, cùng ra sức công quả, tới năm năm mươi sáu tuổi không bệnh mà thác. Nhờ Tiên Phật dẫn độ, nguyên linh của tôi được tới tu luyện tại cung Thánh Mẫu sáu mươi năm, sau đó lại được chuyển tới cung Thiên Mẫu thuộc Chương Uyên Huệ Môn giữ chức Chủ Thần. Tôi cũng từng giữ chức Phó Tể tại phủ Phùng Tiên thuộc huyện Liên Giang, thấm thoát mấy chục năm trời trôi qua, tới ngày 13 tháng 2 năm Dân Quốc thứ III (1914) tôi mới được cử tới đền này giữ chức Chủ Thần từ đó tới nay.

Thái Sinh: Thưa được hiểu rõ về thân thế của đức Mẫu, lúc sống trải đủ cảnh đời đau thương, vô cùng cảm động lòng người, mong thế nhân học được tinh thần quảng đại, vị tha của đức Mẫu.

Tế Phật: Đêm nay thời giờ đã trễ, Thái Sinh hãy lạy chào từ biệt Thánh Mẫu để còn mau mau trở lại Thánh Hiền Đường (Thái Sinh vội vàng bái từ Thánh Mẫu).

Thánh Mẫu: Miễn lễ, rất lấy làm hân hạnh được Tế Phật cùng Thái Sinh tới thăm, tiếc rằng sự tiếp đãi không được hoàn hảo, xin lượng thứ cho.

Tế Phật: Thưa, Thánh Mẫu chớ quá khiêm nhường, bữa nay tạm ngưng cuộc viếng thăm ở đây (Tế Phật và Thánh Mẫu cùng kính cẩn làm lễ chia tay), Thái Sinh mau lên đài sen, chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.

Thái Sinh: Con đã sửa soạn xong. Kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#17 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 05/09/2011 - 20:24

NHÂN GIAN DU KÝ

HỒI MƯỜI HAI

BÁC ÁI TỪ BI, GIÓ XUÂN MƯA HOA KHẮP CHỐN

TU TÂM DƯỠNG TÍNH, NHƯ CON NHƯ CHÁU MUÔN NƠI

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 19 tháng 1 năm Nhâm Tuất (1982)

Thơ

Nhất niên dung dị hựu phùng xuân
Bút huy tứ phương khai tân vận
Nhâm Tuất siển giáo hựu y thủy
Chư sinh lập chí nữu càn khôn.

Dịch

Một năm qua lẹ gặp xuân mừng
Vận mới bốn phương bút vẫy vùng
Nhâm Tuất pháp truyền y hệt trước
Nứu trời bạn đạo chẳng xiêu lòng.

Tế Phật: Thời gian như bóng ngựa qua sông, chớp mắt năm cũ qua đi năm mới sắp đến, năm nay chính là năm con chó, do đó ta hy vọng chúng sinh đều một dạ trung thành là bởi lẽ chó không chê chủ nghèo (Cẩu vô hiềm chủ bần).

Thái Sinh: Thưa ân sư, con thấy lòng người đời nay còn kém xa loài chó, cho nên tinh thần trung nghĩa của bao kẻ không thể nào sánh kịp với loài gia súc này.

Tế Phật: Ha ha, trò ngoan của ta nói rất đúng, giống chó thật đúng là loại người chất phác, không hề tham muốn lợi lộc, cho nên không bị chửi mắng về tội gian dối, bị rầy la về tội coi sóc cửa nhà không chu đáo. Còn con người thời nay nếu như bị cấp trên khiển trách hoặc cha mẹ mắng mỏ mấy câu liền oán trách mãi không thôi, bởi vậy giống chó là loại gia súc được người đời quý nhất.

Thái Sinh: Thưa, con trộm nghĩ người đời nay đã không có thì giờ nuôi súc vật.

Tế Phật: Tại sao không?

Thái Sinh: Vì mọi người bận rộn sinh đẻ nuôi nấng con cái, để phòng tới lúc tuổi già.

Tế Phật: Ha... ha... Nuôi nấng dạy dỗ con cái đó là trách nhiệm, giả sử không hoàn tất nổi trách nhiệm, mà lại còn lợi dụng danh nghĩa ấy để đề phòng tới lúc tuổi già có nơi nương tựa, thì đó là sự ỷ lại, sự vị kỷ. Nếu giữ mãi tâm địa này vô hình trung đã đè ép tâm linh trẻ thơ, bắt chúng phải gánh cái gánh nặng ỷ lại và vị kỷ của cha mẹ chúng suốt một đời sao. Nuôi dưỡng con cái chẳng qua chỉ là vấn đề đã sinh con thì phải nuôi, phải dạy, cho nên trách nhiệm đó chỉ có thể quy về chính mình chứ không được đổ lên đầu con trẻ.

Thái Sinh: Ân sư lý luận thật quả là cao minh, các bậc làm cha, làm mẹ trước hết phải có cái nhìn sáng suốt này, nếu được như vậy, thiết nghĩ gia đình sẽ hạnh phúc, xã hội sẽ thái hòa.

Tế Phật: Đó là cách tạo dựng nhân duyên loài người của tạo hóa, là cách vận chuyển của pháp lý hữu vi, là chân lý của cuộc đời, nên mới hàm chứa ý nghĩa về trách nhiệm giáo hóa sâu xa đến như vậy.

Thái Sinh: Song, còn một số người sinh con đàn con đống, theo tôn ý của ân sư họ nên xử sự như thế nào?

Tế Phật: Sách có câu: “Trời khó tin, mệnh khó bền” (Thiên nan kham, mệnh mi thường). Ý nói vận mệnh của con người khó mà toan tính nổi, cho nên trước hết phải biết luật nhân quả là trách nhiệm của cái ta nhỏ bé, chúng sinh là trách nhiệm của cái ta to lớn. Dĩ nhiên luật nhân quả ràng buộc con người rất nhiều, song vẫn có thể lấy “đức” biến hóa nhân quả, không cho luật nhân quả khống chế đời sống của ta. Còn nếu như ta cứ chịu khuất phục nhân quả, thì chẳng hóa ra là ta cam phận làm chúng sinh muôn đời muôn kiếp, vĩnh viễn không thể trở thành kẻ giác ngộ nổi hay sao? Mê và giác vốn chia hai ngả, kẻ giác ngộ có thể thay đổi được luật nhân quả của tạo hóa, kẻ mê lầm mãi mãi nhận chịu sự chi phối của luật nhân quả đã an bài sẵn. Kẻ si mê nuôi con hy vọng lúc về già được chúng phụng dưỡng là mắc vào vòng nhân quả luân hồi; người giác ngộ nuôi dưỡng đạo để minh tâm kiến tính hầu vượt thoát khỏi vòng luân hồi nhân quả về cõi niết bàn.

Thái Sinh: Thưa, bữa nay trong Nhân Gian Du Ký ân sư đã đột nhiên đạp tung được chướng ngại mà bấy lâu tôn giáo không dám đề cập tới, song đối với nhân gian nó lại là vấn đề thiết yếu... Ngày nay người xuất gia đông, nhưng ngày xưa ngài Mạnh Tử lại dạy: “Có ba tội bất hiếu, tội không nối dõi là tội lớn nhất” (Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại) như vậy thì hai quan điểm trên quả là trái ngược nhau, xin được rõ tôn ý của ân sư.

Tế Phật: “Vô hậu” là không có sau, không có con nối dõi; còn hiểu rộng hơn thì trên không có chú bác, dưới không có anh em, nhưng các bậc anh hùng liệt nữ từ xưa tới nay rất nhiều vị tuy không có con nối dõi, song anh linh lại sáng ngời như hai vầng nhật nguyệt, nghĩa khí lại xuyên thấu đất trời, vượt cả tổ tông ngàn trước lẫn con cháu ngàn sau, bởi vậy đức hiếu nhỏ nhoi có thể đem so sánh nổi sao? Nguyên nhân chỉ tại người đời coi mình quá trọng, chấp trước cái ta quá nặng, nên đã quên rằng kẻ học đạo vì mắc bận công phu, công quả, cứu đời, giúp người, phải hy sinh, phải quên mình, do đó việc có con hay không, không còn quan trọng nữa, điều cốt yếu là phải gắng, vun bồi đức thiện sao cho thật sâu dày mà thôi. Kẻ xuất gia xuất thế tu đạo cần phải giác ngộ bản tính chân như để rồi lại nhập thế giáo hóa chúng sinh, phục vụ xã hội, hy sinh đời sống hạnh phúc riêng tư của cá nhân mình, một lòng vì mọi người hiến dâng tất cả. Do đó sợi dây luyến ái gia đình phải không còn ràng buộc, mới có thể dễ dàng xây dựng nghiệp thánh lớn lao. Sau khi lìa bỏ cõi trần trở lại cõi trời được muôn dân thờ kính, lễ lạy thì thiết nghĩ sự cúng giỗ của con cháu không thể nào so sánh nổi.

Thái Sinh: Thưa, một số giáo lý dạy rằng, dưới âm phủ có nhiều vong linh đang chờ đợi để được đầu thai làm kiếp người, xin ân sư chỉ giáo cho về cách tu đạo trong trường hợp này như thế nào?

Tế Phật: Giữa hai vấn đề “Thân người khó được” (Nhân thân nan đắc) và “Kiếp người khổ hải” (Nhân sinh khổ hải) phải giải quyết cách sao? Thì như con đã biết “Pháp” do tâm sinh ra, có chúng sinh mới có cái tên gọi là “Phật”, không có chúng sinh không có cái tên gọi đó, có chúng sinh mới có “Pháp”, không có chúng sinh không có “Pháp”. Trong kinh “Thái Thượng Vô Cực Hỗn Nguyên” có dạy rõ ràng rằng: “Đường lớn thiên đàng mở rộng, muốn trở về cõi Vô Cực, chỉ cần một mực giữ tâm thuần túy chân chất, là phá được cửa địa ngục ngay, hồn dù tán loạn, phách dù đọa lạc, người dù chết, thân dù tan, tu tiên vẫn còn hy vọng, nếu theo đúng kinh này mà tu hồn phách sẽ phục hồi. Thần và người không khác biệt, tái tạo âm đức thiện duyên, có thể đạt được hồn Tiên. Cứ theo đúng như kinh chỉ dạy mà gắng tu trì, chắc chắn sẽ đắc quả vị Thần Tiên, địa ngục tu thiên cũng giống trần gian tu đạo, lý đạo này giáo lý nào cũng đều đề cập... Để giúp những linh hồn chìm đắm thức tỉnh trở về nguồn cội, thoát ly nghiệp quả luân hồi. Do đó, lời dạy của nhà truyền giáo ở trên đã khích lệ những kẻ tu đạo rất nhiều.

Thái Sinh: A a, lời dạy của ân sư vô cùng chí lý, chắc chắn sẽ cải hóa được lòng dạ tối tăm của chúng sinh.

Tế Phật: Đã tới giờ vân du cõi thế gian, trò ngoan lên đài sen, chuẩn bị khởi hành.

Thái Sinh: Thưa, con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Đã tới nơi, trò ngoan có thể mở mắt ra.

Thái Sinh: Căn nhà nhỏ phía trước, có tiếng trẻ khóc, hình như người mẹ chưa nghe thấy tiếng con khóc, vì còn đang mắc bận giặt áo quần.

Tế Phật: Những đứa trẻ này là con không có cha, vì cha chúng đã sớm qua đời, chỉ còn một mình người mẹ nuôi nấng chăm nom chúng.

Thái Sinh: Thưa, nguyên nhân tại sao?

Tế Phật: Nhân quả, nhân quả, người mẹ này sau khi sanh bốn đứa con gái, không biết làm việc nghĩa để vun bồi phước đức, trọng nam khinh nữ, nghĩ là “Chỉ một con trai cũng gọi là có con” (Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô). Bởi vậy đã cố sinh thêm liên tiếp hai đứa con trai, song chẳng bao lâu qua đời, rồi kế tiếp tới chồng cũng sớm lìa bỏ cõi trần.

Thái Sinh: Thưa ân sư, cớ sao lại gặp sự bất hạnh như vậy?

Tế Phật: Sự bất hạnh mà người phụ nữ gặp phải kiếp này là do “nhân” kiếp trước tạo thành!

Thái Sinh: Thưa ân sư, kiếp trước của vị đó như thế nào?

Tế Phật: Kiếp trước của phụ nữ này là nam nhi, vì lúc tuổi còn trẻ bỏ học bỏ hành, chơi bời lêu lỏng, không chịu chăm chỉ làm lụng, cha mẹ bèn cưới vợ sớm cho y, hi vọng rằng y sẽ sửa đổi tính tình. Song không ngờ y vẫn chứng nào tật nấy, ngược ngạo với cha mẹ, đánh chửi vợ con, bài bạc rượu chè gây gổ, nên phải chịu nhân quả tuần hoàn báo ứng, kiếp này đầu thai làm phận gái để trả nợ kiếp trước, vì nghiệp chướng tiền kiếp mà gia đình tan nát, phải làm nghề giặt mướn, lãnh đồng lương rẻ mạt để sống qua ngày.

Thái Sinh: Thưa, không thể tưởng tượng nổi luật nhân quả vô hình báo ứng lại có thể hiệu nghiệm hơn luật tạo hóa hữu hình, cứ nghĩ rằng tránh thoát nổi, song cuối cùng lại hoàn toàn bất lực.

Tế Phật: Có câu: “Bồ tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Nhân quả tuy vô hình, song lại hoàn toàn chi phối vạn vật hữu hình, cùng biến hóa tạo dựng muôn loài. Chỉ có kẻ giác ngộ, chuyên thí ân bố đức, mới mong thoát khỏi luật nhân quả báo ứng mà thôi. Còn kẻ mê lầm, đương nhiên sẽ bị trầm luân trong vòng nhân quả tuần hoàn.

Thái Sinh: Thưa ân sư, tại sao bà mẹ này vẫn còn tiếp tục chịu đựng sự cực khổ?

Tế Phật: Vì còn phải đợi cho những đứa con gái trưởng thành, phải ngậm đắng nuốt cay để giữ tròn đạo làm mẹ, sau này mới mong được các con báo hiếu, khi đó số mệnh tự nhiên được cải biến.

Thái Sinh: Nguyên nhân đã thấy rõ, ước mong chúng sinh mau lìa bỏ nghiệp trần khổ hải, sớm thức tâm chứng quả bồ đề.

Tế Phật: Không ngờ trò ngoan động lòng trắc ẩn, thầy trò mình qua nhà khác phỏng vấn.

Thái Sinh: Thưa vâng... Ôi! Gia đình này cớ sao lại khổ sở tới nỗi này, hình như thân nhân họ gặp điều chi bất hạnh. Kìa! Một thanh niên đang nằm trên chiếc ghế dài, hình như là bị thương.

Tế Phật: Thanh niên đó là kẻ hung hăng dữ tợn, chuyên hành động bất lương, gây đau khổ cho gia đình, tạo bất an cho xã hội, không chịu làm ăn lương thiện, chỉ ham lập bè lập đảng với bọn lưu manh, trở thành những tay anh chị ở các chốn lầu xanh, tửu điếm.

Thái Sinh: Chắc thanh niên này vừa trải qua một cuộc thanh toán nào đây?

Tế Phật: Thanh niên ấy giống như con nhặng trong nhà, rõ ràng là có cửa kính che, song vì ỷ vào sức mạnh của mình một cách ngu đần, rồ dại nên đã không nhìn thấy vật chướng ngại, cứ ngang ngược phóng qua, chẳng khác nào chúng sinh ngày nay, mặc dù Tiên Phật đã dạy rằng: “Có luật nhân quả của tạo hóa” song bọn bất lương bạo ngược vẫn hoành hành chẳng khác nào đám nhặng ngu si cứ đâm đầu vào cửa kính, cuối cùng bể đầu chảy máu mới thức tỉnh, thanh niên đó chẳng giống hệt loài nhặng sao?

Thái Sinh: Lời dạy của ân sư quả là siêu diệu, có lẽ đợi tới khi thanh niên đó tỉnh ngộ mới từ bỏ tính lỗ mãng đó được.

Tế Phật: Cũng bởi thanh niên ấy từ bé lớn lên giữa một gia đình không yên ấm hòa thuận, cho nên lòng luôn luôn nuôi nấng sự bất mãn, khiến trở thành kẻ bất lương, do đó việc nuôi nấng dạy dỗ con cái trong nhà phải luôn luôn để tâm lo lắng. Phải thực hành tình yêu thương rộng lớn, sự chịu đựng vô biên để vun bồi hạnh phúc gia đình, còn không nuôi con sẽ chẳng thể thành rồng mà thành cọp dữ, chúng sẽ gây đau khổ cho gia đình, tan nát cho đoàn thể và bất hạnh cho quốc gia.

Thái Sinh: Thưa ân sư, con từng biết một gia đình chỉ có một đứa con trai, song vô phước khi bơi lội bị chết đuối, do đó cha mẹ nó vô cùng đau khổ.

Tế Phật: Hai mươi năm trước có một gia đình sinh được một đứa con, năm mười tuổi đứa trẻ đó qua đời, cha mẹ nó vô cùng đau đớn, thất vọng, vì bao nhiêu ước vọng đặt ở nơi đứa trẻ đều tan vỡ cả đời sống trở thành vô nghĩa, mất hết lạc thú. Do đó cha mẹ nó quẩn trí quyết định tự vẫn bằng cách leo lên núi cao nhảy xuống vực sâu để mong gởi tấm linh hồn cùng núi xanh, nước biếc. Nhưng khi họ vào tới chân núi có một ngôi chùa thờ Phật, trong chùa có một vị tỳ kheo an nhiên tự tại, lâng lâng thoát tục, khiến họ hồi tâm, đổi ý, bàn tính lại với nhau rằng: “Chúng mình lại có thể u mê tới mức này được sao? Vị tỳ khưu đó chẳng có con cái, đời sống vẫn bình an thơ thới, giống hệt ngày xưa mình từng sống trải qua, chỉ có chấp trước, không chịu xả bỏ ý tưởng bị mất mát ám ảnh, nên mới đi tìm cái chết. Giờ đây ta chuyển tâm chấp trước thành ra tâm cứu giúp kẻ khác, há lại chẳng đạt được hạnh phúc vĩnh cửu hay sao? Sau khi cặp vợ chồng thức tâm liền vất bỏ tính ngã chấp, mặc dù không con song chuyên lo cứu giúp các cô nhi viện, lấy việc giúp đỡ mọi người làm điều hạnh phúc, lại còn nhận nuôi con nuôi, chăm làm điều phước thiện, để lại tiếng thơm muôn đời tại cõi thế gian. So sánh với đời sống trước đây, thấy rằng rất là hạnh phúc ấm êm, vợ chồng sau này đều sống tới tuổi bát tuần, khi lìa đời hồn phách bay lên cõi vô cực, sống tiêu dao mãi mãi.

Thái Sinh: Được nghe ân sư kể lại chuyện xưa tích cũ, quả là tinh thần được nâng cao, người ta nếu mở rộng được lòng yêu thương, đức từ bi quảng đại, chỉ nghĩ làm lợi cho người, ra sức xây dựng cõi trần khổ hải thành chốn thiên đàng cực lạc, thì chẳng đẹp đẽ tốt lành lắm sao? Há lại cam chịu buộc trói, chôn vùi tâm linh, để rồi toàn chuốc lấy sự khổ đau.

Tế Phật: Đúng vậy, bữa nay tạm ngưng cuộc vân du tại đây, mau lên đài sen, trở lại Thánh Hiền Đường.

Thái Sinh: Thưa, con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởihành.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#18 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 05/09/2011 - 20:28

NHÂN GIAN DU KÝ

HỒI MƯỜI BA

LUẬN HƯ KHÔNG, TẾ PHẬT THUYẾT PHÁP

BÀN CHÂN LÝ BỒ TÁT GIẢNG ĐẠO

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 9 tháng 2 năm Nhâm Tuất (1982)

Thơ

Tĩnh tâm lập đàn đạo khí sung
Nghiên lý thể ngộ thiên văn thông
Khai hoài độ chúng thường tự tỉnh
Vô vi thanh tĩnh nhược hư không.

Dịch

Tâm tĩnh lập đàn đạo khí thông
Thiện duyên giác ngộ thuộc nằm lòng
Chúng sinh cứu độ hằng nuôi chí
Vắng lặng vô vi vượt sắc không.

Tế Phật: Kẻ thô bạo lấy sự đánh bại người làm tự mãn, dùng bạo lực đàn áp người để chứng tỏ mình mạnh, dùng sự xảo trá lừa gạt người để chứng tỏ mình khôn. Phải biết rằng dùng sự thô bạo đàn áp kẻ khác là hành động xấu xa bỉ ổi, dùng bạo lực tiêu diệt người khác là hành động vô cùng ngu xuẩn, dùng sự gian xảo cướp đoạt tiền bạc của người khác là hành động hết sức vô liêm sỉ. Giờ ta thử lấy hư không làm tỷ dụ, hư không lớn rộng song không tự cho là mình lớn rộng nên chẳng ai có thể so sánh nổi. Hư không cao vời song không tự cho là mình cao vời nên chẳng ai có thể so sánh nổi. Hư không sâu dày song không tự cho là mình sâu dày nên chẳng ai so sánh nổi. Hư không hùng vĩ song không tự cho là mình hùng vĩ nên chẳng ai so sánh nổi. Nhờ vậy hư không mới có thể chuyên chở vạn vật, bao trùm vạn vật, dung chứa vạn vật. Kẻ đạt đức giống tựa hư không, ngó trước mắt lại thấy sau lưng, nhìn lên cao lại thấy tỏa rộng, do đó đạo gia muốn người đời học hỏi về “không”.

Lẽ đó rất dễ hiểu, vì có lấy “hư không” làm gương mẫu, kẻ học đạo mới có thể giống tựa “hư không” mới có thể hòa hợp cùng “hư không” làm một thể. Đại Đạo Vô Cực dễ như móc túi lấy vật, lấy mãi còn hoài. Con người cũng có thể là thánh nhân, là vĩ nhân, là kẻ mạnh, là vô cùng cao siêu, không có năng lực nào thắng nổi, sức mạnh nào đàn áp nổi, bản lĩnh nào tranh giành nổi, khi đó mới được coi là đạt đạo giải thoát chân chính, còn không sẽ hèn hạ ngu si, tranh thắng tranh mạnh, tranh giàu tranh cao. Kẻ tranh mạnh tâm rất yếu, tranh giàu tâm rất nghèo, tranh thắng tâm thường thua, tranh quyền tâm thường khốn. Do đó, trò ngoan phải gắng học hư không, không tranh không cướp, không thừa không thiếu, không mạnh không yếu để trở thành thánh nhân bình thường vì có bình thường mới hiển lộ sự quý báu, phải dẹp bỏ ý tưởng xưng tụng mình, còn không sẽ rớt vào cảnh khốn cùng.

Thái Sinh: Thưa ân sư quả đúng như vậy, sách có câu: “Người sợ nổi tiếng, heo sợ mập” vì vậy, con muốn mãi mãi là “heo gầy vô danh” chứ không muốn là “heo mập nổi danh”. Chúng sinh như mình, mình như chúng sinh, hoàn toàn bình đẳng, không chênh lệch, không hơn kém.

Tế Phật: Ha ha, trò ngoan quả đã giác ngộ, kẻ tu đạo phải ưa trăng thanh gió mát, không ham danh lợi, thầy hy vọng con giữ mãi được đức tính này, để lên được thuyền từ qua bến giác, thay trời hành đạo.

Thái Sinh: Thưa ân sư, đã tới giờ khởi hành chưa?

Tế Phật: Tới rồi, tới rồi! Mau lên đài sen kẻo trễ.

Thái Sinh: Thưa con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã tới nơi, trò ngoan có thể mở mắt ra.

Thái Sinh: A, nơi đây đồng ruộng mênh mông, cây cối mọc xum xuê nhìn hút mắt, núi xanh trùng điệp nhấp nhô mấy chục dặm không dứt; vẻ xanh tươi của hoa cỏ giúp người ta dễ dàng rũ sạch bụi trần. Ngôi chùa phía trước sừng sững bên sườn núi cao. Phật đài bên cạnh vẻ uy nghi hùng tráng, đường đi lên khúc khuỷu quanh co, vẻ lớn lao, trang nghiêm, đẹp đẽ của ngôi chùa khiến mọi người kính nể. Cảnh trí u tịch, xa lánh hẳn những âm thanh ồn ào, náo nhiệt đầy phiền não của phàm trần thân tâm cảm thấy vô cùng thư thái, nhẹ nhàng.

Tế Phật: Hiện thời Bồ Tát Chính Quan đã xuất hiện, chúng ta đến lạy chào cùng vấn đạo ngài.

Thái Sinh: A, thưa con đã nhìn thấy Bồ Tát Chính Quan, hào quang tỏa chiếu sáng ngời đang ngồi ngay ngắn trong nhà vàng, nét mặt từ bi khiến mọi người kính nể.

Tế Phật: Này trò ngoan, con hãy thỉnh giáo Bồ Tát về trường hợp đắc đạo của ngài.

Thái Sinh: Thưa, bữa nay lần đầu tiên được ân sư hướng dẫn tới đây, bụng con trống rỗng, tâm con bàng hoàng, con biết mở lời cách sao?

Tế Phật: Tâm yên thần linh ứng, khi đối đáp đối tự nhiên lưu loát như nước chảy.

Thái Sinh: Thưa vâng, con xin tuân lệnh ân sư thử thực hành xem. (Bồ Tát Tĩnh Quang vừa hàn huyên với Phật Sống Tế Công xong thì Thái Sinh liền lạy chào ngài).

Bồ Tát: Miễn lễ, bữa nay Tế Phật và Thái Sinh vì việc trước tác sách Du Ký, nên đã thân hành tới đây, khiến tôi rất vui mừng, thiện căn của Thái Sinh quả là lớn lao mới có diễm phúc được Tế Phật hướng dẫn tới đây.

Thái Sinh: Thưa Bồ Tát quá khen ngợi, bữa nay đệ tử được tới đây thật vô cùng vinh hạnh, kính xin Bồ Tát chỉ giáo nhiều cho.

Bồ Tát: Được, Thái Sinh có những vấn đề gì cần thảo luận xin cứ đặt câu hỏi.

Thái Sinh: Kính xin Bồ Tát khai ngộ Phật pháp nhiệm mầu cho đệ tử.

Bồ Tát: Ha ha, ngộ cảnh khai ngộ, khai ngộ ngộ cảnh, vấn đề này hay lắm, kẻ ngộ cảnh là loại chúng sinh chưa vào cửa đạo, hãy còn mơ mơ màng màng, do đó chẳng rõ đạo lớn có thể tu, còn người đã vào được đạo lớn thì hành trình ngộ đạo của họ trước tiên: “Thấy núi là núi, thấy nước là nước” (Khán sơn thị sơn, khán thủy thị thủy) là bởi tính bị nhiễm vật, chấp tướng quá sâu, tâm bị ngoại cảnh cuốn hút quá nặng. Tới khi tiến cao hơn, ngộ được đạo lớn thì: “Coi núi không là núi, coi nước không là nước” (Khán sơn bất thị sơn, khán thủy bất thị thủy) mới chỉ giác ngộ được cảnh phàm trần là hư ảo, giả tạm, nên tâm còn dục niệm. Khi công phu tiến cao thêm một bậc nữa thì lại: “Thấy núi vẫn là núi, thấy nước vẫn là nước” (Khán sơn nhưng thị sơn, khán thủy nhưng thị thủy). Nhìn cảnh hư ảo phàm trần tâm không bị cuốn hút, tính không bị động loạn, lý do bởi tại định lực công phu đã đủ, không còn bị nhiễm ngoại duyên, nói không mà chẳng không, đó chính là tròn đầy thông suốt vậy.

Thái Sinh: Lời dạy của Bồ Tát thật quả là thâm diệu, và như vậy thì khác hẳn với “chỉ niệm”.

Bồ Tát: Chỉ niệm là một pháp môn, song không phải là pháp môn đạt cứu cánh giải thoát, phải biết rằng tự tính thanh tĩnh vốn chẳng sinh chẳng diệt, chẳng thêm chẳng bớt, đó là pháp tính chân như. Người ta ai cũng có tính này, song chỉ vì tâm mê, tâm này không dùng, tính này chẳng bền, tâm chạy theo giả tính, do đó vọng niệm nghiệp sinh, vọng niệm ngoại duyên, sinh sinh, diệt diệt, đều là nhân duyên nổi dậy, không phải là vật vốn có mà chỉ nhân duyên cùng tụ ắt sinh, nhân duyên khác biệt chia lìa ắt tan, chẳng phải là tính nguồn cội chỉ có bản tính thanh tịnh, yên tĩnh vắng lặng, siêu việt pháp tính nhân duyên. Xin lấy một thí dụ, bản tính thanh tịnh như kim cang, nhân duyên vọng niệm như đồ vật chế bằng kim cang, vật có thành, trụ, hoại, không song tính kim cang lại tùy duyên bất biến bất hoại. Người ta nếu giữ được chân tính kim cang này thì mới đạt tới trạng thái tâm hồn gặp cảnh không sinh tình, không luyến ái, coi hình tướng là ảo ảnh biến hóa giả tạm, chỉ chớp mắt đã mất; còn tự tính không nhiễm, vốn thanh tịnh, như mặt trời mặt trăng chiếu rọi hư không luôn luôn trong sáng.

Thái Sinh: Ha ha, nghe lời dạy của Bồ Tát quả là được khai mở rất nhiều, song tại sao lại nói tính Phật và tính chúng sinh không tăng không giảm?

Bồ Tát: Tính Phật như nước, cong thẳng vuông tròn, luôn luôn hòa hợp thích ứng, không tranh giành, làm lợi cho muôn loài mà không cậy là mình có công, không làm một cách giả dối, không cầu đền ơn, không khoe tài, không ỷ mạnh, đúng như lời Thánh dạy, tùy nơi tùy chốn thích hợp, chí công vô tư, thiện lành như trời đất. Còn tính của chúng sinh giống tựa băng, lạnh giá thì đông cứng, có góc có cạnh, băng vốn là nước ngưng đọng thành, như đạo gia thường nói, tính người từ một khí nguyên thủy sinh ra. Do đó mới hay nước kết thành băng, băng tan thành nước đều là giống nhau, không thêm không bớt, như vậy chẳng phải là nguyên lý không tăng không giảm sao?

Thái Sinh: Thì ra nguyên nhân là như vậy, Bồ Tát đã khai mở trí tuệ thật là huyền diệu, những điều nêu ra để thí dụ về đạo đều đầy đủ ý nghĩa. Chúng sinh chấp trước hình tướng giống như băng cứng ngắc, song nếu phá bỏ được tính ngưng đọng ngoan cố, tính Phật chân như liền hiện ra, tính trí tuệ bình đẳng không trụ hẳn một nơi nào.

Bồ Tát: Đúng vậy, tính chúng sinh bị nhiễm duyên trần thế, mắt nhìn hình tướng vật chất, tâm bị vật cuốn hút, mũi thấy mùi thơm, tâm liền muốn thưởng thức đều do lẽ ấy vậy.

Thái Sinh: Thưa, theo ý Bồ Tát làm cách nào chế phục được tâm vọng niệm để giữ bền được tâm Bồ Đề.

Bồ Tát: Muốn rũ bỏ phàm tâm phải xa rời bốn tướng là: “Ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ tướng” phải diệt trừ ngũ uẩn là “Sắc, thụ, tưởng, hành, thức” ắt chúng sinh có được tâm Bồ Đề, về được nơi thanh tịnh.

Thái Sinh: Bữa nay được Bồ Tát khai đạo để mở trí, ơn ích rất nhiều, kính xin Bồ Tát giảng giải thêm về ý nghĩa của hai chữ “trí huệ”.

Bồ Tát: Trí huệ có thể chia làm ba loại:

1. Bát nhã trí huệ, có thể thấy được ngũ uẩn đều là không, kẻ ấy giác ngộ được kinh, hiểu rõ được đạo.

2. Trung trí huệ là nghiên cứu học hỏi, phần lớn đều là những người thuộc các giới trí thức trong xã hội.

3. Hạ trí huệ là những kẻ thuộc loại thiếu thông minh đã gây nên sự nhầm lẫn.

Thái Sinh: Thưa Bồ Tát thế nào là “vô tướng”.

Bồ Tát: Phàm có hình tướng đều là hư ảo sẽ tan biến chẳng thể tồn tại nên gọi là “vô tướng”. Chúng sinh chấp hình tướng rất sâu; chúng sinh bố thí chấp tướng bố thí; chúng sinh nhìn Phật, chấp tướng nhìn Phật; nếu không chấp tướng bố thí thì công đức càng lớn; không chấp tướng nhìn Phật, trí tuệ càng sâu. Do đó, người tu cần phải đạt được cứu cánh của ba đức vô tướng bố thí.

Thái Sinh: Ba đức vô tướng bố thí là “bố thí tiền, bố thí pháp, bố thí dũng”. Vô tướng nghĩa là không chấp tướng, hành đạo, tu đạo không được giữ niệm tham vọng, giữ tâm mong cầu báo đáp, mà tâm lượng phải quảng đại, mới đạt được ba đức vô tướng bố thí.

Bồ Tát: Đúng vậy, như việc Thánh Hiền Đường phổ hóa lẽ đạo tam tào, chư đệ tử vì đạo công phu, công quả lập đức mà không chấp công đức vậy.

Thái Sinh: Thưa lời Phật dạy: “Tất cả pháp hữu vi như mộng ảo, như bọt nước, như giọt sương, như ánh chớp” là sao? Làm thế nào để khỏi rớt vào tình trạng chấp “không”.

Bồ Tát: Mười cõi muôn pháp vốn không không, ứng dụng không trở ngại, không thể đem “tướng hư vọng” gặp Như Lai, phải giác ngộ “tính thể không” để thấy tự tính Như Lai mới là chẳng chấp không.

Thái Sinh: Không thể chấp tướng, không thể lìa tướng, chấp tướng là hư vọng, lìa tướng là chấp không, thấy tướng không trụ, thấy không chẳng chấp, chẳng giữ chẳng bỏ đó là thực tướng.

Bồ Tát: Ha ha, Thái Sinh đã ngộ Phật pháp, vừa nói xong đã ngộ liền, thật chẳng uổng công trời xanh trông cậy.

Thái Sinh: Bồ Tát quả siêu phàm, dốc lòng lo cho chúng sinh xong vẫn một dạ khiêm nhường. Kính xin Bồ Tát dạy thêm về ý nghĩa của chữ “thức”.

Bồ Tát: “Thức” đại khái có thể phân chia làm chín loại, tiền ngũ thức gồm có: mắt (sắc), tai (thanh), mũi (hương), lưỡi (vị), thân (xúc). Thứ sáu là ý thức cũng là thức tâm vọng tưởng. Thức thứ bảy gọi là “mạt na thức” cũng là “thức truyền đạt” thức thứ tám là “ý thức tiềm tàng” (a lại da thức) cũng là nghiệp thức tức những chủng tử do chúng sinh nhiễm trần một đời tích tụ. Công phu học đạo đốn ngộ, cũng là pháp thấu triệt từ căn bản, không là pháp nhất thời tạm bợ rỗng tuếch phải đạt tới thức thứ chín gọi là nguyên thần, thức bạch tĩnh, cảnh giới vô ý thức, cũng là tự tính, Phật tính nguồn cội.

Thái Sinh: A ha, chỉ một lát nghe lời dạy của Bồ Tát hơn cả mười năm đọc sách, chúng sinh nếu như hiểu gốc biết rễ, ắt hẳn là lợi ích vô cùng.

Tế Phật: Bữa nay tạm kết thúc việc đàm luận lý đạo tại đây, trò ngoan mau bái từ Bồ Tát.

Thái Sinh: Thưa vâng. (Tế Phật cùng Bồ Tát Tĩnh Quan chào tạm biệt nhau xong, Thái Sinh vội quỳ xuống làm lễ từ giã Bồ Tát, Bồ Tát cùng gật đầu đáp lễ).

Tế Phật: Trò ngoan, bữa nay thời giờ đã trễ, chúng ta chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường, mau lên đài sen.

Thái Sinh: Thưa vâng, con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#19 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 05/09/2011 - 20:31

NHÂN GIAN DU KÝ

HỒI MƯỜI BỐN

CON CHÁU HIỀN LƯƠNG TIÊN TỔ ĐƯỢC NHỜ

CHA ÔNG ÁC ĐỨC DI HỌA CHÁU CON

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 23 tháng 2 năm Nhâm Tuất (1982)

Thơ

Nhân tính bản thiện lạc đào nhiên
Nại trầm nghiệt hải thụ khổ tiên
Như tư nhân duyên kỷ nhân thức
Năng sám chân hối thoát khổ uyên.

Dịch

Tâm hiền tính tốt sướng vui thay
Biển khổ trầm luân khỏi đọa đày
Nghiệp chướng nhân duyên lo cởi gỡ
Chân thành sám hối thoát trùng vây.

Tế Phật: Cầm thú chỉ có bản tính trực giác, tâm không chứa sự gian tà xảo trá; văn minh lý trí đều phản lại tính tự nhiên của trời ban phát, cho nên tham muốn không chán, luôn gian tà xảo trá, khiến đạo đức tiêu tan, tính tình mê loạn, chính khí bại hoại, đau khổ ngập tràn. Do đó, con người nếu như không sống theo bản tính thiện tự nhiên của trời phú cho thì sẽ tệ hại hơn cả loài cầm thú, chỉ thấy văn minh đẹp đẽ bên ngoài còn nội tâm bên trong kém xa loài thú.

Thái Sinh: Thưa lời dạy của ân sư cảm hóa lòng người rất sâu xa, người đời hiện nay chỉ mưu cầu sự lợi lộc cho riêng mình mà không nghĩ đến sự tai hại của kẻ khác, hành động như vậy há chẳng khiến đời sống mỗi ngày một sa đọa sao?

Tế Phật: Chúng sinh chỉ vì không tin nhân quả, không hiểu luật nhân quả thuộc cõi vô hình, hoàn toàn chi phối cõi hữu hình. Bởi vậy, những kẻ làm điều bất lương bất nghĩa cuối cùng sẽ hối chẳng kịp. Bữa nay, thầy trò mình tới phỏng vấn một kẻ chuyên làm điều bất nhân ác đức, âm dương tuy cách biệt hai đường, song thân nhân cũng không tránh khỏi đọa đày thống khổ.

Thái Sinh: Lời dạy của ân sư quả là có cầu cũng khó được, hy vọng những kẻ làm điều ác thấy gương đó kinh sợ mà thức tâm.

Tế Phật: Mau lên đài sen, chúng ta chuẩn bị khởi hành.

Thái Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Đã tới nơi, trò ngoan mở mắt ra.

Thái Sinh: Phía trước gia đình này âm khí quá nặng nề, khiến cảm thấy kinh hãi không rõ nguyên nhân tại sao?

Tế Phật: Trong chương sách Thái Thượng Cảm Ứng có nói: “Thiện ác quả báo như bóng theo hình” (Thiện ác chi báo như ảnh tùy hình). Long mạch nhà này bị một lớp âm khí dày đặc bao phủ, đó là hậu quả của việc làm ác đức nghiệp báo.

Thái Sinh: A thì nguyên nhân là như vậy, kính xin ân sư chỉ dạy thêm để được rõ gia đình này đã phạm vào những tội ác nào?

Tế Phật: Được, con hãy nhìn vị thanh niên đang ngồi hút thuốc trên sô-pha kia, trước đây ít năm vì ham mê bài bạc nên đã buôn bán gian lận, sau đó lại còn lòng ma dạ quỷ, lập hội thâu tiền rồi bỏ trốn, tưởng rằng quỷ thần không hay, nào ngờ chỉ trừ không làm mới không biết, nên mặc dù đã trốn về miền nam tìm nơi kín đáo ẩn mình song vẫn không tránh khỏi mắt phép của Tiên Phật theo dõi.

Thái Sinh: Quả là thất đức, trước sau gia đình này cũng bị ác nghiệp quả báo.

Tế Phật: Kẻ làm ác, chỉ có thể trốn lánh được một thời gian ngắn, chứ không thể thoát được cả đời, lại càng không tránh nổi kiếp sau, trò ngoan nhìn kĩ vị trung niên này sẽ thấy thần hồn điên đảo, vì hàng ngày say sưa trụy lạc, thân hình tiều tụy như xác ma, đời sống của con người sa đọa tới mức đó thì còn ý nghĩa gì?

Thái Sinh: Thưa vâng, vị đó coi bộ thật là bất thường, tâm bị rối loạn, luôn hoang mang kinh hãi.

Tế Phật: Tục ngữ có câu: “Tâm yên lý đạt” (Tâm an lý đắc) hàng đêm được ngủ ngon; còn: “Tâm không yên lý không đạt” (Tâm bất an lý bất đắc) đêm đêm thường mất ngủ. Hiện tại nguyên linh của vị đó đang bị luật nhân quả siêu hình trừng phạt đày đọa.

Thái Sinh: Thưa đêm nay ân sư có hướng dẫn trò ngu dạo thăm âm phủ không?

Tế Phật: Thật không ngờ ký ức của trò ngoan lại rất tốt như vậy, những chuyện nói trước đây còn nhớ rõ. Theo thầy thì bản Nhân Gian Du Ký này chính là bản Tam Giới Du Ký tức cuộc dạo thăm để ghi chép những sự việc của ba cõi Đất, Trời, Người.

Thái Sinh: Thưa đa tạ tấm lòng ưu ái trò ngu của ân sư, vì nhờ đó mà trong cuộc du hành để viết sách Nhân Gian Du Ký trò ngoan lại có thể thăm khắp ba cõi, ơn này quả là ba kiếp mới có được.

Tế Phật: A, thầy trò mình phải chuẩn bị mau, đã tới giờ khởi hành.

Thái Sinh: Thưa ân sư con đã sửa soạn xong. (Đường xuống âm phủ, gió lạnh thổi ào ào, tiếng kêu than nghe não ruột, khiến chẳng ai dám mở mắt nhìn, lát sau Tế Phật và Thái Sinh đã tới khu bình dân).

Tế Phật: Đã tới nơi, có thể xuống đài sen quan sát.

Thái Sinh: Chốn này là nơi canh tác đồng ruộng, phía trước có hai lính coi ngục, đang dẫn một âm hồn lương thiện ra khỏi cửa lớn, chẳng rõ lý do tại sao?

Tế Phật: Thời gian giam giữ âm hồn lương thiện tại khu bình dân này đã mãn, do đó lính coi ngục dẫn âm hồn này tới nơi khác để lo liệu tiếp.

Thái Sinh: A thì ra nguyên nhân là như vậy, bữa nay được ân sư hướng dẫn tới đây con chẳng rõ phải phỏng vấn như thế nào đây?

Tế Phật: Trước hết thầy trò mình phải vào bên trong đã rồi sau sẽ liệu.

Tướng Quân Giữ Cửa: Thưa có phải đây là Phật Sống Tế Công không?

Tế Phật: Đúng.

Tướng Quân Giữ Cửa: Lạy chào ngài Tế Phật, con thật quả vô lễ, vô lễ! Bởi lẽ con mới được đổi tới khu này ít tháng nay, cho nên không nhận ra ngài, kính xin đại Phật xá tội.

Tế Phật: Miễn lễ, bữa nay tôi hướng dẫn một vị phàm nhân lo việc viết sách tới đây để phỏng vấn, mong quý ngục giúp đỡ phương tiện cho.

Tướng Quân Giữ Cửa: Thưa vâng, xin ngài nán đợi để con vào trình với trưởng khu. (Sau khi trình báo xong, thấy Tế Phật tới vội vã nghênh tiếp, không dám lơ là).

Trưởng Khu: Ngài Tế Phật thân hành tới tệ khu trải biết bao cực khổ, thật là vinh hạnh vô cùng, tiếc rằng sự tiếp đãi không được chu toàn, kính xin ngài lượng thứ cho.

Tế Phật: Xin Trưởng Khu chớ quá quan trọng, bữa nay tôi tình cờ tới đây là bởi tại viết sách. Tôi muốn được phỏng vấn lại quý khu bình dân để có bằng chứng khuyến thiện, mong Trưởng Khu giúp đỡ phương tiện để cho con cháu chuyên làm ác ở thế gian của một số âm hồn thấy rõ cảnh đày đọa tại đây.

Trưởng Khu: Thưa vâng, kính mời Tế Phật cùng Thái Sinh vô trong đợi một chút. (Trưởng khu vội ra lệnh cho thuộc cấp lo liệu, chuẩn bị các tài liệu cùng áp giải các âm hồn tới. Tế Phật và Thái Sinh tiến vào nhà khách của Trưởng Khu được tiếp đãi nồng hậu, lính hầu dâng trà thơm trái ngọt, lát sau âm binh áp giải ba âm hồn tới).

Trưởng Khu: Các âm hồn đã được áp giải tới, mời Tế Phật định liệu.

Tế Phật: Trò ngoan, hãy phỏng vấn các âm hồn đó đi.

Thái Sinh: Xin tuân lệnh, xin hỏi vị âm hồn lương thiện, cớ sao vị lại cúi đầu sợ hãi như vậy?

Thiện Hồn: Thưa, nếu nói ra thì không biết bao nhiêu mà kể, tôi vốn đang tu luyện thần thức tại sở tu thiện, song năm qua vì con cái trên dương thế hấp thụ văn minh vật chất tây phương, tham tiền đến nỗi lén sang phim con heo, đem bán hoặc cho mướn kiếm lời, do đó đã khiến Minh Vương nổi giận bèn đày tôi xuống khu bình dân.

Thái Sinh: À, thì ra nguyên nhân là như vậy, quả là đáng tiếc... Xin hỏi Trưởng Khu, con cái trên trần làm điều ác cũng ảnh hưởng tới âm phúc của cha mẹ há không công bằng sao?

Trưởng Khu: Câu hỏi của Thái Sinh rất có lý, song phải biết rằng tình thân huyết nhục có liên hệ, tinh thần nòi giống có ràng buộc, âm dương tương quan, do đó “Một con thành đạo, cửu huyền thất tổ thảy đều được siêu thăng” (Nhất tử thành đạo, cửu huyền thất tổ tận siêu thăng). Nay lấy lẽ đó mà suy, đương nhiên “Một người làm ác, cửu huyền thất tổ đều bị xấu, bị nhục lây” (Nhất nhân tố ác, cửu huyền thất tổ đồng mong kỳ tu, đồng mong kỳ nhục). Ngoài lẽ đó ra tội dâm là đầu muôn tội, vậy mà dám buôn bán loại phim dâm để kiếm lợi thì tội đó âm phủ chẳng thể tha thứ.

Thái Sinh: Trưởng Khu nói rất đúng, thật là kỳ quái, người đời nay tại sao lại chẳng thể thanh tịnh thức tâm để tránh làm điều ác?

Tế Phật: Này trò ngoan, con đã từng nằm mơ bao giờ chưa?

Thái Sinh: Thưa có.

Tế Phật: Vậy thì trong lúc đang nằm mơ con có thể biết được là con nằm mơ không?

Thái Sinh: Không thể nào biết được, ngoại trừ khi đã tỉnh thức.

Tế Phật: Đúng vậy, trong khi đang nằm mơ không thể hiểu rằng mình đang nằm mơ. Chúng sinh phàm trần ngày nay đang đi sâu vào con đường mê lầm, giống hệt kẻ nằm mơ vậy, cho mọi thứ đều thật, kỳ thực chỉ mặc một bộ áo bằng thịt mà thôi, tới khi bộ áo bằng thịt đó không còn sử dụng được nữa thì người phàm gọi là “chết”, Tiên Phật coi là “tỉnh ngủ”. Sự khác biệt giữa hai cảnh giới này là một đàng cõi Tiên Phật vô hình, một đàng là cõi hữu hình bị hình thể không gian trói buộc mà thôi. Do đó, người phàm thường nói: “Cảnh mộng là không” (Mộng cảnh giai không), Tiên Phật thường nói: “Cảnh đời là không” (Nhân sinh giai không) chẳng khác nhau.

Thái Sinh: Ha ha, người đời chịu phận vinh nhục, được thua, muôn cảnh đều không.

Tế Phật: Đúng vậy, thôi con mau phỏng vấn vị thiện hồn thứ hai đi.

Thái Sinh: Thưa vâng... Xin hỏi vị đại đức nhìn dung nhan vị thật là hiền lương song cớ sao vị lại phải tới đây?

Thiện Hồn: Tôi ngày trước tu đạo, chỉ vì tính cố chấp, tham lam tiền của lợi lộc, do đó công đức không đủ, cho nên không được về cõi trời, chỉ được ngụ tại sở tu thiện hưởng phúc lành, không ngờ ít năm trước đây, con trai ở chốn phàm gian say mê tửu sắc, làm tiêu tan cả sản nghiệp của tôi để lại. Khi trắng tay lại còn cả gan lập hội thâu tiền được khoảng trăm vạn, nửa đêm lén ôm tiền trốn đi, chỉ một ý nghĩ sai lầm mà gây thành tội tày trời, do đó Minh Vương nổi giận, đuổi tôi ra khỏi sở tu thiện và đày xuống đây.

Thái Sinh: Như vậy thì thực quả là đáng tiếc lắm thay.

Trưởng Khu: Lập hội lừa người, lòng dạ gian trá khiến người khác bị cướp đoạt tiền bạc cùng khiến cho xã hội hoang mang, do đó phàm những kẻ phạm vào tội vờ lập hội để đoạt tiền đều bị Minh Vương nghiêm trị.

Tế Phật: Trò ngoan hãy mau phỏng vấn vị thiện hồn thứ ba.

Thái Sinh: Thưa vâng... Xin hỏi vị Thiện Hồn, cớ sao vị lại bị đày tại khu này?

Thiện Hồn: Đứa con trai chó má của tôi vô cùng bất hiếu, không nghĩ tới ơn dưỡng dục, đã làm thuốc giả bán cho người, khiến người bệnh không biết mua về uống, không những bệnh không thuyên giảm mà còn bị nặng thêm. Vì tội ác của thứ con chó má đã gây nên khiến Minh Vương nổi giận đày tôi tới khu này.

Thái Sinh: Chế thuốc giả bán cho người, hiện thời quả không thiếu.

Tế Phật: Bữa nay thời giờ đã trễ, trò ngoan chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.

Trưởng Khu: Lệnh cho các viên quan hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn. (Thái Sinh chào từ biệt Trưởng Khu cùng các thiện hồn).

Tế Phật: Trò ngoan mau lên đài sen, chúng ta trở lại Thánh Hiền Đường.

Thái Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.





***






NHÂN GIAN DU KÝ

HỒI MƯỜI LĂM

THÁI SINH HỎI ĐẠO, CÁC ĐẠO THÔNG SUỐT

TẾ PHẬT HOẰNG PHÁP, CÁC PHÁP SÁNG TỎ

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 26 tháng 2 năm Nhâm Tuất (1982)

Thơ

Tôn giáo bố đạo hóa nhân quần
Vạn giáo đồng tông cộng canh vân
Tâm pháp diệu truyền không vô tướng
Khế hợp chân cơ chủng thượng căn.

Dịch

Đạo ban giáo lý khắp muôn nơi
Các phái cùng nhau gắng đắp bồi
Diệu pháp tâm truyền không sắc tướng
Thiên cơ hòa hợp hạt đâm chồi.

Tế Phật: Nhân Gian Du Ký đã noi theo ý nghĩa của lẽ đạo, mở rộng tâm bác ái, phát huy các phần chính yếu của mọi tôn giáo, nhờ truyền giáo đạt giáo hóa, do giáo hóa đạt giáo hóa, do đạo hóa đạt chân hành, do chân hành đạt chân tu. Nhờ sự chân tu tâm lượng rộng mở, đạt tới thành quả phổ hóa chân chính, đó là thể hiện toàn bộ đạo lớn, còn ngược lại chỉ là bàn dông tán dài mà thôi.

Thái Sinh: Thưa ân sư dạy rất phải, đại đạo chí công, đại đạo vô tư.

Tế Phật: Bữa nay dùng phương thức viết sách, sẽ đem đạo luận đạo, đem tâm ứng tâm, để khảo về trí tuệ cùng sức học của trò ngoan.

Thái Sinh: Bữa nay ân sư đột nhiên khảo sát trò ngu, trò ngu sợ rằng tâm pháp còn kém cỏi sẽ khiến ân sư phiền lòng thì thật là chẳng tốt chẳng lành.

Tế Phật: Dùng tâm pháp luận đạo, há lại đem lòng phân biệt giữa thầy với trò sao, còn nếu như không thực hành cách này ắt là trò ngoan khó có thể phát huy trí tuệ siêu diệu tiềm tàng trong nội thức, và biết đâu kiếp này ta là thầy của trò ngoan, nhưng muôn ngàn kiếp trước trò ngoan chẳng đã từng là thầy ta, hơn nữa kẻ giác ngộ là thầy, kẻ mê lầm là trò. Tôn chỉ của tâm pháp bữa nay là phá chấp.

Thái Sinh: Thưa ân sư quả nhiên là như vậy, song nếu như có điểm nào thất lễ cùng ân sư, kính xin ân sư tha tội cho.

Tế Phật: Phật vốn không giận, không trách, há lại còn bắt lỗi sao.

Thái Sinh: Thưa phải, thưa phải. Cám ơn ân sư đã ban lời chỉ giáo, kính xin ân sư răn dạy tiếp.

Tế Phật: Thế nào gọi là “Đạo”.

Thái Sinh: Đức Lão Tử dạy rằng: “Đạo lớn vô hình, sinh đẻ nuôi nấng trời đất; đạo lớn vô tình, xoay chuyển mặt trời mặt trăng; đạo lớn vô danh, nuôi dưỡng muôn loài, ta không biết gọi tên là gì, nên miễn cưỡng gọi là “Đạo” (Đại đạo vô hình, sinh dục thiên địa; đại đạo vô tình vận hành nhật nguyệt; đại đạo vô danh, trưởng dưỡng vạn vật, ngô bất tri kỳ danh, cưỡng danh viết: “Đạo”).

Tế Phật: Tên của trò ngoan là gì?

Thái Sinh: Thưa là Thái Sinh.

Tế Phật: Không có tên tại sao còn gọi là Thái Sinh?

Thái Sinh: Thưa ân sư bởi vì hậu thiên tức là cõi hữu có phân biệt, có danh hiệu do đó mới có tên gọi Thái Sinh. Tiên thiên tức cõi vô nên vô danh vô ngôn, vô hình, vô tướng do đó mới đơn giản gọi là: “Đạo”, miễn cưỡng gọi là “đạo” còn vốn không có cái tên gọi là “đạo”. Bởi lẽ đó tên gọi Thái Sinh bữa nay cũng là tên là họ miễn cưỡng, trò ngu vốn không tên không họ do một khí tiên thiên hóa thành.

Tế Phật: Trò ngoan thực đã biết dùng việc một cách thức thần.

Thái Sinh: Thức thần từ đâu tới, nguyên thần tới từ đâu, dùng việc thức thần ban đạo có lý, cũng là nguyên thần; nguyên thần dùng việc, nói đạo có lý, cũng là thức thần.

Tế Phật: Hiện tại trò ngoan đứng ở phương nào?

Thái Sinh: Thưa con không rõ là tại phương nào?

Tế Phật: Tại sao lại không biết phương hướng?

Thái Sinh: Hư không rộng lớn vô cùng, làm sao rõ được phương hướng, kẻ mê mong được sống bốn phương, kẻ giác ngộ cầu được “tự tính tây phương”.

Tế Phật: Hiện tại người đứng trước mặt trò ngoan là ai?

Thái Sinh: Thưa chẳng có ai.

Tế Phật: Tại sao lại chẳng có?

Thái Sinh: Thưa Phật dạy: “Toàn thể pháp hữu vi, như mộng ảo, như bọt nước, như giọt sương, như ánh chớp, phải coi tất cả là như vậy” (Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng ảo, như bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quan) do đó mà chẳng có.

Tế Phật: Dĩ nhiên là chẳng có, chết chẳng có, muôn duyên đều giả, muôn sự đều không, há phải tu đạo?

Thái Sinh: Hư không có một cách cao siêu, hư vô tồn tại một cách diệu kì, cái thanh bay lên, cái trược rớt xuống, cái thanh thành Phật, thành Tiên, thành Thần, thành Thánh; cái trược rớt xuống mắc vòng nhân quả luân hồi hấp dẫn, trói buộc nên thành người, thành vật, thành quỷ, nhân duyên tự mời gọi, nhân quả tự kết liễu. Do đó không mà chẳng không, tên gọi là thực không (chân không); thực không chẳng không, tên là thực tướng, thực tướng không tướng, bản thân nhiều oan nghiệt, sự mê muội bao trùm, bản tính bị lợi dục che phủ. Trừ khử vật dục tham vọng, thấy được tất cả sự chân thiện mới rõ được cái sự quý giá của đại đạo ở tại đâu, mắt kẻ mê nhìn gần, tham lam mưu chiếm đoạt của cải lợi lộc trước mắt, tự đắm chìm biển khổ oan nghiệt, tự đày đọa luân hồi.

Tế Phật: Thầy tặng thơ cho con, con hãy mau tu đạo.

Thái Sinh: Thầy ban cho con mười bài thơ, song con không thấy cần thiết, bởi lẽ bản tính đã không chấp, thì thơ cũng không còn tác dụng. Cho nên, kẻ giác ngộ tự độ mình, kẻ mê thầy độ, kẻ mê cần thầy ban thơ để trợ đạo, kẻ mê bị động, kẻ giác tự động; kẻ mê vĩnh viễn là chúng sinh, không thể thành đạo. Kẻ giác tu hành có thể thành đạo. Kẻ mê lấy mê nhập mê, lấy mê độ mê, cho mình là lớn, cho mình là cao; kẻ giác dùng lý giúp đạo, dùng lí hóa người, tự cho mình là nhỏ, là thấp. Kẻ cao chẳng cao, kẻ thấp chẳng thấp, kẻ lớn chẳng lớn, kẻ nhỏ chẳng nhỏ, kẻ lớn tự mê, kẻ nhỏ chẳng mê.

Tế Phật: Hãy mau đem tiền của con ra bố thí hết đi.

Thái Sinh: Hiện tại con đã đem hết tiền của ra rồi, công đức tuy quá lớn lao, có lúc thấy như giương cung bắn tên lên trời, vì không rõ chân lý, cuối cùng sẽ bị rơi rớt. Tiên Phật cần tâm của con chứ không cần tiền của con, phúc đức khác với công đức là ở điểm đó. Kẻ tu đạo cần phải có tâm đạo vĩnh cửu, chăm sóc thể xác, thành tâm bố thí, thành tâm lo cho đạo, tu tâm sửa tính, bỏ tật se sua, cần kiệm chăm sóc gia đình, dùng tiền của chúng sinh lo việc cho chúng sinh, lại còn phải thành tâm bố thí giúp đạo, phải tu cả tính lẫn mệnh mới gọi được là đầy đủ vậy.

Tế Phật: Con có cần thầy giảng về bến mê không?

Thái Sinh: Thưa, bến mê không cân chỉ, là đạo ắt tiến, không phải đạo ắt lùi; là đạo ắt giúp, không phải đạo không giúp; là ngay ắt theo, không ngay không theo; là lý ắt đọc, phi lý không đọc. Bởi vậy bến mê không cần hướng dẫn, chỉ những kẻ mê lầm mới cần dạy bảo.

Tế Phật: Con có cần thầy giảng giải về nhân quả không?

Thái Sinh: Thưa nhân quả cũng không cần giảng giải, kẻ đời này nhận là quả; kiếp này tạo là nhân. Bởi vậy nhân quả hoàn toàn do mình rõ, há phải nhờ người khác giảng giải.

Tế Phật: Trò ngoan có cần thấy rõ sự hiển hóa của ta không?

Thái Sinh: Ha ha, tu đạo không cần hiển hóa, hình tướng đều là không, há cần phải hiển hóa, chúng sinh tâm mê, nên cầu hiển hóa, sự cầu này là cầu mê chẳng phải cầu đạo. Tiên Phật tuy có hiển hóa, chịu biết bao khổ cực mới dẫn dắt nổi những kẻ mê lầm vào đường giác ngộ, chẳng phải dẫn mê vào mê.

Tế Phật: Nếu nói như vậy thì thế nào là đốn ngộ?

Thái Sinh: Đốn ngộ là khai mở tính Phật nguồn cội, giác ngộ được: “Bồ đề vốn không cây, gương sáng cũng không đài, mọi vật vốn đã không, lấy đâu nhuốm bụi trần” (Bồ đề bản vô thụ, minh kính diệu phi đài, bản lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai?).

Tế Phật: Thế nào gọi là tùy người ban pháp?

Thái Sinh: Sự giác ngộ của chúng sinh có nhiều trình độ, nhiều hoàn cảnh, chân đạo chỉ có một song lý đạo lại nhiều, nên cần phải tùy căn cơ mà truyền pháp lý mới tránh khỏi sự công kích, phỉ báng cùng đố kỵ.

Tế Phật: Ngày nay trò ngoan vì trời mà ra sức gắng gỏi rất là khổ cực.

Thái Sinh: Đã có tâm đại từ bi thì không còn đau khổ (Đại từ vô thống, đại bi vô khổ). Người đời tham tiền mê sắc, tự gieo nhân khổ nên lãnh quả khổ.

Tế Phật: Ha ha, ngày nay có được Thái Sinh hoằng pháp, đạo Thánh có thể chấn hưng vậy.

Thái Sinh: Thưa, chẳng thể chấn hưng, chẳng thể chấn hưng, chúng sinh tự tu tự độ, ý trời xử sự tự nhiên, cửa Thánh lúc này lại thấu triệt lớn, giác ngộ lớn, chẳng thể lại mê lầm.

Tế Phật: Bữa nay tham khảo tới đây, thành tích là “không”.

Thái Sinh: “Không” đại biểu “viên mãn” cũng đại biểu “vô”, không ở chính giữa viên mãn và vô, do đó tu đạo phải nắm giữ chữ “trung” vì có ở chính giữa mới thông suốt được tất cả.

Tế Phật: Mi chỉ khéo già mồm, cắn răng co lưỡi lại.

Thái Sinh: A, ân sư động loạn.

Tế Phật: Chính mi loạn động.

Thái Sinh: Ha ha, trò ngu chịu thua.

Phụ chú :

Phật vốn không sân, chỉ thử khảo sát định lực công phu của Thái Sinh mà thôi, do đó đã cố ý nói một câu nghe chói tai để thử Thái Sinh mà Thái Sinh lại cho là Tế Phật mất bình tĩnh, nổi cơn tức giận, cho nên Tế Phật mới bảo Thái Sinh là tâm còn động, bởi vậy công phu hàm dưỡng, công trình định thần của kẻ tu đạo vô cùng quan trọng, nên mới có bài kệ khuyên giải như sau:

Đại đạo truyền thiên hạ
Thiên sầu nhất chỉ khai
Hoan nhan vô nễ ngã
Các cá diện Như Lai.

Đạo lớn truyền thiên hạ
Muôn sầu tan biến ngay
Ngàn vui không giới hạn
Khắp chốn thấy Như Lai.

Tế Phật: Ha ha, trò ngoan, trò ngoan, kẻ sinh sau quả là đáng sợ, thế mới biết người sinh trước chẳng bằng kẻ sinh sau. Hiện tại đã về tới nơi đặt cối giã của con,

Thái Sinh: Lại phải bắt đầu giã gạo.

Tế Phật: Chẳng phải giã gạo mà là chà cát.

Thái Sinh: Đúng đúng, phò đàn cơ, phò đàn cơ. (Lúc này Tế Phật muốn Thái Sinh trở về với bổn tính nguyên lai để lãnh nhiệm vụ phò đàn cơ thay trời hoằng dương đạo pháp, tạm ngưng dùng tâm pháp luận đạo, còn sự phân biệt thấp cao là để giữ lễ thầy trò).

Tế Phật: Bữa nay thầy trò mình diễn được màn tuồng hay ho chưa từng có.

Thái Sinh: Diễn thì hay mà đạo môn tâm pháp chẳng thông thì cũng giống như đọc mà chẳng hiểu.

Tế Phật: Đó là lẽ đương nhiên, mọi người đều phải tự giác ngộ, kể từ hồi thứ năm trong sách Nhân Gian Du Ký đến hồi này, trò ngoan đã được tôi luyện rất nhiều.

Thái Sinh: Quả đúng như vậy, do đó trò ngu phải ngưng sự bỡn cợt, nên có ý định thay đổi cách nói để có thể giúp ích khắp ba cõi.

Tế Phật: Chớ ngại, cách nói này có người khi nghe cảm như được ống thuốc tiên cùng nước cam lộ, có người cảm thấy phải ngậm đắng nuốt cay, khổ đau không nói hết, có kẻ mặt mày choáng váng, mắt hoa, mỗi người một căn cơ khác nhau nên sự lãnh hội chẳng giống nhau, sự tri giải, kiến giải khác nhau, kẻ đã giác ngộ được thì không phỉ báng, kẻ còn u mê chưa thức tỉnh thì lớn tiếng thóa mạ.

Thái Sinh: Hy vọng các tín hữu nơi đàn cơ lãnh hội được đầy đủ, còn không người phổ biến tạp chí Thánh Hiền há chẳng uổng công phụng sự lắm ư? Hi vọng người thông hiểu giữ vững niềm tin, ra sức phát huy đạo giáo, thay trời hoằng pháp, kẻ chưa thông suốt chăm lo học đạo được tinh tiến, để đường đạo ngày một mở rộng thêm.

Tế Phật: Nhưng cũng phải là người có tâm học đạo, bỏ được tâm tham lợi u tối mới thực hiện nổi công tác phổ hóa.

Thái Sinh: Thưa đúng như vậy, song nguyện kẻ mê giác ngộ, chúng sinh lo tu, thương sinh thức tỉnh.

Tế Phật: Con nói rất đúng, ngày nay các môn phái đạo giáo rất nhiều, người đời tu theo bất cứ pháp ngôn nào ta đều đồng ý, song vàng thật ít người biết, còn vàng giả lắm kẻ dại giành. Ngày nay độc giả cùng tín hữu của Thánh Hiền Đường muốn được vàng thật hay vàng giả là đều do mình lựa, thế mới biết là Phật không đến không đi.

Có thơ rằng: Thiên hồng hữu thủy thiên hồng nguyệt Vạn lý vô vân vạn lý thiên. Muôn hồng có nước muôn hồng nguyệt Vạn lý không mây vạn lý thiên. Ngày nay chư tín hữu Thánh Hiền Đường, nước biếc xanh, không mây khói, mặt trăng mặt trời sáng tỏ, thiên tâm xuất hiện, tâm ấn trao truyền mầu nhiệm, muôn pháp khế hợp, mỗi câu đều xét thấu chân lý, người đời tự giác ngộ, chẳng thể tranh giành. Ngày nay Thánh Hiền Đường do trò ngoan giúp sức ổn định nhân tâm, công lao chẳng thể mai một.

Thái Sinh: Thưa, xin ân sư ban cho con công đó đi, hai tay con hiện trống trơn đây.

Tế Phật: Thầy tặng con đạo hiệu tiên thiên là “Đạo Hoằng” có nghĩa là phát huy đạo pháp.

Thái Sinh: Xin cảm tạ ân sư, Đạo Hoằng, Đạo Hoằng, ha ha thâm diệu, thâm diệu.

Tế Phật: Đây là lần tâm pháp truyền chân, kể từ sách Nhân Gian Du Ký về sau có thể đem phương thức viết sách này ra áp dụng, để có thể sử dụng được tâm pháp, theo ý của thầy phải tùy nghi thích ứng, chớ có thi hành một cách bừa bãi, giống như tuy có thuốc bổ hay, nhưng không thể uống được thật nhiều vậy.

Thái Sinh: Thưa lời dạy của ân sư, trò ngu xuẩn ngốc bữa nay làm sao có thể giải đáp thông suốt nổi?

Tế Phật: Ha ha, trò biết, thầy biết, chẳng thể nói chẳng thể nói, thôi ta trở về, Thái Sinh hồn phách nhập thể xác.

Sửa bởi hiendde: 05/09/2011 - 20:50


#20 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 05/09/2011 - 20:59

NHÂN GIAN DU KÝ

HỒI MƯỜI SÁU

BÁC ÁI, NHÂN ÁI, TỪ BI, TRUNG TRINH CẢM ỨNG CÙNG MỘT LẼ

ĐƯỜNG ĐẠO, CHÂN LÝ, SINH MỆNH, CHÂN TÂM LINH TÍNH KHÔNG HAI NGHĨA

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 3 tháng 3 năm Nhâm Tuất (1982)

Thơ

Bác ái tồn tâm cứu thế nhân
Vạn giáo hợp nhất cộng canh tân
Nễ ngã vô phân thi đại giáo
Hung khâm khai hoài tảo dục sân.

Dịch

Bác ái dốc lòng cứu thế nhân
Hợp cùng muôn giáo quyết canh tân
Ta người như một lo công quả
Mở rộng từ tâm quét dục sân.

Tế Phật: Bữa nay là ngày lành tháng tốt vì là dịp lễ thánh đản của đức Thượng Đế Huyền Thiên, khắp chốn vui mừng tấp nập cử hành lễ chúc thọ đấng thiêng liêng. Ha ha, quả là chẳng thể bàn luận, bởi vì tập tục các nơi khác nhau, nên mê lầm và giác ngộ không giống nhau. Do đó lễ chúc thọ cũng khác hẳn nhau; có nơi mổ heo mổ dê dâng cúng; có nơi thịt cá đầy bàn, có chốn chay tịnh chỉ bày hoa quả, bông trái, bánh mứt; có nơi chỉ đốt ba cây nhang; có chốn chỉ có tấm lòng thành dâng hiến. Nhìn những cảnh tượng này khiến ta hoa cả mắt. Tôn giáo ngày nay cũng giống như vậy, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau rất là phức tạp, lí thuyết mông lung rối rắm, ai cũng nói mình đúng khiến người nghe càng phân vân, chẳng rõ sẽ về đâu, đi tới đâu. Ha ha “lễ phân”, “giáo chia”, lễ đã phân biệt, giáo còn chia rẽ hơn, chỉ có đạo là chẳng xa lìa. Bởi lẽ đạo huyền vi với tự tính hoàn toàn bình đẳng, nguyên lai diện mục giống nhau, do đó đạo vô cùng cao sâu, chẳng hẹp hòi mà lớn rộng, mọi người có thể hành, chẳng phải người nọ hành được, người kia không hành được, nơi này thích hợp, nơi khác không thích hợp, nếu quan niệm lệch lạc thì chẳng thể gọi là đạo lớn. Cho nên ngày nay mỗi tôn giáo phải quan niệm lại nghĩa đạo cho thật đúng đắn, không thể không đem tinh thần bác ái quảng đại ra làm gương mẫu cho mọi người noi theo, phải bổ ưu khuyết điểm mới có thể tạo dựng được ý nghĩa chân thật của đạo. Bữa nay thầy trò mình lại tới phỏng vấn một vị chân tu thuộc Tin Lành giáo.

Thái Sinh: Thưa ân sư, việc này quả là khó khăn lắm.

Tế Phật: Vị tu sĩ này cũng là đọc giả của tạp chí Thánh Hiền.

Thái Sinh: Thưa, con chẳng thể ngờ được vị tu sĩ này lại có được tấm lòng quảng đại sẵn sàng dung nạp tôn giáo khác.

Tế Phật: Tạp chí Thánh Hiền có nhiều đọc giả thuộc các tôn giáo khác điều đó chẳng có gì là lạ bởi lẽ lập trường phổ hóa của tạp chí Thánh Hiền tuyệt nhiên không cao ngạo, khoe khoang cùng huyền hoặc mê tín. Do đó mới có thể thích ứng với mọi nhân tâm thời mạt thế, phù hợp với đạo đại đồng thế giới. Kẻ sáng lẽ đạo, thấy đạo là lớn; kẻ không sáng lẽ đạo, coi đạo là nhỏ; kẻ sáng lẽ đạo coi đạo là chính; không sáng lẽ đạo coi đạo là tà.

Thái Sinh: Thưa, lời dạy của ân sư vô cùng siêu diệu, đạo như đường đi, không có phân biệt được giàu sang với nghèo hèn, biên giới với chủng tộc, hiền với ngu, nhỏ với lớn, phải mọi người có thể thực hành, ứng dụng được mới có thể gọi là đạo lớn, giáo lớn.

Tế Phật: Trò ngoan, con nói rất đúng, có như vậy các tôn giáo mới không chia rẽ, thế giới mới thoát nổi cái họa phân tranh, nhân loại mới được sống thái hòa.

Thái Sinh: Nhân loại có thái bình, tôn giáo có thái hòa, thế giới có đại đồng mới thực là hoàn toàn tốt đẹp... Vả lại Thánh Hiền Đường vốn đã chủ trương tôn giáo hợp nhất, bữa nay lại phỏng vấn một tôn giáo khác, liệu có tránh khỏi một số giáo sĩ tôn giáo bạn bài xích cùng phỉ báng chăng?

Tế Phật: Ngày nay tinh thần phổ hóa đạo pháp của Thánh Hiền Đường chí công vô tư, ra sức hòa giải tôn giáo xã hội đồng thời cũng là phương thức phổ biến đạo lí của thầy trò ta. Do đó mình càng phải phát triển đường lối giáo hóa đầy ý nghĩa chân thật này, khi sứ mệnh thành công tự vấn lương tâm hẳn là không thẹn, gắng hết sức làm. Nếu như có một tôn giáo nào đó vì ích kỉ hẹp hòi không chịu dễ dàng dung nạp kẻ khác tiến vào mảnh vườn tu của mình thì làm sao gọi là bác ái rộng lượng được, há chẳng khẩu thiện mà tâm chẳng thiện sao, để rồi chỉ tự chuốc lấy sự thấp hèn xấu xa mà thôi vậy. Thế mới hay, thời xưa vì sự giao thông không thuận tiện nước này nước kia cách trở, ngày nay việc đi lại hết sức dễ dàng, việc truyền thông tin tức càng mau chóng tiện lợi. Do đó chỉ tại một số nhà truyền giáo, truyền pháp không giúp đệ tử hấp thụ nổi, nên họ chẳng chịu tu trì, cũng có một số nhỏ mưu đồ lợi lộc, hoặc dẫn dụ kẻ khác sùng thượng mình nên mới xảy ra tình trạng trên. Như hiện nay nhà Phật thường dẫn chứng: “Tức tâm tức Phật” “Thị tâm thị Phật” (Tâm là Phật) thế mới biết mỗi người đều có Phật tính, chứ chẳng phải chỉ có những người khoác áo thầy tu mới có Phật tính, không phải chỉ những ai được mặc áo tôn giáo mới được kính nể, bởi vậy chỉ cần có quyết tâm tin tưởng mà thôi.

Kẻ đã tiêu cực thì cho dù có được khoác áo tôn giáo đi nữa họ cũng vẫn cứ tiêu cực vì thế tôn giáo có hay ho sáng láng cách mấy cũng trở thành vô nghĩa. Tôn giáo được sáng lập vốn là để thương yêu loài người, nếu như từ bỏ tôn chỉ đó tức là đẩy tôn giáo tới chỗ mông lung huyền hoặc, chắc chắn, sẽ bị người ta chỉ trích và xa lìa. Cho nên tôn giáo phải tay liền tay, tâm liền tâm, nếu như quan niệm ngoài ta ra đều là ngoại đạo; ngoài tôn giáo của ta ra không có tôn giáo nào bằng, thì càng khiến người ta hoài nghi mất tin tưởng, hoặc càng đẩy người ta tới chỗ u mê cuồng tín mà thôi. Do đó, đức Khổng có dạy rằng: “Đạo không hành, ta đã biết rõ! Kẻ trí thì quá mức, kẻ ngu thì chẳng tới (Đạo chi bất hành dã, ngô tri chi hĩ! Tri giả quá chi, ngu giả bất cập dã. Đạo chi bất minh dã, ngô tri chi hỹ! Hiền dã quá chi, ngu giả bất cập dã). Và ngài còn dạy thêm song cũng cùng một ý như trên: “Biết thì cho là biết, không biết thì cho là không biết” (Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri) có hiểu được như thế mới thật là biết vậy. Việc học đạo là việc bình thường của mọi người, chớ tự cho đạo giáo của mình là cao hơn hết, nếu như có mặc cảm tự tôn như thế thì quả là bệnh hoạn quá rồi, phản bội hẳn tinh thần nguyên thủy của đấng giáo chủ lúc sinh thời răn dạy.

Thái Sinh: Thưa ân sư dạy rất đúng, tinh thần cứu đời của đức Ky-Tô quả là tấm gương vĩ đại để loài người noi theo, tin tưởng rằng những tín đồ giàu đức tin nơi Chúa thì đều có lòng vị tha bác ái vô biên.

Tế Phật: Trò ngoan đã giải trừ được hết những chướng ngại trong tâm, giờ đây thầy trò ta hãy bắt đầu cuộc hành trình.

Thái Sinh: Thưa ân sư, con đã sửa soạn xong, kính mời thầy lên đường.

Tế Phật: Đã tới nơi, Thái Sinh hãy tạm nán lại trên đài sen, đợi thầy niệm chân ngôn để vị tu sĩ ở trong chung cư cao bốn tầng kia xuất hồn luận đạo với con.

Thái Sinh: Thưa vâng, có phải là vị trung niên đang đọc sách trong phòng kia không?

Tế Phật: Đúng đấy.

Thái Sinh: Thưa bên cạnh vị đó con thấy có một vị phụ nữ cùng một đứa nhỏ đang ngồi xem truyền hình, con sợ rằng sẽ quấy rầy họ.

Tế Phật: Chỉ khiến tu sĩ đó gục đầu trên bàn nghỉ ngơi ít phút mà thôi.

Thái Sinh: Thưa hay lắm, con làm sao hiểu rõ được pháp lực của ân sư. (Sau khi Tế Phật niệm chân ngôn, vị tu sĩ đang ngồi đọc sách tự nhiên như kẻ ngái ngủ, miệng ngáp mấy cái, rồi đầu gục trên bàn, hồn vía mê đi)... Pháp lực của ân sư quả là vi diệu vô biên. (Lúc này vị tu sĩ đó giống hệt như đang ngủ say, nguyên linh nhẹ nhàng bay tới trước Tế Phật).

Thiện Sĩ: Thưa, thánh linh phía trước từ đâu tới?

Tế Phật: Tôi là Phật Sống Tế Công, bữa nay vì trước tác sách Nhân Gian Du Ký nên đã niệm chân ngôn để vị xuất hồn tới đây trong giây lát.

Thiện Sĩ: A, thì ra nguyên nhân là Phật Sống Tế Công tới. Xin kính chào ngài.

Tế Phật: Miễn lễ, hy vọng vị có thể đem hết sở học của mình ra đóng góp vào sách Nhân Gian Du Ký.

Thiện Sĩ: Thưa hay lắm, song tiếc rằng công trình nghiên cứu Thánh kinh chưa thật sâu xa, nhưng cũng may là được thấm nhuần tinh thần cứu đời của Chúa Ky-Tô từ tấm bé, nên bữa nay nếu như được hỏi về căn bản giáo lý cũng xin tận tâm trình bày.

Tế Phật: Hiện thời nguyên linh của con đang được thầy gia hộ, con hãy cứ bắt đầu cuộc vấn đạo đi.

Thái Sinh: Xin vâng lệnh... Thưa, Ky-Tô giáo là nổi danh về tinh thần bác ái cứu đời, hẳn là ngài thấu tỏ hơn ai hết về vấn đề này, vậy kính xin ngài chỉ dạy thêm cho.

Thiện Sĩ: Được lắm, Ky-Tô giáo lấy tinh thần bác ái khoan dung làm tôn chỉ, tôi thiết nghĩ vấn đề quan trọng nhất của con người là đức tin và sự bình đẳng, nếu có được hai đức tính trên thì mọi sự bất bình đều giải quyết dễ dàng. Chỉ cần con người cảm ứng được với đấng thiêng liêng, tâm linh tự nhiên đạt tới trạng thái ấm áp yên vui, hết mọi phiền muộn khô héo. Sẽ không còn tính gian tham, giận dữ, khổ sở cúi đầu, mà tìm lại được cảnh đời hạnh phúc nơi vườn lạc thú sẵn có của chính mình. Do đó sẵn sàng đem sinh mệnh ra dâng hiến không một mảy may nuối tiếc, để bảo vệ tín ngưỡng cho dù phải “tuẫn đạo” nghĩa là chết vì đạo mà lòng vẫn chẳng hề đau khổ oán hờn. Bởi vậy mỗi hơi thở người ta đều cảm nhận được trọn vẹn dũng khí thiêng liêng cùng đức tin cao cả. Bề trên luôn luôn muốn chúng ta dũng cảm đứng lên, ngọn lửa thiêng đốt cháy sinh mệnh sẽ thắp sáng cùng sưởi ấm cõi đời tối tăm giá lạnh.

Đấng thiêng liêng còn muốn chúng ta đem trái tim hồng của mình ra tưới mát cho những tâm hồn đọa lạc héo úa, để họ cũng được an hưởng niềm vui như chúng ta. Cho nên, kẻ có tình yêu thương, có Phật tính trong tâm, sẽ chẳng quá vì cái ta riêng tư mà đánh mất hồn tính cùng thần trí, có thể cảm thông được với đấng trọn lành. Chớ vì ham hưởng thụ mà giam hãm tâm linh của mình bởi vậy đoạn đường tương lai sáng sủa ở ngay trước mắt chúng ta, đang chờ đón chúng ta, đợi chúng ta đi trên đó bằng đôi chân mạnh mẽ hiên ngang, bằng thần trí vững vàng, ắt hẳn chúng ta sẽ vĩnh viễn được ơn trên che chở. Tôi hy vọng những ai còn hoang mang hãy mau mở từng cánh cửa hoài nghi đang khép kín, để bước đi trên nẻo đường đức tin rộng mở, bao nhiêu tội lỗi trần gian sẽ được bề trên rửa sạch, bao nhiêu sai lầm sẽ được ơn trên tha thứ hết.

Thái Sinh: Lời dạy của ngài rung động tơ tình cảm kích lòng người quá đỗi, như nguồn nước ấm chảy vào hồ băng giá, như làn ánh sáng tuôn tràn mặt đất, xua tan bóng tối cùng âm khí nặng nề, khói mây tan loãng. Tin rằng những lời chỉ dạy chân thành đích xác vừa rồi chắc chắn sẽ giúp mọi người cảm nhận được đức tin và dũng khí chân thật, khiến mọi kẻ tuyệt vọng đang thoi thóp được sống lại cuộc đời tin yêu hạnh phúc, giúp kẻ học đạo có được tinh thần can đảm hăng say đạt được mục đích mong cầu, cùng thiết tha phát huy sức mạnh thiêng liêng của tình thương và bác ái.

Thiện Sĩ: Như quý đường đã trình bày trong Duyên Cách là chủ tịch của quý đường là ngài Khưu tiên sinh đã phải trải qua biết bao khó khăn gian khổ mới xây dựng nổi tòa Thánh Hiền Đường há chẳng phải là nhờ tinh thần can đảm vô biên hay sao.

Thái Sinh: Quả đúng như vậy, trước đây mấy hôm tờ nhật báo Trung Hoa đã đăng tải để phổ biến và khích lệ.

Thiện Sĩ: Thật đáng tiếc, tôi không theo dõi nhật báo Trung Hoa, nên không được rõ nội dung, song tôi cũng nghe nói vị xã trưởng của quý xã đã hoàn thành được trách nhiệm phục vụ xã hội với kết quả vô cùng tốt đẹp, công đức hết sức lớn lao, quả là khiến mọi người khâm phục. (Lúc này có một vị thiếu nhi, chạy tới bên Thiện Sĩ gọi “ba, ba” liền bị một phụ nữ trạc tuổi trung niên nắm lấy tay kéo lại và nói “Ba con mệt nhọc để ba nghỉ một chút, con không được tới quấy rầy”. Tế Phật đã muốn an thần định phách cho Thiện Sĩ song lại thôi).

Thái Sinh: Tôi có nhận được một bức thư hỏi thăm sức khỏe của một người cháu ngoại, trong thư có một câu chúc lành là “Dĩ mã nội lợi”. Vậy xin hỏi ý nghĩa thế nào?

Thiện Sĩ: “Dĩ mã nội lợi” có nghĩa là “Chúa ở cùng con”.

Thái Sinh: Xin giải thích thêm.

Thiện Sĩ: Bởi lẽ khi đức bà Maria hoài thai, nhà tiên tri dự đoán rằng bào thai đó là đức Thánh Linh giáng thế, là Chúa Ky-Tô cứu đời, nên họ tôn vinh ngài là “Dĩ mã nội lợi” nghĩa là Chúa ở cùng con, và cũng có thể hiểu là mọi người đều được ở cùng ngài, được chia sẻ Thánh Linh Thượng Đế, bởi vậy mọi người phải luôn luôn giữ gìn tâm linh sao cho được trọn lành để được ở chung cùng ngài mãi mãi.

Thái Sinh: Thưa thì ra nguyên lai là như vậy... Bẩm còn trên biểu ngữ thường treo có thấy đề rằng: “Ta là đường đi, là chân lý, là sự sống; nếu tin ta ắt được cứu chuộc”. Vậy thưa có phải những lời Chúa dạy đó rất thâm sâu không? Những kẻ nông cạn chắc hẳn sẽ chẳng hiểu nổi.

Thiện Sĩ: Cho ý nghĩa của câu nói đó thâm sâu là bởi đã đem sự khôn ngoan của lý trí ra phân tích.

Thái Sinh: Thưa thật là mắc cở, song vì đã mạo muội viết sách để phổ truyền mà lại giảng lý đạo chẳng thông, vậy kính xin mục sư chỉ giáo.

Thiện Sĩ: A ha, Thái Sinh chớ quá khiêm nhường.

Thái Sinh: Thưa có phải Chúa nói: “Chỉ có một con đường” cũng giống như Phật nói: “Chẳng có hai pháp môn”; “tự ngã” chẳng có hai, mỗi người chỉ có một “chân ngã” (là tính Phật); noi theo “chân ngã” tức Phật tính thì đó cũng là “con đường” vậy.

Thiện Sĩ: Ha ha, quả là siêu việt quả là huyền diệu, huyền diệu, thật chẳng thẹn với danh nghĩa Thánh Hiền Đường.

Thái Sinh: Xin cảm tạ Chúa đã ban ân, nên mới được vinh hạnh lãnh hội được chân lý cao siêu... Thưa, còn câu Chúa dạy: “Phải thương yêu kẻ thù của ta” ý nghĩa thế nào?

Thiện Sĩ: Thượng Đế dạy chúng ta: “Nếu bị người hành hạ con không được báo thù, giả sử có kẻ tát má này, con hãy chìa má kia cho họ. Có kẻ đang muốn đoạt áo con, con hãy khẳng khái cởi áo ra và đưa cho họ. Nếu như có kẻ bắt con phải đi một dặm đường con hãy vui vẻ đi hai dặm”.

Thái Sinh: Dẫn chứng cũng đã tạm đủ, nếu như mọi người đều tuân theo lời dạy của Thượng Đế thì trần gian ắt hẳn sẽ trở thành thiên đàng. Các tôn giáo sẽ không phỉ báng, khinh khi nhau, lòng người cũng chẳng ghét bỏ nhau.

Thiện Sĩ: Sở dĩ con người không làm theo lời Thượng Đế dạy là bởi lẽ vốn sống tại thiên đàng, song vì bị ngoại duyên dụ dỗ mê hoặc nên đã đem tấm nguyên linh của mình mà chôn vùi nơi địa ngục, cho nên con người phải nghĩ tới việc trở về sống bên Thượng Đế, vậy hãy mau xưng tội cùng cầu xin ơn trên tha thứ để linh hồn chóng được cứu chuộc.

Thái Sinh: Thưa cách xưng tội cùng cầu xin ơn trên tha thứ phải theo hình thức như thế nào?

Thiện Sĩ: Cầu xin ơn trên tha thứ không bó buộc phải theo đúng một hình thức lễ lạy nào nhất định hết, chỉ cần đem tấc dạ chí thành, cùng trái tim chất chứa những điều muốn nói thật tình dâng hiến Thượng Đế, thì đó cũng là một cách đảnh lễ bề trên rồi vậy. Thái Sinh: Thưa, nếu như muốn cầu xin thì lời nguyện sẽ như thế nào?

Thiện Sĩ: Có thể đọc lời nguyện như sau: “Kính lạy đấng Cha Trời, xin tha thứ cho con, rửa sạch lỗi lầm của con, con sẽ dốc tâm thành kính theo Ngài, vượt bụi bặm tới nguồn ánh sáng, con sẽ đem tình thương cảm hóa tha nhân, đem lòng nhân cứu giúp người đời. Lạy Chúa, con nguyện cầu được mãi mãi gần ngài. A men”.

Thái Sinh: Thưa hay lắm, ánh sáng của đức Thánh linh đã chiếu ngời tâm linh kẻ hèn ngu này. Song còn hai tiếng A men ý nghĩa ra sao?

Thiện Sĩ: Có nghĩa là “Lòng xin nguyện như vậy”.

Tế Phật: Hay lắm, đêm nay đã khuya, có lẽ nên kết thúc cuộc vấn đạo tại đây, hãy đợi tôi niệm chân ngôn để vị được an hồn định phách. (Lúc này gặp pháp lực của Tế Phật, Thiện Sĩ dần dần tỉnh thức). Tạm ngưng cuộc vân du, Thái Sinh mau lên đài sen.

Thái Sinh: Thưa vâng, con đã sẵn sàng, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#21 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 09/09/2011 - 04:17

NHÂN GIAN DU KÝ

HỒI MƯỜI BẢY

DO ĐÀN CƠ HỎI ĐÀN CƠ THUẬT RÕ LẼ TRỜI

CÀNG CẦU LÝ CÀNG TỐI LÝ SỰ THẬT ĐÁNG BUỒN

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 23 tháng 3 năm Nhâm Tuất (1982)

Thơ

Giáo hóa chúng sinh như sơn đăng
Ngũ phân nhiệt độ nam cứu chừng
Đảo giá từ hàng phi nhị hý
Nhất mạch vĩnh trường quý hữu hằng.

Dịch

Dạy người khó tựa vượt non cao
Chẳng dám hy sinh cứu được nào
Thuyền Phật há đem cho trẻ giỡn
Thả dòng trường cửu quý là bao.

Tế Phật: Kẻ truyền pháp, dạy đạo phải có đức tin tuyệt đối, cùng tinh thần phục vụ hy sinh cao độ, mới mong giúp hành giả ban pháp cứu đời thành công, còn nếu như thiếu lòng nhiệt thành thì làm sao có thể hướng dẫn được lòng người hướng về đường chính? Thậm chí có lắm kẻ hàng ngày lớn tiếng bàn về việc tu đạo, đóng cửa tạo xe, miệng nói tâm chẳng hành, lòng dạ hẹp hòi mở miệng nói đại từ bi, theo như ta thấy thì toàn là nói dối mà thôi. Họ chẳng rõ tinh thần nhập cửa Thánh, tu Thánh đạo; hàng ngày họ chỉ cầu Thần Thánh ban thơ, chỉ rõ bến mê, hoặc hỏi về nhân quả, nếu tu đạo như vậy, đương nhiên một kẻ phàm phu, đối với tâm linh của mình hoàn toàn vô ích, bỏ hình bắt bóng, tự mình đi lạc đường để rồi lìa xa đạo lớn. Thế mới biết tu đạo là việc vĩnh cửu, nếu như lấy sự huyền hoặc mong lung mê hoặc lòng người đều là đạo nhất thời, chẳng phải đạo trường cửu. Ngày nay Thánh Hiền Đường giữ sứ mệnh phổ hóa thế đạo song thế gian biến đổi quá nhiều nên phải giải quyết vấn đề từ căn bản, để giúp mọi người tu tâm sửa tính có hiệu quả một cách mau lẹ, và sớm minh tâm kiến tính cùng tự tu tự độ. Do đó, việc hoằng dương đạo pháp của Thánh Hiền Đường hiện nay được Thánh Thần Tiên Phật tận tình giúp đỡ, chư vị không ngại khó khăn gian khổ quyết tâm nâng cao trí tuệ giác ngộ của người tu đạo. Nếu như kẻ tu đạo mà không tu, không giác ngộ thì đạo hóa ra vô ích, chỉ say mê cái vỏ bề ngoài, còn đối với việc tu đạo chỉ là giả dối mà thôi.

Thái Sinh: Thưa, tấc lòng tha thiết của ân sư thật quả đúng, cách tu đạo ngày nay có kẻ thích tìm hiểu về cơ tạo hóa, có kẻ ưa hiển hóa, tới nổi đạo tràng ồn ào náo nhiệt như cảnh chợ đêm, theo như con nghĩ người ta sẽ mỉa mai là: “Khói nhang nghi ngút lắm đấy”.

Tế Phật: Trò ngoan nhận xét rất đúng, song liệu con có thể biến đạo tràng thành cảnh chợ đêm như vậy không?

Thái Sinh: Ha ha, là khách đạo chân tu sợ rằng sẽ như chim én, cố gắng bay cũng sẽ phí sức mà thôi.

Tế Phật: Ha ha, quả nhiên trí tuệ trò ngoan sáng suốt, chúng ta không chỉ bàn luận suông, mà còn phải lo viết sách.

Thái Sinh: Thưa vâng, con đã lên đài sen, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Đã tới nơi.

Thái Sinh: Thưa ân sư, phía trước có một luồng hào quang, xung phá chín tầng trời, ô! Nguyên lai vì đàn cơ làm cách nào mà có thể hòa hợp một cách khéo đến như thế, trong Thánh Hiền Đường đang bày đàn cơ để phát huy đạo giáo. A, a! Bình thời trò ngu thường ngồi đàn cơ để nhiều người khác quan sát, bữa nay lại được quan sát người khác ngồi đàn cơ, người trên đàn trở thành kẻ dưới đàn thật là vi diệu.

Tế Phật: Hiện tại có Thần Thánh tới nghênh tiếp, trò ngoan hãy mau chỉnh tề y phục, chẳng thể thất lễ.

Thái Sinh: Xin tuân lệnh. (Lúc này vị phó chủ tịch Thánh Đường Huyền Thiên Thượng Đế đã tới nghênh tiếp).

Phó Chủ Tịch: Hoan nghênh Tế Phật đã hướng dẫn Thái Sinh tới thăm, xin mời vào khách đường ngồi nghỉ.

Tế Phật: Quý đường đang cầu đàn cơ giáng bút vô cùng bận rộn, xin đạo huynh chớ quá hậu lễ đối với chúng tôi như vậy.

Phó Chủ Tịch: Nhưng thưa, Tế Phật và Thái Sinh vì viết sách Nhân Gian Du Ký, ngàn dặm bôn ba không quản gian lao, tinh thần hy sinh đó quả là đáng khâm phục bội phần, bữa nay lại hướng dẫn Thái Sinh tới đây quả là vinh hạnh cho tệ đường lắm lắm.

Thái Sinh: Cảm tạ Ân Chủ đã quá thương, xong quả là đảm đương không nổi, trách nhiệm hiện tại của kẻ hậu sinh gian khổ thật chẳng thể nào tả hết, bữa nay được mục kích cách quý đường thực hiện đàn cơ mới rõ Thần Thánh độ chúng sinh còn gian khổ hơn.

Phó Chủ Tịch: Ha ha, đó là trách nhiệm của bản đường.

Tế Phật: Này trò ngoan, thầy trò mình hãy vào trong khách đường. (Lúc này Tế Phật cùng Thái Sinh tiến vào trong khách đường, được các Thần Thánh trong thánh đường nhiệt liệt hoan nghênh. Vị giữ việc ghi lễ trong Thánh Đường cũng vội vàng dâng hoa quả, trà ngon thiết đãi, Tế Phật cùng chư Thần Thánh hàn huyên vui vẻ với nhau).

Thái Sinh: Được gặp tu sĩ của quý đường phần lớn là những vị cao niên tiền bối, đạo căn chắc hẳn là thâm hậu.

Phó Chủ Tịch: Ha ha, chỉ là “lão tu sĩ”, chẳng phải là “lão tiền bối”.

Thái Sinh: Ân chủ thật quá khiêm nhường, rõ ràng là “lão tiền bối” nhưng lại chỉ nhận là “lão tu sĩ”.

Phó Chủ Tịch: Chư vị trẻ tuổi của Thánh Hiền Đường tích cực phổ biến đạo lý, đã lập được kỳ công mới được người đời khâm phục.

Thái Sinh: Tuổi trẻ đạo căn nông, chẳng thể bằng tuổi cao đạo căn sâu vì kiên định trì chí tu đạo.

Phó Chủ Tịch: Việc này chẳng thể bàn luận suông, nếu như Thái Sinh không tin, tôi xin mời đi thăm các đạo sinh của tệ đường để rõ sự tu hành của họ.

Thái Sinh: Thưa, được như vậy thì hay quá, xin mời đi thăm. (Huyền Thiên Thượng Đế và Thái Sinh cùng cưỡi xe mây rời Thánh Đường).

Phó Chủ Tịch: Thái Sinh, hãy nhìn vị trung niên bị chỉnh huấn, trước đây vị đó hết sức có đạo tâm, thường xuất tiền, xuất lực cúng dường cửa Thánh song năm ngoái đây sự nghiệp đổ vỡ vì bị khách hàng ký nhiều chi phiếu không tiền bảo chứng liền oán Thần oán Thánh không thiêng. Hiện tại không những không khuyến khích kẻ khác tu thiện, lại còn lớn tiếng tuyên bố: “Thời đại khoa học, không có Thần Thánh không có ma quỷ”. Ngay cả cha mẹ cũng không kính nể, tạo nghiệp quá nhiều.

Thái Sinh: Ôi! Quả là chẳng minh lẽ đạo.

Phó Chủ Tịch: Sở dĩ người tu đạo cầu hiển hóa, hoặc cầu huyền cơ, tâm tính phần lớn còn u mê không thể tự tu tự độ, bữa nay vị trung niên này chính là người không tự tin, tự lập được.

Thái Sinh: Thưa ân chủ dạy rất phải.

Phó Chủ Tịch: Thái Sinh thấy bữa nay khắp nơi ồn ào náo nhiệt có nhớ là lễ chúc mừng ai không?

Thái Sinh: Chắc là lễ chúc mừng thánh đản Thánh Mẫu trên trời.

Phó Chủ Tịch: Đúng, hiện nay người đời kính thờ Thánh Mẫu trên trời bằng cách không lấy hành động cứu đời chân thật mà lại lấy sự rượu thịt ê hề, ăn nhậu no nê để bày tỏ sự tôn kính quả sai một li đi một dặm, chẳng hiểu ngày nào chúng sinh mới tỉnh ngộ... (Phó chủ tịch Huyền Thiên Thượng Đế lại phát hiện ra một người).

Phó Chủ Tịch: Vị trung niên bận đồ trắng ngồi trước bàn ăn có tính ham uống rượu, thân thể vốn không được khỏe mạnh hiện tại lại không biết tiết chế, một sớm hủy hoại thân tâm nên tới Thánh Hiền Đường cầu thuốc chữa.

Thái Sinh: Ha ha, một mặt uống thuốc độc, một mặt uống thuốc giải, chẳng uống thuốc độc, chẳng cần thuốc giải.

Phó Chủ Tịch: Chúng sinh ngu si, lao đầu xuống hố thẳm vực sâu, Thần Thánh cũng khó cứu nổi, trừ khi tự giác ngộ mới tránh khỏi mà thôi.

Thái Sinh: Thưa quả đúng như vậy. (Phó Chủ Tịch lại hướng dẫn Thái Sinh tới thăm một khu khác).

Phó Chủ Tịch: Phía trước là nhà của một giám đốc công ti thương mại, người này vốn giàu tâm đạo, song vì công việc làm ăn phát đạt, kiếm được quá nhiều tiền, liền lấy vợ bé mua nhà đẹp cho ở, lại còn thường lui tới cao lâu tửu điếm cùng vũ trường.

Thái Sinh: Ha ha, tửu gia coi là đạo tràng, vũ trường xem như đàn cơ, có lẽ vị đó đang bị khảo đảo vì đạo chăng?

Phó Chủ Tịch: Việc đó đều do cơ trời, chẳng thể tìm hiểu nổi, chỉ biết chắc chắn bị họa phước nhân quả báo ứng. Còn như hoàn cảnh vừa rồi, có thể là bị học bài, và nếu như vậy thì hẳn sẽ còn bị khảo đảo hoài hoài. Nghịch cảnh khảo đảo, tiền của khảo đảo, một lời chẳng thể kể hết, song nếu như một kẻ tu đạo thì chỉ cần kiên định tín tâm, nhiệt thành tinh tiến không mỏi mệt, tự nhiên Thánh Thần sẽ ngầm giúp đỡ, nhất định sẽ phá bỏ được tất cả chướng ngại vật.

Thái Sinh: Trong lúc bị trả bài, bị khảo đảo Thần Thánh có ngầm giúp đỡ không?

Phó Chủ Tịch: Có chứ, song Thần Thánh khó cứu độ kẻ nghiệp quả quá nặng, kẻ tu đạo nếu như không phải là người chân thành thực hành pháp, thì Tiên Phật chẳng thể giúp đỡ nổi.

Thái Sinh: Người tu đạo có tiền duyên nghiệp chướng chăng?

Phó Chủ Tịch: Đúng vậy, người tu đạo, phần lớn bị chi phối nhân quả kiếp trước, nếu như ngày xưa gieo nhân tốt, như một kẻ chưa bước vào cửa đạo, chưa tu Thánh đạo, song ngẫu nhiên gặp cơ hội tốt như bắt gặp sách hay, gặp cửa đạo, gặp đàn cơ liền chợt cảm thấy ngay là mình đã được trở lại làng xưa chốn cũ vô cùng thân thiết. Còn nếu như không có nhân duyên tốt, tự nhiên nhân lực hướng về tu đạo rất yếu ớt, nên kinh Phật có nói: “Mưa trời tuy lớn, song cỏ không rễ chẳng thể thấm nhuần; pháp Phật tuy rộng mà khó độ kẻ vô duyên” (Thiên vũ tuy đại, bất nhuận vô căn chi thảo; Phật pháp tuy quảng, nan độ vô duyên chi nhân) đã chứng thực quá rõ ràng.

Thái Sinh: Nhưng chúng sinh đều có Phật tính.

Phó Chủ Tịch: Đúng vậy, song Phật tính của chúng sinh có kẻ rễ sâu, có kẻ rễ nông, vì thế nếu là người nghiệp chướng oan khiên nhiều thì rất khó được độ đời này.

Thái Sinh: Thưa đích xác lắm.

Phó Chủ Tịch: Thôi tạm ngưng cuộc đàm đạo tại đây, chúng ta chuẩn bị trở về.

Thái Sinh: Thưa vâng. (Phó Chủ Tịch và Thái Sinh cùng cưỡi xe mây trở về... lúc này Thái Sinh đang xuống xe).

Tế Phật: Cảm tưởng của trò ngoan lúc đi thăm viếng thế nào?

Thái Sinh: A, tửu sắc tiền của khiến người ta tham, khiến trí u mê, che mờ bản tính, trở thành kẻ bất nhân vô nghĩa.

Tế Phật: Sở dĩ trò ngoan hiện giờ nghèo, song nghèo mà vẫn biết đủ mới còn đạo tâm, nếu như không biết đủ tức là mê tâm. Hơn nữa lại là người được ngồi trên đàn cơ thì chắc chắn lúc bình thường phải có tiết tháo, không tự cao tự đại, bởi vì danh vọng, địa vị, tiền tài, tâm dục như sóng to biển lớn, luôn luôn muốn nhận chìm bản tính của người tu, cho nên trò ngoan phải luôn luôn bảo trì đức tính sẵn có đó.

Thái Sinh: Thưa lời dạy của ân sư con xin ghi lòng tạc dạ trọn đời.

Tế Phật: Hay, bữa nay tạm ngưng việc viết sách tại đây, thầy trò mình chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường. (Tế Phật chào từ biệt, Chủ Tịch cùng Thần Thánh đưa tiễn, Tế Phật cùng Thái Sinh lên đài sen bay mau).

Tế Phật: Đã về tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#22 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 09/09/2011 - 04:20

NHÂN GIAN DU KÝ

HỒI MƯỜI TÁM

CHÍN ĐÁNH MƯỜI THUA, KHÔNG ĐÁNH KHÔNG THUA LÀ TỐT NHẤT

SỬA TÍNH TU THÂN, GIỮ MÌNH CẨN THẬN ĐỂ PHÒNG NGỪA

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 6 tháng 4 năm Nhâm Tuất (1982)

Thơ

Tài bảo chi quý chú tính trung
Mê trục ngoại vật chân nhân thường
Luân hồi bất diệt tượng cực giới
Tái hối khủng trì đạo nan phùng.

Dịch

Lòng tham tiền bạc mãi không nguôi
Vật chất chạy theo tính mọi người
Muôn kiếp luân hồi không thể dứt
Hồi tâm chậm trễ đạo xa rời.

Tế Phật: Của cải tiền bạc người người đều tham, người người đều tranh song chỉ là tham lam, tranh giành cái giả. Họ chẳng hề biết tới của cải châu báu thật có của chính mình ở tại trong tâm mới có thể tìm thấy và chiếm hữu nổi mà thôi. Người đời nay, của cải châu báu quý giá thật của chính mình không biết quý trọng nên dần dần đánh mất đi, để rồi lấy của cải châu báu giả là tạo thêm tội, mang thêm nghiệp, chịu trầm luân khổ hải, đã không hiểu biết, không giác ngộ mà còn lấy làm sung sướng hãnh diện. Ôi! Chúng sinh, chúng sinh, đợi tới phút nhắm mắt tắt hơi có đem bạc vàng tiền của ra cũng khó đổi được chân thân quý báu, có hối cũng chậm rồi. Do đó, lúc sống phải biết mở rộng cửa lòng tiếp nhận lời dạy của chư Tiên Thánh Phật, không được tự mãn là mình đã thông suốt lẽ trời, để rồi che mờ mất bản tính, tuệ căn, bỏ mất đạo lớn.

Thái Sinh: Thưa lời dạy của ân sư, trò ngu tai nghe, lòng cảm kích vô biên, người đời nay tranh sống giành chết, chiếm đoạt lợi lộc, chỉ có kẻ giác ngộ vượt được sinh tử mới có thể sáng lẽ đạo mà hóa độ được chúng sinh thôi.

Tế Phật: Do đó, kẻ mê tham tài tham vật, giành hưởng vinh hoa, há chẳng rõ kẻ bị nhiễm tính phù hoa, cuối cùng sẽ bị phù hoa làm cho điêu đứng khổ sở, người giác ngộ đổ mồ hôi, máu mủ để tẩy rửa tội lỗi của chúng sinh, cuối cùng rửa sạch tội mình, tự tính thanh tĩnh, tiêu dao cõi Phật. Hai bên khác nhau tại đó.

Thái Sinh: Thật là chí lý, do đó chúng sinh cho tu đạo là khổ, là ngu; người giác ngộ cho chúng sinh không tu đạo là khổ, là ngu.

Tế Phật: Trò ngoan nhận xét rất đúng, thôi thầy trò mình hãy bắt đầu cuộc dạo thăm cõi nhân gian.

Thái Sinh: Thưa vâng, con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã tới nơi.

Thái Sinh: Phía trước là cả một vùng độc khí, nguyên do tại đó có sòng bài, ha ha, xin ân sư hướng dẫn con tới đó để con học đánh bài.

Tế Phật: Thầy không tin rằng con sẽ học nổi.

Thái Sinh: Xin ân sư chỉ dẫn cho con.

Tế Phật: Ha ha, làm sao thầy có thể dạy con đánh bạc đánh bài nổi. Tục ngữ nói: “Mười đánh chín mất” song kì thực phải nói: “Chín đánh mười mất” mới chính xác, nghĩa là đánh bài đánh bạc cuối cùng chỉ có một kẻ thắng nên họ mới mở sòng bài, kẻ chứa bài chứa bạc. Tuy được tiền được bạc song mất đạo đức, bị pháp luật bắt bớ tù đày. Do đó, chứ nghĩ đánh bài đánh bạc chỉ mất tiền, hay không đánh không mất, mà là mất luôn cả pháp bảo tốt lành.

Thái Sinh: Ha ha, chẳng lạ gì chúng sinh xưng tụng ân sư là Phật Sống, không đánh không thua, đó là thuật thắng vô cùng cao minh. Huống nữa tiền bạc là tiền bất nghĩa, nên chỉ để hoang phí nơi chốn lầu xanh tửu điếm, do đó thất nhân, thất nghĩa, cuối cùng người và của đều mất cả hai.

Tế Phật: Vậy con có muốn học hay không?

Thái Sinh: Đương nhiên con không học.

Tế Phật: Ha ha, con đã từng thắng bài rồi vậy.

Thái Sinh: Ha ha, thầy dạy rất phải... Nhìn cảnh sòng bài lộng lẫy, có gái đẹp rót rượu, châm thuốc dâng cho khách, khách nhâm nhi hít hà sung sướng mê tơi, con bạc cứ vậy mà say sưa dốc túi, kẻ cầm cái lại luôn luôn mỉm cười vui vẻ mời mọc.

Tế Phật: Kẻ đánh bài gian lận mỉm cười như vậy để cho người ta cảm tưởng y là kẻ hiền lành chân thật như hoa, không còn để ý đến mánh khóe xảo trá của hắn, song làm sao có thể so sánh nổi vẻ chân thật đẹp đẽ của hoa.

Thái Sinh: Sự tỷ dụ của ân sư thật là siêu diệu, con nghĩ xã hội ngày nay suy đồi, án mạng cướp bóc ngày mỗi nhiều, sự kiện này có quan hệ gì tới việc đánh bài đánh bạc không?

Tế Phật: Một người chỉ nghĩ tới việc cướp đoạt thì tàn nhẫn chẳng khác gì kẻ cầm dao giết cha mẹ.

Thái Sinh: Thưa, như vậy nghĩa là thế nào?

Tế Phật: Kẻ cướp đoạt phải lãnh hình phạt rất nặng ở cả cõi dương lẫn cõi âm, cha mẹ khi hay được đau đớn như bị dao cắt, sống không nổi.

Thái Sinh: Thưa ân sư, quả đúng như vậy, nhưng tại sao người ta đã biết cái hại của sự bài bạc là như thế nào, mà người ta vẫn lao đầu vào để cuộc đời bị chôn vùi.

Tế Phật: Nguyên nhân của sự đánh bài đánh bạc đều do lòng tham dục mà ra, tham mãi không chán đến nỗi trở thành kẻ tham lam vô liêm sỉ. Khi thiếu tiền, ban đầu ăn trộm tiền và đồ vật của người thân trong nhà, hoặc vay chằng vay bừa tiền của bè bạn, tính xấu đó cứ ngày một tăng thêm tới lúc cao như núi, chủ nợ đòi gắt, con nợ dần dần quẫn trí giống như tên đồ tể say máu súc vật, để rồi trở thành phạm tội tày trời.

Thái Sinh: Quả là đáng sợ, lỗi nhỏ không tránh, tới lúc tội lớn khó cải, nên phải rất mực đề phòng, kẽ nứt không chít, để rồi nước càng rỉ càng lớn, trở thành đê vỡ gây nạn thủy tai, chẳng thể cứu vãn.

Tế Phật: Người ta lúc nhỏ thường giống như trang giấy trắng, khi bị ô nhiễm uế tạp, những bậc làm cha làm mẹ phải mau tẩy trừ, có một số cha mẹ đã không chịu dạy dỗ uốn nắn con mình đàng hoàng, lại còn dung túng những tính hư tật xấu của chúng để đến nỗi gây ra nhiều tội ác. Đời nhà Thanh, có một kẻ bị kết án tử hình vì tội trộm cướp, lúc bị chém đầu, cố xin được uống một hớp sữa mẹ, lời yêu cầu được chấp thuận, song thật không thể tưởng tượng được là, tội phạm lại có thể cắn đứt đầu vú mẹ. Khi bị tra tấn để tìm hiểu lý do, tên cướp trả lời là: “Lúc còn nhỏ tôi có đi ăn trộm mang đồ vật về nhà, mẹ tôi biết song không những không can ngăn dạy dỗ tôi mà lại còn a tòng đem đồ đó giấu đi, gián tiếp khuyến khích tôi ngày càng đi sâu vào con đường tội lỗi”. Tên cướp nói xong, người mẹ khóc nức, những ai chứng kiến cảnh đó lúc bấy giờ đều đau đớn vô cùng.

Thái Sinh: Quả là bất hạnh, song con thiết tưởng, nhiều thiếu niên hiện đang bắt đầu ham mê bài bạc, thì thân nhân hẳn là ước mong con mình sẽ sớm từ bỏ ham mê đó.

Tế Phật: Đúng vậy, vị trung niên đang ngồi ở xó tường kia, theo như sổ số mệnh ghi thì đã có gia đình làm ăn khá giả, chỉ vì năm rồi giao du với bạn bè không cẩn thận, nên đã bị quyến rũ vào đường bài bạc, từ đó trở đi không thể bỏ được, cha mẹ thấy vậy lòng lo lắng khôn cùng, đứt ruột héo gan, vợ hiền trong nhà tha thiết ước mong chồng mình sớm hồi tâm đổi ý.

Thái Sinh: Thưa pháp của ân sư vô cùng siêu diệu, tại sao không cứu kẻ đó.

Tế Phật: Tự gây nghiệp phải tự giải nghiệp, chỉ có tự cứu mình mới được thôi, còn không tự cứu thì chẳng ai có thể cứu mình được, tu đạo cũng giống hệt như vậy, tự mình không tu làm sao thành đạo nổi, do đó người ta sau khi trả quả rồi mới có thể tỉnh ngộ nổi mà thôi. Những kẻ ngơ ngáo không nơi nương tựa kia đều bị ma lực mê hoặc nên mới như vậy, ta rất đỗi đau lòng thấy họ như thế.

Thái Sinh: Thưa, nghiệp chướng quả báo có quan hệ mật thiết với nhau không?

Tế Phật: Con nói về nhân quả báo ứng, song có nói bằng tiếng nói của trái tim không?

Thái Sinh: Thưa có, giả dụ như kẻ uống rượu hút á phiện, một sớm phát giác thấy rằng mình vô cùng ham thích, kẻ ham thích đánh bạc cũng vậy, một sớm khám phá ra rằng mình vô cùng ham thích thì đó chẳng phải là nhân duyên đưa tới sao?

Tế Phật: Trò ngoan nói rất có lý, linh cảm thiêng liêng thật là vi diệu, sở dĩ một kẻ nghĩ rằng biến đổi được tật nghiện của người như các tật tứ đổ tường, họ phải có công “định tĩnh” và “cách vật”, như Thần Tú nói: “Thân như cây bồ đề, tâm như đài gương sáng, luôn luôn cần lau chùi, chớ để bụi phủ mờ” (Thân như bồ đề thụ, tâm như minh kính đài, thời thời cần phất thức, vật sử nhạ trần ai). Đó là tâm tính kẻ bị nhiễm vật dục trước khi lo tu, bởi vậy phải luôn luôn lau chùi bụi trần mà mình bị nhiễm để cho tâm được trong trẻo sáng ngời. Còn Lục Tổ Huệ Năng, bản tính thanh tịnh, chẳng thể bị nhiễm thường sinh trí tuệ, nên nói: “Bồ đề vốn không cây, gương sáng cũng không đài, vốn chẳng có mảy may, lấy đâu nhiễm bụi trần” (Bồ đề bản vô thụ, minh kính diệc phi đài, bản lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai). Sở dĩ không bị nhiễm là “không mảy may” nên “vốn thanh tĩnh” do đó “không nhiễm trần”. Kẻ mắc chứng tham dục mới cần diệt chứng tham, cần công phu định tĩnh, kẻ không có lòng tham dục lại càng cần phải công phu định tĩnh nhiều hơn để chế phục tâm vọng niệm.

Thái Sinh: Công phu định tĩnh để phòng ngừa, hậu họa có thể xảy ra, ví như những ai chưa từng ham bài bạc rượu chè hút sách, có gặp rượu ngon, gái đẹp, sòng bài cũng không mảy may ảnh hưởng.

Tế Phật: Nhưng trong thế giới ống kính vạn hoa, giống như một cái ang bị nhiễm, ai có thể nhìn thấy sự trống không chẳng có “tửu, sắc, tài, khí, ái, ố, dục”? Giữ cho tâm không bị nhiễm trược, đương nhiên phải đạt tới bản tính thanh tịnh, song kẻ đạt tới tâm cảnh này quả là quá hiếm ngoại trừ số ít người đại trí, đại huệ còn thực khó hành nổi, ngộ nổi.

Thái Sinh: Thưa ân sư quả đúng như vậy... Một số người ham mê tứ đổ tường hiện nay, con thiết nghĩ họ nên sớm trở về đường ngay, vì gia đình vì sự nghiệp, vì quốc gia hết lòng lo bổn phận.

Tế Phật: Tiền của không thể giúp con người đạt được mọi thứ, chiếm hữu được tất cả, lại càng không thể ôm mang được hết, con người tuy phân biệt thấp cao, không có sự bình đẳng song tại nơi tâm linh sâu thẳm lại có một loại bình đẳng chân chính đó là: “Tự tính bình đẳng”, bởi vậy con người phải truy tầm bình đẳng, chẳng cần truy cầu ngoại vật, phải hướng vào nội tâm để lãnh hội sự bình đẳng của tâm linh, mới có thể đạt tới sự hạnh phúc cùng bình đẳng chân chính.

Thái Sinh: Lời dạy của ân sư thể hiện đúng Phật pháp tam muội, người đời phải chú tâm thể hội, không được coi thường bỏ phế, tự cam chịu đọa lạc.

Tế Phật: Phải lắm, đêm nay tạm ngưng viết sách tại đây, chuẩn bị lên đài sen trở lại Thánh Hiền Đường.

Thái Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#23 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 09/09/2011 - 04:23

NHÂN GIAN DU KÝ

HỒI MƯỜI CHÍN

LUẬN VỀ NGUYÊN LÝ BA KIẾP LUÂN HỒI

CHỨNG ĐƯỢC NGUYÊN TẮC NHÂN QUẢ BÁO ỨNG

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 26 tháng 4 năm Nhâm Tuất (1982)

Thơ

Khoa kỹ phát đạt thần luận phi
Hồ tác vong vi đa ngật khuy
Nhân quả do lai minh minh báo
Mạc thuyết mê tín tính mệnh nguy.

Dịch

Kỹ thuật cơ tâm thật bất lương
Văn minh nguy hiểm biết đâu lường
Nguyên nhân quả báo thường sâu kín
Chớ sống dị đoan nghiệp khổ vương

Tế Phật: Gần đây khoa học kỹ thuật dần dần phát đạt, do đó bọn gây nghiệp chuyên lớn tiếng hô hào những thuyết vô thần, tuyên truyền không tin về nhân quả. Song không thể vì người ta không tin nhân quả mà không có nhân quả báo ứng. Có một số kẻ làm ác bị báo ứng nhãn tiền, có một số kẻ làm ác lại ung dung sống ngoài vòng pháp luật, những kẻ làm ác đó, sở dĩ chưa bị báo ứng nhân quả ngay lập tức, là vì kiếp trước tu nhân tích đức, hoặc được hưởng phúc đức ông bà để lại, do đó không bị trừng phạt ngay. Nếu như không rõ lẽ này mà phủ nhận nhân quả, tiếp tục làm ác, thì làm sao tránh khỏi tai ương, đợi tới lúc bị nhân quả báo ứng, trừng phạt hẳn là chẳng thể thoát khỏi. Giống như kẻ giết người chỉ có thể tạm thời trốn lánh cảnh sát và pháp luật, song chẳng thể vĩnh viễn trốn khỏi sự ám ảnh của lương tâm trừng phạt. Bọn làm ác đại đa số tâm trí rối loạn, xung động nhất thời mà bản tính bị đánh mất, tuy nhiên có một số đang bị luật pháp giam cầm, một số đang sống khơi khơi ngoài vòng pháp luật, song kẻ sống ngoài vòng pháp luật chớ tưởng là người chẳng hay, quỷ chẳng rõ mà cố tình tái phạm, nếu như còn giữ ý niệm này, chắc chắn sẽ gặp cảnh vô cùng bi thương. Giờ thầy giảng cho con một chuyện cũ: Ngày xưa có một kẻ cường đạo gặp một vị hòa thượng tính cướp tiền, vị hòa thượng liền nhỏ lệ khiến tên cường đạo cười ha hả, nói: “Chẳng thể ngờ rằng được một kẻ xuất gia tu hành khi mất của lại có thể khóc được”. Khi đó vị hòa thượng nói với vẻ từ bi: “Đến ngay thân xác này tôi cũng chẳng hề quý trọng nữa là của cải, tôi sở dĩ khóc là bởi vì thương anh, chẳng rõ kiếp trước anh gieo nhân gì khiến kiếp này anh trở thành kẻ cướp, đã vậy ngày nay lại gieo nhân đại ác, tương lai hẳn là sẽ càng phải nhận quả ác báo ứng, do đó tôi không thể cầm lòng nên nhỏ lệ”, tên cướp nghe xong bàng hoàng tỉnh ngộ, từ đó cải tà quy chánh.

Thái Sinh: Thưa ân sư nói rất phải, xong có kẻ hỏi con rằng, làm việc thiện kiếp này chưa được thiện báo, bọn làm ác chưa thấy ác báo, thưa xin ân sư giảng giải cho con được thấu triệt.

Tế Phật: Trò ngoan hỏi rất đúng, nhân quả có thể chia ra làm hai loại là: “nhân quả ẩn tàng” và “nhân quả hiển lộ”. Nhân quả ẩn tàng là vì chúng sinh mắt bị che mờ nên phần đông không thấy được vì quan hệ của căn tính bị đắm chìm. Cho nên ngoài những bậc đại trí tuệ, chẳng thể liễu ngộ, tu tâm dưỡng tính, bồi đắp công đức, ẩn tàng trở thành hiển hóa, đạt được sự cải tạo tính mệnh khí bẩm, thoát thai hoán cốt, căn tính ẩn tàng của sinh mệnh mới này có thể chú định trăm năm, ngàn năm, vạn năm trong mọi hoàn cảnh sinh hoạt, (tiêu dao cõi thiên đàng). Do đó căn tính nhân quả quyết định vậy, như kẻ trồng đậu được đậu, trồng dưa được dưa, trồng đậu chẳng thể được dưa, đó là hạnh âm chất, nhân quả của sự âm thầm hành thiền. Nhân quả của tính nông hiển minh cũng bất đồng, người ta thường thường trong sự sinh hoạt hàng ngày cũng thể nghiệm được về phương diện thiện, như ngày nay mình cứu giúp kẻ khác, mình cũng được kẻ khác tôn kính, được người ủng hộ, đó cũng là phúc đức. Về phương diện ác, như ngày nay đánh người, giết người, ngày khác mình sẽ bị đánh bị giết. Ngày nay làm ác giết chóc, chẳng tôn trọng luật pháp quốc gia, ngày khác sẽ bị tai nạn lao tù. Ngày nay giận dữ phẫn nộ, ngày khác ắt thân tâm sẽ bị đau đớn. Thiên Cảm Ứng trong sách Thái Thượng có nói: “Tâm khởi từ thiện, thiện tuy chưa làm, song cát thần (thân tốt) đã theo; tâm khởi từ ác, ác tuy chưa làm, hung thần đã theo. Cho nên người tốt nói thiện, nhìn thiện, hành thiện, một ngày có ba thiện, ba năm trời ắt được giáng phúc; kẻ bất thiện nói ác, nhìn ác, làm ác, mỗi ngày có ba ác, ba năm trời ắt bị giáng họa. Cổ Đức có nói: Làm thiện ắt sáng sủa, làm thiện không sáng sủa, tổ tiên ắt có dư tai ương, tai ương hết ắt sáng sủa; làm ác gặp tai ương, làm ác không gặp tai ương, tổ tiên ắt có dư đức, đức hết ắt gặp tai ương.

Thái Sinh: Thưa, theo như lời dạy của ân sư, báo ứng nhân quả chỉ là vấn đề thời gian tính?

Tế Phật: Đúng vậy, chỉ là tới sớm hay trễ mà thôi, như trồng cây tùng phải mất mấy chục năm mới nở hoa kết trái, trồng lúa chỉ cần ít tháng là có thể gặt hái, trồng rau chỉ ít chục ngày là có thể thu hoạch. Vì thời gian gieo giống khác nhau, có người mấy chục ngày, có người ít tháng ít năm mà quả báo đã đến sớm hay trễ. Như chư đệ tử Thánh Hiền Đường cùng chư vị ấn tống Thánh Hiền tạp chí công đức thật là vô lượng, đã vì sứ mệnh phổ hóa đại đạo, không kể tư lợi hi sinh nhẫn nhục, trồng được nhân thiện lớn lao, song loại nhân thiện lớn lao này đang ở giai đoạn manh nha, quả lại cũng do nhân duyên kiếp trước mà đạt thành quả ở kiếp này. Do đó người hành thiện dần dần tiêu được nghiệp là nhờ công quả. Như vậy nếu kẻ phàm phu tục tử làm thiện mà đòi được thiện báo ngay thì quả là chưa ngộ đạo lớn tinh vi. Thế mới biết việc người tu đạo tương lai sẽ công thành nghiệp giải, chứng quả thành chân, kẻ phàm phu tục tử chẳng thể nào hiểu nổi.

Thái Sinh: Thưa đúng vậy, lời dạy của ân sư, người tu đạo ở trên đời đương nhiên phải thể hội thâm sâu, chẳng thể lơ là nhìn bề ngoài, nếu thấy người khác chân thành tu đạo, tự mình mới đi được một bước thì khi thấy người tu đạo thoái chí ắt là mình cũng thoái chí theo họ. Càng có những kẻ mê muội, nếu nhìn người khác hành thiện mà được thiện báo, mình mới thực hành đạo thiện, nếu nhìn người khác làm thiện, chưa được thiện báo liền chẳng tiếp tục làm thiện nữa, và chẳng rõ thiện ác nhân quả vốn mờ mịt nên cần phải chú định lâu thì phàm phu tục tử mắt mờ làm sao nhìn rõ được.

Tế Phật: Trò ngoan nói rất đúng, nếu như người tu đạo hành đạo một cách a dua thì loại người này quả là ngu si lắm, chẳng biết nắm vận mệnh mình ở ngay trong tâm mình, người khác làm thiện làm ác, đối với mình chẳng hề có quan hệ.

Thái Sinh: Thưa phải, chúng sinh nếu như giác ngộ được lẽ này, hẳn chẳng còn là chúng sinh nữa, vả lại còn một số người hoài nghi, ngơ ngác ngoài cửa đạo, thật là đáng thương.

Tế Phật: Đúng lắm, đêm nay thời giờ đã muộn, hai thầy trò mình chuẩn bị dạo cõi nhân gian, trò ngoan hãy mau lên đài sen.

Thái Sinh: Thưa con đã sẵn sàng, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Đã tới nơi.

Thái Sinh: Thưa tại sao mau quá?

Tế Phật: Tại vì tài giỏi.

Thái Sinh: Gia đình này hòa khí tràn đầy, bàn thờ Phật trong nhà có trưng hình đức cổ Phật Nam Hải, tướng mạo trang nghiêm, hào quang ngời tỏa, cùng ba vị khác là đức Quan Thánh Đế Quân, Phật Sống Tế Công, Lã Tiên Tổ, nên biết ngay là gia đình tu đạo.

Tế Phật: Đúng vậy, hiện tại có rất nhiều gia đình tu đạo, nhà nhà sinh Phật.

Thái Sinh: Ha ha, nhà nhà sinh Phật, cho nên phòng khách ở dưới lầu có một vị sư tỷ đang bồng một hài nhi là “con Phật”

Tế Phật: Người đời nay rất dễ xúc động, giác ngộ không giống nhau, tâm phân biệt nặng nề, do đó chúng ta không nên nhắc tới hai tiếng con Phật, chỉ biết chắc chắn rằng đạo căn phi thường thiện lành và linh ứng.

Thái Sinh: Quả đúng như vậy, con trông thấy hài nhi này tuệ tính khá cao, đạo căn sâu dày, xin thỉnh ý ân sư có phải những người trong gia đình của hài nhi này đạo căn đều thâm sâu cả phải không?

Tế Phật: Chẳng nhất định như vậy, nếu xét về nhân duyên, căn cơ, tổ đức, gia đình này tu đạo đã được ít chục năm, do đó ân đức tổ tông sâu dày, nên có cơ duyên đắc đạo, còn nếu như tiến vào cửa đạo, đạo căn không sâu, tự nhiên cơ duyên tự khó đạt.

Thái Sinh: Thưa, ân sư dạy rất đúng, có một số gia đình tu đạo, bị khảo đảo hoài, lời than oán rền vang, nên càng oán càng phiền.

Tế Phật: Chúng ta hãy tới một gia đình khác... Con hãy nhìn tòa biệt thự kia, là nơi ở của một đại xí nghiệp gia, bên trong có một đại công tử, hiện đang theo học ở một trường đại học. Kiếp trước là một đại thiện nhân triều nhà Thanh, lúc sống ban nhiều phước cho làng, xây cầu đắp đường, nên kiếp này hưởng trọn phú quý công danh lại còn phát tâm nguyện đời này tiếp tục làm việc thiện, tích lũy công đức, tương lai hưởng thụ phước trời, siêu sinh cực lạc.

Thái Sinh: A thì ra nguyên nhân là như vậy, quả là phước đức, do đó cũng chẳng lạ là kiếp này đã phò trợ cho sự nghiệp của cha thành tựu.

Tế Phật: Gia đình khác ở ven núi, đang bị gió cát phủ mờ, hai thầy trò mình hãy tới đó tham quan... Nguyên lai gia đình này kiếp trước mắc oán với người, con có nhìn thấy đứa nhỏ ngồi trên xe lăn không?

Thái Sinh: Thưa con nhìn thấy.

Tế Phật: Đứa nhỏ này ba kiếp trước là dân lưu manh, ham ăn mà chẳng ham làm, hai kiếp sau từng bị luân hồi làm súc vật, trong thời gian đó linh hồn chịu mọi khổ đau. Tới nay đầu thai vào gia đình này, lại là gia đình không có đức, chuyên kể chuyện thị phi của người, không tin nhân quả, phá hoại danh tiết của người, không kính trọng bậc trưởng thượng, do đó trong chốn tối tăm đã bị nghiệp quả báo ứng.

Thái Sinh: Đúng là nhân quả nghiệp chướng, báo ứng một li chẳng sai, người đời gặp phải nghiệp chướng này khó mà thay đổi thì làm cách nào để tiêu nghiệp được?

Tế Phật: Có thể trước bàn thờ, hoặc ngửa mặt lên trời, hoặc hướng nội, phát nguyện ấn tống sách Nhân Gian Du Kí, thực tâm sám hối, hoặc âm thầm thực hành lập công đức, giúp đỡ kẻ nghèo khổ. Thần linh sẽ ngầm giúp đỡ, tự nhiên oan nghiệp dần dần trở thành hòa thuận tốt lành.

Thái Sinh: Thưa ân sư phát tâm ấn tống kinh sách lại có thể giải nghiệp, chuyển kiếp được hay sao?

Tế Phật: Được lắm, song cũng không thể phát tâm ấn tống kinh sách vài ba lần mà có thể hoàn toàn giải trừ hết được nghiệp chướng. Giúp in kinh sách, tốt nhất là hướng tới mục tiêu phát nguyện trường kỳ, giúp ấn tống hàng tháng, hoặc ba tháng một lần, hoặc nửa năm một lần. Như vậy phát nguyện mới giúp cho thiện tâm khỏi đọa lạc, tu cả trong lẫn ngoài, việc giải nghiệp chuyển kiếp suy nghĩ so sánh thấy ứng nghiệm, tương lai sẽ chứng đạo tiêu dao. Thế mới biết trách nhiệm phổ hóa đạo lý của Thánh Hiền Đường so với trước quả là khác quá nhiều, đề cao việc ấn tống kinh sách ắt hiệu nghiệm. Hay lắm, hai thầy trò mình tiếp tục dạo thăm nơi khác.

Thái Sinh: Thưa hay lắm.

Tế Phật: Phía trước là phủ quan tướng.

Thái Sinh: Có lẽ vì vậy khiến con cảm thấy một luồng chính khí hạo nhiên bao trùm.

Tế Phật: Phía trong có một vị công tử đang chăm chỉ đọc kinh sách, kiếp trước là vị tướng của triều đại nhà Nguyên, chỉ vì lúc sống tận trung báo quốc, vị quốc vong thân, nhờ vậy sau khi rời cõi trần, được ban phước lộc hưởng thụ tại cõi trời ít trăm năm, tới nay phước hết, do đó được tái sinh nơi đất lành. Nếu như kiếp này vẫn tiếp tục tận trung báo quốc sẽ lại được hưởng phước lộc vô biên; còn nếu như ô uế gian tà, bán nước cầu vinh không biết quý chuộng thân trong sạch, thì cuối cùng sẽ mất thân, muôn kiếp khó phục hồi.

Thái Sinh: Quả là đáng sợ muôn phần, siêu thăng và đọa lạc chỉ cách nhau có một ly, hoàn toàn do mình lựa chọn, người đời được có thân, nếu như không hành Tam Cương Ngũ Thường Tứ Duy Bát Đức quả là đáng tiếc.

Tế Phật: Thầy trò mình tới thăm một gia đình khác.

Thái Sinh: Trò ngu thấy gia đình phía trước có một vị anh nhi khóc mãi không ngưng.

Tế Phật: Vị anh nhi này trí tuệ thông minh, ngày sau sẽ làm được nhiều việc lớn lao; gia đình này vốn không có con, song chỉ vì cha mẹ lại ao ước có con nên một mặt phát tâm ấn tống kinh sách, một mặt cầu xin ơn trên, cuối cùng đấng thiêng liêng cảm động ban ân. Tuy sung sướng được có con song vợ chồng gia đình này đã phải trải qua sáu năm khảo đảo đầy khổ đau, cho nên hiện tại đứa con thường ốm đau bệnh hoạn, nếu như lại nguyện cùng Thần Thánh làm điều ơn phước có thể giải trừ được nghiệp... Này trò ngoan, đêm nay thời giờ đã trễ, hãy tạm ngưng tại đây, chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.

Thái Sinh: Thưa con đã lên đài sen, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#24 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 09/09/2011 - 04:28

NHÂN GIAN DU KÝ

HỒI HAI MƯƠI

THIÊN LÝ CHIẾU RỌI, BÁO ỨNG KHÔNG SÓT MỘT MẢY MAY

NHÂN QUẢ QUA LẠI, OAN NGHIỆP ĐƯƠNG NHIÊN ĐƯỢC GIẢI TRỪ

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 9 tháng 4 năm Nhâm Tuất (1982)

Thơ

Cái quan luận định bình hằng tu
Hữu thủy vô chung khốn khổ nhân
Hoạt hình chiêu chiêu vọng nhãn khán
Hậu báo lâm thân thán tâm đầu.

Dịch

Muốn rõ công tu đợi cuối đời
Trước tu sau bỏ tội cùng trời
Rõ ràng trừng phạt mà không thấy
Họa đến kêu than đã muộn rồi.

Tế Phật: Đức tin là nguồn cội của sức mạnh, vì thế đến ngay kẻ sắp chết, chỉ cần có chút đức tin cũng cảm thấy vô cùng ấm áp, ngược lại thanh niên đang tuổi cường tráng thiếu đức tin mà lại đem của cải giàu sang đến cho họ hẳn là họ sẽ bàng hoàng khó hiểu. Bữa nay ta nói vậy, chúng sinh có thể hỏi tại sao hai kẻ lại có sự cách biệt quá xa như vậy? Bởi kẻ thứ nhất giống như chiếc thuyền nhỏ bình thường, nhưng lại có địa bàn hướng dẫn, nên tâm hồn dễ trở về với đức tin, cuối cùng có thể tới bờ. Kẻ thứ hai tuy là chiếc thuyền đẹp đẽ, nhưng không có địa bàn hướng dẫn hay là sức mạnh của đức tin, sẽ ngỡ ngàng không biết hướng về đâu, bềnh bồng trôi giạt. Ta tha thiết mong cầu chúng sinh có được đức tin mạnh mẽ, để đề phòng lúc gặp nghịch cảnh như là ly tán, hoạn nạn, khổ đau, đày đọa, có được đức tin sẽ đương cự nổi, bởi vậy chúng sinh chưa từng thiếu một thứ gì, mà chỉ thiếu đức tin thôi.

Thái Sinh: Lời dạy của ân sư hay quá, con thiết nghĩ đức tin giống tựa luồng ánh sáng chiếu rọi đường tăm tối, nếu như thiếu luồng ánh sáng này, chắc chắn kẻ bộ hành sẽ đui mù quờ quạng chẳng biết lối mà đi.

Tế Phật: Chân lý luôn luôn tồn tại và ngầm soi sáng cho chúng sinh, song chúng sinh lại thường cho chân lý là không hiện hữu, chẳng khác nào kẻ có đôi mắt sáng nhìn được rất xa nhưng nhãn tuyền lại bị che lấp, nên cứ đi mãi trên đường tội lỗi. Ngược lại những kẻ mắt mù bị sự tối tăm vây phủ, nhưng trong tâm họ lại có ngọn đèn tuệ sáng ngời. Do đó những kẻ được phước mà không biết là mình có phước, cứ mãi tham lam không chán, đó là bệnh lớn của chúng sinh, thuốc tim vô hình chúng sinh lại không có, bởi vậy muốn chiến thắng gian tà, phải phát huy thiện lành thì hẳn là rất công hiệu.

Thái Sinh: Lời dạy của ân sư vô cùng quan trọng, vô cùng tha thiết, trò ngu hết sức cảm kích, con nguyện truyền bá tâm linh vô tận của thầy, song chỉ ngại rằng lòng nhiệt thành thì có dư nhưng sức lại chẳng đủ.

Tế Phật: Chỉ cần có ngọn đèn vô tận, một sẽ truyền mười, mười sẽ truyền trăm, vả lại cùng sinh hoạt với người sáng suốt nhiệt thành trong một lĩnh vực, con có dịp gom tất cả lại để tạo thành sức mạnh của chính con.

Thái Sinh: Thưa lời dạy của ân sư rất đúng, con hy vọng ngọn đèn vô tận sẽ bất diệt.

Tế Phật: Song con phải luôn luôn châm dầu để nó không bao giờ tắt.

Thái Sinh: Thưa ân sư, con ráng cố gắng thực hành như vậy.

Tế Phật: Bữa nay tạm ngưng tại đây để con bắt đầu cuộc hành trình.

Thái Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Tục ngữ nói: “Đậy nắp hòm hãy bàn luận” (Cái quan luận định) nghĩa là, bản tính thiện hay ác của người chẳng thể phê phán lúc người đó còn sống, phải đợi tới sau khi họ chết mới có thể phẩm bình, giống như chạy đua đường trường không thể có nhận xét lúc mới bắt đầu chạy hoặc mới chạy được nửa phần đường. Thắng hay bại chỉ hoàn toàn quyết định ở mức cuối cùng. Từ ngàn xưa tới nay, nhân hào nghĩa sĩ, trung thần hiếu tử danh tiếng để lại muôn đời, là đều do một đời giữ tiết tháo, dù chết cũng không bỏ, do đó mới được mọi người tôn thờ.

Thái Sinh: Lời dạy của ân sư vô cùng hữu lý, trò ngu thường thấy một số người tu đạo, lúc ban đầu nhiệt thành, sau này gặp trở ngại liền nản lòng thối chí.

Tế Phật: Phật với chúng sinh khác nhau chỗ đó, có một số nửa đường bỏ dở là vì chưa sáng lẽ đạo, chưa tỏ chân lý, ta rất lấy làm tiếc cho họ. Tuy hiện nay người tu đạo rất nhiều nhưng có trước có sau, tới chết không bỏ lại chẳng có được là bao.

Thái Sinh: Theo như lời dạy của ân sư, tu đạo giống như chạy đường trường, nếu như không có lòng tin tuyệt đối, hẳn là sẽ sớm bỏ dở nửa chừng.

Tế Phật: Đúng vậy, chúng ta cũng phải giữa đường ngừng nghỉ.

Thái Sinh: Thưa tại sao vậy?

Tế Phật: Chẳng tại sao cả, vì chúng ta đã tới được mục đích.

Thái Sinh: A, thì ra nguyên nhân là như vậy.

Tế Phật: Phía trước là nơi giúp tiêu tan nghiệp chướng, tức chốn thi hành hình phạt lúc còn sống.

Thái Sinh: Thưa ân sư, nơi đó là một y viện.

Tế Phật: Đúng, thầy trò mình mau tới phỏng vấn.

Thái Sinh: Mũi ngửi thấy mùi hóa chất nồng nặc, mắt nhìn thấy những phòng bệnh vắng vẻ thê lương, giống như chốn địa ngục ở cõi nhân gian... Phía trước bác sĩ, y tá chạy tán loạn, bởi vì họ bị bệnh nhân đang cầm dao rượt.

Tế Phật: Người có là cầm thú mới có ngày bị đồ tể mổ bụng, và nếu đúng vậy thì con người thời nay có khác chi, cho nên thường bị mổ xẻ đau đớn.

Thái Sinh: Thưa đúng là như vậy, con người bị đau ốm và cần có thuốc thang cũng có lý do.

Tế Phật: Phần lớn những người tới đây là để nghiệp chướng của họ tiêu tan.

Thái Sinh: Thưa, ân sư dạy rất có lý... Vị trung niên phía trước, nhìn vẻ mặt bề ngoài cũng thấy có thiện tâm, nhưng tại sao còn bị tới nơi đây xẻ thịt cắt da đau đớn?

Tế Phật: Theo như Thần Tam Thi ghi chép, vị đó kiếp này tuy hiền lương, song kiếp trước là một y sĩ, trong khi hành nghề, có một kẻ nhà quê nghèo hèn mắt chứng bệnh ngặt nghèo cần cấp cứu, nhưng khi tới bệnh viện vì không có tiền đóng, vị y sĩ này bèn làm ngơ, không chữa trị. Đợi tới lúc đưa tới bệnh viện khác thì quá trễ, mới đi nửa đường vì cơn bệnh hành hạ không chịu nổi đành phải thác. Sau khi bệnh nhân đó chết, lòng oán hận không tiêu ngưng kết thành nghiệp quả ác báo, do đó mà vị y sĩ đó ngày nay phải tới đây giải phẫu ruột và bao tử để cho nghiệp chướng tiêu tan.

Thái Sinh: Là y sĩ phải tôn sùng đề cao y đức, y đạo mới được người tôn kính, còn như chỉ nghĩ tới tiền của, không đem tinh thần cứu thế ra để giúp đời há chẳng bất hạnh lắm sao.

Tế Phật: Người đời nay được làm y sĩ, kẻ thiển kiến nhìn thấy vậy tưởng là nhờ thành quả nỗ lực nên không ngờ rằng kiếp trước có tu, cùng được trời đất sắp xếp mới thành tựu nổi. Nếu như đời nay không biết tu thân, đánh mất lương tâm của người thầy thuốc, tương lai hẳn là chẳng tránh khỏi sự trừng phạt của nghiệp quả.

Thái Sinh: Còn vị thanh niên kia hình như cũng phải tới đây trả nghiệp.

Tế Phật: Vị thanh niên đó không biết quý trọng mạng sống, phóng xe gắn máy như bay giống như hỏa tiễn, đã gây nên thảm kịch: “Chí lớn chưa đến thân đã thác, khiến cho cha mẹ lệ đầm khăn” (Tráng chí vị thù thân tiên tử, thường sử phụ mẫu lệ sái khâm). Quả là uổng phí tâm huyết vun bồi của gia đình lẫn quốc gia.

Thái Sinh: Thưa đúng là như vậy, “dục tốc tất bất đạt” (muốn mau ắt chẳng tới) chỉ phút lỡ tay thành ôm hận ngàn đời... Cách tường có một vị thanh niên mắt lờ đờ, tinh thần hoàn toàn suy sụp.

Tế Phật: Mắc nghiệp quả báo nên bị nhiều oan hồn vây bủa.

Thái Sinh: Thưa ân sư tại sao con không nhìn thấy.

Tế Phật: Con hãy dùng quạt Phật, quạt một cái oan hồn sẽ hiện ra ngay.

Thái Sinh: A, quả nhiên có một người con gái xuất hiện.

Tế Phật: Người con gái này cứ theo sát thanh niên đó để đòi trả nghiệp đã lâu.

Thái Sinh: Thưa, có thể phỏng vấn người con gái này được không?

Tế Phật: Được, hãy yêu cầu người con gái đó nói rõ nguyên nhân.

Thái Sinh: Oan hồn có được mạnh giỏi không? Nhờ gặp được chúng tôi nên chúng tôi đã giúp hiện ra, vậy có thể trả lời ít câu hỏi của chúng tôi không? (Oan hồn không hiểu cách xưng hô của Thái Sinh, cho nên Tế Phật đã làm phép khiến cho oan hồn vô cùng đau đớn).

Nữ Oan Hồn: Tôi với quý vị không thù không oán, cớ sao lại bắt tôi phải gặp quý vị?

Tế Phật: Oan chỉ có thể giải, không thể buộc, tại sao oan hồn lại muốn hại đời người thanh niên?

Nữ Oan Hồn: Oan hồn này được lệnh từ cõi âm lên hãm hại kẻ đó, hai vị là Thần Thánh cõi nào mà lại muốn ngăn cản tôi? (Vị nữ oan hồn không tuân lệnh, Tế Phật liền rút cây Lục Trượng Kim Thân hào quang tỏa ngời, nữ oan hồn chống cự không nổi, đau đớn khóc òa)... Cớ sao lại muốn lăng nhục tôi?

Thái Sinh: Không phải vậy đâu, chúng tôi vì viết sách Nhân Gian Du Kí cho nên muốn được rõ một số chi tiết để làm tài liệu hầu thức tỉnh người đời, tôi mong nữ oan hồn hãy hợp tác với chúng tôi, nói rõ nguyên nhân đau khổ.

Nữ Oan Hồn: A...

Thái Sinh: Chớ quá đau lòng, hãy kể rõ đi, còn nếu như gặp khó khăn ân sư Tế Phật sẽ giải quyết cho, vả lại chúng tôi không có nhiều thì giờ.

Nữ Oan Hồn: Người thanh niên đó không có lương tâm, hai mươi năm trước tôi làm việc tại một xưởng giầy, thì có một thanh niên thuộc họ Trần tên là... giữ chức ngoại vụ của một công ty, thấy tôi là người có nhan sắc nên thường đem lời ong bướm dụ dỗ tôi rồi một hôm hẹn đưa tôi đi chơi, rồi suốt thời gian sau chàng bảo gì tôi cũng nghe, nên đã đem hết tiền của dâng cho chàng để chàng tiêu pha hoang phí. Một ngày nọ, khi tôi báo tin cho chàng biết là tôi đã có mang được bốn tháng chàng nhẫn tâm cao chạy xa bay. Khiến tôi mất người mất của, quá phẫn uất vì tội bất nhân bất nghĩa của chàng lại thêm quá xấu hổ, không còn mặt mũi nào nhìn người thân cùng bạn bè, nên đã quyết định uống độc dược quyên sinh, sau khi oan hồn về tới âm phủ khối oan khí không tiêu, do đó Minh Vương cho phép tôi vào lúc đêm khuya được trở lại dương gian trả oán tình địch.

Thái Sinh: A thì ra nguyên nhân là như vậy, nhưng làm cách nào oan hồn lại có thể tìm được người tình cũ?

Nữ Oan Hồn: Kể lại thì câu chuyện quá dài, vì tôi tìm chàng rất lâu nên việc tìm thấy chàng chẳng dễ dàng gì.

Thái Sinh: Có thể kể lại mọi chi tiết cho tôi nghe không?

Nữ Oan Hồn: Được, vì tôi biết chàng có máu say mê cờ bạc, chắc chắn sẽ la cà tại các sòng bài, mười lăm năm trước, mỗi buổi chiều tôi đều tìm tới sòng bài, nhưng cách mấy năm sau tôi mới tìm thấy chàng vào một buổi tối ở một sòng bài, tôi liền theo sát bên chàng, nhưng dương khí của chàng quá mạnh, và tôi không tìm ra phương cách nên chỉ còn biết kiên nhẫn chờ đợi cơ hội.

Thái Sinh: Cơ hội như thế nào?

Nữ Oan Hồn: Đại khái là có quan hệ với phúc đức tổ tiên... Cho đến năm năm trước đây, có một bữa chàng uống rượu say, chếnh choáng cỡi xe gắn máy, tôi thừa cơ nhập xác khiến chàng ốm đau thuốc thang mãi chẳng khỏi, cuối cùng chàng được người nhà đưa tới bệnh viện này chữa trị, tôi không ngờ rằng hai vị lại phát giác ra được.

Thái Sinh: Oan hồn trả oán như thế nào?

Nữ Oan Hồn: Tôi đã tận dụng tất cả sức mạnh của âm linh để đè mạnh lên hồn phách của chàng khiến tâm linh chàng cảm thấy vô cùng đau đớn.

Thái Sinh: Làm như vậy không đúng, người ta ai cũng có lòng thương xót, cớ sao lại nhẫn tâm làm như vậy?

Nữ Oan Hồn: Không hành động như vậy tôi sẽ chẳng còn cơ hội nào khác.

Tế Phật: Nữ oan hồn họ Lâm này, thiện có thiện báo, ác có ác báo, ân có ân báo, ân ân oán oán bao giờ dứt, hi vọng oan hồn có thể bỏ lòng oán giận, vì linh hồn chàng thanh niên đó đã bị đày xuống hàng cầm thú, tương lai tự nhận lãnh ác nghiệp quả báo, oan hồn chẳng cần ôm nỗi bất bình, hy vọng oan hồn sớm nghĩ tới tương lai của mình, thức tâm làm việc thiện, giúp kẻ khác được hạnh phúc mới đúng.

Nữ Oan Hồn: A... cảm ơn đức Đại Phật đã mở trí, khi còn sống vì không lo tu nhân tích đức, bữa nay nghe đức Đại Phật thuyết pháp, quả là mắc cở vô cùng.

Tế Phật: Nữ oan hồn họ Lâm này, bữa nay nhờ duyên viết sách Nhân Gian Du Kí, oan hồn có thể thuật lại rành mạch về những nổi khổ đau đã trải qua, nếu như có tâm học đạo, hẳn là chẳng còn nghĩ tới sự báo thù, nếu như bỏ được nỗi oán ân hận của quá khứ, ta sẽ vì oan hồn mà thuyết pháp và nhận làm đệ tử, có muốn được như vậy không?

Nữ Oan Hồn: Cảm tạ Đại Phật, cảm tạ Đại Phật. (Nữ oan hồn liền quỳ gối cúi đầu vái lạy tạ ân và nghe Tế Phật thuyết pháp).

Tế Phật: Hay lắm, này nhé con phải cố gắng tu trì, phải biết là tất cả thiện duyên, ác duyên đều có kiếp trước gieo nhân, chỉ cần nhìn rõ mọi việc, bị ghét bỏ không oán giận, phải có tinh thần hi sinh nhẫn nhục sẽ có ngày công thành quả mãn, chứng được Cửu Phẩm Liên Đài.

Nữ Oan Hồn: Cảm tạ ân sư đã mở trí cho con, đứa gái nhỏ ngu si này sợ rằng khó thành tựu nổi.

Tế Phật: Trò nữ họ Lâm, con hãy nghe cho rõ, mọi người đều có Phật tính, cho nên việc tu đạo lớn không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, chỉ cần có lòng chân thành là có thể khắc phục được mọi khó khăn, không được tự mình khinh mình. Phải biết rõ là con người thấp hèn nhưng có tâm tinh tiến vẫn có thể thành đạo, ngược lại có kẻ cao sang mà tâm tính ngạo mạn thì chẳng thể thành đạo. Sách có nói: “Giàu sang học đạo khó, nghèo hèn tu đạo chăm” hy vọng con gắng gỏi thực hành. (Oan hồn bất chợt cảm kích ân sâu, nghẹn ngào nức nở).

Thái Sinh: Hỏi sư tỉ họ Lâm, Thánh Hiền Đường có rất nhiều bạn đạo nữ tu, tuy chưa đọc nhiều sách, trong tấm lòng vì đạo hơn hẳn các bạn đạo nam, hy vọng sư tỉ học được tinh thần cao quý của họ, bữa nay tự nhiên sư tỷ và đức ân sư Tế Phật đã kết được mối duyên thầy trò, quả là sư tỉ đã được cái may mắn ba đời mới có nổi.

Tế Phật: Điều đó rất đúng bữa nay thời giờ đã trễ, trò nữ họ Lâm này, thầy và Thái Sinh trở lại Thánh Hiền Đường, con phải lo giữ gìn cẩn thận, Thái Sinh mau lên đài sen, chuẩn bị trở về.

Oan hồn động lòng trắc ẩn, quyến luyến khôn cùng, cầm tay Tế Phật và Thái Sinh nghẹn ngào ngỏ lời từ giã.

Thái Sinh: cầu chúc phước lành cùng nguyện sẽ phổ biến với chúng sinh dưới gầm trời câu chuyện này để mọi người có thể bỏ ác theo thiện cùng tin Phật đạo. Sau đó chỉ một sát na đã thấy Thánh Hiền Đường hiện ra trước mắt.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Hiền đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#25 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 09/09/2011 - 04:30

NHÂN GIAN DU KÝ

HỒI HAI MƯƠI MỐT

TU CHÍNH ĐẠO ĐẠI TIÊN GIẢI BÀY DUYÊN CỚ

BỊ QUẢ BÁO ÂM HỒN HIỂU RÕ LÝ DO

Phật Sống Tế công

Giáng ngày 3 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1982)

Thơ

Vô vi luyện đạo vạn chướng phách
Phù hoa hư vọng trở đạo cơ
Thành tâm hành đạo chung thành quả
Bán đồ nhi phế như đoạn cơ.

Dịch

Luyện đạo vô vi chướng ngại tan
Phù hoa càn rỡ pháp không còn
Dốc tâm chung cuộc tu thành đạo
Bỏ dở nửa đường chớ có nên.

Tế Phật: Học đạo, học đạo; tu đạo, tu đạo; hành đạo, hành đạo; năm năm có đạo, ngày ngày có đạo, đạo suốt cả hai mươi bốn giờ, phải luôn giữ tâm đạo, vừa niệm vừa hành. Nếu như giả dối, bỏ dở nửa đường thì thật quả là đáng tiếc. Bởi vậy kẻ hành đạo, kiến thức về đạo bắt buộc phải nghiên cứu sâu xa mới tránh được cái cảnh trèo lên non báu mà xuống tay không.

Thái Sinh: Lời dạy của ân sư quả là chí lý, đạo khó hành thì thực khó hành, đạo dễ hành thì thực dễ hành, kẻ tâm thành, ý kiên định thì dễ hành, còn kẻ không có chút lòng thành, có tham gia chăng nữa cũng chỉ là nhòm ngó tham khảo thôi. Vì vậy việc tu đại đạo đối với họ nhất định vô cùng khó khăn, song cái khó đó do chính họ tạo nên, tự họ ngăn trở đường vào cửa đạo.

Tế Phật: Trò ngoan nói rất đúng, các tín hữu của Thánh Hiền Đường tu đạo thấy rất dễ dàng, nhưng kẻ đứng ngoài cửa nhìn vào lại thấy vô cùng khó khăn. Bởi vậy dễ hay khó đều tùy thuộc ở sự quyết tâm của chính mình mà thôi. Còn nếu như hăng hái mạnh mẽ bước thẳng vào cửa đạo thì việc tu đạo hẳn chẳng còn thấy khó khăn.

Thái Sinh: Họ chẳng dám bước thẳng ngay vào cửa đạo là vì thiếu can đảm.

Tế Phật: Con nói vậy chưa hẳn là đúng, bởi lẽ người ta đã trót tham danh, tham lợi quá nhiều rồi, một sớm thấy việc thiện sinh lòng sợ hãi. Còn nếu như gặp danh lợi tiền tài liền ùa nhau chạy theo, giữ chặt chẳng buông.

Thái Sinh: Ân sư dạy rất đúng, không phải họ hoàn toàn thiếu can đảm mà vì cái nhìn còn thiển cận mà thôi.

Tế Phật: Đạo kinh nói: “Bậc thượng sĩ nghe đạo liền chăm chỉ thực hành; hàng trung sĩ nghe đạo nửa nhớ nửa quên; hàng hạ sĩ nghe đạo phát cười lớn; không cười, không đủ cho là đạo”. Cho nên chỗ quý báu của đạo khó mà nói được, khó mà hình dung được, chỉ những bậc thượng sĩ, thượng căn, thượng thiện, thượng trí mới có thể hội nhập được một cách trang trọng quý báu mà thôi. Còn hàng hạ căn, hạ trí chỉ để cho gông cùm xiềng xích lợi danh trói buộc, thất tình lục dục đốt cháy, bánh xe luân hồi nghiền nát.

Thái Sinh: Lời dạy của ân sư quả là vô cùng hay đẹp, nếu kẻ đọc sách thiện mà còn nghi hoặc thì hẳn là quá ngu si, quá vô duyên cùng Phật.

Tế Phật: Đúng vậy, đêm nay thầy trò mình tạm ngưng cuộc đàm đạo ở đây, hãy chuẩn bị lên đường.

Thái Sinh: Thưa vâng... Con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Trò ngoan, đã tới nơi, vì chúng ta còn ở trên đài sen cho nên thấy được một tòa Phật Đường, bên trong mọi người đang nghiên cứu học hỏi đạo pháp.

Thái Sinh: Thời mạt thế đã tới, các tông phái quá nhiều, quả là kiểm điểm không hết, song những ai lo việc đạo, đều là tìm con đường giải thoát khổ đau cho chúng sinh bằng tâm từ bi vô lượng.

Tế Phật: Cửa đạo lớn vào thời mạt pháp đã mở rộng để cứu độ, dẫn dắt các đệ tử có duyên. Nếu như sinh nhằm thời này mà còn chưa tìm tới cửa đạo tức là kiếp này có cũng như không.

Thái Sinh: Thưa rất đúng, gian niệm Phật đường này giống như niệm Phật đường công cộng bên trong có khoảng hai ba chục người đang ngồi trụ điển, lắng nghe minh sư thuyết pháp. Nơi tấm bảng treo trên tường thấy viết những dòng chữ:

Tín vi đạo nguyên công đức mẫu
Tín năng viễn lý sinh tử khổ
Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn
Tín vi bồ đề tác cơ sở.

Đức tin là mẹ công đức suối nguồn đạo lớn
Đức tin có thể xa rời nỗi khổ tử sinh
Đức tin có thể nuôi lớn muôn mầm thiện
Đức tin là nền tảng xây dựng tâm giác ngộ.

Ha ha, tu đạo đúng là cần phải có lòng tin tuyệt đối.

Tế Phật: Hiện tại chư vị Thần Thánh đã tới tiếp đón, chúng ta mau lạy chào ra mắt.

Thái Sinh: Thưa vâng. (Một vị đại tiên rảo bước tới trước tiếp đón Tế Phật và Thái Sinh). Kính chào đức Đại Tiên.

Hạo Nhiên Đại Tiên: Miễn lễ Thái Sinh, bữa nay may mắn được kết duyên tại đây, tôi cảm thấy vô cùng vinh hạnh. Quý đường đang dốc tâm phổ hóa đạo pháp để cứu độ chúng sinh, thần và người luôn luôn tận dụng tâm huyết, quả đã khiến mọi người vô cùng cảm kích.

Thái Sinh: Đại Tiên quá khen ngợi, chỉ sợ rằng sức không đảm đương nổi, nên ước mong Đại Tiên rời bỏ cuộc sống tiêu dao lạc thú cõi thiên đường, giáng phàm ban đạo hành pháp bốn phương, hẳn là khiến chúng sinh cảm động vô biên.

Hạo Nhiên Đại Tiên: Không dám, không dám, hiện thời cõi trời không được rảnh rang, Tiên Phật khắp nơi rộn rịp giúp đỡ đạo, chẳng phải chỉ một mình tôi đâu mà ngay khắp cả Nam Thiềm Bộ Châu đều như vậy hết.

Thái Sinh: Đại Tiên tuổi còn trẻ mà đã chứng đắc quả vị quá lớn lao, vậy xin chỉ giáo cho kinh nghiệm tu trì mau thành đạt đó của Đại Tiên?

Hạo Nhiên Đại Tiên: Kể lại thì thấy thẹn vì có vẻ tự khoe, ngày nay tôi được thụ phong Hạo Nhiên Đại Tiên là bởi lúc sống, suốt đời vì đạo bôn ba, chí cả chẳng hề nao núng nên cuối cùng đã vì đạo tuẫn tiết, còn ngoài ra không có công đức lớn lao nào đáng kể cả.

Thái Sinh: A, tinh thần đó khiến càng kính trọng, song Đại Tiên đã hành đạo như thế nào?

Hạo Nhiên Đại Tiên: Câu chuyện kể lại sẽ dài lắm, khoảng hai mươi năm trước đây, nhân đạo lớn phổ biến, bởi vậy tôi cũng có duyên đạt được sự chân truyền, nên biết rõ là đạo lớn quý báu, từ đó tôi đi khắp nơi bốn phương lấy việc khuyên mọi người làm thiện, giúp đỡ người cùng khốn làm vui. Có một hôm song thân lâm trọng bệnh, thuốc thang chạy chữa không thuyên giảm, tôi phát nguyện giảm thiểu tuổi thọ của mình để cha mẹ được sống lâu hơn. Từ đó những tội lỗi trong gia tộc tôi gánh chịu thay hết mọi người. Tuy thân thể không được yên song đạo tâm càng thêm kiên định nên không hề sợ khảo đảo, vẫn đi khắp chốn truyền pháp giảng đạo. Có ai mời tôi chẳng bao giờ chối từ, trường kỳ bôn ba, tích chứa nhọc nhằn thành đau ốm, nên ít năm trước đây tuổi thọ của tôi tới giai đoạn phải về cõi vô, tính hạo nhiên liền xung phá chín tầng trời, khiến Lão Mẫu cảm động, phong cho tôi là Hạo Nhiên Đại Tiên, song tôi hiểu rõ chính tôi công quả cho đạo chưa đủ, để báo đáp ơn trời sâu dày, tôi nguyện giáng phàm hy sinh vì đạo.

Thái Sinh: Thật là cảm động, còn đêm nay Đại Tiên giáng phàm vì nhiệm vụ gì?

Hạo Nhiên Đại Tiên: Tôi đi khắp bốn phương hoàn toàn vì đạo như ngài Lâm Tế, dốc lực công phu bình định, các nơi được an lành, giúp các đạo tràng bị ma quỷ nhiễu loạn trở nên thanh tịnh.

Thái Sinh: À thì ra nguyên nhân là như vậy, cảm tạ Đại Tiên đã chỉ giáo cho.

Hạo Nhiên Đại Tiên: Xin Thái Sinh chớ khách sáo, thôi chúng ta tạm từ giã, mong sớm có dịp gặp lại. (Hạo Nhiên Đại Tiên từ giã Tế Phật, Thái sinh cảm ơn tạ lễ Hạo Nhiên Đại Tiên).

Thái Sinh: Thưa ân sư, lời dạy của Đại Tiên vừa rồi, những thiện nam tín nữ vào cửa Thánh nghe đạo, những oan hồn đòi trả nghiệp chẳng thể vào trong đòi nợ, như vậy hiện những oan hồn đó ẩn núp tại đâu?

Tế Phật: Trò ngoan quả là không rõ, vì hào quang của Phật tỏa chiếu, vì điển chư Tiên Thánh Thần hội tụ cho nên những oan hồn không dám xâm nhập cửa đạo mà chỉ lảng vảng bên ngoài.

Thái Sinh: Thưa việc này có thật được sao?

Tế Phật: Nếu con không tin đợi ta phất quạt Phật, con sẽ thấy ngay.

Thái Sinh: Chắc gì cầu mà được. (Tế Phật lấy quạt ra quạt, hào quang tỏa chiếu, hồn quỷ hiện nguyên hình, run rẩy sợ sệt kiếm chỗ núp, những gì khi trước Thái Sinh không thấy, thì giờ đây chứng kiến thật rõ ràng, nên kinh hoàng thất sắc)...Thưa ân sư những oan hồn chờ ngoài cửa, tại sao trước đây con không nhìn thấy?

Tế Phật: Vì con chưa đạt tới cảnh giới mắt Phật, cho nên những nơi tối ám, đương nhiên chẳng thể nhìn thấy.

Thái Sinh: Thưa ân sư, có thể gọi một oan hồn tới phỏng vấn không?

Tế Phật: Có thể được, để thầy kêu một oan hồn tới. (Quả nhiên có một nữ oan hồn chạy trốn không nổi phải tới trình diện trước mặt Tế Phật).

Thái Sinh: Nữ oan hồn chớ sợ hãi, hãy thuật lại ý định tìm tới đây làm gì?

Nữ Oan Hồn:.. Thưa tôi không... (Vì quá sợ hãi, chỉ run rẩy, chẳng nói nên lời).

Thái Sinh: Đừng sợ hãi, hãy chầm chậm thuật rõ lại.

Tế Phật: Vì thời giờ đã trễ, để ta ban cho một viên thuốc định thần. (Nữ oan hồn nhận viên thuốc và uống).

Nữ Oan Hồn: Kính xin Thần Phật xá tội, oan hồn tới đây tuyệt nhiên không có ý đồ gì hết.

Thái Sinh: Đúng không, vậy thì oan hồn tới đây làm chi?

Nữ Oan Hồn: Thưa, vì tôi được lệnh từ cõi âm trở lại cõi dương tìm kẻ thù để trả oán song không ngờ lại may mắn được tới đây nghe pháp, học đạo, tu thân quả là không thể ngờ được.

Tế Phật: Nợ oan khiên chẳng phải là chuyện thường nên không thể nói dăm ba lời mà giải quyết được dễ dàng.

Thái Sinh: Vậy nữ oan hồn báo thù bằng cách nào?

Nữ Oan Hồn: Vì bọn oan hồn chúng tôi không có thân xác bằng xương bằng thịt, mà chỉ bằng luồng khí âm linh, luồng âm khí này theo xác hồn phách một số người đời, vì những người này tinh thần bất ổn, thân xác yếu đuối nên dễ dàng nóng giận đọa lạc và bất an, gia đình dễ xào xáo bất hòa, sự nghiệp khó thành tựu. Do đó Trần... nghe thuyết pháp nơi cửa đạo năm sáu năm trước đây, thâm tâm thường bị tôi nhiễu loạn, song nhờ hiểu được lẽ đạo, mỗi lần bị tôi báo thù, gia đình gặp phong ba bão táp tới đâu, họ Trần vẫn nhẫn nhục chịu đựng không than oán. Cho tới gần đây, khi bị tôi theo sát, nên thường tới đạo tràng nghe pháp, lâu ngày chày tháng, tôi được cảm hóa, nên bỏ ý tưởng báo thù.

Thái Sinh: Đúng như vậy nên chẳng lạ gì có một số người tu đạo, sau khi vào được cửa thánh, thân thể dần dần khỏe mạnh, gia đình dần dần hòa thuận, sự nghiệp dần dần thuận lợi, tới nỗi ngày nay không thể ngờ được. Chính oan hồn trong lúc đi tìm kẻ thù để báo oán lại tìm ra cửa đạo, lòng oán hận đổi thành lòng tin pháp, lòng ơn Phật. Ha ha, đạo quả là diệu dụng thâm sâu... Như vậy thì có thể kết luận là kẻ thù đã cứu chuộc được tính linh của oan hồn.

Nữ Oan Hồn: Đúng vậy, hiện tại nhờ mỗi ngày được nghe kinh, tâm oán giận dần tiêu, tâm linh dần sáng, sau này trở lại cõi âm, hu vọng có thể được tiếp tục học đạo với giác linh đức Cổ Phật Địa Tạng.

Thái Sinh: Nếu được vậy thì quả là oan hồn gặp được kỳ duyên.

Nữ Oan Hồn: A, vì lúc sống không biết cho việc tu đạo là phước báu, tới khi bị đọa xuống âm phủ thì việc tu đạo vô cùng khó khăn.

Thái Sinh: Đúng như thế, song nguyên nhân tại sao?

Nữ Oan Hồn: Vì sống ở cõi dương không những việc tu đạo dễ dàng, mà còn chóng đạt thành quả vị, nhưng khi đã bị đày xuống cõi âm tu rất chậm, việc chứng quả phải từ từ, vì bị khảo đảo nhiều hơn mới có thể qua cửa, đó là tất cả nguyên nhân.

Thái Sinh: Có chí thì nên, oan hồn phải cố gắng kiên nhẫn, thế nào cũng thành công.

Nữ Oan Hồn: Cảm ơn sự khuyến khích chân thành.

Tế Phật: A, thời gian đã trễ, cuối cùng ta tặng oan hồn mấy câu sau đây: “Ai tu người ấy đắc, ai ăn kẻ đó no” (Các nhân tu đạo các nhân đắc, các nhân ngật phạn các nhân bão). Oan hồn Lí Sinh được vinh hạnh gần cửa đạo, tương lai sẽ sáng sủa, hãy cố gắng đi. Thái Sinh, thầy trò mình chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.

Thái Sinh: Thưa, con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành. (Nữ oan hồn vô cùng cảm kích, giây lát sau hồn biến mất giữa bóng đêm mịt mùng. Thoáng sau đài sen chở Tế Phật và Thái Sinh cũng về tới Thánh Hiền Đường).

Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#26 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 09/09/2011 - 04:34

NHÂN GIAN DU KÝ

HỒI HAI MƯƠI HAI

CẦU PHÚC ĐỨC MỖI NHÀ LO NHÂN QUẢ

LUẬN BÁO ỨNG LÒNG NGƯỜI TẠO PHÚC HỌA

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 23 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1982)

Thơ

Nhân luân thường thủ gia hòa tán
Tứ duy tuân hành đôn thân nhân
Tam tỉnh ngộ thân khiết kỷ ý
Cường đức tứ hải lạc đạo cần.

Dịch

Gia đạo nhân luân lo giữ bền
Tuân hành giới luật người thân nên
Tâm thời thức tỉnh thân tinh khiết
Bốn biển đức sâu pháp lý chuyên.

Tế Phật: Tục ngữ nói: “Không nhìn thấy quan tài không rơi lệ” (Bất kiến quan tài bất lưu lệ), câu nói trên bao hàm ý nghĩa tính cố chấp của con người khó bỏ được, kẻ mê muội nếu như trong đời họ không có phúc lâm chung, đương nhiên sẽ hiu hiu tự đắc, coi như không có chuyện luân hồi, do đó sẽ sống đam mê cuồng nhiệt, bị lợi danh trói buộc, cuốn lôi... Chợt tới giờ phút lâm chung sắp sửa lìa đời mới than là kiếp người như mộng, nhưng đã muộn rồi. Từ xưa tới nay, dù giàu sang phú quý tới đâu, đến lúc sắp sửa về chầu diêm vương đều buông lời than như vậy cả. Bởi lúc sống luôn luôn tham danh trục lợi, cho nên có câu nói: “Sống không tu nhân tích đức, sắp chết mới nói điều thiện” thì chẳng hóa ra là lúc sống tâm có dư mà thiếu sức sao?. Hay là sức có dư mà tâm không đủ. Theo như ta thấy, những kẻ lực dư mà tâm thiếu thì nhiều, còn tâm dư mà lực thiếu thì ít, đó là căn bệnh của chúng sinh.

Thái Sinh: Thưa ân sư, tại sao chúng sinh lại mắc phải chứng bệnh này, và nguyên nhân vì đâu?

Tế Phật: Đó gọi là “Tâm không nhất định” (Tâm chi vô thường) tức là những kẻ tu đạo khi thấy kẻ khác ngoài đời hưởng phú vinh hoa, tâm liền nẩy sinh dục vọng rồi bỏ chạy theo, hoặc khi nhìn thấy cái chết của kẻ khác liền nói: “Kiếp người qua mau như giấc mộng”. Vậy thì tâm đó là tâm luôn luôn điên đảo vì vọng tưởng, khi thì coi danh lợi dục vọng là trọng, khi thì coi danh lợi dục vọng là nhẹ, bởi vậy có câu: “Tu đạo dễ, hành đạo khó” (Tu đạo dị, hành đạo nan).

Thái Sinh: Quả đúng như vậy, sách có nói: “Tu đạo một ngày, Phật ở trước mắt; tu đạo một tháng, Phật ở cuối trời; tu đạo một năm, Phật liền chẳng thấy” (Tu đạo nhất nhật, Phật tại nhãn tiền; tu đạo nhất nguyệt, Phật tại thiên biên; tu đạo nhất niên, Phật tựu bất kiến). Kẻ mới phát tâm tu đạo khí tiết mãnh liệt, song một thời gian sau đạo tâm đánh mất.

Tế Phật: Sở dĩ tu đạo khó là bởi lẽ đó, còn nếu như tu đạo dễ thì ngày nay Tiên Phật hẳn là chẳng phải khổ sở vì chúng sinh. Thôi chúng ta chuẩn bị vì chúng sinh, đi kiểm soát dân cư xem sao.

Thái Sinh: Thưa ân sư, thầy và con không phải là cảnh sát, làm sao kiểm soát dân cư được?

Tế Phật: Sự kiểm soát dân cư của thầy trò mình khác với sự kiểm soát của cảnh sát. Ở thế gian cảnh sát kiểm soát dân cư chỉ là đối chiếu hộ tịch không mà thôi, còn chúng ta kiểm soát dân cư với thiện ý nên ý nghĩa khác nhau.

Thái Sinh: Thưa ân sư dạy rất đúng, con xin thi hành theo ý thầy.

Tế Phật: Mau lên đài sen, thầy trò mình khởi hành.

Thái Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Muốn kiểm tra dân số phải tìm gặp Thổ Công, Thổ Địa mới dễ dàng có tài liệu để tìm hiểu, so sánh và làm sáng tỏ vấn đề.

Thái Sinh: Thưa thầy dạy rất có lý, Thổ Công và dân cư trong vùng có quan hệ với nhau, do đó muốn biết tỏ tường phải tìm gặp Thổ Công.

Tế Phật: Muốn gặp Thổ Công không khó, bên sườn núi kia có một vị. (Tế Phật giảm tốc độ đài sen đáp xuống, bên sườn núi Thổ Công đang ngồi uống rượu và đàm luận say sưa với mấy vong hồn lương thiện, không ngờ rằng có Tế Phật tới bàng hoàng chẳng biết xử trí ra sao vội vã đứng lên đón chào hỏi han).

Phúc Thần: Hoan nghênh Tế Phật tới thăm, tiếc rằng tiểu thần đón tiếp không được chu toàn xin rộng lòng tha thứ.

Tế Phật: Không ngờ Trần... (Phúc Thần) còn thích hơi men.

Phúc Thần: Quả thật là xấu hổ, xấu hổ, bữa nay may mắn hẹn gặp được mấy bạn hiền tại đây, nên chỉ uống vài chén để vui vầy mà thôi, kính mời Tế Phật ngồi... Còn thưa không rõ đại danh của vị được Tế Phật dẫn đi theo?

Tế Phật: Đó là thiên bút Thái Sinh thuộc Thánh Hiền Đường.

Phúc Thần: A thì ra người ngồi đàn cơ của Thánh Hiền Đường đã được kính phục từ lâu.

Tế Phật: Phúc Thần vẫn được mạnh giỏi chứ? Bữa nay chúng tôi tới đây làm rộn, thật quả là áy náy vô cùng.

Phúc Thần: Thưa không phải vậy, được hân hạnh Tế Phật tới thăm tôi rất lấy làm vinh dự.

Tế Phật: Trần... (Phúc Thần), bữa nay chúng tôi tới đây là muốn tìm hiểu về những điều lành dữ của dân cư trong vùng, để làm tài liệu cho bộ sách trời Nhân Gian Du Ký là cuốn cuối cùng trong ba cuốn nói về ba cõi Thiên Địa Nhân, mong được Phúc Thần hướng dẫn chúng tôi đi dạo thăm quý vùng để biết rõ sự tình.

Phúc Thần: À thì ra nguyên nhân là như vậy, nhưng xin quý vị nghỉ chân một lát, sau đó tôi xin hướng dẫn đi coi xét mọi việc.

Tế Phật: Việc công quá gấp, không thể trì hoãn.

Phúc Thần: Nếu vậy thì chúng ta phải đi ngay. (Tế Phật và Thái Sinh cùng Phúc Thần đi tới khu dân cư).

Phúc Thần: Tôi xin trình bày hoàn cảnh của gia đình này. Vợ chồng họ hòa hợp, con cái thông minh khỏe mạnh, chồng là giám đốc một công ti bán thực phẩm, nên phải điều hành mọi việc của công ty. Người vợ kiếp trước sống hiền lương, luôn luôn giúp đỡ kẻ nghèo khổ, do đó đã gây được nhân tốt cho kiếp này, hiện giờ lại đang tu theo pháp môn “Phật Giáo Tĩnh Thổ” (Đất Phật yên lành).

Thái Sinh: Phước huệ song tu quả là rất hay, đúng là tiêu chuẩn hạnh phúc gia đình.

Phúc Thần: Tiếp theo tôi xin giới thiệu một gia đình bình thường không thiện không ác, chẳng cần nghĩ ngợi nhiều về họ.

Thái Sinh: Hay lắm.

Phúc Thần: Gia đình thứ ba này vốn được phúc báo nhưng nữ chủ nhân từ nhỏ vốn sống cuộc đời xa hoa, không hề biết tiết kiệm là gì, khi lập gia đình, chồng đi làm ở nhà một mình buồn bã vì không có việc gì làm nên đã la cà hàng xóm láng giềng, ngồi lê đôi mách, khẩu đức không tu, tạo nhiều khẩu nghiệp, tiêu diệt phúc đức, đánh mất hòa khí trong gia đình, tương lai con cái sẽ bị ảnh hưởng, người vợ sẽ bị họa. Vợ chồng của gia đình thứ tám này, kiếp trước oan nghiệp chưa giải, kiếp này vợ chồng gặp nhau, do đó gia đình xào xáo, trung bình mỗi ngày cãi lộn nhau đến ba lần, nguyên do đều tại người vợ trong gia đình này lòng dạ quá cay nghiệt, hẹp hòi gây đau khổ nhiều cho người thân. Còn mấy gia đình phía trước không thiện không ác, chẳng cần lấy tài liệu, chúng ta hãy đi về hướng kia để phỏng vấn một số gia đình khác.

Thái Sinh: Vâng, song thưa có phiền lắm không.

Phúc Thần: Không sao, không sao. Cha mẹ trong gia đình này lúc trẻ bần hàn nhưng lại quyết chí nuôi nấng dạy dỗ đàn con nên người, bởi vậy các con hiện thời đều thành thân, gia đình êm ấm hòa thuận và sống rất hạnh phúc. (Thổ Công còn chỉ một gia đình khác). Người chồng của gia đình này là một người tu đạo, hiện tại ăn chay trường, song còn người vợ vẫn chưa chịu tu, vì để tai nghe quá nhiều những lời dèm pha phá hoại đức tin, vả lại chính người vợ trí tuệ chưa đủ nên không phân biệt nổi phải quấy. Tương lai người chồng có thể tu tới quả vị thiên tiên, còn người vợ sẽ bị luân hồi quả báo.

Thái Sinh: Vị tu đạo đó có thường lễ vái Phúc Thần không?

Phúc Thần: Chăm lắm, mỗi lần đi qua miếu thờ, đều có vào thắp nhang khấn khứa.

Thái Sinh: Đó là đức tính của người tu đạo.

Phúc Thần: Có một số người đã tu đạo song vẫn coi thường tôi vì họ tự cho mình là cao, quá duy ngã độc tôn.

Thái Sinh: Cao tăng đắc đạo!

Phúc Thần: Nếu là người cao tăng hoặc người đức lớn qua đây, tôi có nhiệm vụ bảo vệ hộ tống ngay, song tiếc rằng họ chỉ là người có được chút đức mà đã tự cho mình đắc đạo nên mới như vậy.

Thái Sinh: Quả là người thông bác thì luôn luôn khiêm nhường, kẻ dốt nát lại thích tự cao tự đại.

Phúc Thần: Ha ha, đúng lắm, không ngờ Thái Sinh lại có thể lấy một ví dụ chí lý đến như vậy thật đáng kính phục thay.

Thái Sinh: Phúc Thần quá khen, kẻ hạ ngu này còn phải học hỏi nhiều hơn nữa.

Phúc Thần: Thái Sinh quá hạ mình... Chúng ta đi về hướng kia... Gia đình này có một vị kiếp trước là người tu nhân tích đức, kiếp này giáng sinh đất phúc, do đó từ bé được sống sung sướng, đã có sẵn sản nghiệp lại cố gắng kinh doanh nên rất thành công. Gần đây, vì kết giao với một số bạn cờ bạc, nếu như không sớm hồi tỉnh, sự nghiệp sẽ tiêu tan.

Thái Sinh: Hy vọng vị ấy có đủ đức dũng để bỏ tật đó.

Phúc Thần: Nhà này sống chung không hòa thuận nên thường gây gổ với nhau.

Thái Sinh: Như vậy là lỗi tại người nào trong gia đình?

Phúc Thần: Theo tôi thì nàng dâu trong gia đình phải nhẫn nhục chịu đựng, ngược lại mẹ chồng phải coi con dâu như con gái đẻ, rộng lòng tha thứ những lỗi lầm, tự nhiên sẽ san bằng được hố chia rẽ cách biệt, còn không cả hai rất đau khổ. Hiện tại mẹ chồng thường hay nóng giận, áp huyết tăng cao, ngũ tạng suy nhược. Nàng dâu thần kinh não bộ luôn luôn căng thẳng, đưa đến chứng bệnh mất ngủ, từ tâm bệnh đã ảnh hưởng đến thân bệnh, đó là hiện tượng rất tự nhiên.

Thái Sinh: Đó là nghiệp chướng của nhiều kiếp trước.

Phúc Thần: Điều đó kính xin Tế Phật giảng giải giùm cho.

Tế Phật: Tuy là nghiệp chướng, song nếu biết nghe lời của những vị chân tu khuyên giải tự nhiên có thể đổi tính nóng giận thành tính hiền hòa. Nàng dâu nếu biết chân thành sám hối, hiểu đó là nghiệp chướng của nhiều kiếp trước tích lũy sẽ giải được uất khí ở tâm. Không còn thù hận mẹ chồng, tính tình trở nên hiền thục, chứng bệnh mất ngủ không cần thuốc cũng chữa khỏi. Còn mẹ chồng nếu như lúc tuổi còn trẻ mà biết tu tâm dưỡng tính hẳn là tới lúc tuổi già không có tật cố chấp cùng tâm phân biệt để đến nỗi gia đình mất hòa khí.

Phúc Thần: Lời dạy của Tế Phật vô cùng hữu lý, bây giờ chúng ta tới phỏng vấn một gia đình khác.

Thái Sinh: Thưa hay lắm.

Phúc Thần: Gia đình này hiện giờ sự nghiệp đang lên như diều gặp gió, vì có cả một công xưởng lớn đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Chẳng rõ vị chủ nhân này kiếp trước có tu hay không mà kiếp này được sinh nơi phúc địa, chỉ tiếc rằng trong lúc sự nghiệp đang lên lại bắt đầu sống cuộc đời ăn chơi hoang phí, lấy vợ bé giấu kín một nơi, theo tôi thấy chẳng bao lâu nữa sẽ nếm mùi đau khổ.

Thái Sinh: Xin hỏi, dân cư quanh vùng thường lễ bái cầu xin Thổ Công, Thổ Công có gia hộ cho họ không?

Phúc Thần: “Họa phúc không có cửa, do người tự chuốc” (Họa phúc vô môn, duy nhân tự chiêu) họ lễ bái tôi mới chỉ là bày tỏ sự thành tâm mà thôi, còn nếu như không tự mình tu nhân tích đức, chỉ ỷ lại vào sự gia hộ của tôi thì đó là sự tự hại mình; còn nếu giữ được trung hiếu tiết nghĩa, tôi sẽ trình lên cõi Nam Thiên, khi đó hẳn là được tưởng thưởng.

Thái Sinh: À thì ra nguyên nhân là như vậy. Xin hỏi kiếp trước của Thổ Công như thế nào?

Phúc Thần: Ha ha, muốn biết về gia thế của tôi sao? Được, để khuyên răn người đời, tôi xin tường thuật lại. Kiếp trước tôi sống tại Bành Hồ, lúc còn trẻ đã thích làm việc nghĩa, do đó mỗi khi thấy người hoạn nạn cần cứu giúp tôi liền phát tâm ngay, bởi vậy sau khi lìa trần được Minh Vương tưởng thưởng cho ở tại sở Tu Thiện để tu luyện thần thức, rồi được cử tới phục vụ tại đây.

Thái Sinh: Chức vụ của Thổ Công như thế nào?

Phúc Thần: Chức vụ của tôi như cảnh sát ở thế gian, nên trong khu vực này những điều thiện ác xảy ra tôi đều ghi chép đầy đủ rồi trình với Thành Hoàng địa phương, âm phủ và cõi Nam Thiên. Tương lai họ sẽ nhận được sự báo ứng rất là thực tế. Như vậy người đời chớ nghĩ là thiện ác không báo ứng, mà chỉ là chưa tới lúc, còn tới lúc rồi thì chẳng thể tránh thoát nổi.

Thái Sinh: Đa tạ sự chỉ dẫn của Thổ Công tối nay.

Phúc Thần: Không có chi, không có chi, quý đường vì sứ mệnh khuyên răn người đời đã phát tâm viết sách Nhân Gian Du Kí, nên mới cần tìm hỏi những tài liệu thật, việc làm đó rất tốt, tôi rất lấy làm hân hạnh được giúp đỡ quý đường.

Tế Phật: Bữa nay thời giờ đã trễ, hãy tạm kết thúc tại đây.

Thái Sinh: Tạm biệt Phúc Thần.

Phúc Thần: Hy vọng sớm gặp lại.

Tế Phật: Trò ngoan hãy chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.

Thái Sinh: Thưa, con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#27 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 09/09/2011 - 04:38

NHÂN GIAN DU KÝ

HỒI HAI MƯƠI BA

THÔNG MINH GIAN XẢO, NGỤC TỐI ĐỌA ĐÀY KHỔ SỞ TẤM THÂN

AN PHẬN GIỮ MÌNH, CUỘC ĐỜI TỰ DO GIỮA CHỐN NHÂN GIAN

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 3 tháng 6 năm Nhâm Tuất (1982)

Thơ

Nhân sinh phù du chuyển nhãn cận
Tạo nghiệp tội chướng nan tiêu trừ
Hữu triêu nhất nhật lam lao cấm
Bi thán tự sầu dĩ thái trì.

Dịch

Kiếp sống phù du chớp mắt qua
Tạo nhiều nghiệp chướng khó tiêu trừ
Tới ngày ngục tối thân giam cấm
Hẳn quá muộn rồi biết trách ai.

Tế Phật: Ha ha, kiếp người quá ngắn ngủi và tạm bợ, đeo mang thân xác chẳng qua chỉ ít chục năm, do đó cần phải tu sửa, song chúng sinh thường không thực hiện nổi, nên càng sống càng nhiễm bụi trần tanh hôi để rồi đau khổ triền miên. Có nhiều kẻ lại còn tán tận lương tâm làm mọi điều ác độc hại người tới khi gặp họa lao tù mới hối thì chẳng kịp nào. Do đó chỉ một chút sai lầm mà phải lâm vòng địa ngục thì thật quá ngu.

Thái Sinh: Thưa đúng vậy, không chỉ thanh thiếu niên mà cả người đứng tuổi, chỉ vì thiếu suy nghĩ nên thường có những hành động hoang đàng, quả là thiên đàng có lối không ai tới, địa ngục cửa cài lắm kẻ thăm.

Tế Phật: Trò ngoan từng dạo địa ngục nhưng còn cảnh lao tù ở chốn thế gian trò đã tới thăm bao giờ chưa?

Thái Sinh: Thưa ân sư con chưa từng.

Tế Phật: Vậy thì bữa nay thầy dẫn con đi thăm cảnh địa ngục trần gian.

Thái Sinh: Việc đi thăm các cửa ngục trần gian để tìm hiểu quả là khó khăn.

Tế Phật: Hãy tạm ngưng cuộc bàn luận, đã tới giờ khởi hành, mau lên đài sen.

Thái Sinh: Thưa, con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Phía trước là ngục Quy Sơn, tọa lạc giữa một vùng đất rộng, cảnh trí xanh tươi đẹp đẽ hơn cả cảnh địa ngục dưới âm phủ.

Thái Sinh: Quả đúng như vậy, phúc báo của đạo ở trần gian còn nhiều hơn phúc báo của đạo ở địa ngục. À, trên tường phía trước có treo một bức bích họa tả cảnh tiết thanh minh bên sông thật trứ danh.

Tế Phật: Người ta khi làm điều sái quấy không phải hoàn toàn do kẻ đó chủ động gây nên mà còn do hoàn cảnh đưa đẩy, họ cũng có khối óc thông minh và đôi tay khéo léo nhưng tiếc rằng đã sử dụng không đúng chỗ để đến nỗi mắc phải cạm bẫy. Đó cũng là hậu quả sai lầm do sự phản tác dụng của óc thông minh gây nên. Phải chi những người đó biết đem trí não và sức lực của mình phục vụ cho đường ngay, lẽ thẳng thì hẳn là giúp ích được rất nhiều cho tương lai.

Thái Sinh: Thưa lời dạy của ân sư quả là chí lý, sẽ giúp một số kẻ bị xã hội loại bỏ có được cơ hội tốt để xây dựng lại cuộc đời, chớ tưởng rằng họ bị đui con mắt, cụt đôi tay, què hai cẳng, là hoàn toàn vô dụng, bởi lẽ nếu như họ còn có đủ ý chí kiên cường để tiến tới thì vẫn có thể thành công. Bất kể ai cứ không còn mặc cảm thân thể bị tàn phế chắc chắn sẽ được kẻ khác mến phục.

Tế Phật: Tuy thân thể họ bị tàn phế song tâm linh vẫn còn nguyên vẹn, ngược lại những kẻ tội phạm trong chốn nhà lao tuy thân thể còn nguyên song tâm linh lại khiếm khuyết, cho nên ngục Quy Sơn này chỉ là một “dưỡng tâm viện” để mọi người ở đó có dịp tu tâm sửa tính, sau khi xuất viện đương nhiên là một người đường đường chính chính.

Thái Sinh: Bên trong có rất nhiều trường sở công tác, có phòng điện cơ, xưởng in, xưởng cắt may, lại còn có cả phòng chỉ huy phân chia công tác, cùng giúp bệnh nhân có việc làm. Ngoài ra còn thấy có cả khu đồng ruộng xanh tươi do bệnh nhân vun xới trồng trọt.

Tế Phật: Tay làm hàm nhai, tự lực cánh sinh đó là mục đích của đời sống nhân loại, trước kia họ được hưởng nhiều phúc lộc hiện tại phải tới đây lao động để đền bù cũng đáng lắm. Nhiều người đuổi theo cuộc sống hoang đàng xa hoa, ít ai biết tìm cuộc sống thanh nhàn đạm bạc, thiếu quan niệm bình đẳng lợi người lợi mình, làm mất đi hoàn cảnh thuận tiện chung quanh, không tạo nổi cuộc sống hạnh phúc khang an, mà chỉ đẩy đời sống cá nhân, gia đình, xã hội đến chốn sa đọa, tất cả đều thảm bại. Hiện nay chính phủ không những thiết lập công xưởng kỹ nghệ để dân chúng học tập kỹ thuật mà lại còn mở mang các trường học nữa.

Thái Sinh: Thưa mở tại đâu?

Tế Phật: Để thầy dẫn con tới thăm.

Thái Sinh: Thưa vâng. (Tế Phật hướng dẫn Thái Sinh tới quận Tân Trúc để thăm trại thiếu niên trừng giới). Quả nhiên phía trước có một trường dạy về đạo đức, những học viên ở đây hoàn toàn là thanh thiếu niên, thật không ngờ được rằng tuổi còn quá trẻ mà đã bị lãnh án tù đày. Cũng thấy có rất nhiều công xưởng để cho các thiếu niên phạm pháp học về kỹ thuật.

Tế Phật: Thật đáng tiếc nếu như trong hoàn cảnh tốt đẹp này mà không rèn luyện thì quả là đánh mất cơ hội quá may mắn.

Thái Sinh: Thưa ân sư, con thấy có nhiều đứa trẻ ngỗ ngược không chịu nghe lời giáo huấn là tại nguyên nhân nào?

Tế Phật: Trẻ con phần lớn chịu ảnh hưởng tính tình cha mẹ, bởi lẽ bẩm sinh chúng trực tiếp bị chi phối bởi sự hướng dẫn của người dạy dỗ nuôi nấng chúng, do đó nếu như cha mẹ chúng có đời sống tinh thần bình an vui vẻ thì chúng cũng hiền lành ngoan ngoãn. Còn nếu như cha mẹ hay nóng giận, gây gổ thì con cái cũng bướng bỉnh khó dạy, do đó cá tính của mỗi đứa trẻ bị ảnh hưởng bởi cha mẹ chúng, nên cách dạy dỗ hay nhất là người lớn phải làm gương.

Thái Sinh: Thưa, nếu cha mẹ tính tình hiền hòa, song con cái lại ngỗ nghịch thì sao?

Tế Phật: Trường hợp đó không thể nói được vì có quan hệ với vấn đề nhân quả, nên cần phải hết sức nhẫn nại và kiên trì giáo hóa dần dần, không được hành động vội vã nóng nảy, bởi lẽ muốn chuyển hóa được loại nhân quả này phải mất từ ba tới sáu năm, thì tính đứa trẻ mới từ từ thay đổi được, ngoài ra trong thời gian này cũng phải tập cho đứa trẻ quen với tính vị tha. Trường hợp bị nhân quả khảo đảo thì đó là nghiệp chướng vì kiếp trước không tu, nếu như gặp phải cảnh này chớ có oán than mà hãy thành tâm nhẫn nại hướng dẫn chắc chắn sẽ thành công.

Thái Sinh: Thưa phải hướng dẫn như thế nào?

Tế Phật: Người ta khi mới sinh ra tính vốn lành (Nhân chi sơ tính bản thiện), tâm trẻ thơ giống như hạt giống, hãy đem hạt giống đó gieo xuống mảnh đất tốt rồi nhẫn nại cùng để tâm khuyến khích, nó sẽ mọc xanh tươi. Còn đã làm cha mà lại quá bận rộn với công việc khiến bỏ bê con cái chẳng ngó ngàng. Làm mẹ lại thường hay nóng giận, cố chấp có thành kiến, quá nghiêm khắc hoặc quá nuông chiều hay chẳng quan tâm để mặc chúng sống cảnh tự sinh tự diệt. Nuôi con cách trên đều là chưa thể hiện đạo trung hòa, nên mới sinh ra các vấn đề của gia đình. Do đó, nếu như cha mẹ có những hành vi này đều là không biết yêu con mà là hại con. Một số cha mẹ đã không sống gương mẫu lại còn có những hành vi bất chính có ảnh hưởng tai hại tới con cái, tâm hồn chúng luôn luôn như trang giấy trắng. Tai mắt bị nhiễm những thói quen bất lương khó sửa đổi, cho nên phải nuôi con trai thành rồng, con gái thành phượng (Dưỡng tử thành long, dưỡng nữ thành phượng). Đó là tâm nguyện số một của cha mẹ, song cũng cần phải chính bản thân mình làm gương cho con cái noi theo.

Thái Sinh: Thưa ân sư quả đúng như vậy, cầu ở mình thì được mà cầu ở người thì chẳng thành... Những người đó hiện giờ họ đang nằm mộng, hoặc trằn trọc không ngủ nổi vì tâm hồn luôn luôn xao động, họ cũng thường hồi tưởng lại đời sống tự do hạnh phúc trước đây.

Tế Phật: Chỉ những kẻ đã đánh mất tự do mới hiểu được tự do là quý giá; chỉ những ai chịu nhiều đau khổ mới hiểu được hương vị hạnh phúc đậm đà. Cho nên nếu như hiện tại đang được hưởng hạnh phúc tự do mà không tự cho như thế là đủ, còn dùng mọi thủ đoạn để mong hưởng thụ nhiều hơn cho dù phải làm hại người khác hay phá hại luân thường đạo lí thì chớ có nên.

Thái Sinh: Thưa ân sư, trò ngu nghĩ rằng có nhiều người hiếu thắng, tự cao tự đại nên không nhìn thấy sự yếu hèn của mình, do đó đã lập bè kết đảng, trang bị vũ khí cố chứng tỏ là mình mạnh mẽ oai phong là chỉ cốt để che giấu sự yếu hèn.

Tế Phật: Trò ngoan nhận xét rất đúng, sách cũng có nói: “Tưởng thắng được trời, song hại chính mình”. Thiết nghĩ đó là bệnh của chúng sinh cho nên cuối cùng đều tự chuốc lấy sự khổ đau do dục vọng gây nên. Xét tới cùng để tìm hiểu nguyên nhân thì chỉ tại lòng mình còn quá yếu hèn. Thôi, thầy trò mình tới nơi khác phỏng vấn tiếp. (Tế Phật lại hướng dẫn Thái Sinh qua Đài Bắc).

Thái Sinh: A, khu này coi rất rộng lớn, phía trong có nữ phạm nhân.

Tế Phật: Có một số nữ phạm nhân không tự mình phạm pháp mà bị liên lụy bởi chồng, vì đã đứng tên mở trương mục tại ngân hàng, tới khi sự nghiệp kinh doanh phá sản, chi phiếu ký ra không tiền bảo chứng, nên đã vô phúc đáo tụng đình lãnh án ngồi tù, quả là vì tiền bị khốn, vì chồng bị khổ.

Thái Sinh: Nữ phạm nhân phía trước đang khóc lóc thật đáng thương.







Tế Phật: Lí do vì quá thương con, cũng tại kiếp trước không tu nên kiếp này thiếu phước, bởi vậy được tới đây để giải nghiệp là rất tốt. Sau khi xuất ngục hẳn là có kinh nghiệm sống nhiều hơn còn không nếu chỉ sống hạnh phúc thì chẳng thể hiểu được thế nào là đau khổ.

Thái Sinh: Thưa ân sư dạy rằng kiếp trước thiếu tu nên kiếp này bị tội, song có một số kẻ làm ác mà vẫn sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật như vậy quả là thiếu sự công bình.

Tế Phật: Đức Phật dạy: “Ba kiếp nhân quả” nên chẳng thể căn cứ vào họa phúc của một kiếp, bởi vậy không thể nói rằng kẻ phạm tội vẫn sống tự do là may mắn, kẻ phạm tội bị giam cầm là không may mắn.

Trái lại có một số kẻ nhân bị tù tội mà được cứu, hiểu được đạo sống, ngộ được chân lý, đạt được phúc âm; còn kẻ vui sướng sống ngoài vòng pháp luật lại càng lãnh thêm nghiệp chướng đọa đày, xa lìa đạo thiện, làm mất đạo duyên.

Thái Sinh: Thưa ân sư dạy rất đúng... Còn nam tù nhân bị biệt giam tại một căn phòng riêng kia, chân bị xiềng vào góc tường trong thật đáng thương.

Tế Phật: Người đó phạm tội quá nặng nên bị giam riêng.

Thái Sinh: Người đời có lắm kẻ rất dễ sân hận nên nhiều khi chỉ vì một lời nói kích bác nào đó mà nhẫn tâm cầm dao hành hung kẻ khác để tỏ ra là ta đây oai hơn người.

Tế Phật: Những kẻ đó cực kỳ ngu si, giết người tức là tự giết mình, bởi vậy không được cầm vũ khí hành hung người khác, sự hơn thua đó chỉ là hơn thua tạm bợ, vì khi có cơ hội đối phương tức khắc trả thù.

Nên thay vì thắng người bằng lời thì hãy thắng bằng tâm, như chư Tiên Thánh Phật xưa, các ngài không lấy sự nóng giận, sử dụng khí giới để thắng kẻ khác nên lưu danh muôn thuở, đó mới là sự chiến thắng chân chính vậy.

Thái Sinh: Thưa lời dạy của ân sư quả là tuyệt diệu... Thanh niên phía trước vừa tỉnh giấc, mồ hôi chảy ướt đẫm giống như vừa trải qua cơn ác mộng.

Tế Phật: Có kẻ thoạt mới nhìn tưởng là rất dũng cảm, song nếu nhận xét kỹ càng hơn sẽ thấy là nhu nhược, nên cái thứ dũng đó chỉ là dũng bề ngoài của kẻ thất phu mà thôi.

Thanh niên thức giấc mình đẫm mồ hôi vừa rồi gây thù chuốc oán với nhiều người, do đó bị ám ảnh tâm lý hoang mang lo sợ triền miên không làm cách nào rũ bỏ nổi, nên trong giấc ngủ mới thường gặp cảnh chém giết, cạy cửa, chạy trốn, sự dày vò tâm thức này còn khổ hơn cảnh lao tù.

Thái Sinh: Đó là cảnh địa ngục giam giữ tâm linh thật quả đáng thương, chỉ một lần lầm lỡ mà mang hận muôn đời (Nhất thất túc thành thiên cổ hận) lời dạy từ ngàn xưa vẫn còn nhắc nhở, thiết tưởng thanh thiếu niên hiện nay nên quý trọng nghe theo.

Tế Phật: Xin cầu chúc cho họ sớm thoát vòng khổ hải. Tạm ngừng việc viết sách đêm nay tại đây, trò ngoan sửa soạn lên đài sen.

Thái Sinh: Thưa con đã chuẩn bị xong, kính mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#28 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 09/09/2011 - 04:45

NHÂN GIAN DU KÝ

HỒI HAI MƯƠI BỐN

BÀN TU THANH RÕ LẼ TU HÀNH

LUẬN THÀNH HOÀNG LO BỀ THIỆN ÁC

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 6 tháng 10 năm Nhâm Tuất (1982)

Thơ

Vạn lại câu tịch tĩnh tâm kỳ
Nhân Gian Du Ký trước thích thì
Vân du lai khứ hư không giới
Ngộ tại tự kỷ mạc tham si.

Dịch

Náo nhiệt vắng tanh dạ nguyện cầu
Nhân Gian Du ký tiện đào sâu
Xe mây qua lại miền tiên cảnh
Tự giác tham sân hết khổ đau.

Tế Phật: Đêm nay mọi sự ồn ào đều im vắng, người qua lại thưa thớt, chỉ thấy chư đệ tử của Thánh Hiền Đường tâm linh thanh tịnh chờ đón thần linh giáng lâm, nét mặt mọi người thấy đều đầy vẻ từ bi hỉ xả, lạc đạo an nhiên, lãnh phước không cầu trả ơn, lòng ta cảm thấy vô cùng sung sướng. Thế mới biết không phân biệt người đã giác ngộ hay kẻ không tu, tất cả đều hoàn toàn tiến bộ, mong rằng chư sinh Thánh Hiền Đường giữ mãi được tinh thần này trên đường hoằng dương đạo pháp để hoàn thành sứ mệnh lớn lao độ mình và độ người.

Thái Sinh: Thưa ân sư vừa đề cập tới phương diện chăm chỉ lo công phu và hăng hái lo công quả của toàn thể bạn đạo thuộc Thánh Hiền Đường, song vừa rồi có một nữ bạn đạo hỏi về việc hôn nhân của con, và nếu con không lầm thì vị đó có ý đặt vấn đề tu thanh tịnh, vậy kính xin ân sư ban lời chỉ giáo cho.

Tế Phật: Vấn đề này rất ư quan trọng, và tin rằng hầu hết các hành giả hiện diện nơi đây đều ít nhiều thắc mắc, có hành giả đã phát đại nguyện tu thanh tịnh, có kẻ còn đang trong vòng mê hoặc, không biết đi đâu, theo đâu; bữa nay nhân con đề cập đến vấn đề này thì cũng thử tạm bàn luận sơ qua. Kẻ phát nguyện tu thanh tịnh cần có mấy điểm trọng yếu sau đây:

1. Trước tiên phải được sự thỏa thuận của cha mẹ.

2. Không được tự ý hoặc miễn cưỡng tuân theo.

3. Phải có minh sư và bạn đồng tu thanh tịnh hướng dẫn để tránh đi lạc vào đường tà đạo, cùng không bị sự lẻ loi làm nản lòng, thối chí; có như vậy tu thanh tịnh trước sau mới dễ dàng có kết quả, còn không sẽ bỏ dở nửa chừng.

Thái Sinh: Thưa ân sư, nguyên nhân tại sao lại bỏ dở nửa chừng?

Tế Phật: Lý do bỏ dở nửa chừng vì tâm không kiên định nên đã sinh dạ hoài nghi.

Thái Sinh: Kính xin ân sư giảng giải thêm để con được hiểu rõ nghĩa của câu “kiến tư hoặc”.

Tế Phật: “Kiến tư hoặc” có nghĩa là kẻ tu đạo nửa chừng gặp trở ngại phiền hà đã sinh lòng hoài nghi tăm tối, cho nên những gì nhìn thấy, nghe thấy đều có chỗ mê hoặc không thể trừ diệt thì đó là “kiến hoặc”. Cũng có thể tâm não của kẻ tu đạo bị nhiễm tà ý, vọng niệm không trừ diệt nổi thì đó gọi là “tư hoặc”. Hai “hoặc” trên đều là những chướng ngại lớn lao của kẻ tu đạo. Còn nếu như có bạn cùng tu, có minh sư hướng dẫn kỹ càng thì khi “kiến tư hoặc” mới phát sinh, thầy và bạn cũng dùng chính kiến, chính niệm, chính định, cùng chính tư duy giải cho, ngược lại sẽ dễ dàng đi sai đạo lớn, hiểu sai người khác.

Thái Sinh: Thưa ân sư con đã hiểu rõ được rằng tu thanh tịnh chẳng dễ dàng như người ta tưởng.

Tế Phật: Biết dễ làm khó “Tri dị hành nan” do đó kẻ có chí tu thanh tịnh phải dứt bỏ ý niệm vinh hoa, bỏ tâm tính chìm nổi mới có thể nói tới tu pháp môn này, còn không kẻ phát nguyện tu thanh tịnh sẽ bị rơi vào tình trạng động loạn. Nếu như không có minh sư hướng dẫn và bạn cùng tu an ủi, khuyến khích cuối cùng sẽ nản lòng thối chí, bỏ dở nửa chừng.

Thái Sinh: Thưa lời dạy của ân sư rất hợp với đạo trung dung, hi vọng những ai muốn tu thanh tịnh nhờ kinh nghiệm này sẽ đầu đi đuôi lọt không bị trở ngại giữa đường, bỏ quên đạo lớn... Còn như có người đã phát nguyện tu thanh tịnh lại còn muốn xây dựng gia thất cùng sự nghiệp ở đời thì sao?

Tế Phật: Loại người này chỉ có tâm mà không có chí, nếu như đã sẵn có gia đình sự nghiệp thì cũng chớ vì vậy mà buồn phiền, phải cam chịu đọa đày mới có thể đối phó với thực tế, bình tĩnh đi trên đất thực, điềm nhiên chăm chỉ cày bừa, làm lành lánh dữ, chấp nhận nửa thánh nửa phàm thì cũng có thể thành tựu đạo lớn.

Thái Sinh: Ha ha, vấn đề nan giải này, con thiết nghĩ rất nhiều người cảm thấy vô cùng khó khăn, song nhờ ân sư chỉ dạy, tin rằng đối với bất cứ ai dù đã hay chưa phát nguyện tu thanh tịnh đều có được kinh nghiệm vô cùng quý báu.

Tế Phật: Thôi thầy trò mình hãy lo thực hiện công tác.

Thái Sinh: Thưa vâng, con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đêm nay thầy hướng dẫn con tới phỏng vấn thần Thành Hoàng, sắp tới nơi rồi, trò ngoan hãy sửa soạn y phục cho thật ngay ngắn, chúng ta chuẩn bị vào thăm. (Tướng quân canh cửa thấy Tế Phật và Thái Sinh tới vội vàng chạy vô thông báo, lát sau thần Thành Hoàng, thần nghi lễ, và một số tướng quân ra tận cửa nghênh đón).

Thành Hoàng: Hoan nghênh đức Tế Phật tới thăm, bản ty xin ngài tha thứ cho sự chậm trễ.

Tế Phật: Chớ quá giữ lễ, hôm nay chúng tôi vì việc viết sách Nhân Gian Du Ký nên phải tới đây nhờ sự giúp đỡ của quý ty.

Thành Hoàng: A thì ra nguyên nhân là như vậy. (Thần nghi lễ dâng trà thơm trái ngọt). ... Thưa mời dùng.

Thái Sinh: Cảm tạ Thành Hoàng đã tiếp đãi nồng hậu, thưa xin hỏi phía trong sao có tiếng khóc của vong hồn.

Thành Hoàng: Vong hồn bị giam giữ ở căn nhà phía bên trái, vì quá thương nhớ người thân, không cầm nổi sự xúc động nên than khóc, đợi một lát, tôi sẽ hướng dẫn qua coi sẽ rõ.

Tế Phật: Thôi cứ tới xem thử như thế nào.

Thành Hoàng: Vâng được.

Thái Sinh: Thưa chưa được rõ nhiệm vụ của Thành Hoàng ở đây như thế nào, tại sao trong miếu lại có các tướng quân và vong hồn lương thiện qua lại?

Thành Hoàng: Nhiệm vụ của tôi như cảnh sát ở dương gian, vì giữ phần vụ thông tin giữa hai cõi âm dương, cho nên những linh hồn sau khi hồn lìa khỏi xác đều phải tới đây trình diện, rồi sao đó mới chuyển tới nơi khác.

Thái Sinh: À thì ra nguyên nhân là như vậy.

Thành Hoàng: Tiếng khóc Thái Sinh nghe vừa rồi phát ra từ căn nhà này.

Thái Sinh: Tại sao chân của các vong hồn lại bị xiềng xích như thế kia?

Thành Hoàng: Đây là nhà giam các vong hồn lúc sống làm lắm điều tàn ác bất nhân, do đó bị giam giữ tại đây để bản ty điều tra các hành vi tội ác song mới áp giải xuống địa ngục để trừng phạt.

Thái Sinh: Thanh niên này tuổi còn nhỏ cớ sao đã phải tới đây trình diện, có thể đề nghị thanh niên đó thuật lại nguyên nhân làm tài liệu khuyên đời.

Thành Hoàng: Thái Sinh cứ lại gần phỏng vấn tự nhiên.

Thái Sinh: Xin hỏi cớ sao lại bị giam cầm tại đây? (Thanh niên cúi gầm đầu chẳng dám ngửa mặt nhìn lên).

Thành Hoàng: Này Vương... Đây là vị ngồi đàn cơ thuộc Thánh Hiền Đường ở dương gian, bữa nay tới đây phỏng vấn để thu thập tài liệu, vậy hãy mau thuật lại việc đã làm lúc còn tại thế để cảnh tỉnh người đời, bản ty sẽ tường trình với địa phủ, hy vọng sẽ làm giảm khinh hình phạt. (Thành Hoàng sai tướng quân Hắc Bạch mở khóa tay, mở còng chân cho linh hồn).

Vong Hồn: Đa tạ thần Thành Hoàng đã ban ân. Vì thể diện của cha mẹ, xin chớ tiết lộ tên tuổi cùng địa chỉ của tôi.

Thành Hoàng: Được.

Vong Hồn: Nhớ lại những việc tôi đã làm lúc còn tại thế thật xấu hổ vô cùng, bỏ học bỏ hành, tập tính hút sách, rượu chè cờ bạc được một năm cha mẹ mới khám phá ra, tôi đã không chịu hối cải lại còn oán trách song thân là tại sao đã sinh ra tôi, tại sao để tôi sống trên đời, tại sao hai người lại là cha là mẹ. Những ý tưởng đen tối vừa kể trên cứ dằn vặt tâm hồn tôi, từ đó trở đi tôi bắt đầu sống cuộc đời phóng đãng, bỏ cửa bỏ nhà giao du cùng bọn bất lương. Tính tôi vốn hèn nhát xong luôn luôn làm như vẻ ta đây là tay anh chị nên thường gây gổ hiếp đáp những người lương thiện, dùng khí giới hăm dọa người già cả thật thà. Với vẻ mặt hung hãn đầy sát khí khiến người hiền lương sợ hãi, tôi lại tự cho mình rất mực oai phong, vì không ai dám nhìn ngó đụng chạm tới tôi, nên nhân cơ hội này tôi đã trở thành dân anh chị thứ thiệt tại các sòng bài, nhà hàng và khiêu vũ trường, từ đó tôi muốn gì được nấy, ăn nhậu say sưa tối ngày. Vì càng lúc tôi càng ngang tàng ngược ngạo, hành hạ ngay cả các tay em, do đó có lần lợi dụng lúc tôi quá say, chúng đã ra tay thanh toán tôi, vết thương quá nặng thuốc nào cũng không chữa nổi đành chịu thác. Tới lúc tỉnh lại thấy mọi thứ chung quanh hoàn toàn xa lạ, và cuối cùng bị áp giải tới đây. Giờ nhớ lại những hành động đã làm lúc còn tại thế mới thấy tội ác ngập đầu, không những đã không nghe lời khuyên nhủ của các bậc trưởng thượng mà lại còn nhạo báng chê cười, cho những lời dạy đó là những điều ngu xuẩn, nên đã từng mạ lỵ lại như sau: “Thời đại khoa học làm gì có nhân quả, linh hồn chẳng còn tồn tại sau khi chết”. Đến giờ mới rõ là khoa học và đạo đức đều quan trọng, chẳng thể phản bội lương tâm, phá hoại công trình xây dựng... Hiện thời rất đỗi tưởng nhớ công ơn dưỡng dục của cha mẹ. (Nói tới đây oan hồn không cầm nổi nước mắt khóc òa, sau phút trầm lặng oan hồn gạt nước mắt nói tiếp). Thiết tưởng rằng người ta hễ sống trên đời là có nửa phúc để hưởng nửa nghiệp để giải, đức lớn phúc lớn, đức nhỏ phúc nhỏ, song tôi đã đem nửa phần phúc đó tiêu hoang phá hại.

Thái Sinh: Thật không ngờ rằng vong hồn lại có thể nói ra đạo lý thức tỉnh được người đời.

Vong Hồn: Cũng nhờ khi bị giam ở trong ngục mới có dịp tĩnh tâm nên tỉnh ngộ, song hiện nay theo như lời các tướng quân coi ngục thì kiếp sau tôi không thể làm người, sau khi chịu hình phạt ở dưới địa ngục tôi sẽ bị luân hồi làm súc vật, nghĩ tới đây không lạnh mà run. Trước kia mỗi lần thấy gà, vịt, chó bị giết đau đớn rên siết tôi lại thấy sung sướng reo cười thật là tán tận lương tâm, khi đó tôi đâu có ngờ rằng gió nước luân lưu, nếu như kiếp tới tôi phải đầu thai làm chó, hy vọng người đời chớ quá hành hạ xử tệ với tôi... Sau hết tôi thiết tha khuyên người đời chớ có làm những gì tôi đã làm, như không nghe lời cha mẹ, khinh rẻ người khác để rồi có ngày bị đày ải như tôi hiện tại.

Thái Sinh: Nghe lời vong hồn trình bày, lại nghĩ tới một số người chuyên làm ác, bị cảnh sát bắt tại trận, những lời phạm nhân khai ra đều là những bài học cảnh tỉnh người đời, sau khi suy nghĩ lại mới quay về nẻo thiện, sự kiện này quả đã chứng minh cho lời nói: “Chim sắp chết tiếng kêu mới buồn, người sắp thác lời nói mới thiện”. Vong hồn trí não cực kỳ thông minh, song phản tỉnh thì đã quá muộn, thật quả đáng tiếc.

Vong Hồn: Kính xin quý vị giúp đỡ, lạy chào, lạy chào.

Thành Hoàng: Bữa nay vong hồn đã thuật lại tất cả những hành vi xác thực lúc còn tại thế, lại có tâm hối cải nên những lời nói vừa rồi có công dụng cảnh tỉnh người đời, tôi sẽ tường trình đầy đủ mọi chi tiết với Minh Vương để vong hồn được giảm khinh hình phạt.

Thái Sinh: Thưa ân sư, nếu như kẻ phạm tội sau khi coi Nhân Gian Du Kí mà thức tâm quay đầu về nẻo thiện thì liệu có thể giải được nghiệp quả ác báo chăng?

Tế Phật: Vấn đề con vừa đề cập tới rất đúng, cho nên sách có nói: “Người chẳng phải Thánh nên có sai lầm, song biết sửa đổi đức thiện hẳn lớn lắm thay. Vì thanh thiếu niên sinh vào thời mạt thế, trái đất đảo điên con người mê loạn, một chút lỡ lầm bị sóng lớn cuốn xuống biển sâu, mãi mãi bị chôn vùi. Song nếu có dịp gần gũi các bậc trí thức hiền lương, hay được may mắn xem sách Nhân Gian Du Ký này, mà biết được dĩ vãng đã làm những tội cực ác thì tức khắc phải thức tỉnh quay đầu về nẻo thiện, vĩnh viễn dứt tuyệt căn ác, làm người đường đường chính chính. Hướng về đạo lớn quang minh để đền ơn cha mẹ nuôi dưỡng, nỗ lực làm việc để xây dựng sự nghiệp chính đáng, sám hối quá khứ, giúp đỡ kẻ được hạnh phúc, hẳn là sau này tránh được hình phạt khổ đau tại địa ngục, có thể siêu thăng thiên đàng, thoát khỏi luân hồi.

Thành Hoàng: Còn oan hồn ở trong phòng giam kia chẳng thể phỏng vấn, chúng ta qua phòng bên phải là chốn của các vong hồn lương thiện.

Thái Sinh: Các vong hồn ở phòng này tính tình coi có vẻ thoải mái. Xin hỏi vong hồn có thể kể lại đời sống ở trên dương thế đã trải qua không.

Thiện Hồn: Thú thật lúc sống ở dương gian tôi chẳng làm được việc đại thiện, song cũng không bao giờ dám làm điều sái quấy, giữ hòa ái cùng hàng xóm láng giềng nên khi sống được thanh nhàn, sau khi chết được phúc thần dẫn độ tới đây nghỉ ngơi.

Thái Sinh: Quả là rất may mắn, làm người không bỏ mất cương thường, nhân đạo còn mãi, gia đạo còn hoài.

Tế Phật: Vì thời giờ eo hẹp, chúng tôi xin tạm ngưng cuộc phỏng vấn tại đây.

Thành Hoàng: Thưa vâng, tạm biệt Tế Phật cùng Thái Sinh, ước mong sớm gặp lại.

Tế Phật: Trò ngoan hãy mau chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.

Thái Sinh: Thưa ân sư con đã sửa soạn xong, kính mời thầy lên đường.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen.

#29 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 09/09/2011 - 04:48

NHÂN GIAN DU KÝ

HỒI HAI MƯƠI LĂM

SẮC KHÔNG MÊ NGƯỜI, NGƯỜI TỰ MÊ

NGỘ TƯỚNG VỐN KHÔNG, KHÔNG SẮC TƯỚNG

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 3 thánh 7 năm Nhâm Tuất (1982)

Thơ

Sắc tướng bản không ngộ chân tông
Lục trần phi hữu kiến tính vương
Tam tâm tảo khứ quy chính giác
Ngũ uẩn tận trừ khả thần thông.

Dịch

Xé màn sắc tướng giác chân thường
Vứt bỏ lục trần ngộ tính không
Quét sạch tam tâm quy chính giác
Tẩy trừ ngũ uẩn đạt thần thông.

Tế Phật: Từ khi khoa học kỹ thuật phát triển tới nay, sự kiện bạo lực ngày một gia tăng bởi bọn người mê muội chạy theo tiền bạc, địa vị, vinh hoa, sắc đẹp. Song những kẻ chạy theo sắc để rồi bị sa đọa vẫn chiếm số đông. Tuy nhiên vẫn còn một số ít sáng suốt, sớm lo tu đạo, bỏ đời tìm tới động Đào Nguyên, nên giác ngộ được lẽ sắc tướng vốn không, lục trần chẳng có, bữa nay thầy hướng dẫn con tới phỏng vấn các vị đạo sĩ thuộc loại này.

Thái Sinh: Thưa, quả là con có được nhiều may mắn, con cũng tin tưởng rằng hiện tại người đời bị sắc tướng mê hoặc ngày càng trầm trọng khiến nổi khổ đau không thể nào tả xiết, những kẻ không vượt thoát nổi hẳn là đang thiết tha mong được cứu chữa.

Tế Phật: Trò ngoan nói rất đúng, phải là chim đậu trên cao coi xét cảnh mê hồn trận mới thấy rõ được vấn đề, còn đứng dưới thấp mà tuyên bố này nọ chỉ làm lòng người thêm mê hoặc mà thôi.

Thái Sinh: Thưa, bữa nay ân sư hướng dẫn con tới phỏng vấn các vị đại sĩ chân tu, như vậy là con được may mắn đứng ở chỗ cao, đứng ở chốn đạo tâm chăng?

Tế Phật: Đại khái là như vậy, người ta ai cũng có lúc mê loạn, song nếu trừ khử được tâm mê loạn đó thì trí tuệ sáng suốt vốn sẵn có hiển lộ ngay, hãy phân tích nhìn nhận rõ các tướng sẽ thấy được bản tính.

Thái Sinh: Thưa ân sư quả đúng như vậy, con xin theo thầy tới phỏng vấn đại đức có pháp hiệu là “Đại Viên Kính Trí”.

Tế Phật: Hãy chuẩn bị khởi hành, trò ngoan mau lên đài sen.

Thái Sinh: Thưa con đã sẵn sàng, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Vùng ngoại ô này yên tĩnh một cách lạ thường, phần đông dân cư đã yên giấc, chỉ còn một số ít người qua lại trên đường, gia đình đông người ở trong căn biệt thự cổ kính kia cũng đều yên giấc cả rồi.

Thái Sinh: Thưa, người ta đã ngủ yên giấc, ân sư lại còn dẫn con tới đánh thức dậy thì có làm phiền họ lắm không?

Tế Phật: Trò ngoan còn có chỗ chưa rõ, gia đình này có một vị thanh niên ít năm trước đây vì thân thể suy nhược nên đã làm khổ cha mẹ rất nhiều.

Thái Sinh: Thưa lý do tại sao?

Tế Phật: Tại trên đầu chữ sắc có chữ đao, và chữ đao tức con dao này đã cắt hết thịt cùng tinh, khí, thần của thanh niên nọ nên thân thể trở thành suy nhược.

Thái Sinh: Thưa sau này thanh niên đó ra sao?

Tế Phật: Đương nhiên là khổ cha mẹ rất nhiều, vì phải chạy chữa thuốc thang cho con, song căn bệnh không hề thuyên giảm, khiến cha mẹ khốn quẩn trăm chiều, cuối cùng thanh niên này gặp được cơ hội tốt một cách tự nhiên. Vì bữa nọ thanh niên đó tình cờ đi tới Thánh Hiền Đường thấy sách đạo phát không liền thỉnh về đọc rồi phát tâm công phu, công quả thật là chăm, nên đã đuổi được con ma sắc dục ra ngoài bản thể, do đó bệnh không cần thuốc chữa mà khỏi.

Thái Sinh: Ha ha, bệnh tâm phải có thuốc tâm mới trị nổi, thật quả là siêu diệu.

Tế Phật: Hiện thanh niên đó đang ngủ say sưa để thầy niệm chân ngôn mật chú để hồn thanh niên đó xuất ra cho con phỏng vấn.

Thái Sinh: Thưa vâng. (Tế Phật niệm chân ngôn mật ngữ, hồn thanh niên đó xuất ra).

Duyên Sinh: Thưa ân sư mạnh khỏe, trò ngu xin lạy chào.

Tế Phật: Miễn lễ, thầy giới thiệu với con đây là thánh bút Thái Sinh thuộc Thánh Hiền Đường.

Duyên Sinh: A, nguyên lai là như vậy, vốn đã kính phục từ lâu.

Thái Sinh: Thưa sư huynh được mạnh giỏi, bữa nay đệ tới đây mong huynh chỉ giáo nhiều cho.

Duyên Sinh: Thái Sinh quá khách sáo, tôi học đạo chưa được bao lâu, quá khứ lại mắc nhiều lầm lỗi, song may nhờ từ khi được đọc Thánh Hiền tạp chí nên đã tự sám hối ăn năn, nếu không chẳng rõ hiện giờ đang luân lạc tại phương nào?

Thái Sinh: Xin giải thích thêm.

Duyên Sinh: Nói ra càng thêm mắc cở, chi bằng không nói hay hơn.

Tế Phật: Trò ngoan bữa nay Thái Sinh đến đây là để phỏng vấn về quá khứ của trò, nếu như bữa nay trò không tường thuật lại thì lấy gì làm bằng chứng khuyên răn người đời, để họ cũng có thể tự ăn năn hối cải như trò?

Duyên Sinh: Thưa lời dạy của ân sư rất phải, song không lẽ trò ngu lại tiết lộ bí mật của đời mình để cho thiên hạ bàn tán trong lúc trà dư tửu hậu được sao?

Tế Phật: Trò ngoan, điều đó chớ quan tâm vì họ tên và địa chỉ của trò được giấu kín.

Duyên Sinh: Ân sư đã dạy như vậy thì trò ngoan xin vâng lời, song không rõ là nên bắt đầu câu chuyện từ khoảng thời gian nào?

Tế Phật: Nên thuật lại khoảng thời gian trò trụy lạc.

Duyên Sinh: Thưa vâng, khi còn trẻ vì có tật ham chơi và tính hiếu kỳ nên thường lén mua sách báo khiêu dâm về coi, do đó mắc chứng ưa dâm dục quá nặng, khiến tinh thần suy nhược không thể tự chủ, đã vô tình phá tán ba báu vật tinh, khí, thần. Tới khi cha mẹ hay được thuốc thang chạy chữa nhưng vô hiệu quả. Đang khi tôi vô cùng thống khổ vì căn bệnh càng lúc càng ngặt nghèo thì có một bữa nọ tình cờ tôi đi tới một ngôi đền nọ, thỉnh được một số sách đạo đem về đọc nên hiểu được cái lẽ tu tâm dưỡng tính, tránh được sự quấy nhiễu của ngoại duyên. Cuối cùng nửa năm trước đây tôi đọc sách Nhân Gian Du Ký tới hồi thứ sáu, được ân sư Tế Phật giảng giải và phân tích rõ về sắc đẹp, đã giúp tôi tỉnh ngộ rất mau lẹ, từ đó tôi mới hiểu rõ về nữ sắc, không còn bị sắc đẹp ma quái chi phối nữa.

Thái Sinh: Thưa sư huynh đã tu và tự đạt giải thoát, huynh quả là một đấng trượng phu, vượt thắng trăm ngàn kẻ khác đang đắm chìm trong biển ái dục, song xin hỏi, huynh đã cắt lìa những dây tình trói buộc của nữ sắc đó như thế nào?

Duyên Sinh: Nếu tôi trình bày cặn kẽ e quá dài, tôi cũng không biết bắt đầu từ đâu. Tôi trước kia vốn thấy sắc đẹp là say mê ham muốn, có lẽ vì xem quá nhiều sách báo khiêu dâm nên bị kích thích quá mạnh khiến tâm thần mê loạn. Về sau, nhờ trầm tư quán tưởng tôi trấn tĩnh được tinh thần, cuối cùng nữ sắc có gì đáng mê say đâu mà khiến con người phải điên đảo quay cuồng như vậy, và tôi cứ tiếp tục thâm cứu sự quan hệ vi diệu đó mãi, cuối cùng tôi mới khám phá ra rằng nữ sắc vốn không.

Thái Sinh: Sự khám phá của huynh rất ơn ích cho người đời vậy xin huynh phân tích lại cho được tỏ tường hơn.

Duyên Sinh: Thưa được, tôi xin phân tích sự kết quả đó như sau: Nữ sắc vốn tự nó không có gì là quan trọng cả bởi lẽ các tướng của nữ sắc, đều do người ta tô điểm, cộng thêm tính mê say vốn có trong mình nam giới tạo nên. Ví như gặp một thiếu nữ xinh đẹp nào đó trên đường phố, nàng mặc đồ mỏng hở hang, đầu xức nước bông, má môi đánh phấn thoa son, cặp giò mang vớ mỏng, chỉ có vậy mà trở thành một bức hình mỹ nhân nõn nà khiến nam giới thèm khát đến nỗi có thể ăn tươi nuốt sống, thành ra những thứ đồ trang sức. Đã là lý do chính làm thanh niên chú ý, thậm chí có một số kẻ chỉ vì say mê vẻ đẹp bề ngoài này mà tâm lý biến thái sinh bệnh nặng, thân xác khô héo gầy mòn. Có nhiều trường hợp cũng chỉ vì ham mê sắc đẹp mà trở thành kẻ cuồng bạo sát nhân, xây nhà vàng chứa vợ bé, bỏ vợ lớn gây sóng gió cho gia đình, phá hoại luân thường đạo đức của xã hội, thật quả là vấn đề nan giải. Vẻ đẹp bề ngoài của nữ giới làm mê mẩn lòng người, chẳng khác nào nhện giăng lưới mê hồn, dẫn dụ một số ruồi nhặng hiếu kỳ tự lao đầu vào bẫy. Nếu như muốn bài trừ thứ sắc tướng đó, chỉ cần sử dụng phương pháp quán tưởng để mở trí quan sát, sẽ thấy được rõ mọi khía cạnh và sau đó sẽ hiểu được rằng mình mê say phái nữ là chỉ mê say cái vẻ đẹp trang sức bề ngoài cùng thân xác ngọc ngà, phấn son của họ. Nếu say mê cái vẻ trang điểm bề ngoài như áo quần hở hang họ mặc do tơ sợi dệt thành thì tại sao nhìn tơ sợi lại không mê? Mê vì đôi vớ mỏng thì tại sao khi vớ còn là tơ sợi tại xưởng dệt lại không mê? Mê vì phấn son nhưng phấn son chỉ là hóa chất pha chế, thì tại sao lại không mê hóa chất? Mê vì thân xác ngọc ngà thì thân xác đó cũng bằng da bằng thịt, ngoài ra chẳng còn sức quyến rũ nào khác hơn, thành ra thân xác đó cũng giống tựa đồ sứ chén kiểu, thân thể dẫu mềm mại cũng chưa chắc mềm mại hơn nổi lụa the. Cho nên “Sắc không mê người, người tự mê”. Sắc đẹp sở dĩ có chẳng qua là do cảm giác sai lầm của ý thức chính mình tạo ra mà thôi.

Thái Sinh: Ha ha, bởi vậy trong sách Tây Du Ký nổi danh có cảnh Trư Bát Giới vì tham sắc chịu phiền não, là cốt để làm gương cho đời hầu cảnh tỉnh những kẻ hiếu sắc khỏi bị ngoại vật giả tạo cám dỗ, làm lu mờ mất bản tính chân thật, khiến tự chuốc đau khổ vào mình.

Duyên Sinh: Có một số kẻ mù quáng, mê mẩn lao đầu vào các động để hưởng thụ được khoái lạc, song nếu biết suy ngẫm tìm hiểu kỹ càng, sẽ nhận chân ra rằng những cảnh sắc mê lý đó vốn giả tạm nên chẳng thể tồn tại.

Thái Sinh: Sư huynh phân tích về sắc tướng quả là cao minh, tin rằng những điều vừa trình bày có thể giải cứu được rất nhiều kẻ mê lầm.

Duyên Sinh: Thái Sinh chớ quá khen, sở dĩ tôi mở được trí là nhờ cố gắng nghiên cứu học hỏi lý đạo cao sâu. Cũng xin tỏ lòng kính mến chư tín hữu Thánh Hiền Đường đã dốc tâm vì đạo pháp.

Thái Sinh: Thưa bản đường chỉ mới có chút cố gắng vì xã hội mà thôi, tin rằng chỉ những bậc Thánh đạo cao đức rộng vô tiền khoáng hậu mới có đủ tài để người đời kính phục.

Tế Phật: Bữa nay thời giờ đã trễ, đối với vấn đề sắc tướng chúng ta đã nghiên cứu rất sâu xa, bởi vậy khuyên nữ giới nước nhà, về phương diện trang điểm phải làm cách nào phù hợp với đức tính đoan trang hiền thục của truyền thống dân ta, chớ nên phấn son lòe loẹt, quần áo ăn bận hở hang để mê hoặc nam giới. Phải biết phòng ngừa sự nguy hại, trước là đối với bản thân mình sau là đối với người xung quanh và xã hội, hy vọng thanh niên đang đắm say sắc đẹp hãy dùng kiếm trí tuệ cắt đứt tơ tình, hầu tránh mọi sự tai hại do sắc đẹp gây nên, để khỏi thân bại danh liệt.

(Tế Phật an thần định phách cho Duyên Sinh, Duyên Sinh trở lại giấc ngủ bình thường, Tế Phật và Thái Sinh sửa soạn kết thúc cuộc hành trình).

Tế Phật: Thái Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.

Thái Sinh: Thưa vâng, con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#30 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 09/09/2011 - 04:51

NHÂN GIAN DU KÝ

HỒI HAI MƯƠI SÁU

THÁNH ĐẢN VƯƠNG MẪU, NHÂN GIAN HỘI HỌP MỪNG TUỔI THỌ

NGÀY LÀNH PHỔ ĐỘ, ĐỊA NGỤC THIỆN HỒN HƯỞNG TỰ DO

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 19 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1982)

Thơ

Quỷ môn đại khái đăng phổ độ
Trung nguyên khải tán hồn bất cô
Vu Lan Bồn hội xứ xứ hữu
Kinh sám tế điển bạt khổ đồ.

Dịch

Mở cửa âm ty độ quỷ hồn
Mừng rằng tháng bảy hết cô đơn
Vu Lan lễ lớn nơi nơi có
Sám hối nguyện cầu sạch khổ oan.

Tế Phật: Thời gian quá mau, chớp mắt trò ngoan đã công phu công quả tại Thánh Hiền Đường được sáu năm rồi, trong sáu năm qua đó, giữa trạng huống nửa Thánh nửa phàm, trò đã hy sinh phục vụ quá nhiều, có thể nói là tinh thần đó rất đáng khen ngợi. Nhìn lại các bạn đạo hiện nay, không phải là thiếu đức tin song vì sức không đủ nên thường thường công phu công quả được khoảng nửa năm đành phải tạm ngưng, do đó ta rất đỗi buồn lòng, cũng có thể bởi đạo khó hành khiến người đời sinh nản chí.

Thái Sinh: Thưa ân sư vì vậy mà sách có câu: “Đạo lớn bao la, cửa Thánh chật hẹp”.

Tế Phật: Đúng lắm, song bữa nay khoan bàn chuyện đó, trò ngoan có rõ tháng này gặp lễ lớn nào không?

Thái Sinh: Thưa lễ rằm tháng bảy.

Tế Phật: Đúng rồi, hàng năm cứ tới ngày này mỗi nhà đều vô cùng bận rộn, các cửa tiệm buôn nhờ vậy mà phát tài, sự phổ độ đã tạo thành cảnh náo nhiệt này thì há chẳng vui lắm sao. Chắc chắn cả hai cõi âm dương đều vậy cả.

Thái Sinh: Thưa ân sư dạy không đúng, con không tin người trần cũng muốn phổ độ.

Tế Phật: Ha ha, hồn cõi âm thưởng thức hương vị, người cõi trần ăn các thức sau khi cúng lễ há chẳng phải cả hai cõi đều độ sao?

Thái Sinh: A, nguyên nhân là như vậy, trong tháng bảy này tin rằng miệng phúc chúng sinh đều no nê.

Tế Phật: Tháng này là đại lễ phổ độ, tuy cửa quỷ mở lớn song những âm hồn bị tội nặng ở địa ngục vẫn chẳng được phép trở lại dương gian hưởng lộc. Còn ngoài ra rất nhiều hồn quỷ được lên cõi trần hưởng phước.

Thái Sinh: Thưa ân sư, bữa nay là ngày rằm tháng bảy có thể phỏng vấn một số hồn được không?

Tế Phật: Được, rằm tháng bảy này khắp nơi tổ chức lễ lớn, ngoài ra cũng là ngày thánh đản của đức Vương Mẫu Nương Nương, do đó thầy nhân cơ hội này hướng dẫn trò ngoan tới cung Vương Mẫu phỏng vấn một số cô hồn.

Thái Sinh: Đa tạ ân sư, quả là không cầu mà được.

Tế Phật: Mau lên đài sen, chuẩn bị khởi hành.

Thái Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã tới nơi, trò ngoan xuống đài sen.

Thái Sinh: Nơi đây tiếng cầu kinh vang rền, cô hồn tới tới lui lui, đồ cúng bày biện đầy bàn, tạo thành cảnh tượng vô cùng náo nhiệt, trên đài có pháp sư đang tụng kinh sám hối, có một số cô hồn đang tập trung tinh thần lắng nghe lời giảng kinh thuyết pháp, tuy nhiên vẫn còn một số cô hồn khi nghe tiếng kinh không cảm thấy có hứng thú.

Tế Phật: Đây là cung..., hiện tại các tín đồ đang lễ lạy để mừng thánh đản của đức Vương Mẫu Nương Nương, lễ này tổ chức ba ngày liền, bữa nay là ngày thứ hai, vị chủ trì đã ra nghênh đón, con sửa y phục cho ngay ngắn để chuẩn bị vô trong nhận lễ tiếp đãi.

Thái Sinh: Thưa vâng. (Có ba vị thần ra khỏi cung nghênh đón Tế Phật cùng Thái Sinh vào, Vương Mẫu Nương Nương ra lệnh cho kẻ hầu hai bên chuẩn bị trà thơm trái ngon tiếp đãi).

Tế Phật: Quả là làm phiền quý vị quá nhiều, bữa nay chính gặp ngày thánh đản của đức Mẫu Nương, do đó tôi hướng dẫn trò ngu Thái Sinh tới đây để chúc mừng, cùng tham quan để viết sách Nhân Gian Du Ký.

Vương Mẫu: Hết sức hoan nghênh, Thánh Hiền Đường vì nhiệm vụ phổ hóa đạo pháp đã không quản gian khổ khiến mọi người khâm phục, Tế Phật cùng Thái Sinh cũng rất nhọc nhằn.

Tế Phật: Không sao, không sao, mỗi người một nhiệm vụ, há lại quản nhọc nhằn.

Vương Mẫu: Tế Phật chớ quá khiêm nhường

Tế Phật: Trò ngoan, vì thời giờ quý báu, con hãy mau theo hai vị tướng quân ra ngoài tham quan cùng phỏng vấn, còn thầy ở lại đây với Vương Mẫu Nương Nương nghỉ ngơi ít phút.

Thái Sinh: Thưa vâng. (Thái Sinh theo chân hai vị tướng quân ra ngoài).

Tướng Quân: Để tôi kêu mấy cô hồn tới cho Thái Sinh phỏng vấn.

Thái Sinh: Thưa vâng. Vị Vương Mẫu Nương Nương này do người đời đảm trách để đại biểu cho đức thánh Vương Mẫu Nương Nương chính thức tại cõi trời. (Tướng Quân đã kêu được mấy cô hồn tới)... Cô hồn trẻ thơ phía trước, bữa nay được dự lễ, tâm hồn cảm thấy vô cùng sung sướng.

Cô Hồn: Thưa đúng vậy, tôi bị giam tại thành Uổng Tử, nay nhờ dịp lễ phổ độ này những vong hồn nào tội không quá nặng đều được trở lại dương gian tham dự lễ rằm tháng bảy.

Thái Sinh: Cô Hồn tuổi còn quá nhỏ, vì nguyên nhân nào đã sớm thác?

Cô Hồn: Có lần chơi trên sông vì không cẩn thận nên bị chết đuối, bởi tuổi thọ trên dương thế chưa hết nên chỉ bị tạm giam tại thành Uổng Tử, bữa nay nhân dịp lễ thánh đản đức Vương Mẫu Nương Nương tôi mới được phép tới đây tham dự. Tuy nhiên để tránh cảnh chuột loạn chạy khắp nơi xảy ra, Tướng quân âm ty giám hộ chúng tôi kỹ càng, chúng tôi không được vượt ra ngoài phạm vi đã ấn định, kẻ nào không tuân lệnh bị trừng phạt ngay tức khắc.

Thái Sinh: Còn vong hồn thứ hai kia cũng tới đây dự lễ phải không?

Vong Hồn: Thưa phải, kể từ mồng một tháng bảy trở đi, chúng tôi được phép trở lại dương gian.

Thái Sinh: Tại sao vong hồn đặc biệt tự do như vậy?

Vong Hồn: Bởi vì lúc còn tại thế vô công vô đức, cuộc sống bình thường do đó sau khi chết bị đưa tới khu bình dân lo công tác, tháng này gặp kỳ rằm tháng bảy nên chúng tôi được thả tự do một tháng.

Thái Sinh: Thật không ngờ vong hồn cũng được nghỉ một tháng thư thả như người trần ở dương thế.

Vong Hồn: Thưa trong suốt một tháng này, tôi được tham dự rất nhiều cuộc lễ.

Thái Sinh: Khi các vong hồn sinh hoạt tại dương gian, bá tính có bị nhiễu loạn không?

Vong Hồn: Thưa không, bởi lẽ trong tháng bảy, ngày đêm các Thần đi tuần khắp nơi, vả lại lúc còn sống tại dương thế, cũng như sau khi chết tại âm phủ lúc nào vong hồn cũng phải tỏ ra lương thiện mới có được sự tự do đặc biệt và vinh hạnh này. Nếu như khi tới cõi dương không biết giữ gìn phạm phải lỗi lầm, lúc trở lại cõi âm chắc chắn sẽ bị xử phạt nặng nề.

Thái Sinh: À thì ra nguyên nhân là như vậy, cám ơn vong hồn đã giúp tôi thực hiện cuộc phỏng vấn vừa rồi. (Thái Sinh lại phỏng vấn tiếp một vong hồn trẻ thơ khác).

Thái Sinh: Em bé này, tại sao toàn thân em lại mang đầy sẹo?

Vong Hồn: Khi còn sống, nhà tôi bị hỏa hoạn do đó tôi bị chết cháy, hiện thời tuổi thọ của tôi chưa hết nên tôi còn được ở lại thành Uổng Tử.

Thái Sinh: Em sống ở thành Uổng Tử có khổ lắm không?

Vong Hồn: Những vong hồn bị chết vì tai nạn được tạm giam tại khu nhà lớn có vườn rộng giống như thành Uổng Tử để đợi Minh Vương phán quyết. Lúc mới bắt đầu bị giam tại thành Uổng Tử, vì xa cách người thân nên rất đỗi đau khổ, song hiện nay đã kết giao được với vài người bạn tri kỷ bởi vậy có thể tạm thích ứng được với hoàn cảnh, do đó cũng bớt đau khổ.

Thái Sinh: À thì ra nguyên nhân là như vậy, xin chúc gặp nhiều may mắn. Còn nữ vong hồn kia coi vẻ rất đói khát.

Tướng Quân: Nữ vong hồn này lúc sống tham sân quá độ, không tiết kiệm ngũ cốc, hoang phí đồ ăn quá nhiều, sau khi chết bị giam tại ngục đói khát, song cũng nhờ có con gái ở dương gian đầu cửa Thánh chăm lo học đạo, do đó mà vong hồn này mới được may mắn tham dự lễ mừng thọ đức Vương Mẫu Nương Nương.

Thái Sinh: A thì ra nguyên nhân là như vậy. (Hai vị tướng quân lại hướng dẫn Thái Sinh trở lại sảnh đường).

Tế Phật: Trò ngoan sau khi phỏng vấn, cảm tưởng ra sao?

Thái Sinh: Thưa ân sư con cảm thấy nhân quả, thiện ác, báo ứng hoàn toàn có thật, trời hoàn toàn không thiên vị một ai, cho nên nói: "Làm phúc được phúc, làm ác bị ác, chứ nghĩ trời không có mắt, kỳ thực thiện ác phản ảnh, điều lý rất phân minh, một chút không sai chệch, cho nên kẻ lúc sống làm ác, chớ giữ ý niệm cầu may mắn thoát nghiệp, người làm thiện chớ để tâm lo sợ không được phước báo".

Tế Phật: Đúng vậy, bữa nay sau khi trò ngoan có được một số nhận thức mới mẻ, hi vọng trò sẽ có thể dùng nó để khuyên người đời bỏ ác theo thiện, đó cũng là ý nghĩa đẹp đẽ nhất của việc viết sách Nhân Gian Du Ký, cuộc vân du của thầy trò mình đêm nay tạm ngưng tại đây. Trò ngoan hãy lạy chào từ biệt Vương Mẫu Nương Nương. (Vương Mẫu Nương Nương cùng chư vị Thánh Thần tiễn đưa Tế Phật cùng Thái Sinh rời khỏi cung).

Tế Phật: Trò ngoan hãy lên đài sen, chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.

Thái Sinh: Thưa ân sư con đã sẵn sàng, kính mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.






Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |