Jump to content

Advertisements




10 BÍ QUYẾT TRONG QUÁ TRÌNH TU TẬP


2 replies to this topic

#1 thaiduong271

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 217 Bài viết:
  • 472 thanks

Gửi vào 12/07/2017 - 16:26

1)+ Hỏi : Tôi có nghe nói về đạo pháp , định tìm một pháp môn nào đó để tu tập nhưng không phải biết bắt đầu từ đâu , chuẩn bị những gì ? Tôi phải làm gì khi bắt đầu những bước đầu tiên trên con đường hành trì tu tập
+ Đáp : Đạo pháp thì rộng lớn vô biên , có nhiều cách thức định nghĩa , phân chia hay định lượng . Ở đây ta tạm thời phân tầng theo một cách đơn giản đó là :

quỷ đạo( súc sinh đạo ) - nhân đạo - thiên đạo- phật đạo

Thấp nhất là quỷ đạo , cứ thế tăng dần lên nhưng ta cần lưu ý rằng mỗi một tầng thứ có một số pháp môn phù hợp với chuẩn mực của tầng thứ đó .... Một số điều được coi là bình thường với quỷ đạo thì lại là điều rất kinh tởm với nhân đạo , một số điều là thường tình với nhân đạo lại là quá thô tục khi so nó với thiên đạo - phật đạo.... ngược lại nhiều khi chuẩn mực của thiên đạo - phật đạo lại có những thứ khó mà được chấp nhận bởi nhân đạo . Ở đây ta lấy một so sánh cơ bản giữa khổng giáo ( nhân đạo) và phật giáo là phạm trù hôn nhân - tình yêu . Trong văn hóa khổng giáo thì chữ hiếu được coi là hàng đầu và việc hôn nhân để có người kế tự là điều bắt buộc so với chuẩn mực đạo đức của nó để thể hiện sự hiếu nghĩa nhưng với phật giáo (hạng xuất gia ) thì hôn nhân bản thân nó lại là một trở lực , rang buộc .Nói chung ta có thể hiểu một điều đơn giản là nhân loại có nhiều cấp độ phát triển khác nhau nên thứ được coi là tốt với một số hạng người này thì nhiều khi lại có hại cho hạng người khác . Khi xưa các bậc thánh sư căn cứ vào từng mức tiên hóa của môn đồ mà giảng cho họ những giáo pháp thích hợp với mức tiến hóa của họ . Trong phật giáo có nói tới Đức Quan Âm Bồ Tát thị hiện 32 ứng thân tùy từng chúng sinh mà giảng hóa cho họ .

Khi đã có được cái nhìn tổng thể như thế rồi ta bắt đầu bước tiếp theo đó là quá trình tự tìm tòi để tự biết mình...... tự biết mình là điều cực kì quan trọng , nếu ta không tự biêt mình thì ta cũng không thể chọn pháp môn phù hợp với mức phát triển của ta được . Thử hình dung trẻ cấp 1 không thể học kiến thức của sinh viên đại học cũng như sinh viên cũng không thừa thời giờ mà rảnh rỗi đi tập đọc tập viết . Pháp môn tốt nhất không phải là pháp môn cao nhất mà là pháp môn phù hợp nhất với năng lực tiếp thu của bạn . Nhưng thế nào là tự biết mình , ta tạm thời chia làm 3 bậc như sau :

a) Bạn lấy ra một tờ giấy rồi tự kiểm kê lại xem mình có bao nhiêu tiền , bao nhiêu bạn bè , nhà cửa , xe cộ.... cao hơn thì có thể làm 1 số bài trắc nghiệm về hệ số IQ hay EQ..... Đây là sự tự biết mình của người bình thường

b )Bạn tự lập lá số tử vi hay chiêm tinh , thông qua nó bạn có một phác đồ về toàn bộ cuộc đời mình qua đó bạn có thể chủ động sắp xếp cuộc đời cho phù hợp với vận số của bạn . Những lúc may mắn bạn tích cực làm ăn , kết hôn, làm nhà , tu tập v.v.... Những khi đen đủi bạn cẩn thận đề phòng trong mọi sự để tránh tổn thất tối đa hết mức có thể. Theo thuyết nhân quả nhà phật thì muốn biết kiếp trước bạn làm gì chỉ cần nhìn kiếp này bạn ra sao thì sẽ rõ , điều đó đúng nhưng cũng khá chung chung . Khi một con người sinh ra thì lá số tử vi của họ là sự thể hiện rõ nhất định nghiệp ( mức trang trải nhân quả ) mà trong kiếp này họ phải trả .... Hiểu biết về định nghiệp rõ ràng cũng giúp cho ta có thể "liệu cơm gắp mắm" một cách hiệu quả... Đó là sự tự biết mình của bậc đại trí tuệ

c) Thông qua ngũ thông hay lục thông mà có thể biết nhân quả nhiều đời về trước , thấy được nút thắt của sợi dây nhân quả xuyên suốt nhiều kiếp sống qua đó dễ gỡ ra để có thể trả nợ nhân quả một cách nhanh nhất sao cho có thể nhanh chóng thoát khỏi tam giới lục đạo luân hồi ... Đây là sự tự biết mình của bậc thánh sư

Loại (a) thì ai cũng tương đối dễ dàng làm được nhưng 2 loại (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

và © không phải ai cũng có năng lực để thực hiện... Tuy nhiên với những người mộ đạo và có duyên lành thì có thể có may mắn gặp được hai hạng người (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

và (c ) qua đó có thể nhờ họ chỉ dẫn cho con đường sáng để đi , tránh được việc lãng phí nhiều công sức và thời giờ , tiền bạc một cách vô ích mà lại tăng được tính hiệu quả của công việc

2> +Hỏi : Trong quá trình tu tập , có cách thức hay phương pháp gì bổ trợ cho mau chóng nâng cao trình độ bản thân không ?
+ Đáp : Có 1 số cách thức và một số điều cần lưu ý sau
- Ăn chay : ngoài việc thể hiện lòng từ bi của mình với chúng sinh , ăn chay còn có tác dụng tạo nên một cấu trúc tâm thể tinh khiết hơn so với ăn mặn . Ngoài thể xác mà chúng ta biết tương đối rõ ràng ra , cấu trúc tâm thể con người còn có các thể thanh ( phách , vía , hồn...) mà khoa học hiện nay chưa có các thiết bị kiểm chứng được nhưng từ xưa nhiều tôn giáo đã biết đến. Ăn chay tức là tác động đến các các thể thanh này, khi các thể này tinh khiết hơn ta sẽ có sự nhạy cảm hơn với các tác động từ cõi tâm linh
-TrẢ nghiệp : Nhà phật có nhắc tới ngũ giới , nhưng ngay cả khi bạn đã tuân thủ đủ thì nó cũng chỉ giúp bạn không tạo thêm nghiệp ác trong kiếp này thôi .... Các ác nghiệp còn tích lũy trong các kiếp quá khứ nó vẫn còn đó và bạn vẫn phải trả không sớm thì muộn vì thế bạn cần
a) Tích cực làm nhiểu việc thiện như bố thí , làm công quả , giúp đỡ người khác , bài trừ cái ác v.v..... Coi như đó là cách mà bạn tích "phúc"..... "phúc" cũng có thể coi như một dạng tài sản của bạn trong thế giới tâm linh vậy và khi cần nó có thể được dùng như một hình thức trả nợ nhân quả ... "Phúc" của bạn càng lớn thì bạn càng có cơ hội thanh toán các món nợ tiền kiếp càng nhanh
b)Thường thì chúng ta ít khi biết kiếp trước mình nợ nần những ai nên nếu có may mắn gặp được nhưng người có năng lực tâm linh cao ta có thể nhờ họ soi kiếp cho qua đó ta có thể biết đích xác chủ nợ của mình để có thể trả nợ đúng nơi đúng chốn tránh lãi mẹ đẻ lãi con
c) Bản thân ta còn chịu cộng nghiệp chung của cả dòng tộc hay quốc gia , xã hội mà ta đang sống . Nghiệp của 1 tập thể là nghiệp của nhiều cá nhân trong đó cộng lại .... Mỗi người trong tập thể đó nên ý thức được điều đó , tích cực trả nghiệp vừa là thể hiện trách nhiệm với bản thân cũng như trách nhiệm với cả tập thể mà ta ở trong đó
-Sự hiểu biết : Trong thực tiễn cuộc sống ta thấy 1 số hạng người họ tiến rất nhanh trên con đường tu tập , một trong những lý do là họ hiểu rất rõ bản chất và các nguyên lý của các pháp môn mà họ đang hành trì . Nói thì hơi khó hình dung nhưng ta thử lấy một thí dụ như phép "thiền định " chẳng hạn . Thiền có trong rất nhiều tôn giáo như Ấn giáo , Phật giáo , Đạo giáo hay như trong các môn yoga v.v..... Ngồi thiền cần tập trung vào 3 khía cạnh
/ Điều thân ( tư thế cơ thể chính xác) (a)
/ Điều khí ( cách hô hấp đúng ) (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


/ Điều tâm ( giữu tâm trí tĩnh lặng hay an định ) ©

2 điều a và b thì cần có thầy chỉ dẫn cụ thể ta mới thực thi hiệu quả được như điều c thì ta có thể chủ động tập trước khi không có thầy cũng được...... người ta hay ví "tâm viên , ý mã " tức là cái tâm cứ như con khỉ , cái ý cứ như con ngựa ,chúng luôn loạn động không cách nào yên nên trước tiên người ta chủ trương
"Lấy nhất niệm thay cho vạn niệm (x) , sau đó lấy vô niệm thay cho nhất niệm (y) "
giai đoạn (x) thực ra chính là rèn luyện sự tập trung (nhất tâm) ... Muốn rèn nó ta có thể vận dụng vào ngay trong cách thức sinh hoạt và làm việc hàng ngày . Một vận động viên tập trung hoàn toàn vào một động tác - một khoa học gia tập trung hoàn toàn vào một mệnh đề khoa học - một nhạc sĩ tập trung hoàn toàn vào một bản nhạc... Như vậy bạn thấy đấy , ta có thể tranh thủ "tu" ngay trong cuộc sống thường nhật , rất nhiều điều mà ta có thể tranh thủ để tự rèn luyện mình trước khi có cơ hội gia nhập một thiền viện hay đạo viện nào đó . Khi bạn đã tự trang bị được những nền tảng cơ bản rồi , bạn sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian và công sức cho chính bạn và vị thầy hướng dẫn của bạn.....
3>+Hỏi : Sự khác biệt cơ bản giữa khoa họctôn giáo , duy vậtduy tâm là gì ?
+Đáp : Ta hãy lấy 1 ví dụ minh họa :
- Giả sử trước mặt ta là một khu vườn yên tĩnh , ta đưa 2 người vào trong đó . Một người bình thường đủ 5 giác quan : thị giác (mắt ) , thính giác (tai) , khứu giác ( mũi) , vị giác ( lưỡi ) , xúc giác (da).... và 1 người mù chỉ có 4 giác quan thôi. Cũng chỉ cùng 1 khu vườn đó thôi nhưng sự cảm nhận về khu vườn của người mù hẳn nhiên sẽ rất khác với người bình thường . Thế giới quan của người mù là tập hợp của sự cảm thụ 4 giác quan : vị ngọt của quả dại , tiếng xào xạc của lá , sự sần sùi của vỏ cây và mùi hương của hoa.... trong thế giới quan của người mù không có những khái niệm về màu sắc , ánh sáng . Nơi người bình thường ngoài sự cảm thụ của 4 giác quan như trên còn có thêm sự cảm thụ của thị giác nữa , đó là : sắc xanh của lá , sắc vàng của quả chín , sắc nâu của đát , sắc hồng của hoa..... Như vậy ra thấy rõ người thường cảm nhận về khu vườn chân xác và rõ nét hơn người mù .
Bạn đã bao giờ nghe nói tới giác quan thứ 6 ? Nơi người thường điều đó khá mờ nhạt nhưng với những nhà ngoại cảm ( bậc chân tu) cao siêu thì nó là một phần tất yếu của cuộc đời họ . Họ vận dụng giác quan thứ 6 đó cũng dễ dàng như bạn khép mở đôi mắt của mình vậy và vì thế sự cảm nhận về khu vườn của họ chân xác và rõ nét hơn người thường . Đức Phật thường ví 5 giác quan như 5 tên giặc ? Lối so sánh biểu tượng này cho thấy sự hạn chế bất toàn của 5 giác quan chúng ta . Cái mà chúng ta gọi là "tự nhiên " mà chúng ta cảm nhận được bằng 5 giác quan của mình thực ra chỉ là 1 mẩu của"tự nhiên thực sự"....... và "tự nhiên thực sự" thì rộng lớn vô cùng , nó không chỉ có cõi vật lý ( hồng trần ) mà còn bao gồm nhiều cõi vô hình khác nữa
Khoa học ( tính tới thời điểm hiện tại ) và thuyết duy vật bị hạn chế bởi sự cảm nhận của 5 giác quan nơi người thường... Họ không công nhận những gì vượt ngoài sự cảm nhận của họ và họ cũng không thể tư duy về 1 thứ mà họ chưa từng biết hệt như người mù không thể tư duy về màu sắc... Tuy nhiên gần đây khoa học đã dần đi đến ranh giới cuối cùng để chuẩn bị bước sơ khởi vượt thoát để tiến sang khoa học tâm linh (tôn giáo ) khi họ đã đề cập tới khái niệm vật chất tối hay năng lượng tối..... Đông phương đã biết tới các khái niệm này từ lâu , họ gọi nó là "khí"
4>+Hỏi : Xin hãy nói rõ thêm về luật nhân quả
+Đáp : Có một chương rất hay trong một cuốn sách nói khá tường tận , tôi trích lại :

"ĐỊNH LUẬT KARMA HAY LUẬT NHÂN QUẢ
I.- TỔNG QUÁT
Định nghĩa
Karma là một tiếng Phạn có nghĩa là hành động. Vì hành động là hiệu quả của những nguyên nhân về trước đồng thời là nguyên nhân của những hiệu quả sẽ đến, ý niệm nhân và quả liên hệ mật thiết trong danh từ Karma.
Vì thế, danh từ Karma (hành động) được dùng để chỉ sự liên hệ giữa nhân và quả trong các hoạt động con người. Khi ta nói “việc nầy là Karma của tôi”, người ta muốn nhấn mạnh rằng việc nầy là kết quả của những nguyên nhân y đã tạo ra ở quá khứ.
Thánh Paul nói với người Galates (VI, 7) : “Các người đừng lầm, không ai có thể giỡn cợt với Thượng Đế : ai gieo chi thì gặt nấy” và câu “quá khứ quyết định tương lai” cũng phát sanh từ luật nhân quả.
Mỗi sự việc đều gồm hai phần : nhân và quả. Chính một nhân nào đó đã tạo ra nó và nó sẽ tạo một quả ở tương lai : đó là sợi dây nhân quả triền miên không dứt.
Cũng nên thêm rằng karma có nghĩa nhân và quả, nhưng thường được dùng để chỉ nhân hoặc quả mà thôi. Chúng ta có thể xem karma là trương mục vãng lai do Công lý thiêng liêng giữ cẩn thận cho mỗi người.
Định luật thiên nhiên
Karma là một định luật thiên nhiên khác hẳn luật đời do con người tạo lập.
a/ Lịnh : Luật đời là một lịnh độc đoán buộc phải làm hay phải tránh một việc nào đó. Nó đặt trừng phạt, và các trừng phạt nầy thay đổi tùy lúc, tùy nơi. Nó giam cầm và xét xử.
b/ Luật thiên nhiên : Luật nầy không bao giờ thay đổi. Nếu điều kiện A và B được kết hợp, kết quả C sẽ hiện ra. Nó không ra lịnh mà chỉ nói : “Nếu anh muốn có C, anh hãy phối hợp A và B”. Nếu điều kiện được hội đủ, kết quả không bao giờ sai.
Luật thiên nhiên có tánh cách bất di bất dịch. Nó bao giờ cũng thế trong không gian và thời gian. Nó không trừng phạt một cách độc đoán mà chỉ gây một hậu quả không thể tránh. Nó không bênh ai, bỏ ai. Nó cũng không đặt sự thưởng phạt : khi chúng ta mó tay vào lửa, ta phỏng tay, có thế thôi. Nó gia hộ những gì hợp với cơ tiến hóa và hủy diệt những điều trái lại.
Bất lực.- Lần đầu tiên, khi chúng ta nghe nói đến luật thiên nhiên, ta có cảm giác như bị tê liệt và trở nên bất lực. Nhưng càng học, chúng ta càng thấy rằng nhờ nó mà chúng ta có thể tạo ra những gì ta ước mong và tránh những điều mà ta không mong muốn. Nhờ luật thiên nhiên, ý chí của chúng ta được tự do hơn.
Minh Triết và Vô Minh
Cũng như các luật thiên nhiên, luật nhân quả trói buộc kẻ vô minh và nâng đỡ những người minh triết. Là vì kẻ vô minh không hiểu gì cả nên có những hành động tai hại mà kết quả sẽ đè nặng trên anh sau nầy.
Trái lại, nếu ta biết sử dụng luật nhân quả, nó sẽ đưa chúng ta đến mục tiêu của chúng ta. Các khí lực của tạo hóa sẽ được vận dụng trong mục đích nầy tùy mức thông minh của mỗi người. Nếu ta không đạt được kết quả mong muốn là tại có sự sai lầm nào đó của chúng ta.
Khéo phối hợp.- Trong thiên nhiên, vì các khí lực tác động đủ chiều hướng, nếu chúng ta biết phối hợp chúng, chúng ta sẽ tiến mau đến mục đích. Ví dụ một thức ăn cần nấu đến 1000 mới chín, nếu ta nấu nó ở đồng bằng thì ta nấu đến nước sôi là được. Nhưng ở ngọn núi, nước sôi vào 400 , vậy nếu muốn nấu chín thức ăn đó, chúng ta phải nấu hầm hơi trong nồi kín để nước có thể lên đến 1000 .
Vậy muốn thắng tạo hóa, ta phải tuân các luật thiên nhiên. Nên lưu ý rằng khi ta tuân các luật thiên nhiên, ta không có cảm giác bị sai khiến mà tưởng rằng ta chỉ huy.
Hiểu biết mập mờ.- Hiểu biết mập mờ rất có hại vì nó đưa con người đến chỗ trì độn và lỗi lầm. Đó là trường hợp một người Ấn Độ ngồi khoanh tay trước nghịch cảnh và than: nghiệp quả của tôi là thế, tôi không làm gì được. Đó đúng là thái độ của một người đứng trước cầu thang và nói : “Tôi không thể leo lên vì trọng lượng trì tôi xuống thấp”, trong lúc anh chỉ cố gắng một chút thì có thể bước lên.
Vô lễ.- Trước nghiệp quả có người oán trời, trách đất và tưởng có bổn phận cúi đầu vâng chịu. Chúng ta không nên làm thế, trái lại chúng ta có quyền dùng một khí lực thiên nhiên để sửa đổi một định luật thiên nhiên. Nếu chúng ta đau ốm chúng ta có quyền chạy chửa.
Luật nhân quả trong phạm vi tinh thần
Nhiều người tưởng rằng thông minh hay ngu đần, hung dữ hay hiền lành là do sự ngẫu nhiên. Đó là thái độ của người dốt nát trước các hiện tượng khoa học (như vô tuyến truyền thanh hay truyền hình) mà họ cho là phép lạ.
Ở phạm vi tinh thần, chúng ta có thể tạo những quả tốt đẹp như trên bình diện vật chất. Có một khoa tâm lý chi phối tánh tình và trí hóa chúng ta. Với khoa nầy, chúng ta có thể khai mở hay hạn chế các khả năng đạo đức hay trí tuệ, nghĩa là tạo cho mình những quả tốt hay xấu trong phạm vi tinh thần.
Như vậy chính chúng ta đào tạo tương lai của chúng ta, theo ba qui tắc mà chúng ta tìm hiểu sau đây.

II.- BA QUI TẮC NHÂN QUẢ
Trong đời sống hằng ngày, con người phát ra ba loại năng lực liên hệ đến tư tưởng, ham muốn và hành động.
Năng lực ấy tạo ba qui tắc :
1/ Tư tưởng tạo tánh tình
2/ Ham muốn tạo cơ hội
3/ Hành động tạo hoàn cảnh vật chất.
1.- Tư tưởng tạo tánh tình
Tư tưởng đào tạo thể trí của chúng ta. Các quan năng bẩm sinh chẳng qua là kết quả của các tác động của tư tưởng ở các kiếp trước.
Kinh sách Đông Phương dạy : “Con người suy gẫm điều chi thì trở thành điều đó”. Chúng ta khởi đầu đời sống chúng ta với một tánh tình mà chúng ta đã tạo ra trong các tiền kiếp. Chúng ta phải nhận chịu tánh tình đó rồi cố gắng suy gẫm những tư tưởng cao đẹp để đào tạo cho mình ở tương lai một tánh tình thanh cao, tốt đẹp hơn.
Kinh nghiệm trực tiếp.- Chúng ta hãy ghi nhận những tật xấu của chúng ta nhưng đừng nghĩ lâu đến nó vì tư tưởng có tánh cách sáng tạo, khi chúng ta nghĩ đến một tật nào, nó sẽ nảy nở mạnh.
Khi chúng ta ghi nhận các tật xấu rồi, chúng ta cố cải sửa từ cái một. Tánh xấu mà chúng ta thường có là tánh nóng nảy. Vậy thì khi chúng ta nhận định như thế rồi, chúng ta đừng nghĩ đến nó nữa mà hãy suy gẫm những hạnh trái lại như hạnh ôn hòa.
Bền chí.- Mỗi buổi sớm mai, trong một vài phút, chúng ta tập trung tư tưởng vào hạnh ôn hòa. Khi tư tưởng ta sang qua việc khác, ta kéo nó lại. Chúng ta hãy tập thường thường như thế mỗi ngày, vì sự bất thường sẽ hủy diệt các kết quả đã thu thập được.
Mỗi người có thể suy gẫm theo ý mình. Ví dụ, chúng ta tưởng tượng chúng ta là một gương ôn hòa và lúc nào, chúng ta cũng tươi cười trước mọi hoàn cảnh ngang trái. Nếu ta suy gẫm như thế vài tuần, chắc chắn chúng ta sẽ có ít nhiều hạnh ôn hòa.
Sự diễn tiến sẽ như thế nầy : lúc đầu, trước một sự kiện bực dọc, chúng ta giận, và sau cơn giận ta mới nghĩ đến ôn hòa; về sau, chúng ta nghĩ kịp đến sự ôn hòa ngay trong lúc cơn giận xảy ra; rồi lần sau nữa, thì trước khi nó xảy ra. Chừng đó, chúng ta thu thập được một đức tốt : hạnh ôn hòa và hạnh nầy thuộc tánh tình của ta.
Tư tưởng tạo thành tánh tình là thế. Sự đào tạo nầy hữu hiệu chắc chắn như anh thợ hồ xây một tấm vách tường từ viên gạch một.
Vì một tư tưởng khi được lập lại thường thì thành thói quen, chúng ta cần chọn lọc tư tưởng. Các tư tưởng xấu sớm muộn gì rồi cũng biểu lộ thành những hành động tai hại.
Ảnh hưởng đến kiếp sau.- Nhờ các tư tưởng tốt đẹp, sau khi từ trần, chúng ta sẽ đến cõi Thiên Đàng, nơi đây, các tư tưởng ấy sẽ biến thành quan năng (xem chương VII). Chính chúng nó sẽ tạo cho ta sau nầy một thể trí thanh cao và một bộ thần kinh tinh nhạy khả dĩ phát biểu các tư tưởng cao đẹp.
Ảnh hưởng đến kẻ khác.- Khi chúng ta phát ra một tư tưởng, một hình tư tưởng cũng phát sanh và ảnh hưởng đến kẻ khác. Do đó, chúng ta tạo những dây nhân quả và đồng thời định đoạt giới thân cận của chúng ta về sau.
Chúng ta nên nhớ rằng với quyền năng của tư tưởng, chúng ta có thể phấn khởi, an ủi một bạn ở phương xa và cảm hứng những ai tiếp nhận được tư tưởng của chúng ta.
2-Sự ham muốn tạo một cơ hội thực hiện
Ham muốn (hay ý chí) sẽ đưa chúng ta đến sự vật ham muốn. Nó tạo một sợi dây liên lạc từ khí giữa vật ham muốn và người, như nam châm hút sắt. Ham muốn lôi cuốn con người đến chỗ nào nó có thể được thỏa mãn. Cái gì ta ham muốn nồng nhiệt, chúng ta sẽ có. Khi ta muốn mà không được liền đó là vì sức mạnh của những ham muốn trước còn tạm thời ngăn cản.
Đôi khi, ham muốn được thực hiện ngay trong một kiếp, nhưng thường nó được thực hiện ở các kiếp sau. Các kiếp sống của Alcyone [8] chỉ rõ điều nầy. Trong một tiền kiếp, ông là một người tu sĩ Bà la môn (8.300 trước J.C.), nhưng tu sĩ ấy lại ham muốn một cuộc đời hoạt động. Do đó, ở kiếp sau, ông sanh trong giai cấp chiến sĩ. Không bao lâu ông chán chiến tranh, nhưng phải sống đời chiến sĩ đến 50 tuổi, sau đó ông mất cánh tay mặt. Nhờ vậy, ông có thì giờ học tập và gặp lại một gia đình Bà la môn để lo tu hành.
Chọn lựa.- Ham muốn của chúng ta cần được chọn lọc. Sự thỏa mãn một ham muốn hạ tiện đem lại cho chúng ta vui ít hơn buồn. Chúng ta nên có những ham muốn tốt đẹp vì với các ham muốn nầy, chúng ta sẽ vươn lên cao và hưởng được nhiều hạnh phúc.
Cố gắng.- Các ham muốn ti tiện thúc giục các linh hồn non dại hoạt động và cố gắng: giai đoạn ấy xấu xa nhưng cần thiết vì có cố gắng, con người mới tiến hóa. Như vậy, các ham muốn ấy cũng hữu ích bao giờ ý chí giúp hành động theo Cơ Trời chưa xuất hiện ở lòng người.
Ảnh hưởng đến đời sống vật chất.- Vì chúng ta ham sống chúng ta mới bị trói buộc vào bánh xe luân hồi, và chính sự ham muốn của chúng ta định đoạt nơi chúng ta sinh trưởng ở kiếp sau.
Chúng ta hãy chọn lọc ham muốn, tình cảm, vì một tia thù hận của chúng ta có thể thúc giục kẻ khác giết người, và ta sẽ lãnh một phần nghiệp quả.
Ảnh hưởng đến kiếp sau.- Các ham muốn của chúng ta sẽ dẫn dắt chúng ta đến một nơi nhất định ở Trung giới, sáng sủa hay đau buồn. Chúng nó tạo thể vía của chúng ta ở kiếp sau. Những ham muốn ti tiện làm cho khối óc suy yếu ngông cuồng.
Ảnh hưởng đến kẻ khác.- Các ham muốn của chúng ta liên kết chúng ta với kẻ khác bằng những sợi dây thương mến hay hận thù. Giới thân cận của chúng ta ở kiếp sau (vợ chồng, con cái, bạn bè . . .) tùy ở chúng nó.
3.- Hành động tạo hoàn cảnh
Chúng ta có thể nói : các đau khổ hay sung sướng của chúng ta bây giờ là những đau khổ hay sung sướng mà chúng ta đã tạo cho kẻ khác. Các hành động làm cho kẻ khác vui hay buồn sẽ đào tạo cho chúng ta những hoàn cảnh vật chất thuận tiện hay không.
Nghiệp quả của sự hung dữ nặng nề hơn tất cả : những người tra tấn, săn bắn đều phạm tội nầy.
Hoàn cảnh vật chất hạn chế tầm hoạt động của chúng ta; chúng ta muốn có những hành động cao đẹp nhưng hoàn cảnh không cho phép. Chúng ta hãy chấp nhận hoàn cảnh ấy rồi cố khai thác nó : chúng ta tập chịu đựng với bệnh tật, tập bền chí với công việc buồn chán hằng ngày, tập cương quyết với các nỗi lo âu liên tiếp v.v. . . Nhờ vậy, hoàn cảnh sẽ thay đổi lần lần và trở nên thuận tiện hơn.
Ảnh hưởng đối với chúng ta.- Những hành động lập đi lập lại tạo cho chúng ta những thói quen và những thói quen nầy hạn chế sự biểu lộ của linh hồn. Nhưng các thói quen nầy không ảnh hưởng đến linh hồn và sẽ mất với thể xác.
Ảnh hưởng đối với kiếp sau.- Hành động quyết định sự giàu nghèo, sức khỏe v.v. . . của chúng ta ở kiếp sau.
Ảnh hưởng đối với kẻ khác.- Hành động cũng quyết định giới vị lai của chúng ta : bà con, anh em, bạn bè.
Nguyên nhân và hành động
Nguyên nhân và hành động là hai yếu tố khác nhau. Nguyên nhân là một động lực ảnh hưởng đến tánh tình, còn hành động là một động lực tác động trong phạm vi vật chất.
Một hành động có thể được thực hiện do nhiều nguyên nhân khác nhau, vì vậy chúng ta thường thấy có nhiều hoàn cảnh lạ kỳ, ví như một người ích kỷ, hạ tiện lại giàu sang tột bực. Tại sao thế ? Là vì ở quá khứ, người ấy hiến một tài sản quan trọng : bệnh viện, vườn chơi v. v. . . Anh đã cho Tạo hóa vay nay Tạo hóa hoàn lại. Nhưng anh ấy ích kỷ : anh cho không phải vì anh thương người, mà vì một địa vị, một huy chương. Do đó, tánh tình của anh vẫn còn ích kỷ như trước và vì vậy, anh vẫn đau buồn ngay trong cảnh giàu sang.
Trái lại, một người có thể làm một điều quấy do một nguyên nhân cao đẹp. Nguyên nhân cao đẹp nầy sẽ trau dồi tánh tình của anh và nó tạo cho anh những cơ hội để hành thiện, nhưng điều quấy anh đã làm sẽ tạo cho anh nhiều gian truân. Tuy nhiên, nhờ tánh tình thanh cao nên anh vẫn được bình thản ngay trong lúc nguy nan.
Sự quan trọng của nguyên nhân
Nguyên nhân quan trọng hơn hành động rất nhiều, vì nguyên nhân đào tạo tánh tình, nhờ vậy về sau, con người có nhiều hành động tốt.
Sự xung đột bổn phận
Đôi khi, nhiều điều hiện ra như là bổn phận, và các bổn phận ấy lại trái ngược nhau khiến chúng ta lưỡng lự không biết hành động thế nào cho hợp lý. Trong trường hợp nầy, ta phải đặt nặng nguyên nhân và tránh mọi yếu tố ích kỷ. Sau đó, chúng ta hãy vững tâm hành động trong tinh thần vị tha dù hành động có sai lạc cũng không sao.
Cõi giới và nguyên nhân
Nguyên nhân trói buộc ta vào cõi phát sanh ra nó. Nếu nó là một lợi lộc vật chất, nó buộc ta vào cõi trần; nếu nó là một lạc thú ở cõi trên, nó trói buộc ta vào cõi Thiên đàng; nếu nó hoàn toàn vị tha, nó phát xuất từ cõi Bồ đề và không còn có tánh cách trói buộc vì nó không đòi hỏi gì nữa.
Cõi giới và động lực
Cõi càng cao, động lực càng mạnh và tạo nhiều biến chuyển trong định mạng. Nếu một đơn vị động lực thuộc cõi trần tạo một kết quả, kết quả ấy tăng lên 5 ở cõi Trung giới, lên 25 ở cõi Hạ thiên và 125 ở cõi Thượng thiên.
Do đó, dầu mắc phải một định mạng khắc khe, nếu chúng ta có một lý tưởng cao đẹp liên hệ đến các cõi trên, chúng ta sẽ có một cuộc đời cao đẹp đáng sống.
Như vậy, nếu ta hiểu rõ ba qui tắc nhân quả vừa trình bày, chúng ta sẽ đào tạo tương lai của chúng ta.
III.- CÁC THỨ NGIỆP QUẢ
Có nhiều thứ nghiệp quả :
1.- Nghiệp quả tích trữ (Sanchita), tổng kết các quả đã tạo ở quá khứ;
2.- Nghiệp quả đã chín;
3.- Nghiệp quả đang tạo.
Chúng ta cũng sẽ bàn đến các nghiệp quả : cấp thời, chuyển biến, dồn dập và cộng đồng.
Nghiệp quả tích trữ
Đó là các quả đã tạo ra ở những kiếp trước mà chúng ta phải trả trong những kiếp sau. Đó là thanh gươm Damoclès treo trên đầu chúng ta, nhưng rất may là chúng ta không thấy.
Nghiệp quả về tánh tình
Khi ta mới sanh, tánh tình của chúng ta là tổng kết các khuynh hướng của quá khứ.
Nghiệp quả vật chất
Các nghiệp quả nầy được trả từ phần trong nhiều kiếp dưới hình thức quả chín. Khi chúng ta lấy ân trả oán, chúng ta trả quả chín đó trước khi nó xảy ra.
Quả chín
Quả chín là một phần nghiệp quả tích trữ mà các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu đã chọn cho ta trả ở kiếp nầy. Sự chọn lựa ấy rất cần vì chúng ta không thể trả một lần khối nghiệp quả to lớn của chúng ta; vả lại, nghiệp quả nầy đủ loại và liên hệ đến nhiều người (người thì ở xa nhau tại cõi trần, người thì ở cõi trên v. v. . .), khiến chúng ta không sao trả được trong một kiếp.
Đời sống hiện tại
Các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu sắp đặt đời sống hiện tại của chúng ta; các Ngài đặt chúng ta trong một giống dân, một quốc gia, một tôn giáo, một địa vị, một gia đình, một thể xác v. v. . . thích hợp để giúp chúng ta vừa tiến hóa, vừa trả phần quả đã chọn. Đời sống sẽ sắp xếp như thế nào để mỗi người đều có thể hành thiện.
Chúng ta phải chấp nhận sự hạn chế của chúng ta : đó là những quả mà chúng ta không thể tránh.
Số mệnh
Tinh tú liên hệ đến ngày giờ sanh đẻ của mỗi người. Khi chúng ta sanh ra, ảnh hưởng của nó ở vào một tình trạng nào đó, và căn cứ vào tình trạng ấy, các nhà bói tử vi có thể biết được tánh tình và số mệnh của mỗi người. Ảnh hưởng ấy không tạo ra định mệnh, nó chỉ là một dụng cụ đo lường, cũng như đồng hồ đối với thời gian, giúp chúng ta biết số mệnh của mỗi người.
Dù sao, chỉ người ươn hèn mới cúi đầu trước ngôi sao định mệnh, còn kẻ hiền triết thì chủ trị đời mình. Chúng ta phải hành động như nhà hiền triết.
Sửa đổi nghiệp quả
Ngoại trừ một vài trường hợp đặc biệt, nghiệp quả của chúng ta có thể sửa đổi. Nghiệp quả là những động lực hiện hữu, chúng ta có thể tạo những động lực mới để sửa đổi chiều hướng của chúng nó. Động lực mới nầy là tuân hành lời dạy của Chơn Sư, là hành thiện, tránh ác, tinh tấn v.v. . .
Đừng oán ghét
Trong sự trả quả, luôn luôn có một người trung gian và người trung gian nầy thường bị xem là một kẻ thù. Đó là một sự lầm lạc. Y giống như một kẻ thu thuế mà thôi. Oán ghét y là một điều vô lý.
Giúp đỡ
Khi một người lâm nạn, ta không nên nói là nghiệp quả của y, rồi làm ngơ. Lẽ tất nhiên, ở quá khứ, y có những hành động xấu xa nên bây giờ mới đau khổ, nhưng dù sao, chúng ta hãy giúp đỡ y hết lòng. Biết đâu ta không phải là người được kêu gọi để chấm dứt nghiệp quả của y ? Vả lại, nếu nghiệp quả của y còn nặng, sự giúp đỡ của chúng ta đương nhiên là vô hiệu.
Những hành động không thể tránh
Đó là một thứ quả chín. Khi một người quá thiết tha với một hành động, ý chí của y trở thành mãnh liệt, do đó, khi có dịp, y hành động mà không nghĩ suy gì cả. Đó giống như giọt nước chót làm tràn ly.
Thói quen
Khi một hành động được lập đi lập lại thường, nó thành tự động và trở nên một thói quen.
Những thói quen xấu
Những tư tưởng xấu tạo chung quanh chúng ta một lớp vỏ dày bao bọc linh hồn. Với thời gian lớp vỏ ấy mỏng lần, rồi một ngày kia một sự kiện (như một quyển sách, một buổi diễn thuyết) đập bể vỏ và giải thoát linh hồn. Đó là trường hợp hoán cải hay phép lạ mà chúng ta thường nghe nói.
Quả đang tạo
Áp dụng ba qui tắc nói trên, chúng ta có thể tạo cho chúng ta những quả tốt. Chúng ta định đoạt tương lai của chúng ta.
Dồn quả
Khi một tu sĩ muốn tiến mau, y nguyện trả quả nhanh chóng. Do đó, người bị nhồi quả. Đó là trường hợp của những đệ tử có đủ can đảm để chịu đựng quả xấu dập dồn.
Nghiệp quả chung
Các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu thừa dịp sự tụ họp của con người để thực hiện sự trả quả chung, chẳng hạn như trong các tai nạn xe lửa, bão lụt, động đất, chiến tranh v.v. . .
Trong tai nạn nầy, người ta phân biệt ba trường hợp :
1.- Nếu chết vì tai nạn có trong nghiệp quả đã chín của chúng ta, chúng ta phải chịu chết.
2.- Trái lại, chúng ta sẽ thoát nạn nhờ sự gia hộ của các Đấng Vô Hình.
3.- Nếu trong sự chết nầy có trong nghiệp quả tích trữ nhưng chưa chín, chúng ta có thể tình nguyện trả quả để tiến hóa mau.
Những người tình nguyện như thế sẽ được chăm nom một cách đặc biệt ở bên kia cửa tử.
Quả gia đình
Trong các kiếp trước, chúng ta không làm tròn phận sự của chúng ta trong gia đình. Bây giờ, nghiệp quả hiện ra dưới hình thức những cha mẹ hung tợn, những đứa con bất hiếu v.v. . .
Trong sự trả quả nầy, chúng ta phải nhẫn nhịn nhau hầu cứu vãn hạnh phúc gia đình.
Quả quốc gia
Chúng ta nên phận biệt quả chung của một quốc gia và quả của một công dân xứ ấy.
a/ Quốc gia.- Mỗi quốc gia có thể xem như là một cá nhân đảm nhận một thiên trách trong sự tiến hóa của nhơn loại. Tùy cách thi hành thiên trách của mình (vị tha hay ích kỷ), quốc gia ấy sẽ trở nên hùng cường hay lụn bại. Không một quốc gia nào khinh miệt tình huynh đệ mà được hưng thạnh. Nước Y pha Nho vào thời vua Charles Quint rất hùng cường, nhưng vì tàn sát người Incas, người Maures và người Do Thái, vì đã xử thiêu chết do Tòa án Inquisition, nước ấy suy sụp đến ngày nay.
b/ Công dân.- Nói một cách tổng quát, con người sanh ở một xứ nào là để thu thập các đức tánh riêng của dân tộc xứ đó, đồng thời cũng để trả nghiệp quả của y. Khi một xứ bị nghiệp suy vong, các linh hồn thấp kém sẽ đến đầu thai tại đó nên các lãnh tụ tỏ ra ích kỷ, bất lực khiến xứ ấy lụn bại càng mau. Trái lại, các linh hồn cao cả sẽ đến nhiều trong các nước hưng thịnh, nhờ thế, nước ấy càng trở nên hùng cường.
Tiên đoán
Trong quyển sách Con người từ đâu đến và đi về đâu, ở trang 147, kỳ xuất bản 1917, ông Leadbeater viết rằng Âu châu sẽ trở nên một Liên Bang vào cuối thế kỷ 20 .
Một ví dụ nghiệp quả
Trong quyển Những luật Thông Thiên Học căn bản bà Annie Besant có nói về trường hợp hai vợ chồng vừa mất một đứa con 17 tuổi. Hai vợ chồng người ấy rất đau khổ và đến gặp bà. Xem qua các tiền kiếp, bà cho biết trong một kiếp trước, hai vợ chồng nầy có nuôi một đứa cháu và hành hạ nó đủ điều và đứa cháu ấy đến 17 tuổi thì chết. Họ đã gây đau khổ thì bây giờ họ phải chịu đau khổ.
Sau đây, chúng tôi ghi dây liên hệ giữa nhân và quả.

Nhân Quả ở kiếp sau
- Oán ghét, trả thù - Án mạng
- Ác cảm - Sầu khổ
- Ích kỷ - Cô độc, thiếu tình thương
- Kiêu căng - Ô nhục
- Tham vọng - Thất vọng liên tiếp
- Bài bác chơn lý - Tìm chơn lý
- Hung dữ - Tật nguyền, điên dại
- Án mạng - Chết dữ dội
- Dâm dục - Bệnh tật, quái trạng
- Cha mẹ xấu xa - Con bị hành hà
- Phản bội - Đui mù, câm điếc
- Lạm dụng - Túng thiếu
v. v….
IV.- BIỆN BÁC

Định mạng và tự do
Linh hồn được tự do chọn lựa khi bước vào hàng nhơn loại. Có ba yếu tố cần thiết :
1.- Sự tự do tùy thuộc mức tiến hóa. Các linh hồn non dại thật sự không được tự do, vì họ là nô lệ của sự ham muốn, các thói quen, các thành kiến. Khi tiến gần đến quả vị Tiên thánh, nhờ được minh triết và hòa đồng với luật trời, con người sẽ tự do.
2.- Nghiệp quả hạn chế sự tự do của chúng ta, nhưng lần hồi chúng ta có thể nới rộng sự hạn chế đó.
3.- Chúng ta phải cố gắng tuân luật trời. Trong lúc đầu, chúng ta như bị ràng buộc ít nhiều nhưng khi ý ta hợp với ý trời, chúng ta sẽ hoàn toàn tự do.
Hiện tại tùy quá khứ, vậy làm sao người xấu có thể trở nên người tốt ?
Nhờ nhiều động lực, động lực thứ nhứt là đau khổ phát sanh từ tật xấu. Sự đau khổ nầy sẽ biến thành sự chán sợ ở bên kia cửa tử, do đó con người sẽ chán sợ khi gặp lại tật xấu đó. Động lực thứ hai là dòng tiến hóa lúc nào cũng lôi cuốn chúng ta trên con đường thiện. Động lực thứ ba là ý chí diệt trừ tật xấu và thay nó bằng đức hạnh.
Đâu là nguồn gốc của nhân quả
Cũng như các định luật thiên nhiên, khi vũ trụ hiện ra là có luật nhân quả. Nó trường cửu.
Nghiệp quả của một sinh vật bắt đầu khi nó biểu hiện, nghĩa là khi tinh thần khoác lớp áo vật chất.
Có công bình chăng khi ta đau khổ vì một lỗi lầm đã quên ?
Có bất công là khi nào ta đau khổ vì một lỗi lầm không do ta làm. Sự lảng quên không xóa bỏ gì cả.
Nghiệp quả và cầu nguyện
Cầu nguyện là khai mở tâm hồn để nhận ảnh hưởng thiêng liêng, nhưng với đa số nhơn loại, cầu nguyện có nghĩa là cầu xin.
Có ba loại cầu nguyện :
a/ Cầu nguyện để thu hoạch tài sản vật chất
b/ Cầu nguyện được phù trì trong lúc đau khổ
c/ Cầu nguyện để hòa hợp với Thượng Đế
Cầu xin lợi lạc không ích gì cả. Đức Chúa há không dạy : “Cha của các anh biết các anh cần gì trước khi các anh cầu xin”.
Chúng ta cũng không nên cầu xin Thượng Đế hủy diệt các đau khổ của chúng ta, mà xin giúp ta đủ nghị lực để chịu đựng. Chúng ta cũng có thể cầu nguyện Ngài giúp đỡ người khác như vậy. Nhưng tốt hơn ta giúp kẻ khác chịu đựng chính bằng khí lực mà ta chuyển cho họ trong hình tư tưởng.
Khi con người không cầu xin gì cả mà chỉ suy gẫm Đức Thượng Đế, y sẽ thu nhiếp Hạ trí và tiến đến sự hòa hợp với Thượng Đế, là nguồn sống, nguồn sinh lực và nguồn an lạc.
Tuy nhiên, sự cầu xin những lợi lạc vật chất đôi khi cũng được thỏa mãn. Lý do như sau :
1.- Các nhân vật vô hình xúc động trước các lời cầu xin và ra tay tế độ.
2.- Khi cầu nguyện, con người tạo hình tư tưởng và các hình tư tưởng nầy tác động cạnh các linh hồn nhân ái khiến họ phù trì.
3.- Các Đấng Cứu trợ vô hình cũng có thể thúc giục những kẻ từ tâm đến giúp đỡ.
V.- CÁC ĐẤNG CHĂM NOM LUẬT NHƠN QUẢ,
SỰ CHẤM DỨT NHƠN QUẢ

Các Đấng chăm nom luật Nhơn quả là các Lipikas và Maharajas.
Lipikas
Các Ngài ghi chép tất cả, biết rõ nhân và quả của mỗi người. Các Ngài giữ cho mỗi người một hồ sơ, một trương mục. Chính các Ngài quyết định đời sống của chúng ta.
Maharajas
Các Ngài thi hành mạng lịnh của các Đấng Lipikas. Các Ngài chọn cha mẹ thích hợp và điều chỉnh nghiệp quả tùy hành động của mỗi người.
Các Ngài chủ trị bốn yếu tố : đất, nước, gió, lửa. Trong quyển Giáo lý bí truyền , các Ngài được tả như các bầu tròn có cánh và những bánh xe phun lửa.
Chấm dứt ngiệp quả
Làm sao chấm dứt nghiệp quả vì hằng ngày chúng ta vừa trả quả cũ vừa tạo quả mới ? Anh A hại anh B, anh B trở lại hại anh A và liên tiếp mãi như thế thì làm sao cắt đứt sợi dây nhân quả ? Nó có thể cắt đứt nhờ sự hiểu biết, nhờ tình thương. Nếu B hiểu biết và nhơn từ, y sẽ không trả thù. Nghiệp quả được chấm dứt không phải bằng sự oán ghét mà bằng khoan dung và tình thương.
Nên trả quả như thế nào ?
Chúng ta phải chấp nhận các hạn chế về thông minh, sức khỏe, ký ức, hạnh kiểm v.v. . . mà ta đã tạo ra. Kế đó, ta cố gắng hủy diệt nó. Bằng cách nào ?
Hằng ngày, ta phải suy gẫm lý tưởng của chúng ta và sống một ngày một thanh cao. Nhờ vậy, chúng ta tạo những động lực mới để thay đổi các động lực cũ nghĩa là thay đổi các nghiệp quả và cải thiện số mệnh của chúng ta. Ví dụ, ta nhận thấy ta ích kỷ. Ta hãy suy gẫm hạnh vị tha và nhờ đó, tánh ích kỷ tai hại sẽ tiêu dần. Thế là nghiệp quả được cải thiện.
Chiến đấu với dục vọng
Vào lúc linh hồn còn non dại, dục vọng cần cho sự tiến hóa; nhưng về sau, y phải loại trừ chúng nó. Ví dụ, nếu chúng ta ham ăn, chúng ta phải ghi nhận các tai hại của sự ăn uống vô độ như phát phì, đau gan, đau bao tử v. v. . . để tạo cho ta sự chán ghét. Sự chán ghét nầy sẽ diệt trừ tánh ham ăn.
Người mộ đạo tuân hành giáo lý của Đức Giáo chủ về sự tiết độ và suy gẫm hạnh nầy.
Từ bỏ kết quả
Mọi hoạt động gồm ba yếu tố : dục vọng, suy tư và hành động. Ta có dục vọng rồi mới suy tư và hành động để thỏa mãn; vậy mục đích của ta là thỏa mãn dục vọng nghĩa là hưởng thụ kết quả của hành động. Vì muốn hưởng thụ kết quả mà ta hành động. Chính sự ham muốn nầy (chớ không phải hành động) trói cột chúng ta.
Vậy khi ta từ bỏ kết quả của hành động, ta sẽ cắt đứt dây nhân quả và được giải thoát. Các bậc hiền triết hoạt động để làm tròn phận sự chớ không thiết tha đến kết quả. Vô vi, bất động trong hành động đó là bí quyết của sự giải thoát.
Nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng từ bỏ kết quả có nghĩa là đừng hoạt động. Trái lại, chúng ta phải hoạt động nhiều hơn lúc nào cả.
Diệt trừ nghiệp quả
Để diệt trừ quả cũ, chúng ta nên xem trong đời ta, ta có hành động sái quấy với ai không và cố gắng chuộc tội. Nếu ta biết được các kiếp trước, ta cũng phải cư xử tốt đẹp với những kẻ mà ta làm phiền lòng. Dù sao, nếu hằng ngày ta cố gắng hành thiện thì quả cũ sẽ tiêu mòn.

Kết kuận
Bây giờ, chúng ta biết rõ ta chỉ gặt hái những điều ta đã gieo. Những điều đến cho ta là do ta đã tạo. Vậy ta phải vui vẻ nhận chịu các nghiệp quả.
Trong những xứ tin ở luân hồi và nhân quả , ai ai cũng chấp nhận số phận mình và nhờ thế mà họ nhẫn nại, bền chí, không oán trời, ghét người và xã hội được thanh bình, ổn định. Ngoài ra, họ còn cố gắng hành thiện để đào tạo tương lai của mình.
Như thế là không có sự bất công. Trái lại, chúng ta sẽ ý thức một trật tự đương nhiên mà chúng ta phải tôn trọng chớ không nên chống đối. "

5) + Hỏi : Hãy cho tôi một cái nhìn tổng thể về toàn bộ quá trình tu tập , các giai đoạn và yêu cầu của nó
+ Đáp : Một số đoạn trích trong một cuốn sách sẽ cho bạn thấy điều này :

Đường đạo lúc sơ tu

Các sách đạo đông phương dạy rằng nhân loại có bốn phương tiện để tìm cửa đi vào đường tiến bộ tinh thần: (1) Sự giao thiệp với những người đã đi trước trên con đường đạo. (2) Nghe giảng hoặc đọc những tài liệu về triết lý huyền bí. (3) Suy nghĩ và trực nghiệm, nói cách khác, nhờ mãnh lực của trí tuệ và sự suy luận, mà con người có thể tự thấu đạt được chân lý, hoặc ít ra cũng một phần chân lý. (4) Thực hành đức hạnh, nghĩa là nhờ sống đức hạnh trong nhiều kiếp liên tiếp, mà không bắt buộc phải mở mang trí thức, cuối cùng cũng phát sinh được trực giác trong con người, từ đó họ có thể hiểu được sự lợi ích của con đường đạo, và hướng dẫn họ nhận thấy được cửa để đi vào.

Bằng cách nầy hay cách khác, khi con người đã đến trình độ nầy thì con đường đưa đến quả vị Chân Sư cao cả đã bày ra trước mắt, phận sự của con người là bắt đầu tiến bước. Đối với các sinh viên huyền bí học, cũng cần nhắc là ở vào trình độ tiến hóa hiện tại, chúng ta không thể nào hiểu được trọn vẹn hoặc gần đầy đủ về các cấp bậc cao cả khác, mà chỉ cần biết những cấp độ thấp của con đường nầy. Đối với những cấp bậc cao hơn, chúng ta chỉ biết rất ít ngoại trừ tên gọi, mặc dù thỉnh thoảng chúng ta có thể thoáng thấy sự vinh quang không thể tả đi kèm theo các cấp bậc ấy.

Giáo lý bí truyền cho biết rằng, những giai đoạn nầy được phân nhóm thành ba thời kỳ chính:

1- Thời kỳ sơ tu (The probationary period). Ở giai đoạn nầy hành giả không buộc phải nhận một lời cam kết đặc biệt nào, và cũng không có một cuộc điểm đạo thiệt thọ nào được thừa nhận. Giai đoạn nầy đưa con người đến trình độ có thể vượt qua một cách an toàn điều mà TTH thường gọi là giai đoạn phán xét của cuộc tuần huờn thứ năm.

2- Thời kỳ tuân giữ lời thệ nguyện (The period of pledged discipleship), hay là con đường thiệt thọ (The path proper. Được chia làm bốn cấp bậc, theo các kinh sách Đông Phương đó là bốn thánh đức. Cuối thời kỳ nầy, người đệ tử sẽ đắc quả vị Chân Tiên. Đó là cấp bậc mà nhân loại phải đạt đến, vào lúc chấm dứt cuộc tuần huờn thứ bảy.

3- Thời kỳ chánh thức (Official period). Trong giai đoạn nầy, vị Chân Tiên sẽ lãnh một phần việc nhất định trong sự cai quản thế giới, theo đại luật vũ trụ. Đành rằng tất cả những vị Chân Tiên và cả đến những vị đệ tử khi đã được thâu nhận thiệt thọ rồi, đều trợ lực vào công việc vĩ đại là giúp đỡ cho sự tiến hóa của nhân loại. Nhưng các vị cao cả hơn nhận lãnh trách nhiệm cai quản những bộ phận đặc biệt trong tổ chức của vũ trụ. Giống như các vị bộ trưởng trong một quốc gia có tổ chức trật tự ở thế gian.

Trước khi bàn tới chi tiết của thời kỳ sơ tu, chúng ta cần nhận thấy rằng, phần nhiều các thánh thư Đông Phương chỉ xem thời kỳ nầy như phần dự bị, chớ chưa đi hẳn vào con đường thiệt thọ. Vì sau khi chấp nhận những lời thệ nguyện rồi, người đệ tử mới được xem như đã thật sự nhập vào đường đạo. Có nhiều sự lẫn lộn khác nhau, có khi người ta bắt đầu kể thời kỳ sơ tu, nhưng lại khởi sự từ khi bước vào đệ nhị cấp (đệ tử thiệt thọ). Có khi chính các giai đoạn được kể, có khi lại kể các cuộc điểm đạo đưa đến các giai đoạn ấy. Vì thế khi đọc sách, chúng ta cần kiên nhẫn nhận định để tránh hiểu sai lệch ý nghĩa.

Đặc tính của thời kỳ sơ tu khác hẳn các thời kỳ khác, sự phân chia những giai đoạn của thời kỳ nầy không được rõ ràng như ở các nhóm cao, và những giới luật cũng kém chính xác. Nhưng điểm sau cùng sẽ dễ giải thích hơn sau khi liệt kê năm cấp bậc của thời kỳ với những điều kiện tất yếu cho mỗi bậc. Bốn bậc đầu đã được ông Mohini Mohun Chatterji miêu tả một cách khá rõ ràng trong tập thứ nhất của bản tường trình tại trụ sở Luân Đôn. Độc giả nên tìm đọc, vì trong đó có những định nghĩa đầy đủ hơn trong khuôn khổ của quyển sách nầy. Nhiều điều chỉ dẫn rất quí báu về vấn đề nầy cũng đã được bà hội trưởng Annie Besant trình bày trong những quyển sách: "Con Đường Của Người Đệ Tử” (The Path of Discipleship) và "Trước Thềm Thánh Điện” (In The Outer Court).

Những tên gọi các cấp bậc có thể không giống nhau, vì trong những sách đó, tác giả đã dùng danh từ Bắc Phạn Ấn Độ (Sancrit), trong khi từ ngữ Nam Phạn (Pali) được dùng ở đây là của Phật Giáo. Có thể nói là chủ đề đem ra bàn từ một khía cạnh khác nhau, nhưng những điều kiện tất yếu vốn giống nhau, tuy hình thức bên ngoài thay đổi.

Sau đây mỗi danh từ, trước tiên sẽ được dịch nghĩa theo tự điển và đặt trong dấu ngoặc, kế đó là sự giải thích thường được Chân Sư giảng giải. Thời kỳ thứ nhất được các Phật tử gọi là:

1- Manodvaravajjana (sự mở cửa trí tuệ, hoặc có thể gọi là, thoát ra từ cửa trí tuệ). Thí sinh đạt được một lòng tin vững chắc về tính vô thường và vô giá trị của tất cả lợi lộc trần gian. Đó là điều mà người ta thường diễn tả là, nghiên cứu sự khác biệt giữa điều chân và điều giả. Muốn đạt đến mức độ nầy, thường phải cần nhiều thời giờ và nhiều bài học khó khăn. Lẽ tất nhiên ở bước đầu tiên không ai có thể làm gì khác hơn để tiến bộ thật sự. Vì không người nào quyết tâm đi vào đường đạo mà không có ý ham thích những điều cao thượng, và từ chối vật chất trần gian. Sự quyết định nầy có được do lòng tin chắc rằng, ở thế gian chẳng có điều gì có giá trị so với đời sống cao thượng. Người Ấn gọi bước đầu tiên nầy là "Viveka" hay là tánh phân biện. Ông Sinnett diễn tả điều ấy như là sự phục tùng theo Chân Ngã.

2- Parikamma (chuẩn bị thực hành). Trong thời kỳ nầy thí sinh học tập làm điều tốt, chỉ bởi vì đó là điều tốt, mà không nghĩ đến việc có lợi hoặc có hại cho mình trong hiện tại hay trong tương lai. Như lời dạy của các kinh sách Đông Phương, phải nhận lãnh quả báo do hành vi của mình một cách bình thản. Tánh thản nhiên nầy là kết quả tự nhiên của giai đoạn trước, vì sau khi nhận thấy được tính chất hư ảo và tạm bợ của tất cả những lợi lộc ở thế gian, hành giả không cần đến nó nữa. Một khi linh hồn đã được soi sáng bởi ánh quang minh rực rỡ của chân lý, nó không thể nào còn ham muốn những điều kém cao thượng nữa. Người Ấn gọi sự dứt bỏ nầy là "Vairagya."

3- Upacharo (chuyên tâm hay phẩm hạnh). Đây là giai đoạn phải tập cho được sáu đức tính tốt, những đức tính đó được gọi theo danh từ Nam Phạn (Pali) như sau:

(a) Samo (sự trầm tĩnh). Sự trong sạch và bình tĩnh của tư tuởng do kiểm soát được hoàn toàn cái trí. Ấy là kết quả rất khó đạt được, nhưng rất hữu ích, vì nếu cái trí không tuân theo ý chí thì nó không trở thành một dụng cụ hoàn hảo cho công việc của Chân Sư trong tương lai. Đức tính nầy có một ý nghĩa rất rộng rãi, nó gồm có sự tự chủ, đồng thời với sự bình tĩnh, được diễn tả trong chương XIX, rất hữu ích khi làm việc ở cõi trung giới.

(

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Damo (sự chế ngự)
. Hành động và lời nói hoàn toàn trong sạch và uy nghi. Đức tính nầy cũng là kết quả tự nhiên của đức tính trước.

© Uparati (sự ngưng lại). Tức là từ bỏ sự mê tín, hay là từ bỏ sự tin tưởng rằng một hành vi hay nghi lễ do một tôn giáo nào đó qui định là cần thiết. Nhờ đó kẻ chí nguyện sẽ được độc lập về tư tưởng, cùng với sự khoan dung rộng rãi, cao thượng.

(d) Titikha (tính nhẫn nại hay chịu đựng). Cần phải hiểu nghĩa danh từ nầy là cách xếp đặt cho con người sẵn sàng chịu đựng một cách vui vẻ tất cả những gì mà quả báo có thể đưa đến. Và từ bỏ vật chất trần gian, những khi cần phải bỏ, bất kỳ thứ nào. Danh từ nầy cũng bao hàm ý tưởng hoàn toàn không thù hận, vì ta hiểu rằng kẻ nào làm điều quấy với ta thì kẻ ấy sẽ gặt hái nhân quả riêng của họ.

(e) Samadhana (sự chú tâm). Đó là sự tập trung tâm trí, chỉ rằng, dù có bị cám dỗ cũng không thể rời bỏ con đường đạo. Đức tính nầy rất tương ứng với mục tiêu cố định, đã được bàn đến trong chương trước.

(f) Sadha (faith). Lòng tin cậy vào Chân Sư và chính mình. Nói cách khác, đệ tử phải vững tin vào khả năng của Chân Sư. Nếu đệ tử còn ngờ vực về những năng lực của chính mình, thì trong lúc ấy, hắn cũng đã có sẵn trong người vài tia sáng thiêng liêng, một ngày kia, khi nó trở thành ngọn lửa, nó sẽ giúp hắn làm được những gì mà Thầy của hắn đã làm.

4- Anuloma (mạng lệnh trực tiếp hay là sự kế thừa). Đức tính nầy là kết quả tự nhiên của ba đức tính trước. Trong giai đoạn nầy, hành giả có sự mong muốn nhiệt thành được giải thoát khỏi đời sống thế gian và hiệp nhất với sự sống tối thượng.

5- Gotrabhu (điều kiện để được điểm đạo). Ở giai đoạn nầy, thí sinh gom lại những điều đã thâu thập được lúc trước và làm cho nó vững chắc thêm, rất cần thiết cho sự tiến bộ kế tiếp. Khi đó họ đặt chân lên đường đạo thiệt thọ, và được thâu nhận làm đệ tử chính thức. Đạt đến trình độ nầy rồi thì sự điểm đạo để vào bậc kế tiếp sẽ thành tựu rất mau lẹ. Về câu hỏi: "Ai là người Gotrabhu?" Đức Phật trả lời: “Người nào thực hành đầy đủ những điều kiện mà tiếp theo đó là sự khởi đầu thánh đạo, kẻ ấy là vị Gotrabhu."

Sự minh triết cần phải có để được thâu nhận vào Con Đường Thánh Đức (The Path of Holiness) được gọi là Gotrabhu-gnana.

Chúng ta đã thoáng nhìn qua các bước tiến của thời kỳ sơ tu. Bây giờ tôi phải nhấn mạnh lại về điểm đã đề cập lúc ban đầu. Ở cấp bậc sơ đẳng nầy, những điều kiện và những đức tính đã kể ra, không bắt buộc hành giả phải thi hành đến mức hoàn toàn. Ngài Mohini nói rằng: "Nếu tất cả các đức tính đều phát triển đầy đủ thì đệ tử sẽ trở thành Chân Tiên nội trong một kiếp sống." Nhưng đương nhiên, trường hợp nầy rất ít có. Thí sinh phải phấn đấu không ngừng để rèn luyện các đức tính nầy. Nhưng sẽ là một sự sai lầm, nếu nghĩ rằng không ai tiến lên được bước kế tiếp, nếu chưa phát triển đầy đủ các đức tính nầy một cách trọn vẹn. Cũng không bắt buộc phải phát triển theo thứ tự nối tiếp nhau của từng đức tính. Thật ra trong nhiều trường hợp, hành giả có thể mở mang cùng một lúc tất cả các đức tính, chớ không cần phải theo thứ tự.

Cũng nên hiểu rằng một người kia có thể theo con đường đạo một cách tốt đẹp, mà không nhận thức chút nào về sự hiện hữu của nó. Có nhiều tín đồ thuần thành của Cơ Đốc Giáo, cũng như có nhiều người nhiệt thành theo phái Tự Do Tư Tưởng (Freethinker) đã tiến xa trên đường đạo đưa họ đến cuộc điểm đạo, mà trong suốt đời sống, họ chưa bao giờ nghe nói đến danh từ huyền bí học. Tôi đặc biệt nêu ra hai hạng người nầy, bởi vì những tôn giáo khác đều công nhận là có thể phát triển được huyền bí học. Người nào mong muốn tìm hiểu những gì khác hơn là những lễ bái công truyền, thì chắc chắn họ sẽ tìm tòi cho kỳ được.

Cũng cần phải lưu ý là những giai đoạn của thời kỳ sơ tu không cách nhau bởi những cuộc điểm đạo đúng theo ý nghĩa của nó. Và chắc chắn ở những giai đoạn nầy cũng phải gặp nhiều gian nan, cùng đủ các loại thử thách ở tất cả các cõi. Nhưng có thể được bù đắp lại bằng những kinh nghiệm quí giá, và nếu không có gì trở ngại, họ có thể nhận được những sự trợ giúp và những chỉ dẫn gián tiếp. Đôi khi chúng ta dùng danh từ điểm đạo một cách quá hời hợt, thí dụ như dùng để nói đến những cuộc thử thách mà tôi vừa kể ra. Nói một cách chính xác, danh từ nầy chỉ nên áp dụng cho những nghi thức trang nghiêm dùng để thừa nhận chính thức cho người đệ tử lên được cấp cao hơn. Nghi thức nầy phải do một vị cao cả được chỉ định, nhân danh Đấng Duy Nhất Chí Tôn cầm quyền điểm đạo và đặt vào tay thí sinh chiếc chìa khóa trí thức mới, chiếc chìa khóa cần thiết để dùng ở trình độ mới mà thí sinh vừa đạt được. Một cuộc điểm đạo như thế đánh dấu sự tiến bước lên cấp bậc mà chúng tôi sắp đề cập đến, và cũng là sự vượt qua mỗi giai đoạn của thời kỳ kế tiếp.



CHƯƠNG XXI
Con đường đạo thiệt thọ


Trong khi tiến hành qua bốn giai đoạn đánh dấu con đường đạo nầy, cần phải dứt bỏ cho được 10 Samyojana, hay là chướng ngại, vì nó ràng buộc con người vào vòng luân hồi và ngăn cản không cho đến cõi niết bàn. Nơi đây, ta sẽ thấy sự khác biệt giữa thời kỳ phải tuân giữ lời thệ nguyện và thời kỳ sơ tu, là vì ở thời kỳ nầy đệ tử phải gắn bó bởi những lời cam kết. Bây giờ, điều quan hệ không phải là sự cởi bỏ được nhiều hay ít chướng ngại. Trước khi có thể tiến được từ cấp nầy sang cấp khác, thí sinh phải hoàn toàn giải thoát được vài dây trói buộc trong số những chướng ngại nầy. Khi liệt kê những chướng ngại, chúng ta sẽ nhận thấy được sự gắt gao của những điều kiện ấy, và người ta sẽ không còn lấy làm lạ khi đọc được trong các thánh thư, là có khi phải cần 7 kiếp luân hồi, mới vượt qua khỏi đoạn đường.

Mỗi giai đoạn trong bốn giai đoạn, hay bước tiến, lại được chia ra thành bốn phần như sau:
(1) Maggo (đường đạo). Lúc nầy, sinh viên cố gắng dứt bỏ các mối dây ràng buộc.
(2) Pala (kết quả). Trong đó sinh viên nhận thấy kết quả do sự hành động hiện ra càng ngày càng rõ ràng.
(3) Bhavagga (hoàn thành). Là thời kỳ mà kết quả đã thu hoạch đầy đủ, sinh viên trở nên có khả năng làm tròn phận sự một cách thỏa đáng, và đứng vững ở trình độ nầy.
(4) Gotrabhu (có tư cách được điểm đạo). Đánh dấu thời giờ họ được xứng đáng nhận lãnh kỳ điểm đạo kế tiếp. Giai đoạn thứ nhất là:

I. Sotapati hay Sowan (Tu Đà Huờn). Đệ tử lên đến bậc nầy được gọi là Sowani hay Sotapanna, người đã nhập lưu, vì từ đây, nếu sự tiến bộ của họ có thể bị chậm lại, hay nếu họ không chống nổi những cám dỗ tinh vi hơn, và nhất thời rời khỏi đường đạo, thì họ cũng không thể nào hoàn toàn lìa khỏi tinh thần, để trở thành người tầm thường được. Họ đã nhập vào dòng tiến hóa cao thượng của nhân loại, mà tất cả nhân loại phải nhập vào khi đến giữa cuộc tuần hoàn thứ năm sắp tới, ngoại trừ những người bị rớt lại, do tạm thời chưa đủ sức tiến theo làn sóng sinh hoạt vĩ đại, và phải đợi đến lúc dãy hành tinh sau được thành lập.

Khi đạt đến trình độ điểm đạo nầy, vị đệ tử đã vượt qua đa số nhân loại, và đi trước họ cả một cuộc tuần hoàn, tức là một vòng 7 bầu hành tinh của chúng ta, và do đó, họ đã được chắc chắn không bị loại khỏi triều lưu vào cuộc tuần hoàn thứ năm. Do đó có khi họ được gọi là "người được cứu vớt” (the saved) hay là "người được an toàn" (the safe one). Ý tưởng nầy bị hiểu lầm và là nguyên nhân cho lý thuyết lạ lùng về sự cứu rỗi, do một vài thành phần của giáo hội Thiên Chúa công bố. Sự vĩnh phúc nầy có ghi trong vài kinh sách, giúp con người không phải để tránh khỏi những nỗi thống khổ đời đời, như được ngụ ý bởi những kẻ vô minh. Những chướng ngại mà người đệ tử phải loại ra trước khi bước qua giai đoạn kế, là:

1. Sakkayaditthi (ảo vọng của bản ngã).

2. Vichikichchha (nghi ngờ hay không chắc chắn).

3. Silabbataparamasa (mê tín dị đoan).


Chướng ngại thứ nhất là ý thức của bản ngã. Khi con người tự đồng hóa với “phàm nhơn" thì đó chỉ là ảo tưởng, cần phải loại trừ trước khi bước vào con đường hướng thượng chân chánh. Nhưng việc loại trừ trọn vẹn chướng ngại nầy còn có ý nghĩa cao hơn nữa, nó bao hàm việc nhận thức sự kiện là con người trong bản chất là một với tất cả. Vì thế sẽ không có những quyền lợi nào trái nghịch với quyền lợi của các huynh đệ, và những tiến bộ thực sự thì tương xứng với những cố gắng để giúp cho những tiến bộ của kẻ khác.

Dấu hiệu trọng yếu, hay ấn chứng cho biết vị đệ tử đã đạt được quả vị Tu Đà Huờn là lần đầu tiên vị đệ tử được vào cõi kế tiếp, bên trên cõi thượng giới, gọi là cõi bồ đề. Lần đầu tiên, trong một lúc ngắn ngủi, vị đệ tử nhận thấy thoáng qua cảnh trạng kỳ diệu cao tột cũa cõi giới nầy. Tuy chỉ thoáng tiếp xúc với cảnh thấp nhất của cõi bồ đề, vị đệ tử đạt được kinh nghiệm không thể quên được. Từ đây, tầm mắt của họ mở rộng đến một thế giới mới, và làm cho cảm giác và tư tưởng của họ được biến đổi hoàn toàn. Đây là lần thứ nhất, nhờ sự mở rộng tâm thức nơi cõi nầy, vị đệ tử nhận chân được đặc tính duy nhất ẩn tàng bên trong toàn thể. Đó không phải chỉ là một ý tưởng suông của lý trí mà là một sự kiện xác thực, phô bày ra trước mắt. Đó là lần thứ nhất mà hành giả thật sự nhận biết được vài điều cương yếu chính xác của thế giới mà họ đang sống. Đó cũng là lần đầu hành giả thoáng thấy được thế nào là tình thương và lòng từ bi của các vị Chân Sư cao quí.

Đối với điều chướng ngại thứ hai (sự nghi ngờ), chúng ta cần phải cẩn thận về danh từ. Chịu ảnh hưởng của thói quen, suy nghĩ theo tinh thần Âu Châu, nên chúng ta thấy thật là bất hạnh, nếu phải tuân theo những ý kiến độc đoán, bắt buộc đệ tử phải thực hành. Cũng như khi nghe một nhà huyền bí học cho rằng sự nghi ngờ là một chướng ngại cho sự tiến bộ, chúng ta nghĩ rằng như vậy có khác gì những người mê tín hiện nay, họ tin tưởng mù quáng vào những tín điều. Nghĩ như thế là hoàn toàn sai lầm.

Sự nghi ngờ (hay nói đúng hơn là không tin chắc) về vài vấn đề, sẽ cản trở sự tiến bộ tâm linh. Và chính sự tin tưởng mù quáng cũng là một chướng ngại. Lòng tin xác quyết phải có căn cứ trên kinh nghiệm cá nhân hoặc do suy luận theo toán học. Một đứa trẻ còn nghi ngờ sự đúng đắn của bảng cửu chương thì không thể nào hy vọng học toán được tiến bộ. Chỉ khi nào nó hiểu được sự chính xác của bảng cửu chương, nhờ suy luận hoặc nhờ kinh nghiệm thì nó mới hết nghi ngờ. Khi đó nó tin rằng hai nhân với hai là bốn, chẳng phải do người ta bảo nó như vậy, mà vì kết quả đó đối với nó là một sự kiện hiển nhiên. Đó chính là phương pháp, và là một phương pháp duy nhất mà nhà huyền bí học đã thực hành để chiến thắng tính nghi ngờ.

Vichikichchha được định nghĩa là sự nghi ngờ đối với những giáo lý về nhân quả và luân hồi, và hiệu quả tốt lành mà con đường Thánh Đức đưa đến. Khi dứt bỏ được chướng ngại nầy thì hành giả sẽ có lòng tin tuyệt đối rằng, giáo lý bí truyền về những vấn đề nầy là đúng thực. Sự tin tưởng nầy đặt căn bản trên sự hiểu biết trực tiếp của cá nhân hoặc do trí phán đoán.

Chướng ngại thứ ba phải loại trừ gồm tất cả những tín ngưỡng lầm lạc không do suy luận. Tất cả những khuynh hướng cho rằng việc huấn luyện tinh thần phải lệ thuộc vào những cuộc hành lễ và những nghi thức bề ngoài. Muốn trừ bỏ được trở ngại nầy, hành giả phải tập tính tin cậy nơi chính mình, chớ không nhờ vào kẻ khác, cũng không nhờ cậy vào hình thức bên ngoài của một tôn giáo nào.

Ba chướng ngại đầu tiên tạo thành một chuỗi không rời nhau. Kế đó hành giả có thể nhận thức được phần nào sự diễn tiến của luật luân hồi, và do đó không còn nghi ngờ về vấn đề nầy nữa. Khi ấy sự hiểu biết Chân Nhân là tinh thần bất diệt sẽ giúp cho vị đệ tử tin tưởng vào sức mạnh tâm linh của chính mình, và dứt bỏ được sự mê tín dị đoan.

II. Sakadagami (Tư Đà Hàm). Đệ tử được thu nhận vào giai đoạn thứ hai nầy được mệnh danh là Tư Đà Hàm "người sẽ trở lại chỉ một lần," nói cách khác, một người đến bậc nầy thì chỉ cần một kiếp luân hồi nữa là đến bậc La Hán (Arhat). Trong giai đoạn nầy, không còn chướng ngại nào khác cần phải trừ bỏ. Nhưng vị đệ tử cần cố gắng làm giảm bớt đến mức tối thiểu những điều còn trói buộc họ. Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ về tâm linh lẫn trí thức.

Những năng lực thần thông (psychic faculties), nếu chưa được mở mang, cần phải được hoạch đắc trong thời kỳ nầy. Vì thiếu nó, đệ tử sẽ không thể đồng hóa được những trí thức mà bây giờ cần phải truyền đạt cho họ, và vị đệ tử cũng sẽ không có đủ tài năng làm công việc ở cõi trên để giúp đỡ nhân loại, đó là phận sự mà từ đây họ có đặc quyền cộng tác. Vị đệ tử phải có đủ sức tùy ý sử dụng một cách có ý thức thể vía, trong lúc xác thân đang thức, và đến lúc ngủ thì cõi thiên đàng sẽ mở rộng cho họ, bởi vì tâm thức của con người khi tách ra khỏi xác thân, luôn luôn ở vào cấp bậc kế bên trên, cao hơn cấp bậc mà tâm thức tác động lúc đang ở trong xác thân.

III. Anagami (A Na Hàm). "Người sẽ không trở lại nữa," được gọi như thế bởi vì khi đã đến cấp bậc nầy rồi, sẽ đủ sức tiến lên cấp kế trên ngay trong kiếp hiện tại. Trong khi thi hành phận sự hàng ngày, người vui hưởng được nhiều sự tiến bộ cao quí, nhờ đã có được toàn vẹn những quyền năng vô giá, tương xứng với cõi thiên đàng. Vào lúc ban đêm, khi tách ra khỏi xác thân, người lại thấy tâm thức của mình mở rộng một cách tuyệt diệu thuộc bồ đề tâm. Khi thành tựu bước đi nầy, người sẽ giải thoát khỏi các chướng ngại cuối cùng còn xót lại, đó là:

4. Kamaraga (quyến luyến những cảm giác vui thích, theo kiểu luyến ái ở thế gian).

5. Patigha (Tất cả những điều có thể sinh ra phẫn nộ hoặc oán ghét).

Thí sinh nào đã dứt bỏ được các chướng ngại nầy thì không còn bị ảnh hưởng của tình cảm, hoặc thương yêu hay oán ghét. Những trạng thái quyến luyến hoặc mất bình tĩnh ở cõi trần không thể ảnh hưởng và đeo níu họ nữa.

Đến đây, chúng ta cần đề phòng một quan niệm sai lầm thông thưòng có thể xảy ra. Tình yêu nhân loại dưới hình thức thanh khiết nhất và cao thượng nhất không bao giờ mất đi, cũng không bao giờ giảm đi do sự luyện tập huyền bí học. Trái lại tâm bác ái sẽ tăng thêm và mở rộng ra cho đến khi lan tràn khắp cả nhân loại, bằng với sự nhiệt tâm mà ban đầu họ chỉ ban ra cho một vài người. Cuối cùng thì sinh viên cũng vượt lên trên những điều nghị luận từ phàm nhân của những người chung quanh, và được tự do tự tại thoát khỏi sự bất công, thiên vị của loại tình cảm thông thường ở thế gian.

Chúng ta cũng không bao giờ nên cho rằng, khi tập được tình thân ái bao la đối với tất cả mọi người thì sẽ bị mất đi tình thương riêng biệt đối với những người thân. Mối liên hệ mật thiết giữa Ananda và Đức Phật, hoặc Thánh John với chúa Jesus là một bằng chứng chỉ rằng, tình thân ái nầy tăng trưởng vô lượng. Sợi dây liên lạc giữa Chân Sư và các đệ tử của ngài bền vững hơn tất cả mọi mối ràng buộc nào khác ở thế gian. Vì lòng thân ái phát khởi khi đi trên con đường thánh đức là lòng thân ái giữa các chân nhân (egos), chớ không chỉ là giữa các phàm nhân (personalities), cho nên nó mạnh mẽ và vững bền, không bị giảm sút hay thay đổi. Bởi vì "Tình yêu tuyệt đối giải trừ được mọi mối sợ hãi."

IV. Arhat (La Hán). Người đáng tôn kính, người hoàn toàn. Khi đến cấp bậc nầy, người chí nguyện được an lạc thường xuyên trong tâm thức cõi bồ đề và có thể dùng sức mạnh và năng lực của cõi ấy trong lúc đang ở trong thể xác. Khi tách ra khỏi xác thân, trong lúc ngủ hoặc lúc đại định, người liền nhập vào cõi niết bàn, là cảnh cực lạc không thể tả xiết. Trong giai đoạn nầy, nhà huyền bí học phải đoạn trừ những tàng tích cuối cùng của năm chướng ngại còn sót lại, đó là:

6. Ruparaga (ham thích cõi sắc giới, hữu hình).

7. Aruparaga (ham thích đời sống vô sắc giới).

8. Mano (sự kiêu căng).

9. Uddhachcha (sự náo động hay tánh dễ giận).

10. Avijja (vô minh).

Nơi đây, chúng ta có thể nhận ra rằng, khi đoạn trừ được Ruparaga, sự ham thích ở cõi sắc giới, hữu hình, nhà huyền bí học sẽ dứt bỏ sự ham muốn đời sống thế gian, dù là cuộc sống vĩ đại, cao quí nhất. Và cũng dứt bỏ đời sống ở trung giới và thượng giới, dù có đẹp đẽ huy hoàng đến đâu đi nữa. Người cũng phải dứt bỏ các khuynh hướng về sự ưa thích và chán ghét, vẻ đẹp hay xấu bề ngoài của người hay vật.

Aruparaga, sự ham sống, dù ở những cõi cao nhất, không hình thể, như cõi thượng trí, hoặc cao hơn nữa là cõi bồ đề. Tuy cao nhã, ít tham dục, nhưng vẫn còn có hình thức ích kỷ, cho nên cũng cần phải dứt bỏ, cũng như phải dứt bỏ các dục vọng thấp kém.

Uddhachcha, đúng nghĩa là tính chất xao động của cái trí. Người nào giải trừ được tận gốc chướng ngại nầy sẽ giữ vững được sự bình tĩnh không lay chuyển. Tất cả những gì xảy đến không còn lay động được sự an tĩnh, trang nghiêm của người.

Giải thoát khỏi sự vô minh sẽ đem đến một trí thức trọn vẹn, nói đúng hơn là sự toàn tri (omniscience) đối với các sự việc thuộc về dãy địa cầu của chúng ta. Khi tất cả các chướng ngại đã được giải trừ, Chân Nhân tiến lên đến giai đoạn thứ năm và trở thành Chân Tiên.

V. Aseka (Chân Tiên). "Người không còn điều gì phải học nữa." Đây là nói về dãy địa cầu của chúng ta. Ở giai đoạn hiện tại, chúng ta không thể hiểu biết được cấp bậc mới nầy gồm có những gì. Tất cả vẻ huy hoàng, sáng chói của cõi niết bàn phơi bày trước mắt của vị Chân Tiên, lúc đang ở trong xác thân. Khi người thấy thích hợp phải rời bỏ xác thể, người có thể vượt lên cao hơn, đến một cõi mà chúng ta chỉ mới biết tên thôi. Cũng như giáo sư Rhys Davids đã giải thích: "Người đó bây giờ không còn một chút lỗi lầm nào, người thấy và định giá trị đúng thật về những sự việc của thế gian. Tất cả những sự xấu xa đã bị diệt tận gốc khỏi linh hồn của người, người chỉ còn cảm thấy những ý muốn đức hạnh cho mình. Người biểu lộ lòng từ bi, dịu dàng và tình bác ái bao la đến cho kẻ khác.”

Để cho thấy rõ là lòng bác ái không bị mất nơi người, kinh Từ Bi (Metta Sutta) đã nói về tình trạng tinh thần của vị Chân Tiên như sau: "Như tình thương của một bà mẹ, liều mình để bảo vệ đứa con độc nhất, đó là sự thương yêu cần phải biểu lộ với tất cả nhân loại. Mong sao thiện ý bao la ngự trị khắp thế giới, ở trên, ở dưới, khắp bốn phương, không hạn chế, không lẫn lộn một lợi ích đối kháng nào khác. Khi một người giữ vững được tình trạng tinh thần nầy, dù đứng hay đi, ngồi hay nằm cũng không thay đổi, thì người đã thực hành xong thánh ngôn: Ngay trong kiếp sống nầy, thánh đức đã biểu lộ."





CHƯƠNG XXII
Vượt khỏi sự tiến hóa của nhân loại


Qua khỏi thời kỳ nầy, tất nhiên chúng ta không thể hiểu được một chút gì về những điều kiện cần thiết cho những cấp cao hơn mà con người khi đã đến bậc chí thiện rồi còn phải tiến thêm nữa. Chúng ta không còn nghi ngờ là sau khi đắc quả Chân Tiên, trình độ tâm linh của ngài đã phát triển đến mức tột cùng, vì thế khi nói về sự tiến bộ cao hơn đối với ngài, chỉ có nghĩa là vẫn còn những kiến thức rộng lớn hơn và những năng lực tinh thần tuyệt diệu hơn. Chúng ta được biết rằng, khi con người đạt đến trình độ tâm linh cao tột ấy, hoặc theo con đường tiến hóa chậm chạp của đa số nhân loại, hoặc do sự cố gắng vượt lên trước, thì con người đã tuyệt đối làm chủ định mạng của chính mình và tự chọn con đường cho cuộc tiến hóa sắp tới trong bảy đường mở rộng trước mặt.

Ở giai đoạn hiện tại, đương nhiên là chúng ta không thể hiểu được nhiều về việc nầy, những điều chỉ dẫn tổng quát chỉ có thể cho chúng ta biết được một phần nào mà thôi. Chúng ta chỉ biết rằng phần đông các ngài từ bỏ hoàn toàn ngôi vị Chân Tiên ở dãy trái đất của chúng ta, vì nơi đây không còn gì cần học hỏi cho sự tiến hóa cao tột của các ngài.

Một trong những đường nầy, theo từ ngữ chuyên môn là "nhập niết bàn." Các ngài sẽ ở vào trạng thái cao siêu nầy một thời gian rất dài, không thể tính được. Các ngài chuẩn bị thi hành công tác gì và cách thức tiến hóa sắp tới của các ngài ra sao, chúng ta không biết được chút nào. Nói cho đúng, dù chúng ta có được giải thích về những vấn đề nầy, chắc chắn với trình độ hiện tại, chúng ta vẫn không thể nào hiểu nổi, nhưng ít ra chúng ta cũng biết được một cách tổng quát như sau:

Sự toàn phúc ở niết bàn không phải là một sự tịch diệt trống vắng như một số người lầm tưởng. Trái lại, nó bao hàm một sự hoạt động vô cùng mạnh mẽ và hiệu quả hơn. Cứ theo đà tiến lên trên nấc thang tiến hóa thiên nhiên càng cao hơn, con người càng có khả năng rộng lớn hơn, và công tác vị tha trở thành vĩ đại, rộng rãi hơn. Đối với vị Chân Sư thì sự minh triết và quyền năng vô hạn chỉ có nghĩa là một năng lực vô biên để phụng sự, vì điều đó được hướng dẫn bởi tấm lòng từ bi vô lượng.

Những vị khác chọn sự tiến hóa tâm linh không hoàn toàn xa cách với nhân loại, tuy không trực tiếp đi theo đà tiến hóa với nhân loại sang qua dãy địa cầu kế tiếp như đã được thiên cơ hoạch định cho hệ thống tiến hóa của nhân loại hiện thời, đó là phải tiếp tục trong hai thời kỳ dài, tương ứng với cuộc tuần hoàn thứ nhất và thứ nhì. Sau đó, dường như các ngài cũng sẽ nhập niết bàn nhưng với cấp bậc cao hơn.

Một số vị nhập vào đường tiến hóa của thiên thần, hoạt động theo dãy địa cầu vĩ đại gồm bảy dãy, như dãy địa cầu của chúng ta, mà mỗi dãy đối với các ngài như một thế giới duy nhất. Trong bảy đường tiến hóa, con đường nầy có vẻ chậm chạp và ít hiểm trở nhất, có khi nó được gọi là "con đường của những vị không muốn trở thành Thượng Đế.” Nếu so sánh với sự từ bỏ cao thượng của các vị Nirmanakaya, thì con đường nầy được xem như chỉ từ bỏ có một nửa. Khi vị Chân Tiên lựa chọn con đường đó, thì một cuộc sinh hoạt vinh quang sẽ phơi bày ra trước mặt. Tuy không phải là con đường ngắn nhất, nhưng nó rất cao quí. Con đường nầy đã được bà Mary, mẹ của đức Jesus, sau khi đã đạt đến trình độ Chân Tiên, bà được giao phó cho chức vụ rất đặc biệt và cao quí, đó là "Đức Mẹ Thế Giới.”

Những vị Nirmanakaya từ chối tất cả những con đường dễ dàng, để chọn con đường dốc đứng hiểm trở nhất, đưa đến những đỉnh cao tột. Những vị đó hợp thành điều mà người ta gọi một cách thi vị là "tường thành bảo hộ" (guardian wall), như đã được đề cập đến trong quyển Tiếng Vô Thinh (The Voice of the Silence) như sau: “Bảo vệ thế gian khỏi những thống khổ và buồn thảm càng ngày càng gia tăng.” Không phải là bảo vệ thế gian chống lại ảnh hưởng xấu, xâm nhập từ bên ngoài, mà các ngài dùng hết năng lực của các ngài để ban rải khắp thế gian sức mạnh và sự cứu trợ tâm linh. Nếu thiếu sự giúp đỡ ấy, chắc chắn thế gian sẽ lâm vào cảnh trạng tuyệt vọng hơn hiện nay.

Còn có những vị trực tiếp gần gũi với nhân loại, tiếp tục đầu thai trong nhân loại và chọn con đường vượt ra ngoài bốn cấp bậc đầu, mà ở đoạn trước chúng tôi gọi là thời kỳ chính thức (official period). Trong số nầy là những vị Chân Sư minh triết dạy dỗ chúng ta Minh Triết Thiêng Liêng, và chúng ta đã được học hỏi từ các Ngài một số ít các điều hiểu biết về sự điều hòa phi thường trong cuộc tiến hóa thiên nhiên. Dường như chỉ có một số ít các vị Chân Tiên hoạt động theo chiều hướng nầy, có lẽ như thế đã đủ thi hành công việc ở cõi vật chất nầy.

Trong khi nghe nói đến các loại khả năng ấy, thỉnh thoảng một số người vội vàng phát biểu rằng, ngoài sự chọn lựa con đường giúp ích nhiều nhất cho nhân loại, Chân Sư không nên chọn con đường nào khác. Nếu hiểu biết nhiều hơn, những người ấy sẽ không nói như thế. Chúng ta không bao giờ nên quên rằng, trong thái dương hệ, ngoài cuộc tiến hóa của chúng ta, còn có nhiều cuộc tiến hóa khác nữa. Có lẽ có sự cần thiết phải tham dự vào công việc trong toàn thể thiên cơ bao la của Thượng Đế, do đó các vị Chân Tiên chia nhau làm việc trong tất cả bảy đường tiến hóa như chúng tôi đã diễn tả. Chắc chắn là mỗi vị Chân Sư sẽ lựa chọn đến nơi nào cần các ngài nhất, và quên mình để thi hành phận sự dưới sự xếp đặt của các Bậc Uy Quyền, cai quản phần việc nầy trong toàn thể cuộc tiến hóa vĩ đại.

Đó là con đường đạo mở rộng trước mắt chúng ta, con đường mà mọi người đều phải bắt đầu bước đi. Dù rằng lý tuởng tuyệt đỉnh nầy rất cao, nhưng nên nhớ chúng ta sẽ tiến đến đích, tuy chậm chạp, dần dần từ bước một, và những người hiện nay đã đến gần đỉnh, khi xưa cũng đã khó nhọc lê từ bước trong bùn lầy, nơi các thung lũng, giống như tình trạng của chúng ta hiện nay. Khi chúng ta mới bắt đầu tiến bước thì thấy con đường dường như khắc khổ, gian nan, nhưng khi càng lên cao thì bước đi càng thêm vững chắc, và phạm vi hiểu biết càng rộng lớn hơn, đồng thời chúng ta cũng có thêm khả năng giúp đỡ các huynh đệ đang leo lên, bên cạnh chúng ta.

Bởi vì sự khó khăn và cực nhọc đối với phàm nhân, con đường tiến lên nầy đôi khi bị gọi một cách sai lạc là "con đường thống khổ.” Nhưng để thi vị hóa, bà Annie Besant đã viết như sau: "Trong những sự đau khổ, ngự trị một niềm vui sâu xa, vĩnh cửu. Vì sự đau khổ thuộc về bản chất thấp kém, còn niềm vui thuộc về bản chất cao cả. Tất cả những thống khổ đều sẽ tiêu tan theo với dấu vết cuối cùng của phàm nhân, còn đối với vị Chân Tiên cao cả thì vẫn luôn luôn sống trong sự bình an, hạnh phúc trường tồn. Ngài thấy trọn con đường, đến tận cùng là sự an vui trọn vẹn, những phiền muộn ở cõi đời nầy chỉ là một giai đoạn ngắn, tạm thời trong hành trình tiến hóa rất dài."

"Có một điều ít khi được nhắc đến, là cảm giác hạnh phúc sâu xa đạt được trong khi chuyên tâm theo đường đạo, là do sự nhận thức được từ mục đích của con đường đi, cũng như từ sự hiểu biết rằng quyền năng hữu ích trong việc phụng sự càng ngày càng tăng trưởng và bản chất thấp hèn dần dần bị tiêu diệt đến tận gốc rễ. Người ta nói rất ít về những tia hạnh phúc phát xuất từ những cảnh cao tuôn xuống đường đạo, về những lúc thoáng thấy sự vinh quang chói lọi, về sự tĩnh lặng không bị làm rối loạn bởi những bão tố nơi trần gian. Đối với người nào đã dấn thân vào đường đạo rồi thì tất cả những con đường khác đều mất hết sự quyến rũ, dù có những sự phiền muộn trên đường đi, cũng vẫn là chân hạnh phúc hơn các cuộc vui thú ở thế gian."

Mong sao, không có người nào cảm thấy tuyệt vọng, chỉ vì nghĩ rằng công việc vượt quá khả năng. Điều nào đã có người làm được, thì người khác cũng có thể làm được, và nếu chúng ta cố gắng giúp đỡ những người ở trình độ thấp hơn, thì đến lượt chúng ta sẽ được giúp đỡ bởi những vị cao cả hơn. Trên đường đạo, từ người thấp nhất đến kẻ cao nhất đều liên hệ nhau, người nầy liên kết với người kia, bởi một chuỗi dài công việc hỗ tương lẫn nhau.

Mong sao, không có ai lầm tưởng rằng mình bị bỏ rơi hoặc cô độc. Những nấc thang dưới thấp của cây thang cao ngất có thể bị che lấp bởi sương mù, nhưng nhờ có nó mới leo lên được những nơi không khí trong lành, hạnh phúc, xán lạn hơn.
6> +Hỏi : Sự khác biệt giữa KinhChú là gì ?
+Đáp : KinhChú có sự khác biệt
- Kinh là 1 văn bản , kinh sách khi đọc ta cốt để hiểu giáo lý của nhà Phật tức là ta quan trọng về mặt ý nghĩa của câu chữ trong đó để thu được kiến thức về phật pháp.... như vậy kinh có thể dịch sang các ngôn ngữ khác nhau như tiếng Anh , tiếng Việt , tiếng Nhật , tiếng Trung v.v... đều được , cốt tủy khi đọc kinh là ta thấu đáo được kiến thức chứa đựng trong bản kinh đó...... Những bản kinh cao siêu có nhiều tầng ý nghĩa trong nó . Tầng ý nghĩa thấp nhất thường hiện ra dưới dạng những câu chuyện đơn giản dễ dàng mà ai cũng có thể hiểu , các tầng mật nghĩa cao hơn chứa đựng các tri thức cao siêu đòi hỏi phải có mã khóa để mở . Có những kinh có tới 7 tầng ý nghĩa mà tầng thấp nhất hiện ra chỉ đơn giản như là 1 câu chuyện thần thoại , cổ tích xa xưa . Chính vì thế mà người xưa cực kì coi trọng sự nguyên vẹn của bản kinh vì nhiều khi chỉ sai lạc đi dăm chữ hay vài câu thôi là bản kinh sẽ mất đi các tầng mật nghĩa quan trọng . Vấn đề rất quan trọng và cơ bản này tiếc là lại khó thực thi nhất vì trải qua hàng trăm , hàng ngàn năm với những biến động khách quan của xã hội và thời đại như chiến tranh , thiên tai , dịch bệnh v.v...... kinh sách khó tránh khỏi cảnh thất lạc hay tam sao thất bản . Ngày nay không chỉ Phật giáo mà ngay cả nhiều tôn giáo khác như Ấn giáo , Hồi giáo , Thiên chúa giáo v.v... còn rất ít người có thể thâm nhập và hiểu được giá trị của các tầng mật nghĩa cao siêu ẩn dấu trong các kinh sách tôn giáo nên tôn giáo bị hiểu lệch lạc đi theo kiểu đơn giản hóa làm mất đi những giá trị minh triết cao siêu mà nó vốn có . Tụng kinh có giá trị nhưng một dạng thức mà ta tập trung chú ý vào âm thanh để rèn luyện sự nhất tâm hay tĩnh tâm
- Chú là 1 vài câu hay một đoạn âm thanh mà ta hay ngân lên lặp đi lặp lại nhiều lần . Chú còn có nhiều cách gọi khác như "thần chú , thánh ngữ , mantra , mật ngữ " v.v.... và có nhiều loại chú có các công dụng khác nhau như chú Đại Bi , chú Lăng Nghiêm , Ngũ Bộ chú v.v...... Chú liên quan tới bản chất của âm thanh nên ai mà cố tìm hiểu ý nghĩa của câu chú là gì thì chỉ là chuyện vô ích . Mục đích chính khi tụng chú là tạo lên các chấn rung ( làn rung động) trong không gian tác động vào cấu trúc tâm thể con người hay các sinh linh vô hình xung quanh . Kinh và chú cũng giống như nhạc và lời trong cùng 1 bài hát vậy . Người ta có thể thay lời Việt , lời Hoa , lời Nhật cho bài hát nhưng nếu thay đổi các nốt nhạc thì bài hát đó đã bị biến đổi và không còn là bài hát cũ nữa . Chú cũng giống như các nốt nhạc trong bài hát nên khi tụng chú thì cao độ , trường độ , nhịp độ và sự phát âm thật chuẩn theo Phạn ngữ là điều quan trọng phải lưu ý
- Một số văn bản vừa là kinh mà cũng vừa là chú nên khi tụng kinh cũng đồng thời là trì chú nhưng những dạng thức này thì ít gặp
7>+ Hỏi : Đồ hình tâm pháp là gì ? xin hãy cho ví dụ
+Đáp : Đồ hình tâm pháp có thể hiểu là một tập hợp các biểu tượng để mã hoá tri thức , nó có cũng có thể hiểu là một tấm bản đồ thu gọn để tích hợp các tri thức để dễ dàng trong việc vận chuyển và cất giữ cũng như bảo mật hoặc giảng dạy
VD :
+) Đây là bản đồ về các cõi giới như cõi trần , cõi âm , cõi trời , cõi bồ đề....... Thực ra không chỉ có 7 cõi này mà còn 1 số cõi cao hay thấp hơn nhưng không liệt kê ra đây vì nó ít liên quan tới nhân loại chúng ta

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


+) Đây là sơ đồ các cấp đẳng trong hệ thống thiên đình quản trị hệ thống hành tinh chúng ta

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



8>+ Hỏi : Xin hãy nói rõ thêm về cấu trúc tâm thể con người
+Đáp :cấu trúc tâm thể con người gồm có các thể (xác - phách (thể hồng trần) , vía (thể âm giới ) ,
nhân hồn ( thể sắc giới - thể trí...)

- Thể hồng trần (Xác - phách) : đây là thể mà ta dùng để sinh hoạt trong cõi hồng trần ( vật lý - hạ giới ) , khi ta chết đi cũng giống như ta cởi bỏ 1 lớp áo ra ngoài vậy .... Sau đó thể này sẽ tan rã đi ta chỉ còn lại 2 thể là vía và nhân hồn . Các vận động viên thể thao là những người phát huy tới cực độ năng lực của thể xác , các võ sư có nội công thâm hậu là những người phát huy tới cực độ năng lực của thể phách.....
- Thể vía ( thể cảm dục - thể trung giới (âm giới ) : đây là thể mà ta dùng để sinh hoạt trong cõi âm ngoài ra thể này liên quan tới khía cạnh tình cảm , xúc cảm . Ta thấy phụ nữ thì khía cạnh tình cảm , xúc cảm dào dạt hơn đàn ông rất nhiều cho nên họ "nặng vía" hơn đàn ông nhiều ( dân gian có nói là đàn ông có 7 vía còn phụ nữ có 9 vía là kinh nghiệm do giới huyền môn truyền ra ngoài chứ 0 phải mê tín dị đoan ) . Trong phật giáo thì gọi "vía"" tình " , đây cũng là căn cứ tại sao địa vị của phụ nữ và nam giới được quy đinh chặt chẽ như vậy trong các tôn giáo lớn như Phật giáo , Thiên chúa giáo , Ấn giáo v.v...... Người vía càng nặng dàng dễ bị câu chấp vào các tầng thấp trong cõi âm sau khi chết , đây cũng là bí nhiệm của việc tại sao các pháp sư tà đạo hay chôn trinh nữ làm thần giữ của như vậy..... Các nghệ sĩ như ca sĩ , thi sĩ , nhạc sĩ là những người phát huy cao độ năng lực của thể vía trong cuộc sống hồng trần
- Nhân hồn ( thể sắc giới - thể trí ...) lưu ý là nó khác với linh hồn . Nhiều tín đồ Phật giáo hiện nay đang nhầm lẫn giữa linh hồn và nhân hồn vì cho cả 2 là 1 . Nhân hồn là thể ta sinh hoạt trong cõi trời sắc giới , nó liên quan tới năng lực tuy duy . Trong phật giáo thì gọi "nhân hồn"" tưởng " . Người phát huy cao độ thể trí trong cuộc sống hồng trần là các khoa học gia , tư tưởng gia , triết gia v.v.....

Từ xa xưa nhiều giá trị liên quan tới 3 thể này đã được phổ biến ra đông đảo đại chúng nhưng chỉ dừng ở mức sơ đẳng thôi , đám đông quần chúng chỉ biết chúng sơ qua vài câu chữ bề ngoài chứ chưa biết được giá trị về khoa học tâm linh của chúng
VD
Các thể --------------Triết học------------- Phật giáo------------ Ý nghĩa đích thực
Thể hồng trần------ Mỹ ------------------- Dũng------------------ Một cơ thể khỏe mạnh ,đẹp đẽ
Thể vía---------------Thiện----------------- Bi-----------------------Một tình cảm thanh cao ,thiện lành
Thể Trí--------------- Chân----------------- Trí----------------------Một trí tuệ thông thái , tinh tế

9> +Hỏi : Tôi có từng đọc sách thấy nói con người có thất (7) thể sao đây chỉ có (3) thể
+Đáp : Vì cái 3 này liên quan tới cá nhân hóa xác định , những cái cao hơn có tính tập thể thức
Trích đoạn
Vấn: Tôi có nghe nói nhiều về các thành phần này của “con người nọâi tâm” như bà vừa giải thích, nhưng tôi không hiểu rõ chúng như thế nào ?

Đáp: Thật vậy, nếu muốn nghiên cứu rõ các khía cạnh khác biệt của Chân Ngã thực tại được gọi là các “khí thể” cùng với sự phân biệt rõ ràng là một việc làm hay bị “chán nản” vì chúng rất khó hiểu. Điều này càng khó khăn hơn, vì có sự sai biệt lớn lao khi ghi số khí thể của các phái Đông phương, cuối cùng sự giáo huấn đều tương tự.

Vấn: Có phải bà muốn nói về phái Védantins không ? Bà không nên giảm bớt bảy “khí thể” còn năm.

Đáp: Vâng. Tuy nhiên tôi không có ý muốn tranh luận về điều này với một nhà bác học Védantin. Theo quan điểm của tôi, họ có lý do để làm như vậy. Sự kết hợp tâm linh, gồm có nhiều khía cạnh trí năng khác biệt nhau, được tặng cho danh từ con người, thì theo họ, xác thân chỉ là ảo tưởng không xứng đáng được xem trọng. Vậy Védantin không là một triết lý duy nhất để lý luận như thế. Lão Tử, trong Đạo đức kinh, chỉ nêu ra năm khí thể như người Védantins; hai khí thể bị bỏ bớt là: Chân linh (Atma) và thân xác mà ông gọi là”xác chết”. Ngoài ra còn có phái Taraka Raja-Yoga, chỉ nhìn nhận có ba “khí thể”. Tuy nhiên họ gọi Sthulopadhi hoặc thân xác ở vào trạng thái ý thức; Suksmopadhi cái thể giống như trong Swapna, hay trạng thái chiêm bao; và Karanopadhi hoặc “Chân thân” trải qua nhiều kiếp tái sinh, đều là hai trong những khía cạnh của chúng. Do đó, gồm có sáu khí thể. Nếu thêm Atma, tức là khí thể thiêng liêng vô ngã là phần tử vĩnh cửu nơi con người, hay là Chân linh phổ quát, bạn sẽ có bảy khí thể như chúng tôi đã trình bày [33]. Dù sao, chúng tôi vẫn giữ đúng sự sắp xếp của mình, nghĩa là bảy “khí thể” trong con người.

Vấn: Sự sắp xếp này có phải tương tợ như sự sắp xếp của Cơ Đốc Giáo huyền bí là: thân xác, linh hồn và Chân linh không ?

Đáp: Đúng thế. Theo họ, thể xác có thể trở thành môi vật của cái “Dĩ thái thể linh hoạt” một cách dễ dàng, và từ thể này, nó trở thành môi vật của sự sống hay Prana; rồi từ Kama-roupa hoặc linh hồn (động vật) trở thành môi vật của thượng và hạ trí. Cứ thế, người ta lập thành sáu khí thể, kế đến Chân linh đơn nhất, vĩnh cửu là thành quả của các khí thể này. Trên phương diện Huyền bí học, nếu con người chịu duy trì và trở thành vật sở hữu của Chân Ngã linh hoạt thì mọi sự thay đổi về phẩm của trạng thái tâm thức sẽ đem đến cho một sắc thái mới. Vậy, chúng ta nên tặng cho họ một danh từ đặc biệt (trên thực tế đã có rồi), để phân biệt lúc con người đang sống trong hai trạng thái đó.

Vấn: Chính các điều này thật là khó hiểu.

Đáp: Trái lại, điều này rất dễ hiểu khi chúng ta thấu triệt tư tưởng chánh yếu sau đây: dù đang ở trong cảnh giới tâm thức nào đi nữa, con người vẫn hành động thiết yếu theo điều kiện trí năng và tâm linh. Nhưng, chủ nghĩa duy vật hiện hữu quá mạnh, nên chúng tôi càng giải thích, càng làm cho nhiều người tỏ ra ít hiểu biết hơn. Bạn thử phân chia con người làm ba trạng thái chính yếu; nếu bạn không xem họ như một con vật đơn thuần, thanh khiết, bạn không thể nào có được những khí thể ít hơn. Bạn hãy xem cái thể khách quan của họ, kế đến khí thể suy tư, nó chỉ cao hơn bản năng của con thú hay linh hồn linh hoạt ý thức mà thôi. Họ có thể trở thành thượng đẳng và vượt qua loài thú rất xa, hay nói cách khác là linh hồn suy luận hoặc “chân linh”. Vậy chúng ta thử chọn ba nhóm này hoặc các thực thể tiêu biểu rồi phân chia theo giáo lý huyền môn, chúng ta sẽ có được điều chi ?
Trước tiên, ta có Chân linh (theo ý nghĩa Tuyệt đối và Toàn thể bất khả tính) hoặc Atma. Thật ra, ta không nên gọi nó là một khí thể “nhân loại”; hiểu theo ý nghĩa triết lý, ta không thể nào hạn định nó được, vì đó là điều chỉ TỒN TẠI vào vĩnh cửu và có ở bất cứ một điểm nhỏ li ti nào của vũ trụ vật chất hoặc thực chất. Theo siêu hình học, thì đây là một điểm mà Chân Thần nhân loại và môi vật của nó chiếm cứ trong không gian và kỳ gian của mỗi kiếp sống. Tuy nhiên điểm này dù được xem như chính là con người, cũng chỉ là một ảo mộng, một Maya mà thôi. Nhưng, chúng ta phải nhận định hay tưởng tượng chính mình cũng như tất cả Chân Ngã cá nhân là những bản thể thực tại trong trọn thời kỳ ảo tưởng, được gọi là kiếp sống này, nếu người khác không nghĩ như thế. Để giúp cho trí khôn nhân loại thấu hiểu điều đó dễ dàng hơn, người ta đề cập đến Huyền môn học. Để giải quyết sơ khởi về sự huyền bí của con người, Huyền bí học gọi khí thể thứ bảy là sự tổng hợp sáu khí thể kia, và cho môi vật của nó là Linh hồn Tâm linh (Bồ Đề). Tuy nhiên, Linh hồn tâm linh này chứa một điều Huyền bí không được tiết lộ, trừ những “môn đồ” đã tuyên thệ giữ cẩn mật, hay những người được sự tin cậy nhất. Dĩ nhiên sự lầm lẫn sẽ ít hơn, nếu điều huyền bí đó được truyền bá. Nhưng việc này có liên quan trực tiếp đến quyền năng làm xuất được Dĩ thái thể (thể phách) theo ý muốn, và nó cũng giống như “chiếc vòng của Gygès” [34] rất tai hại cho xã hội hay kẻ nào muốn chiếm hữu; thế nên điều huyền bí này được gìn giữ cẩn thận. Ta hãy trở lại các ”khí thể” lúc nảy. Vậy, linh hồn thiêng liêng hay Buddhi, là môi vật của Chân Linh; nếu được kết hợp lại, hai khí thể này chỉ là một, và nơi cõi hồng trần nó không có cá tính, đặc điểm nào cả. Về điều có liên quan đến Linh hồn nhân loại, Manas hay mens, mọi người đều đồng ý về nhị nguyên tính của trí thông minh nhân loại. Thí dụ: một người có trí thông minh thượng đẳng, không thể nào trở thành ti tiện được; có một vực thẳm ngăn cách người thông minh tinh thần với kẻ đần độn, duy vật, còn nhiều thú tánh.

Vấn: Vì sao không thể tiêu biểu con người có hai khí thể hay đúng hơn hai trạng thái ?

Đáp: Mỗi người đều có nơi họ hai khí thể đó, nhưng cái này linh hoạt hơn cái kia. Đôi khi một trong hai khí thể đó suy yếu hoàn toàn dưới khía cạnh, bởi quyền lực và sự hướng thượng của trạng thái kia. Đây là trường hợp hai trạng thái của Manas, một thượng đẳng, một hạ đẳng; Manas thượng đẳng hay Chân Ngã ý thức và suy luận hướng lên Linh hồn Tâm Linh (Buddhi), Manas hạ đẳng bị lôi kéo xuống dưới bởi Kama (dục vọng), trung tâm của các sự ham muốn và thú tính trong con người. Bởi thế, chúng ta có bốn “khí thể” được chứng minh, ba “khí thể”cuối cùng: thứ nhất “Dĩ thái thể” (Thể Phách) , môi vật của thể thứ hai là khí thể của sự sống; và thứ ba là xác thân. Dĩ nhiên không một nhà sinh lý học hoặc sinh vật học nào đồng ý chấp nhận các khí thể này, và cũng không tìm ra nguồn gốc. Thế nên cho đến ngày nay, không ai hiểu rõ chính quan năng của lá-lách là môi vật của dĩ thái thể, cũng như quan năng của mọât cơ quan nào đó ở phía bên phải là tâm điểm của sự ham muốn vừa trình bày. Vì vậy tùng quả tuyến rất xa lạ, và người ta mô tả như một hạch giác mô có chứa một ít cát, nhưng chính hạch này là trung điểm của tâm thức thượng đẳng, thiêng liêng nơi con người. Nó cũng là trung tâm của trí thông minh toàn tri và tâm linh bao trùm tất cả. Những điều vừa kể chứng tỏ bảy khí thể không do chúng tôi tạo ra, cũng không là điều mới lạ trong lĩnh vực triết học, nhưng chúng tôi có thể chứng minh dễ dàng.

Vấn: Vậy bà tin tưởng điều chi tái sinh ?

Đáp: Chính Chân Ngã Tâm Linh và biết suy tưởng, cái khí thể thưòng xuyên nơi con người là tâm điểm của Manas. Chân thần đôi không phải Atma, cũng không là Atma-Buddhi, là con người cá thể hay thiêng liêng, mà là Manas; bởi vì Atma là TOÀN THỂ Phổ quát chỉ trở thành cái NGÃ THƯỢNG ĐẲNG của con người khi phối hợp với Buddhi là môi vật của nó. Chính môi vật này kết hợp Nó với cá thể tính (hay con người thiêng liêng). Buddhi-Manas được gọi là Thể Chân Thân (corps causal) (các khí thể thứ năm và thứ sáu kết hợp lại), và là Tâm thức nối liền nó với mọi cá thể tính nơi nó trú ngụ tại trần gian. Linh hồn chỉ là một danh từ và chủng loại; trong con người, Linh hồn có ba trạng thái: linh hồn Tâm linh; đúng ra chỉ có một Linh hồn duy nhất dưới ba trạng thái. Từ trạng thái thứ hai (Nous hay Manas), cái tinh túy thiêng liêng vẫn tồn tại nếu còn trong trắng vô nhiễm, trạng thái thứ ba ngoài đặc tính bất tử, sẽ trở thành thiêng liêng một cách ý thức nếu đồng hóa được với Manas thượng đẳng. Tuy nhiên muốn hiểu biết rõ ràng hơn, ta không bỏ qua vấn đề Luân Hồi.
10>Hỏi : Ban hãy giới thiệu cho tôi 1 số link về vấn đề phát âm thần chú làm ví dụ
Đáp : Bạn có thể xem 1 số link sau

Thanked by 2 Members:

#2 thaiduong271

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 217 Bài viết:
  • 472 thanks

Gửi vào 12/07/2017 - 16:36

10>Hỏi : Ban hãy giới thiệu cho tôi 1 số link về vấn đề phát âm thần chú làm ví dụ
Đáp : Bạn có thể xem 1 số link sau





Thanked by 2 Members:

#3 Buingoctan9x

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 172 Bài viết:
  • 23 thanks

Gửi vào 22/11/2017 - 01:19

E mới đọc đc đoạn đầu đánh dấu để nao đọc. Đọc để giải trí thôi chứ nếu có nhân duyên e cũg k có ng chỉ dạy. Đời còn kiếm kế sinh nhai báo đền cha mẹ vợ con nữa






Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |