Lại nói về "Triệt không"; và bài v...
ThaiThangNhu
24/11/2015
vietnamconcrete
24/11/2015
Ngi vấn về 2 cách tính cô hư:
CÁCH 1:
Trong binh pháp Lục nhâm có phép gọi là "Bối cô kích hư", phương vị Cô là nơi/hướng có lợi thế, phương vị Hư là nơi/hướng bị mất thế. Người cầm quân tính ra phương vị của Cô và Hư sao cho quân mình nằm ở hướng Cô còn quân giặc thì ở hướng Hư. Người xưa cho rằng nếu quay lưng về phía Cô, mặt xoay về hướng Hư thì một người nữ có thể chống lại được một trăm người nam giới. Có bốn loại Cô khác nhau: Niên cô, Nguyệt cô, Nhật cô, Thời cô, trong việc binh phải tùy theo số lượng quân lính (mình nắm giữ) mà sử dụng loại Cô cho phù hợp:
Ví dụ: nếu ta cầm binh khoảng 4000 ngàn người đánh giặc vào giờ Tị, ngày Tân Tị tháng 4, nguyệt tướng Thân: vì số quân lên tới hàng ngàn nên ta dùng Nguyệt Cô/hư: vì tháng 4 là tháng Tị nên Thìn thiên bàn đứng sát sau Tị là Cô và Tuất thiên bàn là Hư.
CÁCH 2:
Hoàng Thạch công nói: Tựa Cô đánh Hư, một gái địch mười người. Phép Cô, 10 người dung Cô giờ (Thời Cô), 100 người dùng Cô Ngày (Nhật Cô), ngàn người dùng Cô tháng (Nguyệt Cô), vạn người dùng Cô năm (Niên Cô). Duy Cô giờ thì rất ứng nghiệm.
Tựa hướng về phương ngũ đế vượng khí
Lời bình:
Sửa bởi vietnamconcrete: 24/11/2015 - 15:28
- Cách 1: dựa vào trường khí của Niên, Nguyệt, Nhật, Thời (sách tham khảo: Lục nhâm, binh chiến tập).
- Cách 2: dựa vào đất Tuần không đóng, cũng phân ra lần lượt Tuần không của Niên, Nguyệt, Nhật, Thời (sách tham khảo: Hiệp kỷ biện phương thư, Kỳ môn độn giáp)
CÁCH 1:
Trong binh pháp Lục nhâm có phép gọi là "Bối cô kích hư", phương vị Cô là nơi/hướng có lợi thế, phương vị Hư là nơi/hướng bị mất thế. Người cầm quân tính ra phương vị của Cô và Hư sao cho quân mình nằm ở hướng Cô còn quân giặc thì ở hướng Hư. Người xưa cho rằng nếu quay lưng về phía Cô, mặt xoay về hướng Hư thì một người nữ có thể chống lại được một trăm người nam giới. Có bốn loại Cô khác nhau: Niên cô, Nguyệt cô, Nhật cô, Thời cô, trong việc binh phải tùy theo số lượng quân lính (mình nắm giữ) mà sử dụng loại Cô cho phù hợp:
Ví dụ: nếu ta cầm binh khoảng 4000 ngàn người đánh giặc vào giờ Tị, ngày Tân Tị tháng 4, nguyệt tướng Thân: vì số quân lên tới hàng ngàn nên ta dùng Nguyệt Cô/hư: vì tháng 4 là tháng Tị nên Thìn thiên bàn đứng sát sau Tị là Cô và Tuất thiên bàn là Hư.
CÁCH 2:
Hoàng Thạch công nói: Tựa Cô đánh Hư, một gái địch mười người. Phép Cô, 10 người dung Cô giờ (Thời Cô), 100 người dùng Cô Ngày (Nhật Cô), ngàn người dùng Cô tháng (Nguyệt Cô), vạn người dùng Cô năm (Niên Cô). Duy Cô giờ thì rất ứng nghiệm.
- Tuần Giáp Tý, Cô ở Tuất Hơi, Hư ở Thìn Tị.
- Tuần Giáp Tuất, Cô ở Thân Dậu, Hư ở Dần Mão.
- Tuần Giáp Thân, Cô ở Ngọ Mùi, Hư ở Tý Sửu.
- Tuần Giáp Ngọ, Cô ở Thìn Tị, Hư ở Tuất Hợi
- Tuần Giáp Thìn, Cô ở Dần Mão, Hư ở Thân Dậu.
- Tuần Giáp Dần, Cô ở Tý Sửu, Hư ở Ngọ Mùi.
Tựa hướng về phương ngũ đế vượng khí
- Tháng 1,3,9: đứng chính Nam, mặt hướng Bắc, thắng lớn (Bởi vì ta tự đặt mình vào vị trí Tướng tinh của tam hợp Dần Ngọ Tuất)
- Tháng 2,6,10: đứng chính Đông, mặt hướng Tây, thắng lớn (bởi vì ta tự đặt mình vào vị trí Tướng tinh của tam hợp Hợi Mão Mùi)
- Tháng 3,7,11: đứng chính Bắc, mặt hướng Nam, thắng lớn (bởi vì ta tự đặt mình vào vị trí Tướng tinh của tam hợp Thân Tý Thìn)
- Tháng 4,8,12: đứng chính Tây, mặt hướng Đông, thắng lớn (bởi vì ta tự đặt mình vào vị trí Tướng tinh của tam hợp Tị Dậu Sửu)
Lời bình:
- ở cách 1, tính khí Cô/Hư dựa vào trường khí của Thái tuế, Nguyệt kiến, Nhật chi, Thời chi - theo nguyên lý dựa vào chỗ mạnh để đánh chỗ yếu thì hiểu được.
- Còn như cách thứ 2, tính khí Cô/Hư lại cho rằng đứng vào đất của Tuần không (không địa) là đất có trường khí hỗn loạn mà đòi 1 gái chống 10 nam được ư?
- Còn như phép dựa vào đất của Tướng tinh mà chinh phục trong cách thứ 2 thì có thể chấp nhận được.
Sửa bởi vietnamconcrete: 24/11/2015 - 15:28
vietnamconcrete
24/11/2015
Luận Thái tuế - Hiệp kỷ biện phương thư:
"Thần khu kinh" cho rằng: Thái tuế là tượng của Quân (vua) nhân - dẫn đầu các chư thần...nếu nước nhà tuần thú tỉnh phương (bốn phương), xuất quân cướp đất, xây dựng cung khuyến vv.. không thể hướng vào" -
Không thể hướng vào có nghĩa chỉ có thể tọa, lấy trường khí mạnh mẽ mà tránh trường khí yếu ớt, đẩy địch nhân phải ở vào thế xung khắc với Thái tuế, tức là đẩy họ vào chỗ yếu thế. Nguyên lý chỉ có đơn giản thế thôi - vậy mà dám khuyên người đặt quân ở đất Tuần không, tâm tư thật thâm trầm.
"Thần khu kinh" cho rằng: Thái tuế là tượng của Quân (vua) nhân - dẫn đầu các chư thần...nếu nước nhà tuần thú tỉnh phương (bốn phương), xuất quân cướp đất, xây dựng cung khuyến vv.. không thể hướng vào" -
Không thể hướng vào có nghĩa chỉ có thể tọa, lấy trường khí mạnh mẽ mà tránh trường khí yếu ớt, đẩy địch nhân phải ở vào thế xung khắc với Thái tuế, tức là đẩy họ vào chỗ yếu thế. Nguyên lý chỉ có đơn giản thế thôi - vậy mà dám khuyên người đặt quân ở đất Tuần không, tâm tư thật thâm trầm.
vietnamconcrete
24/11/2015
Luận Tuế phá - Đại hao (Hiệp kỷ biện phương): "Quảng thánh lịch" nói rằng Tuế phá là thời xung với Thái tuế, đất ấy không thể khởi tạo, di cư, cưới gả, đi xa... duy có đánh dẹp hướng vào thì cát".
Hướng vào đất Tuế phá, tức là đặt mình vào thế Thái tuế, cũng tương tự ý trên.
Hướng vào đất Tuế phá, tức là đặt mình vào thế Thái tuế, cũng tương tự ý trên.
vietnamconcrete
24/11/2015
Giả sử vào giờ Mão hôm nay ngày 24/11/2015, bạn cầm đại quân chiến đấu, nếu có thể bày trận làm sao cho quân bạn đóng ở phía Tây Nam, địch nhân ở phía Đông Bắc thì tất thắng, bởi vì:
- Bạn dồn quân địch vào đất Tuần không/không địa
- Bạn được lợi thế của trường khí Thái tuế, địch nhân ở thế Tuế phá
- Bạn được sao Quý nhân phò trợ, địch lâm bị Thiên không đóng
MrUncle
24/11/2015
DoiXungGuong, on 24/11/2015 - 05:03, said:
Bạn này không thích bị phản bác. Dù kiến thức không ra sao, nhưng lại mong được thiên hạ thờ cúng. Cũng là cái tốt.
hề hề, cho qua, cho qua
ng miền Nam zui tánh sởi lởi lém ông ơi
ấy thế ông anh mở trí cho tui cái tuần triệt tháo gỡ dc ko? sao nó tháo nhau dc hay quá z ông
vietnamconcrete
24/11/2015
Tuần triệt tháo gỡ thì tôi không biết, nhưng Xuất không điền thực thì có trường hợp tôi đã kiểm chứng bằng quẻ lục nhâm. Như bói vào ngày Canh Thìn thì Thân gặp tuần không, vào Tháng Dần ngày Thân chết - tức xuất không.
http://tuvilyso.org/...__fromsearch__1
trên tinh thần nghiên cứu học thuật, xem xét một hồi kết quả như sau:
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát phù hộ độ độ trì cho ông...
Chú thích: rảnh quá sinh việc, xem xong lúc 8h04 p ngày 8 tháng 1 dương lịch. Bói toán là phỏng đoán, phỏng đoán sai là thường, xin quý vị miễn trách.
Sửa bởi vietnamconcrete: 24/11/2015 - 16:46
http://tuvilyso.org/...__fromsearch__1
vietnamconcrete, on 13/02/2015 - 07:22, said:
trên tinh thần nghiên cứu học thuật, xem xét một hồi kết quả như sau:
- Luận sinh tử: quái thể bất lợi, Can ngày gặp Tử khí không khắc sinh khí thì không chết ngay, vả lại Tử khí gặp Tuần không thì bị vô hiệu hóa, đợi nó xuất không ắt chết. Nay Dần xung Thân là Tuần không, vậy vào thời sở Dần (ngày, giờ, tháng) thì Tử khí xuất không.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát phù hộ độ độ trì cho ông...
Chú thích: rảnh quá sinh việc, xem xong lúc 8h04 p ngày 8 tháng 1 dương lịch. Bói toán là phỏng đoán, phỏng đoán sai là thường, xin quý vị miễn trách.
Sửa bởi vietnamconcrete: 24/11/2015 - 16:46
MrUncle
24/11/2015
uhm, thanks anh VN
chắc em phải xem thêm về lục nhâm
cứ gọi là em dc rồi, vì em nhỏ tuổi hơn anh
lâu lâu chọc zui anh chút, mong anh đừng để ý
chắc em phải xem thêm về lục nhâm
cứ gọi là em dc rồi, vì em nhỏ tuổi hơn anh
lâu lâu chọc zui anh chút, mong anh đừng để ý
AnKhoa
24/11/2015
Nếu coi Địa bàn Tử Vi cũng như một trận pháp, thì "Bối cô kích hư" liệu có thể áp dụng để cho ta biết nên lựa chọn Vị thế nào cho trận đánh ?
Ví dụ, Mệnh lạc đất Không vong, thì nên lấy Di làm đất cư trú.
Ví dụ, Tài lạc đất Không vong, thì nên dựa vào Phúc làm nguồn căn của sinh kế.
... ?
Mỗi một con người khi sinh ra đều được đặt vào một thế trận, và nhiệm vụ của họ là biết tận dụng vị trí nào để tạo thế mà xây dựng sự nghiệp cho mình.
Ví dụ, Mệnh lạc đất Không vong, thì nên lấy Di làm đất cư trú.
Ví dụ, Tài lạc đất Không vong, thì nên dựa vào Phúc làm nguồn căn của sinh kế.
... ?
Mỗi một con người khi sinh ra đều được đặt vào một thế trận, và nhiệm vụ của họ là biết tận dụng vị trí nào để tạo thế mà xây dựng sự nghiệp cho mình.
AnKhoa
24/11/2015
Tây Y không hiểu tại sao Đông Y: đau ở đầu mà lại nắn ở chân.
Chắc đây cũng là phép "Bối cô kích hư".
Có những lúc phải dùng Dương để kích Âm, hay dùng Âm để liễm Dương.
Đôi khi, để phát triển Kinh tế, lại cần phải làm yên ổn Tâm linh.
Cho nên, ngày nay đang hình thành một thế hệ các: Doanh nhân Phật tử.
Diều muốn bay cao, phải nắm dây thật chặt.
Chắc đây cũng là phép "Bối cô kích hư".
Có những lúc phải dùng Dương để kích Âm, hay dùng Âm để liễm Dương.
Đôi khi, để phát triển Kinh tế, lại cần phải làm yên ổn Tâm linh.
Cho nên, ngày nay đang hình thành một thế hệ các: Doanh nhân Phật tử.
Diều muốn bay cao, phải nắm dây thật chặt.
vietnamconcrete
25/11/2015
Theo lục nhâm, chọn ngày xuất quân phải kỵ các ngày không vong (kể cả ngày Tuần không đã biết, còn có các loại ngày không vong sau: Không vong nhật, tức ngày không vong tính theo tháng:
Các ngày Vãng Vong:
- tháng Giêng: ngày Thìn
- tháng 2: ngày Sửu
- tháng 3: ngày Tuất
- tháng 4: ngày Mùi
- tháng 5: ngày Dậu
- tháng 6: ngày Tý
- tháng 7: ngày Mão
- tháng 8: ngày Ngọ
- tháng 9: ngày Dần
- tháng 10: ngày Hợi
- tháng 11: ngày Thân
- tháng 12: ngày Tị
Các ngày Vãng Vong:
- tháng Giêng: ngày Dần
- tháng 2: ngày Tị
- tháng 3: ngày Thân
- tháng 4: ngày Hợi
- tháng 5: ngày Mão
- tháng 6: ngày Ngọ
- tháng 7: ngày Dậu
- tháng 8: ngày Tý
- tháng 9: ngày Thìn
- tháng 10: ngày Mùi
- tháng 11: ngày Tuất
- tháng 12: ngày Sửu
vietnamconcrete
25/11/2015
Xét về vấn đề không vong, không chỉ có tuần triệt được độc quyền làm không vong, theo tôi cảm nhận - dựa theo khái niệm "cô, hư" thì:
THIÊN KHÔNG
Thiên không chuyên ứng về các hạng tôi tớ, công lại, tiểu nhân, chợ búa, tỉnh thành, tiền bạc, khế ước, điều lệ, giấy tờ, ước hẹn, hợp đồng. Ngoài ra ứng về khẩu thiệt, hư mất, không thật, xảo trá, thị phi, các vật phế thải. Đây là một vị thần làm cho hóa không, thoát mất, vắng lặng thuộc về loại không vong như tuần không. Trên thiên đình sao Thiên không là chức Tư Trực quan, trong lôi bộ là vị thần hóa làm bụi và sương mù, cũng là vị thần khao khát mưa, đứng cung thứ 6 sau sao Quý nhân bản vị Mậu Tuất thuộc dương thổ phương Tây Bắc, được vượng tướng khí vào 18 ngày cuối cùng các tháng 3, 6, 9, 12. Thiên không là một hung tướng chuyên ứng điềm hung, thuộc chất vôi khô ngôi ở trung ương mà rất nhỏ thấp, là tạp khí của trời đất và vị thần dối trá của nhân gian.
HUYỀN VŨ
Trên thiên đình sao Huyền vũ làm chức Hậu quân hay tướng quân. Trong lôi bộ là vị thần làm khổ vũ (mưa trái thời, gây lụt lội). Đứng sau sao Quý nhân ngôi thứ 3, bản vị tại Quý Hợi thuộc âm thủy phương Tây Bắc, vượng khí nơi mùa Đông, dựa bên cung càn còn nương bên cung khảm, toàn thủy tột âm, chứa đầy tà khí, làm cho vạn vật tổn hại tới cùng cực . Khi đắc địa thì là quan ngự ứng chuyện hao tổn, phi xuất, khi hãm địa thì làm kẻ gian, trộm cướp, chuyên làm sự bất tường, chứa điều chẳng chính, chấp khí yêu tà. Đây là loại quỷ ở ngôi cùng chót của lục giáp, ở khoảng cuối tận bốn mùa. Huyền vũ hợp với các sao Thanh long, Đằng xà nhưng rất kỵ các sao Thiên không, Câu trận, gặp Thìn Tuất thiên bàn (Khôi Cương) thì trở nên đại hung ác.
-------------------------------
Come on, đừng để tôi độc thoại như vậy, rất chán.
Sửa bởi vietnamconcrete: 25/11/2015 - 09:14
- Tuần không: đứng ở thời điểm (ví dụ như đang ở tuần Giáp Tý mà nhìn vào vị thế của Tuất Hợi), thì do địa chi không/chưa có thiên can tương tác, cho nên cô âm bất sinh.
- Triệt không: do tuần giáp đã vận hành tới lúc cùng tận, cho nên vô khí.
- Đối xung với Thái tuế/Nguyệt kiến/Nhật chi/Thời chi là ở vào thời khí bất lợi - cũng như đứng ở phía mũi nhọn.
- Theo cái nhìn nhị nguyên, thì đối diện với Quý nhân (cao quý) là Thiên không (thấp hèn, hư không). Đối diện với Thiên phủ là Thất sát. Đối diện với Thiên tướng là Phá quân - toàn là một cặp khái niệm.
THIÊN KHÔNG
Thiên không chuyên ứng về các hạng tôi tớ, công lại, tiểu nhân, chợ búa, tỉnh thành, tiền bạc, khế ước, điều lệ, giấy tờ, ước hẹn, hợp đồng. Ngoài ra ứng về khẩu thiệt, hư mất, không thật, xảo trá, thị phi, các vật phế thải. Đây là một vị thần làm cho hóa không, thoát mất, vắng lặng thuộc về loại không vong như tuần không. Trên thiên đình sao Thiên không là chức Tư Trực quan, trong lôi bộ là vị thần hóa làm bụi và sương mù, cũng là vị thần khao khát mưa, đứng cung thứ 6 sau sao Quý nhân bản vị Mậu Tuất thuộc dương thổ phương Tây Bắc, được vượng tướng khí vào 18 ngày cuối cùng các tháng 3, 6, 9, 12. Thiên không là một hung tướng chuyên ứng điềm hung, thuộc chất vôi khô ngôi ở trung ương mà rất nhỏ thấp, là tạp khí của trời đất và vị thần dối trá của nhân gian.
HUYỀN VŨ
Trên thiên đình sao Huyền vũ làm chức Hậu quân hay tướng quân. Trong lôi bộ là vị thần làm khổ vũ (mưa trái thời, gây lụt lội). Đứng sau sao Quý nhân ngôi thứ 3, bản vị tại Quý Hợi thuộc âm thủy phương Tây Bắc, vượng khí nơi mùa Đông, dựa bên cung càn còn nương bên cung khảm, toàn thủy tột âm, chứa đầy tà khí, làm cho vạn vật tổn hại tới cùng cực . Khi đắc địa thì là quan ngự ứng chuyện hao tổn, phi xuất, khi hãm địa thì làm kẻ gian, trộm cướp, chuyên làm sự bất tường, chứa điều chẳng chính, chấp khí yêu tà. Đây là loại quỷ ở ngôi cùng chót của lục giáp, ở khoảng cuối tận bốn mùa. Huyền vũ hợp với các sao Thanh long, Đằng xà nhưng rất kỵ các sao Thiên không, Câu trận, gặp Thìn Tuất thiên bàn (Khôi Cương) thì trở nên đại hung ác.
-------------------------------
Come on, đừng để tôi độc thoại như vậy, rất chán.
Sửa bởi vietnamconcrete: 25/11/2015 - 09:14
AnKhoa
25/11/2015
Nói vậy, phải chăng:
Triệt là "Cô dương bất sinh"
Tuần là "Cô âm bất trưởng"
Lại nói, Tinh lạc cung không vong, Tính của nó không còn rõ ràng, cho nên không dùng Tư duy thông thường để hiểu Không vong được.
Sự tồn tại của Không vong là một trong những điểm giá trị nhất của Tử Vi. Nó nhắc nhở ta rằng, có những lúc khi Lý trí thất bại, thì Cảm ngộ mới nảy sinh.
Cho nên, "dụng" được không vong, cũng khá là hay.
Triệt là "Cô dương bất sinh"
Tuần là "Cô âm bất trưởng"
Lại nói, Tinh lạc cung không vong, Tính của nó không còn rõ ràng, cho nên không dùng Tư duy thông thường để hiểu Không vong được.
Sự tồn tại của Không vong là một trong những điểm giá trị nhất của Tử Vi. Nó nhắc nhở ta rằng, có những lúc khi Lý trí thất bại, thì Cảm ngộ mới nảy sinh.
Cho nên, "dụng" được không vong, cũng khá là hay.
MrUncle
25/11/2015
Trước mắt, em thấy thế này:
- Nếu thiên không và địa không là sao, thì sẽ tác động trực tiếp lên sao, có thể là chính tinh, cũng có thể là bàng tinh trung tinh
- Vì tuần triệt không phải là sao, nên không thể tác động lên sao dc, nhưng sẽ tác động lên hàng can/chi mà cung nó đóng. Chính xác hơn, tuần triệt là 2 trạng thái
Do đó, việc tách đôi ý nghĩa bộ thiên địa không và bộ tuần triệt là có cơ sở hẳn hoi
Ở trên anh dâu có viết 2 cụm từ rất đặc sắc:
- Tuần thì bất sinh
- Triệt thì vô khí
Như vậy, với 2 ý nghĩa tuyệt vời trên, có thể phân biệt dc:
- Tuần triệt thì ngay từ lúc ban đầu đã không có rồi
- Thiên địa không thì lúc đầu vẫn có, nhưng sau thì trắng tay, mất hết
- Nếu thiên không và địa không là sao, thì sẽ tác động trực tiếp lên sao, có thể là chính tinh, cũng có thể là bàng tinh trung tinh
- Vì tuần triệt không phải là sao, nên không thể tác động lên sao dc, nhưng sẽ tác động lên hàng can/chi mà cung nó đóng. Chính xác hơn, tuần triệt là 2 trạng thái
Do đó, việc tách đôi ý nghĩa bộ thiên địa không và bộ tuần triệt là có cơ sở hẳn hoi
Ở trên anh dâu có viết 2 cụm từ rất đặc sắc:
- Tuần thì bất sinh
- Triệt thì vô khí
Như vậy, với 2 ý nghĩa tuyệt vời trên, có thể phân biệt dc:
- Tuần triệt thì ngay từ lúc ban đầu đã không có rồi
- Thiên địa không thì lúc đầu vẫn có, nhưng sau thì trắng tay, mất hết
MrUncle
25/11/2015
Nếu liên hệ với tử bình tứ trụ thì có một số điểm như sau:
- Chi tàng can, vì vậy hàng chi đóng vai trò sinh
- Hàng thiên can là trưởng, tức là lớn lên, là khí
Trong tử vi, thì phủ sợ tuần và tướng ngại triệt
- Phủ là tượng che chở, bảo bọc, gìn giữ, tàng trữ, chứa đựng. Vậy phủ nhất thiết phải có địa lợi. Phủ ngộ tuần là cái bao rỗng
- Tướng là tượng chỉ huy, quyền bính, nên tướng cần phải có thiên thời. Tướng ngộ triệt là tượng nguy hiểm, mà mất lệnh
Vậy tuần bất sinh, triệt vô khí là đúng
Sinh ra nhờ đất mẹ, lớn lên nhờ thiên khí
Phải thật thận trọng với sự biến hoá của 2 thằng tuần triệt này
- Chi tàng can, vì vậy hàng chi đóng vai trò sinh
- Hàng thiên can là trưởng, tức là lớn lên, là khí
Trong tử vi, thì phủ sợ tuần và tướng ngại triệt
- Phủ là tượng che chở, bảo bọc, gìn giữ, tàng trữ, chứa đựng. Vậy phủ nhất thiết phải có địa lợi. Phủ ngộ tuần là cái bao rỗng
- Tướng là tượng chỉ huy, quyền bính, nên tướng cần phải có thiên thời. Tướng ngộ triệt là tượng nguy hiểm, mà mất lệnh
Vậy tuần bất sinh, triệt vô khí là đúng
Sinh ra nhờ đất mẹ, lớn lên nhờ thiên khí
Phải thật thận trọng với sự biến hoá của 2 thằng tuần triệt này