Giải Nobel IG Tử Bình số 2 - Về xác định Thân vượng hay nhược :
Có nội dung : "Thân nhược nếu trong Tứ Trụ không có Kiêu Ấn".
Luận án bảo vệ thành công giải "Nobel IG Tử Bình số 2" như sau:
Sau đây là ví dụ số 1 (vua Càn Long) trong cuốn Trích Thiên Tủy:
“1 - Càn tạo: Tân mão - đinh dậu - canh ngọ - bính tý
Bính thân/ ất mùi/ giáp ngọ/ quý tị/ nhâm thìn/ tân mão/ canh dần/ kỷ sửu/ mậu tý.
Thiên can canh tân bính đinh, chính phối hỏa luyện thu kim; địa chi tý ngọ mão dậu, cư ở bốn cung khảm ly chấn đoài. Cả bốn chi đều ở tứ chính, khí quán tám phương, nhưng ngũ hành thiếu thổ, tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng luận vượng; rất cần tý ngọ gặp xung, thủy khắc hỏa, khiến cho ngọ hỏa chẳng khắc phá dậu kim, mà sinh phù nhật chủ; đổi lại mão dậu gặp xung, kim khắc mộc, tắc mão mộc không thể sinh trợ ngọ hỏa, chế phục đắc cách, sinh hóa hữu tình. Mão dậu tức chấn đoài chủ nhân nghĩa hơn người; tý ngọ tức khảm ly, là khí đứng đầu trong trời đất. Với lại khảm ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu vô diệt, một tươi nhuận một ấm áp, tọa tại đoan môn, thủy hỏa ký tế. Cho nên tám phương qui phục, bốn biển cùng về, thiên hạ thái bình thịnh thế vậy (Thanh cao tông-càn long. Trích trong ái tân giác la mệnh phổ)“.
Ngay từ câu: “ngũ hành thiếu thổ, tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng luận vượng;“ đã đủ cho chúng ta hiểu rằng tác giả đã kết luận Tứ Trụ này có Thân nhược chỉ vì “ngũ hành thiếu Thổ“ (tức không có Kiêu Ấn trong Tứ Trụ). Đây là một kết luận cực kỳ sai lầm khi xét Thân vượng hay nhược.
Vậy thì vì sao tôi kết luận về việc tác giả chỉ dựa vào Tứ Trụ này không có Thổ mà kết luận Thân nhược là một sai lầm trầm trọng? Bởi vì muốn xác định chính xác Tứ Trụ này có Thân vượng hay nhược là một điều không hề đơn giản chút nào cả. Nhưng nếu đã biết tất cả các thông tin về đương số thì khi dựa vào các vận của đương số rồi so sánh với thực tế đã qua của đương số xem xấu tốt ra sao thì chúng ta có thể dễ dàng biết được Thân là vượng hay nhược.
Cụ thể như ví dụ này là một vị vua đầy quyền lực và phú quý thì đa số các vận phải là hỷ dụng thần là cái chắc. Vậy thì ta thử xem các vận: “Bính thân/ ất mùi/ giáp ngọ/ quý tị/ nhâm thìn“ có hàng Can đều là Thủy, Mộc và Hỏa là Thực Thương, Tài tinh và Quan sát còn Chi chủ yếu là theo phương Đông Nam là Mộc và Hỏa cũng là Tài và Quan sát. Vậy thì còn nghi ngờ gì nữa Thủy, Mộc và Hỏa phải là hỷ dụng thần của Tứ Trụ này nên Thân phải vượng!
Muốn kiểm tra thêm thì xét tiếp 2 vận sau là “Tân mão/ canh dần“ thì thấy ngay rằng Tân và Canh là Tỷ Kiếp và là kỵ thần đều bị Bính vượng ở đại vận hợp và khắc nên Tân và Canh thành vô dụng. Do vậy 2 vận này từ kỵ thần chuyển thành vận không còn là kỵ thần nữa, thêm chi vận là Dần Mão nên Mão mộc trong Tứ Trụ từ Tử Tuyệt vượng lên thành Lâm quan và Đế vượng tương đương với gặp vận hỷ dụng thần Giáp Ất. Cho nên 2 vận này mặc dù là kỵ thần nhưng đã trở thành vận hỷ dụng thần.
Thử xét 2 vận tiếp là “kỷ sửu/ mậu tý“ xem sao? Ta thấy can là Kỷ và Mậu là Kiêu Ấn là kỵ thần vì sinh cho Thân vượng. Cho dù Mậu và Kỷ nhược ở đại vận nhưng vì trong Tứ Trụ không lộ Giáp Ất để chế ngự nên là một điều xấu, nhất là vào các năm mà Mậu và Kỷ vượng ở lưu niên nên 2 vận này có thể coi là vận kỵ thần, nó phù hợp với cái tuổi 80, 90 là đúng thôi.
Một người mới qua nhập môn Tử Bình cứ theo các buớc xét này đều có thể dễ dàng xác định được Tứ Trụ này có Thân vượng. Vậy thì tại sao tác giả lại không thể xác định được là Thân vượng ?
Cho nên tác giả kết luận Thân nhược chỉ vì trong Tứ Trụ không có Kiêu Ấn (Thổ) là một sai lầm trầm trọng.
Sau đây là sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược theo phương pháp của tôi :
Qua sơ đồ trên ta thấy Bính và Ngọ bị khắc gần hay trực tiếp bởi Tý còn Tân, Canh và Dậu đều bị khắc gần hay trực tiếp bởi Đinh. Do vậy ta phải khoanh tròn 5 can chi bị khắc gần hay trực tiếp này để biết chúng không còn khả năng sinh hay khắc các can chi khác.
1 – Tân có 9đv bị Đinh khắc gần giảm 1/3đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv còn 9.2/3.3/5đv = 3,6đv.
2 – Đinh ở trong vùng tâm có 6đv bị Tý khắc cách 2 ngôi giảm 1/10đv còn 5,4đv.
3 – Canh ở trong vùng tâm có 10đv bị Đinh khắc gần giảm 1/3đv còn 10.2/3đv = 6,67đv.
4 – Bính ở trong vùng tâm có 3đv bị Tý khắc trực tiếp giảm 1/2đv còn 3.1/2đv = 1,5đv.
5 – Tý có 7đv không bị can chi nào khắc, vào vùng tâm giảm 2/5đv còn 7.3/5đv = 4,2đv.
6 – Ngọ ở trong vùng tâm có 3đv bị Tý khắc gần giảm 1/3đv còn 3.2/3đv = 2đv.
7 – Dậu có 9đv bị Đinh khắc trực tiếp giảm 1/2đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv còn 9.1/2. 3/5đv = 2,7đv.
8 – Mão có 3đv không bị can chi nào khắc, vào vùng tâm giảm 1/2đv còn 3.1/2đv = 1,5đv.
Khi cộng tất cả các điểm trong vùng tâm của từng hành ta có kết quả trong sơ đồ trên. Ta thấy Thân có 12,97đv lớn hơn Thực Thương,Tài và Quan Sát trên 1đv nên Tứ Trụ này có Thân là vượng, đúng như tôi đã luận ở trên.
Vì Thân có 3 can-chi còn nắm lệnh nên được thêm 1 can-chi thành 4 can-chi nhưng bị khắc gần và trực tiếp 3 can chi nên bị giảm mất 1 can-chi (bị khắc gần và trực tiếp 4 can-chi thì mới bị giảm 2 can-chi) còn lại 3 can-chi. Quan Sát có 3 can-chi bị khắc gần và trực tiếp 2 can-chi nên bị giảm mất 1 can-chi còn 2 can-chi (ở đây Thân không lớn hơn Quan Sát 5đv nên không được thêm 1 can-chi). Do vậy Quan Sát có 2 can-chi còn Thân có 3 can-chi nên dụng thần vẫn có thể lấy Quan Sát là Đinh (vì Đinh vượng hơn Bính), nếu ở đây Thân và Quan Sát có số can-chi bằng nhau thì dụng thần đầu tiên phải là Thực Thương (đây là lý thuyết mà tôi đã tìm ra để xác định dụng thần khi thế lực của Thân và Quan Sát tương đương với nhau).
(Thân vượng mà luận theo Thân nhược thì rõ ràng tác giả đã luận bậy bạ rồi vì hỷ dụng thần lại luận là kỵ thần.)
...............................................................................
VULONG777, on 04/12/2015 - 14:12, said:
Tôi đã tuyên bố:
"Bất kể người nào dù là VIP hay VỊT mà chê, khinh bỉ hay kết luận về một ai sai mà không chứng minh được người đó sai thì được coi là loài "Súc Sinh"".
Sửa bởi VULONG777: 30/01/2016 - 05:00