Jump to content

Advertisements




THIỀN TÔNG


53 replies to this topic

#31 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 24/08/2011 - 09:14

Trang 2:
Ngày 14 – 5 đến 20 – 5 Đinh Sửu (97)
Lời khai thị:
Theo thật tế mà nói, Phật Giáo là giáo dục truyền dạy tâm pháp dẫn đến giác ngộ cuối cùng. Nhưng hiện nay nhiều người hiểu lầm cho là một tôn giáo mê tín.

Nói tôn giáo mê tín là do các chùa làm những việc mê tín, như đốt vàng bạc,… đó là hại cho người chết.

Giáo dục là bao gồm vũ trụ vạn vật, chẳng có vật nào thiếu sót gọi là vạn pháp duy tâm. Vì nguồn gốc vạn sự vạn vật là tâm.

Tại sao? Tại xuất phát từ tâm, cho nên Phật Thích Ca nói “tất cả do tâm tạo”. Nói tâm tạo cũng không có ai tin! Có người nói tâm tạo thì ông tạo một cục vàng ra đi? Nếu người đến sức độ cao hiện ra sức của tâm thì có thể tạo ra có liền, muốn tạo ra cục vàng có liền được.

Nhưng bây giờ mọi người có sức tâm rất yếu, nên kiếp trước tạo cho kiếp này, kiếp này tạo cho kiếp sau, thành nhân quả 3 đời. Vì sức yếu thì tạo chậm, tâm lực yếu chừng nào nên quả sẽ đến chậm chừng nấy. Nếu sức của tâm mạnh kiếp này tạo thì kiếp này có, sức của tâm mạnh hơn tạo ra có liền. Nói tóm lại đều là tâm tạo.

Vậy tâm là thế nào? Tâm là một danh từ ai cũng nói được, nhưng tâm là gì chẳng ai biết! Vì tâm không hình tướng số lượng.

Tổ 14 Thiền tông Ấn Độ dùng hư không vô sở hữu để thí dụ tâm, hư không vô sở hữu là không có hư không tức trống rỗng, nhưng nhờ trống rỗng dung nạp và ứng dụng tất cả.

Tại sao không nói hư không quảng đại vô biên dung nạp tất cả vật, mà nói hư không vô sở hữu dung nạp tất cả vật? Hư không vô sở hữu dung nạp tất cả vật, đó là thật tế. Bây giờ, mình thấy rõ ràng tất cả cây cối, nhà cửa, núi sông, đất đai,… đều phải ở trong vô sở hữu này; thật tế đang dung nạp và ứng dụng. Như tôi đang nói, các vị đang nghe, nhìn với nhau,… đều nhờ cái trống rỗng này.

Vô sở hữu là trống rỗng khắp không gian thời gian, nhưng con người ham sở hữu đều muốn sở hữu của mình, tiền là sở hữu của tôi, nhà là sở hữu của tôi, đất là sở hữu của tôi; nếu nhà chưa có quyền sở hữu thì đi làm giấy để có quyền sở hữu. Nhưng thật tế, sở hữu là chướng ngại dụng của tâm, vì ham sở hữu thành ra bị chướng ngại.

Có sở hữu thì phải kiến lập, nhưng Phật nói không thể kiến lập, gọi là vô thỉ. Nếu kiến lập thì có bắt đầu, vô thỉ là không có bắt đầu cũng là nghĩa vô sanh, không có sự sanh khởi; tại có sanh khởi thì phải có bắt đầu, vì thật tế không có sự sanh khởi.

Cho nên, người chứng quả ngộ pháp vô sanh, Tịnh Độ cũng nói “hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh”, Giáo môn gọi là “chứng vô sanh pháp nhẫn”. Thật tế không có sự sanh khởi, không có sự bắt đầu, tại trống rỗng vô sở hữu.

Vô sở hữu khắp không gian thời gian chẳng có gì chướng ngại. Nhưng thông minh của con người đem cái không chẳng chướng ngại, hạn chế thành cái không có chướng ngại. Phật pháp gọi là tánh không, tức cái không vô sở hữu.

Nếu hạn chế cái không của tách, tách bị bít hết là không còn trống rỗng thì tách này là tách chết không thể đựng nước. Có trống rỗng nên đựng nước được, nhưng bị hạn chế thì chỉ dùng trong tách.
Cái không của bình thì hạn chế trong cái không của bình, cái không của chuông thì hạn chế trong cái không của chuông, cái không của nhà thì hạn chế trong cái không của nhà, giải ra muôn ngàn nghĩa không khác biệt rất hay rất có lý.

Nhưng cái không sẵn sàng vô sở hữu đang ứng dụng, cái nhà muốn dựng lên phải nhờ cái không vô sở hữu. Chưa có tách mà cái không cũng sẵn sàng. Sự thật cái không của tách, bình, nhà đâu có khác! Có khác là do con người kiến lập rồi thấy có khác, do có khác nên hạn chế làm chướng ngại dụng cái không vô sở hữu.

Phật Thích Ca, chư Bồ Tát chúng sanh đều có tâm bằng nhau, nhưng cái dụng thì khác. Tại sao? Vì mình có sở hữu rất nhiều, còn Phật không có sở hữu. Sức tâm mình tuy bằng Phật, nhưng chưa dùng được hết, vì bị hạn chế. Hạn chế bằng tách thì dụng bằng tách, hạn chế bằng bình thì dụng bằng bình,… thành ra mỗi người có dụng khác nhau.

Nhưng Phật tánh của chúng sanh đều bằng nhau, thần thông trí huệ không kém hơn Phật Thích Ca. Tại sao? Vì Phật tánh không thể giảm bớt. Nếu Phật tánh của mình kém hơn Phật Thích Ca thì giảm bớt, giảm bớt là pháp sanh diệt luân hồi. Nếu Phật tánh còn luân hồi thì thành Phật vô ích.

Ngài Long Thọ dùng hư không vô sở hữu để ví dụ cho tâm, tâm không hình thể số lượng. Do đó chẳng thể dùng bộ óc suy nghĩ tiếp xúc, nên chẳng dùng lời nói, văn tự để diễn tả. Phật pháp miễn cưỡng nói là tánh không.

Nhiều người cho cái không là tiêu cực là không có, dù nói không là để hiển bày dụng tâm; cho nên Phật pháp nói không là dùng. Như tách chẳng có cái không thì tách chết chẳng dùng được; bình, nhà cũng vậy.
Cái không là thể cũng là dùng, cái thể gọi là vô sở hữu; nhưng cái dùng cũng vô sở hữu thì mới dùng được, cho nên mình đang dùng. Như hư không vô sở hữu dung nạp tất cả vật. Tất cả vũ trụ vạn vật, mặt trăng, mặt trời, núi sông, đất đai, nhà cửa, cây cối,… đều phải nhờ vô sở hữu này dung nạp và ứng dụng. Cuộc sống hàng ngày, như ăn cơm mặc áo, nói năng, làm việc đều phải nhờ cái vô sở hữu này mới được hiển bày.

Chỉ tiếc rằng chúng ta ứng dụng hàng ngày mà chẳng tự biết, không có giờ nào phút nào mà không dùng. Dẫu cho mình đi đến chân trời góc biển cũng đang dùng, bây giờ ngồi đây cũng đang dùng, nhưng dùng mà chẳng tự biết. Nên Phật Thích Ca dạy pháp Thiền trực tiếp để mọi người đều được hiện toàn diện tâm mình.

Bây giờ các vị tham thiền là từ Phật Thích Ca truyền xuống cho Ma Ha Ca Diếp đến đời thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma rồi truyền qua Trung Quốc, làm sơ Tổ Trung Quốc, truyền cho Huệ Khả, Huệ Khả truyền cho Tăng Xán, Tăng Xán truyền cho Đạo Tín, Đạo Tín truyền cho Hoằng Nhẫn, Hoằng Nhẫn truyền cho Huệ Năng.

Huệ Năng là người không biết chữ, nhưng Phật pháp của ngài cao không ai bằng; dưới Huệ Năng chia làm 5 phái (Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn, Quy Ngưỡng), từ Tổ từ Tổ truyền đến ngày nay. Tôi cũng may mắn được truyền pháp môn Tổ Sư thiền này, nhưng tôi chưa kiến tánh, chỉ là học được đường lối thực hành. Tính từ sơ Tổ thì tôi là đời 89.

Phật Thích Ca dạy pháp thiền trực tiếp là Tổ Sư thiền. Tất cả thiền khác là pháp thiền gián tiếp, vì dùng cái biết để tu; tức là phải học rồi theo hiểu biết thực hành từ cấp mà lên. Thường thường có 52 cấp (Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa là 50 cấp, Đẳng Giác Và Diệu Giác).

Phật Thích Ca dạy pháp môn thiền gián tiếp hay trực tiếp gặp nhau ở Đẳng Giác. Tổ Sư thiền từ địa vị phàm phu ngộ là đến Đẳng Giác, khỏi cần phải qua mấy chục cấp kia, cho nên gọi là pháp thiền trực tiếp.
Pháp thiền trực tiếp để mọi người đều được hiện toàn diện chính tâm mình. Tất cả thiền là hiện tâm mình, hiện được tâm mình là kiến tánh thành Phật. Dù nói thành Phật nhưng không có Phật để thành.

Chữ “Phật” tiếng Ấn Độ nghĩa là giác ngộ, giác ngộ là ở trong mở mắt chiêm bao tỉnh dậy; như mình ở trong nhắm mắt chiêm bao tỉnh dậy tự chứng tỏ tất cả sự vật trong chiêm bao, người và thế giới chiêm bao đều chẳng thật.
(2 thứ chiêm bao…………….trang 80)

Bát Nhã Tâm Kinh, các chùa đều tụng có 262 chữ, nói: “Vô vô minh diệc vô vô minh tận, vô lão tử diệc vô lão tử tận”, làm sao tin! Tôi cũng già rồi chết. Phật nói không có già chết làm sao được? Tin không nổi là đang chiêm bao. Nếu có Thiện Tri thức giải thích cũng không tin, đến lúc thức tỉnh thì tự chứng tỏ, nên gọi là chứng ngộ.

Nay nói sơ cách thực hành Tổ Sư thiền. Làm sao thực hành? Tham thoại đầu và khán thoại đầu. Tham là hỏi câu thoại, mục đích khởi một niệm không hiểu không biết, như hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” cảm thấy không biết. Khán là nhìn chỗ không biết, muốn xem chỗ không biết là gì; chỗ không biết thì không có chỗ, vì có chỗ là biết. Không có chỗ là không có mục tiêu để nhìn, nhìn mãi không thấy gì, vẫn còn không biết, Thiền tông gọi là nghi tình.

Người tham Tổ Sư thiền cần giữ cái không biết đó, sẽ đưa hành giả đến thoại đầu rồi kiến tánh thành Phật. Cho nên hành giả vừa hỏi vừa nhìn, hỏi với nhìn đi song song; không phải hỏi trước nhìn sau, không phải hỏi sau nhìn trước. Hỏi không gián đoạn, nhìn cũng không gián đoạn; khi nào gián đoạn thì vọng tưởng nổi lên.

Ban đầu tập thì vọng tưởng xen lộn hoài, nhưng chỗ không hiểu không biết thì không có chỗ, cho nên lúc mới tập rồi nói “tôi nhìn không được”, nói nhìn không được là đã nhìn được rồi. Tại sao? Nhìn rồi mới biết nhìn không được, nhìn không thấy gì hết là đúng. Nếu nhìn thấy cái gì thì không đúng, vì hư không trống rỗng vô sở hữu lấy gì để thấy!

Cho nên, Lục Tổ nói: “Xưa nay không một vật, nơi nào dính bụi trần?” Trống rỗng vô sở hữu làm sao thấy cái gì? Nếu thấy cái gì thì có sở hữu là sai. Tuy không thấy gì cứ hỏi và nhìn, tại không thấy gì nên không biết, không biết cũng nhìn, nhìn chỗ không biết đó, sẽ đưa hành giả đến thoại đầu rồi kiến tánh.

Tất cả thiền khác phải cố gắng tập trung tinh thần, Tổ Sư thiền không cần tập trung tinh thần, cố gắng, chỉ cần miên mật một chút nghi tình kéo dài. Cho nên, chư Tổ nói: “Ít phí sức chừng nào tốt chừng nấy”, nếu cố gắng tập trung tinh thần là phí sức. Mình khỏi cần phí sức, chỉ là vừa hỏi vừa nhìn để giữ nghi tình.

Có người hỏi tham đến lúc nào được kiến tánh? Đó là tùy mình, bây giờ nói tham thoại đầu, nhưng chưa đến thoại đầu. Thoại là lời nói, đầu là đầu tiên lời nói; tức là chưa nổi niệm nào gọi là thoại đầu. Như muốn nói một lời nói thì phải khởi niệm rồi nói ra miệng; khi chưa khởi niệm muốn nói gọi là thoại đầu, có khởi niệm muốn nói, tuy chưa nói ra gọi là thoại vỉ.

Nhưng mình bắt đầu tham chưa đến thoại đầu, mục đích đến thoại đầu nên nói tham thoại đầu hay khán thoại đầu. Cách thoại đầu còn rất xa. Nếu công phu miên mật 24/24 thì đến thoại đầu. Bắt đầu tham được 1 phút trong 24 giờ, mỗi ngày nghi tình tăng 1 phút, một tháng tăng được 30 phút thì 12 tháng tăng được 6 giờ, bốn năm đến thoại đầu được kiến tánh.

Nếu mỗi ngày, nghi tình tăng ½ phút thì 8 năm đến thoại đầu được kiến tánh, mỗi ngày tăng nghi tình ¼ phút thì 16 năm đến thoại đầu được kiến tánh. Kiến tánh là phải theo công phu tiến triển của mình, nhưng công phu của mình là giữ nghi tình là không hiểu không biết.

Tôi thường thí dụ cây viết, đầu trên là thoại đầu, đầu dưới là thoại vỉ, từ thoại vỉ đến thoại đầu là đường đi ý thức. Bắt đầu tham là lìa thoại vỉ nhưng chưa đến thoại đầu, đang đi ở giữa đường. Ý thức có 2 mặt, mặt biết dùng để tu Như Lai thiền, mặt không biết tu Tổ Sư thiền, cuối cùng đều đến thoại đầu.

Dùng biết để tu là pháp thiền gián tiếp, dễ bị ngoại cảnh lôi kéo, vì thấy cái nào tốt thì ham thích, thấy cái nào xấu thì chê ghét; dùng không biết để tu thì tốt không biết tốt làm sao ham thích? Xấu không biết là xấu làm sao chê ghét? Cho nên không bị ngoại cảnh lôi kéo. Vì vậy pháp thiền này dễ tu hơn nhiều, mau đến thoại đầu. Nhưng dễ quá thành ra người ta không tin, lại tìm cái khó.

Hỏi:
Cái này là cái gì?

Đáp:

Hãy tự hỏi đi! Không những cái này không biết, mà tất cả các thứ khác cũng không biết. Đừng nói cái ở ngoài, sợi tóc của ông còn không biết, tế bào của ông cũng không biết; trong cơ thể của ông không biết, chứ nói ngoài cơ thể!

Tại sao không biết?

Vì muốn có sở hữu, muốn có cái biết; cho cái biết là sở hữu của mình, vì ông có tư tưởng chấp thật, cái biết sai lầm cũng muốn biết. Chính thân thể của mình không biết, ông là Tăng sinh biết được cái gì?

Con cũng không biết.

Tự mình học mà không biết, vậy còn hỏi ai? Nghi tình của Thiền tông là muốn tự hỏi, nếu hỏi Phật Thích Ca nói được đối với mình có ích gì! Huống là nói không được. Tại sao? Vì Phật rất sợ những người như ông vậy. Có tư tưởng chấp thật cứ đuổi theo lời nói, cho nên Phật nói: “49 năm thuyết pháp chưa từng nói một chữ”.

Kinh Kim Cang nói: “Ai nói Phật có thuyết pháp thì người ấy phỉ báng Phật”. Chính kinh Kim Cang của Phật thuyết, tại sao Phật nói như vậy! Lại nói: “Không có pháp để thuyết mới là thuyết pháp”. Những bổn phận học nhưng không chịu học, nếu Giáo sư hỏi mà ông trả lời “không biết” thì ông học cái gì?


Hỏi:
Có nhân quả sao gọi là tánh không, tánh không thì sao có nhân quả?

Đáp:
Tất cả do tâm tạo, nguồn gốc là tâm, nhân quả cũng là tâm. Tâm tạo không phải thật. Ý thức một mình tạo ra nhắm mắt chiêm bao, ý thức cùng 5 thức trước (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) tạo ra mở mắt chiêm bao. Nhắm mắt chiêm bao và mở mắt chiêm bao đều chẳng thật, tất cả nhân quả ở thế gian đều là mở mắt chiêm bao.
Nếu kiến tánh là nhảy ra ngoài chiêm bao, không bị chiêm bao nữa; tức ở trong mở mắt chiêm bao thức tỉnh là ở ngoài chiêm bao thì không dính dáng nhân quả chiêm bao. Vì người hỏi có tư tưởng chấp thật, nên có câu hỏi này. Tánh không là vô sở hữu làm sao có cái này có cái kia?

Hỏi:
Người ta sát sanh có nhân quả hay là tánh không?

Đáp:

Nhân quả là ở trong chiêm bao, không nhảy ra ngoài chiêm bao thì phải chịu nhân quả trong chiêm bao. Nhiều người chấp tri của bộ óc, tánh không là vô duyên tri (không có nhân duyên đối đãi), cũng là trí Bát Nhã, Phật tánh, Tự tánh, Như Lai, Niết Bàn, vô trụ, vô thỉ, vô sanh,… đủ thứ danh từ khác biệt, nhưng nghĩa không khác.

Những danh từ tùy dụng lập danh, người có tư tưởng chấp thật tranh cải những danh từ, vì không hiểu nguồn gốc. Danh từ muôn ngàn sai biệt, nhưng muốn hiển bày thể dụng của tâm. Bây giờ dùng cái tri của bộ não, chứ không phải vô duyên tri.
(Giảng 4 bài kệ chữ tri…… trang 66).

Hỏi:
Những cái biết không xử dụng được, thế nào biết không qua bộ óc?

Đáp:

Không phải là không qua bộ óc! Không cho bộ óc làm chủ. Bây giờ là do bộ óc làm chủ, đến chừng kiến tánh cũng qua bộ óc, không những qua bộ óc, qua nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; nhưng các thứ này không làm chủ, chỉ làm nô lệ cho Phật tánh, Phật tánh làm chủ. Theo danh từ khoa học gọi là chủ quan.

Ở Canada có giáo sư dạy tâm lý học, chuyên về tâm lý thầy trò. Tôi hỏi Giáo sư giảng bài cho sinh viên nghe, phải dùng thái độ nào mới đúng? Ông ấy trả lời nhiều chi tiết. Tất cả bây giờ theo hệ thống khoa học, tâm lý học thế gian cũng có hệ thống khoa học. Khoa học là một bộ phận trong Phật pháp, Phật pháp không thuộc về khoa học.

Tất cả pháp thế gian đều phải theo hệ thống khoa học, để người ta học cho dễ; mà cứ ghi nhớ nhiều quá sao làm được? Tâm lý học chưa có danh từ đó, đã có nhưng chưa biết dùng. Giáo sư giảng bài cho sinh viên nghe phải dùng thái độ khách quan, không dùng thái độ chủ quan. Tại sao? Nếu dùng thái độ chủ quan thì đem ý mình xen vô trong bài để giảng cho sinh viên nghe thì có hại cho sinh viên, không phải nguyên ý của tác giả.

Đó là pháp thế gian, khách quan còn có chủ quan tương đối. Phật pháp không tương đối, nếu đem pháp thế gian so với pháp không tương đối của Phật pháp (vô trụ) thì còn rất xa. Khách quan của thế gian thì cao đối với vô trụ của Phật còn kém lắm. Như Lục Tổ nghe Ngũ Tổ giảng “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” được ngộ. Dùng tay để ví dụ vô sở trụ, nếu vô sở trụ là hoạt bát vạn năng, lấy cái gì cũng được.

Có sở trụ thì hoạt bát vạn năng bị đánh mất.

Như trụ cây viết, mặt kiến,… đều không được. Cây viết, mặt kiến là pháp có, nhưng lại trụ nơi pháp không, tức trong tay không có gì cũng là chướng ngại, làm mất thể dụng bản tánh. Cho nên cái không này phải quét, vì cái không này do kiến lập, chứ chẳng phải cái không vô sở hữu.

Có người hỏi: “Tại sao không nói hư không quảng vô biên dung nạp tất cả vật, mà nói hư không vô sở hữu dung nạp tất cả vật?” Người hỏi đã kiến lập sở hữu hư không, có khái niệm hư không, nói hư không quảng đại thì không đúng. Nếu hư không vô sở hữu là chẳng có hư không thì lấy gì để quảng đại? Cái không có sở hữu và cái không vô sở hữu khác nhau. Cho nên, có quảng đại thì có hạn chế, không kiến lập nên không hạn chế.

Hỏi:
Cúng tuần thất cho người thân xúc động khóc, vậy người chết có siêu thoát không?

Đáp:

Siêu thoát hay không siêu thoát là tùy theo tâm của người chết, chứ không phải do con cháu cầu siêu. Nhưng sức cầu siêu (Trai Tăng) là nhờ tâm lực của chư Tăng hợp lại có thể ảnh hưởng đến tâm của người chết để sửa lại nghiệp.

Như Mục Kiền Liên chứng quả A La Hán có thần thông thấy mẹ đọa ngạ quỷ đang chịu khổ đói, ngài hóa ra bát cơm đem cho mẹ ăn, nhưng cơm vừa tới miệng lại hóa thành than lửa.

Nên ngài trở về hỏi Phật, Phật dạy sức của Mục Kiền Liên chưa đủ làm ảnh hưởng tâm người mẹ (Thanh Đề), phải nhờ 1250 vị Tỳ Kheo A La Hán có tâm lực mạnh ảnh hưởng, sửa lại nghiệp bà Thanh Đề thoát khỏi đạo ngạ quỷ sanh lên thiện đạo.

Thiện mạnh hơn ác một chút thì sanh lên thiện đạo, ác mạnh hơn thiện một chút thì sanh xuống ác đạo. Chỉ sửa lại một chút, nhưng chính người đó sửa mới được, người khác thay thế không được.

Người nào ăn người ấy no, con cháu có hiếu không thể ăn giùm cho cha mẹ; cha mẹ thương con cháu cũng không thể ăn giùm cho con cháu, tâm mình giống như vậy.

Hỏi:
Cúng cho người chết có về hưởng không?

Đáp:

Hưởng được là người đó có tu chưa đi đầu thai, có người đầu thai rồi cũng có thể về hưởng. Như Huỳnh Đình Kiên làm chức Thượng Thư ở nhà Đường (Bộ Trưởng bây giờ). Lúc ông 26 tuổi làm Huyện Trưởng, một hôm ăn sinh nhật rồi nghỉ trưa thấy chiêm bao, thấy một mình đi không có vệ binh theo, đến một làng nhỏ thôn quê gặp một bà già mời vô nhà ăn cơm, rồi xong đi về.

Thức dậy cảm thấy kỳ lạ giống như chuyện thật, rồi một mình đi không cho vệ binh biết, theo con đường đã thấy chiêm bao, đến nhà gặp bà già ấy, hỏi bà già hôm nay bà có làm việc gì không?

Bà già nói: Có, hôm nay là đám giổ con gái tôi đã chết 26 năm. Con gái tôi tu tại nhà không lấy chồng, đến lúc chết không có bệnh, nó có một cái rương tự mình khóa lại cất chìa khóa, rồi nói với tôi “kiếp sau con lại mở cái rương này”.

Huỳnh Đình Kiên nghe đến chỗ này nhớ lại kiếp trước, biết mình là con gái của bà già. Ông hỏi: Bà biết chìa khóa ở đâu không?

Bà già nói: Không biết.

Huỳnh Đình Kiên nói: Tôi biết.

Ông đi lấy chìa khóa mở cái rương, trong rương chỉ có văn chương, không có gì khác; bài thi đậu tú tài, cử nhân thì giống bài thi đậu tú tài và cử nhân của ông. Bà già chỉ có một mình, nên ông đem bà già về nuôi đến chết.

Hỏi:
Biết mình trong chiêm bao là như thế nào?

Đáp:
Chưa kiến tánh còn ở trong chiêm bao, bị nhân quả chiêm bao trói buộc.

Hỏi:
Người đã kiến tánh rồi luân hồi để độ sanh phải không?

Đáp:
Không phải, lúc đó là sanh tử tự do, muốn trở lại độ sanh vẫn được, muốn không trở lại độ sanh cũng được, tự do không phải nhất định; nếu nhất định không phải tự do tự tại. Ngài Lai Quả kiến tánh rồi nói:
“Tôi muốn lên Thiên đường hay xuống địa ngục đều được và ngược lại ”, chứ không có nhất định.

Hỏi:
Chư Phật chư Bồ Tát có mặt mọi nơi để độ sanh phải không?

Đáp:
Phải, các vị ấy không bao giờ ngưng độ sanh. Tâm của mình hoạt động cũng không bao giờ ngưng.

Hỏi:
Thọ giới Bồ Tát xuất gia không giữ được thì thế nào?

Đáp:
Thọ giới mà không giữ giới là phạm giới, nếu giữ không được thì xả giới; như thọ Bát Quan Trai mà không giữ được thì có thể xả. Truyền giới khó, xả giới dễ. Xả giới chỉ nói với một người “tôi muốn xả giới, xin chứng minh cho”, giống như sau này chưa thọ giới.
Người thọ ngũ giới muốn xả giới nói với người thọ ngũ giới, người thọ Bồ Tát giới muốn xả giới nói với người thọ Bồ Tát giới. Cư sĩ không được truyền giới.
Sám hối không phải đến trước bàn thờ Phật sám hối, vì trước bàn thờ Phật không có ai chứng minh. Cho nên, sau này dễ phạm như cũ. Sám hối nói với người thọ giới đó, như người thọ ngũ giới sám hối với người có thọ ngũ giới, nói rằng: “ Tôi có phạm giới đó, xin chứng minh, sau này tôi không tái phạm”.
Nếu sau này mình phạm giới thì người đó biết, có giới thể mình không dám tái phạm. Cho nên, theo giới luật nhà Phật, sám hối phải có người chứng minh. Chân sám hối là sám hối tâm, vì tất cả do tâm tạo. Có
bài kệ:

Tội từ tâm khởi lấy tâm sám,
Tâm nếu diệt rồi tội liền tiêu.
Tội tiêu tâm diệt thảy đều không,
Ấy mới thật là chân sám hối.

Tất cả xuất phát từ tâm, nên sám hối nơi tâm; tâm diệt rồi các tội nương tựa vào đâu?

Hỏi:
Thế nào phướn động, gió động và tâm của các ông động?

Đáp:
Khi Lục Tổ đến chùa Pháp Tánh thấy 2 vị Tăng tranh cải với nhau, một người nói gió động, một người nói phướn động, Lục Tổ nói “chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, là tâm của các ông động”.

Tại sao? Vì tất cả duy tâm tạo, nói theo khoa học là năng lượng của tâm. Tâm động thì gió động, tâm động mới có phướn động. Nếu không có tâm thì không có gió động, không có phướn động.

Lúc đó Lục Tổ đã kiến tánh chưa xuất gia, gặp Pháp sư Ấn Tông giảng kinh Niết Bàn, nghe người ta kể lại Lục Tổ không phải người thường, rồi hỏi Lục Tổ: Y bát của Ngũ Tổ đã truyền cho người đắc pháp đi xuống miền nam, có phải là hành giả không?

Lục Tổ nói: Phải.

Ấn Tông nói: Xin đem y bát cho đại chúng xem.

Ngài đem y bát ra cho đại chúng xem, biết ngài là Lục Tổ, mọi người đều đảnh lễ. Ấn Tông xuống tóc cho Lục Tổ, rồi xin Lục Tổ làm thầy, thỉnh Lục Tổ thăng tòa thuyết pháp.

Tâm hoạt động từ vô thỉ cho đến nay, luôn luôn khắp không gian thời gian. Tất cả vật chất do nguyên tử tổ chức thành, ở giữa mỗi hạt nguyên tử có một trung tử, chu vi trung tử có nhiều điện tử, ngày đêm xoay hoài không bao giờ ngưng, không có sự bắt đầu và cuối cùng.

Như cái bàn do nhiều nguyên tử tổ chức thành, điện tử xoay tốc độ quá nhanh người ta khó tưởng tượng. Tốc độ đó bằng 1/3 hay ½ tốc độ ánh sáng. Tốc độ ánh sáng 300.000 km/ giây, nếu ½ thì 150.000 km/ giây; bây giờ xe hơi chạy 100 km giờ thấy rất nhanh.

Chiếc xe hơi chạy phải có xăng, hạt nguyên tử ngày đêm xoay hoài, vậy năng lượng từ đâu? Nếu đem cái bàn chặt tan nát những hạt nguyên tử vẫn xoay không ngưng. Đó là năng lượng từ tâm, nhưng nhà khoa học không biết, không tin. Phật nói: “Tất cả do tâm tạo”, Lục Tổ nói rõ hơn. Tâm động nên gió động, tâm động phướn mới động, tâm động thì điện tử xoay.

Hỏi:
Giảm đi hương còn 20 phút được không?

Đáp:
Đi và ngồi là để điều thân, tức là ngồi đến tê chân rồi đi, đi tới mỏi chân lại ngồi; đi với ngồi bằng nhau bắt đầu từ Phật Thích Ca đến bây giờ. Các phái thiền các nước Tiểu thừa, như Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan,… hình thức cũng y như vậy.

Thiền Đường Trung Quốc khi tham thiền đốt một cây nhang để đi, hết cây nhang đi rồi đốt cây khác để ngồi, vì thời xưa không có đồng hồ. Đốt nhang nên gọi là tọa hương, đi hương và các việc khác cũng dùng thêm chữ hương để gọi.

Năm 1974, tôi đi Thái Lan thấy trung tâm thiền cách Bangkok hơn 100 km, có Thiền sư Miến Điện dạy thiền Tiểu thừa, họ đi và ngồi đều bằng nhau, giống như thời Phật Thích Ca, ở trong đó có người Hoa, người Việt học thiền.

Ngồi vẫn tham thiền, đi cũng tham thiền; pháp môn khác đều như vậy. Theo người thường ham ngồi, không thích đi, ngồi lâu lại chịu. Pháp thiền khác cho ngồi lâu chừng nào là cao chừng nấy.

Nhiều người chỉ ngồi không đi; ban đầu có đủ thứ bệnh cũng hết, đến khi quá lâu thành bệnh không bao giờ trị được. Đi đến Nhật Bản hay tới Mỹ, bác sĩ khám nói không có bệnh, nhưng tự mình biết bệnh rất nặng.

Ngày xưa người có bệnh lao rất khó trị, khi tôi qua Mỹ thấy những người bệnh lao đi bộ nhiều, qua một thời gian hết bệnh. Tôi không biết tại sao? Cho là đi bộ nhiều hết bệnh.

Bác sĩ phát hiện dưới bàn chân có nhiều huyệt, có bệnh gì xoa bóp dưới bàn chân thì mau hết bệnh. Người xưa không có giày dép, đi chân không là tự nhiên xoa bóp nên ít bệnh sống lâu.

Ban đầu, đả Thiền thất tại chùa Từ Ân, tôi cho đi 20 phút ngồi 40 phút. Vì tánh con người ham ngồi không thích đi, ban đầu tôi phương tiện cho ngồi đi như vậy. Sau này, người tham thiền có đủ lòng tin, nên tôi sửa lại ngồi 30 phút, đi 30 phút.

Hiện nay, Thiền Đường Từ Ân ở Mỹ, tôi tùy thuận người đến tham thiền, nên cho đi 20 phút và ngồi 30 phút. Nhưng ở đây thì khác, vì vậy tôi cho thực hành đi ngồi bằng nhau.

Hỏi:
Câu thoại đầu: “Trước khi cha mẹ chưa sanh mặt mũi bổn lai của ta ra sao?” Mặt mũi ở đây là gì? Người sanh ra đã đầu thai nhiều kiếp, vì nghiệp lực có khi đầu thai heo, khỉ, gà, vịt,… Vậy mặt mũi đầu thai rõ ràng làm sao tham được?

Đáp:
Người hỏi không biết tham thiền, hỏi câu thoại là kích thích lên niệm không hiểu không biết. Chuyện này tôi đã nhắc đi nhắc lại hơn 100 lần. Theo câu hỏi là muốn giải thích câu thoại, ấy là sai lầm; tức là tham thiền không thể được. Mục đích là muốn ngưng tìm hiểu biết, ghi nhớ biết và suy nghĩ biết.

Khi cha mẹ chưa sanh, mặt mũi bổn lai của ta ra sao? “Mặt mũi bổn lai” là không phải cha mẹ sanh. Hỏi câu thoại là khởi lên niệm không hiểu không biết, nhìn chỗ không biết, để chấm dứt tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ chỉ còn nghi tình; giờ phút cuối cùng nghi tình tan rã, biết và không biết của bộ óc sạch hết thì biết tự tánh hiện lên khắp không gian thời gian.

Khắp không gian thì không có chỗ nào không biết, khắp thời gian thì không có lúc nào không biết. Như nói về thời gian, ngủ mê không biết, chết giấc không biết, thật chết không biết; còn cái biết bản lai diện mục, ngủ mê, chết giấc, thật chết đều biết, vì cùng khắp thời gian.

Hỏi:
Có người quy y rồi, họ tham Tổ Sư thiền muốn quy y lại. Vậy như thế nào?

Đáp:
Quy y Tam Bảo là đệ tử của Tam Bảo, đâu cần quy y lại! Chưa quy y thì cần quy y làm đệ tử Tam Bảo. Quy y là quy y Tam Bảo, chứ không phải quy y riêng thầy nào; vị thầy ấy chỉ đại diện Tam Bảo chứng minh người này quy Tam Bảo làm đệ tử của Tam Bảo.

Tam Bảo gồm có: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo.

Tăng Bảo là tiếng Ấn Độ, gọi là Tăng Già, dịch nghĩa là hòa hợp chúng. Theo giới luật nhà Phật quy định 4 vị sắp lên gọi là Tăng, 3 vị cũng chưa đủ thành Tăng. Nam nữ hòa hợp lại cũng thành Tăng, Tỳ Kheo đứng đầu trong 7 chúng (Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di, Thức Xoa, Sa Di Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di).

Hỏi:
Tại sao ăn chay cử hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ. Hiện nay tỏi có nhiều đặc tính trị bệnh. Vậy nên cử hay không?

Đáp:
Phật dạy người tu hành không được ăn ngũ tân (hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ). Kinh Lăng Nghiêm nói: “Ăn ngũ tân sống kích thích dâm dục, ăn chín kích thích sân hận”, vậy không thích hợp cho người tu.
Theo giới sát sanh thì 5 thứ này không phạm, mà chướng ngại việc tu. Người thế gian không tu nên không cấm.

Hỏi:
Tu rồi kiến tánh, có chỗ nói kiến tánh rồi khởi tu. Vậy như thế nào?

Đáp:
Nói cho đúng là chưa phải tu, như người đời vẫn cho là tu, bất cứ pháp môn nào cũng cho là tu. Nói kiến tánh rồi khởi tu, nhưng bây giờ hiếm người kiến tánh làm gì có người để tu? Vì người ta chưa hiểu được chữ “tu”, tu là sửa; như ác sửa thành thiện, tật xấu sửa lại tốt. Không phải ngộ rồi mới tu!
Ngộ rồi tu là bảo nhậm để dứt tập khí, như chưa kiến tánh là tu để dứt tập khí thế gian, kiến tánh là dứt tập khí xuất thế gian. Sửa lại tập khí phiền não gọi là tu, tâm linh mình có sửa đổi cũng gọi là tu.

Hỏi:
Kiến tánh là do mình thấy hay do người nào chỉ cho mình thấy?

Đáp:
Nếu nhờ người ta cho mình thấy thì Phật Thích Ca dạy mọi người kiến tánh hết rồi, đâu còn chúng sanh nữa! Kinh A Di Đà nói: “Hằng hà sa số chư Phật” thì bây giờ chúng sanh kiến tánh hết. Vì người khác làm thế cho mình mà! Người khác không thay thế được, nên chư Phật chư Tổ dạy mình tu hành để kiến tánh.
Nói cũng không được làm sao thay thế! Như cha mẹ thương con cháu không ăn no giùm cho con cháu, con cháu hiếu thảo không thể ăn no giùm cho cha mẹ. Người nào ăn người ấy no, chứ không thể ăn thế được; kiến tánh cũng vậy.

Hỏi:
Tu là diệt trừ tam độc, làm sao diệt trừ?

Đáp:
Kinh Đại thừa liễu nghĩa nói “tham, sân, si là giải thoát”. Vì có nhân mới có quả, nhân quả là tương đối; tự tánh bất nhị không tương đối, không đối đãi. Chưa đạt đến bất nhị còn ở trong tương đối, phải có tham, sân, si đến giải thoát. Vì tham, sân, si là nhân, nên Lục Tổ nói: “Thiền định giải thoát chẳng phải Phật pháp, Phật pháp là pháp bất nhị”.

Tại sao? Nếu có thiền định phải có tán loạn, có tán loạn phải có thiền định; có giải thoát phải có trói buộc, có trói buộc rồi có giải thoát. Trói buộc là tham, sân, si. Không có tham, sân, si thì không có giải thoát; tức là không có nhân để giải thoát. Nên nói “tham, sân, si là giải thoát”.

Có cần trừ không?

Khỏi cần trừ! Chỉ cần thấu được tham, sân, si vốn là giải thoát.

Có một Kỹ Sư đến nói với tôi: Sao Tôi có nghiệp chướng nặng và phiền não nhiều, thầy có cách nào trừ nghiệp chướng phiền não không?

Tôi hỏi: Ông nói nghiệp chướng phiền não của ông phải không?

Kỹ Sư đáp: Phải.

Tôi hỏi: Tiền trong túi ông, vậy ông biết tiền từ đâu mà có! Như nghiệp chướng phiền não của ông từ đâu có? Ông suy nghĩ một hồi trả lời không được. Ông trả lời không được, tôi trả lời cho ông: Nghiệp chướng phiền não của ông là từ tâm suy nghĩ của ông mà ra, tâm của ông là năng suy nghĩ, nghiệp chướng phiền não là sở suy nghĩ. Vì có tâm năng suy nghĩ nên có nghiệp chướng phiền não.

Nếu tâm không suy nghĩ thì nghiệp chướng làm sao có! Tâm là một danh từ ai cũng nói được, nhưng tâm là cái gì chẳng ai biết. Ông Kỹ Sư không biết tâm là cái gì, thành ra chưa rõ được. vì tâm không hình tướng số lượng khó diễn tả, nên dùng hình tướng để diễn tả.

Hai chân là của ông năng đi, con đường có gai gốc cứt sình là sở đi của 2 chân; con đường gai gốc cứt sình dụ cho nghiệp chướng phiền não của ông, nhưng sự thật không phải. Tại 2 chân của ông ham giẫm lên con đường đó mới bị dính cứt sình, rồi hỏi tôi làm sao để rửa cứt sình? Đâu cần, có thúi cách mấy mặc kệ nó! Chỉ cần giữ 2 chân của ông đừng giẫm lên con đường đó, thì không bị dính cứt sình, cũng không cần phải rửa sạch cứt sình.

Đó là ở ngoài 2 chân của ông, không phải của ông. Tâm của ông đừng suy nghĩ làm sao có nghiệp chướng phiền não? Tại ông cứ suy nghĩ hoài thì có sanh ra nghiệp chướng phiền não, giống như 2 chân giẫm lên gai gốc cứt sình mới bị dính.

Hỏi:
Con mua cá thịt nấu cho gia đình ăn, vậy có nhân quả không?

Đáp:
Nếu mình cấp dưới nghe lệnh cấp trên làm theo mà không có ý đó thì không tội, tức là không có nhân nên không có quả. Người ra lệnh mình làm phải chịu quả, nếu mình thích ăn thứ đó là có nhân quả.

Hỏi:
Con đi xuất gia nhưng gia đình con không cho, vậy con có lỗi không?

Đáp:
Phật Thích Ca trước kia trốn hoàng cung đi xuất gia, sau này thành Phật. Nếu xuất gia phải chân thật tu, nếu không chân thật tu sẽ mang nợ Thí Chủ. Có bài kệ:

Hạt gạo của Thí Chủ,
Lớn bằng núi Tu Di.
Nếu không tu giải thoát,
Mang lông đội sừng trả.

Cho nên, nhiều người muốn xuất gia, tôi khuyên đừng xuất gia, tại gia cũng tu được vậy, nhất là người nữ.

Con ở nhà khó tu lắm!

Nếu tu Tổ Sư thiền không phải khó, chỗ nào cũng tu được. Cấp trên ra lệnh mình làm, vừa làm vừa hỏi và nhìn song song. Cách tu này dùng không biết để tu, rất dễ! Dùng cái biết của Như Lai thiền để tu khó hơn. Tại biết tốt thì ham, biết xấu thì chê. Không biết tốt làm sao ham? Không biết xấu làm sao chê? Cho nên, khó bị ngoại cảnh lôi kéo.

Hỏi:
Xin thỉnh khai thị: Chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm?

Đáp:
Tâm của mình không có hình tướng số lượng, nên gọi là thật tướng (diệu tâm). Diệu là bất khả tư nghì, tâm suy nghĩ không thể đến được, cho nên nói là diệu tâm. Ngài Long Thọ dùng hư không vô sở hữu thí dụ diệu tâm. Tánh con người ham lập sở hữu, như nhà, tiền, đất,… là sở hữu của tôi. Như mình có căn nhà chưa có quyền sở hữu, phải lo giấy tờ để có quyền sở hữu.
Chính sở hữu chướng ngại dụng của diệu tâm, diệu tâm là vô sở hữu; vô sở hữu là trống rỗng tức tánh không thì dung nạp và ứng dụng. Ngài Long Thọ nói: “Hư không vô sở hữu dung nạp và ứng dụng tất cả vật”.
Tánh con người ham sở hữu, nói vô sở hữu không chịu. Cho nên có câu hỏi: Tại sao ngài không nói hư không quảng đại vô biên dung nạp tất cả vật, mà nói hư không vô sở hữu dung nạp tất cả vật?
Nếu hư không vô sở hữu thì không có hư không lấy gì để dung nạp? Ngài nói: “Vô sở hữu mới dung nạp”. Trước mắt mình thấy rõ ràng, núi sông đất đai, cây cối nhà cửa,… đều phải ở trong vô sở hữu. Nói hư không quảng đại là kiến lập hư không, tức đã có hư không rồi nói hư không quảng đại.
Nếu không có hư không thì lấy cái gì quảng đại? Tánh con người ham kiến lập, luôn hư không cũng kiến lập thành có khái niệm của hư không. Kỳ thật, hư không là vô sở hữu, không có cái gì để nói quảng đại! Vì vô tướng gọi là thật tướng, còn có tướng không phải thật.

Hỏi:
Phản văn văn tự tánh và tham thoại đầu như thế nào?

Đáp:
Tổ Sư thiền là muốn hiện toàn diện tự tánh, tự tánh là bất nhị không có nhân duyên đối đãi. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Phản văn văn tự tánh”, tánh nghe là không nghe âm thanh (động), cũng không nghe tịnh; động tịnh là pháp sanh diệt, tự tánh là pháp bất sanh bất diệt. Có âm thanh gọi là động, không có âm thanh gọi là tịnh; động tịnh đều không nghe, nên trở về (phản) nghe tự tánh.

Chiếu cố thoại đầu, chiếu là chiếu soi, cố là nhìn; tôi dạy hỏi và nhìn, nhìn chỗ không biết, vì không có tướng nên không có đối đãi là tự tánh bất nhị. Phản văn văn tự tánh là nhìn chỗ không biết.

Chiếu cố là dùng tánh thấy, phản văn là dùng tánh nghe cũng là một thứ. Xác thân này chết, thiêu thành tro, chôn thành đất; còn tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh biết,… tồn tại vĩnh viễn, không chết mất; Phật có chứng tỏ trong kinh Lăng Nghiêm.

Ai cũng cho kẻ thấy là con mắt, nhưng Phật chứng tỏ không phải sự thấy là con mắt. Vậy Phật làm sao chứng tỏ? Mỗi cuốn kinh đều có vị đại diện đương cơ cả triệu người nghe để hỏi Phật. A Nan là đại diện đương cơ.

Phật dùng tay thí dụ: Ta có cái tay để làm nắm tay, ngươi có con mắt thì thấy được Như lai, vậy hai việc này có giống nhau không?

A Nan đáp: Giống nhau.

Phật nói: Không giống. Tại sao? Ta có cánh tay mới làm ra nắm tay được. Nếu không có cánh tay thì nắm tay làm sao có? Người không có con mắt vẫn còn thấy được.

A Nan nói: Người không có con mắt làm sao thấy?

Phật bảo: Ngươi đi hỏi người không có con mắt, trước mắt có thấy gì không? Người ấy sẽ trả lời: Trước mắt sẽ thấy đen tối.

A Nan nói: Thấy trước mắt đen tối, sao gọi là thấy?

Phật muốn giải thích “thấy đen tối vẫn là thấy” thì phải thí dụ thêm. Một người không có con mắt ở trong phòng đen tối không có ánh sáng gì cả, có phải thấy trước mắt đen tối phải không?

A Nan đáp: Phải, thấy đen tối.

Phật nói: Vậy người có con mắt thấy trước mắt đen tối và người không có con mắt thấy trước mắt đen tối, hai thứ đen tối này có khác nhau không?

A Nan đáp: Không khác.

Phật hỏi tiếp: Vậy người không có con mắt, thình lình được con mắt sáng thấy đồ vật sắc tướng trước mắt, phải là con mắt thấy không?

A Nan đáp: Phải, con mắt thấy.

Phật hỏi tiếp: Người có con mắt ở trong phòng đen tối, thình lình đối đèn lên thấy rõ đồ vật sắc tướng trước mắt, có phải đèn thấy không?

A Nan đáp: Không được. Cây đèn là hiển hiện sắc tướng để chiếu soi như lục căn vậy. Năm thức trước (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) chỉ tác dụng như cây đèn, chứ không phải kẻ thấy, kẻ thấy là tánh thấy.

Thấy là nhãn thức mà không phải nhãn căn, nhãn căn chỉ là chiếu soi như cây đèn.

Sáng với tối là hai pháp sanh diệt, lúc sáng thì không thấy tối, lúc tối thì không thấy sáng. Nếu thấy tối là không thấy thì thấy sáng cũng là không thấy. Vì lúc sáng thì không thấy tối cho là không thấy, lúc tối thì không thấy sáng cũng cho là không thấy. Nói thấy thì hai cái đều thấy, thấy sáng cũng là thấy, thấy tối cũng là thấy. Tại sao thấy tối mà nói là không thấy? Còn thấy sáng cho là thấy! Đó là mâu thuẩn.

Do thí dụ của Phật nên mình biết: Cái thấy không phải con mắt, mà cái thấy là tánh thấy. Con mắt là tác dụng như cây đèn để chiếu soi. Căn là vật chất thì chết mất, thức là thể tinh thần không chết mất. Tại sao? Vì nó không lay động nên không biến đổi.

Tiếp theo vua Ba Tư Nặc hỏi Phật: “Ngoại đạo nói khi thân này chết thì tất cả đều biến mất” phải không?

Phật nói: Không phải, cái nào có lay động thì biến đổi chết mất. Cái nào không lay động không biến đổi không chết mất, tồn tại vĩnh viễn.

Phật hỏi vua Ba Tư Nặc: Vua biết mình có cái không chết mất không?

Vua đáp: Không biết.

Phật nói: Để cho ta nói cho vua biết.

Phật dùng tay để đối đáp với A Nan, Tay Phật nắm buông rồi hỏi A Nan: Ngươi có thấy tay ta nắm buông không?

A Nan đáp: Thấy tay Phật nắm buông.

Phật nói: Thấy tay ta nắm buông hay tánh thấy của ngươi nắm buông?

A Nan nói: Tay của Phật nắm buông, còn tánh thấy của con đâu có lay động mà nói nắm buông!

Tay của Phật nắm buông, sau khi chết thiêu thành tro, chôn thành đất. Tánh thấy không lay động làm sao chết mất được? Vì không lay động thì không biến đổi, không biến đổi thì không chết mất. Tại vì con mắt lay động thì chết mất. Tánh thấy không lay động thì không chết mất, tồn tại vĩnh viễn.

Như vậy, Phật còn chưa thỏa mãn, cái lay động là thân của Phật, còn tánh thấy không lay động là thân của A Nan, hai thân khác nhau. Phật muốn trong một thân có cái lay động và có cái không lay động.

Phật mới phóng hào quang bên vai mặt của A Nan, A Nan ngó qua vai mặt. Phật phóng hào quang vai trái của A Nan, A Nan ngó qua vai trái.

Phật hỏi A Nan: Tại sao cái đầu ngươi ngó qua ngó lại làm cho đầu ngươi lay động vậy?

A Nan đáp: Đầu của con lay động, còn tánh thấy của con tịnh còn không có làm sao có động?

Cho nên, cái đầu lay động thì sau này sẽ chết mất, thiêu thành tro, chôn thành đất. Còn tánh thấy không lay động, không biến đổi thì làm sao chết mất được? Không những tánh thấy không chết mất, mà tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc và tánh biết đều tồn tại vĩnh viễn, không chết mất.

Hỏi:
Con xem sách thấy Thiền sư thường đánh thức tánh thấy tánh nghe, để người nhận rồi tu; không biết các vị dụng công thế nào để kiến tánh, Tổ không dạy tham thoại đầu?

Đáp:
Ông thấy Tổ nào?
Một người hỏi Tổ Vân Môn: Bạch Hòa thượng! Mười phương chư Phật chỉ một con đường vào cửa Niết Bàn, vậy đầu đường chỗ nào? Tổ Vân Môn cầm cây quạt phất lên. Có phải đánh thức tánh thấy của người đó không?
Không phải! Lời nói hay cử chỉ của chư Tổ là muốn hành giả ngộ liền; nếu không ngộ thì không hiểu nên phát nghi, giữ nghi tình sau này sẽ ngộ. Không phải như ông tìm hiểu giải thích!
Dùng nghi tình automatic chấm dứt tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết. Tất cả biết chấm dứt còn lại không hiểu không biết, sát na cuối cùng lìa khỏi ý thức thì không biết cũng tan rã; biết và không biết sạch hết, biết của Bát Nhã toàn diện hiện lên khắp không gian thời gian.

Hỏi:
Pháp môn Tịnh Độ là gì?

Đáp:
Tịnh độ có 3 cuốn kinh: Kinh A Di Đà (tiểu và đại), Vô Lượng Thọ Phật Và Quán Vô Lượng Thọ.
Kinh đại A Di Đà nói: “Vãng sanh Cực Lạc nhờ Phật A Di Đà dạy tham thiền là từ nghi đến ngộ”. Bất cứ pháp môn nào của Phật dạy cũng từ nghi đến ngộ, không phải chỉ pháp môn Tổ Sư thiền. Các pháp môn của Phật đều lấy thiền làm căn bản, nhưng có một số người tu Tịnh Độ không nhìn nhận mình là thiền, lại bài xích thiền.
Tịnh Độ có 3 thứ:
Thật tướng niệm Phật là thiền, giống như Tổ Sư thiền.
Quán tưởng niệm Phật là trong kinh Quán Vô Lượng Thọ có 16 pháp thiền quán là thiền đặc biệt của Tịnh Độ.
Trì danh niệm Phật, niệm Phật đến nhất tâm bất loạn cũng là thiền.

Hỏi:
Người tu theo đạo Thiên Chúa, chết về bên Chúa; người tu Tịnh Độ, chết vãng sinh Tây Phương; hành giả tham thiền, chết đi về đâu?

Đáp:
Vì ông chưa tin tự tâm, nên không biết tự tâm không sanh không diệt; kiến tánh rồi biết không sanh tử, làm sao có đi về đâu? Bản tâm khắp không gian không có khứ lai nên gọi là Như Lai, vậy không có đi về đâu! Nếu có đi về đâu thì không cùng khắp không gian, không được gọi là Như Lai. Cùng khắp không gian nên trên mặt trăng mặt trời đều biết, không có chỗ nào không biết. Có một chỗ đi về đâu thì biết, còn mấy chỗ kia không biết.

Khắp thời gian là không gián đoạn, gọi là Niết Bàn. Người tu theo đạo Thiên Chúa tuy sanh lên cõi trời, nhưng ngủ mê, chết giấc, thật chết họ không biết. Kiến tánh ngủ mê, chết giấc, thật chết đều biết; tại kiến tánh biết không có sự chết, sự chết là cảm giác sai lầm. Như thân mình xoay thấy căn nhà xoay là do cảm giác sai lầm.

Hỏi:
Khi ngồi tham thiền thấy cảnh trước mắt chuyển động, vậy tâm xoay hay cảnh xoay?

Đáp:
Do tâm xoay, vì tất cả đều tâm tạo; năng lượng xuất phát từ tâm. Tất cả vật chất là do các hạt nguyên tử tổ chức thành, như cái bàn được tổ chức nhiều hạt nguyên tử mà thành; mỗi hạt nguyên tử ở chính có trung tử, chu vi có nhiều điện tử đang xoay ngày đêm không bao giờ ngưng. Nhà khoa học biết tốc độ xoay bằng ½ cho đến 1/3 tốc độ ánh sáng, tốc độ ánh mỗi giây 300.000 km; nếu ½ thì 150.000 km.

Chiếc xe hơi chạy 100 km giờ thấy rất nhanh, nhưng phải dùng xăng đốt cho nóng có năng lượng rồi chạy. Điện tử xoay ngày đêm nhanh, vậy năng lượng từ đâu có? Phật đã nói năng lượng phát xuất từ tâm. Cho nên nói: “Vạn pháp duy tâm”.

Hỏi:
Phật nói nhổ gốc rễ là sao?

Đáp:
Phật nói nhổ gốc rễ là gốc rễ sanh tử, tức đoạn dứt gốc nghi là đoạn dứt gốc sanh tử. Người ta nghe tôi nói đoạn dứt mạng căn lấy làm sợ, vì họ ham thích sanh mạng. Gốc rễ là gốc sanh mạng, nhỗ được gốc sanh mạng thì thoát khỏi sanh tử luân hồi; tức ra ngoài chiêm bao mở mắt.

Hỏi:
Tham Tổ Sư thiền đến giai đoạn quên hết tất cả cảnh vật bên ngoài, vậy làm sao hòa hợp với chúng và biết đường về?

Đáp:
Bản tâm khắp không gian thời gian, khắp thời gian thì làm việc không ngưng. Lúc hoàn toàn không biết là không biết bộ óc, chứ không phải là không biết của Phật tánh (bản tâm). Cho nên bản tâm làm việc bình thường, không có nguy hiểm.

Như đang tham thiền chạy xe máy, lúc ấy không biết nhưng giữa đường có cục đá, vẫn tránh được mà người ấy không biết.

Hỏi:
Thế nào là công án?

Đáp:
Mục đích công án kích thích một niệm không hiểu không biết, giống như thoại đầu. Công án phức tạp hơn thoại đầu là dài hơn câu thoại, câu thoại thì đơn giản.
Như công án chữ “vô” của Triệu Châu:
Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh không?
Triệu Châu đáp: Có.
Tăng khác hỏi: Con chó có Phật tánh không?
Triệu Châu đáp: Không.
Tại sao Triệu Châu đáp vậy, có người đáp có, có người đáp không? Chúng sanh đều có Phật tánh, con chó là chúng sanh sao không có Phật tánh? Công án đó là tham ý của Triệu Châu, vì Triệu Châu là Tổ kiến tánh danh tiếng, sao Tổ trả lời cho người ta như vậy? Không hiểu ý Triệu Châu thế nào? Không hiểu ấy là nghi tình.

Hỏi:
Tham thiền có chọn giờ, ngồi hướng đông hay hướng tây phải không?

Đáp:
Đó là không phải Tổ Sư thiền, mà thiền khác. Tổ Sư thiền luôn cả ngồi cũng không cần, như ngồi trên ghế hoặc đi kinh hành; nấu cơm giặt đồ đều tham được, chứ không cần phải ngồi; ngồi đã không cần, vậy sao có hướng nào!

Hỏi:
Lúc trước, con chưa tin tự tâm 100%, nhận được vô duyên tri tự nhiên tâm mãnh liệt, không biết sợ, sẵn sàng vào chỗ không biết để hành thâm. Phát hiện chỗ chết rồi sống lại, nếu không chết thì không thể sống; con nhảy vào chỗ chết hành ngay, không phải không tham, nhưng không có câu thoại, rất miên mật. Vậy chỗ ấy là chân tham phải không?

Đáp:
Theo ông kể thì chưa phải, chết đi sống lại là giờ phút cuối cùng lìa ý thức thì kiến tánh. Thiền tông gọi là “tuyệt hậu tái tô”. Biết và không biết của bộ óc sạch hết gọi là chết, khi sống lại không phải cái biết đó, là cái biết vô duyên tri.

Vừa trình ra là qua ngôn ngữ khó diễn tả, lúc hành thâm không phải như trình ra; tức là không có biết bộ não, còn cái không biết?
Nếu đi tới cảnh giới đó sẽ kiến tánh.
Được như vậy không có kéo dài?

Nếu không kéo dài thì không phải thoại đầu, đến thoại đầu rồi muốn nổi lên một niệm khác cũng không được.

Con trình chỗ đó để nổ lực công phu kéo dài tới thành công!

Đến chỗ đó không cần cố gắng, kéo dài; vì chỗ này tự động. Nếu chưa đến chỗ đó cũng không cần cố gắng, tập trung tinh thần; tức ít phí sức chừng nào tốt chừng nấy.

Ví dụ cây viết là ý thức, đầu trên là thoại đầu, đầu dưới là thoại vỉ. Bắt đầu tham là lìa khỏi thoại vỉ, nhưng chưa đến thoại đầu; từ thoại vỉ đến thoại đầu là đường đi ý thức, ý thức là nhất niệm vô minh từ niệm này qua niệm kia. Dùng ý thức để tham đến thoại đầu gọi là vô thỉ vô minh.

Ý thức gồm có 2 mặt: Dùng mặt biết để tu là Như Lai thiền, dùng không biết để tu là Tổ Sư thiền. Khi tham đến thoại đầu thì câu thoại tự mất, chỉ còn nghi tình, cái biết không thể nổi lên. Gần tới thoại đầu thì cái biết cũng có thể nổi lên. Vô thỉ vô minh là hang ổ của nhất niệm vô minh, nhất niệm vô minh từ chỗ đó nổi lên.

Vô thỉ vô minh (thoại đầu, nguồn gốc ý thức, đầu sào trăm thước) chưa lìa ý thức. Ngài Lai Quả diễn tả chỗ này sát na lìa ý thức là lọt vào hư không té xuống chết, chết rồi sống lại có 2 thứ: Tiểu tử tiểu hoạt và đại tử đại hoạt.

Tiểu tử tiểu hoạt là té chết nhưng còn xác, rồi sống lại. Đại tử đại hoạt là té chết không còn xác, rồi sống lại. Cái xác là thí dụ cảnh giới ngộ.

Người Tiểu thừa tuy ngộ nhưng lại ôm cảnh giới ngộ, như Niết Bàn Tiểu thừa chứng quả A La Hán cho là ta chứng, tức là ngã vi tế cho nên thí dụ còn cái xác.

Đại tử đại hoạt là không còn ngã, tức vô tu vô chứng, ngộ rồi đồng như chưa ngộ. Vì còn ôm cái ngã là còn mê, nên chưa ngộ triệt để, còn có mê để đối đãi, do mê mới có ngộ. Hết mê thì ngộ không còn, nếu còn ngộ thì có mê để đối đãi. Cho nên đại tử đại hoạt thì xác tan rã hết.

Con biết chưa đến thoại đầu, do trình bày không khéo. Con phát hiện một lối công phu để chết hết tâm ý thức nhanh hơn!

Đừng tính như vậy, cứ hỏi và nhìn, giữ nghi tình là đủ rồi. Đừng tính toán, sắp đặt và không có cho là. Thật không biết thì không có gì để nói, bây giờ nói và diễn tả được là đã biết; chứ không biết làm sao diễn tả?

Có lúc không biết rồi một lúc biết, nhưng mình nắm chỗ không biết xâm nhập vào chỗ đó!

Ngài Đại Huệ kiến tánh rồi chưa làm trụ trì, ngài làm Thủ Tọa của một Thiền Hội khác. Ngài Đức Sơn đã kiến tánh làm trụ trì, có một Sa Di tìm Thủ Tọa nói: Tôi đọc ngữ lục của Thủ Tọa, đem ra trình Thủ Tọa coi đúng không?

Vừa nói xong, Đại Huệ nói: Đi đi không phải!

Sa Di nói: Tôi chưa trình, sao nói không phải?

Đại Huệ nói: Đi đi không phải!

Làm cho Sa Di ngơ ngác, nếu đã ngộ thì lấy gì trình ra? Vì chưa ngộ nên dùng cái biết của bộ óc, mới có cái gì để trình. Biết của vô duyên tri không có kiến lập. Như 4 bài kệ của ngài Vĩnh Gia là tự mình biết cái tri cũng không được, huống là còn biết cái cảnh. Ông có công phu như vậy có thể đúng năm sáu phần, cứ tiếp tục hỏi và nhìn là được.

Hỏi:
Tham thiền bị vọng tưởng xen vào nên công phu gián đoạn, ngài Lai Quả nói: “Lúc tham mà vọng tưởng ví như người không mắc nợ, tự nhiên đi dánh bạc bị thua lại vay nợ thêm”. Vậy như thế nào?

Đáp:
Chưa đến thoại đầu thì vọng tưởng tự nhiên nổi lên. Chưa tham thiền, mình không biết có vọng tưởng; bắt đầu tham thiền phát hiện nhiều vọng tưởng, một thời sau vọng tưởng bớt dần, nhưng cứ xen lộn hoài. Ban đầu xen lộn chỉ thấy vọng tưởng, không thấy nghi tình. Cho nên nói là không có nghi tình.
Sau này, vọng tưởng bớt, nghi tình nhiều hơn, rồi bớt dần dần đến thoại đầu. Chưa đến thoại đầu phải có vọng tưởng, nếu không có vọng tưởng thì đến thoại đầu. Phương tiện của chư Phật chư Tổ tùy theo trình trạng, đừng chấp vào việc ấy; tức là tùy người có khác, tùy thời gian có khác.

Hỏi:
Thế nào là tin tự tâm 100% và tin pháp môn 100%?

Đáp:
Tin pháp Tổ Sư thiền 100% là đến chết không đổi pháp môn khác. Tin tự tâm là tin tâm mình bằng như chư Phật, thần thông trí huệ bằng như chư Phật không kém một chút.
Tôi hỏi: Phật tánh có giảm bớt không?
Không.
Phật tánh có thể gián đoạn không?
Không.
Phật tánh không gián đoạn là cái tri có sẵn (vô duyên tri, trí Bát Nhã). Dùng không được là do biết của bộ óc che khuất, chứ không phải tri có sẵn gián đoạn.

Hỏi:
Hành giả tham thiền 24/24 mới miên mật, khi ngủ không tham thiền được là gián đoạn. Sư Phụ khai thị cho con ngủ vẫn tham thiền?

Đáp:
Tập dần dần, cứ hỏi và nhìn song song sẽ có một ngày đến thoại đầu. Thí dụ tham thiền có nghi tình, mỗi ngày tăng 1 phút thì 4 năm đến thoại đầu, mỗi ngày nghi tình tăng ½ phút thì 8 năm đến thoại đầu, mỗi ngày nghi tình tăng ¼ phút thì 16 năm đến thoại đầu. Tùy theo công phu của mình.

Hỏi:
Tại sao xuất gia rồi mà tánh hay sân?

Đáp:
Vì không tin pháp môn và cũng không tin tự tâm, không thực hành đúng làm sao sửa được tập khí phiền não!

Hỏi:
Thế nào là chánh tín và mê tín?

Đáp:
Chánh tín theo nghĩa rộng phải đúng nhân quả. Trong Phật pháp có 5 thứ ác kiến: Thân kiến, tà kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến. Có 5 thứ ác kiến đều thuộc về mê tín, không có 5 thứ này gọi là chánh tín.

1.Chấp thân này rồi yêu quý gọi là thân kiến.

2.Biên kiến là chấp vào một bên, như chấp thật có hay chấp thật không, chấp thật thường hoặc chấp thật đoạn,… nhiều người giảng kinh thuyết pháp vẫn chấp một bên tự mình không biết. Phật dạy không chấp thật, mà lại chấp huyễn, chấp giả; cho tất cả đều là giả, tất cả đều là huyễn! Lấy cái này để dạy người, mọi người cho là một cao Tăng, đã lọt vào biên kiến không hay.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Phi huyễn không thể kiến lập, huống là pháp huyễn”, pháp chẳng phải huyễn không thể thành lập được, huống là thành lập cái huyễn.

3.Tà kiến là không tin nhân quả, như người ta cầu cái này cầu cái kia. Nếu cầu được là không tin nhân quả, tin nhân quả thì khỏi cần cầu. Gieo thiện nhân được thiện quả, gieo ác nhân thì chịu khổ quả. Vậy cầu không thể được, cầu được là mê tín.

4.Kiến thủ kiến là chấp lấy kiến giải cho là cao nhất, như các tôn giáo kiến lập một chơn lý cho là cao nhất. Phật Giáo không kiến lập chơn lý, tất cả đều không kiến lập. Nếu nói chơn lý thì bản tâm là chơn lý, còn kiến lập thì phải 2 chơn lý; tức trên đầu mọc thêm đầu, làm cho cực khổ, phải mời bác sĩ cắt bỏ.

5.Kiến thủ kiến là chỉ chấp một giới cấm cho là đúng nhất, như ở Ấn Độ coi bò là thánh, phá hư đồ người ta không ai dám can thiệp, vì tôn trọng bò. Có người không ăn thịt heo, nhưng các thịt khác lại ăn. Kỳ thật, đó là nhân quả “ăn cục thịt trả một cục thịt”; đâu phải ăn thịt bò mới trả, ăn thịt kia không trả!

Hỏi:
Vừa qua hành giả hỏi, Sư Phụ giải thích tin 100%, con thấy điểm này chưa rõ. Khi tin 100% là đạt đến đó, như Sư Phụ trình bày tin Phật tánh rõ ràng không sanh diệt, không thêm bớt. Chúng con chưa đạt đến chỗ đó, vậy có tin 100% được không, hay tham thiền đến kiến tánh mới tin 100%?

Đáp:
Tin nhưng làm chưa được, như tin 100% nhưng chỉ làm 60%; tin 100% thì sau này sẽ đến chỗ 100%, nếu tin 90% thì đến 90% là ngưng. Tin và thực hiện là hai thứ khác nhau, mình chưa thực hiện nhưng đã tin rồi theo lòng tin mà thực hiện.
Tin pháp môn 100% là ai có nói pháp gì hay hơn cũng không thể lay chuyển được, nếu tin 99% thì có thể lay chuyển, vì suy nghĩ pháp môn kia 100%.

Hỏi:
Quy y với thầy, phải theo pháp của thầy không? Như thầy không thích chỗ nào thì đệ tử không được đến chỗ đó, để cho đúng câu “thầy đâu trò đó”. Xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
Không phải vậy! Theo giới luật nhà Phật, thầy bổn sư xuống tóc cho đệ tử, đệ tử Tăng ở với bổn sư trong 10 năm, rồi lìa bổn sư thu đệ tử xuất gia; đệ tử Ni phải 12 năm được lìa bổn sư.
Thầy quy y cho đệ tử là thay mặt cho Tam Bảo, để chứng minh Phật tử này đã quy y Tam Bảo; chứ không phải là tài sản của thầy đó! Nếu cho là đệ tử riêng của mình thì không đúng với nhà Phật.

Hỏi:
Không gần với ngoại đạo, có đúng không?

Đáp:
Không phải vậy! Mình có thể làm bạn với nhau, nhưng mình không theo đạo đó, không phải cần xa người ngoại đạo. Tất cả Phật tánh chúng sanh đều bằng nhau.

Hỏi:
Có người đang mắc nợ đem tiền cúng chùa, khuyên họ không nên đem tiền cúng chùa. Vậy có được không?

Đáp:
Được! Theo giới luật nhà Phật, hỏi những giá nạn với người muốn xuất gia: “Hiện nay có thiếu nợ ai không?”, nếu có thiếu nợ thì không cho xuất gia.

Hỏi:
Thế nào là nhiễm và không nhiễm?

Đáp:
Có sở trụ là nhiễm, vô sở trụ là không nhiễm. 6 căn là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; như nhãn căn thấy cái tách cho là đẹp, hay thấy người ta mặc đồ cho là đẹp, như vậy là nhiễm.

Hỏi:
Trước kia con niệm Phật đến chỗ lặng lẽ từ sáng tới chiều, lúc nhớ lại thắc mắc tại sao không nhớ chuyện gì. Từ đó hỏi nhưng các thầy không biết, rồi con theo Lục Diệu Pháp Môn thực hiện một thời gian cũng đến đó. Trong Lục Diệu Pháp Môn có chỗ tùy tức, có lúc khởi thưa, trong lúc ấy thấy khó, nên con tìm Pháp Tổ Sư thiền để tu.
Con tham thiền đến chỗ tịch lặng, có khi đề khởi câu thoại đầu lúc được lúc không. Trong lúc lặng lẽ con đã hội và nhìn được hết tâm con. Công phu của con là khán thoại đầu hay hỏi câu thoại?

Đáp:
Lục Diệu Môn là pháp tu của Tiểu thừa, bây giờ mình tu là Đại thừa, như Tịnh Độ là Đại thừa,… Theo giới luật nhà Phật, nếu Đại thừa dạy người ta tu Tiểu thừa là có tội. Như giới Bồ Tát nói: “Đại thừa dạy người tu Tiểu thừa là phạm giới Bồ Tát”.
Pháp Bảo Đàn nói: “Tổ Sư thiền là Tối Thượng thừa”, siêu việt tam thừa (Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa). Trong Đại Thừa Tuyệt Đối Luận nói rõ biểu đồ 4 thừa.
(4 thừa Phật Giáo……………….trang 10).

Hỏi:
Hồi sáng có một vị lên trình công phu, Sư Phụ nói công phu ông ấy chỉ đúng năm sáu phần. Vậy chỗ đúng đó là do từ cạn vào sâu năm sáu phần hay ông ta hành sai chỉ đúng năm sáu phần?

Đáp:
Đường lối thực hành đúng, nhưng cách trình không đúng. Có cảnh giới gì đều là vọng, cho đến chứng Thánh chấp vào Niết Bàn Tiểu thừa cũng là vọng. Cho nên, Phật quở A La Hán không chịu bỏ A La Hán để tiến lên Đại thừa.

Hỏi:
Con đề câu thoại đầu lên, thấy hình tướng như thác đổ, nên không biết giăng mùng trải chiếu. Vậy hiện tượng ấy là gì?

Đáp:
Đó là một cảnh giới, bất cứ hiện cảnh giới gì đều là vọng; mặc kệ đừng để ý tới, cứ hỏi và nhìn tiếp tục.

Hỏi:
Ban đầu con niệm Phật, thời gian sau tham thiền, nhưng lại có hồng danh Phật nổi lên. Vậy đó như thế nào?

Đáp:
Vì theo thói quen niệm Phật mạnh hơn tham thiền, nên hiện lên câu danh hiệu Phật. Ngài Lai Quả nói: “Tham thiền là việc mới, niệm Phật là việc cũ; nếu việc mới mạnh một ngày, thì việc cũ yếu đi một ngày”. Cho nên, tham thiền từ từ sẽ quen. Cần phải hỏi và nhìn tăng thêm thì niệm Phật sẽ bớt.

Hỏi:
Tin tự tâm, nên con chú tâm vào; vậy ý chí và nguyện lực có phải tâm của mình không?

Đáp:
Cô tin có Phật tánh không?
Có.
Phật tánh có thể giảm bớt không?
Không.
Phật tánh có gián đoạn không?
Không.
Vậy cô đã tin tự tâm đầy đủ, tại sao nói không tin? Phật tánh của cô với Phật tánh của Phật Thích Ca bằng nhau, nếu có kém một chút thì có thể giảm bớt. Cho nên tất cả năng lực thần thông bằng nhau. Phật tánh không gián đoạn thì bây giờ cô cũng đang là Phật, nếu không phải thì bị gián đoạn.
Phật Thích Ca dùng ra hết năng lực thần thông, cô dùng ra không được hay dùng ra rất ít, vì bệnh chấp thật của cô còn nặng. Tham thiền sẽ dần dần dùng ra, do cái biết bộ óc làm chướng ngại cái biết của Phật tánh. Giữ được nghi tình (không hiểu không biết) chấm dứt tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết. Cuối cùng hiện lên cái biết Phật tánh.
Cái biết Phật tánh có phải là tâm không?
Chính tâm có tánh giác ngộ nên gọi là Phật tánh, tâm khắp hư không chẳng có khứ lai nên gọi là Như Lai, tâm trống rỗng vô sở hữu nên gọi là Tánh không, tâm khắp thời gian không gián đoạn nên gọi là Niết Bàn. Bất cứ danh từ nào đều diễn tả thể dụng của tâm.

#32 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 25/08/2011 - 09:58

Trang 3:
Ngày 14 – 6 đến 20 – 6 Đinh Sửu (97).
Hỏi:
Thế nào là pháp thế gian và xuất thế gian?

Đáp:
Pháp thế gian và xuất thế gian không khác, vì có bệnh chấp những sai lầm của thế gian, rồi muốn ra khỏi những sai lầm đó, nên mới gọi là xuất thế gian. Tại sao không khác? Người thế gian cũng là tâm này, người tu xuất thế gian cũng là tâm này. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh sẵn sàng.
Nhưng tâm có sự giác ngộ nên gọi là Phật tánh. Tâm là vô sở hữu (trống rỗng), trống rỗng thì dung nạp và ứng dụng. Như ông quỳ, nói chuyện với nhau, nhìn thấy nhau đều nhờ trống rỗng,… Nếu không có chỗ trống rỗng, muốn nhìn cũng chẳng được. Như có vách tường chắn ngang thì không thể nhìn thấy bên kia.
Tương lai, khoa học tiến bộ, từ không gian 3 chiều tiến lên 4 chiều. Tây y khám bệnh thì đúng, nhưng trị bệnh không được; càng trị thì bệnh càng nhiều, tức hết bệnh này tạm thời lại sang bệnh khác. Y khoa tốt nghiệp trường đại học của Mỹ có khán nghị chính phủ bãi công 1 tháng không trị bệnh, mà tháng đó chết bớt lại 50%. Có chỗ bác sĩ làm việc không sốt sắn thì bệnh nhân chết giảm 18% đến 38%.
Việt Nam có chỗ không dùng thuốc sát trùng và phân hóa học, vì phân bón hóa học rút hết dinh dưỡng của đất, làm hư đất. Các côn trùng làm cho đất được tốt đều bị chết. Các chất hóa học thấm vào đất làm cho nguồn nước bị ô nhiễm là cho các loài động vật dưới nước phải chết. Hiện nay là bị ô nhiễm môi trường, khắp thế giới không cách nào giải quyết và cũng đang tìm cách để giải quyết.
Vì chấp thế gian, ai cũng muốn tranh giành quyền lợi của mình, chỉ cần cho mình phát tài, còn hại cho mọi người thì không biết tới. Nhưng rốt cuộc cái hại cũng đến mình, vì mình sống chung trong đó.

Hỏi:
Tham thiền thấy như có vật nặng đè trên đầu, vậy tham thiền tiếp tục hay ngưng?

Đáp:
Vật nặng đè là nguyên do gì?
Không có nguyên do, đang ngồi thiền được một lúc như có ai để cái thúng nặng trên đầu.
Nếu như vậy đừng nên ngồi.
Vậy cần xả thiền không?
Khỏi cần xả thiền, vì tham thiền đâu có nhập mà xả! Cứ hỏi và nhìn, đi đứng nằm ngồi làm việc đều vậy. Do chấp có nhập nên có xả. Thiền là trong cuộc sống hàng ngày của mình, không phải chỉ ngồi mà có thiền. Như ăn cơm, uống nước đều là thiền.
Tâm trống rỗng vô sở hữu thì không có thiền, cho nên hành giả tham thiền mà còn học thiền học đạo cũng không cho. Vậy làm sao có thiền! Không có thể kiến lập. Không có kiến lập nên mới trống rỗng vô sở hữu dung nạp và ứng dụng.

Hỏi:
Tham thiền ngồi nửa tiếng và đi nửa tiếng; ngồi thấy những cảnh vật hay nghe tiếng nói bên tai từ đâu không biết. Vậy phải làm thế nào?

Đáp:
Hỏi và nhìn giữ nghi tình là không hiểu không biết, nếu không biết làm sao biết những cái ông vừa nói! Mấy cái đó là biết, không có tham thiền mới có mấy cái đó. Tham thiền giữ được nghi tình thì không có những cái đó.
Biết không tác ý cũng là biết, tác ý và không tác ý đều không biết. Vì tập thể nên quy định nửa tiếng ngồi nửa tiếng đi. Nếu chỉ một mình tham thiền, ngồi tê chân thì đứng dạy đi; đi đến mỏi chân thì ngồi, không nhất định thời giờ.

Hỏi:
Trong gia đình không được thông thả rộng rãi, ban đêm lúc thanh tịnh, có thời giờ nhiều thì ngồi lâu hơn. Vậy như thế nào?

Đáp:
Không phân biệt đêm hay ngày để tham thiền. Vì người ta ham ngồi nên muốn ngồi nhiều, nếu nằm không ngủ thì hỏi và nhìn cũng được; hỏi đến chừng nào ngủ quên, không nhất định phải ngồi.

Hỏi:
Trước kia, con ngủ có chiêm bao thấy bay, thấy cảnh chùa rất thanh tịnh, sau khi hết chiêm bao thấy thân tâm khỏe. Gần đây, nằm mơ thấy cảnh đao binh giết chóc. Vậy những hiện tượng đó là như thế nào?

Đáp:
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tình nặng thì đọa xuống, tưởng nhiều thì bay lên”. Tham thiền là siêu việt tình tưởng. Các thiền dùng tưởng gọi là thiền quán tưởng, nhưng Tổ Sư thiền không dùng thiền quán tưởng, chỉ giữ nghi tình là không hiểu không biết. Quán tưởng là tập trung tinh thần, như tưởng cái gì đó.

Hỏi:
Người tham thiền không tránh khỏi chướng ngại: Bệnh thân, bệnh tâm, bệnh Phật. Xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
Do có suy nghĩ biết, tìm hiểu biết, ghi nhớ biết thành chướng ngại. Nếu giữ được nghi tình (không hiểu không biết) thì tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết đều chấm dứt được hết chướng ngại. Cuối cùng luôn cả không hiểu không biết cũng chấm dứt, gọi là kiến tánh thành Phật.

Hỏi:
Thế nào lửa tam muội? Ấn tam muội và ngồi kiết già của Phật Thích Ca hay do Thiền sư nào đặt ra?

Đáp:
Tất cả đều do người ta đặt ra, còn Phật là vô thỉ vô sanh. Vô thỉ thì không thể đặt ra, vì có đặt ra là bắt đầu. Vô thỉ cũng là nghĩa vô sanh, tức không có sự sanh khởi, do có sự sanh khởi nên có sự bắt đầu. Cho nên, người chứng quả là ngộ pháp vô sanh, gọi là chứng vô sanh pháp nhẫn. Nếu pháp đã vô sanh thì đâu có những thứ ông nói! Đó là bày đặt.
Tam muội là chánh định để phân biệt tà định, quán lửa gọi là hỏa tam muội, quán thủy gọi là thủy tam muội. Đó là thiền quán do người ta bày đặt. Tổ Sư thiền thì không có gì hết, do Tổ sư từ đời truyền xuống, miễn cưỡng gọi là Tổ Sư thiền, chứ không có tên gọi. Luôn cả thiền cũng không có, vì trống rỗng vô sở hữu không thể kiến lập.

Hỏi:
Bổn lai vô nhất vật, sao thấy có nhiều vật?

Đáp:
Thấy có vật là vọng tâm kiến lập, nếu không kiến lập thì không có; chính kiến lập sở hữu là chướng ngại. Ngài Long Thọ lấy hư không vô sở hữu để ví dụ cho tâm. Hư không thì trống rỗng không có gì, cho nên gọi là vô sở hữu.

Vì trống rỗng nên dung nạp và ứng dụng, tất cả mặt trời, mặt trăng, đất đai, nhà cửa,… đều từ cái trống rỗng này dung nạp và ứng dụng. Cái trống rỗng là tâm của mọi người. Vì vậy, Phật nói: “Tất cả do tâm tạo”.

Tâm tạo mới có sở hữu, nên có muôn ngàn thứ sai biệt; nhưng tánh con người ham sở hữu ham tạo. Như cuộc sống hàng ngày phải có tiền, thì cho tiền là sở hữu của tôi; phải có nhà ở thì nhà là sở hữu của tôi, phải có đất đai, đất đai là sở hữu của tôi. Tất cả đều là sở hữu, chính sở hữu làm chướng ngại vô sở hữu.

Nghe tôi nói vậy, đừng mặc quần áo và không ở nhà sao? Mình cũng mặc quần áo, ở nhà, cầm tiền; nhưng mình không có buồn, vui, yêu, ghét, đắc, thất, không có sự đối đãi, tất cả đều tùy duyên. Như có tiền cũng được hay không có tiền cũng được, ăn no cũng được hoặc ăn đói cũng được.

Vì kiến lập nên có sự chết, Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Vô vô minh diệc vô vô minh tận, vô lão tử diệc vô lão tử tận”, Phật nói không có già chết và không có sanh tử. Nhưng tại sao mình thấy có sanh tử? Do tâm mình tạo, như thân mình xoay nên thấy căn nhà xoay (sanh tử luân hồi), căn nhà ngưng xoay (cứu kính Niết Bàn). Căn nhà đâu có xoay hồi nào? Tại thân mình xoay, nên có cảm giác sai lầm thì thấy căn nhà xoay.

Tâm tạo có sanh tử là do chấp thật, như căn nhà xoay không thật. Tu là phá tư tưởng chấp thật, nhưng phá rất khó. Cho nên, dùng nghi tình để chấm dứt tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết. Kiến lập đều do biết, những cái biết chấm dứt thì còn nghi tình; cuối cùng nghi tình chấm dứt là kiến tánh thành Phật, chánh biến tri hiện lên khắp không gian thời gian.

(4 bài kệ chữ tri……………… trang 66).

Tâm của mình không biết ở ngoài và không tự biết, không phải hoàn toàn không biết. Vì tất cả dụng tâm mình tự động, khỏi cần nổi ý muốn biết thì mới biết.

Như cảm giác lớp da của cơ thể, cảm giác tiếp xúc tách, bình thì biết. Tiếp xúc nóng biết nóng, tiếp xúc lạnh biết lạnh, đụng mạnh thì nó đau, đụng nhẹ thì ngứa. Người ta cho rằng có tiếp xúc mới biết, còn không tiếp xúc thì không biết. Đó là không đúng. Không tiếp xúc nó cũng biết, tức cảm giác lớp da luôn luôn làm việc không ngưng nghĩ. Lúc tiếp xúc thì biết có tiếp xúc, lúc không tiếp xúc thì biết không tiếp xúc.

Cái biết của mình cũng vậy, từ vô thỉ đến bây giờ không ngưng; mình chết cái biết vẫn làm việc bình thường. Có người hỏi: Nếu dùng nghi tình để quét sạch tất cả biết, đến thoại đầu sẽ kiến tánh thì sắp biết phải không?

Tôi nói: Không có thể nói là sắp biết.

Người ta ngạc nhiên hỏi: Như vậy, vĩnh viễn không biết sao?

Tôi nói: Không phải không biết, mà đang biết. Như lớp da đang biết, tiếp xúc nó cũng biết, không tiếp xúc nó vẫn biết. Tâm mình cũng vậy.

Nhưng người ta không hiểu, nên tôi phải dùng mặt trời để thí dụ; mặt trời chiếu soi không bao giờ ngưng, mình không thấy ánh sáng mặt trời là bị che khuất bởi mây đen và trái đất; không phải ánh sáng mặt trời có ngưng chiếu soi, mà nói trời gần sáng mặt trời sắp chiếu! Vậy không đúng.

Mặt trời có ngưng chiếu rồi nói là sắp chiếu, như cái biết của mình có ngưng biết thì mới nói sắp biết. Cái biết của tâm mình từ hồi nào chưa ngưng, như mặt trời từ hồi nào không ngưng chiếu.

Bây giờ, muốn ngưng tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết là vọng biết, không đúng với thật tế đều do kiến lập sở hữu rồi mới có. Kiến lập sở hữu thì hạn chế cái dụng. Mặt trăng mặt trời đều ở trong hư không vô sở hữu (cái không trống rỗng), Phật pháp gọi là tánh không.

Nhưng thông minh con người muốn kiến lập, đem cái không chẳng hạn chế, rồi hạn chế cái không của tách, bình, nhà,… Nếu tách bít hết nên không thể dùng, tách trống rỗng thì dùng được. Kiến lập nhiều cái không khác biệt, như cái không của tách khác cái không của bình, khác cái không của nhà. Muôn ngàn thứ khác biệt đều do kiến lập mới có.

Kỳ thật, chưa dựng lên nhà thì cái không đã có sẵn, chưa có cái không của tách thì đã có cái không đã có sẵn. Vì có cái không sẵn sàng nên có cái không của tách, bình, nhà,… cho đến quý vị ngồi đây đều nhờ cái không sẵn sàng đó. Nhưng mình đang dùng mà chẳng tự biết, cứ đoán mò mấy danh từ như Bồ Đề, Niết Bàn,…

Cái thật tế mình đang dùng lại bỏ, mà tìm những cái không thật tế! Phật Thích Ca muốn mình trở về thật tế, nhưng con người không chịu. Vì muốn ham sở hữu, như nhà, tiền,… cho là sở hữu của tôi. Như mình có căn nhà chưa có quyền sở hữu, cũng phải lo giấy tờ để có quyền sở hữu. Nếu sở hữu nhiều chừng nào thì chướng ngại nhiều chừng nấy.
(Trừ nghiệp chướng phiền não....trang 128).

Hỏi:
Tham thiền là giữ chỗ không biết cho liên tục, nhưng con tham có lúc lại biết chuyện này chuyện kia, mình muốn không biết cũng không được, nên sanh ra phiền não. Xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
Vì do kiến lập, như có vào thiền và xả thiền; thiền cũng không kiến lập, không có vào thiền và không xả thiền. Chấp thiền (trụ) là kiến lập thiền, Tổ Sư thiền chỉ là hỏi và nhìn, hỏi là kích thích niệm không biết, nhìn là giữ cái không biết được kéo dài, gọi là nghi tình.

Ban đầu tập tham tự nhiên vọng tưởng (biết) nổi lên quên tham, biết thì nghịch cái không biết. Nhưng phải tập tham dần dần. Tâm mình trống rỗng, cho nên đừng kiến lập. Vì vậy, hành giả tham thiền không cho hiểu thiền hiểu đạo. Đang thực hành thiền còn hiểu thiền chi nữa! Nếu tìm hiểu thiền là trên đầu mọc thêm đầu. Một cái đầu đã đủ dùng, thêm cái đầu phải nhờ bác sĩ cắt bỏ thì khôi phục cái đầu có sẵn.

Mục đích là muốn đến thoại đầu, cho nên gọi là tham thoại đầu, khán thoại đầu. Bây giờ thực hành nhưng chưa đến thoại đầu, thoại đầu là một niệm chưa sanh khởi, nếu sanh khởi một niệm không biết cũng là sanh khởi. Cuối cùng đến thoại đầu thì tất cả tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết đều chấm dứt. Đến thoại đầu là công phu ngày đêm liên tiếp, vì không có niệm nào nổi lên.
24 tiếng đồng hồ mình chỉ tham có 1 phút, nếu mỗi ngày nghi tình tăng 1 phút thì 4 năm đến thoại đầu sẽ kiến tánh, mỗi ngày nghi tình tăng ½ phút thì 8 năm đến thoại đầu sẽ kiến tánh, mỗi ngày nghi tình tăng ¼ phút thì 16 năm đến thoại đầu sẽ kiến tánh.

Chỉ cần công phu miên mật một chút nghi tình cũng đủ, khỏi cần tập trung tinh thần, khỏi cần phí sức, khỏi cần cố gắng. Cho nên, chư Tổ nói: “Ít phí sức chừng nào tốt chừng nấy”. Nếu cố gắng, tập trung tinh thần đều là phí sức.

Hỏi:
Sư Phụ giảng: “Hư không vô sở hữu dung nạp tất cả vật”, có người nói: Biết trước là hư không, sau là hư không, trên là hư không, dưới cũng là hư không. Nhưng sao không ngộ được?

Đáp:
Chưa đến thoại đầu làm sao ngộ được! Ngộ được phải lìa ý thức, phải chấm dứt tất cả biết (tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ), giờ phút cuối cùng lìa ý thức, luôn cái không biết cũng tan rã mới hết nghi. Hết nghi tức là ngộ, bây giờ còn đủ thứ biết, làm sao ngộ được!
Nói trên dưới trước sau đều là kiến lập, không thật tế. Có trước sau là tương đối, có trên dưới cũng là tương đối. Mình nói ở trên đầu là trên, ở dưới chân là dưới; như mình đứng đây cho là trên, còn đứng ở nước Mỹ thì cho là dưới. Và ngược lại, vậy làm sao có trên dưới?
Cho nên, ông Newton thấy trái bôm từ trên cây rớt xuống, nghi tại sao không rơi lên? Vì không có trên dưới, do cái nghi ấy, ngộ được hấp dẫn lực của quả đất. Do đó ông ngộ được hấp dẫn lực của vạn hữu, nhà khoa học gọi là từ trường (sức hút nam châm). Như cấm cây nêu, người đứng bên đông cho bên cây nêu là hướng tây, và ngược lại; người đứng bên nam cho bên cây nêu là bắc, và ngược lại.

Hỏi:
Thế nào chết là hết và chết còn sanh tử?

Đáp:
Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Không có già chết”, do kiến lập sanh tử thì nói chết rồi hết hay chết rồi còn. Nếu vốn không có sanh tử thì đâu nói hết với còn! Như căn nhà không xoay, nhưng do thân mình xoay mới thấy căn nhà xoay, lại muốn căn nhà ngưng xoay.
Sanh tử là do tâm mình ngày đêm hoạt động không ngừng. Rồi nói sanh tử là hết hay còn, nếu không có sanh tử thì đâu thể hết với còn! Còn và hết thì không có xảy ra. Cho nên, tu là liễu thoát sanh tử, không nói còn hay nói hết, vì không thành vấn đề rồi. Thật tế là không có sanh tử, ngộ được không có sanh tử thì tất cả đều giải quyết.

Hỏi:
Hỏi “sanh từ đâu đến?”, không biết, “chết đi về đâu?”, không biết. Vậy con chết ra sao?

Đáp:
Ngộ không sanh tử thì không cần giải quyết vấn đề ấy nữa. Vì chấp có sanh tử thì có bao nhiêu vấn đề nghiệp chướng phiền não. Cho nên, nói sanh tử là việc lớn, nếu không có sanh tử thì mấy cái kia đều không có, tại kiến lập sanh tử nên sanh ra đủ thứ chuyện.

Hỏi:
Vô sở hữu và vô sở bất tri, nghĩa có giống nhau không?

Đáp:
Vô tri thì có vô sở bất tri, tức là có kiến lập tri và bất tri để đối đãi. Không có năng tri và sở tri đối đãi, gọi là vô duyên tri. Cuộc sống hàng ngày đều trong tương đối (đối đãi). Như có không, giàu nghèo, sang hèn, trước sau,…
Vậy cuộc sống hàng ngày mình sống với tâm vô phân biệt phải không?
Nếu có ý vô phân biệt thì đã phân biệt rồi, vì kiến lập vô thì đã thừa nhận hữu. Vô phân biệt và hữu phân biệt cũng là đối đãi. Nếu không kiến lập thì tất cả đều trống rỗng là bản tâm của mình. Chỗ này phải giữ nghi tình mới được, hỏi để kích thích niệm không biết và nhìn niệm không biết.
Cho nên, thật tế không thể dùng lời nói để diễn đạt được. Cuốn Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải lời nói rất cao siêu, nhưng ngài Trung Phong cũng quét sạch lời nói, để cho mọi người thực hành cái thật tế.
Cần giữ nghi tình đưa đến thoại đầu sẽ ngộ thì tất cả giải quyết triệt để. Chưa kiến tánh mà dùng ý thức truy tìm thì vẫn là sản phẩm của bộ óc, cũng còn nằm trong tương đối. Nếu muốn không phân biệt cũng không được, vì thói quen của bộ óc có từ lâu đời gặp cái gì đều cũng phân biệt.
Như phân biệt có tiền và không có tiền, giàu nghèo, tốt xấu; rồi sanh ra buồn vui, yêu ghét. Giữ được nghi tình thì không thể phân biệt, phân biệt là biết. Hành giả tham thiền chỉ cần hỏi và nhìn song song.

Hỏi:
Thế nào là niệm thoại đầu, tham thoại đầu và khán thoại đầu?

Đáp:
Tham là hỏi câu thoại, như hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” nổi lên một niệm không biết; khán là nhìn chỗ không biết, muốn xem chỗ không biết là gì; nhưng chỗ không biết thì không có chỗ, nên không có mục tiêu để nhìn vẫn còn không biết; Thiền tông gọi là nghi tình. Cứ hỏi và nhìn song song để giữ nghi tình, đưa hành giả đến thoại đầu, sẽ kiến tánh thành Phật.
Niệm không có nghi tình, tức là biết chứ không phải không biết. Nghi tình thì phải không hiểu không biết.

Hỏi:
Con tham câu “sanh từ đâu đến, chết đi về đâu?” nhưng con không niệm sanh từ đâu đến, mà chỉ niệm chết đi về đâu. Vậy có được không?

Đáp:
Niệm thì không được, vì niệm là không có thắc mắc; hỏi chứ không phải niệm, hỏi thì phải có đáp. Nhưng hỏi mà không biết thì không thể đáp được nên mới có một niệm không hiểu không biết để nhìn. Hỏi và nhìn song song, vừa hỏi vừa nhìn; chứ không phải hỏi trước nhìn sau hay hỏi sau nhìn trước. Hỏi và nhìn cùng một lượt để giữ nghi tình, đưa hành giả đến thoại đầu, sẽ kiến tánh thành Phật.
Hỏi không phải dùng miệng hỏi, mà dùng tâm hỏi thầm; nhìn không phải dùng mắt nhìn, mà dùng tâm nhìn thầm. Chỉ cần giữ một chút nghi tình, nghi tình ngày đêm 24 tiếng đồng không gián đoạn là đến thoại đầu, sắp kiến tánh giải thoát tất cả khổ được tự do tự tại.

Hỏi:
Vì vọng tưởng quá nhiều, nên tham thiền không kiến tánh. Vậy chết rồi tái sanh trở lại có tiếp tục tham thiền nữa không?

Đáp:
Theo nhân quả, chánh nhân đã gieo thì chánh quả sẽ đến; kiếp này không kiến tánh thì kiếp sau tiếp tục tham thiền, kiếp sau chưa kiến tánh thì kiếp sau nữa, tiếp tục hoài khi nào kiến tánh mới thôi. Công phu mình tiến mau thì nhanh đến, tiến chậm thì lâu đến.

Hỏi:
Thế nào là Tam Bảo?

Đáp:
Tam Bảo gồm có 2 thứ: Thường trụ Tam Bảo và Tự tánh Tam Bảo.
Thường trụ Tam Bảo là dùng tượng Phật để thay thế cho Phật Bảo, lấy kinh của Phật thay thế cho Pháp Bảo, Tăng Ni hiện tiền thay thế cho Tăng Bảo, từ đời từ đời truyền xuống.
Mục đích quy y Tam Bảo là muốn nhờ Thường trụ Tam Bảo giáo hóa chúng sanh tu đúng lời Phật dạy, chứng nhập Tự tánh Tam Bảo. Tâm của mình đầy đủ Tam Bảo, nhưng phải tu đúng mới ngộ nhập được Tự tánh Tam Bảo.
Bảo gọi là quý hiếm, Phật nghĩa là giác ngộ. Có người hỏi Phật Thích Ca: Ngài là gì?
Phật đáp: Tôi là người giác ngộ.
Nghĩa chữ “Phật” là giác ngộ, chứ không phải là Thần linh, ai giác ngộ thì người ấy là Phật. Tâm của con người có tánh giác ngộ, nên gọi là Phật tánh; tâm trống rỗng như hư không chẳng có khứ lai, nên gọi là Như Lai, đúng như Bản Lai; tâm khắp không gian không có sanh diệt, nên gọi là Niết Bàn.
Nếu đạt đến giác ngộ thì mới được giải thoát, nên phải có phương pháp, phương pháp đó là Pháp Bảo. Tất cả 84.000 pháp môn đều là Pháp Bảo có thể tu đến giải thoát.
Đã có Phật Bảo, Pháp bảo; nhưng Phật đã nhập diệt, nên phải nhờ Tăng từ đời trực tiếp truyền dạy chúng sanh. Nếu chỉ có Phật Bảo và Pháp Bảo, mà không có người truyền dạy thì không còn Phật pháp. Cho nên, phải nhờ Tăng Bảo.
Tăng (Tăng Già) nghĩa là hòa hợp chúng. Theo quy định của giới luật thì 4 người trở lên mới thành Tăng, Tăng là đoàn thể, 3 người trở xuống cũng chưa thành Tăng.
Quy y là quy y Tam Bảo, Tăng đại diện cho Tam Bảo để truyền giới; người quy y là đệ tử của Tam Bảo, không phải đệ tử riêng của thầy ấy.

Hỏi:
Vì trình độ thầy bổn sư kém Phật pháp, nên các đệ tử đi tìm thầy khác để học thêm. Vậy có coi là phản thầy không?

Đáp:
Sự tu học tiến lên, cần phải tìm thầy học hỏi thêm, việc này rất đúng. Nhưng vị ấy cho là phản thầy thì đối với Phật pháp không đúng. Các thầy bên Thiền tông cho đệ tử đi tham học các nơi, còn các thầy kém Phật pháp không cho đệ tử đi tham học chỗ khác, giống như không cho đệ tử lên lớp, cứ ở một lớp mà học mãi!

Hỏi:
Chết rồi thiêu thì Phật tánh ở chỗ nào?

Đáp:
Phật tánh là tâm, tâm có giác ngộ nên gọi là Phật tánh, cũng là bản tâm của mình khắp không gian thời gian. Khắp thời gian thì không có sanh diệt, vì người hỏi chấp có sanh tử cho là thật nên có câu hỏi ấy.
Khắp không gian thì không có khứ lai, nên gọi là Như Lai, tức đúng như bản lai. Không có khứ lai làm sao chết rồi đi về đâu? Phật tánh ở đâu? Nếu Phật tánh có chỗ thì không phải Phật tánh! Vì có chỗ là không cùng khắp không gian. Phật tánh cùng khắp không gian thì không khứ lai, nên không có chỗ.

Hỏi:
Tổ Đạt Ma có kinh Lăng Già để ấn chứng, Lục Tổ có Pháp Bảo Đàn, Lai Quả có Thiền Thất Khai Thị Lục, Nguyệt Khê có Đại Thừa Tuyệt Đối Luận. Vậy, sau này Sư Phụ tịch thì chúng con căn cứ vào đâu?

Đáp:
Tôi chưa kiến tánh, ngài Lai Quả, ngài Nguyệt Khê đều đã kiến tánh. Ngày xưa có 7.000 Tổ kiến tánh, nhưng lưu lại ngữ lục rất ít, không phải Tổ nào cũng lưu lại. Tôi chỉ có nuốt nước miếng của chư Tổ truyền lại để dạy cho quý vị, tự mình tôi chẳng có gì.
Nhưng thật tế bản tâm của mỗi người trống rỗng vô sở hữu. Lục Tổ nói: “Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai”, nghĩa là xưa nay không một vật, chỗ nào dính bụi trần! Không có một vật, tức là trống rỗng vô sở hữu, nên gọi là tánh không. Tánh không có chỗ để trụ gọi là vô trụ.
Lục Tổ nói: “Lấy vô trụ làm gốc”, bây giờ nói có lưu lại thì đã trụ rồi. Lúc Phật Thích Ca còn tại thế chẳng có kinh, sau này có kinh là do đệ tử của Phật kiết tập thành kinh.

Hỏi:
Sư Phụ nói: “Tham thiền giữ nghi tình đưa đến kiến tánh thành Phật”, lại nói: “Không có Phật để thành”. Người đời không tham thiền cũng không thành Phật. Vậy 2 việc này có khác không?

Đáp:
Vì chưa kiến tánh thành Phật thì nói là thành Phật, đến chừng kiến tánh mới biết không có Phật để thành, vì Phật đã thành sẵn. Kinh Viên Giác thí dụ: “Vàng ở trong quặng đã thành sẵn”, nhưng không thấy vàng là do lộn đất cát tạp chất. Muốn thấy vàng thì luyện đất cát tạp chất bỏ ra. Nếu trong quặng không có vàng thành sẵn, dù luyện cách mấy cũng không có vàng hiện ra.
Phật tánh con người đã thành sẵn, nhưng không được hiện ra là do kiến lập tri kiến làm che khuất. Cho nên, kinh Lăng Nghiêm nói: “Tri kiến lập tri là căn bản vô minh, không lập tri kiến là Niết Bàn”. Không kiến lập thì vô sanh vô thỉ. Người chứng quả ngộ pháp vô sanh, chứng vô sanh pháp nhẫn.

Hỏi:
Con tham “Nam mô A Di Đà Phật” có được kiến tánh không?

Đáp:
Đó là niệm Phật, không phải tham Tổ Sư thiền; Tổ Sư thiền là giữ nghi tình là không hiểu không biết, phải có nghi tình mới gọi là tham thiền. Nghi là nhân, ngộ là quả; phải từ nghi đến ngộ.
Người tu Tịnh Độ chưa tin được tự tâm, nên chưa tin pháp môn Tổ Sư thiền; khi họ vãng sanh Cực Lạc nhờ Phật A Di Đà dạy tham thiền là từ nghi đến ngộ. Điều đó ghi trong kinh Đại A Di Đà của Tịnh Độ.
Thiền là một tổng danh từ, tất cả pháp môn Phật dạy đều lấy thiền làm căn bản. Cho đến tà ma ngoại đạo đều cũng có thiền mới được thành tựu.
Tịnh Độ có 3 cấp:
Thật Tướng Niệm Phật là thiền giống như Tổ Sư thiền, vì thật tướng là vô tướng không cầu vãng sanh. Thật tướng thì chỗ nào cũng Tịnh Độ, vì tâm tịnh là Phật độ tịnh. Nhưng bây giờ không thấy ai thực hành.
Quán Tưởng Niệm Phật có một số ít người thực hành, ghi trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, chính là thiền của Tịnh Độ có 16 pháp thiền quán. Có người tu Tịnh Độ không nhìn nhận, cũng không biết; cứ tưởng mình không phải thiền, lại cho thiền chỉ là Tổ Sư thiền.
Cấp phổ thông là Trì Danh Niệm Phật, niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Nếu không có thiền, làm sao niệm đến nhất tâm bất loạn! Nhất tâm bất loạn là định (thiền định), nhưng họ không thể kiến tánh.
Muốn ngộ phải có nghi, như ông Newton thấy trái bôm trên cây rớt xuống, ông nghi tại sao trái bôm không rơi lên? Cho nên, ông dùng bộ óc tìm hiểu, rồi ngộ được hấp dẫn lực của quả đất. Theo tư tưởng người thường thấy mọi vật chỉ rớt xuống, không thể rơi lên. Nhà khoa học biết là không có trên dưới, như mình hiện giờ đứng chỗ này cho là trên, còn người Mỹ cho là dưới và ngược lại. Vậy trên dưới không có nhất định.
Tư tưởng người Tịnh Độ còn chấp thật, nên không tin tự tâm. Do đó, họ vòng xa rồi mới đến đích, phải sanh Cực Lạc rồi mới tham thiền. Nếu bây giờ mọi người có đủ niềm tin tự tâm thì bắt đầu tham thiền. Như trong Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền có đề ra 3 đứa bé gái kiến tánh: Long nữ 8 tuổi, họ Trịnh 13 tuổi và họ Tô 15 tuổi.
Người Tiểu thừa cho rằng người nữ không thể thành Phật, nói rằng người nữ có 5 thứ chướng. Thật tế không có chướng, vì thế cũng được kiến tánh vậy. 3 người kể trên không tu lâu mà được kiến tánh. Sự thật, kinh Viên Giác nói: “Tất cả chúng sanh đều đã thành Phật”, Phật còn thí dụ quặng vàng, vàng vốn đã thành sẵn. Nếu trong quặng không có vàng, dù luyện cách mấy cũng không có vàng.
Phật tánh con người cũng vậy, là đã thành sẵn từ hồi nào rồi; vì lộn với vọng tưởng tham sân si, nên Phật tánh không hiện lên. Tham thiền là dùng nghi tình dẹp các vọng tưởng tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết; cuối cùng hiện lên là kiến tánh thành Phật. Nếu mình không có Phật tánh thành sẵn thì tu bao lâu cũng không thể thành.

Hỏi:
5 câu thoại đầu của Sư Phụ đưa ra, rồi chọn 1 câu để tham phải không?

Đáp:
Cái gì mình nghi thì lấy cái đó để tham, còn không có nghi nên chọn 1 trong 5 câu để tham; câu thoại đầu rất nhiều, tôi không thể đưa ra hết, mà chỉ đưa ra 5 câu.
Không nghi thì không ngộ, cho nên người tu Tịnh Độ được vãng sanh Cực Lạc, nhờ Phật A Di Đà dạy tham thiền phát nghi rồi đến ngộ. Tất cả thiền khác cuối cùng cũng phải phát nghi rồi ngộ, nhưng Tổ Sư thiền là thiền trực tiếp, các thiền khác là thiền gián tiếp.

Hỏi:
Không hiểu chơn lý và đạo pháp, nhưng nghe Sư Phụ giảng Tổ Sư thiền, tin vào đó tham thiền. Vậy có được kiến tánh không?

Đáp:
Có tư tưởng chấp thật không được kiến tánh, tất cả tôn giáo có kiến lập chơn lý, chỉ có Phật Giáo không kiến lập chơn lý. Tại sao? Vì Phật Thích Ca ngộ được bản tâm, không phải ngộ chơn lý. Các tôn giáo khác ngộ chơn lý, rồi hoằng dương chơn lý của mình đã ngộ.
Bản tâm hiện lên, gọi là kiến tánh thành Phật; nói chơn lý thì bản tâm đã là chơn lý, có kiến lập chơn lý là 2 chơn lý. Thiền tông gọi là: “Trên đầu mọc thêm đầu”, phải mời bác sĩ cắt bỏ mới khôi phục đầu bổn lai; vì mỗi người chỉ có một cái đầu để dùng, nếu thêm một cái đầu nữa thì chướng ngại.
Người ấy không biết, nếu nói chơn lý là thành ngoại đạo, không phải Phật Giáo.

Hỏi:
Cần hiểu kinh rồi để qua một bên, mới tham thiền phải không?

Đáp:
Nếu có tư tuởng chấp thật thì coi kinh không thể hiểu, có hiểu là hiểu kinh bất liễu nghĩa, kinh liễu nghĩa phá chấp thật làm sao hiểu được!
Những người chưa có đủ lòng tin, phải làm thế nào để có lòng tin?
Thì tự mình ra hỏi, tôi mới giải đáp cho họ được đủ lòng tin.

Hỏi:
Cuộc sống hàng ngày trong tương đối, làm sao không lọt vào tứ cú?

Đáp:
Phật pháp có danh từ “vô sở trụ” thì không lọt vào tứ cú, nói dễ mà thực hành rất khó. Hỏi và nhìn không lọt vào tứ cú. Tại sao? Vì nghi tình là không hiểu không biết. Như gặp chuyện có thì không biết có, nên không lọt vào cú thứ nhất; gặp không có cũng không biết không biết không có, nên không lọt vào cú thứ nhì; cú thứ ba và cú thứ tư cũng vậy, vì không biết nên không lọt vào tứ cú; tức là giữ được nghi tình.

Hỏi:
Tham thiền được ngưng vọng tưởng thường có kiến giải phải không?

Đáp:
Đó là tự nhiên rồi.
Làm cách nào để hết kiến giải?
Hỏi và nhìn mới hết, tức giữ nghi tình là không hiểu không biết thì cái biết không thể nổi lên; biết là không phải tham thiền.

Hỏi:
Ở nhà tu không có thiền, sao định được?

Đáp:
Tham thiền là hỏi và nhìn, ở nhà nấu ăn, giặt đồ,… đều hỏi và nhìn được.
Nếu mình không ngồi thì không thể định được phải không?
Đi mỏi chân thì ngồi, ngồi tê chân đứng dậy đi; đi và ngồi là để điều thân, tứ oai nghi là đi đứng nằm ngồi phải thay phiên lẫn nhau; đâu thể đứng hoài, hay đi mãi, hoặc ngồi luôn và nằm lâu!
Có phải tại gia tu không tinh tấn bằng ở trong đại chúng?
Tôi có đề ra 3 đứa bé gái đều ở tại gia tu được kiến tánh, có những người xuất gia cũng không kiến tánh.

Hỏi:
Thế nào Ngũ Tổ truyền tâm ấn cho Lục Tổ?

Đáp:
Ấn là con dấu, tâm là vô sở hữu (trống rỗng). Vì vô sở hữu, nên Lục Tổ nói: “Bổn lai vô nhất vật”, tức là xưa nay không có vật gì, vậy làm sao để truyền? Như đem hư không làm sao truyền được? Các cơ quan hay các tiệm lớn đều có con dấu và ký tên để cho người tin. Thầy ấn chứng học trò đã ngộ gọi là truyền tâm ấn. Vì vậy, không có tâm ấn gì để truyền.
Người khác truyền tâm ấn thì thế nào?
Vì họ không hiểu Phật pháp, phỉ báng Phật pháp là tạo tội địa ngục, mà tự mình không hay biết.

Hỏi:
Ngày xưa, thầy tìm đệ tử truyền pháp hay đệ tử tìm minh sư rất khó, bây giờ nhiều đệ tử gặp Sư Phụ quá dễ. Vậy việc ấy như thế nào?

Đáp:
Theo Phật pháp gọi là nhân duyên, phải có nhân duyên mới được; như nhân duyên đã gieo trồng nhiều kiếp. Kinh Kim Cang nói: “Có một lòng tin chân thật thì đã gieo trồng thiện căn vô lượng kiếp”, còn nói vô lượng Phật đã gieo trồng thiện căn, nên kiếp này mới có lòng tin trong sạch tin pháp môn này và tin tự tâm.
Cho nên, đệ tử muốn gặp minh sư, hay minh sư muốn gặp đệ tử rất khó. Như Tổ Đạt Ma từ Ấn Độ qua Trung Quốc, đến 9 năm tìm được Huệ Khả để ấn chứng. Nếu không có duyên gieo trồng thiện căn nhiều kiếp thì khó gặp nhau.

Hỏi:
Thế nào là chấp thật?

Đáp:
Chấp thật có là chấp thật, chấp thật không có là chấp thật, chấp thật chơn là chấp thật, chấp thật vọng là chấp thật. Nếu chấp thật thì lọt vào biên kiến (một bên). Phật Giáo có 5 thứ ác kiến: Thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến.
Người giảng kinh thuyết pháp cho tất cả là huyễn hóa, tức chấp huyễn hóa là thật. Người ta tưởng chấp thật là chấp có, nhưng họ lại chấp vọng. Nếu chấp có cho là thật thì bệnh chấp nhẹ nên dễ trị, còn chấp không có là thật thì bệnh chấp nặng nên khó trị. Tại sao? Vì chấp có thì dùng không để phá dễ hơn, chấp không dùng có để phá khó hơn.

Hỏi:
Hàng mấy chục năm, con thắc mắc câu này: Thường nghe Sư Phụ nói “Tổ Tổ tương truyền”, đọc sách cũng thấy là Tổ Tổ tương truyền; khi nghiên cứu kinh thấy Phật Thích Ca sắp nhập diệt có giao một bài kệ và dặn Ca Diếp giữ gìn pháp này, rồi sau này giao lại cho A Nan.
Câu “sau này giao lại cho A Nan”, con không đồng ý. Con trình bày cho ông nội con biết, nhưng ông ấy nói “mày vô lễ”. Đến bây giờ con vẫn còn có ý đó, nay đến trình Hòa thượng: Phật Thích Ca nhập diệt là chuyện của Phật Thích Ca đã xong rồi, còn chuyện chọn người kế thừa là của Ca Diếp lo. Vậy Phật lo làm chi?
Nếu Phật dặn như vậy thì không tin sự kiến tánh của Ca Diếp, nhưng A Nan trở về sau thì các Tổ được quyền chọn lựa người kế thừa. Do đó con có nghi vấn?

Đáp:
Ca Diếp chọn A Nan kế thừa, không phải Phật Bảo Ca Diếp cho A Nan kế thừa. Kinh Đại thừa liễu nghĩa, Phật rất sợ người chấp lời của Phật. Ngài Duy Ma Cật quở các vị Bồ Tát và A La Hán, trong đó có A Nan đi xin sữa cho Phật.
Duy Ma Cật nói: Phật làm sao có bệnh mà xin sữa để uống?
A Nan nói: Phật bảo đi xin sữa, tôi đâu có nghe lầm!
Người nào cũng bị quở là do đuổi theo lời nói để chấp, khi Phật nói xong liền phủ nhận. Cho nên, Phật nói: “49 năm thuyết pháp, tôi chưa từng nói một chữ” và “ai nói Phật có thuyết pháp là người ấy phỉ báng Phật”. Nếu theo tư tưởng người thường thấy mâu thuẩn. Tại sao? Vì sợ chấp lời của Phật.
Lời của Phật là phương tiện để phá chấp chúng sanh. Như bệnh của chúng sanh là bệnh giả, thuốc của Phật là thuốc giả; dùng thuốc giả để trị bệnh giả, bệnh giả hết thì thuốc giả phải bỏ. Kinh Kim Cang nói: “Lời thuyết pháp như chiếc bè đưa người qua sông”, đưa người qua bờ thì phải bỏ bè, làm sao còn vác chiếc bè đi chơi?
Cho nên, kinh Đại thừa liễu nghĩa đều phá chấp thật, nhưng người ta lại chấp lời kinh. Nếu chấp lời của Phật thì cũng còn bệnh.

Hỏi:
Chúng sanh ở đây hoàn toàn chấp thật, khi nào kiến tánh thì bệnh chấp thật hết phải không?

Đáp:
Phải!

Hỏi:
Có ý dùng tham thiền để trị bệnh mớ, nhưng lại càng mớ nhiều. Xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
Quên bệnh thì mới hết bệnh, vì nhớ hoài thì bệnh càng nhiều. Đó gọi là tâm tạo.

Hỏi:
Khi đề khởi câu thoại đầu, dùng tâm biết để kích động nghi tình, có lúc lạc vào bình yên. Vậy như thế nào?

Đáp:
Vậy là biết, chứ chẳng phải không biết; nếu không biết làm sao biết bình yên! Nói dùng tâm kích thích là biết, không biết làm sao dùng tâm kích thích! Cứ hỏi và nhìn song song giữ nghi tình (không hiểu không biết) là được, không cần dùng tâm gì hết.

Hỏi:
Tâm không thì chứa tất cả và hư không chứa tất cả vật. Vậy có 2 tánh khác biệt, xin Sư Phụ từ bi khai thị?

Đáp:
Không gian tức là tâm, vì tâm cùng khắp không gian thời gian. Cho nên, nói: “Tất cả đều do tâm tạo”, không phải tâm và không gian khác nhau; nếu có khác thì không gọi là bất nhị, bất nhị là không có khác. Giáo Môn nói: “Tâm, Phật, chúng sanh không khác biệt”, tất cả vũ trụ vạn vật đều không khác biệt; mà phát xuất từ nguồn gốc là tâm, lại là vật do tâm hiện ra.
Tâm trống rỗng vô sở hữu, không gian thời gian cũng là trống rỗng vô sở hữu. Cho nên, ngài Long thọ dùng hư không vô sở hữu để diễn tả tâm. Hư không vô sở hữu là tâm, nói hư không bao trùm là nhị; tức tâm là tâm, hư không là hư không.

Hỏi:
Nói “nhất thiết duy tâm tạo”, sao còn nói “Niết Bàn diệu tâm”. Con không hiểu chỗ này?

Đáp:
“Diệu” là bất khả tư nghì, kinh nói “diệu” là không dùng bộ óc để biết được. Tâm trống rỗng vô sở hữu không thể suy nghĩ đến. Cho nên, nói là diệu tâm.
Niết Bàn là cùng khắp thời gian, không sanh diệt thì diệu tâm cũng không sanh diệt. Diệu tâm là bản tánh của tất cả chúng sanh.

Hỏi:
Tham thiền như thế nào cho đúng, để khỏi bị tẩu hỏa nhập ma?

Đáp:
Vì họ có ngã chấp, nên có sở cầu, sở đắc, sở sợ; vì vậy họ bị nhập ma. Tổ Sư thiền phá ngã chấp là vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ; cho nên không bao giờ bị tẩu hỏa nhập ma.
Nếu có cái ta mà cầu thì ma thừa dịp đó mới nhập, mình muốn đắc thì ma liền hiện cái ấy để vào, cái sợ cũng vậy.

Hỏi:
Tại sao hành giả tu Tịnh Độ hay lạc thiền?

Đáp:
Vì họ không phải Tổ Sư thiền, ngã chấp của họ rất nặng.

Hỏi:
Tâm trống rỗng vô sở hữu là mình không ham tài vật danh lợi phải không?

Đáp:
Không phải! Hư không trống rỗng nên cô mới quỳ được, nếu không có chỗ trống làm sao để quỳ? Lo tài vật là tâm không trống rỗng, nếu buông bỏ thì tâm cũng không trống rỗng. Trống rỗng thì lấy cái gì để buông bỏ? Tâm trống rỗng thì làm ăn cứ làm ăn. Như cái nhà có trống rỗng không?
Có trống rỗng.
Vậy là hiểu rồi. Nếu không ham danh lợi thì đã không trống rỗng, vậy có ai để ham danh lợi! Có này có kia thì không phải trống rỗng, trống rỗng chẳng có vật gì hết.

Hỏi:
Chơn lý là do các tôn giáo bày đặt ra, vậy có phải là giả lý không?

Đáp:
Không phải! Chấp chơn là bệnh nhẹ, chấp giả thì bệnh nặng; tức là cho giả là thật giả bệnh nặng hơn chấp chơn là thật chơn.
Chơn lý là người ta ngồi thiền ngộ được, rồi tự mình làm giáo chủ cái gì mình đã ngộ, chứ không phải bày đặt ra. Phật Thích Ca là ngộ bản tâm, không thể lập bản tâm làm chơn lý. Vì bản tâm là chơn lý, nếu lập chơn lý là 2 chơn lý.
Ngoại đạo kiến lập chơn lý ngoài bản tâm. Phật Thích Ca nói: “Ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài tâm chẳng có Phật”, cho nên nói “vạn pháp duy tâm”.
Chơn còn không kiến lập, làm sao kiến lập giả? Như cái bình này người ta làm giả là có cái chơn. Chơn không thành lập thì giả cũng không thể thành lập.

Hỏi:
Thế nào tu đúng đường lối Tổ Sư thiền?

Đáp:
Thoại là lời nói, đầu là đầu tiên lời nói; tức là chưa khởi niệm muốn nói là thoại đầu. Nếu đã khởi niệm muốn nói, tuy chưa nói ra miệng cũng là thoại vỉ (đuôi), không phải thoại đầu.
Tham là dùng một câu thoại để hỏi, như hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” thì nổi lên niệm không hiểu không biết; khán là nhìn chỗ không biết, xem chỗ không biết là gì; nhưng chỗ không biết thì không có chỗ, nên không có mục tiêu để nhìn; nhìn mãi không thấy gì còn không biết, Thiền tông gọi là nghi tình. Hỏi và nhìn song song, hỏi để kích thích niệm không biết, nhìn là là kéo dài niệm không biết.

Hỏi:
Đến thoại đầu thì câu thoại ra sao?

Đáp:
Đến thoại đầu thì câu thoại tự mất, còn cái nghi có thể vài phút sau kiến tánh, hay vài ngày sau hoặc trong một tháng sẽ kiến tánh.

Hỏi:
Linh hồn có đồng với tâm tánh không?

Đáp:
Linh hồn là người ta bày đặt ra, kỳ thật Phật Giáo không nhìn nhận linh hồn, mà nói là thần thức, một tâm có 8 thức. Các tôn giáo khác nhìn nhận linh hồn.
Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân là tiền ngũ thức; ý thức là thức thứ 6, thức thứ 7 là mạt na thức, thức thứ thứ 8 là a lại da thức. Mỗi thức đều có nhiệm vụ của thức đó. Phật giáo có tông Duy Thức chuyên hoằng Duy Thức.
Tôi nói nhắm mắt chiêm bao và mở mắt chiêm bao là giảng theo Duy Thức. Nhắm mắt chiêm bao là độc đầu ý thức biến hiện, mở mắt chiêm bao là đồng thời ý thức biến hiện.

Hỏi:
Tham thiền còn biết cái không biết chăng?

Đáp:
Bây giờ tham thiền còn biết cái không biết, đến thoại đầu thì không còn biết cái không biết. Vì mình còn có suy nghĩ, tánh lâu đời là tìm hiểu, ghi nhớ. Đến thoại đầu thì 3 cái biết này chấm dứt, còn có nghi tình là không hiểu không biết. Cuối cùng sát na lìa ý thức thì cái không biết cũng tan rã, lúc đó biết và không biết sạch hết; biết của tự tánh hiện lên, gọi là kiến tánh thành Phật.

Hỏi:
Trạng thái con hình như bặt hết ý thức, vậy hỏi câu thoại để kích thích phải là vọng không?

Đáp:
Nói kích thích là để diễn tả, hỏi câu thoại là tự nhiên kích thích. Ngài Lai Quả nói: “Chơn tham gọi là vô tham”, vô tham không phải là không có tham, luôn cả tham thiền không biết mình đang tham thiền.
Bây giờ, biết mình đang tham thiền, nên chưa đạt đến chỗ chân tham. Vì vậy, hành giả muốn hiểu thiền hiểu đạo cũng không cho.

Hỏi:
Lúc đi hương và tọa hương, con không biết gì nữa. Vậy như thế nào?

Đáp:
Nếu biết không biết gì nữa thì lọt cái biết, lúc không biết thì thời gian qua rất nhanh.
Như ngài Hư Vân nhập định nửa tháng, có người hỏi: Ngài nhập định bao lâu?
Ngài đáp: Chỉ có chốc lát.
Ngài Huệ Trì nhập định hơn 700 năm, ngài cũng nói chốc lát.
Lúc không biết thì không biết có thời gian, còn bây giờ biết thì không phải.
Lúc đó con không biết, khi đánh chuông thì biết mình đang ngồi thiền?
Không còn biết đó gọi là định, nhưng tham Tổ Sư thiền luôn luôn phải có hỏi và nhìn để giữ nghi tình, giữ được nghi tình thì hoàn toàn không biết.

Hỏi:
Không biết của người đề câu thoại đầu khởi nghi tình thì đúng phương pháp tu. Nhưng cái không biết không nghe, một lúc giựt mình biết là vô ký không chăng?

Đáp:
Không phải nhất định là vô ký không, mới tập tham thiền giữ được nghi tình thì tự nhiên không biết; nhưng cái không biết này là do hỏi và nhìn.
Vô ký không là không có vọng tưởng và không có nghi tình. Hỏi và nhìn thoại đầu đang tiến hành mà không biết, tức là giữ được nghi tình. Ánh sáng mặt trời không bao giờ ngưng chiếu, cũng như cái biết của chúng sanh không bao giờ ngưng biết.
Nếu cái không biết đó khi mình sựt tỉnh, thấy còn đang đề câu thoại có nghi tình thì thật sự không biết của nghi tình phải không?
Phải rồi!

Hỏi:
Phật tánh chúng sanh sẵn sàng cùng khắp hư không, sao kinh Kim Cang nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”?

Đáp:
Tâm trống rỗng vô sở hữu thì không có chỗ để trụ; cho nên nói “lấy vô trụ làm gốc”, vì trống rỗng nên dung nạp và ứng dụng. Sanh kỳ tâm là dụng, trống rỗng là vô sở hữu; tức là tánh không, không là hiển bày cái dụng. Muốn dùng thì phải có cái không, như tách này bít hết là tách chết nên không dùng được, vì có cái không (trống rỗng) mới dùng được.
Các vị đang ngồi, nếu không có khoảng trống thì không thể ngồi. Cho nên cái dụng của tâm hiện ra là vô sở trụ. Vô sở trụ không có kiến lập nên gọi là vô thỉ vô sanh, kiến lập thì có sở hữu nên dụng bị chướng ngại.
Ví dụ cái tay là tự tánh hoạt bát vạn năng, muốn lấy cái gì cũng được. Nếu có sở trụ như tay cầm nón thì hoạt bát vạn năng của tay bị mất, nên lấy cái gì nữa không được.
Tham Tổ Sư thiền dùng nghi tình là cây chổi automatic quét sạch cái biết của bộ óc được trống rỗng, nên dụng tự tánh hiện ra.
Tay cầm vật là pháp có, nếu không cầm vật và tự làm nắm tay là pháp không thì mất hết dụng hoạt bát vạn năng của tay, muốn lấy vật gì cũng không được. Cho nên, cần phải buông nắm tay khôi phục lại cái dụng hoạt bát vạn năng của tay.
Vì vậy, nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, sanh kỳ tâm là cái dụng của tâm hiện ra, nhưng hiện ra là từ chỗ vô trụ. Lục Tổ nói: “Lấy vô trụ làm gốc”, Duy Ma Cật nói: “Từ gốc vô trụ lập tất cả pháp”, tức là từ gốc vô trụ dung nạp và ứng dụng.

Hỏi:
Khi ngồi có một khoảng không hiểu không biết, có 2 trường hợp: Lọt vào vô ký không và định. Làm sao biết được định hay vô ký không?

Đáp:
Khi giữ được nghi tình thì không biết, nếu muốn biết vô ký không là biết, biết định cũng là biết. Cho nên, không được móng tâm biết định hay vô ký không, giữ được nghi tình là định.
Các vị nhập định một thời gian dài là các vị muốn như vậy phải không?
Không phải! Vọng tưởng hết không còn nổi lên thì được vào định, đó là tự nhiên.
Chừng nào hết định thì tự nhiên hết, vị ấy cũng không biết phải không?
Xuất định là có xuất nhập, đại định không có xuất nhập, như đang nói chuyện cũng định. Lục Tổ nói: “Cầm đao kiếm ra trận cũng định”, định này không xuất nhập gọi là Na Già định.

Hỏi:
Hành như phong, tọa như chung, lập như tùng, ngọa như cung. Vậy ngọa như cung là như thế nào?

Đáp:
Theo sinh lý của mình phải nằm nghiêng qua bên mặt, đầu đến chân co lại giống như cái cung, tay mặt lót dưới đầu làm gối, tay trái để xuôi trên hông trái. Ngọa (nằm) như cung là giống tượng Phật nhập Niết bàn. Theo nằm như vậy thì phổi không bị đè, có ích cho sức khỏe hơn nằm ngửa hay nằm bên trái.
Các vị ở rừng núi, nếu nằm nghiêng bên mặt thì cọp sư tử không thể làm hại, vậy đúng không?
Không phải vậy! Cọp sư tử không làm hại là người ấy không có nhân đó thì không bị cái quả. Những người có thiền định nên sức của tâm mạnh, tự nhiên sức tâm yếu của sư tử cọp không dám lại gần.

Hỏi:
Dạy cho con giảm được nghiệp khổ?

Đáp:
Tham Tổ Sư thiền là dùng không hiểu không biết (nghi tình) để tu, thì dễ định không bị ngoại cảnh quấy phá, như thấy đẹp không biết đẹp nên không ham thích, thấy xấu không biết xấu nên không chê bai. Vì vậy, buồn vui yêu ghét tự nhiên chấm dứt. Được định thì sức tâm mạnh nên cọp beo đều phải sợ.
Tâm lực mình mạnh đối diện người tâm lực yếu, ý niệm yếu chìu theo ý niệm mạnh. Cho nên, người tham thiền có sức của tâm tăng thì sửa được nghiệp.
Những người có tiền vượt biên trên biển bị chết đói, có tiền do có thiện nghiệp, chết là do có ác nghiệp. Hai nghiệp không thể trừ với nhau, cho nên họ có tiền cũng bị chết đói. Theo có tiền thì không thể chết đói, nhưng có chỗ, tiền cũng không dùng được. Vì vậy, cũng phải bị chết đói.
Ví dụ tạo nghiệp chết đói là 1 độ, tham thiền có tâm lực từ 1 độ lên đến 10 độ; nên nghiệp chết đói lui lại sau, cái quả của nghiệp 10 độ đến trước. Nếu không tham thiền thì tâm lực 10 độ hết dần còn 1 độ, nghiệp chết đói cũng phải hiện ra.
Từ 10 độ mà tham thiền có sức tâm 1.000 độ thành Phật thì nghiệp chết đói 1 độ không có cơ hội đến, nhưng thành Phật là cứu độ chúng sanh, tức trước kia làm cho họ bị chết đói thì họ được ưu tiên độ trước, nên nghiệp mới tiêu (tự mình sửa lại nghiệp mình). Cho nên, tham Tổ Sư thiền mới sửa được nghiệp.
Như hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?”, cảm thấy không biết, rồi nhìn chỗ không biết thì không có chỗ nhìn, nên thấy trống rỗng không có gì, vẫn còn không biết. Nếu giữ không biết miên mật thì đến thoại đầu sẽ kiến tánh thành Phật.

Hỏi:
Nhiều năm niệm lục tự Di Đà được không?

Đáp:
Được, vì dùng tâm biết thì dễ bị ngoại cảnh lôi kéo, thế nào cũng có chuyện buồn vui yêu ghét, nên sức của tâm không được mạnh. Cho nên, mấy chục năm không thấy gì là vậy.

Hỏi:
Con chỉ hỏi “về đâu” và nhìn ngay đó, mà không hỏi nguyên câu được không?

Đáp:
Không được! Phải hỏi nguyên câu, nếu bỏ đoạn trên thì dễ ra đáp án. Như chỉ hỏi “Ta là gì?”, bỏ “khi chưa có trời đất” cũng có nghi tình, nhưng dễ có đáp án. Ta là đàn ông, ta là đàn bà, ta là người,… Khi chưa có trời đất thì khó biết được, cho nên không được bỏ đoạn trên.

Hỏi:
Tham thiền lúc nào cũng phải giữ nghi tình cho miên mật và nhờ có tánh không nên mình ngồi đây, mà tánh không là tâm; nhưng trong đầu mang nghi tình, làm sao có tánh không được?

Đáp:
Nghi tình là không biết tức trống rỗng, chính người hỏi câu đó lấy nghi tình làm một vật gì, thành ra không có trống rỗng.

#33 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 26/08/2011 - 09:49

Trang 4:
Ngày 14 – 7 đến 20 – 7 – Đinh Sửu (97).
Hỏi:
Không sanh tử sao lại có nhân quả?

Đáp:
Nhân quả ở trong chiêm bao, nếu lìa khỏi chiêm bao thì nhân quả trong chiêm bao cũng không còn.
Chiêm bao không thật, sao lại có nhân quả?
Không phải không có chiêm bao, nhưng việc chiêm bao không thật.
Bom nguyên tử nổ tung trái đất. Vậy ai trả nhân quả?
Bom nguyên tử nổ tung trái đất, vũ trụ sụp hết; nhưng tâm mình vẫn y nguyên.

Hỏi:
Không sanh khởi, sao lại có người?

Đáp:
Vì có tâm chấp nên mới có, nếu không có tâm chấp thì trống rỗng vô sở hữu. Tại mình kiến lập sở hữu như tiền, nhà, đất,… đều của tôi. Nhà chưa có quyền sở hữu thì phải lo giấy tờ để có quyền sở hữu.
Hỏi:
Ý thức với tự tánh giống nhau hay khác?

Đáp:
Tự tánh không phải tự tánh, tự tánh thì phải lìa ý thức.
Hỏi câu thoại, sao ý thức không chết?
Kiến tánh thì lìa ý thức là ý thức mới mất. Nếu không kiến tánh thì ý thức hoạt động bình thường, rồi theo nghiệp có thể đầu thai thành heo, chó,…
Vọng tưởng không thật, sao có vọng tưởng?
Vì kiến lập mới có.
Tánh không, sao lại có chiêm bao?
Vô sở hữu (trống rỗng) cũng là tánh không.
Mọi người đều có thần thông trí huệ bằng chư Phật, vậy lúc nào dùng ra được?
Khi nào sở hữu không còn nữa thì thần thông trí huệ tự nhiên hiện lên.
Sao có vô thường?
Chấp vô thường là thật thì bệnh nặng hơn chấp thường. Chấp thường là thường kiến ngoại đạo, chấp vô thường là đoạn kiến ngoại đạo.

Hỏi:
Tâm niệm phát xuất từ đâu? Tâm này là cái gì?

Đáp:
Tâm niệm phát xuất từ tâm, tâm là cái gì thì phải kiến tánh mới biết được; nhưng mình đang dùng. Ngài Long Thọ ví dụ hư không vô sở hữu cho tâm của ông, vô sở hữu là trống rỗng dung nạp và ứng dụng. Tâm của ông trống rỗng, Phật pháp gọi là tánh không; mặt trăng, mặt trời, đất đai, nhà cửa,… đều ở trong vô sở hữu này.
Có vô sở hữu nên có chỗ cho ông quỳ, ông hỏi tôi đáp cũng phải nhờ vô sở hữu này; ông nhìn thấy tôi, tôi nhìn thấy ông cũng phải nhờ vô sở hữu này; cuộc sống hàng ngày nói năng tiếp khách đều nhờ vô sở hữu này, tức là ông đang ứng dụng mà chẳng tự biết.
Sát na lìa ý thức thì tâm toàn diện hiện lên khắp không gian thời gian. Khắp không gian không có khứ lai, nên gọi là Như Lai; khắp thời gian không gián đoạn, nên gọi là Niết Bàn; tâm mình có tánh giác ngộ, nên gọi là Phật tánh.
Tất cả danh từ đều diễn tả sức dụng của tâm, tuy nói muôn ngàn danh từ sai biệt; nhưng bản thể của tâm trống rỗng vô sở hữu không có khác biệt.

Hỏi:
Thế nào cội nguồn chân thật của tự tánh?

Đáp:
Chỗ trống rỗng vô sở hữu là tâm ông, cũng là nguồn gốc chân thật, là tự tánh, Phật tánh, trí Bát Nhã, vô duyên tri, chánh biến tri, Bồ Đề, Niết Bàn, giải thoát, vô trụ,… Vì trống rỗng nên không có chỗ để trụ, gọi là vô trụ; vì trống rỗng nên không có trói buộc, gọi là giải thoát.

Hỏi:
Không biết luật, nhân duyên,… làm sao tu biết mình có tự tánh?

Đáp:
Thực hành hỏi và nhìn song song thì sau này sẽ tự biết, không thể nói cho biết được. Nếu nói được thì Phật Thích Ca nói cho mình biết thì khỏi tu. Vì không nói được, nên Phật Thích Ca nói “49 năm thuyết pháp, tôi chưa từng nói một chữ” và “ai nói Phật có thuyết pháp, người ấy phỉ báng Phật”.

Hỏi:
Cư sĩ tham thiền có bị bùa yếm không?

Đáp:
Mình có tạo nhân mới có quả, nếu không tạo nhân thì không có quả. Tạo nhân ác nên có quả khổ, tạo nhân thiện thì có quả phước. Vậy không có tạo nhân làm sao sợ trù yếm!

Hỏi:
Vô sở trụ làm sao có thân này?

Đáp:
Thân này có là do nghiệp của ông tạo ra, không những thân người, mà sau này có thể tạo thân chó, thân heo,… Nếu còn ăn thịt heo, gà thì sau này phải đầu thai heo gà để cho người ta ăn lại. Đó là nhân quả.

Hỏi:
Hỏi câu thoại là quyết tâm tìm ra đáp án. Vậy có đúng không?

Đáp:
Tìm ra đáp án là sai lầm, vì tìm ra là dùng bộ óc tìm hiểu thì nghịch với Tổ Sư thiền. Tham thiền là dùng nghi tình chấm dứt tìm hiểu, cần giữ niệm không hiểu không biết (nghi tình); hỏi câu thoại là kích thích niệm không hiểu không biết, muôn ngàn câu thoại chỉ là đề khởi lên niệm không hiểu không biết.

Hỏi:
Hỏi câu thoại là để cho tâm mình không phóng bậy phải không?

Đáp:
Hỏi câu thoại để kích thích lên niệm không hiểu không biết, thì không biết phóng bậy hay không phóng bậy. Nếu giữ được không biết thì tâm không phóng bậy. Dùng cái biết thì tâm có thể phóng bậy.
Vậy cần để tìm hiểu trả lời không?
Không cho tìm hiểu, sao còn hiểu! Tham thiền là không biết để chấm dứt tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết. Hỏi và nhìn để kéo dài nghi tình, đến thoại đầu thì hoàn toàn không còn niệm nào; rồi tiến thêm một bước, biết và không biết của bộ óc đều sạch; biết của Phật tánh hiện lên khắp không gian thời gian, gọi là kiến tánh thành Phật.
Biết cùng khắp không gian không có khứ lai, nên gọi là Như Lai; khắp thời gian không gián đoạn, nên gọi là Niết Bàn; vì trống rỗng không có chỗ để trụ, nên gọi là vô trụ; vì có tánh giác ngộ, nên gọi là Phật tánh.

Hỏi:
Thế nào đi và ngồi trong Thiền đường?

Đáp:
Ngày xưa chưa có đồng hồ, nên khi ngồi đốt cây hương; cháy hết cây hương lại đốt cây hương khác để đi, cứ như thế thay phiên ngồi và đi để tham thiền. Cho nên, ngồi gọi là tọa hương, đi gọi là đi hương. Tọa hương và đi hương là điều chỉnh sức khỏe thân thể. Vì ngồi đến tê chân rồi phải đi, đi tới mỏi chân nên phải ngồi; chứ không phải tham thiền cần ngồi cần đi! Điều kiện cần nhất là giữ nghi tình được kéo dài.
Nếu giữ được không hiểu không biết thì ngoại cảnh không lôi kéo. Dùng cái biết để tu thì dễ bị ngoại cảnh lôi kéo, vì biết tốt xấu nên có tâm khen chê. Cho nên, dùng cái không biết để tu dễ đưa đến kiến tánh thành Phật. Vì vậy, gọi là pháp thiền trực tiếp. Dùng cái biết để tu là pháp thiền gián tiếp.

Hỏi:
Người chưa biết tu còn mê chấp, người biết tu còn mê chấp không?

Đáp:
Mê chấp là tập khí từ lâu đời, cũng gọi là thói quen; theo Phật pháp gọi là tập khí phiền não, rất khó dứt. Có khi người xuất gia làm tội địa ngục, mà tự mình không biết. Vì ham tài lợi trước mắt để xây dựng bản ngã cho mình.
Như kinh nói:
Một hạt gạo của Thí chủ,
Lớn bằng núi Tu Di.
Nếu không tu giải thoát,
Mang lông đội sừng trả.
Họ biết nhưng không tin, chỉ biết đồng tiền; có nhiều chừng nào tốt chừng nấy, lại không tu giải thoát.
Lục Tổ nói có 4 loại người:
Thân xuất gia mà tâm tại gia.
Tâm xuất gia mà thân tại gia.
Thân và tâm đều tại gia.
Thân và tâm đều xuất gia.
Nếu cư sĩ thân tại gia mà tâm xuất gia, thì tốt hơn những người thân xuất gia mà tâm tại gia.

Hỏi:
Không biết nhân duyên gì, từ khi con gặp Sư Phụ lại có lòng tin và mọi người câu hội về Chùa Tam Bảo cùng thương nhau; tất cả đều muốn thành Phật, nhưng sự tu của chúng con không được bao nhiêu. Nếu chúng con giữ tâm đó mãi cho đến ngày nào được giải thoát không?

Đáp:
Thầy giúp cho mọi người được thành Phật thì sau này Thầy sẽ thành Phật, vì đã tạo nhân thành Phật. Tuy mình tu Pháp xuất thế gian, nhưng ở nhà chiêm bao thì ăn mặc, ở làm việc đều trong chiêm bao. Nhưng làm việc cho đúng, như thu chi trong Thiền đường phải rõ ràng mới duy trì lâu dài, người hộ pháp được an tâm.
Con nguyện theo lời Sư phụ dạy, từ đây trở về sau, con không dám gì hết. Nếu có ai xin một cục đất, con cũng phải trình hỏi Sư phụ.
Không phải vậy! Năm nay, tôi 75 tuổi rồi, nay mai tôi chết cũng không biết; tôi muốn Chùa Tam Bảo là Đạo tràng Thiền tông, dẫu cho ông chết hay tôi chết vẫn còn tiếp tục.

Hỏi:
Tự tứ là gì?

Đáp:
Giải tự tứ có kiến, văn, nghi. Sau kiết hạ 3 tháng, mỗi người ra trước Đại chúng tự kiểm thảo, nếu tự mình không biết phạm giới hay không phạm giới thì ra hỏi “3 tháng đây, có ai thấy, nghe, nghi tôi phạm giới không? Nếu có thì xin xử tội tôi” trong Đại chúng có người biết bạn mình phạm giới mà không cử tội thì người ấy cũng đồng phạm tội như người phạm giới:
Cho nên, người ở trong Tăng đoàn khó phạm giới, nếu có phạm cũng rất ít; vì thường coi với nhau.

Hỏi:
Di Quang gặp Đại Huệ liền nghi, nhưng qua một thời gian không ngộ. Di Quang hỏi Đại Huệ: Tại sao đến chỗ này con không ngộ, vậy bệnh chỗ nào?
Đại Huệ nói: Bệnh của ông thì thầy thuốc cũng bó tay, vì người chết không thể sống lại, còn ông sống thì không thể chết.
Xin Sư phụ khai thị chỗ này?

Đáp:
Muốn chết phải dùng nghi tình chấm dứt tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết; chỉ còn nghi tình mới ngộ được; tức là không bị nhục thân này và ý thức của bộ óc hạn chế. Sát na lìa khỏi ý thức thì luôn cả không biết cũng tan rã; lúc đó biết và không biết sạch hết thì biết của tự tánh hiện lên, gọi là kiến tánh thành Phật.
Đó gọi là sống lại (tuyệt hậu tái tô), chết ý thức phân biệt, sống lại bản thể. Bản tri là không có đối đãi tri và bất tri, không thể kiến lập tri; vì cái tri đã sẵn, như ánh sáng mặt trời có từ hồi nào.
Có người hỏi tôi: Đến thoại đầu gần kiến tánh, có phải sắp biết phải không?
Tôi nói: Không phải! Vì cái biết của bản tâm đâu có ngưng mà nói sắp biết! Như ánh sáng mặt trời: Trời gần sáng mặt trời sắp chiếu phải không? Không phải! Ánh sáng mặt trời không bao giờ ngưng chiếu, sao nói là sắp chiếu? Nếu ánh sáng có ngưng chiếu thì nói sắp chiếu mới đúng. Không thấy mặt trời chiếu là bị che khuất bởi mây đen hay quả đất.
Cái biết của mình bị che khuất là do kiến lập sở hữu, sở hữu nhiều chừng nào thì bị che khuất nhiều chừng nấy; tức là tự mình che khuất. Nếu có kiến lập thì có sanh (bắt đầu). Cho nên, người chứng quả là ngộ pháp vô sanh, cũng gọi là chứng vô sanh pháp nhẫn.

Hỏi:
Thời gian sau, Đại Huệ nói với Di Quang: Ông ăn xong rồi rửa bát hãy nói một câu?
Di Quang nói: Nứt bể.
Đại Huệ nạt Di Quang: Ông còn thiền sao!
Ngay đó Di Quang ngộ.
Xin Sư phụ khai thị?

Đáp:
Vì có tâm kiến lập, nên có “nứt bể” và còn chấp có Thiền. Vì vậy, Thiền Tông không cho hiểu thiền hiểu đạo.

Hỏi:
Đại Huệ hỏi Di Quang: “Ông chết không biết sống lại”. Vậy yếu chỉ chỗ đó như thế nào?

Đáp:
Chết là chết của bộ óc, sống lại là hiện lên bản tri (vô duyên tri, trí Bát Nhã). Di Quang còn dùng bộ óc tìm hiểu nên chưa chết, chứ không chấm dứt tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ của bộ óc.

Hỏi:
Chúng con đến Thiền đường, ai cũng muốn kiến tánh; sao không được có tâm chờ ngộ?

Đáp:
Có đi thì có đến, không đi thì không đến; đi nhanh thì mau đến, đi chậm thì lâu đến. Như muốn đi Thành phố H-C-M, có đi sẽ đến bằng phương tiện xe hơi, xe gắn máy, xe đạp, đi bộ. Đã đi khỏi cần nói rồi sẽ đến, khỏi cần chờ đợi cũng đến. Nếu không đi mà nói “tôi muốn đi Thành phố Hồ Chí Minh”, làm sao đến được?
Tham thiền có tâm chờ ngộ là kiến lập thành chướng ngại. Vì bản tâm vốn vô sở hữu, tức là không có chỗ trụ thì dụng của tâm hoạt bát vạn năng. Dẫu cho có ngộ cũng không được cái ngộ, cho nên Thiền Tông nói “ngộ rồi đồng như chưa ngộ”.
Nếu còn ôm cái ngộ thì chưa phải là thật ngộ, vì có ngộ nên có mê để đối đãi; người triệt ngộ thì hết mê nên không còn ngộ. Có tin tự tâm thì mới hiện ra tự tâm, nhưng phải có đi, đi là giữ nghi tình.

Hỏi:
Ngày xưa, Tổ dùng chuyển ngữ hay hoạt cú. Vậy, ngày nay với ngày xưa có khác không?

Đáp:
Ngày xưa và ngày nay không khác, ngày nay không có người kiến tánh nên không nói được chuyển ngữ. Người kiến tánh mới nói được chuyển ngữ, tức là lời nói không có chỗ trụ, không có gì làm chướng ngại. Có Thiền Sư nói: “chết rồi thiêu xong có nhiều xá lợi không bằng nói ra một chuyển ngữ”. Có nhiều xá lợi chưa phải là kiến tánh.
Hoạt cú thì người kiến tánh mới sử dụng được, còn người chưa kiến tánh thì nói tới đâu trụ tới đó, gọi là tử ngữ, chứ không phải hoạt ngữ. Vì nói có chấp thật có, nói không chấp thật không. Nhiều người lọt vào biên kiến mà tự mình không biết, như cho tất cả là huyễn hóa thì lọt vào biên kiến.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “phi huyễn còn không được, huống là pháp huyễn”. Huyễn và phi huyễn là tương đối, tức là chẳng có huyễn chân thật để kiến lập. Chấp chơn, chấp huyễn, chấp vọng, chấp giả đều là biên kiến. Chấp thật chơn thì bệnh dễ trị, chấp thật vọng là bệnh nặng khó trị. Như chấp thật giả thì bệnh nặng khó trị, vì chấp thật giả là chơn lý.
Không thể kiến lập, nếu có kiến lập là có bắt đầu. Pháp của Phật Thích Ca là Pháp bản trụ, vốn không có sự bắt đầu và không có sự sanh khởi. Nếu có sự sanh khởi thì phải có cuối cùng, có sanh phải có diệt là ở trong tương đối. Người ngộ đạo là ngộ pháp vô sanh, chứng vô sanh pháp nhẫn.
Vô sở hữu thì trống rỗng không có bắt đầu, không có sanh khởi. Bất cứ kiến lập cái gì hay kiến lập Phật cũng lọt vào biên kiến. Phật là giác ngộ, nếu chấp vào Phật thì còn mê, vì có mê nên mới có ngộ.
Cho nên, kinh Viên Giác nói: “Nếu chấp ngộ chấp chứng thì lọt vào ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng” là tứ tướng của bậc thánh còn chướng ngại vi tế, gọi là mê trí tứ tướng. Tứ tướng của phàm phu là mê thức.

Hỏi:
Người tôn giáo khác đến gặp Tổ Sư Thiền rồi tu, có phải phản bội tôn giáo mình không?

Đáp:
Không phải! Thật tế, Phật giáo không phải một tôn giáo, là giáo dục bao gồm tất cả; không những nhân loại mà luôn cả chúng sanh đều bao gồm. Nhân loại chỉ một phần của chúng sanh. Trong nhân loại có đủ thứ tôn giáo, tà ma ngoại đạo, công thương kỹ nghệ, không thiếu sót một cái nào. Vì Phật nói tất cả chúng sanh bình đẳng Phật tánh, Phật pháp muốn hiển bày tâm của mọi chúng sanh.
Ngài Long Thọ nói: “Tâm như hư không vô sở hữu dung nạp và ứng dụng”. Tất cả tôn giáo cũng nhờ vô sở hữu dung nạp và ứng dụng, cho đến tất cả chúng sanh không có cái nào ở ngoài vô sở hữu này. Phật giáo không phân biệt tôn giáo, vì Phật Thích Ca là giáo dục. Do người ta cho Phật giáo là tôn giáo, bản chất không phải một tôn giáo.

Hỏi:
Việc cầu siêu cầu đảo có thật không?

Đáp:
Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền nói: “Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ”. Phàm chánh pháp phải phá ngã chấp, nếu cầu được thì phá hoại nhân quả; tức là không làm nhân mà được quả. Nhân quả là tạo thiện nhân được quả tốt, tạo ác nhân chịu quả khổ. Nếu cầu được thì tạo ác cũng không sao! Cũng khỏi cần tu hành.

Hỏi:
Ngài Lai Quả phạm qui củ bị đánh hương bảng. Việc ấy như thế nào?

Đáp:
Cảnh giới này là ngài đến chân tham.

Hỏi:
Đời thượng ngươn có Phật Thích Ca chứng ngộ, sau này có ai giác ngộ không?

Đáp:
Các vị kiến tánh trong lịch sử Thiền tông Trung Hoa ghi 7.000 Tổ, có tên họ đàng hoàng.
Nói có nói không là thế nào?
Nói có là thường kiến ngoại đạo, nói không là đoạn kiến ngoại đạo; tức là nói có và không đều không đúng. Phật pháp không thiên về một bên có hoặc không, nên gọi là bất nhị, nhị là tương đối.
Phim Tây Du Ký là như thế nào?
Tác giả của Tây Du Ký là Ngô Thừa Ân theo Đạo giáo phỉ báng Phật giáo. Tác giả tiểu thuyết Phong Thần để công kích Đạo giáo. Nếu mình tin vào Tây Du Ký thì cũng liên lụy đến tội địa ngục.

Hỏi:
Tác ý và tạo tác giống nhau không?

Đáp:
Tác ý là ý thức khởi niệm lên, tạo tác là đã làm. Như tác ý là nổi niệm lên muốn ăn cắp trái tắc, nhưng chưa ăn cắp; tạo tác là lấy trái tắc rời chỗ.
Tác ý có nhân quả không?
Nếu thọ giới Bồ Tát tác ý thì phạm giới, giới Thinh văn làm rồi mới phạm. Như theo giới Bồ Tát khởi ý niệm lấy thì phạm giới, giới Thinh văn là lấy vật rời khỏi chỗ thì phạm giới. Nhưng theo nhân quả có khởi tâm là phạm.

Hỏi:
Tại sao Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả?

Đáp:
Vì tạo nhân thì quả sẽ có. Chúng sanh tạo ác nhân để cho mình được lợi ích phát tài, lúc quả đến thì sợ. Bồ Tát sợ nhân nên không tạo nhân thì không có quả.

Hỏi:
Phật tử theo những người tự xưng là đạo Phật, rồi cho các vị ấy là Phật sống hay là Quan Thế Âm để dạy người khác mê lầm. Như vậy chánh đạo hay là tà đạo?

Đáp:
Những người gắn bảng hiệu Phật giáo, mà hành theo ngoại đạo thì phải bị tội địa ngục. Như giới luật nhà Phật nói “Chưa chứng mà nói chứng bị tội ba la di, nếu nói một lần chịu chín triệu năm địa ngục”.
Các vị đã chứng quả Bồ Tát cũng không xưng là Vô Thượng Sư, vì trên Bồ Tát còn có quả vị cao hơn.

Hỏi:
Tham thiền là chấm dứt tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết. Khi đề câu thoại khởi nghi tình, ngay lúc đó dù tác ý hay không tác ý thì cũng lọt vào ghi nhớ biết nghi tình. Xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
Không phải vậy ! Nếu giữ được nghi tình thì không hiểu không biết. Nổi lên cái biết thì có thể tìm hiểu. Vì không biết nên không nổi lên tìm hiểu, tự động chấm dứt cái biết.
Khởi lên suy nghĩ là biết mình đang suy nghĩ thì không phải nghi tình. Nổi lên nói mình có trí nhớ là biết, nên không phải tham thiền. Tham thiền mình không có trí nhớ hay không có trí nhớ đều không biết thì gọi là nghi tình.
Như ông cho nhớ hay quên là sai lầm, nếu giữ được nghi tình thì quên hết tất cả, chưa quên hết tất cả là công phu còn cạn.

Hỏi:
Ngài Lai Quả nói: “Tham thiền và vọng tưởng không phải là hai, đề câu thoại đầu lên thì thấy không có vọng tưởng”. Vậy nhớ câu thoại đầu để hỏi thì có phải ghi nhớ biết không?

Đáp:
Phải rồi ! Vì ngài Lai Quả muốn giải thích, mới dùng lời nói của thế gian. Như tôi muốn giải thích, phải dùng chỗ không biết. Vì không có mục tiêu để nhìn, nên tôi dùng phương tiện là nhìn chỗ đen tối.
Nhưng nhìn chỗ đen tối là không đúng, chỉ là phương tiện tạm thời để cho họ được vào cửa, mới dùng đen tối để thí dụ cho chỗ không biết. Tất cả lời của chư Phật chư Tổ là phương tiện tạm thời.

Hỏi:
Khởi câu thoại vỉ có thể lọt vào pháp tạo tác không? Và tin tự tâm chưa đầy đủ làm sao dụng công?

Đáp:
Thoại đầu là chưa khởi niệm muốn nói câu thoại, mục đích muốn đến thoại đầu; tuy chưa đến thoại đầu, nhưng cũng gọi là tham thoại đầu.
Tham là hỏi, khán là nhìn; hỏi để kích thích lên một niệm không hiểu không biết, hỏi không phải tạo tác. Đó là đường lối thực hành để đến thoại đầu (chỗ hoàn toàn không tạo tác). Vì mình hay tạo tác, nên Phật dạy đường lối chấm dứt tạo tác. Do có tạo nên có thành, phải có hoại là không phải pháp bản trụ (bản lai diện mục).
Nếu nói tất cả mình đầy đủ, vậy mình khỏi ăn cơm. Đầy đủ rồi cần ăn cơm mặc áo chi nữa! Vì mặc áo ăn cơm là tạo tác.
Nếu vậy thì Phật tánh lại có gián đoạn!
Phật tánh không gián đoạn, tại mình hạn chế; tuy hạn chế làm che khuất, nhưng Phật tánh không bao giờ gián đoạn.
Có người hỏi: Nếu dùng không biết để tu đến thoại đầu thì sắp kiến tánh là sắp biết phải không?
Tôi nói: Không thể nói sắp biết, vì cái biết là pháp bản trụ (vốn sẵn có), không có bắt đầu gọi là vô thỉ (vô sanh). Do sanh nên có bắt đầu thì tạo tác, tạo tác phải có kiến lập. Cái biết vốn sẵn có, làm sao nói là sắp biết? Nếu sắp biết thì đã có ngưng, nên không cùng khắp thời gian không gian.
Như trời gần sáng, mặt trời sắp chiếu phải không? Không phải. Vì mặt trời đâu có ngưng chiếu, sao nói là sắp chiếu! Như cái biết của mình đâu có ngưng biết mà nói là sắp biết? Vì không thấy mặt trời chiếu là do bị mây đen và trái đất che khuất.

Hỏi:
Thế nào dụng công ít phí sức?

Đáp:
Tham Tổ Sư thiền ít phí sức chừng nào tốt chừng nấy, giữ nghi tình như sợi chỉ được kéo dài; đừng tập trung tinh thần, không cần cố gắng; tập trung tinh thần cố gắng là phí sức.
Nếu hỏi một lần, rồi cách một hồi hỏi nữa thì có kẽ hở mà vọng tưởng nổi lên. Phải hỏi khít khít thì vọng tưởng không thể nổi lên, gọi là miên mật. Chỉ cần nghi tình miên mật một chút là đủ.

Hỏi:
“Ngoài dứt các duyên, trong không nghĩ tưởng”, dụng công như vậy có thể vào đạo không?

Đáp:
Đó là lời chư Phật chư Tổ dạy làm phương tiện tạm thời, không phải người nào cũng vậy; Tổ dạy mỗi người có khác. Trong lịch sử Thiền tông có nhiều trường hợp này, như có người hỏi thì Tổ trả lời thế này; người khác hỏi thì Tổ trả lời thế kia. Vì không có pháp nhất định, nên gọi là Phật pháp; tức là Phật pháp tùy duyên, Giáo môn gọi là tùy duyên bất biến.
Nếu dùng ngôn ngữ để diễn tả thì không phải thật tế. Như câu trên diễn tả cho tâm là không đúng thật tế. Vì thật tế tâm là vô sở hữu, do vô sở hữu nên gọi là tánh không. Nhờ tánh không, nên nhà cửa, núi sông, đất đai,… đều ở trong đó dung nạp và ứng dụng. Bản thể vô sở hữu đâu thể nói là vách tường hay cái gì!
Có người hỏi ngài Long Thọ: Tại sao không nói hư không quảng đại vô biên dung nạp tất cả vật, mà nói hư không vô sở hữu dung nạp tất cả vật?
Ngài Long Thọ nói: Hư không vô sở hữu là không có hư không, nhưng lại dung nạp và ứng dụng. Đã biết không có hư không sao còn nói quảng đại? Vì có kiến lập khái niệm rồi nói quảng đại. Tất cả không thể kiến lập, nên nói là vô thỉ vô sanh. Nếu có kiến lập thì không phải thật tế, không phải pháp bản trụ sẵn có.
Cho nên, dùng ý thức phân biệt để tìm hiểu nhiều thì càng xa cho sự kiến tánh. Vì vậy, cần phải chấm dứt tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết. Các nhà bác học có thực nghiệm cũng biết được.
Tu có định lực cao thì phân biệt bớt, định lực thấp thì phân biệt nhiều. Các nhà bác học qua sự nghiên cứu phát hiện người lâm chung, thấy hành vi cuộc đời của người ấy hiện trong một sát na, mỗi chi tiết đều hiện ra một lượt, tuy tiếp xúc một lần cũng hiện đầy đủ.

Hỏi:
Khi niệm câu thoại vỉ và hỏi câu thoại cũng là thoại vỉ. Vậy như thế nào?

Đáp:
Hỏi và nhìn là lìa thoại vỉ, nhưng chưa đến thoại đầu, mà đang đi ở giữa đường. Ví dụ cây viết cho ý thức, đầu trên cây viết là thoại đầu, đầu dưới cây viết là thoại vỉ. Ý thức gồm có 2 mặt: Dùng cái biết để tu, gọi là tu Như Lai thiền; dùng không biết để tu, gọi là tu Tổ Sư thiền. Cuối cùng hai pháp tu đều đến thoại đầu.
Đến thoại đầu là đường đi ý thức hết thì tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết đều chấm dứt; nhưng còn không hiểu không biết (nghi tình), chỗ này gọi là vô thỉ vô minh (đầu sào trăm thước, nguồn gốc ý thức). Nghi tình cũng là một mặt của ý thức nên còn dính líu với ý thức. Sát Na từ đầu sào trăm thước tiến lên một bước là lìa khỏi ý thức thì được kiến tánh thành Phật.
Sát na lìa ý thức thì biết và không biết của bộ óc, cái biết chánh biến tri hiện lên khắp không gian thời gian; ngài Vĩnh Gia gọi là vô duyên tri, Giáo môn gọi là trí Bát nhã, chánh biến tri cũng là cái biết của bản thể. Cái biết này không gián đoạn, như vừa rồi tôi nói là không thể sắp biết, vì không có ngưng biết.
Người ta cho rằng dùng cái biết mới tu được, nhưng dùng cái biết để tu dễ bị ngoại cảnh lôi kéo. Tại sao? Vì gặp tốt thì sanh lòng tham thích, thấy xấu thì chê bai. Nếu dùng không biết để tu thì tốt đẹp cũng không biết nên không ham thích, gặp xấu thì không biết nên không chê bai. Cho nên dễ đến thoại đầu, vì vậy gọi là pháp thiền trực tiếp.
Nếu tìm hiểu để đáp án câu thoại là sai lầm, hay dùng ý thức phân biệt cho là trí khôn, vọng tưởng, nghi tình, đó là dùng cái biết chứ không dùng cái không biết. Khi thực hành tham thiền, nếu hiểu thiền hiểu đạo còn không cho, huống chi hiểu cái khác! Vì hiểu là biết, tham thiền là cần cái không hiểu không biết.

Hỏi:
Tu thiền voga, khi ngồi họ bay lên, vậy có giống Tổ Sư Thiền không?

Đáp:
Tổ Sư Thiền không có những cái đó, những cái đó giống như tà ma ngoại đạo.
Có những câu chuyện như thần giao cách cảm!
Bài hồi sáng là tôi chỉ để tăng cường lòng tin tự tâm cùng khắp không gian thời gian. Nhưng người phát hiện cũng có người cao người thấp, không phải bản thể của tâm. Vì họ có thiền định nên sức tâm mạnh thì phân biệt ít, được tầng số cao. Nếu họ có tầng số thấp thì phân biệt nhiều. Phân biệt theo Phật pháp gọi là thức, còn trí thì không phân biệt.

Hỏi:
Thế nào căn bản của Tổ Sư Thiền?

Đáp:
Tham thiền là mục đích giải thoát tất cả khổ, mọi người đều được làm chủ cho mình; không bị người khác chi phối, không bị ngoại cảnh chi phối; mới được tự do tự tại thì không ỷ lại người khác, tự làm chủ cho mình thì phải biết mình là cái gì.
Nếu không biết mình là cái gì thì sao làm chủ mình được! Tham thiền để biết chính mình là gì, giải thoát tất cả khổ vĩnh viễn, muôn ngàn kiếp sau không trở lại nữa. Muốn giải thoát tất cả khổ phải thực hành tham thiền, hỏi câu thoại là kích thích niệm không hiểu không biết.
Tôi hỏi ông: Khi chưa có trời đất ông là gì?
Ông ấy đáp: Không biết.
Khán là nhìn chỗ không biết, muốn xem chỗ không biết đó là gì; chỗ không biết thì không có chỗ, nên không có mục tiêu để nhìn; vẫn còn không biết, Thiền tông gọi là nghi tình.
Hành giả tham thiền hỏi và nhìn đồng thời song song để giữ nghi tình, đưa hành giả đến thoại đầu sẽ kiến tánh thành Phật là giác ngộ chính mình, được làm chủ cho mình.

Hỏi:
Nhìn chỗ không mục tiêu, vậy không biết nhìn chỗ nào?

Đáp:
Nếu nhìn không thấy gì thì cứ nhìn mãi, nhìn không có mục tiêu mới đúng; còn nhìn có mục tiêu là sai lầm, vì đường lối của Phật Thích Ca là vậy. Ban đầu tôi dùng phương tiện là nhìn chỗ đen tối, nhưng không phải chỗ đen tối. Nhìn chỗ đen tối tạm thời, nhưng người ta chấp đen tối là mục tiêu; như vậy đã kiến lập đen tối, tức là có sáng rồi mới có tối.
Tự tánh bất nhị không có tương đối luôn cả cái biết cũng không thể kiến lập như có người hỏi tu đến thoại đầu thì sắp biết phải không?
Tôi nói: Đâu thể nói là sắp biết! Cái biết đó sẵn sàng thì sao nói là sắp biết? Cái biết ấy đâu có ngưng biết mà nói sắp biết. Như ánh sáng mặt trời đâu có ngưng chiếu mà nói sắp chiếu!
(Trừ nghiệp chướng phiền não…. trang 128).
Vì vậy tôi nói chấm dứt tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết. Mặc dầu, chưa đến thoại đầu, nhưng cũng có ích lợi.

Hỏi:
Thoại đầu là gì?

Đáp:
Thoại là lời nói, đầu là đầu tiên lời nói; tức là khi chưa khởi niệm muốn nói gọi là thoại đầu. Nếu khởi niệm muốn nói, tuy chưa nói ra miệng là thoại vỉ (đuôi), không hiểu không biết là nghi tình, chứ không phải thoại đầu; nhưng nhờ nghi tình mới đưa đến thoại đầu.
Niệm thoại đầu là không đúng, phải hỏi câu thoại. Nếu niệm là pháp môn khác, không phải pháp môn Tổ Sư Thiền.
Vậy lấy chi để nhớ?
Không cho nhớ, quên là tiến bộ. Quên hết tất cả là tốt, mục đích chấm dứt cái nhớ. Học để ứng dụng vô sở hữu, vô sở hữu là không bị hạn chế.

Hỏi:
Thế nào là công án?

Đáp:
Công án là để cho người tham thiền thình lình được ngộ, nếu không ngộ thì không hiểu phải phát nghi rồi đến ngộ. Vì nghi là nhân, ngộ là quả; còn ngộ rồi thì hết nghi, tức không còn gì để nghi nữa, là tất cả vũ trụ đều biết hết.
Công án và thoại đầu có khác không?
Không khác, công án phức tạp hơn thoại đầu. Nhưng người ta thường tham công án chữ “vô” của Triệu Châu.
Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh không?
Triệu Châu đáp: Có.
Tăng khác hỏi: Con chó có Phật tánh không?
Triệu Châu đáp: Không.
Theo người ta biết tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tại sao Triệu Châu nói không? Không lẻ Triệu Châu là một Thiền sư danh tiếng mà lại nói sai!
Nếu hiểu công án rồi thì sao?
Hiểu rồi thì đã ngộ, ngộ là tất cả đều biết, khỏi cần hỏi tôi nữa. Mặt trăng, mặt trời, … đều biết, không chỗ nào không biết, không lúc nào không biết.
Con hiểu theo ý con thì thế nào?
Hiểu theo ý cô là ngu, tức chưa lìa ý thức. Ý thức cần phải chấm dứt. Theo bộ óc của cô biết thì ngủ mê, chết giấc, thật chết đều không biết; ngộ triệt để thì ngủ mê, chết giấc, thật chết đều biết.
Có người giải thích như thế này, có người hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh không?
Triệu Châu đáp: Có.
Đáp có là phá chấp không của người hỏi.
Người khác hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh không?
Triệu Châu đáp: Không.
Đáp không là phá chấp có của người hỏi. Như vậy có phải không?
Nếu kinh thì giải thích như vậy là đúng, công án không thể giải thích; nếu giải thích công án là ngịch với ý Tổ cũng là phỉ báng Tổ có tội địa ngục. Vì giải thích thì hết nghi, không đúng với thực tế. Mục đích tham thiền là chấm dứt hiểu biết, tại sao còn giải thích?

Hỏi:
Công phu có cái biết không phải bộ não, đôi lúc không liên tục, lời nói lập lại gián đoạn, vọng tưởng không thông suốt. Xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
Cái biết sẵn sàng không thể kiến lập, có kiến lập là hai rồi. Thiền Tông gọi là trên đầu mọc thêm đầu, vì có một cái đầu đủ dùng, nên phải mời Bác sĩ cắt bỏ, mới khôi phục lại cái đầu sẵn có. Như cái biết đã sẵn có, không thể kiến lập cái biết khác; nếu kiến lập cái biết thì phải có không biết để đối đãi, vì Phật tánh bất nhị không có đối đãi.
Tại sao dùng không hiểu không biết để chấm dứt tất cả biết của bộ óc? Vì một người chỉ có một cái biết, không thể có hai cái biết. Nếu cái biết của bộ óc hiện hành thì cái biết Phật tánh không thể hiện lên. Cho nên, phải dẹp hết cái biết của bộ óc thì cái biết Phật tánh mới hiện lên.
Ví dụ mặt mũi mình chỉ có một, khi bệnh thì hiện ra xanh vàng ốm yếu; nên tướng mạnh không thể hiện ra, khi nào chữa hết bệnh thì tướng mạnh hồng hào hiện ra. Như cái biết Phật tánh hiện lên là tướng mạnh, bây giờ tướng mạnh không hiện là do tướng bệnh bộ óc che khuất. Nếu dùng tướng bệnh để tìm tướng mạnh thì không thể được.

Hỏi:
“Bên ngoài lìa tướng là thiền.” Vậy lìa tướng là gì?

Đáp:
Đó là phương tiện của Tổ, Phật Thích Ca có giải thích 4 tướng: Ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Có chia ra làm 2 loại: Mê thức tứ tướng của phàm phu và mê trí tứ tướng của bậc thánh.
Tại sao mê trí tứ tướng của bậc thánh? Vì ôm cái ngộ cho là ta, tức là phá ngũ uẩn ngã là ta.; lại ôm sở ngộ sở chứng là ta, cuối cùng ôm Niết Bàn là ta chứng. Cái ngã vi tế vẫn còn thay thế cái ngã ngũ uẩn, nên còn có thọ giả tướng; kinh Viên Giác gọi là thọ mạng tướng (mạng căn chưa cắt dứt). Thiền Tông khi ngộ triệt để thì mạng căn cắt dứt, không còn cái gì là ta.
Nhiều người nghe nói mạng căn dứt thì sợ vì mất cái ta. Nhưng nhà bác học Tây phương có định lực cao cũng phát hiện điều đó, có thể chứng tỏ vạn pháp duy tâm. Mình chưa kiến tánh thì thấy tướng và tánh khác nhau nhưng kiến tánh thì không phân biệt tướng và tánh. Cho nên, Phật tánh hiện lên gọi là thật tướng, thật tướng là vô tướng tức không có 4 tướng này.

Hỏi:
Người kiến tánh thì cái biết của bộ óc đều xóa hết, nếu chưa kiến tánh thì những hiểu biết của bộ óc đều mang theo. Vậy có đúng không?

Đáp:
Chưa kiến tánh thì phải nói vậy, kiến tánh rồi không có chết và sống. Như Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Vô lão tử”. Vì mình chấp sanh tử, nên có diễn tả những việc trước khi chết. Nếu không có sanh tử thì sao có chuyện trước khi chết hay sau khi chết! Chấp có sanh tử nên bị hạn chế trong ngũ giác quan, không gian và thời gian.
Thực tế không có khái niệm không gian và thời gian. Do mình kiến lập không gian thời gian nên bị không gian thời gian hạn chế. Đến chừng kiến tánh triệt để thì không gian thời gian đều tiêu diệt. Như nhà khoa học phát hiện tốc độ ánh sáng cao nhất, nhưng tâm lực của mình sẵn có; nếu đem so với tốc độ ánh sáng thì tốc độ ánh sáng là thấp nhất.
Tốc độ ánh sáng đi 1 giây 300.000 km, nhà khoa học tính ánh sáng mặt trời đi đến địa cầu mất 8 ngày. Tốc độ ánh sáng đi một năm gọi là một quang niên. Ví dụ ánh sáng từ mặt trời đến một hành tinh khác 1000 năm, thì sức của tâm mình chỉ khởi lên một niệm là đến; hay ánh sáng đi 10.000 năm đến thì tâm mình cũng khởi lên một niệm là đến.
Cho nên, biết sức của tâm không bị không gian hạn chế. Nhà bác học cũng phát hiện được điểm này, vì họ có tâm niệm cao; còn mình cũng có tâm niệm, nhưng lại yếu hơn.

Hỏi:
Tự tánh đã sẵn có cái biết, Hòa Thượng dạy cái không biết chấm dứt cái biết là thế nào?

Đáp:
Vì kiến lập biết thì có không biết để đối đãi, không thể kiến lập cái biết; nhưng không phải là không biết. Do không có đối đãi nên có vô duyên tri. Như bài kệ của ngài Vĩnh Gia:
Tay không cầm như ý,
Chẳng tự làm nắm tay.
Không phải là không tay,
Vì tay vẫn an nhiên.
Không đồng như sừng thỏ.
Tay vẫn an nhiên thì hoạt bát vạn năng, muốn lấy cái gì cũng được. Muốn hoạt bát vạn năng thì tay không cầm như ý. Cho nên, ngài Vĩnh Gia dùng cái tay ví dụ rất dễ hiểu, nếu chỉ dùng lời nói thì mọi người không thể hiểu. Hiểu được ý này thì hiểu được câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.

Hỏi:
Chỗ nhìn không có chỗ để nhìn, nên không đặt nặng chỗ nhìn; vì vậy hỏi câu thoại cảm thấy không biết thì con đề lên liên tục. Xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
Không được! Hỏi và nhìn đồng thời song song, có nhìn mới giữ được không biết kéo dài thì được đến thoại đầu. Nếu không có nhìn mà hỏi thì có thắc mắc, ngưng hỏi lại không có thắc mắc; hay vừa hỏi thì không biết, rồi cái biết nổi lên; lúc biết lúc không biết cứ nổi lên hoài, rồi tự mình không hay. Vì tâm niệm mình thay đổi từng sát na. Nhìn vào chỗ không thấy gì cứ nhìn mới đúng, nếu nhìn thấy có gì thì không đúng.
Con nhìn một thời gian thì câu thoại cũng mất, không biết mình có tham thiền hay không?
Thì cứ hỏi và nhìn tiếp tục nữa, nếu vậy sẽ mau đến chân tham; chân tham là có tham, nhưng không biết mình đang tham thiền.
Chỗ nhìn không biết thì con quên hỏi câu thoại đầu, nên có vọng tưởng nổi lên.
Nếu vậy, hãy đề lại nữa. Như ngài Lai Quả có lần ngưng tham thiền 2 ngày rồi sau mới đề lại. Phải hỏi và nhìn song song, đến thoại đầu thì câu thoại tự mất, muốn hỏi câu thoại cũng không được.

Hỏi:
Câu thoại đầu là một ý niệm, nhưng ý niệm này không thể tìm; một thời gian có nghi tình và vở ra thì câu thoại đầu tự mất, cho nên ý niệm tiêu. Vậy có phải không?

Đáp:
Không phải! Câu thoại là kích thích niệm không biết. Nếu không hỏi câu thoại thì niệm không biết chẳng thể nổi lên. Cho nên phải hỏi và nhìn song song.
Thiền Thất Khai Thị Lục nói “Không cho ông buông ý niệm” là thế nào?
Chính không biết là ý niệm, chư Phật chư Tổ sợ người ta chấp theo lời nói. Như A Nan nói tâm ở trong thân thì Phật nói chẳng phải, A Nan nói tâm ở ngoài thân thì Phật nói chẳng phải, A Nan nói tâm ở giữa thì Phật nói cũng chẳng phải, A Nan nói tâm đến 7 chỗ thì Phật nói chẳng phải. Nhưng cái chẳng phải của Phật cũng không đúng, nếu y lời chẳng phải của Phật là sai lầm.
Vì tâm cùng khắp không gian, nếu không ở trong, ở ngoài, ở giữa làm sao có cùng khắp? Phật rất sợ người ta chấp lời nói của Phật, vì vậy Phật nói: “49 năm thuyết pháp, tôi chưa từng nói một chữ” và “ai nói Phật có thuyết pháp là người ấy phỉ báng Phật”.

Hỏi:
Trước kia con đã tu thiền khác, bây giờ muốn tham Tổ Sư thiền. Vậy phải làm thế nào?

Đáp:
Thiền là tổng danh, Phật dạy các pháp môn đều lấy thiền làm căn bản. Như người tu Tịnh Độ tưởng là không có thiền, nhưng Tịnh Độ cũng có thiền. Các thiền kia đều khác Tổ Sư thiền, Tổ Sư thiền là do Phật Thích Ca truyền cho Ma Ha Ca Diếp, rồi truyền cho A Nan, A Nan truyền cho Thương Na Hòa Tu, từ Tổ từ Tổ truyền xuống đến Tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma.

Tổ Bồ Đề Đạt Ma sang Trung Quốc làm Sơ Tổ, rồi truyền cho Nhị Tổ là Huệ Khả, Tam Tổ là Tăng Xán, Tứ Tổ là Đạo Tín, Ngũ Tổ là Hoằng Nhẫn, Lục Tổ là Huệ Năng.

Lục Tổ là người không biết chữ, mà nổi tiếng khắp thế giới; sức dụng của các Tổ biết chữ không bằng. Pháp Bảo Đàn Kinh được dịch ra truyền khắp thế giới.

Các chùa tu Tịnh Độ nhưng lại thờ Tổ Đạt Ma (Tổ Thiền tông). Không những Phật pháp có thiền, tà ma ngoại đạo cũng đều có thiền. Không biết bà nói tu thiền gì? Còn tôi hoằng dương Tổ Sư thiền, do các Tổ sư từ đời từ đời truyền xuống.

Chỉ có Tổ Sư thiền mới gọi là Thiền tông, còn các thiền khác không gọi là Thiền tông. Tịnh Độ tông cũng có thiền, Thiên Thai tông có chỉ quán thiền, Hiền Thủ tông có pháp giới quán thiền, Duy Thức tông có duy thức quán thiền; mỗi tông mỗi phái đều có thiền riêng biệt của tông phái đó.

Nhưng các thiền kia đều dùng cái biết để tu, gọi là Như Lai thiền; dùng không biết để tu, gọi là Tổ Sư thiền. Tổ Sư thiền rất giản dị chỉ hỏi câu thoại và nhìn thoại đầu.

Tôi hỏi cô: Khi chưa có trời đất cô là cái gì?

Không biết.

Không biết là đúng rồi, hỏi câu thoại là kích thích niệm không hiểu không biết; khán thoại đầu là nhìn chỗ niệm không biết, muốn xem chỗ không biết là gì; tuy nói chỗ không biết nhưng không có chỗ, nên không có mục tiêu để nhìn, nhìn mãi không thấy gì vẫn còn không biết, Thiền tông gọi là nghi tình.

Chỉ cần hỏi và nhìn song song để giữ nghi tình được kéo dài, đưa hành giả đến thoại đầu; sẽ được kiến tánh thành Phật, khi ấy chỗ nào cũng biết và lúc nào cũng biết. Cái biết bộ óc không cùng khắp thời gian thì ngủ mê, chết giấc, thật chết đều không biết. Cái biết Phật tánh thì ngủ mê, chết giấc, thật chết đều biết.

Chỗ nào cũng biết gọi là cùng khắp không gian, lúc nào cũng biết là cùng khắp thời gian. Đó là sức dụng của tâm và sức dụng tâm cô cũng đầy đủ tất cả.

Tôi hỏi cô: Tin có Phật tánh không?
Có.
Phật tánh có thể giảm bớt không?
Con không biết được.

Nếu Phật tánh giảm bớt thì không được gọi là Phật tánh, vì Phật tánh vĩnh viễn không sanh diệt; nếu Phật tánh giảm bớt thì có ngày phải hết nên bị sanh diệt, nên thành Phật cũng vô dụng. Tin mình có Phật tánh thì phải biết Phật tánh không thể giảm bớt. Phật tánh không gián đoạn, nếu gián đoạn cũng bị sanh diệt.

Cho nên, kiến tánh là lìa khỏi luân hồi, Phật tánh không thể giảm bớt thì năng lực mọi người bằng Phật Thích Ca. Nếu năng lực kém hơn Phật một chút thì có giảm bớt.
Muốn ngộ chỉ có hỏi và nhìn, hỏi câu thoại để kích thích một niệm không biết; nhìn chỗ không biết là để kéo dài niệm không biết, rồi sẽ đưa đến thoại đầu; từ thoại đầu tiến thêm một bước là lìa khỏi ý thức, luôn cả không biết cũng tan rã. Lúc ấy, biết và không biết của bộ óc đều sạch hết, thì biết Phật tánh hiện lên khắp không gian thời gian.

Thực hành như hỏi câu thoại “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Cảm thấy không biết, rồi nhìn chỗ không biết; hỏi và nhìn song song, không có trước sau; hỏi không gián đoạn, nhìn cũng không gián đoạn; hỏi không phải dùng miệng hỏi, dùng tâm hỏi thầm; nhìn không phải dùng mắt nhìn, mà dùng tâm nhìn thầm.

Hỏi:
Có phải giới luật đều trong công phu?

Đáp:
Khi thọ giới phải giữ giới của mình thọ. Giữ giới có 3 cấp:
Giới phổ thông là mỗi nửa tháng bố tát có tụng giới, trước khi tụng giới có kiểm thảo. Tăng chúng họp mặt lại cử một người làm chủ tịch hỏi: “Nửa tháng nay có ai phạm giới không? Nếu có thì ra trước đại chúng phát lồ sám hối”.
Vì sám hối là diệt tội, hỏi 3 lần chẳng ai lên tiếng thì biết mọi người đều giữ giới thanh tịnh, nên bắt đầu tụng giới. Nếu mình biết người bạn phạm giới không ra chúng sám hối, phải ra chúng cử tội người đó. Mình không cử tội người đó, sau này người khác phát giác thì mình và bạn mình đều cùng một tội.
Như phạm ba la di là bị địa ngục 9 triệu năm, người che dấu cũng phải bị địa ngục 9 triệu năm. Ngày xưa truyền giới của các giới đều trong ngày bố tát. Ngày tự tứ là mỗi Tăng chúng ra trước đại chúng tự kiểm thảo và hỏi “ai có thấy, nghe, nghi tôi phạm giới không? Nếu các vị biết thì xin ra chúng cử tội tôi”.
Thiền giới là mình ở trong thiền định thì không phạm giới. Trong ngày đêm 24 giờ nếu có giây phút không thiền định thì có thể giây phút đó phạm giới.
Đạo cộng giới là đã đắc đạo thì tự nhiên không phạm giới.
Bất cứ pháp môn nào cũng lấy giới làm căn bản, tu thiền cũng phải giữ giới, vì mình không thể thiền định luôn 24/24.

Hỏi:
Tại sao Sư Phụ chỉ đưa ra 5 câu thoại đầu để tham?

Đáp:
5 câu thoại đầu này là của chư Tổ, tôi chỉ chọn 5 câu để tham; nhưng câu thoại đầu rất nhiều, nếu tự mình có cái nghi thì tốt hơn.
Có thắc mắc, tại sao con có mặt ở cõi Ta Bà và chết đi về đâu?
Nếu tự mình thắc mắc như vậy thì tự nghi việc ấy tốt hơn.
Vậy ông trời ở đâu sanh?
Phật đã nói tất cả là vô thỉ, tức là không có bắt đầu làm sao có tạo thiên lập địa? Cho nên, người chứng quả ngộ pháp vô sanh. Các nhà khoa học có đề ra 2 câu hỏi: Vũ trụ có bắt đầu chăng? Và con gà có trước hay trứng gà có trước?
Đều không giải quyết được. Tại sao? Vì con gà có trước không được, vì không có trứng gà thì không thể ấp ra con gà. Trứng gà có trước cũng không được, tại không có con gà thì không đẻ ra trứng gà. Cho nên, Phật nói không có bắt đầu.
Nhà khoa học tìm bắt đầu của vũ trụ, theo Phật gọi là si mê; vì không có bắt đầu, mà tìm sự bắt đầu. Như bây giờ cô có cái nghi đó là kiếp trước đã tham thiền, cũng là con cháu của Thiền tông, nếu tham thiền mau kết quả.
Kinh Pháp Hoa nói: “Người nữ có 5 thứ chướng ngại”, nhưng sự thật không phải vậy. Chính kinh Pháp hoa nói: “Long nữ 8 tuổi thành Phật” và tôi có đề ra cô họ Trịnh 13 tuổi, cô họ Tô 15 tuổi đều kiến tánh.

Hỏi:
Thế nào là tà ma ngoại đạo thiền?

Đáp:
Thiền tà ma ngoại đạo là còn chấp ta, nên họ không bao giờ giải thoát được. Có nghi về cái ta thì dễ phá chấp cái ta, như nghi: Tại sao thành lập cái ta?
Tham Tổ Sư thiền có còn thiền Tịnh Độ nữa không?
Thiền Tịnh Độ là không tin tự tâm, Tịnh độ có 16 pháp thiền quán trong kinh Quán Vô Lượng Thọ là còn chấp thật. Tham Tổ Sư thiền là phá chấp thật.
Đã biết thân cô là cha mẹ sanh, nhưng không thành lập cái ta được. Cho nên, mới nghi làm sao có ta? Tịnh Độ đã chấp cái ta thì không thể tham Tổ Sư thiền. Đến khi họ vãng sanh Tây Phương nhờ Phật A Di Đà dạy tham thiền, vì bây giờ không tin Tổ Sư thiền.

Hỏi:
Nếu tu chưa đến kiến tánh, gặp nhiều chướng ngại bị sanh tử thì như thế nào?

Đáp:
Cô đã có cái nghi về ta, nhưng qua 30 năm gặp những người chấp thật nói phải nhờ tha lực; nhưng đến nay gặp tôi mới biết cô có căn cơ tham thiền. Khi chánh nhân đã gieo thì chánh quả sẽ đến. Cho nên, kiếp này tham thiền chưa kiến tánh rồi chết thì kiếp sau tiếp tục tham.

Hỏi:
Vọng tưởng nổi lên liền buông, có phải không còn vọng chăng?

Đáp:
Vọng tưởng nổi lên mặc kệ, đừng biết tới; không có vọng tưởng cũng không biết, vì nghi tình là không biết. Biết có nghi tình không phải tham thiền, có vọng tưởng cứ hỏi và nhìn (giữ cái không biết được kéo dài) thì vọng tưởng tự mất. Đừng có tâm buông vọng tưởng hay dẹp vọng tưởng.

Hỏi:
Người tu đã đạt đạo, khi bỏ xác thì thần thức đi về đâu?

Đáp:
Không có đi về đâu, nếu có về đâu thì không cùng khắp không gian. Vì khắp không gian chỉ khởi lên một niệm là đến, mà ánh sáng đi có thể 1.000 năm mới đến. Còn chấp tâm nên không cùng khắp, chánh pháp là phá ngã chấp. Đường Lối Tực Hành Tham Tổ Sư Thiền có điều thứ nhất là “vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ” để phá ngã chấp.

Hỏi:
Người tu Tịnh Độ, nếu chưa được nhất tâm, khi bỏ xác có được hạ phẩm hạ sanh và đới nghiệp vãng sanh không?

Đáp:
Tu Tịnh Độ phải đúng tông chỉ Tịnh Độ thì mới được vãng sanh. Nếu không đúng tông chỉ Tịnh Độ có xê xích một sợi tóc cũng không được vãng sanh. Ví dụ tổng đài là cái nguyện của Phật A Di Đà, radio nhỏ là cái nguyện của mình. Nếu mình vặn đúng tần số của tổng đài thì máy radio sẽ nhận được tổng đài phát ra, nếu vặn xê xích một chút thì không tương ưng với tổng đài.
Cái nguyện mình cũng vậy, khế hợp với nguyện Phật A Di Đà thì mới tương ưng được vãng sanh. Nếu xê xích một chút thì không được tương ưng nên không được vãng sanh.

Hỏi:
Yếu chỉ của Giáo môn như thế nào?

Đáp:
Yếu chỉ của Giáo môn có ghi trong kinh chia ra làm tam thừa (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát). Cách tu của Giáo môn là tụng kinh và quán tưởng (tùy duyên quán tưởng). Lúc tụng kinh là tu, chứ không tụng suông; tụng đến đâu quán tưởng đến đó.
Ngài Đế Nhàn của tông Thiên Thai (Pháp Hoa tông). Quán Tông tự của tông Thiên Thai ở tỉnh Triết Giang, Trung Quốc. Tăng chúng ở chùa đều phải có ba thời kinh, mỗi thời 2 giờ. Nếu chúng tăng tụng không đủ 2 giờ thì ngài quở làm biếng.
Theo kinh giáo thực hành thì chứng quả từng cấp bậc như: Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng (50 cấp), đếûn Đẳng Giác và Diệu Giác (tổng cộng là 52 cấp).

Hỏi:
Các việc ác đừng làm,
Các điều thiện nên làm,
Để ý mình trong sạch,
Ấy là lời Phật dạy.
Có phải tu theo Giáo môn không?

Đáp:
Không những Giáo môn mà Thiền môn cũng vậy. Phật gần nhập Niết Bàn, A Nan hỏi Phật: Sau khi Phật nhập Niết Bàn, chúng con biết y chỉ với ai để làm thầy?
Phật trả lời: Phải lấy giới luật làm thầy.
Tổng quát của giới luật là “các việc ác đừng làm, các điều thiện nên làm”. Các việc ác đừng làm là chỉ trì, các điều thiện nên làm tác trì. Nếu chia ra giới luật gồm có: Tỳ kheo là 250 giới, Tỳ Kheo Ni là 348 giới, Sa Di và Sa Di Ni là 10 giới, giới Bồ Tát xuất gia có 10 giới trọng và 48 giới khinh, Bồ Tát tại gia có 6 giới trọng và 28 giới khinh.
Tăng đoàn có nhiều Pháp, Phật đối với giới luật rất tỉ mỉ. Bây giờ thọ giới ở Việt Nam chỉ có 3 ngày, ở Trung Quốc 53 ngày rồi học giới Đường 3 năm (học giới luật).

Hỏi:
Thế nào là tự tâm được trong sạch?

Đáp:
Không có thiện ác là trong sạch, như Lục Tổ nói: “Có niệm, niệm là tà; không niệm, niệm là chánh. Tà chánh đều quét sạch, trong sạch đến cùng tột”. Nếu còn chánh niệm thì đối với tà niệm, tức là còn ôm cái niệm cũng chưa sạch đến cùng tột. Cho nên tà chánh đều quét sạch.
Ngoài Giáo môn còn có con đường nào khác không?
Ngoài Giáo môn còn có Tối thượng thừa là bất lập văn tự. Tất cả các ngữ lục như: Bá Trượng Ngữ Lục, Đại Huệ Ngữ Lục, Truyền Tâm Pháp Yếu, Pháp Bảo Đàn, Công Án Phật Thích Ca và Tổ Đạt Ma,…
Người ta chỉ biết “niêm hoa thị chúng” của Phật Thích Ca, còn các công án khác không biết, tôi soạn ra từ trong kinh điển. Các Tổ sau này đều y theo niêm hoa thị chúng, mỗi mỗi có kiến lập; nhưng không trái với niêm hoa thị chúng.
Con thấy mấy cái ấy chưa ra khỏi văn tự phải không?
Lục Tổ nói: “Bất lập văn tự, chứ không phải phế bỏ văn tự”, tức là không chấp vào văn tự. Hai chữ “Bất lập” cũng là văn tự vậy!

Hỏi:
Xin sư phụ khai thị công án: Ăn một chén cháo cũng kiến tánh?

Đáp:
Không phải ăn một chén cháo mà được kiến tánh. Theo giới luật thì Sa Di trở lên phải trì ngọ. Ngài Lai Quả thấy cái nào có chướng ngại tham thiền thì ngài bỏ, cái nào có giúp ích cho tham thiền tuy không đúng giới luật nhưng ngài vẫn thực hành. Vì tọa hương và bào hương (chạy nhanh) thêm thời tiết lạnh nên buổi chiều ngài cho chúng Tăng ăn cháo để có sức tham thiền.
Trì ngọ giúp cho tu, nhưng ngài lai Quả không trì ngọ cũng giúp cho tu; mục đích cho tu để thành tựu, chứ không mỗi ngày ăn một chén cháo là tu! Phật pháp không có việc cố định (bất định pháp). Nếu ở miền nhiệt đới tu hành trì ngọ là tốt.

Hỏi:
Chỉ là việc hôm nay che khuất mặt bổn lai là như thế nào?

Đáp:
Việc ngày nay là hỏi và nhìn, sẽ đưa đến mặt bổn lai.

Hỏi:
Xin sư phụ khai thị công án của Hương Nghiêm?

Đáp:
Ngài Hương Nghiêm thông minh lanh lợi hiểu rất nhiều kinh sách. Nhưng ỷ lại thông minh của mình nên không được kiến tánh, bạn đồng tham nhiều người kiến tánh. Ngài Bá Trượng là thầy của Hương Nghiêm đã tịch, Quy Sơn là sư huynh đệ kiến tánh hỏi Hương Nghiêm: Tất cả trong kinh sách ông đều biết, vậy có biết mặt mũi bổn lai của ông như thế nào không?
Hương Nghiêm xem lại kinh sách, nhưng khôg thấy để trả lời; tự thấy hổ thẹn, đem kinh sách đốt hết. Rồi hỏi Quy Sơn: Xin trả lời cho tôi?
Quy Sơn nói: Nếu tôi nói trắng ra sau này ông sẽ chửi mắng tôi.
Hương Nghiêm hỏi nhiều lần nhưng Quy Sơn không nói, rồi Hương Nghiêm từ giã mọi người đến quốc sư Huệ Trung cuốc đất trồng trọt sống qua ngày. Một hôm lượm miểng ngói liệng ra trúng cây tre phát ra tiếng “cốc” thì ông liền ngộ, mới biết lòng từ bi của Quy Sơn không nói trắng ra để cho ông được ngộ. Nếu Quy Sơn nói thì ông không được ngộ.
Cho nên, Hương Nghiêm hướng về Quy Sơn đảnh lễ và nói: Ân của thầy rất lớn.

Hỏi:
Con thấy Sư Phụ có tình cảm riêng với thầy vừa rồi, thấy không công bằng; ông ấy chỉ hỏi câu “chỉ việc hôm nay che khuất mặt bổn lai”, nhưng Sư Phụ lại nói “hỏi và nhìn”. Nên con thấy có cái gì đó?

Đáp:
Bây giờ, dẫu cho ngươi muốn ăn gậy cũng chưa đủ tư cách. Vì ông cứ dùng ý thức để phân biệt nên chưa hiểu được. Như Hương Nghiêm nói: Nhờ thầy không nói, nên con có việc ngày hôm nay.

Hỏi:
Làm sao để phát khởi nghi tình mạnh?

Đáp:
Hỏi là kích thích một niệm không hiểu không biết, như hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Cảm thấy không hiểu không biết; khán thoại đầu là nhìn chỗ không biết, muốn xem chỗ không biết đó là gì; chỗ không biết là không có chỗ, nên không có mục tiêu để nhìn; nhìn mãi không thấy gì vẫn còn không biết, Thiền tông gọi là nghi tình. Hỏi và nhìn song song đưa hành giả đến thoại đầu, sẽ kiến tánh thành Phật.
Những người có nhìn thấy cái gì là sai lầm, không bao giờ kiến tánh. Cho nên, phải tự tham tự ngộ mới được, chứ dùng bộ óc để tìm hiểu là không đúng.

Hỏi:
Thế nào đại nghi là đại ngộ?

Đáp:
Không có tư tưởng chấp thật là đại nghi, còn có chút chấp thật là tiểu nghi.

Hỏi:
Sau khi Hương Nghiêm ngộ thì trình kệ như thế nào?

Đáp:
Khi Hương Nghiêm ngộ rồi, truyền đến Qui Sơn biết; Qui Sơn nói với Ngưỡng Sơn: Hương Nghiêm đã ngộ.
Ngưỡng Sơn nói: Chưa chắc!
Hương Nghiêm có làm bài kệ:
Năm xưa nghèo chưa phải là nghèo,
Năm nay nghèo mới thật là nghèo.
Năm xưa nghèo còn đất cắm dùi,
Năm nay nghèo, dùi, đất chẳng có.
Ngưỡng Sơn nói: Theo bài kệ này thì cho Hương Nghiêm ngộ Như Lai thiền, chứ Tổ Sư thiền thì chưa phải.
Rồi Ngưỡng Sơn hỏi Hương Nghiêm: Nghe nói sư đệ ngộ rồi, có gì để chứng tỏ?
Hương nghiêm làm bài kệ khác:
Ta có một cơ nháy mắt nhìn y,
Nếu mà chưa ngộ đừng gọi Sa Di.
Ngưỡng Sơn nói: Cung hỷ! Mừng cho sư đệ ngộ Tổ Sư thiền.
Bài kệ trước có thể dùng cho ý thức để giải thích, bài kệ sau không thể dùng ý thức để giải, tức là không có nghĩa lý.

Hỏi:
Tại sao con mới ban đầu gặp Sư Phụ khai thị biết tu, nhưng về sau nghe Sư Phụ khai thị nhiều lại không biết tu?

Đáp:
Vì cứ muốn biết muốn hiểu thì trái với Tổ Sư thiền là chấm dứt tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết. Tất cả hoạt động phân biệt của ý thức đều chấm dứt, cuối cùng chỉ còn nghi tình là không hiểu không biết.
Sát na lìa khỏi ý thức thì không hiểu không biết cũng tan rã, lúc đó biết và không biết đều sạch hết thì biết của trí Bát Nhã hiện lên khắp không gian thời gian; tức là không chỗ nào không biết và không lúc nào không biết.
Bây giờ, muốn dùng ý thức để lãnh hội thì đối với sự kiến tánh càng xa.

Hỏi:
Tâm niệm lực là gì?

Đáp:
Tâm mà cô tin có sức mạnh gọi là tâm niệm lực. Nếu phát huy được tâm niệm lực, có thể một niệm thì quả đất này biến thành bụi; có sức mạnh nữa thì luôn cả mặt trăng mặt trời cũng biến thành bụi, có sức mạnh luôn cả vũ trụ cũng biến thành bụi. Đó là tâm niệm lực phát huy đến cùng tột.

Hỏi:
Những người phát huy được tâm niệm lực, vậy có tu Tổ Sư thiền không?

Đáp:
Hàm linh sâu bọ đều có tâm niệm lực, chó, mèo, chuột,… đều có tâm niệm lực, nhưng của nó yếu. Cây cỏ cũng có tâm niệm lực, bất quá sức yếu; không phải tu Tổ Sư thiền mới có!
Những người ở phương Tây có tu không mà có sức đó?
Những người đó có thiền định, nhưng không phải tu Tổ Sư thiền.
Như vậy có kiến tánh chưa?
Tu Tổ Sư thiền mới được kiến tánh, những người đó chưa kiến tánh; họ có thể có thần thông, cho đến con chồn cũng có thần thông.
Vậy Sư Phụ cho tài liệu Tâm Niệm Lực để làm gì?
Để tăng cường niềm tin tự tâm cho những người còn mê tín, giảm bớt tư tưởng mê tín. Những người tin tự tâm rồi không cần tài liệu ấy.

Hỏi:
Tâm con được lắng động, vậy có coi là được tự do tự tại không?

Đáp:
Tâm được thanh thanh tịnh tịnh, theo Tổ Sư thiền là chướng ngại. Nếu dùng cái biết để biết thanh tịnh là chướng ngại, tức là dùng tịch lặng làm sở tri; không có sở tri cũng bị chướng ngại, vì còn tương đối là tri và bất tri để đối đãi. Không phải là vô duyên tri không có đối đãi.
Nếu tham thiền không dùng nghi tình, mà dùng cái biết để biết tịch lặng thì không phải tham thiền, tức nghịch tham thiền.

Hỏi:
Làm thế nào hành giả tham thiền không lọt vào chỗ thanh thanh tịnh tịnh?

Đáp:
Người chấp vào thanh tịnh thì lọt vào, nếu không chấp làm sao lọt vào! Chưa đến thanh tịnh thì không thể lọt vào. Chấp Phật thì lọt vào Phật, chấp Bồ Tát thì lọt vào Bồ Tát; chấp cái gì thì lọt vào cái đó.

Hỏi:
Tham thiền thì thích, nhưng pháp lý không thích. Vậy có được không?

Đáp:
Tu Tổ Sư thiền không có pháp lý, quét sạch tất cả pháp lý; không còn pháp lý thì đúng với bản tâm trống rỗng vô sở hữu.
Có vị nói cần phải học Phật pháp mới tu được, vậy thế nào?
Đó là Giáo môn, còn đây là Thiền môn; Thiền môn ở ngoài Giáo môn, Giáo môn phải có văn tự, Thiền môn bất lập văn tự.
Khi con hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” vừa dứt câu, nhưng không biết câu sau là gì, đang thiền thỉnh thoảng lại có đếm một, hai, ba, bốn. Tại sao như vậy?
Vì thói quen nhiều đời.

Hỏi:
Con có ý niệm để thành Phật, rồi hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” hỏi liên tiếp. Vậy như thế nào?

Đáp:
Như vậy, không có miên mật, cách một hồi rồi lại hỏi thì có kẽ hở và trước tiên có ý niệm thành Phật là không đúng. Thoại đầu là không có ý niệm nào hết, nếu khởi lên ý niệm thì không phải thoại đầu.
Ngoài nghi tình là không hiểu không biết thì không được khởi một ý niệm nào khác. Tuy nghi tình cũng là một ý niệm, nhưng ý niệm không biết của bộ óc để tự động quét sạch những ý niệm khác; không để ý niệm khác nổi lên, như chấm dứt tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết.
Hỏi phải khít khít mới miên mật, hỏi và nhìn không gián đoạn. Dẫu cho nhìn miên mật mà cách hỏi không miên mật cũng không được.

Hỏi:
Nhớ lại từ ngày con xuất gia có phát nhiều tâm: Phát tâm xuất gia, phát tâm học thiền gặp được Sư Phụ. Sau này, có những tâm ô nhiễm, bây giờ học được những gì Sư Phụ dạy và được thọ dụng. Con thấy có cái gì khởi ra, xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
Đó là tập khí lâu đời thành thói quen bám chặt trong tâm, nếu muốn gở ra cũng rất khó; chỉ một cách là công phu miên mật, thì tập khí ấy tẩy sạch dần dần; nhưng tẩy sạch là tự động tẩy, không có ý muốn tẩy.
Một sát na có thể có muôn ngàn ý niệm. Các nhà bác học dùng tâm niệm lực phát hiện được cuộc đời mấy mươi năm hiện trong một sát na, rất nhanh cũng là rất chậm; rất nhanh chỉ có một sát na.
Như cuộc đời từ nhỏ đến lớn có những buồn vui yêu ghét, tiếp xúc muôn triệu ngàn người đều trong một sát na; mỗi mỗi phát hiện rõ ràng, nên nói rất chậm. Chứng tỏ sức của tâm khắp không gian thời gian, tức là siêu việt không gian thời gian.

Hỏi:
Thích bình thường xấu xa, sao chỉ một thứ?

Đáp:
Vì tâm trống rỗng vô sở hữu thì không có nhiều thứ, nếu có một thứ cũng không được; vì có kiến lập sở hữu. Một thứ tức là đồng (nhị), nhị mới có khác. Cái này đồng với cái kia, gọi là một thứ. Hương bảng này dài và hương bảng kia ngắn là khác. Phải có 2 cái trở lên mới có đồng có khác. Bản tâm bất nhị nên không có đồng có khác.
Biết lời sư Phụ dạy là do một tâm và con thích bậy cũng từ tâm đó ra, không biết tại sao?
Nếu thí dụ cái này với cái kia là nhị.

Hỏi:
Thế nào là nhìn thoại đầu?

Đáp:
Tham thoại đầu là hỏi câu thoại để kích thích một niệm không hiểu không biết, nhìn chỗ không biết; nhưng chỗ không biết thì không có chỗ, nên không có mục tiêu để nhìn, cũng nhìn không thấy gì vẫn còn không biết; Thiền tông gọi là nghi tình, đưa hành giả đến thoại đầu sẽ kiến tánh.
Nhưng hỏi không phải dùng miệng hỏi, dùng tâm hỏi thầm; nhìn không phải dùng mắt nhìn, mà dùng tâm nhìn thầm. Hỏi và nhìn song song, nhìn chỗ mênh mông chẳng có gì mới đúng. Nếu nhìn thấy cái gì là không đúng. Cho nên, người ta nói “tôi nhìn không được”, vậy thì đã nhìn được rồi.
Tại sao? Vì có nhìn nên thấy nhìn không được, cứ tưởng có cái gì để nhìn! Nhìn không thấy gì vẫn nhìn, tức là chỗ không biết thì nhìn mãi cũng không biết. Cho đến kiến tánh thì tất cả đều biết.

Hỏi:
Hành giả luôn luôn an trú trong cái nghi, đến kiến tánh thì nghi mới giải quyết. Do đó, tham dường như niệm phải không?

Đáp:
Không phải! Niệm Phật không có nghi, vì đã biết sẵn. Tham thiền có cái không hiểu tức là có nghi. Nếu chỉ hỏi thì có thể biến thành niệm, hỏi và nhìn thì không thể biến thành niệm. An trú và không an trú đều không biết, vì đó là sản phẩm của bộ óc. Hỏi và nhìn song song để giữ thắc mắc không hiểu. Mục đích tham thiền là dẹp hết sản phẩm của bộ óc, không cho bộ óc hoạt động.
Tại sao nghi tình được rốt ráo hơn niệm?
Vì nghi là nhân, có nghi mới có ngộ; không nghi thì không ngộ, tức là không nhân thì không quả. Pháp thế gian và pháp xuất thế gian đều như vậy. Pháp thế gian nghi là dùng bộ óc tìm hiểu, cuối cùng ngộ được giá trị việc thế gian; xuất thế gian nghi là không cho bộ óc tìm hiểu, muốn dẹp tìm hiểu của bộ óc.
Theo sự hiểu biết bình thường thấy trái bôm trên cây rớt xuống, đâu thể rơi lên! Do tư tưởng của mình cho trên đầu là phía trên, dưới chân là phía dưới. Thật tế không phải trên cũng không phải dưới, vì quả đất tròn. Như mình ở đây cho là trên, bên Mỹ cho là dưới; nếu cho bên Mỹ là trên, bên này là dưới.
Nói có 4 phương là đông, tây, nam, bắc; nhưng thật tế không có 4 phương. Tại sao? Như cắm cây nêu, người đứng bên đông cho bên kia cây nêu là hướng tây và ngược lại; nam bắc, trên dưới cũng vậy. Nếu đem 4 phương có nhất định để tranh cải thì không đúng. Nhưng theo thói quen của bộ óc phải có đông, tây, nam, bắc, trên, dưới.
Cho nên, Newton nghi trái bôm rớt xuống, mà không rơi lên? Vì không có trên dưới, nên ông phát minh được hấp dẫn lực của trái đất; từ đó ông phát minh được hấp dẫn lực vạn hữu. Tất cả vật chất đều có hấp dẫn lực, nhà khoa học gọi là từ trường (sức hút nam châm).

Hỏi:
Có phải tu niệm không tích cực bằng tham thoại đầu?

Đáp:
Đừng biết tới mấy cái đó! Cứ hỏi và nhìn, không được giải thích so sánh. Nếu vậy thành chướng ngại, vì nghi tình là không hiểu không biết. Không được dùng 2 chữ “cho là”, cho là có lý hay cho là vô lý thì không đúng; có cho là tức biết, chứ không phải không biết.

Đáp:
Tham thiền là gì?

Đáp:
Tham Tổ Sư thiền là dùng cái không biết để tu, Như Lai thiền là dùng cái biết để tu. Ví dụ cây viết là ý thức, 5 thức trước là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân. Hàng ngày mình đang dùng ý thức là tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết để ứng phó cuộc sống.
Tham thiền cũng dùng ý thức, trên đầu cây viết là thoại đầu; dưới đầu cây viết là thoại vỉ. Ý thức gồm có 2 mặt: Biết và không biết. Mặt biết là tu Như Lai thiền, như Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa. Dùng mặt không biết là tu Tổ Sư thiền, chỉ có Tổ Sư thiền mới gọi là Thiền tông. Các pháp môn khác đều có thiền, nhưng không gọi là Thiền tông.
Thiền tông gọi không biết là nghi tình, tức là tình trạng của khối nghi. Muốn khởi lên khối nghi, phải làm sao? Phải mượn câu thoại, như “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” cảm thấy không hiểu không biết; khán là nhìn chỗ không hiểu không biết, muốn xem chỗ không biết là gì; nhưng chỗ không biết thì không có chỗ, nên không có mục tiêu để nhìn; nhìn mãi không thấy gì vẫn còn không biết, Thiền tông gọi là nghi tình; đưa hành giả đến thoại đầu, sẽ được kiến tánh thành Phật.

#34 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 27/08/2011 - 09:07

Trang 5:
Ngày 14 – 8 đến 20 – 8 – Đỉnh Sửu (97).
Hỏi:
“Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh”. Xin Sư Phụ giải thích?

Đáp:
Câu này là Đạo Đức kinh của Lão Tử, ý nghĩa gần giống với Phật pháp; nhưng vẫn còn tư tưởng chấp thật, Phật pháp phá chấp thật. Vì tất cả do tâm tạo, nếu tâm tạo chẳng phải thật; cái chân thật thì không thể tạo. Cho nên, không có sanh khởi, không có bắt đầu; cũng là nghĩa vô sanh. Người chứng quả là ngộ pháp vô sanh, chứng vô sanh pháp nhẫn.
Tất cả vốn sẵn có, chứ không thể kiến lập; luôn cái biết của mình cũng không thể kiến lập, nhưng 2 câu Đạo Đức thì có kiến lập rồi. Họ chấp có đạo thật.
Danh là tên gọi, nhưng thật tế là khác. Họ nói thì giống, nhưng phải thì chẳng phải. Ai cũng biết tâm là danh từ mà ai cũng nói được, nhưng tâm là cái gì, không có ai biết! Tâm như hư không vô sở hữu. Mọi người cho có hư không mới dung nạp, như nói “hư không quảng đại vô biên dung nạp tất cả vật”. Thật tế chẳng phải vậy, không có (vô sở hữu) hư không mới dung nạp tất cả vật.
Nếu không có hư không thì lấy gì nói là quảng đại! Đó là thật tế, như nhà cửa, đất đai, cây cối, mặt trời, mặt trăng,… bất cứ cái gì đều ở trong vô sở hữu này. Bây giờ, ngồi đây cũng phải nhờ vô sở hữu mới ngồi được. Cuộc sống hàng ngày là ăn cơm, mặc áo, nói năng, tiếp khách, làm việc đều nhờ vô sở hữu này. Cho nên, nói đạo và không phải đạo hay tên (danh) với không phải tên đều không đúng.
Vì tên chẳng phải thật, thật chẳng đúng tên; nhưng cũng phải nhờ cái tên cho người truyền dạy để hiểu phần nào. Ngày xưa, người Trung Quốc rất sùng bái Lão Tử, đến chừng Phật Giáo truyền sang Trung Quốc, người ta mới biết đạo ấy giống thì giống, nhưng chẳng phải.

Hỏi:
Thế nào là Giáo môn và Thiền tông?

Đáp:
Giáo môn có nghĩa lý giải thích căn cứ theo kinh điển của Phật. Tu chứng từ cấp, như phổ thông có 52 cấp: Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa (5 quả vị này gồm có 50 cấp), Đẳng Giác và Diệu Giác.
Tổ Sư thiền không có cấp bậc, từ địa vị phàm phu tu chứng đến Đẳng Giác. Tuy có nói Sơ quan, Trùng quan, Mạt hậu lao quan; nhưng có người (Lâm Tế) không cần phải qua Sơ quan, Trùng quan, mà thấu luôn Mạt hậu lao quan. Cho nên, 3 quan này không phải cấp bậc. Thiền môn không có nghĩa lý để giải thích.
Giáo môn giải thích là hiểu theo bộ óc, không phải thật tế; Thiền môn là muốn ngộ thật tế.

Hỏi:
Tại sao dùng cái biết để tu thì chậm kiến tánh hơn dùng cái không biết?

Đáp:
Vì cái biết là vọng, biết cái gì đều chẳng phải thật. Qua lục căn tiếp xúc lục trần nhận biết được là chẳng phải thật, không phải thật tế. Phải lìa khỏi những thứ căn, trần, thức mới ngộ được thật tế.
Cho nên, Bát Nhã Tâm Kinh phá ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), dùng chữ “vô” để phá lục căn, lục tần, lục thức; không phải không có, có nhưng không thật; tức là lục căn, lục trần, lục thức đều không thật. Cho đến Tứ Diệu Đế (khổ, tập, diệt, đạo) cũng không thật, đến Thập Nhị Nhân Duyên (từ vô minh…lão tử) cũng không thật.
Bát Nhã Tâm Kinh có 262 chữ, nhưng dùng 17 chữ “vô” để phá hết tất cả tri kiến của bộ óc. Cuối cùng thêm 2 chữ “viễn ly” để quét sạch tri kiến Phật. Vì không phải thật bởi do tâm tạo, tức là tâm có kiến lập.
4 bài kệ của ngài Vĩnh Gia nói về chữ tri (biết): Cái biết cũng không thể kiến lập, nếu kiến lập thành 2 cái biết; như trên đầu mọc thêm đầu, phải mời bác sĩ cắt bỏ một cái thì khôi phục lại sức khỏe.

Hỏi:
Hàng ngày dùng bộ óc để học hỏi ghi nhận, nếu họ tu Tổ Sư thiền là dùng cái không biết thì bị cản trở trên sự học vấn. Vậy họ phải làm sao?

Đáp:
Ngày đêm có 24 giờ, 8 giờ làm việc thì ngưng tham thiền; còn lại 16 giờ tập tham thiền được thuần thục, lúc 8 giờ làm việc thì nghi tình tự động nổi lên. Lúc đó bộ óc không biết, nhưng vẫn làm xong công việc của bộ óc; lại nhanh hơn và tốt hơn. Việc ấy có nhiều Phật tử đã chứng tỏ.
Như có thanh niên vô mực nguyên tử, trước kia dùng bộ óc để ý vô mực, mỗi ngày hơn 40 cây nhưng mực ra không đều; sau này y đang tham thiền, bộ óc không làm việc nhưng vô mực hơn 80 cây, mực ra đều.
Có người hỏi tôi: Con rất thích tham thiền, nhưng trong lu gạo con hết làm sao tu được?
Tôi nói: Tôi dạy tham thiền, chứ đâu bảo ông đừng kiếm gạo! Làm nghề gì vẫn làm như cũ. Tham thiền còn giúp cho ông còn kiếm gạo nhiều hơn.
Thật tế là vậy, tại vì người ta đuổi theo bộ óc nên nói như thế.

Hỏi:
Thoại đầu không còn, công phu còn không? Đáp:
Nếu vậy, người ấy không tin tự tâm, thoại đầu không còn là kiến tánh thì không còn công phu. Thoại đầu cũng gọi là vô thỉ vô minh, đầu sào trăm thước, nguồn gốc ý thức. Sát na lìa khỏi ý thức gọi là kiến tánh thành Phật. Lúc ấy không còn thoại đầu, nếu còn thoại đầu thì chưa kiến tánh.

Hỏi:
Các vị kiến tánh rồi, sao còn tu nữa?

Đáp:
Đó không phải tu, gọi là bảo nhậm; như Lục Tổ kiến tánh rồi, phải còn bảo nhậm 15 năm để dứt tập khí từ lâu đời.

Hỏi:
Người kiến tánh thì dụng khắp không gian thời gian. Vậy dụng của tiểu ngộ và đại ngộ khác nhau thế nào?

Đáp:
Người này hỏi còn chưa tin tự tâm, đã biết tự tâm là vô sở hữu; ngộ được tự tâm gọi là kiến tánh. Tuy mình chưa ngộ, nhưng tự tâm mình cũng khắp không gian thời gian. Do kiến lập nên dụng tự tâm bị che khuất. Như mặt trời đang chiếu soi, nhưng bị mây hay trái đất che khuất nên không thấy ánh sáng.

Hỏi:
Chúng sanh đều có Phật tánh đồng nhau. Tại sao là Phật? Tại sao là chúng sanh? Các ngài kiến tánh rồi, tại sao không đủ 32 tướng tốt như Phật? Vậy phải tu cách nào để được?

Đáp:
Câu hỏi này cũng chứng tỏ là chưa tin tự tâm. Trống rỗng vô sở hữu thì lấy cái gì để làm tướng tốt? Lấy cái gì để làm chúng sanh? Lấy cái gì để làm Phật? Khi kiến tánh thành Phật thì thấy không có Phật để thành. Vì ngộ được tự tâm vô sở hữu.

Hỏi:
Tham “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” cho nghi tình, hỏi thêm câu hỏi khác được không?

Đáp:
Không được! Hỏi câu thoại là để kích thích không hiểu không biết, rồi nhìn chỗ không biết.
Tôi hỏi ông: Khi chưa có trời đất ông là cái gì?
Không biết.
Không biết là đúng rồi, nhìn chỗ không biết; hỏi và nhìn song song, không phải hỏi trước nhìn sau; không phải hỏi sau nhìn trước, giữ chỗ không biết được kéo dài là được.
Có phải cái không biết là….?
Đừng suy nghĩ cái ấy, không hiểu không biết gọi là nghi tình. Biết là không phải tham thiền.

Hỏi:
Các vị nhận được bản lai diện mục, rồi khởi tu. Sao Sư Phụ nói kiến tánh rồi khỏi tu?
Đáp:
Tất cả Phật pháp đều hiển bày tâm của chính mình. Tâm là danh từ mà ai cũng nói được, nhưng tâm là thế nào không ai biết? Ngài Long Thọ nói: “Tâm như hư không vô sở hữu dung nạp và ứng dụng tất cả vật”.
Nếu có sở hữu thì dùng không được, ví dụ tay cầm vật gì thì dụng của tay bị mất, nên lấy cái gì không được nữa. Nếu không cầm cái gì hay không tự làm nắm tay thì lấy cái gì cũng được.
Có kiến lập sở hữu thì dụng hoạt bát vạn năng của tự tánh bị mất. Cho nên, tham Tổ Sư thiền dùng nghi tình (không hiểu không biết), tự động quét sạch sở hữu, khôi phục lại dụng tự tánh được hoạt bát vạn năng. Sở hữu của Phật đều hết, nên thần thông biến hóa có vô lượng vô biên. Do mình có sở hữu, nên cái dụng bị hạn chế.
Kiến tánh là tâm của mình hiện ra, tuy nói tu nhưng không tu không chứng. Tại sao? Vì trống rỗng vô sở hữu không phải tu mới thành, không phải chứng mới đắc! Vốn sẵn như vậy, vô thỉ vô chung, vô sanh, vô diệt; nhưng lại dung nạp và ứng dụng trước mắt rõ ràng.
Như cái bàn để đầy đồ, muốn để đồ thêm cũng không được. Có chỗ trống mới để đồ được. Chỗ các vị ngồi cũng vậy. Đó là cái dụng thật tế trước mắt, mình đang dùng. Phật pháp là thực dụng thật tế, chứ không phải đuổi theo những danh từ đoán mò bậy bạ.
Vì vô sở hữu là trống rỗng, nên gọi là tánh không; do tánh không nên dung nạp tất cả, tánh không thì không chỗ trụ gọi là vô sở trụ. Tánh không thì khắp không gian thời gian không có gì chướng ngại. Khắp không gian chẳng có khứ lai, nên gọi là Như Lai; khắp thời gian không có gián đoạn sanh diệt, nên gọi là Niết Bàn; tâm mình có tánh giác ngộ, gọi là Phật tánh.
Bồ Đề, Niết Bàn, giác ngộ, giải thoát,… tất cả danh từ khác biệt; nhưng nghĩa không khác, đều hiển bày dụng của tâm. Những người làm tày khôn đuổi theo những danh từ đoán mò bậy bạ, thành ra không biết được thật tế. Thật tế mình đang dùng, dù mình đến chân trời góc biển, ngủ mê, thật chết thì cũng đang dùng. Không giờ phút nào ngưng dùng, vì kiến lập sở hữu nên dùng ít. Nếu sở hữu sạch hết thì dụng không hạn chế bằng như Phật.

Hỏi:
Tụng kinh, niệm Phật, trì chú kết hợp như vậy có đúng không?

Đáp:
Tụng kinh là cách tu của Giáo môn, vừa tụng vừa thiền quán; tụng đến đâu quán tới đó. Quán Tông tự của tông Thiên Thai mỗi ngày 3 thời kinh, mỗi thời phải 2 giờ. Bây giờ các chùa tụng kinh thường thường có 45 phút, tụng cho Phật nghe; nhưng kinh là lời của Phật dạy mà! Ngày xưa tôi dạy học, bắt học trò trả bài thì tôi phải nghe; mà tôi ngán quá rồi cũng phải ráng nghe, vì tôi có lãnh lương.
Phật dạy mình tu, chứ Phật đâu cần nghe! Mà nói tụng cho Phật nghe là có công đức. Tụng kinh là để cho mình và khởi lên thiền quán, đó là cách tu của Giáo môn. Như trong chùa có 20 chúng thì tụng kinh phải đủ, không phải chỉ vài người tụng kinh rồi các người kia khỏi tụng! Tụng kinh là giờ phút tu. Chúng của ngài Đế Nhàn, tụng kinh không đủ 2 giờ của mỗi thời, thì bị ngài quở làm biếng.

Hỏi:
Nghi tình là không biết thì chẳng có hình tướng, vậy làm sao nhìn?

Đáp:
Bởi vậy, nhìn không thấy gì vẫn còn không biết, giữ cái không biết mới gọi là nghi tình; nếu thấy có gì là không đúng.

Hỏi:
Ở thế gian, các Giáo chủ đều xưng mình là chánh pháp nhãn tạng. Vậy đâu là chánh, tà?

Đáp:
Nếu có Giáo chủ là tà, vì cõi Ta Bà là tam thiên đại thiên thế giới chỉ có một Phật làm Giáo chủ. Quả đất này chỉ là 1 đại bộ châu gọi là Nam Thiệm Bộ Châu, 1 tiểu thế giới có 4 đại bộ châu (có 4 địa cầu), 1.000 thế giới (tiểu thiên thế giới), 1.000 tiểu thiên thế giới (trung thiên thế giới), 1.000 trung thiên thế giới (đại thiên thế giới). Gọi chung là tam thiên đại thiên thế giới. Tại sao là tam thiên? Là 3 cái thiên nhân với nhau.

Hỏi:
Phật tánh vốn vắng lặng, sáng suốt do đâu lại làm chúng sanh?

Đáp:
Phật tánh thì khỏi cần tu, vì đã sẵn có; không phải tu mới thành. Nếu có thành thì phải có hoại, như thân này có thành phải có hoại; sau này chết rồi chôn thành đất, thiêu thành tro. Phật tánh không thành không hoại, nên tồn tại vĩnh viễn.
Kinh Viên Giác nói: “Tất cả chúng sanh đều đã thành Phật”, để cho người ta tin, nên dùng quặng vàng thí dụ. Vàng trong quặng đã thành sẵn, không thấy vàng là do lộn với đất cát tạp chất. Luyện bỏ đất cát tạp chất thì vàng thật hiện ra, nếu không có vàng dù luyện cách mấy cũng không có vàng hiện ra.
Phật tánh của mình đã thành sẵn, nhưng lộn với tạp chất tham sân si, vọng tưởng, nên không thể hiện ra. Tu là luyện bỏ các tạp chất tham sân si thì Phật tánh hiện ra. Nếu không có Phật tánh thành sẵn thì tu cách mấy cũng không thể Phật tánh hiện ra.
Phật tánh mỗi chúng sanh đều bằng nhau, nhưng nghiệp của mỗi chúng sanh tạo có khác. Như con người tạo nghiệp thiện được phước báo, tạo nghiệp ác phải nghèo khổ.

Hỏi:
Khi tham thiền công phu thành khối thì ăn không biết ăn, vậy có nguy hiểm gì không?

Đáp:
Không có nguy hiểm, đến cảnh giới đó là thoại đầu thì sắp kiến tánh; có thể một phút sau, vài giờ sau hay vài ngày sau kiến tánh. Đang tập tu, khỏi cần biết khối nghi gì.
Tham thiền không cần tập trung tinh thần, cố gắng; chư Tổ nói “ít phí sức chừng nào, tốt chừng nấy”. Cố gắng và tập trung tinh thần là phí sức, chỉ cần một chút nghi tình kéo dài là được.

Hỏi:
Nếu nghi tình kết thành khối, hành giả qua đời. Theo nhà Phật nói cận tử nghiệp rất quan trọng. Vậy như thế nào?

Đáp:
Đó là giải theo Giáo môn, còn Thiền môn chỉ tu một chút rồi chết thì kiếp sau vẫn tiếp tục tu; vì chánh nhân đã gieo thì chánh quả sẽ đến. Việc gì cũng phải đúng theo nhân quả, chứ không phải tạo nhân rồi bỏ qua. Không phải tạo nhân rồi tự nhiên lại chấm dứt, người học Phật phải tin nhân quả. Pháp thế gian và xuất thế gian đều có nhân quả.
Có nhân phải có quả, tà nhân thì bị tà quả, chánh nhân thì được chánh quả. Nếu thật đến chỗ không biết gì, thì cái dụng của tâm tự hiện ra thay thế bộ óc để làm việc. Đó là chưa đến thoại đầu, nhưng vẫn có cái dụng. Như có người bình thường may 1 bộ, đến chừng công phu được tự động thì bộ óc không biết, mỗi ngày may được 2 bộ lại tốt hơn.
Có người tham thiền lái xe tốc độ hơn 100 km/giờ, họ không thấy xe nhưng không bị dụng xe. Như vậy rất nguy hiểm, nhưng không có nguy hiểm. Bộ óc mình không thể giải thích, vì bộ óc nhận biết là không đúng với thật tế.
Thật tế phải lìa lục căn, lục trần, lục thức. Cho nên, Bát Nhã Tâm Kinh dùng 17 chữ “vô” để quét sạch hết tri kiến. Chữ “vô” chẳng phải không có, có mà không thật. Như chiêm bao có, mà không thật.
Cuối cùng, dùng 2 chữ “viễn ly” (xa lìa), luôn cả cứu cánh Niết Bàn cũng phải xa lìa. Vì những thứ ấy là hiểu biết sai lầm, vừa rồi cô hỏi cũng là những hiểu biết sai lầm; rồi chấp sai lầm cho là đúng, nên không bao giờ đạt đến kiến tánh. Dùng cái không biết là dẹp hết tất cả sai lầm do bộ óc nhận biết.
Trương Quốc Anh là người Hoa ở Chợ Lớn, năm 1979 qua Pháp. Khi xuống phi trường đi về nhà chị trên chiếc xe cùng mấy chục người. Đi được nửa đường bị lật xe, mọi người đều bị thương. Xe Hồng Thập Tự đến đưa mọi người lên xe, khi kéo Trương Quốc Anh ra xe thì y hỏi “các vị làm gì vậy?” không biết mình đang bị tai nạn. Đến nhà thương thì mọi người đều khám, tới Trương Quốc Anh khám thì y nói “khỏi rọi kiến, tôi không có bị thương”.
Nhân viên y tế nói: Tuy bên ngoài không có gì, nhưng có thể bị thương ở bên trong?
Rọi kiến rồi, chứng tỏ không bị thương. Vì lúc ấy, y giữ nghi tình nên không biết gì; những người biết đều bị thương. Vậy có nghi tình là không biết thì không nguy hiểm.

Hỏi:
Thân và tâm liên quan mật thiết thế nào, như thân làm thì tâm chịu, tâm làm thì thân chịu?

Đáp:
Nếu không có tâm mà có thân là thân chết thì không làm gì được, phải có tâm nên mới hoạt động. Tất cả Phật pháp nguồn gốc là tâm, nguồn gốc vũ trụ cũng là tâm. Tâm này không phải tâm của ai, tâm của chính mình. Thân này chỉ là một hạt bụi trong vũ trụ. Tất cả nguồn gốc gì đều là tâm mình, không phải tâm của người khác. Tin tự tâm là phải tin như vậy.
Tâm chỉ huy thân làm, làm thiện thì được phước báo; làm ác thì chịu khổ báo. Đó là nhân quả do tâm mình tạo. Người ta không để ý tâm, cứ để ý thân; muốn thỏa mãn dục vọng cho thân, không biết thân thay đổi từng sát na.
Như mới sanh đứa bé, cho đứa bé là ta; lớn lên thành con nít, cho con nít là ta; rồi thành người lớn, cho người lớn là ta; biến thành người già, cho người già là ta; người già chết thiêu thành tro chôn thành đất, cho đất tro là ta.
Nếu đất tro là ta thì chẳng có giá trị gì! Đất tro không phải là ta thì người già không phải là ta, người trẻ không phải là ta, con nít không phải là ta, đứa bé cũng không phải là ta. Nhưng ai cũng chấp thân này là ta, muốn thỏa mãn dục vọng, tranh giành giết hại lẫn nhau, nên mới sanh ra đủ thứ phiền não.
Nếu biết nguồn gốc của ta là hư không vô sở hữu, trống rỗng chẳng có gì. Vậy ai hưởng? Chẳng có ai hưởng. Nhưng bây giờ cho thân này hưởng, đến chừng hơi thở hết; rồi muốn cho con cháu của ta hưởng, tắt thở cũng còn chấp cái ta. Cho nên, có sự luân hồi sanh tử.

Hỏi:
Muốn khỏi sanh tử luân hồi phải làm sao?

Đáp:
Không muốn sanh tử luân hồi thì phải tham thiền là hỏi câu thoại và nhìn thoại đầu, đến chừng kiến tánh mới ra khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Tham thiền không cần biết tới ái dục hay không ái dục, chỉ là giữ nghi tình đến khi kiến tánh. Nếu giữ được nghi tình thì ái dục làm sao nổi lên! Không những ái dục không nổi lên, mà không ái dục cũng không nổi lên. Vì dục và không dục là tương đối.

Hỏi:
Có thể Thiền Giáo song hành được không?

Đáp:
Vậy là không tin tự tâm và không tin pháp môn, làm sao thành tựu được? Dẫu cho tin pháp môn Tổ Sư thiền 100% cũng còn chưa được, huống là chưa tin! Việc gì tin mới thực hành được, còn chưa tin thì không thể thực hành.

Hỏi:
Không biết mà chụp được trái banh, vậy có phải là cái biết của Phật tánh không?

Đáp:
Cái biết của tâm mình không bao giờ ngưng, mà khắp không gian. Tại chưa tin tự tâm nên tưởng là không biết, tin tự tâm đầy đủ thì biết cái biết đã sẵn sàng từ hồi nào.
Pháp môn Tổ Sư thiền là phương tiện để ngưng biết bộ óc thì biết Phật tánh hiện ra phải không?
Ngưng hết tất cả tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết; còn lại không biết là nghi tình. Ban đầu dùng nghi tình ngưng 3 cái biết trên, nếu công phu miên mật cũng hiện cái biết sẵn để dùng.

Hỏi:
Người xưa nói: “Tham thiền học đạo là lầm dụng tâm, thành Phật làm Tổ là lầm dụng tâm; trừ ngoài cái này ra thì làm cái gì, mới chẳng là lầm dụng tâm?” Xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
Đây là bản tâm vô sở hữu như hư không, đã vô sở hữu thì lấy cái gì để làm? Nếu có làm là có kiến lập thì không phải vô sở hữu. Nguồn gốc của Phật pháp như hư không vô sở hữu, nguồn gốc của vũ trụ như hư không vô sở hữu. Vô sở hữu là trống rỗng không có cái gì, gọi là tánh không; vì tánh không nên dung nạp tất cả mặt trăng, mặt trời, cây cối,… và ứng dụng.
Đã vô sở hữu thì ai làm Phật? Ai làm Tổ? Kiến lập Phật, kiến lập Tổ là lầm dụng tâm. Nghĩa chữ “Phật” là ngộ, ngộ là tại mê; vô sở hữu thì không có mê ngộ. Nếu kiến lập ngộ tức là mê, có mê để đối đãi.
Như 4 bài kệ nói về chữ “tri” của ngài Vĩnh Gia: Kiến lập cái biết thì có không biết để đối đãi. Kiến lập sở biết tịch lặng là thanh thanh tịnh tịnh cũng là kiến lập, đều có năng sở để đối đãi.
Thấu rõ được hư không vô sở hữu thì lấy cái gì gọi là thiền? Lấy cái gì gọi là đạo? Lấy cái gì gọi là Phật? Cho nên, người xưa nói là lầm dụng tâm. Nếu không có sai lầm thì tâm trống rỗng vô sở hữu, tự nhiên dung nạp và ứng dụng.

Hỏi:
Thế nào là chánh nghi?

Đáp:
Chánh nghi là không dùng tâm đi tìm hiểu, không dùng tâm để suy nghĩ, không dùng tâm ghi nhớ; chỉ có nghi tình là không hiểu không biết.
Dùng tâm đi nghiên cứu tìm hiểu gọi là hồ nghi. Nhà khoa có nghi, nhưng dùng bộ óc đi nghiên cứu tìm hiểu; họ ngộ được pháp thế gian, chỉ có giá trị thế gian; không ngộ được bản tâm của chính mình, tức là không biết được chính mình thì không làm chủ nên không được tự do.
Chánh nghi là ngộ được bản tâm chính mình nên làm chủ thì được tự do, giải thoát tất cả khổ. Trống rỗng vô sở hữu không gì trói buộc gọi là giải thoát, trống rỗng vô sở hữu không chỗ để trụ gọi là vô trụ, trống rỗng vô sở hữu tự nhiên cùng khắp không gian thời gian, cùng khắp không gian gọi là Như Lai, cùng khắp thời gian không sanh diệt gọi là Niết Bàn, tâm có tánh giác ngộ gọi là Phật tánh.
Bồ Đề, Niết Bàn, giác ngộ, giải thoát,… dù có nhiều danh từ sai biệt, nhưng ý không khác; đều là diễn tả thể dụng của bản tâm vô sở hữu. Kỳ thật là mình đang dùng, nên Phật nói “tất cả do tâm tạo”. Tất cả bạn đồng tham nhìn thấy nhau, nói chuyện, chỗ ngồi,… đều nhờ trống rỗng vô sở hữu.
Nhưng tiếc rằng mình ứng dụng hàng ngày mà chẳng tự biết, rồi đuổi theo những danh từ đoán mò bậy bạ; không đúng với thật tế, thật tế là mình đang dùng. Cho nên, muốn làm Phật làm Tổ là lầm dụng tâm vậy.

Hỏi:
Tại sao Lâm Tế là đệ tử lại đánh thầy là Hoàng Bá?

Đáp:
Đó là biểu thị bất nhị (không có khác), Lâm Tế đánh bạt tai Hoàng Bá thì không khác đánh bạt tai cho Đại Ngu; nếu có khác là nhị, như Phật Thích Ca đản sanh nói “Trên trời dưới đất chỉ có mình ta” là hiển bày nghĩa bất nhị. Có người hỏi Vân Môn: Thế nào trên trời dưới đất chỉ có mình ta?
Vân Môn đáp: Lúc đó biết được, ta đánh chết cho chó ăn.
Tại sao? Nếu đánh chết còn xác là nhị, đem xác cho chó ăn thì xác không còn, chỉ có Vân Môn là bất nhị, tức là hiển bày nghĩa bất nhị. Không phải Vân Môn muốn đánh chết Phật Thích Ca.
“Gặp Phật chém Phật, gặp ma chém ma”, là chém tâm chấp Phật chấp ma của người đó. Chấp cái gì thì chém cái đó.

Hỏi:
Vừa rồi, Hòa thượng khai thị là muốn tham thiền là lầm dụng tâm, muốn thành Phật làm Tổ cũng là lầm dụng tâm. Vậy Hòa thượng đang dạy chúng con là lầm dụng tâm sao?

Đáp:
Do người ta hỏi nên tôi mới đáp, nếu không hỏi thì không đáp. Vì hỏi là lầm dụng tâm mà người ta không biết, qua sự giải đáp thì biết là lầm dụng tâm. Tâm vốn là vô sở hữu thì không có lầm dụng hay không lầm dụng.
Nói lầm dụng và không lầm dụng đều không đúng, vì là tương đối. Bản tâm trống rỗng vô sở hữu không có tương đối. Cho nên, ngài Vĩnh Gia nói là vô duyên tri (không có nhân duyên đối đãi).
Người hỏi có tư tưởng chấp thật là lầm dụng tâm, như chấp Phật là thật, chấp đạo là thật. Vì vậy, Lục Tổ nói “bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai”, tức là xưa nay vốn không có vật gì, thì ở chỗ nào để dính bụi trần? Như thế chỗ nào để lầm dụng tâm!
Bây giờ thầy hỏi cũng là lầm dụng tâm vậy, tôi giải thích để khỏi lầm dụng tâm rồi chuyên hỏi và nhìn đến chỗ kiến tánh. Lầm dụng tâm là chướng ngại sự kiến tánh.

Hỏi:
Gặp Phật chém Phật, gặp Tổ chém Tổ, gặp cái biết cũng chém. Vậy cái không biết làm sao chém?

Đáp:
Cái không biết cũng phải chém, vì biết và không biết là đối đãi cũng là biên kiến; biên kiến là một trong năm thứ ác kiến. Có người hỏi tu đến thoại đầu thì sắp biết phải không?
Tôi nói: Không phải! Không thể nói là sắp biết, vì cái biết đã sẵn có từ hồi nào là vô thỉ vô chung; không bao giờ bị gián đoạn. Như mặt trời không bao giờ ngưng chiếu! Nếu nói trời gần sáng, mặt trời sắp chiếu thì không đúng. Không thấy mặt trời là bị mây đen và trái đất che khuất.
Cái biết của mình bị che khuất là do có tư tưởng kiến lập đạo, kiến lập Phật, kiến lập Bồ Tát,… Không có kiến lập mới đúng như hư không vô sở hữu dung nạp và ứng dụng. Cho nên, Phật Thích Ca nói là “vô thỉ”, không có kiến lập thì không có bắt đầu; cũng là nghĩa vô sanh, không có sự sanh khởi. Nếu có sanh khởi thì phải có bắt đầu.
Hỏi:
Hư không vô sở hữu, sao người sở hữu?

Đáp:
Hư không vô sở hữu là để thí dụ cho tâm mọi người, vì tâm mọi người hay ham sở hữu rồi kiến lập sở hữu; nên mới chướng ngại cái dụng của tâm. Nếu hoàn toàn vô sở hữu thì thần thông trí huệ bằng như của Phật, dụng không có gì hạn chế thì tất cả dung nạp và ứng dụng.
Bây giờ, các vị ở đây cũng được ứng dụng, nhưng ứng dụng còn ít. Do mình kiến lập nên bị chướng ngại, chứ không phải hư không vô sở hữu rồi tại sao sở hữu! Nếu có sở hữu thì lấy gì để thí dụ cho tâm.

Hỏi:
Bất lập văn tự, sao lại có lập văn tự?

Đáp:
Hai chữ “bất lập” cũng là văn tự, nên Lục Tổ nói “bất lập văn tự không phải phế bỏ văn tự”. Tất cả kinh Phật đều phải nhờ văn tự mới hoằng dương. Thiền tông cũng nhờ văn tự, nhưng không chấp vào văn tự gọi là bất lập văn tự. Nếu chấp vào văn tự thì 2 chữ “bất lập” cũng là văn tự.

Hỏi:
Việc trên đời là do người ta suy nghĩ mới có, nếu không suy nghĩ thì không có phải không?

Đáp:
Có và không có đều là sai lầm, vì kiến lập có nên có cái không có để đối đãi; kiến lập không có thì đã nhìn nhận có rồi. Chấp có và không có đều là biên kiến, biên kiến là một trong năm thứ ác kiến.

Hỏi:
Biết cũng chém và không biết cũng chém. Vậy lấy cái gì để chém?

Đáp:
Ngài Lâm Tế nói: “Gặp Phật chém Phật, gặp ma chém ma”, chứ không phải là chém cái biết. Cái biết của bản tâm đã sẵn sàng từ hồi nào, không có thể chém được; không có thể kiến lập. Nên Phật nói là vô thỉ, cũng là nghĩa vô sanh. Người chứng quả gọi là ngộ pháp vô sanh, chứng vô sanh pháp nhẫn.
Pháp đã vô thỉ vô sanh thì lấy gì để chứng? Nếu có gì để chứng thì có bắt đầu là có sanh, cũng là kiến lập rồi. Tất cả pháp đều không thể kiến lập, có kiến lập là có bắt đầu thì có sanh. Cái biết cũng vậy, không thể kiến lập. 4 bài kệ của ngài Vĩnh Gia nói về chữ “tri”:
Kiến lập sở tri tịch lặng, như người tu cho thanh thanh tịnh tịnh là cao; nhưng vì kiến lập nên bị chướng ngại cái dụng của tâm. Rồi tiến lên một bước nữa là không biết sở tri, nhưng tự mình biết mình có cái tri; cũng là kiến lập, không phải là vô duyên tri. Vì kiến lập cái tri nên có bất tri để đối đãi.
Ngài Vĩnh Gia dùng cái tay để thí dụ cho tâm. Nếu tay không cầm đồ vật và cũng không tự làm nắm tay thì dụng của tay hoạt bát vạn năng, nên lấy thứ gì cũng được. Tham thiền dùng nghi tình tự động chấm dứt tất cả biết của bộ óc, rồi sau cùng cái không biết của bộ óc cũng chấm dứt, thì đến thoại đầu rồi kiến tánh.

Hỏi:
Thế nào là kiến, văn, giác, tri?

Đáp:
Lục căn chia làm 4 bộ phận:
Kiến là nhãn căn thấy.
Giác có 3 phần (xúc giác, khứu giác, vị giác).
Văn là nhĩ căn nghe.
Tri là ý căn.

Hỏi:
Cội Nguồn Truyền Thừa của ngài Nguyệt Khê nói: “Lìa kiến văn giác tri, nếu dính với kiến văn giác tri là kiến văn giác tri, chứ không phải Phật tánh”. Xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
Cuộc sống hàng ngày đều dùng kiến văn giác tri để đối phó. Vì chấp vào kiến văn giác tri, nên phải lìa kiến văn giác tri. Nếu không chấp vào kiến văn giác tri thì khỏi cần lìa, tức là không lấy cũng không bỏ.
Bộ não làm chủ thì theo ngã chấp tạo ra đủ thứ nghiệp, vì bộ não là chánh phủ trung ương điều khiển toàn thân. Thuận theo ngã chấp nên tạo ra nhiều thứ tội lỗi, như ham ăn thì giết hại chúng sanh. Vì vị giác cho ngon nên giết hại không kể, chỉ là muốn thỏa mãn vị giác.
Người kiến tánh cũng dùng bộ óc, lục căn, nhưng Phật tánh làm chủ thì bộ óc, lục căn làm nô lệ của Phật tánh. Phật tánh chỉ có thiện, chẳng có ác; chỉ giúp đỡ chúng sanh, chứ không giết hại chúng sanh. Nhưng vẫn dùng lục căn, lục căn không có chủ quyền.
Như Tòng Lâm có nuôi trâu bò đề cày ruộng, nuôi ngựa để chở đồ; nhưng phải qua sự tịnh thí (cho cư sĩ), tức là không có quyền bán hay cho người khác. Tại sao? Vì bán cho người khác thì người khác có thể giết nó, cho người ta cũng vậy. Mặc dầu, đã thí cho cư sĩ, nhưng cư sĩ cũng không có quyền bán hoặc cho. Tu sĩ phải nuôi con vật đó cho đến chết. Giới luật gọi là tịnh thí.
Giới giữ tiền của Sa Di, Tỳ Kheo là không được cầm tiền bạc cũng phải sự tịnh thí, để cho cư sĩ giữ tiền bạc; nếu có muốn dùng thì phải hỏi cư sĩ, nên không dám dùng bậy. Vì dùng bậy thì cư sĩ biết. Cho nên, giới luật nhà Phật kiềm chế rất tỉ mỉ.
Vì ngã chấp nặng nên không làm chủ được, nên Phật dạy giữ nghi tình là không hiểu không biết; không biết tốt đẹp thì không ham thích, không biết xấu thì không chê bai. Tập dần dần không ham chê, nên mới tránh được giết hại, tranh chấp danh lợi.

Hỏi:
Pháp môn thoại đầu có từ hồi nào? Tại sao không ai biết để thực hành?

Đáp:
Không phải là không ai biết! Như ở Việt Nam có phái Vô Ngôn Thông và phái Liễu Quán, phái Trúc Lâm. Thiền sư Vô Ngôn Thông là đệ tử của Thiền sư Ngưỡng Sơn thuộc phái Quy Ngưỡng.
Bây giờ, mình khỏi cần truy cứu những thứ đó, chỉ cần lo cho mình tu hỏi và nhìn được miên mật. Đừng có lo Duy Lực kiến tánh hay chưa kiến tánh, có đủ tư cách dạy người hay không có. Nếu thấy dạy đúng thì theo tu, thấy không đúng thì đừng theo.

Hỏi:
Người bạn nói với con: “Lấy trí tuệ làm sự nghiệp, nếu ông tham thiền gieo nhân khờ ngốc thì ngày càng khờ ngốc thêm”. Vậy như thế nào?

Đáp:
Vì người bạn đó có kiến lập sở hữu, tưởng là trí huệ do học mà được. Nhưng Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Vô trí diệc vô đắc”, vậy là người bạn đó nghịch với ý của Phật mà tự mình không biết. Bát Nhã Tâm Kinh có 262 chữ, mà dùng 17 chữ “vô” để quét sạch tất cả hiểu biết từ phàm phu đến Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa và dùng 2 chữ “viễn ly” để quét Phật thừa.
Thật tế, nói xa lìa cũng không đúng, vì đâu có cái gì để xa lìa! Cũng không có người để xa lìa. 4 bài kệ chữ “tri” của ngài Vĩnh Gia dùng cái tay để thí dụ rất rõ. Nhưng những người học Phật không biết nguồn gốc trống rỗng vô sở hữu. Ngài Long Thọ nói “Tâm như hư không vô sở hữu nên dung nạp và ứng dụng”.
Phật pháp Đại thừa vẫn còn sở hữu, pháp tâm tâm số cũng còn sở hữu. Tuy không có hình tướng, không có số lượng thấy giống, nhưng có khác; không phải giống hết. Các vị Giáo môn giải thích tuy tỉ mỉ, nhưng tỉ mỉ không bằng ngài Long Thọ giải thích. Người giáo môn cũng không thể hiểu được, vì có kiến lập của mình.
Vô trí diệc vô đắc, vậy trí huệ làm sao học được? Rồi dùng bộ óc để ghi nhớ cho là trí huệ, nhưng không biết bộ óc sau khi chết, đi thiêu biến thành tro, chôn dưới đất biến thành đất. Tất cả ghi nhớ đâu còn nữa, dẫu cho còn cũng không dùng được. Phật pháp là thật tế thật dụng là mình đang dùng, sao còn ghi nhớ những danh từ đoán mò bậy bạ cho là cao!

Hỏi:
Phật tánh của chúng sanh đầy đủ cùng khắp không gian thời gian, tại sao chúng con không dùng ra được?

Đáp:
Như ánh sáng mặt trời không nghiêng về người nào, chiếu cùng khắp không gian thời gian; người không thấy ánh sáng mặt trời là do lỗi người mù, chứ không phải do lỗi mặt trời.
Mình là người mù không có Phật tánh sao?
Mình tuy mù nhưng có Phật tánh, mà lại bị che khuất. Phật tánh không thể nói có hay không có. Vì vốn vô thỉ vô sanh, nếu nói có là biên kiến; nói không có cũng là biên kiến, tức là nghiêng về một bên có tương đối. Biên kiến là một trong năm thứ ác kiến.
Người ham kiến giải cứ đuổi theo lời nói danh từ để chấp. Nghe Phật nói có cho có là chơn lý, nghe Phật nói không có thì cho không có là chơn lý. Kỳ thật, Phật Thích Ca không lập chơn lý. Tất cả tôn giáo đều có kiến lập chơn lý mà ngộ được, rồi đem chơn lý đó hoằng dương.
Phật Thích Ca ngộ trống rỗng vô sở hữu, không có gì hết thì lấy gì để làm chơn lý. Vì chơn lý thì có giả lý để làm tương đối, cho nên kinh Lăng Nghiêm nói “chơn với vọng là 2 thứ vọng”. Nếu nói tất cả là huyễn hóa đã lọt vào biên kiến mà tự mình không biết. Kinh Lăng Nghiêm nói “phi huyễn không thể kiến lập, huống là pháp huyễn!”
4 bài kệ nói về chữ “tri” của ngài Vĩnh Gia: Luôn cả chữ “tri” cũng không thể kiến lập, nếu kiến lập thành 2 tri; tức là Thiền tông nói “trên đầu mọc thêm đầu”, nên mời bác sĩ cắt bỏ. Vì đó là bệnh. Cũng không thể kiến lập Phật, Phật là do mê mới có.
Cho nên, đã đoạn dứt nghi căn thì không có ngộ nữa. Lúc đó cái mê hết. Nhưng người Tiểu thừa cho là có cái ngộ, tức là chứng quả Niết Bàn thì còn mê. Vì vậy, Thiền tông nói “ngộ rồi đồng như chưa ngộ”.
Vậy, khỏi cần hỏi và nhìn phải không?
Nếu ngộ rồi khỏi cần hỏi và nhìn, gọi là bảo tham (đã no thì không muốn ăn); bây giờ còn đói thì phải ăn. Thiền sư Nghĩa Thanh kiến tánh đến nhập chúng chùa của Đầu Tử (kiến tánh), tối ngày ăn xong rồi ngủ, không theo chúng tham thiền. Chúng Tăng bất mãn rồi phản ảnh lên trụ trì, trụ trì đến nói với Nghĩa Thanh: Sao thầy không theo chúng tham thiền?
Nghĩa Thanh đáp: Đồ ăn ngon, nhưng no quá nên không thèm.
Trụ trì nói: Nhiều người đối với ông thì bất mãn.
Nghĩa Thanh đáp: Nếu có thỏa mãn thì đâu có ích lợi gì!
Trụ trì mới biết ông đã kiến tánh. Sau này, Thiền sư Nghĩa Thanh ở lại núi Đầu Tử thuộc tông Tào Động.

Hỏi:
Con hỏi câu thoại, sao có lúc con muốn thức thì buồn ngủ, muốn ngủ lại thức?

Đáp:
Thức cũng hỏi và nhìn, ngủ cũng hỏi và nhìn, nhớ cũng hỏi và nhìn, quên cũng hỏi và nhìn, đang ăn cơm cũng hỏi và nhìn, đi cầu cũng hỏi và nhìn.
Dùng cái không biết để tu, khi kiến tánh thì có biết không?
Kiến tánh sẽ tự biết. Ngài Long Thọ nói: “Sao không nói hư không quảng đại vô biên dung nạp tất cả vật, mà nói hư không vô sở hữu dung nạp tất cả vật?” Theo hiểu biết người thường là hư không quảng đại mới dung nạp tất cả vật, nếu chẳng có hư không làm sao dung nạp tất cả vật? Trước mắt mình thấy rõ, bất cứ cái gì, như mặt trời, mặt trăng, đất đai, nhà cửa, cây cối,… đều ở trong hư không. Cho nên, ngài nói “hư không vô sở hữu dung nạp và ứng dụng”.
Pháp tâm, tâm sở không có hình tướng số lượng, tại sao không dung nạp? Tâm theo Duy Thức gọi là tâm vương, tức là 8 thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức; 5 thức này gọi là tiền ngủ thức. Thức thứ 6 là ý thức mà hàng ngày mình thường dùng để đối phó với cuộc sống. Thức thứ 7 là mạt na thức. Thứ thứ 8 là a lại da thức). Tác dụng của tâm vương có 51 tâm sở (sở hữu của tâm), như buồn, vui, yêu, ghét,… nói chung là pháp tâm tâm sở (tâm số).
Ngài nói: Pháp tâm, tâm sở là tướng giác tri, không phải tướng dung nạp. Lại, pháp tâm, tâm sở còn có nghĩa là không dung nạp. Tại sao? Vì tâm tà kiến không dung nạp tâm chánh kiến, tâm chánh kiến không dung nạp tâm tà kiến; còn hư không đều dung nạp tất cả. Tất cả pháp đều vô sở hữu, sao còn dùng hư không để thí dụ?
Ngài trả lời: Chúng sanh ở nơi các pháp hư vọng sanh tâm chấp trước, nhưng hư không tuy là hư vọng mà không sanh tâm chấp trước. Cho nên, mới dùng hư không để thí dụ. Vì hư không chẳng có gì để chấp trước.
Phần chữ nghiêng đậm trong ngoặc là Hòa thượng Duy Lực giảng Trích Từ Đại Trí Độ Luận của Ngài Long Thọ Bồ Tát.

Hỏi:
Tại sao chẳng nói hư không quảng đại vô biên dung nạp tất cả vật, mà lại nói hư không vô sở hữu dung nạp tất cả vật? Đại thừa cũng vô sở hữu sao không dung nạp tất cả vật?

Đáp:
Hiện tiền thấy hư không vô sở hữu, tất cả vạn vật đều ở trong đó, vì vô sở hữu nên mới dung nạp.

Hỏi:
Pháp tâm, tâm sở cũng vô hình tướng, tại sao không dung nạp tất cả vật?

Đáp:
Pháp tâm, tâm sở là tướng giác tri, chẳng phải tướng dung nạp; lại chẳng có trụ xứ trong ngoài, gần xa... chỉ do tướng phân biệt mới biết có khái niệm của tâm.
Sắc pháp có trụ xứ, do sắc mới biết có hư không, vì sắc chẳng dung nạp nên mới biết hư không dung nạp; bởi do vô minh nên biết có minh, do khổ nên biết có vui, do chỗ không có sắc nên nói có hư không, chẳng có tướng khác.
Lại nữa, pháp tâm, tâm sở còn có cái nghĩa không dung nạp: Cũng như tâm tà kiến không dung nạp chánh kiến, tâm chánh kiến không dung nạp tà kiến, còn hư không thì chẳng phải vậy, tất cả đều dung nạp.
(Như bây giờ để cái bình chỗ này thì muốn để thêm cái gì cũng không được, vì chỗ này không thể dung nạp được nữa. Bình thường người học giáo môn nói chúng sanh do vô minh, kỳ thật vô minh là đối với minh; tại cái minh mới biết vô minh).
Lại pháp tâm, tâm sở là tướng sanh diệt, là pháp có thể đoạn dứt, hư không thì chẳng thể đoạn dứt.
(Tu có thể đoạn dứt tà kiến, nếu đoạn dứt không được thì tu đâu có ích lợi gì! Còn hư không thì không thể đoạn dứt).
Pháp tâm, tâm sở với hư không chỉ giống ở chỗ vô hình vô sắc, chứ không được nói là tất cả đều chẳng khác. Do đó nên trong các pháp nói hư không dung nạp tất cả.
(8 thức, 51 tâm sở và hư không là giống chỗ không hình tướng).

Hỏi:
Ý tôi hỏi là tại sao chẳng nói hư không quảng đại vô biên dung nạp tất cả vật, mà lại nói vô sở hữu nên dung nạp tất cả vật?

Đáp:
Tôi nói hư không chẳng tự tướng, do sắc tướng nói có hư không. Nếu chẳng có tự tướng thì chẳng có hư không, nếu chẳng có hư không thì lấy gì nói quảng đại vô biên!
(Nếu nói quảng đại vô biên là kiến lập hư không rồi, đã có chứ không phải là không có).

Hỏi:
Ông nói tướng dung nạp tức là hư không rồi, tại sao lại nói chẳng có?

Đáp:
Tướng dung nạp tức là chẳng có sắc tướng, là chỗ sắc chẳng đến, gọi là hư không. Nếu hư không là thật thì lúc chưa có sắc phải có hư không; nếu chưa có sắc mà có hư không thì hư không vô tướng. Tại sao vậy? Vì chưa có sắc vậy. Do có sắc nên biết có hư không, vì có sắc mới có vô sắc. Nếu trước có sắc sau mới có hư không thì hư không lại thành pháp tạo tác, pháp tạo tác chẳng gọi là thường.
(Vì pháp tạo tác thì phải có hoại, còn hư không là thường, không thể hoại, không có ai tạo tác được).
Nếu có pháp vô tướng thì chẳng thể được, do đó nên chẳng có hư không.
(Chẳng có hư không, nhưng dung nạp và ứng dụng tất cả. Đó là nghịch với hiểu biết của bộ não, là đúng với thật tế; còn bộ não là không đúng với thật tế. Cái thật tế mà người ta không chịu, không đúng thật tế thì người ta mới chịu, gọi là tập khí phiền não. Cho nên, ngài Lai Quả nói “tôi nói thật thì người ta không tin, tôi nói dối mà các vị lại tin).

Hỏi:
Nếu vậy hư không là thường có, bởi do sắc mà có tướng hư không hiện rồi chứng tỏ có hư không ư?

Đáp:
Nếu hư không trước đã vô tướng thì sau cũng là vô tướng. Nếu hư không trước đã hữu tướng thì tại sao tướng ấy không có sở tướng (chẳng có tướng sở hữu của hư không)?
(Mặc dầu, trước mặt mình là hư không, mình cũng ngồi ở trong hư không; nhưng không có tướng sở hữu của hư không, thật tế là vậy).
Nếu trước vô tướng thì sau cũng vô tướng (chẳng có tướng mạo của hư không). Nếu lìa hữu tướng vô tướng thì chẳng có trụ xứ của tướng. Nếu tướng chẳng trụ xứ thì sở tướng cũng chẳng trụ xứ. Sở tướng chẳng có nên tướng cũng chẳng có, lìa tướng và sở tướng đâu còn pháp nào nữa!
Cho nên hư không chẳng gọi là tướng, chẳng gọi là sở tướng, chẳng gọi là pháp, chẳng gọi là phi pháp; chẳng gọi là hữu, chẳng gọi là vô, ngôn ngữ cách tuyệt, tịch diệt như vô dư Niết Bàn, tất cả pháp khác cũng như thế.
(Tất cả tương đối không thể kiến lập, vì vô sở hữu; nhưng người ta lại chấp các pháp thật có, nên mới sanh ra đủ thứ phiền não).

Hỏi:
Nếu tất cả pháp đều như thế tức là hư không, tại sao còn lấy hư không để thí dụ?

Đáp:
Nhân quả của các pháp đều là hư vọng, bởi vô minh mới có.
(Như con gà sanh ra trứng gà, trứng gà ấp ra con gà và cha mẹ sanh ra con cái, con cái sanh ra con cái nữa; nhưng không có cha mẹ đầu tiên, tức là không có bắt đầu. Cho nên nói đều là hư vọng).
Cái hư vọng đó lừa gạt chúng sanh, vì chúng sanh ở nơi các pháp hư vọng sanh tâm chấp trước, mà chẳng phải ở nơi hư không sanh tâm chấp trước, mặc dù hư không cũng là hư vọng. Lục trần hư vọng lừa gạt tâm chúng sanh, hư không dù hư vọng nhưng chẳng phải như thế, cho nên lấy hư không để thí dụ.
(Lục trần là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Tâm chúng sanh bị lục trần lừa gạt, nên Bát Nhã Tâm Kinh dùng chữ “vô” để quét sạch lục căn, lục trần, lục thức. Tuy hư không hư vọng, nhưng không có lừa gạt chúng sanh).
Dùng việc thô hiện tiền để phá việc vi tế, như hư không bởi sắc mới có nên chỉ là giả danh, chẳng phải pháp nhất định.
(Vì chấp trước khó phá, việc thô dễ thấy, việc vi tế khó thấy. Cho nên, dùng việc thô để chứng tỏ việc vi tế là hư vọng. Hư không vốn là sở hữu, vì có sắc mới chứng tỏ có hư không, sắc thì thấy được, còn hư không vi tế nên không thấy được).
Chúng sanh cũng thế, do ngũ uẩn hòa hợp mới có, cũng là giả danh, chẳng phải pháp nhất định.
(Ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức; sắc là nhục thân này; thọ, tưởng, hành, thức là thể tinh thần; thọ là cảm thọ, như biết buồn vui,…; tưởng là biết suy nghĩ; hành là thay đổi biến hóa, như từ con nít biến thành người lớn, biến thành người già hay là hành vi mỗi ngày; thức là phân biệt, như phân biệt cái này đẹp thì thích, cái kia xấu thì chê).
Đại thừa Phật pháp cũng như thế, bởi do chúng sanh tánh không, nên chẳng Phật chẳng Bồ Tát, bởi do chúng sanh chấp có, nên có Phật có Bồ Tát.
(Tâm của chúng sanh như hư không vô sở hữu là tánh không, nếu hiểu được tánh không thì chẳng có Phật, cũng chẳng có Bồ Tát, có Phật có bồ Tát thì chẳng phải là tánh không, tức đã có kiến lập).
Nếu chẳng Phật chẳng Bồ Tát thì chẳng có Phật pháp Đại thừa. Do đó Đại thừa dung nạp vô lượng vô biên A Tăng Kỳ chúng sanh.
(Chẳng có Phật pháp Đại thừa, tức là vô sở hữu nên mới dung nạp. Hư không vô sở hữu dung nạp vũ trụ, vạn vật, mặt trời, mặt trăng, nhà cửa, cây cối,… Phật pháp Đại thừa cũng vô sở hữu, nên dung nạp tất cả chúng sanh, gọi là vô lượng vô biên a tăng kỳ chúng sanh, tức vô lượng số chúng sanh).
Nếu thật có pháp thì chẳng thể dung nạp vô lượng chư Phật và đệ tử.
(Thật tế, chẳng có pháp mới dung nạp; trái lại hiểu biết của bộ óc phải có thì dung nạp, còn cái này phải không có nên dung nạp. Như chẳng có nên dung nạp tất cả, nghịch với bộ óc nên khó hiểu. Vì không có pháp mới dung nạp tất cả chư Phật và đệ tử, nếu thật có thì không thể dung nạp.
Có chỗ trống rỗng nên các vị ngồi được, không có chỗ trống rỗng thì các vị không có chỗ ngồi. Bình thường giáo dục chấp có thành thói quen, nên cái gì cũng phải có của mình; như nhà cửa, đất đai,… của ta, nếu căn nhà chưa có quyền sở hữu phải làm quyền sở hữu cho được yên tâm).

Hỏi:
Nếu thật chẳng có hư không, tại sao dung nạp vô lượng vô biên A Tăng Kỳ chúng sanh?

Đáp:
Do nghĩa này nên Phật thuyết pháp Đại thừa vốn chẳng có, nên A Tăng Kỳ chẳng có. A Tăng Kỳ chẳng có nên vô lượng chẳng có, vô lượng chẳng có nên vô biên chẳng có; vô biên chẳng có nên tất cả pháp cũng chẳng có, như thế nên dung nạp.
(Tiểu thừa là Thanh Văn thừa, Đại thừa là Bồ Tát thừa; nói có Đại thừa là tâm chúng sanh chấp có. Theo hiểu biết của bộ não, chẳng có thì lấy cái gì để dung nạp? Ngài Long Thọ nói: Chẳng có mới dung nạp).
Nói tiếng A Tăng Kỳ, A tiếng Hán dịch là vô, Tăng Kỳ dịch là số, chúng sanh các pháp mỗi mỗi đều chẳng bờ bến nên gọi là vô số.
(Chúng sanh không có bờ bến, chẳng có con số nhất định, hư không chẳng bờ bến, cây cối cũng chẳng bờ bến).
Dùng số để đếm mười phương xa gần của hư không đều chẳng bờ bến, nên gọi là vô số. Đem tính số để đếm từng cái một của sáu Ba La Mật, mỗi mỗi bố thí, mỗi mỗi trì giới v.v... vốn chẳng có số, dùng số ấy để đếm bao nhiêu chúng sanh cho đến Phật thừa, quá khứ, hiện tại, vị lai đều chẳng thể đếm, ấy gọi là vô số.
Cũng có người nói số ban sơ là 1, chỉ có số 1, 1 thêm 1 nên nói là 2, thế thì tất cả chỉ là 1, chẳng có số khaùc. Nếu tất cả đều là 1 tức là vô số vậy. Cũng có người nói tất cả pháp hòa hợp nên có tên gọi. Cũng như chiếc xe do trục, vành xe, vỏ xe.... hòa hợp thành tên gọi là chiếc xe, thật thì chẳng có pháp nhất định.
Một pháp chẳng có thì nhiều pháp cũng chẳng có, vì trước một sau mới nhiều. Lại nữa, dùng số để đếm vật, vật chẳng có thì số cũng chẳng có. Nói vô lượng (không thể đo lường) cũng như dùng đấu để lường gạo, dùng trí huệ để đo lường các pháp cũng như thế.
Các pháp tánh không, nên vô số; vô số nên vô lượng, vô lượng nên vô biên, chẳng có thật trí (Tâm Kinh nói Vô Trí Diệc Vô Đắc), như thế làm sao có tướng nhất định của các pháp để đo lường! Vì vô lượng nên vô biên, lượng gọi là tổng tướng, biên gọi là biệt tướng; lượng là ban sơ, biên là cuối cùng.
Lại nữa, từ cái ta cho đến kẻ biết kẻ thấy vốn chẳng có thì thực tế cũng chẳng có; thực tế chẳng có nên vô số cũng chẳng có, vô số chẳng có nên vô lượng chẳng có, vô lượng chẳng có nên vô biên chẳng có; vô biên chẳng có nên tất cả pháp cũng chẳng có.
(Chánh pháp phá ngã là bị lừa gạt do vô minh mới có, thật tế không có ta thì những cái liên hệ với ta cũng không có. Cho nên, ta còn chẳng có thì ta thấy làm sao có?)
Do đó, nên nói tất cả pháp cứu cánh thanh tịnh, ấy là pháp Đại thừa dung nạp tất cả vậy.
(Cũng là hiển bày nghĩa chẳng có mới dung nạp, có thì không thể dung nạp; như cái bàn này, chỗ có để đồ thì không thể dung nạp).
Chúng sanh và pháp hai thứ làm nhân với nhau, nếu chẳng có chúng sanh thì chẳng có pháp; nếu chẳng có pháp thì chẳng có chúng sanh.
(Như con gà với trứng gà, nếu không có con gà thì chẳng có trứng gà; nếu chẳng có trứng gà thì chẳng có con gà, vì 2 thứ làm nhân với nhau).
Trước nói tổng tướng tất cả pháp không, sau nói biệt tướng mỗi mỗi các pháp đều không, thực tế tức là diệu pháp sau cùng.
(Thật tế, mình đang dùng là trống rỗng vô sở hữu, cũng là diệu pháp sau cùng. Diệu là bất khả tư nghì, tức là không có gì để suy nghĩ được. Vì bộ óc suy nghĩ là muốn cái có, còn cái này không có mà dung nạp).
Cái này đã chẳng có thì cái kia làm sao có! Từ cái tánh bất khả tư nghì cho đến tánh Niết Bàn cũng đều như thế.
(Thật tánh chẳng có, nhưng dung nạp và ứng dụng. Theo bộ óc nhận biết cho là vô lý. Thật tế là vậy, chẳng có nên mới dung nạp, rõ ràng hư không trước mắt chẳng có gì nên mới dung nạp tất cả. Như các vị được ngồi đây cũng nhờ trống rỗng vô sở hữu. Có thì không thể dung nạp).

Ghi chú:
Trong bài nói “chẳng có” chẳng phải có ý nghĩa đoạn diệt, vì người biết “chẳng có” ấy, chẳng thể đoạn diệt vậy. Nếu đoạn diệt được thì ai biết chẳng có!
(Tuy nhiên, trong bài nói chẳng có, nhưng chẳng có đó không có ý đoạn diệt; đoạn diệt thì không có người biết, nhưng có người biết chẳng có thì không thể đoạn diệt. Nếu có đoạn diệt thì ai biết chẳng có?
Cho nên, dùng bộ óc để hiểu thì thấy rất mâu thuẫn! Vì bộ óc được giáo dục cho mọi thứ là thật đã thành thói quen. Nếu đến thật tế là nghịch với hiểu biết của mình, thành ra không thể chấp nhận. Vì vậy, khó lãnh hội được. Do đó, ngài Long Thọ tỏ lòng từ bi giải thích kỹ càng như thế!)

•Hỏi:
Con không có niềm tin tự tâm, mà muốn tham thoại đầu. Vậy con cần có kiến giải không?

Đáp:
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tri kiến lập tri tức vô minh bổn, tri kiến vô kiến tư tức Niết Bàn”, nghĩa là tri kiến lập tri tức căn bản của vô minh, tri kiến vô kiến là Niết Bàn. Bất cứ pháp môn nào, từ Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa đều quét sạch tất cả tri kiến.
Bát Nhã Tâm Kinh dùng 17 chữ “vô” để quét sạch tất cả tri kiến Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa; cuối cùng dùng 2 chữ “viễn ly” để quét sạch tri kiến Phật thừa.

Hỏi:
Nếu người tham thiền không có kiến giải, làm sao có chánh tín đầy đủ để tham thiền?

Đáp:
Theo Giáo môn cũng biết, hữu học là thấp, vô học là cao; Thiền môn siêu việt hữu vô, tức là vô học không được, vì vô học đối với hữu học là tương đối. Nếu chấp hữu học, như ở lớp một không chịu lên lớp! Phải bỏ hữu học tiến lên vô học. Còn chấp tri kiến thì ở hữu học hoài, không thể đến vô học. Có đến vô học cũng còn phải bỏ.
Phật tánh có tri kiến làm sao nói là hư không vô sở hữu? Ngài Long Thọ dùng hư không vô sở hữu là giải theo Giáo môn, không phải theo Thiền môn; vì Giáo môn ham thích tri kiến, cho nên ngài giải thích rất tỉ mỉ là muốn giúp cho Giáo môn. Thiền môn khỏi cần giải thích.
Cuối cùng tôi còn ghi chú 2 chữ “chẳng có”, nếu chấp vào chẳng có thì cũng không được, tức là lọt vào biên kiến. “Chẳng có” không phải có ý nghĩa đoạn diệt, nếu đoạn diệt được thì ai biết chẳng có!
Như Giáo môn nói: “Chỉ cho ý hội, chẳng cho ngôn truyền”. Thiền môn cũng không cho ý hội, phải tự ngộ mới được. Vì vậy, hoằng dương Tổ Sư thiền rất khó.
Thiền hội của ngài Triệu Châu có 20 người danh tiếng, Thiền hội của phái Lâm tế đời thứ 9 có 6 người xuất sắc. Những người tu theo Thiền tông đều là con cháu của 6 người này. Có một tỷ người tu, chỉ một người kiến tánh là đủ vốn.

Hỏi:
Nếu Hòa thượng đi vắng thì chúng con căn cứ vào đâu để tham thiền khỏi bị lạc?

Đáp:
Điều kiện thứ nhất của Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền là phá ngã chấp bằng chín chữ “vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ”. Nếu thực hành được chín chữ này thì bảo đảm không bị lạc, không thực hành chín chữ này thì không thể bảo đảm.
Nếu thực hành được chín chữ đó thì không tham thiền được!
Tự mình kiến lập tri kiến là hạn chế, nhưng bản tâm của sư thì không có hạn chế. Tại sao? Vì trống rỗng vô sở hữu. Nhưng không thể kiến lập tất cả tri kiến, cho nên Phật Giáo không kiến lập chơn lý. Có kiến lập chơn lý là 2 chơn lý, Thiền tông gọi là “trên đầu mọc thêm đầu”. Vì bản tâm là chơn lý rồiù.
Các tôn giáo khác có kiến lập chơn lý, chỉ có Phật Giáo không có kiến lập chơn lý. Nhưng không phải là không có chơn lý! Vì bản tâm là chơn lý đã sẵn, không được gọi là chơn lý. Tại sao? Do lập chơn nên có vọng. Cho nên, kinh Lăng Nghiêm nói: “Chơn với vọng là 2 thứ vọng”, không vọng là vọng, chơn cũng là vọng.
Phật nói là không có bắt đầu, nếu kiến lập là có bắt đầu thì không phải là vô sanh. Người chứng quả là ngộ pháp vô sanh, chứng vô sanh pháp nhẫn. Có kiến lập thì sao ngộ được pháp vô sanh! Vì vậy, phải trôi lăn trong lục đạo mãi mãi. Phật Thích Ca cũng không cứu nỗi, Phật chỉ đường cho mình đi.

Hỏi:
Tham thiền và tham thoại đầu có khác không?

Đáp:
Tham thoại đầu và khán thoại đầu không khác, còn ngồi thiền thì khác. Cho nên, trong Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền nói “ngồi thiền không phải tham thiền, tham thiền khỏi cần ngồi cũng được”. Cho ngồi thiền là tham thiền thì hiểu lầm. Lục Tổ nói “đạo do tâm ngộ bất tại tọa”, ngộ là do tâm ngộ, chứ không không phải ngồi mà ngộ.
Trong phẩm Tọa Thiền, ngài nói: “Ngồi lâu trói thân có ích lợi gì!”, rõ ràng không phải ngồi. Và ngài có bài kệ phá chấp ngồi của Chí Thành:
Lúc sống thì ngồi chẳng nằm,
Lúc chết thì nằm chẳng ngồi.
Vốn là đống xương hôi thúi,
Đâu thể thành lập công phu?
Nhưng bây giờ, các thiền khác đều chấp ngồi, cho ngồi là cao. Theo tôi biết nghe lời thầy, ngồi đến 6 giờ bị ói máu, phải chở đi bệnh viện cấp cứu. Tham thoại đầu rất giản dị, đứa bé 3 tuổi cũng tham thiền được. Có dùng máy vi tính đo bộ não của nó, đèn báo từ trên xuống dưới rồi tắt; chứng tỏ nó có tham thiền.

Hỏi:
Khi chưa tham thiền hay thấy chiêm bao, tham thiền rồi không còn thấy chiêm bao. Nhưng mấy tháng gần đây con lại thấy chiêm bao, vậy có phải con dãi đãi phải không?

Đáp:
Không phải! Người kiến tánh rồi vẫn còn chiêm bao. Phá Sơ quan, Trùng quan là ra khỏi sanh tử luân hồi vẫn còn chiêm bao, nhưng chiêm bao làm chủ được. Chiêm bao gồm có mở mắt chiêm bao và nhắm mắt chiêm bao.
(2 thứ chiêm bao…………..trang 80).

Hỏi:
Tham thiền biết hỏi câu thoại thiếu chữ và lúc không biết mình có tham hay không?

Đáp:
Tham Tổ Sư thiền là dùng cái không biết để tu, chỉ cần giữ không biết là đủ rồi; không cần biết, cho nên biết là sai lầm.
Hỏi câu thoại là kích thích niệm không biết, nhìn chỗ không biết; xem chỗ không biết là gì, nói chỗ không biết nhưng không có chỗ; nên không có mục tiêu để nhìn, nhìn mãi không thấy gì vẫn còn không biết. Thiền tông gọi là nghi tình. Chỉ cần hỏi và nhìn song song để giữ niệm không biết, đưa hành giả đến thoại đầu sẽ kiến tánh thành Phật.
Vậy câu thoại phải rõ ràng, nếu không rõ ràng thì bị hôn trầm phải không?
Không cần biết rõ ràng hay không rõ ràng! Không biết thì rõ ràng và không rõ ràng cũng không biết. Không phải như niệm Phật biết rõ ràng, còn tham thiền thì khỏi.
Không cần tập trung tinh thần, cố gắng; chư Tổ nói “ít phí sức chừng nào tốt chừng nấy”, nếu cố gắng, tập trung tinh thần là phí sức. Chỉ cần kéo dài nghi tình một chút là được, nghi tình không có gián đoạn là công phu miên mật.

Hỏi:
Cư sĩ sở hữu nhiều quá thì thế nào?

Đáp:
Sở hữu mới chướng ngại cái dụng của tâm. Cho nên, tham thiền tẩy sạch hết sở hữu thì bằng như Phật, có thần thông trí huệ khắp không gian thời gian. Ông đang quỳ là có chỗ trống nên mới quỳ được. Cuộc sống hàng ngày, nói năng tiếp khách, ăn uống làm việc,… đều nhờ trống rỗng vô sở hữu.
Bất cứ giờ phút nào, mình ngủ mê cũng nhờ vô sở hữu; không có giây phút nào mình không nhờ vô sở hữu này mà có sự sống. Đó là ứng dụng thật tế, chứ không phải nói suông, mò đoán bậy bạ.

Hỏi:
Con là cư sĩ ở nhà, xin Sư Phụ dạy cho con cách nào để mau kiến tánh?

Đáp:
Tôi hỏi cô: Khi chưa có trời đất cô là cái gì?
Không biết.
Không biết là tham thiền đúng rồi! Hỏi là kích thích niệm không biết, nhìn chỗ không biết; xem chỗ không biết là gì, chỗ không biết thì không có chỗ; nên không có mục tiêu để nhìn, nhìn mãi không thấy gì vẫn còn không biết; không biết đó rất cần, Thiền tông gọi là nghi tình.
Phải hỏi và nhìn song song để giữ kéo dài nghi tình. Hỏi là tham thoại đầu, nhìn là khán thoại đầu. Nếu còn biết cái gì là không đúng, nhìn không thấy gì cũng vẫn nhìn; hỏi và nhìn tiếp tục không gián đoạn, gọi là công phu miên mật.
Mỗi ngày con đi bán mấy giờ thì phải tu như thế nào?
Lúc đang bán thì ngưng tham, khi nghĩ bán thì tập tham cho đến quen thuộc thì lúc đang bán tự khởi lên nghi tình.
Con muốn xuất gia để tham, vậy thế nào?
Vua kiến tánh vẫn làm vua, Thừa tướng kiến tánh vẫn làm Thừa tướng, bộ trưởng kiến tánh vẫn làm bộ trưởng, bà già mua bán cũng kiến tánh; chứ khỏi cần phải bỏ! Làm nghề gì cứ tiếp tục làm cũng có thể kiến tánh. Kiến tánh là biết được chính mình và làm chủ thì được tự do, giải thoát tất cả khổ.
Huệ Năng kiến tánh khi còn làm cư sĩ được kế vị Lục Tổ, đến 15 năm sau vì muốn hoằng pháp mới xuống tóc xuất gia. Cho nên, bây giờ chỉ cần tu, chứ khỏi cần xuất gia.

Hỏi:
Tâm và vô sở hữu có khác nhau không?

Đáp:
Tâm tức là vô sở hữu, vô sở hữu tức là tâm; luôn cả vạn vật cũng không có khác.
Có tâm chánh, tâm tà vậy là thế nào?
Tâm chánh, tâm tà là do chấp tâm; vì chấp sở hữu nên có tâm vương tâm sở. Tâm sở là sở hữu của tâm, Duy Thức có 51 thứ. Những cái đó đã kiến lập thành sở hữu, nên gọi là tâm sở có chướng ngại. Có sở hữu mới có chánh tà, nếu vô sở hữu thì không kiến lập nên không có chánh tà.

Hỏi:
Làm việc không dùng bộ óc, vậy phải là trí huệ Bát Nhã không?

Đáp:
Khỏi cần biết cái gì! Nhưng công việc làm được, nếu dùng cái biết để giải thích là sai lầm. Trống rỗng vô sở hữu thì không có nghĩa lý. Cho nên, Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải của ngài Trung Phong trước tác, tuy nghĩa giải cao siêu cũng phải quét sạch. Thiền tông cần cái thật tế, chứ theo bộ óc để giải thích là không đúng. Vì kiến lập nên mới có nghĩa lý.
Hư không vốn vô sở hữu trống rỗng nên gọi là tánh không. Trống rỗng chẳng có gì nên dung nạp và ứng dụng. Do thông minh của con người, cái không chẳng hạn chế thì họ không chịu; lại đem hạn chế như cái không của tách, nếu tách bít thì chẳng có cái không là tách chết. Tách chẳng bít thì có cái không nên dùng được. Nhưng dùng hạn chế trong phạm vi, như tách, bình, dĩa, bàn,…
Có sự hạn chế, rồi đem giải thích cái không của tách, khác với cái không của bình, khác với cái không của nhà,… có muôn ngàn thứ sai biệt. Như chưa dựng cái nhà thì cái không đã sẵn, chưa có cái không của tách cũng có cái không đã sẵn. Cái không của ngoài tách và cái không của trong tách thì chẳng khác, với cái không của bình, nhà,… đều cùng một cái không.
Vì có kiến lập cái không của tách, bình, nhà,… nên thấy có nghĩa lý khác biệt. Nếu không có nghĩa lý thì lấy gì để khác biệt! Theo bộ óc để giải thích là sai lầm. Thật tế không có đúng sai, vì không có tương đối. Có đúng sai là tương đối thì có sai lầm.

Hỏi:
Trong công phu không thấy sự an lạc, sau khi công phu mới thấy sự lặng lẽ của tâm. Như vậy có đúng không?

Đáp:
Không đúng! 4 bài kệ của ngài Vĩnh Gia nói “biết tịch lặng là chướng ngại, vì có kiến lập sở tri”. Như tay cầm như ý thì dụng của tay bị mất, tay không cầm như ý thì dụng của tay hoạt bát vạn năng. Tham thiền khởi nghi tình quét tịch lặng thì khôi phục dụng hoạt bát vạn năng của tự tánh.
Tay không cầm đồ vật, mà tự làm nắm tay (tự mình biết có cái biết) thì dụng của tay cũng chướng ngại. Cho nên, cái biết không được kiến lập. Vì kiến lập sở tri tịch lặng thì có năng sở đối đãi. Nếu không kiến lập sở tri, nhưng có năng tri; có tri phải có bất tri để đối đãi.
Vì vậy, chấp tri lọt vào biên kiến, mà tự mình không biết. Biên kiến là một trong năm thứ ác kiến. Như chấp huyễn hay chấp giả đều rơi vào biên kiến, vì huyễn đối với phi huyễn và giả đối với chơn đều tương đối; không phải vô duyên tri.
Vô duyên tri gọi là chánh biến tri, còn gọi là trí Bát Nhã tự động không bao giờ ngưng biết. Như ánh sáng mặt trời lúc nào cũng chiếu soi. Nói trời gần sáng thì mặt trời sắp chiếu, vậy đúng không? Không đúng. Vì mặt trời đâu có ngưng chiếu hồi nào, mà nói sắp chiếu!
Như cái tri của mình không bao giờ ngưng biết, mà nói là sắp biết! Nếu kiến lập thêm cái tri, như thêm cái đầu làm khổ cái đầu sẵn có; nên cần mời bác sĩ cắt bỏ. Do tánh con người ham kiến lập, nên chướng ngại cái dụng của tâm.
Vì tâm là vô sở hữu, kiến lập là có sở hữu che khuất bản tâm nên dụng bị hạn chế. Như đem cái không sẵn sàng hạn chế thành cái không của nhà, tách, bình,… dù nhà rất lớn nhưng dụng trong cái không phạm vi nhà. Tất cả núi sông, đất đai, nhà cửa,… đều ở trong cái không sẵn sàng, dụng không hạn chế.

Hỏi:
Tham câu “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” con thắc mắc muốn biết trời, đất, con người do đâu mà có. Vậy 3 thắc mắc đó có thể giúp cho tham câu thoại không?

Đáp:
Không được! Nếu vậy thì lọt vào biên kiến chấp vào không có. Nghi tình là không biết, có và không đều không biết. Tham là hỏi câu thoại kích thích không biết, khán là nhìn không biết để giữ kéo dài đến kiến tánh; hỏi và nhìn song song để giữ nghi tình, chứ không phải để biết hay muốn tìm hiểu đáp án câu thoại.
Câu thoại là công cụ để kích thích lên niệm không hiểu không biết, không có ý nghĩa khác. Tất cả muôn ngàn câu thoại là mục đích để khởi lên niệm không biết. Không phải để cho hành giả đáp án câu thoại. Nếu đáp án câu thoại là hồ nghi, chẳng phải chánh nghi. Thiền Nhật Bản, thiền Đại Hàn lọt vào hồ nghi. Vì dùng bộ óc tìm hiểu.

Hỏi:
Làm việc thì không tham thiền, muốn cầu công việc thành công, rồi sợ thất bại. Vậy bỏ muốn cầu phải thế nào?
Đáp:
Phải hỏi và nhìn! Ngày đêm có 24 giờ, giữ nghi tình được 1 phút. Nếu mỗi ngày, nghi tình tăng được 1 phút thì 4 năm đến thoại đầu sẽ kiến tánh; mỗi ngày, nghi tình tăng ½ phút thì 8 năm đến thoại đầu sẽ kiến tánh; mỗi ngày, nghi tình tăng ¼ phút thì 16 năm đến thoại đầu sẽ kiến tánh.
Kiến tánh thì tất cả đều được giải quyết, nếu chưa kiến tánh thì không dùng cái biết nữa. Giữ được nghi tình thì vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ tự nhiên giữ được. Như chuyện Trương Quốc Anh làm việc gì đều được, nhưng lúc ấy không biết gì nên mới làm được. Những người biết sợ nên có bị thương, còn y không biết sợ nên không bị thương. Y giữ được nghi tình nên làm việc gì cũng nhanh hơn người ta.
Nếu không biết làm sao biết đắc biết sợ? Vì không giữ được nghi tình nên có sở đắc, sở cầu, sở sợ.

Hỏi:
Khi ở thiền thất tham thiền, hết thiền thất về nhà, con trì kinh Pháp Hoa được không?

Đáp:
Tham thiền khởi nghi tình là trì kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm,… tất cả kinh và giới luật tuy chưa thọ đều cũng trì hết. Giữ được nghi tình là không hiểu không biết thì không phạm giới, gọi là thiền giới. Nếu không có nghi tình là biết thì có thể phạm giới. Tất cả công thương kỹ nghệ đều ở trong nghi tình.

Hỏi:
Trước kia, cầu siêu cho người thân thì mời quý thầy tụng kinh. Bây giờ, con tham thiền muốn cầu siêu phải làm sao?

Đáp:
Cầu siêu người thân thì nhờ tâm lực đại chúng tham thiền; do có nghi tình nên được tâm lực trong sạch rất mạnh, có thể ảnh hưởng đến tâm của người thân mà sửa đổi nghiệp, rồi tái sanh đến cõi tốt hơn.
Như Mục Kiền Liên cứu mẹ (Thanh Đề) ở cõi ngạ quỷ, nhưng không cứu được. Rồi nhờ Phật dạy pháp cúng dường trai tăng cho 1250 Tỳ Kheo A La Hán, nhờ tâm lực trong sạch nhiều người ảnh hưởng tâm bà Thanh Đề được sửa đổi nên bà thoát khỏi cõi ngạ quỷ.
Không phải do tụng kinh mà siêu được, nếu tâm người chết không sửa đổi nghiệp. Người nào tạo nghiệp thì người đó phải chịu quả báo, chứ không ai thay thế được. Như ai ăn cơm thì người ấy no. Cho nên, mình cần thật tế, không cần hình thức bên ngoài.

Hỏi:
Người già yếu tinh thần không minh mẩn tu Tổ Sư thiền cần điều kiện gì khác để cho họ khỏi lạc lối tẻ?

Đáp:
Không có gì khác! Con nít 6, 7 tuổi đều tham thiền được, bà già 90 tuổi cũng tham thiền được là hỏi và nhìn. Mấy năm trước có đứa bé 3 tuổi tham thiền, các người Canada thấy vậy phục nó. Ngày xưa, có vua, thừa tướng, bộ trưởng đều kiến tánh.

Hỏi:
Tâm ở ngoài thân hay ở trong thân?

Đáp:
Nếu tâm ở ngoài thân hay ở trong thân thì không phải. Tâm như hư không vô sở hữu dung nạp và ứng dụng tất cả. Như chỗ quỳ của ông, nếu không trống rỗng vô sở hữu thì ông không thể quỳ được. Bây giờ, mình nói chuyện hay nhìn thấy với nhau đều cũng nhờ vô sở hữu.

Hỏi:
Bất cấu bất tịnh là gì?

Đáp:
Bất cấu bất tịnh thì tương đối là bề trái. Bề mặt là hư không vô sở hữu không thể dùng lời nói văn tự để diễn tả, cho nên phải tự ngộ. Vì lục căn không thể tiếp xúc, diễn tả được là bề trái. Tương đối như: Bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, hữu vô,…

Hỏi:
Trong chiêm bao, con thấy Phật bà Quan Âm dùng nước cam lồ rưới đầu chúng sanh. Việc ấy như thế nào?

Đáp:
Nói Phật bà Quan Âm là sai lầm, Quan Thế Âm Bồ Tát không phải là người nữ, Phật cũng không có người nữ. Người nói như vậy là không biết Phật pháp.
Có một người Quãng bị bệnh, chiêm bao thấy Quan thế Âm Bồ Tát cho thuốc uống, rồi kể lại tôi nghe. Tôi nói: Mỗi người đều có Phật tánh, cũng là tự tánh Quan Âm. Nếu mình trông đợi Quan Âm Bồ Tát cứu mình, không bằng mình làm Quan Âm Bồ tát cứu người. Rồi người ấy cũng hiểu.
Vì Quan Âm Bồ Tát với cõi Ta Bà có nhân duyên, nên chùa nào cũng có tượng Quan Âm. Người nằm chiêm bao thấy Quan Âm Bồ Tát thì cũng có duyên. Phật và Bồ Tát thì không có nam nữ, đừng theo thế tục mà nói Phật và Bồ Tát là ông bà.
Có chiêm bao là do tâm mình tạo, ban đêm tâm tạo là nhắm mắt chiêm bao, ban ngày tâm tạo là mở mắt chiêm bao. Hiện giờ, mình đang ở trong mở mắt chiêm bao. Đến chừng kiến tánh thì trong mở mắt chiêm bao thức tỉnh, rời khỏi chiêm bao được sanh tử tự do.
Mở mắt chiêm bao không có thật, huống là nhắm mắt chiêm bao! Nhắm mắt chiêm bao và mở mắt chiêm bao đều do tâm tạo. Cho nên, Phật nói: “Tất cả đều do tâm tạo”, cũng gọi là “Vạn Pháp do tâm biến hiện”. Thân mình gọi là chánh báo, hoàn cảnh giàu nghèo mình sanh sống gọi là y báo. Y báo là kiếp trước tạo nên bây giờ có nghiệp quả.

Hỏi:
Người ta nhờ đem bia cho họ, vậy có phạm giới không?

Đáp:
Nếu thọ giới Bồ Tát thì phạm, không thọ giới Bồ Tát thì không phạm; vì giới Bồ Tát cấm bán rượu. Thọ ngũ giới, nếu uống rượu thì phạm; bán rượu không phạm. Giới Bồ Tát bán rượu là tội nặng, uống rượu là tội nhẹ. Các vị thọ ngũ giới không thọ giới Bồ Tát thì cấm uống, không có cấm bán.

Hỏi:
Tham thiền chưa thuần thục, tự động bỏ câu thoại, lại chỉ nhìn. Vậy có được không?

Đáp:
Không được! Đến thoại đầu thì câu thoại tự mất, nếu chưa đến thoại đầu thì phải hỏi và nhìn song song; chứ không được ngưng hỏi, vì người đó tự làm tày khôn. Đó là tập khí phiền não của con người từ lâu đời. Như có người hy sinh thân mạng, chứ không chịu bỏ kiến giải của mình.
Kiến giải tuy cao nhưng vẫn là kiến giải, không phải thật tế; thật tế là phải quét sạch kiến giải. Nếu chấp kiến giải càng cao thì cách thật tế càng xa. Nói ra giống thì giống, phải thì chẳng phải. Vì bậc trí thức thích kiến giải, như thiền Nhật Bản hay thiền Đại Hàn đều là kiến giải. Cho nên, họ không bao giờ kiến tánh.

Hỏi:
“Không được kiến lập vô sở hữu”. Vậy trả lời thế nào không kiến lập?

Đáp:
Bất cứ cái gì đều không được kiến lập, vì đã có sẵn. Phật nói là “vô thỉ”. Chư Phật chư Tổ chỉ kiến lập tạm thời, nếu không kiến lập thì không có pháp gì để nói. Như không có tam thừa mà nói có tam thừa, không có Phật mà kiến lập Phật; đến chừng kiến tánh thì biết là không có Phật để thành. Phật nghĩa là giác ngộ, giác ngộ là do mê mới có. Nếu đã giác ngộ thì hết mê nên không còn ngộ. Cho nên, Thiền tông nói “ngộ rồi đồng như chưa ngộ”. Vì không có mê để đối đãi.
Kinh Kim Cang ví dụ: “Như chiếc bè qua sông thì phải bỏ bè”, nếu còn lưu luyến chiếc bè là không được. Lấy hư không vô sở hữu để thí dụ, nhưng thật tế không lấy gì để thí dụ được. Cho nên, cần phải tự ngộ, chứ không phải dùng lời nói. Dùng lời nói là cho người ta hiểu phần nào để tăng cường niềm tin tự tâm. Vì vậy mới có kiến lập văn tự lời nói, nhưng không chấp vào văn tự lời nói, gọi là bất lập văn tự.
Nếu chấp vào “bất lập” là không nói được, thì Lục Tổ nói “2 chữ bất lập cũng là văn tự vậy”. Đem giải thích nghĩa lý là rất mâu thuẩn, vì tất cả nghĩa lý thuộc sản phẩm của bộ óc. Cho nên, đến chỗ thật tế thì không kiến lập nghĩa lý, mới gọi là vô thỉ vô sanh. Có kiến lập là có sanh có bắt đầu. Vốn là vô sanh nên chứng đạo, gọi là ngộ pháp vô sanh, chứng vô sanh pháp nhẫn.
Dùng bộ óc để truy cứu lý cùng tột, nhưng không đúng với thật tế. Khi bộ óc biến thành tro đất thì sản phẩm của bộ óc cũng không còn. Tự tánh không thể biến thành tro đất, vì không phải là sản phẩm của bộ óc. Không thể nói là vô sở hữu hay nói là sở hữu.

Hỏi:
Nghĩa ba câu kinh Kim Cang hiển bày nội dung kinh Kim Cang, hay nội dung kinh Kim Cang hiển bày nghĩa ba câu kinh Kim Cang?

Đáp:
Nghĩa ba câu không những hiển bày kinh Kim Cang, mà hiển bày tất cả kinh Phật; hiển bày vạn vật vũ trụ, tức là công thương kỹ nghệ đều không ngoài nghĩa ba câu này.
Như Phật nói “tách, tức phi tách, thị danh tách”, “bình, tức phi bình, thị danh bình”, “Tam bảo, tức phi Tam Bảo, thị danh Tam Bảo”, “vô sở hữu, tức phi vô sở hữu, thị danh vô sở hữu” đều là nghĩa ba câu, chứ không phải chỉ kinh Kim Cang là nghĩa ba câu.
Cho nên, thấu nghĩa ba câu thì tất cả đều thấu. Không có nghĩa nào cao tột, có cao thấp là tương đối; không phải thật tế. Chỗ thật tế là bất nhị, gọi là vô duyên tri (không có nhân duyên đối đãi).

Hỏi:
Làm sao biết tiểu nghi tiểu ngộ, đại nghi đại ngộ?

Đáp:
Nếu ngộ rồi mà còn ôm cảnh giới ngộ cho mình ngộ thì gọi là tiểu ngộ, tức là cho ta ngộ thì còn mê. Như A La Hán, Bích Chi Phật đều thuộc về tiểu ngộ.
Ngộ rồi luôn cảnh giới ngộ không còn gọi là đại ngộ. Đại ngộ là ngộ rồi đồng như chưa ngộ. Vì ngộ đối với mê, ngộ triệt để thì hết mê nên không còn ngộ nữa. Vì vậy, mê ngộ đều sạch.

Hỏi:
Tâm mình ứng dụng mà không biết, vậy lúc ngủ thì tâm ở đâu?

Đáp:
Nếu tâm ở đâu thì không cùng khắp không gian. Vì tâm cùng khắp không gian chẳng có khứ lai, gọi là Như Lai. Khắp thời gian không có gián đoạn, gọi là Niết Bàn. Cùng khắp không gian thì không có chỗ để chỉ; cùng khắp thời gian thì không có lúc để chỉ. Vậy không thể nói là ở đâu!
Nhớ với quên đều là sản phẩm của bộ óc, vì có nhớ nên có quên. Nhớ không thể thành lập thì quên làm sao thành lập được? Nhớ với quên là tương đối. Kiến tánh là tất cả sản phẩm của bộ óc đều sạch, không có sự nhớ và quên.

Hỏi:
Thế nào là hành khởi giải tuyệt?

Đáp:
Giải là kiến giải phải cắt tuyệt, vì tin tự tâm chưa đầy đủ; cho nên phải tìm hiểu. Còn tìm hiểu là còn kiến giải, nếu thực hành đúng là hành khởi giải tuyệt.

#35 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 28/08/2011 - 11:07

Hoà Thượng DUY LỰC Khai thị
CUỐI CÙNG TẠI VIỆT NAM
TT. Thích Đồng Thường Biên Tập Thành Văn Tự
LỜI NÓI ĐẦU


Trong quyển sách này là lời khai thị những ngày cuối cùng ở Việt Nam của Hòa thượng Thích Duy Lực, nên mới đặt tên “Khai Thị Cuối Cùng Tại Việt Nam”.

Hòa thượng giảng-đáp thắc mắc Thiền Học cho các giảng sư ở các tỉnh miền Trung, miền Đông, miền Tây và cá vị tham dự Thiền thất tại chùa Hưng Phước.

Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam. Vì phục hưng Thiền này, mà ngài không ngại gian lao khai thị người tham học suốt 22 năm.

Chúng tôi cố gắng chép thành văn tự trong các cuốn băng, để các vị chưa nghe được biết, rồi tin tự tâm mình là Phật, mà dùng nghi tình phát huy Phật của chính mình ra ứng dụng.

Việc làm này không sao tránh khỏi sự sơ sót, xin các vị biết chỉ giáo cho.

Người thực hiện: Thích Đồng Thường.

Khai thị Thiền thất ngày 19-3 =>25-3-1999 tại chùa Hưng Phước.
Vì muốn hoằng pháp ở tây phương, nên mới dùng những danh từ khoa học, người tây phương dễ chấp nhận. Thật tế, Phật pháp là thực dụng hằng ngày. Khoa học chỉ căn cứ có thể tích, giải thích theo sức lực của vật chất. Sức lực vật chất, mỗi thứ vật chất bất cứ cái gì, phàm có thể tích đều có từ trường, sức từ trường gọi là từ lực.

Chữ “từ” là tiếng Hán - Việt nghĩa là sức hút, giống như nam châm. Sức hút là từ lực, người phát hiện đầu tiên là Newton, khi ông ta thấy trái bôm ở trên cây rớt xuống, ông nghi tại sao trái bôm rớt xuống mà không rơi lên? Ông mới ngộ được hấp dẫn lực của quả đất, rồi từ đó phát hiện hấp dẫn lực của vạn hữu, tức là tất cả các vật chất vật thể đều có từ trường.

Tổng quát nguồn gốc của Phật pháp bắt đầu chỗ từ lực tức là bắt đầu chỗ Newton.

- Mọi sinh hoạt văn minh của nhân loại, vạn tượng sum la bao gồm giáo dục, chính trị, văn hóa, kinh tế, y học… đều nhắm chung mục đích là mong cầu hạnh phúc cho con người.

Cho đến nay, khoa học kỹ thuật đã đóng vai trò dẫn đầu trong việc thực hiện mưu cầu này. Nhưng chưa thành công. Vì căn bản mọi ngành, mọi môn khoa học, chỉ lợi dụng những năng lượng phát ra từ vật chất nên vĩnh viễn bị thời gian, không gian hạn chế.

Nay chỉ còn một năm nữa là chúng ta bước vào thế kỷ XXI. Nếu muốn từ hữu hạn tiến đến vô hạn thì chúng ta nên chú tâm đến một nguồn năng lượng khác, là nguồn năng lượng phát ra từ phi vật chất.

Trong bài này, các vấn đề lực học Newton, lực học Einstein và lực học của Thích Ca Mâu Ni sẽ lần lượt đề cập để chúng ta cùng nhau tham khảo.
Rất mong được nhận ý kiến đóng góp của quý vị độc giả đồng bước tiến vào thế kỷ XXI.

Kết luận của Vũ Trụ Quan:

- Muốn kiến lập lý luận từ tương đối đến tuyệt đối, trước tiên phải bắt đầu từ lực học Newton đến lực học Einstein. Nếu giả thuyết tốc độ vận động của vật chất từ 0 đến 100, thì Newton từ 0 đến 50, thuộc thuận hành tính bất biến; còn Einstein thì 0 đến 50, rồi lại tiến thêm từ 50 đến 100, thuộc tính khả biến và chuyển đổi lẫn nhau; còn lực học của Thích Ca Mâu Ni chẳng những từ 0 đến 100, lại từ 100 đến 200, đến 300… cho đến vô cùng tận.

Tóm lại, quan điểm của nhà khoa học chỉ có khả năng quan sát những sự vật tương đối trong vũ trụ. Vì vạn sự vạn vật đều chẳng thể mỗi mỗi tự độc lập, cần phải nhờ nhân duyên tương đối mà thành: Như gà sanh trứng, trứng sanh gà. Như âm dương tương đối, hút đẩy tương đối, đồng tính thì chống nhau, khác tính thì hút nhau, khi hấp lực lớn đến mức độ “N” thì tốc độ ánh sáng có thể bị hấp lực nuốt mất.
Vạn vật trong vũ trụ hoại nhau mà giúp nhau và ăn nuốt lẫn nhau, đã thống nhất, lại mâu thuẫn, biến hóa chẳng định, lại chẳng thể tăng giảm. Như nước có thể diệt lửa, nhưng nếu đem nước phân tích thành hai thứ khí thể H,O, thì trở lại thành lửa, H có thể tự cháy, O có thể giúp cho sự cháy. Dù hoại nhau, thành nhau, mà cùng tồn tại bất diệt.

Chúng ta ở trong hoàn cảnh vạn tượng sum la lăng xăng, phức tạp, nhiễu loạn chẳng ngừng này, mỗi mỗi vì dục vọng của bản thân mà cạnh tranh lẫn nhau, từ đao kiếm súng ống, chiến tranh kinh tế, từ chiến tranh lạnh đến chiến tranh nóng, và từ chiến tranh nóng qua chiến tranh lạnh; từ chiến tranh cá nhân với cá nhân, cho đến chiến tranh quần thể với quần thể. Thiên tai nhân họa tranh nhau mà đến.

Xưa kia còn tưởng thiên tai là việc không thể đối phó được, nhưng hiện nay mới phát hiện thiên tai cũng là do nhân họa tạo thành. Chúng ta ở trong hoàn cảnh thiên tai nhân họa tranh nhau ùn đến chẳng ngừng này, đâu thể hưởng thụ cuộc sống hạnh phúc. Tại sao con người một mặt tạo ra tai nạn, một mặt thì kêu gọi đóng góp để cứu nạn, thực là mâu thuẫn tức cười. Cho nên Đức Phật nói “Tất cả do tâm tạo” là vậy.

Nếu chúng ta chịu nương theo sự chỉ dạy của Đức Phật về phương cách cuộc sống, thì hạnh phúc ở nơi trước mắt, chớ chẳng cần tìm cầu. Nói một cách khác, tức là “vô vi mà vô sở bất vi”. Nói vô vi là giữ cái tâm này chẳng sanh khởi hai chữ “cho là” (chấp thật) mà thôi. Việc này dù xem rất đơn giản, nhưng thực tại thì khó làm được. Đó là vì tập khí của chúng ta, lúc đối cảnh ắt phải khởi tâm động niệm, nhất định phải dùng “cho là” để lạc vào tương đối, rồi từ đó thị phi tốt xấu ùn lên, và phiền não cũng theo đó mà đến. Lực học của Thích Ca Mâu Ni chỉ là như thế, như thế.

Đã vì đói khát mà ăn uống thì cứ ăn uống, chẳng nghĩ cái khác, đã vì che thân chống lạnh mà mặc áo thì cứ mặc áo, chẳng nghĩ cái khác, mỗi mỗi chức nghiệp phải đúng vị trí của nó, chẳng nghĩ cái khác. Vậy thì, cha giữ đúng vai trò của cha; mẹ giữ đúng vai trò của mẹ; con cái giữ đúng vai trò của con cái; chồng giữ đúng vai trò của chồng; vợ giữ đúng vai trò của vợ… tất cả đều giữ đúng vai trò của mình, làm tròn bổn phận, an cư lạc nghiệp thì tự nhiên mọi người đều được an lạc hạnh phúc, thiên hạ thái bình.

Ghi chú: Vai trò.

Nghĩa là tùy theo truyền thống xưa nay của mỗi dân tộc và nhà nước, phong tục, tập quán, pháp luật khác nhau thì vai trò cũng theo đó khác nhau, như truyền thống Việt Nam, Trung Quốc, truyền thống Mỹ… mỗi mỗi đều khác nhau là vậy.


Phật pháp là hiển bày tâm của mọi người. Người ta hiểu lầm tâm là bộ óc. Nếu qua bộ óc thì gọi là vọng tâm, không phải là chân tâm. Bộ óc là vật chất, hệ thống thần kinh, lục căn đều là vật chất; còn chân tâm không phải là vật chất, lìa vật chất. Bây giờ người ta chỉ biết danh từ là tâm, ai cũng nói được, tại vì tâm chỉ một danh từ. Nhưng mà tâm là cái gì không có ai biết? Kỳ thật, chân tâm không có thể tích. Mặc dầu, Phật nói tâm như hư không, người ta cũng không thể tưởng tượng được.

Cho nên, Ngài Long Thọ là Tổ 14 của Thiền tông giải thích kỹ, dùng hư không vô sở hữu để thí dụ chân tâm của tất cả chúng sanh. Vì nó không có thể tích, là trống rỗng; trống rỗng là vô sở hữu tức là không có, nó không có mà nó thực dụng, cũng như hư không trống rỗng chẳng có cái gì, nhưng mà tất cả đều phải nhờ cái trống rỗng này dung nạp và ứng dụng.

Theo mình biết đất đai, nhà cửa, cây cối, bất cứ cái gì đều cũng nhờ cái vô sở hữu này dung nạp và ứng dụng; cho đến bây giờ cũng nhờ không gian vô sở hữu này, quý vị mới nghe được tôi giảng; quý vị nhìn thấy nhau cũng phải nhờ không gian vô sở hữu mới nhìn thấy nhau được. Cuộc sống hằng ngày, nói năng tiếp khách cũng đều nhờ không gian vô sở hữu này, mình mới có cuộc sống rồi mới phát huy được.

Nhưng chỉ tiếc mình ứng dụng hằng ngày mà chẳng tự biết, còn tưởng là có cái Phật pháp riêng biệt, mấy cái danh từ để cho mình đi tìm hiểu như là: Bồ Đề, Niết Bàn, giải thoát, Như Lai,…

Kỳ thật, nó trống rỗng vô sở hữu thì không có chỗ để trói buộc gọi là giải thoát, đâu phải bị buộc rồi mở trói mới là giải thoát! Vì trống rỗng thì tự nhiên nó khắp hư không, thì không có khứ lai, nên mới gọi là Như Lai, đúng như bản lai. Tại khắp không gian thì tự nhiên phải khắp thời gian, khắp thời gian thì không gián đoạn sanh diệt, nên gọi là Niết Bàn. Niết Bàn là tiếng Ấn Độ nghĩa là bất sanh bất diệt.

Tâm của mọi người có tánh giác ngộ là Phật, nên mới gọi tên Phật tánh. Vì trống rỗng vô sở hữu gọi là Tánh không. Tánh không này không phải là cái không chết mà có cái biết. Nếu không có cái biết thì ai biết có thực dụng! Cái biết cao nhất mà Phật pháp gọi là Diệu Giác. Còn cái biết của bộ não gọi là vọng giác thì không phải là thực tế, mà lại che khuất thực tế.

Nhưng bây giờ nhà khoa học tin bộ não trở thành thói quen. Như nhà khoa học dạy toán ở trường đại học Luân Đôn danh tiếng khắp thế giới; ông ấy bị bệnh cơ bắp rút nên phải ngồi xe lăn, miệng không nói ra tiếng, phải qua cái máy mới ra tiếng, người nào học khoa học thì biết. Ông ấy là giáo sư giỏi toán, nhưng lại nghịch với định lý toán.

Tại sao? Người học toán đều biết không có con số nhỏ nhất, tức là không thể bắt đầu, mà nhà khoa học ấy lại tìm sự bắt đầu của vũ trụ. Ông đề ra câu hỏi: Vũ trụ có bắt đầu chăng? Và tìm sự bắt đầu của sanh mạng, ông lại đề ra câu hỏi: Con gà có trước hay trứng gà có trước?

Kỳ thật, ông dạy toán, định lý của toán là không có sự bắt đầu, mà tìm sự bắt đầu thì không thể được. Vì vậy, Phật nói “bất khả đắc” gọi là vô thỉ (không bắt đầu), không có bắt đầu thì không có cuối cùng, nên theo toán học không có con số nào là lớn nhất và không có con số nào nhỏ nhất. Nếu có số lớn nhất tức là có cuối cùng, có số nhỏ nhất tức là có bắt đầu.

Ông là nhà khoa học danh tiếng nhất thế giới, là giáo sư giỏi toán, người trên thế giới ai cũng tôn sùng, mà ông lại nghịch với định lý toán, vì muốn tìm sự bắt đầu của vũ trụ và sanh mạng! Nếu theo lực học của Thích Ca Mâu Ni gọi đó là si mê. Nhưng bây giờ gọi nhà khoa học si mê có ai chịu đâu?

Kỹ thuật khoa học thì dẫn đầu để tạo hạnh phúc cho con người, nhưng tạo hoài mà cái khổ vẫn nhiều thêm; cũng như y học tiến bộ thì vi trùng càng phát triển nhanh hơn y học. Còn khoa học tiến bộ thì nguyên tử giết người nhanh hơn nhiều lần.

Theo lực học của Newton thì 0 đến 50 thuộc tánh thuận hành bất biến, lúc thời Newton chưa có xe hơi và máy bay. Còn đến Einstein không những từ 0 đến 50, lại từ 50 đến 100 thuộc tánh khả biến, chuyển đổi lẫn nhau. Làm sao chuyển đổi? Như bây giờ nhà khoa học biết thể tích nhỏ chừng nào thì từ lực mạnh chừng nấy.

Nay nhà khoa học phát hiện nhỏ nhất là quang tử, tức là tổ chức thành ánh sáng, nên tốc độ ánh sáng cao nhất, mỗi giây đi 300.000 cây số. Nhưng họ còn nói vật chất có thể biến thành năng lượng (không phải vật chất), năng lượng cũng có thể biến thành vật chất, nó chuyển đổi lẫn nhau. Mặc dầu, nó chuyển đổi lẫn nhau, nhưng nó phải có vật chất mới chuyển đổi thành năng lượng được, chứ không phải nó lìa được vật chất.

Lực học của Thích Ca Mâu Ni khỏi cần vật chất tức lìa vật chất là năng lượng tâm của mọi người. Nhà thiên văn dùng tốc độ ánh sáng để tính khoảng cách của không gian, như ánh sáng đi một năm đến thì khoảng cách đó gọi là một quang niên, ánh sáng đi 10 năm đến thì khoảng cách đó gọi là 10 quang niên, mà ánh sáng đi 10 năm đến thì tâm mình chỉ 1 niệm đến, ánh sáng đi 1 triệu năm đến thì tâm mình cũng 1 niệm đến.

Tại sao? Vì nó không phải vật chất, không bị không gian và thời gian hạn chế. Nó luôn luôn khắp không gian và khắp thời gian. Nhưng người ta không tin, kể cả nhà khoa học cũng không tin.


Nguồn gốc của Phật pháp:

Thân thể của Trí Bát Nhã, có người gọi là Phật tánh, Tâm Chân như, Diệu tâm. Bản thể của nó là Tri, mà dụng của nó cũng là Tri. Tất cả mọi người trên thế gian, tất cả chúng sanh cho đến vạn vật trong vũ trụ đều là vật sở tri của nó. Nhưng mà tất cả người, tất cả chư Phật đều chẳng thể biết được nó, vì nó chẳng thuộc về sở tri. Cho nên nó vĩnh viễn không thể bị ai phát hiện được (luôn cả Phật), vì nếu nó đã bị phát hiện thì thành sở tri rồi.

Điều này ở trên thế gian thật là kỳ diệu lại thêm kỳ diệu. Nhưng theo lý toán học mà suy luận thì cũng chẳng phải kỳ diệu.

Theo một cuốn sách toán học ở Hồng Kông xuất bản nói: Có con sâu dép cỏ (Paranaccium) là động vật rất nhỏ, cứ mỗi một ngày đêm thì nứt ra thành hai, từ đời thứ 1 đến đời 90 thì thể tích của nó bằng một mét khối (m3). Đến đời 130 thì thể tích của nó bằng quả địa cầu.

Nếu đảo ngược lại đem quả địa cầu xẻ 2, xẻ 4, xẻ 8, cứ tiếp tục xẻ qua 130 lần thì trở lại bằng con sâu dép cỏ.

Theo lý này suy luận, nếu đem con sâu dép cỏ xẻ thêm 1 lần 130 nữa thì đơn vị thịt của con sâu dép cỏ, do con số biểu thị kia có còn thấy được chăng? Nếu đem nó xẻ thêm 10 lần 130, cho đến trăm ngàn lần 130, thì con số vẫn có thể biểu thị được đơn vị thịt của con sâu đó, nhưng thực tế thịt của con sâu đó chúng ta còn cảm nhận được không?

Căn cứ theo toán học, nếu đem 1 con sâu làm đơn vị 1, trước 1 đó thêm một số 0 thì thành 0.1, thêm số 0 nữa thì thành 0.01, cứ theo đó mà suy, tiếp vẽ thêm số 0 cho đến dài bằng vòng quanh một quả đất, rồi 2 quả đất, 3 quả đất… thì vĩnh viễn vô cùng tận. Giả sử khoa học kỹ thuật cải tiến kính hiển vi tốc độ còn nhanh hơn vẽ số 0 thì có thể phát hiện được đơn vị thịt của con sâu đó. Nhưng đơn vị ấy thực sự chưa phải là thực tế, vì con sâu còn có thể phân chia mãi mãi vô cùng cho đến vô cùng.

Việc này Phật Thích Ca gọi là bất khả đắc, cũng nghĩa là vô thủy vô sanh.

Trong Kinh Lăng Già, Phật nhắc đi nhắc lại với chúng sanh: Cần phải xa lìa “tự tâm hiện lượng”, bởi vì cái năng hiện của tự tâm là Tri và Kiến, sở hiện của nó là Hữu và Vô đều thuộc về sản phẩm của bộ não, nên Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tri kiến lập tri tức vô minh bổn”. Tri kiến là năng lập, hữu vô là sở lập. Khi bộ não biến thành tro biến thành đất rồi thì cái bất khả đắc của bản trụ đâu có thể theo bộ não mà biến thành tro thành đất ư?

Theo lời Thế Tôn nói: Bất khả đắc gọi là bất sanh, bất khả biến gọi là bất diệt. Cái pháp bất sanh bất diệt này tức là bản thể của thực tướng vậy!


Như ở trên các vị cũng biết, theo môn toán học, nếu đem số “0.” thêm trước con số đó thì nhỏ hơn 10 lần, đem số 0 để sau “0.” thì nhỏ thêm 10 lần, cứ thế thêm vô cùng tận bằng 1 quả đất, 2 quả đất, có thể thêm mãi không thể cuối cùng được. Thêm mãi thì nó càng nhỏ, nhưng cũng còn có con số. Đơn vị của con sâu đó đã vốn là nhỏ rồi, mà chia mãi rất nhỏ mình không có thể tưởng tượng, rồi cũng có thể chia được nữa.

Như bây giờ con mắt của mình không thấy thì phải nhờ kính hiển vi, nếu kính hiển vi 1 ngàn lần không thấy thì phải 10 ngàn lần, 10 ngàn lần không thấy thì 1 triệu lần, 1 triệu lần không thấy thì 10 triệu lần. Giả sử khoa học cải tiến nhanh hơn mình vẽ số 0 cũng không phát hiện con số nhỏ nhất được. Vì định lý của toán không có con số nhỏ nhất. Cho nên, Phật nói: “Vô thủy vô sanh”. Vì có sanh thì có bắt đầu, có bắt đầu là có thủy chứ không phải là vô thủy. Không có bắt đầu mà tìm sự bắt đầu có phải là si mê không? Vì thói quen đã tin bộ não nên lìa bộ não thì không biết.

Vậy, họ nghịch với định lý toán học mà còn không biết! Nhà khoa học hạng nhất thế giới còn không biết, huống là những người học, học đến đại học, học đến nghiên cứu viện thì đâu có hơn nhà khoa học ấy!

Bây giờ mình cũng có cái sức đó, như ánh sáng đi 10 triệu năm đến, mà tâm của mình chỉ có 1 niệm đến. Mình có sức đó nhưng không tin, không tin là không chịu nghe theo lời dạy của Phật Thích Ca dẹp bớt những cái che khuất để sức dụng của chân tâm hiện ra. Che khuất chân tâm là cái gì? Ví dụ sức dụng của chân tâm là ánh sáng mặt trời, che khuất là mây đen.

Tham thiền là hỏi câu thoại để kích thích niệm không biết, nhìn là giữ niệm không biết. Tức là Phật Thích Ca dùng không biết của bộ óc để chấm dứt tất cả biết của bộ óc. Vì biết của bộ óc là mây đen che khuất ánh sáng mặt trời, sức của tâm mình là ánh sáng mặt trời. Tham thiền cũng như gió thổi tan mây đen; nếu mình thổi được lỗ nhỏ, ánh sáng mặt trời từ lỗ nhỏ xuyên qua thì mình dùng được.

Lúc dùng được thì bộ não không biết, tức là tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ đều chấm dứt, nên mới dùng được. Mặc dầu, cuộc sống hằng ngày mình phải dùng bộ não để ứng phó, trong lúc ấy thì bộ não đã không biết rồi, nhưng sức của tâm mình sẽ thay bộ não làm xong công việc của bộ não. Người đời không biết tưởng là thần thông, nhưng sự thật thì không phải, tất cả ai cũng sẵn sàng có sức đó, chỉ do cái biết của bộ não che khuất nên nó không hiện ra mà thôi.

Phần nhiều là cái biết của bộ não che khuất, phần ít cái không biết của bộ não che khuất. Cho nên, người tham thiền đến giờ phút kiến tánh thì biết và không biết của bộ não đều sạch hết, cái biết chân tâm (Diệu Giác) hiện lên khắp không gian và khắp thời gian. Tức là sự hiểu biết không có chỗ nào thiếu sót. Khắp không gian thì không có chỗ thiếu sót, khắp thời gian thì không có lúc thiếu sót.

Nói về thời gian, lúc mình ngủ mê không biết, lúc chết giấc không biết, lúc thật chết không biết. Còn cái biết của bản tâm thì ngủ mê vẫn biết, chết giấc vẫn biết, thật chết vẫn biết. Nếu thật chết mà không biết thì cái biết của bản tâm bị gián đoạn, không phải cùng khắp thời gian. Nó sẵn là vậy, vì do bộ não che khuất, thành ra chỉ dùng cái biết của bộ não, chứ không dùng cái biết của chân tâm được. Muốn dùng cái biết chân tâm phải dẹp những cái che khuất.

Theo định lực của Einstein: Vật chất nhỏ tới không có thể tích thì không bị chướng ngại, tức là sức phát từ phi vật chất (sức của bản tâm mình). Dùng sức của bản tâm khỏi cần tới khi kiến tánh, như vừa rồi tôi nói “thổi ra lỗ nhỏ thì hiện ra sức dùng của lỗ nhỏ, thổi ra lỗ lớn thì hiện ra sức dùng của lỗ lớn”.

Như tham thiền là chấm dứt cái biết của bộ não phần nào thì hiện ra sức dùng của tâm chừng nấy, nếu ngưng tham thiền thì cái biết sẽ trở lại, nên sức dùng của tâm không còn nữa. Tôi giảng Vũ Trụ Quan Thế Kỷ XXI là để tăng cường tin tự tâm mình có cái sức gọi là từ lực. Vì tất cả vật chất gì đều có từ lực, cũng gọi là hấp dẫn lực. Hấp dẫn lực thường thường nó xoay tròn, cho nên người ta bắn vệ tinh rồi cũng tự nhiên nó xoay theo quỷ đạo.

Cho nên, mình tham thiền do Phật Thích Ca dạy “hỏi và nhìn”, hỏi là kích thích niệm không biết, nhìn là giữ niệm không biết và kéo dài niệm không biết thì chấm dứt tìm hiểu biết, suy nghĩ biết và ghi nhớ biết của bộ não, 3 cái biết chấm dứt rồi thì hiện ra năng lực của chân tâm, trong Vũ Trụ Quan có nói vấn đề này.

Cái bản thể chẳng thể thấy mà không hợp logic kia, cần phải nhờ tâm lực cá nhân của chúng ta sẵn có mới có thể chứng minh:

Khi chúng ta y theo pháp thiền trực tiếp “Tổ Sư Thiền” do Phật Thích Ca truyền dạy, thực hành đến trình độ N, tức là đạt đến giai đoạn “tự động hóa” được một khoảng thời gian, khiến ba thứ biết: Tìm hiểu, tư duy, ghi nhớ được tạm ngưng, nghĩa là bộ não ngưng hoạt động thì phát huy được cái công năng sẵn có, chẳng dùng bộ não mà hoàn thành công tác của bộ não chẳng thể làm. Khi ngưng hoạt động của bộ não càng lâu, thì độ thiền càng sâu, cái công năng tự phát ra lại càng lớn.

Nếu mình tin có công năng đó, rồi cứ hỏi và nhìn. Như hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?”, cảm thấy không biết, nhìn chỗ không biết, chỗ không biết thì không có chỗ, không có chỗ thì không có mục tiêu để nhìn, nên nhìn mãi không thấy gì vẫn còn không biết, chính cái vẫn còn không biết này gọi là nghi tình, cứ hỏi và nhìn đi song song để giữ nghi tình thì sẽ đưa hành giả đến chỗ kiến tánh thành Phật.

Con nít 6, 7 tuổi đều tham thiền được, người già 6, 7 chục tuổi cũng tham thiền được, ai cũng tham thiền được hết, chỉ cần hỏi và nhìn. Bất cứ câu thoại đầu nào đều có mục đích là kích thích cái niệm không biết, khán là nhìn chỗ không biết, chỉ nhìn thầm và hỏi thầm, hai cái không có trước sau.

Hỏi:
Con đề câu thoại đầu lên, không biết có nghi tình hay không. Kính xin Sư Phụ chỉ dạy?

Đáp:
Ông lại đây để tôi hỏi: Khi chưa có trời đất Ông là cái gì?

- Ông ấy trả lời: Không biết.

- Không biết như vậy là có nghi tình rồi! Chỉ cần cái không biết, biết là không phải. Nếu biết là cái biết của bộ não, vì bây giờ thì người ta nghịch lại, cứ dùng cái biết của bộ não để tìm cái nghi tình, thành ra không có nghi tình. Tại nghi tình là không biết mà! Dùng cái biết của bộ não để tìm hiểu thì bộ não biết nên không phải tham thiền rồi. Vì tham thiền là bộ não không biết mới gọi là nghi tình.

Vừa rồi nói “Phật Thích Ca còn không biết nó”, nếu biết nó thì nó thành sở tri rồi, vì nó vốn không phải là sở tri, tức là không có năng sở đối đãi. Tất cả vũ trụ vạn vật, bất cứ cái gì đều là sở tri của nó, nhưng chính nó không phải là sở tri. Tại không thể kiến lập nên gọi là vô thủy tức là không có bắt đầu nên gọi là vô sanh nghĩa là không có sự sanh khởi. Cho nên, người chứng quả gọi là ngộ pháp vô sanh hay chứng vô sanh pháp nhẫn.

Tánh biết của bộ não hay ham biết, nên nhà khoa học còn tìm bắt đầu của vũ trụ và sanh mạng! Họ đã sai lầm nghịch với định lý toán học mà không biết!

Hỏi:
Con ngồi thiền sao vọng tưởng cứ lên hoài?

Đáp:
Tham Tổ Sư thiền không cần ngồi, có nghe Lục Tổ nói “Đạo do tâm ngộ bất tại tọa” không? Lại nói “ngồi lâu trói thân có ích lợi gì”? Bài kệ phá chấp ngồi:
Lúc sống thì ngồi mãi,
Khi chết thì nằm hoài.
Chấp giữ bộ xương thúi,
Sao lấy làm công phu?

Ngồi cách nào cũng được, vọng tưởng là biết, cứ dùng cái biết nên mới có vọng tưởng, tham thiền là giữ cái không biết làm sao vọng tưởng nổi lên được? Hỏi và nhìn khít khít thì vọng tưởng không nổi lên. Do hỏi và nhìn không liên tục, nên có kẻ hở thì vọng tưởng mới nổi lên.

Tất cả học được nhớ được đều phải quăng bỏ hết, theo Ngài Lai Quả nói “luôn cả cái bụng cũng bỏ luôn”, nếu bỏ hết nhưng còn cái bụng thì có ngày có thể chứa lại. Cho nên, tất cả trong bụng đều bỏ hết, luôn cả cái bụng cũng phải bỏ luôn. Nó không có chỗ để chứa đựng cái hiểu biết đó.

Nếu biết có nghi tình nhỏ, nghi tình lớn đều là biết thì không phải tham thiền.


- Sức của từ trường gọi là từ lực. Phàm vật chất đều có cái sức đó, bất cứ vật chất gì, theo lý luận của Einstein thì vật chất nhỏ chừng nào nên từ lực mạnh chừng nấy. Sức đó mình thí nghiệm được, nó đều xoay theo kim đồng hồ, cũng như mình muốn thử nước có độc hay không, độc nhiều hay độc ít. Tùy theo mật mã của vật thể, mình cũng có từ trường. Nó có phản ứng thích hợp hay không thích hợp, tự nó xoay.

Nó xoay theo kim đồng hồ là thích hợp tôi ăn, từ trường của nó và từ trường của tôi thích hợp với nhau. Khí huyết cơ thể của mình mạnh thì nó xuôi theo, khí huyết yếu thì nó xoay ngược. Nếu không có xoay, nó đưa ngang qua lại là bình thường.

Từ trường phát từ vật chất bị không gian thời gian hạn chế. Phật Thích Ca dạy tham thiền để dẹp những cái che khuất thì hiện ra từ trường của chân tâm mình có sức mạnh vô cùng, vì không bị thời gian không gian hạn chế. Nên tốc độ ánh sáng đi 10 triệu năm mới đến thì tâm của mình chỉ 1 niệm đến. Phải biết từ trường chân tâm của mỗi vị đều bằng nhau, chỉ là bị che khuất nhiều thì nó hiện ra ít.

Nếu dẹp bớt che khuất (tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết), dùng cái không biết làm ba thứ biết này ngưng hoạt động, một thời gian được tự động thì từ lực phát ra rất mạnh, tức là công việc mà bộ óc làm không được nhưng nó làm được, nếu bộ óc biết thì làm không được.

Từ lực chân tâm mình sẵn có bằng như chư Phật, không kém hơn chư Phật một chút. Cho nên, Phật Thích Ca truyền dạy pháp thiền trực tiếp này, đáng lẽ không có tên gọi là thiền gì. Vì Phật truyền cho Sơ Tổ, Sơ Tổ truyền cho Nhị Tổ, Nhị Tổ truyền cho Tam Tổ,… do Tổ Sư từ đời từ đời truyền xuống nên gọi là Tổ Sư Thiền.

Quý vị phải tin mình có sức đó, nếu chịu y theo lời dạy của Phật Thích Ca, chỉ cần hỏi và nhìn để giữ cái không biết tức là nhờ cái không biết của bộ não để dẹp cái biết của bộ não, đến lúc tự động hóa nó tạm ngưng một thời gian thì cái sức đó tự động phát ra là dùng được.

Bất cứ vật thể gì đều có từ lực, người phát hiện đầu tiên là Newton. Newton không bằng Einstein, lực học Einstein không bằng lực học của Thích Ca Mâu Ni. Lực học của Thích Ca Mâu Ni không có hạn chế, vì không phát từ vật chất mà phát từ phi vật chất. Còn lực học của Einstein tiến bộ hơn Newton nhưng cũng phát từ vật chất. Mặc dầu, thuyết của Ông là vật chất cũng có thể biến thành năng lượng, năng lượng thì không phải vật chất, nhưng cũng phải từ vật chất chuyển đổi mới được.

Lực học của Thích Ca Mâu Ni khỏi cần vật chất mà biến đổi, nên không bị không gian thời gian hạn chế. Nhiều người dùng cái biết của bộ não tìm hiểu nghi tình là sai lầm lớn. Tổ Sư Thiền là dùng cái không biết của bộ não để chấm dứt cái biết của bộ não làm cho bộ não ngưng hoạt động. Bây giờ không những không chịu chấm dứt mà lại kéo dài tìm hiểu để tìm hiểu nghi tình cho là phải có nghi tình mới được! Nếu mình biết có cũng là biết, biết không có cũng là biết, biết nghi tình nhỏ cũng là biết, biết nghi tình lớn cũng là biết, biết thì không phải tham thiền, biết là che khuất chân tâm.

Tôi giải đáp là không cho hiểu thêm cái lý gì hết! Tất cả có giáo lý là do bộ não, tức là do ý thức phân biệt nên có cái lý, còn thực tế thì không kiến lập cái lý, vì kiến lập cái lý thì phải tương đối, phải hợp lý với bất hợp lý, đúng lý với không đúng lý.

Hỏi:
Môn học khí công khi luyện đến một mức độ nào đó thì sẽ phát một số công năng đặc dị và tham thiền cũng phát được một số công năng đặc dị. Vậy môn khí công và tham thiền có liên quan gì không?

Đáp:
Khí công phát ra cũng từ vật chất, mà vật chất là cơ thể. Nó có thể từ lục căn, lục căn cũng là vật chất, lục thức thì không phải vật chất. Họ luyện theo ý niệm từ vật chất. Bây giờ khoa học cũng biết, nếu mình đem vật chất chà nó thì sanh ra từ trường còn gọi là điện lực, mình càng chà nó thì sức từ trường ra càng mạnh. Vậy, luyện khí công là phát từ vật chất nên bị hạn chế. Tham thiền là phát từ phi vật chất, không bị thời gian không gian hạn chế.

Đại học bên Mỹ gồm có: Sinh lý học, Tâm lý học, Triết học, Khoa học tự nhiên, bốn thứ hợp lại giải thích không thông, vì họ chỉ có một cái thức là bộ não. Thức với căn họ không biết được nên nói lộn xộn. Họ chỉ biết do hệ thống thần kinh, hệ thống thần kinh là vật chất, kinh lạc cũng là vật chất mà không thể dùng kính hiển vi để thấy được.

Ngày xưa, Tỉnh Tọa ở Trung Quốc phát hiện được 14 kinh lạc ở trong thân, ông có hình từ đâu thông đến đâu, có ba trăm mấy cái huyệt, ông kích thích cái huyệt để điều chỉnh thần kinh; do hệ thống thần kinh yếu nên không làm việc đúng phải kích thích làm cho đúng hay mạnh quá thì bớt lại. Nếu thần kinh quá yếu không thể kích thích thì sanh ra bệnh.

Ở bên Mỹ dùng kính hiển vi mạnh bao nhiêu lần cũng không thấy được. Tây y trị không hết, nhưng châm cứu lại trị hết, mà thấy công hiệu liền, thành ra họ cũng nhìn nhận, nên bây giờ ở đại học Mỹ cũng có khoa châm cứu.

Thức không có hệ thống, không phải như hệ thống đường đi của kinh lạc. Tổ Sư Thiền do chư Tổ truyền xuống, tin rồi thực hành. Nếu tin pháp môn 100% thì chưa được mới chỉ có phân nửa. Tại sao? Vì chỉ tin pháp môn, nhưng chưa tin tự tâm. Tham thiền là muốn hiện sức của tâm, nếu không tin tự tâm thì sức đó làm sao hiện ra được? Không tin phải có thắc mắc để hỏi, thắc mắc đó có 5 thứ: - Nghi lý – nghi sự – nghi pháp – nghi thầy – nghi mình.

Các vị thắc mắc đều ở trong 5 thứ này, tôi sẽ giải tỏa, nghi lý thì tôi giải tỏa lý, nghi sự thì tôi giải tỏa sự, nghi mình nghiệp chướng nặng thì tôi giải tỏa nghiệp chướng nặng, nghi thầy nói không đúng thì tôi cũng giải tỏa. Mục đích giải đáp là giải tỏa 5 thứ nghi này, chứ không có giáo lý cao siêu. Sự thật, không có giáo lý gì cả, không thể kiến lập cái lý, vì kiến lập lý mới có đúng và không đúng là tương đối thì sanh ra sự tranh cãi.

Hỏi:
Bước đầu tiên là tin tâm mình là Phật, như vậy mình nhìn vào tâm mình thấy hoàn toàn chúng sanh si mê, không có gì là Phật. Như vậy mình nhìn vào lấy cái gì là Phật?

Đáp:
Tôi hỏi thầy: Thầy tin thầy có Phật tánh không?
- Tin có Phật tánh.
Phật tánh có thể giảm bớt được không?
Phật tánh không thể giảm bớt.
Phật tánh có thể gián đoạn được không?
Phật tánh không thể gián đoạn.
Như vậy thầy đã tin đầy đủ, nhưng sự thật thì nghịch lại. Nếu Phật tánh không thể giảm bớt, mà thầy đã nhìn nhận tự mình có Phật tánh với Phật tánh của Phật Thích Ca bằng nhau, Phật Thích Ca có trí huệ, thần thông biến hóa bao nhiêu thì thầy cũng có và bằng nhau. Nếu không bằng hay kém hơn một chút thì giảm bớt. Nếu tin Phật tánh không thể gián đoạn thì bây giờ thầy cũng là Phật. Thầy đã tin theo sự trả lời với tôi thì đủ tin tự tâm 100%.

Hỏi:
Dùng cái không biết để tu, như vậy đề câu thoại đầu mình không biết, không biết phải trả lời hoàn toàn như thế nào là không biết?

Đáp:
Tại sao thầy muốn trả lời? Trả lời là muốn tìm hiểu để biết, vì mục đích chấm dứt tìm hiểu mà sao lại trả lời? Phật nói “vô thỉ” là không có bắt đầu, “vô sanh” là không có sự sanh khởi. Nếu có sự sanh khởi thì có sự bắt đầu, nên người chứng quả là ngộ pháp vô sanh. Nhưng sự thật thầy nghịch lại muốn có sanh! Muốn tìm sự bắt đầu! Ấy là tập khí từ lâu đời. Vì thầy sanh ra được cha mẹ dạy chấp thật, vô trường thầy cô cũng dạy chấp thật, ra xã hội cũng dạy chấp thật, không phải kiếp này thôi, ở bao kiếp trước cũng dạy như vậy, nên muốn sửa lại rất khó. Vì vậy, Phật Thích Ca dạy dùng cái không biết bộ não để chấm dứt cái biết bộ não.

Trước kia, trong thiền thất có người hỏi: Nếu mình dùng cái không biết để tu, tu đến thoại đầu thì sắp kiến tánh, sắp kiến tánh thì sắp biết phải không?
Tôi nói: Không phải, không thể nói là sắp biết.
Người ấy hỏi: Nếu không thể sắp biết thì vĩnh viễn như gỗ đá sao?
Tôi nói: Không phải vậy, cái biết chân tâm không thể gián đoạn sao có ngưng biết? Cái biết cao nhất là Diệu Giác. Nếu có gián đoạn thì mới có ngưng, ngưng rồi có lại nên nói là sắp biết. Nó không bao giờ ngưng mà nói nó sắp biết làm sao được?

Nhưng người ta cũng chưa hiểu, tôi phải đổi lại câu hỏi “trời gần sáng thì mặt trời sắp chiếu được không”? Không được. Tại sao? Vì mặt trời có ngưng chiếu hồi nào, mà nói mặt trời sắp chiếu! Tâm mình cũng vậy, đâu có ngưng biết hồi nào mà nói sắp biết! Không thấy mặt trời là do bị mây đen che khuất, đâu phải mặt trời đêm hôm ngưng chiếu rồi tới sáng mới bắt đầu chiếu!

Như tâm mình không thể nói là sắp biết, nói sắp biết là cái biết của bộ não. Chân tâm không hiện ra là bị biết và không biết của bộ não che khuất. Cho nên, Phật Thích Ca dạy dùng cái không biết để chấm dứt tất cả biết; biết và không biết của bộ não đều chấm dứt thì chân tâm mới hiện ra.

Hỏi:
Tham thiền sao khỏi rơi vào niệm thoại đầu và vô ký?

Đáp:
Không phải muốn tìm đáp án của câu thoại đầu! Chỉ nhờ câu thoại đầu để kích thích lên niệm không biết. Bất cứ câu thoại đầu nào cũng vậy, chứ không phải câu thoại đầu này khác, câu thoại đầu kia khác! Muôn ngàn câu thoại là mục đích để kích thích niệm không biết; khán là nhìn chỗ không biết, chỗ không biết là không có chỗ, không có chỗ thì không có mục tiêu để nhìn, không có mục tiêu để nhìn thì nhìn đi nhìn lại vẫn còn không biết, chính cái vẫn còn không biết gọi là nghi tình. Chỉ cần hỏi và nhìn, hai cái đồng thời đi song song để giữ nghi tình đó. Nghi tình này sẽ đưa hành giả đến thoại đầu, rồi kiến tánh thành Phật.

Tại ông nghịch lại tìm hiểu nghi tình, ấy không phải tham thiền. Nếu tham 2, 3 chục năm hay 2, 3 trăm năm, mặc dầu tâm cũng được tịnh, nhưng sẽ lọt vào tà ma, tại do ông ham tìm hiểu, nên phải ngưng tìm hiểu, ghi nhớ, nhưng muốn ngưng đâu phải dễ! Vì vậy, giữ được cái không biết thì cái biết tự động ngưng. Hỏi là kích thích niệm không biết, nhìn là kéo dài niệm không biết.

Ông nghịch với thói quen nên cảm thấy lạ thấy khó, người ta nhìn là có mục tiêu để nhìn, còn cái không biết thì không có mục tiêu để nhìn, nên người ta cảm thấy khó nhìn quá, khó nhìn là đúng rồi đó! Vì không có chỗ để nhìn, không có chỗ để nhìn thì cũng nhìn vậy, để giữ cái không biết đó thôi.

Hỏi:
Tin tự tâm là Phật, mà con thấy tham sân si nhiều quá trời, cái gì cũng thích cũng mê, vậy như thế nào?

Đáp:
Không tin mình là Phật nên mới có tham sân si. Bây giờ cái tham sân si của ông phải không?

- Phải.

- Như vậy tiền của ông thì ông biết tiền ở đâu mà có. Tham sân si của ông từ đâu mà ra?

- Tự nhiên xuất hiện, không biết chỗ nào ra.

- Nếu không biết chỗ nào thì đâu có đúng! Như ông có tiền thì biết tiền từ đâu? Mặc áo thì ông cũng biết cái áo từ đâu? Người ta cúng cho ông hay của ông như thế nào mới có! Còn nói tham sân si mà không biết từ đâu là bậy rồi, tức là không phải của ông. Nếu thật của ông thì ông phải biết!

Bây giờ, ông khỏi nói để tôi cho ông biết, tại ông ngu quá tự mình không biết. Tham sân si là từ vọng tâm suy nghĩ của ông mà ra, vọng tâm của ông là bộ não, nó là năng suy nghĩ, tham sân si là cái sở suy nghĩ. Năng thì không phải sở, sở thì không phải năng. Ông biết năng sở không?

- Không biết.

- Năng sở mà còn không biết! Ông thọ giới Sa Di và Tỳ Kheo mà không có giữ bổn phận của mình. Thọ giới Tỳ Kheo còn không biết năng sở, làm sao biết giới Tỳ Kheo mà giữ vai trò của Tỳ Kheo! Vậy ông hư tiêu tín thí lạm nhận cung kính là tội địa ngục, trong Kinh Lăng Nghiêm có nói. Năng sở còn không biết mà làm Tỳ Kheo để dạy Tỳ Kheo Ni sao được?

Con mắt của ông là năng nhìn, ông nhìn thấy trái bôm này, trái bôm là sở nhìn. Tham, sân, si là sở suy nghĩ, bộ não của ông là năng suy nghĩ, tại do cái suy nghĩ mới có tham, sân, si. Như hai chân của ông là năng đi, có đường gai gốc cứt sình là sở đi của hai chân, tại hai chân của ông ham dẫm lên con đường đó rồi bị dính cứt sình, cứt sình dụ cho tham sân si của ông, nhưng sự thật là không phải, hai chân của ông là sạch. Con đường gai gốc cứt sình có thúi cách mấy cũng mặc kệ nó, chỉ giữ hai chân đừng dẫm lên con đường đó làm sao bị dính được!

Tham thiền là giữ cái không biết thì ngưng được suy nghĩ, ngưng suy nghĩ làm sao có tham, sân, si được!

Hỏi:
Trước kia con lạc lầm không đi đúng chánh pháp, nay được nhân duyên quay về chánh pháp, con chưa hiểu được sâu. Khi tham thoại đầu thì phải nhìn thoại đầu, tin tự tâm. Vậy câu thoại đầu “chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật là cái gì”? Bạch Sư Phụ khai thị cho con?

Đáp:
Tôi hỏi ông: Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật là cái gì? Biết không?

- Không biết.

- Không biết là đúng rồi đó! Nhìn chỗ không biết.

Hỏi:
Trước kia con tham câu “khi chưa có trời đất, ta là cái gì”? mà không phù hợp, bây giờ con có thể đổi câu thoại đầu khác được không?

Đáp:
Tham câu thoại đầu có cảm thấy không biết là phù hợp, nếu biết thì không phù hợp.

Hỏi:
Hỏi câu thoại đầu “khi chưa có trời đất, ta là cái gì”? Rồi mình nhìn cái không biết thì vẫn có cái biết của cái nhìn, như vậy cái biết đó vẫn thường còn không?

Đáp:
Cái đó mới tập tham thiền nên nó như vậy, tập lâu thì luôn cả tham thiền cũng không biết, mới tập thì cái biết mạnh hơn.

- Như vậy cái biết vẫn còn nên đôi khi vọng tưởng chi phối thì phải làm sao?

- Thì phải hỏi và nhìn tiếp tục mãi mãi, nếu mình hỏi nhanh quá giống như niệm thì không được. Hỏi là kích thích cái không biết, rồi nhìn cái không biết, hai cái đi song song, đừng cho là biết hay không biết, vì thói quen của ông là hay muốn biết, nên cái biết mạnh hơn, cái không biết lại yếu, thành ra cứ thấy biết hoài, chừng nào tập cái không biết mạnh hơn thì cái biết sẽ yếu lại.

Như mới tập xe máy mà tay vịn cũng ngã, tập được một thời gian thì hai tay vịn không ngã, tập thêm một thời gian buông tay vẫn không ngã, tập một thời gian nữa buông hai tay quẹo cũng không ngã, còn người ta tập thêm chỉ có một bánh cũng chạy được. Tại ông mới tập mà buông tay làm sao được?

Hỏi:
Lâm Tế nói với Đại Ngu: Chẳng dè Phật pháp của Hoàng Bá có chút xíu. Con xin sửa lại như thế này: Nào dè Phật pháp của Hoàng Bá không có gì cả! Xin Sư Phụ khai thị chỗ này?

Đáp:
Vì ông không hiểu, nên làm sao để dạy cho ông được! Ông là người mà Phật chẳng thể giáo hóa. Vừa rồi nói “không cho tìm hiểu”, công án của chư Tổ là muốn cho người ta ngộ, chứ không phải muốn người ta hiểu; còn ông muốn hiểu là nghịch ý của chư Tổ, vì hiểu là phải có lý, lý thì không thể kiến lập được; nếu hiểu là tương đối đúng lý và không đúng lý, hợp lý với không hợp lý.

Vô thỉ là không thể bắt đầu, vô sanh là không có sự sanh khởi. Vì có sanh khởi thì phải có sự bắt đầu. Tôi đã dùng toán chứng tỏ không thể bắt đầu. Vì nếu đem con số chia mãi thì không thể chia đến con số cực nhỏ. Nếu chia được số cực nhỏ thì có sự bắt đầu. Không có cực nhỏ thì không có cực lớn. Nếu có cực lớn thì có cuối cùng, vì không thể tìm được con số bắt đầu. Nên Phật nói là “bất khả đắc”, bất khả đắc gọi là bất sanh, không có cuối cùng là bất biến gọi là bất diệt.

Bây giờ, khoa học cũng chứng tỏ tất cả vật chất đều y nguyên tồn tại vĩnh viễn bất diệt. Bất sanh bất diệt làm sao có sự bắt đầu được? Làm sao kiến lập cái lý? Nếu có kiến lập thì có sanh, có sanh thì phải có diệt.

- Có người hỏi: Phật pháp có thể chia nhiều tông, tại sao không thể chia nhiều phái? Nên biết Phật pháp là để hiển bày bản thể tự tánh bất nhị của Diệu Giác nên chẳng thể chia. Có thể chia là giáo pháp (chẳng phải Phật pháp). Chư Phật chư Tổ, vì muốn thích ứng căn cơ trình độ của mọi chúng sanh, nên vì khế hợp đương cơ mà chia nhiều tông, tức là trên phù hợp ý Phật (Phật pháp chẳng thể chia), dưới khế hợp đương cơ (giáo pháp có thể chia) là vậy.

Giáo pháp thích hợp với người phương đông được chia làm năm hệ: Thiền, Giáo, Luật, Tịnh, Mật. Thiền, Luật, Tịnh, Mật, mỗi hệ có một tông. Giáo môn chia thành bốn tông: Thiên Thai, Hiền Thủ, Tam Luận, và Duy Thức, cộng chung là tám tông Đại thừa.

Luận này vì muốn phá chấp nhị biên tương đối, nên phương tiện thiết lập Trung Quán. Nguồn gốc của nhị biên là “hữu” và “vô”. “Hữu” bao gồm hữu vi pháp, “vô” bao gồm vô vi pháp. Nhị biên đã phá thì “Trung” không có chỗ để an lập. Như thế, đâu có học thuyết cao siêu để cho nghiên cứu mà dựng lập học phái Trung Quán!

Lục Tổ nói thuyết pháp chẳng lìa tự tánh, tự tánh là bất nhị. Kinh Đại thừa liễu nghĩa là do Phật thuyết đều là bất nhị. Chư Tổ căn cứ theo kinh liễu nghĩa lập luận sớ giải cũng là bất nhị. Bất nhị thì chẳng có tương đối, chẳng có tương đối thì chẳng thể dùng bộ não suy nghĩ, chẳng thể dùng lời nói văn tự diễn đạt, cho nên Đại Thừa Khởi Tín Luận nói: Lìa “tướng tâm duyên”, lìa “tướng danh tự”…

Nên biết, những phương tiện do chư Phật chư Tổ thiết lập chỉ muốn khiến chúng sanh ngay đó khai ngộ, chứ chẳng phải muốn chúng sanh nghiên cứu tìm hiểu lý đạo. Do đó chẳng thể xem như một học thuyết để nghiên cứu mà chia ra nhiều học phái.

Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá. Kỳ thật quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá. Như các phẩm Quán Như Lai, Quán Niết Bàn là thuộc về phá pháp vô vi, những phẩm Quán Nhân Duyên, Quán Khứ Lai thuộc về phá pháp hữu vi. Hữu, Vô tất cả đều phá. Phàm có nhị biên tương đối đều phá.

Chư Phật chư Tổ dùng pháp phá làm phương tiện để phá sự chấp trước của chúng sanh. Chúng sanh có sở chấp nào thì phá cái sở chấp nấy. Nếu có chúng sanh chẳng có chấp trước thì pháp phá cũng thành dư thừa. Nay chúng tôi biên tập Yếu Chỉ Trung Quán Luận này, chỉ ở trong mỗi phẩm rút ra vài bài kệ chủ yếu, để sáng tỏ yếu chỉ về pháp phá của tác giả mà thôi.

-Pháp Sư Diệu Nhân, ngày 22 tháng12 năm 1983, khi đọc “Nhập Trung Luận”, có bút ký rằng: Các đại luận sư Ấn Độ như: Phật Hộ, Thanh Biện, Nguyệt Xưng, Tịnh Mạng, đều kế thừa học thuyết Trung Quán của Long Thọ. Nhưng vì quan điểm chẳng đồng cho với chẳng cho “có ngoại cảnh” mà sanh ra học phái chẳng đồng.

Thanh Biện luận sư phá Duy Thức Luận, trong danh ngôn kiến lập tông phái cho “có ngoại cảnh”. Phái này gọi là “Kinh Bộ Hạnh Trung Quán Sư”. Tịnh Mạng luận sư thì lập ra thuyết “vô ngoại cảnh”. Phái này gọi là “Du Già Hạnh Trung Quán Sư”.

Nguyệt Xưng luận sư thì cho là “Trung Quán Kiến của Phật Hộ luận sư” thù thắng nhất, mà theo phái Phật Hộ, lại nói đời sau phần nhiều Trung Quán Sư đều tùy thuận học thuyết Phật Hộ với Nguyệt Xưng. Còn các phái Tát Ca, phái Ca Cử và phái Cách Lỗ của Phật giáo Tây Tạng cũng theo “Trung Quán Kiến” của Nguyệt xưng luận sư, đồng thời kiến lập Nhật Trung Luận Tụng và Giải Thích, cũng cho biết danh hiệu phái Ứng Thành và phái Tự Tục của Trung Quán…

Than ơi! Tác giả Trung Luận dùng Trung Quán để phá kiến chấp của nhị biên tương đối. Nếu nhị biên đã phá thì đâu có cái “trung” để an lập, tại sao các đại luận sư Ấn Độ, mỗi mỗi đều có “Trung Quán Kiến” của họ, mà sanh ra nhiều học phái chẳng đồng như danh hiệu bốn phái kể trên. Thậm chí ảnh hưởng Phật giáo Tây Tạng cũng sanh “Trung Quán Kiến”. Nếu theo đó suy luận thì Phật giáo các nước khác, cũng có thể bị truyền nhiễm kiến chấp của họ mà chẳng tự biết, khiến chư Phật chư Tổ muốn phá mà hơi sức đâu phá hết!

Trung Luận là vị thuốc phá trừ kiến chấp nhị biên. Nếu chấp thuốc thành bệnh thì chẳng thể trị, như trong phẩm Phá “Hành” đã ghi rõ vậy. Nếu bút ký của Pháp sư Diệu Nhân là thật thì các đại luận sư kể trên cũng là thuộc về kẻ chư Phật chẳng thể giáo hóa ư!

Phẩm Phá “Hành”.
Hỏi: Như kinh Phật sở thuyết
Hư vọng chấp lấy tướng
Vì vọng chấp chư hành
Nên gọi là hư vọng

Phá: Kẻ hư vọng chấp lấy
Trong đó lấy cái gì
Phật thuyết những việc này
Muốn hiển bày nghĩa không
Vì các pháp khác nhau
Biết đều là “vô tính”
Tính vô pháp cũng vô
Vì tất cả pháp không
Đại Thánh thuyết pháp không
Vì lìa chư kiến chấp
Nếu lại thấy có không
Phật chẳng thể giáo hóa

Giải thích:
“Hành” là sự hành vi biến hóa. Hành vi biến hóa là sát na sanh diệt, nên Phật nói chư hành vô thường. Vô thường thì chẳng thật, chẳng thật nên hư vọng. Hư vọng thì chẳng chấp lấy. Phật nói hư vọng chẳng thể chấp lấy là muốn hiển bày nghĩa không vậy. Vì các pháp khác nhau thì mỗi mỗi chẳng có tự tánh. Pháp chẳng có tự tánh thì pháp chẳng có, nên nói tất cả pháp không.

Phật thuyết pháp không là dùng để phá 62 thứ kiến chấp và phá phiền não của nghiệp ái vô minh. “Không” là công cụ dùng để phá chấp, nếu trở lại chấp “không” thì người ấy chẳng thể giáo hóa. Như có bệnh mới cần uống thuốc, nếu chấp thuốc thành bệnh thì chẳng thể trị. Cũng như lửa từ củi ra, dùng nước có thể diệt lửa. Nếu lửa từ nước ra thì phải dùng cái gì để diệt? “Không” dụ cho nước, có thể dẹp tắt những lửa phiền não. Nếu lại ở nơi “không” mà sanh khởi kiến chấp, hoặc cho là có cái “không”, hoặc cho là chẳng có cái “không”, vì tranh chấp “hữu” “vô” lại sanh khởi phiền não nữa.

Nếu dùng “không” để giáo hóa người này thì họ nói tôi biết “không” đã lâu. Nếu lìa “không” thì chẳng có đạo Niết bàn. Như kinh nói: Không, vô tướng, vô tác, nơi ba cửa này được giải thoát. Đây chỉ là ngôn thuyết mà thôi. (Không, vô tướng: Thì chẳng tu; Vô tác: Thì không có tu, vậy đâu thể giải thoát).

Tâm là danh từ, ai cũng nói được, nhưng mà tâm là cái gì thì không có ai biết. Phật nói tâm như hư không, hư không thì trống rỗng; Ngài Long Thọ là Tổ 14 của Thiền tông nói là tâm như hư không vô sở hữu tức là không có hư không, như vậy tâm như hư không vô sở hữu cũng như không có tâm.

Mặc dầu không có (trống rỗng) nhưng có thực dụng. Tại sao? Tại mình thấy rõ ràng là hư không này trống rỗng (vô sở hữu). Mặt trời, mặt trăng, đất đai, nhà cửa, cây cối, bất cứ cái gì đều nhờ cái vô sở hữu này dung nạp và ứng dụng. Quý vị ngồi phải nhờ cái vô sở hữu mới có chỗ ngồi, có không gian vô sở hữu nên tôi đang nói và các vị đang nghe được. Tất cả chúng ta nhìn thấy nhau cũng đều nhờ cái vô sở hữu này mình mới nhìn thấy nhau được.

Bây giờ, mình đang dùng mà không để ý nên không biết. Những người học Phật cứ muốn tìm hiểu những danh từ, nhưng thực tế những danh từ chỉ để hiển bày cái hư không vô sở hữu này thôi. Tức là hiển bày cái chân tâm của mình. Như trống rỗng thì không có trói buộc nên gọi là giải thoát, chứ không phải trói buộc rồi mở trói mới là giải thoát, nó vốn là giải thoát, vì không có chỗ để trói buộc.

Trống rỗng thì tự nhiên khắp không gian, khắp thời gian. Khắp không gian thì không có khứ lai, nên có tên là Như Lai đúng như bản lai. Khắp thời gian không có gián đoạn, không có gián đoạn thì không có sanh diệt, nên có tên là Niết Bàn. Niết Bàn là tiếng Ấn Độ nghĩa là không sanh không diệt.

Phật là tiếng Ấn Độ còn gọi là Phật Đà nghĩa là giác ngộ, tâm của mọi người đều có tánh giác ngộ, nên gọi là Phật tánh. Bất cứ danh từ nào có muôn ngàn thứ sai biệt mà nghĩa thì không khác. Như bồ đề cũng là nghĩa giác ngộ. Có người nói phát tâm bồ đề, họ tưởng là có tâm bồ đề để phát. Kỳ thật, tâm bồ đề là vô sở hữu, vô sở hữu thì vô sở đắc, nên phát tâm vô sở đắc.

Tất cả là hiển bày cái vô sở hữu của bản tâm mình. Tuy nói là Như Lai, Niết Bàn, bồ đề, giải thoát,… đều là tâm trống rỗng (vô sở hữu). Vì vô sở hữu không có chỗ để trụ cũng gọi là vô trụ. Lục Tổ nói “lấy vô trụ làm gốc”, Kinh Duy Ma Cật nói “từ gốc vô trụ lập tất cả pháp”. Tại vô trụ nên hiển bày tất cả dùng.

Lục Tổ nghe Ngũ Tổ giảng “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong Kinh Kim Cang thì ngộ triệt để. Các vị học Phật cũng biết câu trên, nhân dịp này tôi giải thích.

Thí dụ cái tay là chân tâm, nó là hoạt bát vạn năng, muốn lấy cái bình, cái túi, cuốn sách,… lấy cái gì cũng được. Nếu có sở trụ thì tự nhiên đánh mất hoạt bát vạn năng của tự tánh. Như bây giờ trụ cây viết thì hoạt bát vạn năng của cái tay bị mất, muốn lấy cuốn sách, cái bình, cái túi,… đều không được. Tham Tổ Sư thiền có nghi tình như cây chổi automatic quét nó ra thì mới khôi phục bản tánh hoạt bát vạn năng thì muốn gì cũng được.

Cây viết này thuộc về pháp có, trụ nơi có là đánh mất cái dụng của bản tâm. Nếu trụ nơi không tức là ở trong này không có gì hết, nhưng mà có sở trụ nơi không, cũng đánh mất cái dụng hoạt bát của tâm, như tay không thể lấy cái bình, cuốn sách, cái túi,… đều không được. Cho nên, cái không này cũng phải quét mới khôi phục bản tánh hoạt bát vạn năng. Vì vậy nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” nghĩa là: Nên vô sở trụ, sanh cái tâm dùng.

Tại có sở trụ nơi có, nơi không, nơi Phật, nơi Bồ Tát đều đánh mất cái dụng của bản tâm. Vì thế, Phật dạy “nên vô sở trụ mới dùng được cái tâm”. Nhưng bản tâm là vô sở hữu, còn tánh con người thì ham sở hữu. Tiền là sở hữu của ta, nhà là sở hữu của ta, đất là sở hữu của ta, tất cả đều muốn sở hữu. Chính sở hữu đó làm chướng ngại cái dùng của vô sở hữu.

Cho nên, Kinh Kim Cang nói “ưng vô sở trụ”, Kinh Duy Ma Cật nói “từ gốc vô trụ lập tất cả pháp”, lập tất cả pháp là dụng của tâm, vô trụ mới dùng tất cả pháp. Phật Thích Ca dạy pháp Thiền trực tiếp tức là hỏi và nhìn cái không biết, không biết có thì không trụ nơi có, không biết không thì không trụ nơi không, tức là bản tâm vô sở trụ thì tự nhiên hiện ra cái dụng của chân tâm.

Hỏi:
Con không khán thoại đầu, không ghi nhớ, không tìm hiểu, không biết, trong cái không nhưng nó tỉnh chứ không phải hôn trầm, hay người khùng. Vậy có giống khán thoại đầu không? Nếu còn khán thoại đầu thì còn ghi nhớ khởi niệm đề khởi câu thoại kích thích nghi tình?

Đáp:
Có biết thì không phải. Thoại đầu là chưa có khởi niệm muốn nói, mới gọi là thoại đầu. Nếu muốn khởi niệm muốn nói, mặc dầu chưa nói ra miệng cũng là thoại vỉ, vỉ là đuôi chứ không phải là đầu. Cho nên, nói thoại đầu là chưa khởi một niệm nào hết, mới gọi là thoại đầu. Mục đích tham thiền là muốn đến thoại đầu, mới tập tham thì cách thoại đầu còn xa lắm.

Dùng cây viết để thí dụ: Trên đầu cây viết là thoại đầu, dưới đuôi cây viết là thoại vỉ. Hỏi câu thoại đầu “khi chưa có trời đất, ta là cái gì?” là khởi lên một niệm không biết, khán là nhìn chỗ không biết, chỗ không biết thì không có chỗ, không có chỗ thì không có mục tiêu để nhìn, cho nên nhìn mãi không thấy gì vẫn còn không biết, chỉ giữ cái không biết đó. Đây là đường đi ý thức tức là thức thứ 6, thức này có mặt biết và mặt không biết, dùng mặt biết để tu gọi là Như Lai thiền, dùng mặt không biết để tu gọi là Tổ Sư thiền.

Bây giờ mình tham thiền là Tổ Sư thiền, chứ không phải thiền khác, các thứ thiền khác đều thuộc là Như Lai thiền. Như cô dùng cái biết để tìm hiểu, chứ không phải dùng cái không biết để chấm dứt cái biết, vì còn muốn có ghi nhớ còn muốn biết nghi tình, còn muốn biết thoại đầu tức là còn muốn tìm hiểu, chứ không phải là muốn chấm dứt tìm hiểu.

Để tâm trống không làm sao biết trống không? Biết để trống không tức là biết, còn cái này chỉ cần giữ cái không biết, cái không biết đó mới gọi là nghi tình. Tức là không biết có trống không hay không có trống không. Tất cả cái gì cũng đều không biết. Tại cô dùng cái biết nên mới biết cái trống không. Cái trống không là tôi thí dụ cho người tham thiền hiểu, chứ không phải có cái trống không để cho mình biết cái trống không. Cái này là dùng cái không biết để tu. Biết trống không là biết rồi, chứ không phải là không biết, tại thói quen của con người ham biết ham tìm hiểu.

Cho nên, Phật mới nghịch lại dùng cái không biết của bộ não để chấm dứt tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết của bộ não. Nhưng người ta không những không chịu chấm dứt, mà lại dùng cái biết của bộ não để tìm hiểu cái trống rỗng, như cô này tìm hiểu chỗ thoại đầu. Đã có ý niệm tìm hiểu thì có niệm rồi, đâu phải như chưa có niệm nào mới gọi là thoại đầu!

Hỏi:
Tại sao được cảnh giới thanh tịnh là không đúng với đạo?

Đáp:
Thanh tịnh và náo động là tương đối, nếu muốn thanh tịnh là sai lầm, vì đã có thói quen ai cũng thích thanh tịnh, cô cũng cho là như vậy. Tôi không có dạy người ta tu thanh tịnh. Tịnh với động là tương đối, phàm có tương đối đều phá.

Nếu cho “lời nói của Phật Thích Ca rất đúng”, như vậy là sai lầm. Vì đúng và không đúng là tương đối. Lời thuyết pháp của Phật Thích Ca là phá tương đối, muốn lìa cái đúng và không đúng. Nếu cho đúng thì lọt vào tương đối là sai lầm. Như nói có Phật và không có Phật đều sai lầm. Tại có và không có là tương đối.

Nếu chấp vào thanh tịnh thì lọt vào tà ma tức là lọt vào biên kiến thuộc một trong năm thứ ác kiến (thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến). Như cô muốn biết cái trống rỗng thì cũng lọt vào biên kiến. Mặc dầu, tôi nói hư không vô sở hữu là để thí dụ, nếu chấp hư không vô sở hữu cũng lọt vào biên kiến, tại có sở hữu và vô sở hữu là tương đối.

Nhà khoa học Einstein phát minh tương đối luận, nhưng đến lúc ông tuổi già, ông lại phủ định cái tương đối luận của mình. Ông nói “tương đối luận chỉ là sản phẩm của bộ não”. Theo lý luận của Einstein thì có thể biết đến chỗ phi vật chất. Vật chất nhỏ chừng nào thì sức từ lực mạnh chừng nấy, mà nó nhỏ cho tới bề trong tức thành hư thể là phi vật chất thì sức mạnh đó không có bị không gian thời gian hạn chế.

Cho nên, tốc độ ánh sáng đi 1 triệu năm đến, nhưng tâm của mình chỉ một niệm đến, đi 10 triệu năm thì tâm của mình cũng một niệm đến. Vật chất, tốc độ cao nhất là ánh sáng; còn phi vật chất, tốc độ thấp nhất là ánh sáng.

Toán giỏi thì khoa học mới giỏi được; chính nhà khoa học hạng nhất còn sống là giáo sư dạy toán danh tiếng khắp thế giới, hiện nay ở Luân Đôn nước Anh. Ông cũng nghịch lại định lý toán học. Theo toán học thì không có tìm con số nhỏ nhất, cũng không có con số lớn nhất. Không có số con nhỏ nhất tức là không có sự bắt đầu, mà ông lại tìm sự bắt đầu của vũ trụ và sanh mạng, thì rõ ràng nghịch với định lý toán học.

Hỏi:
Con tập trung tham câu “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Khi có ý niệm hỏi thì con nhìn vào câu hỏi đó, bất chợt có người mở quạt máy, nhưng con ngồi hoàn toàn không biết mở quạt vào lúc nào. Như vậy con có rơi vào vô ký hay lọt vào hôn trầm không?

Đáp:
Ông nói tập trung tinh thần là sai lầm. Tổ Sư dạy tham thiền, không nên tập trung tinh thần, không nên cố gắng, ít phí sức chừng nào tốt chừng nấy, chỉ cần giữ cái không biết. Hỏi câu thoại là kích thích niệm không biết, còn khán là nhìn chỗ không biết và giữ chỗ không biết cho không biết đó được kéo dài. Cho nên, Tổ dạy ít phí sức chừng nào tốt chừng nấy, đừng cố gắng phí sức, có một chút không biết là được, chứ đừng có tập trung tinh thần. Tập trung lâu ngày sẽ bệnh.

Có khi tập trung cố gắng bị nhức dầu, chóng mặt, khó thở. Nên chỉ cần hỏi và nhìn để giữ cái không biết là được, cái không biết đó gọi là nghi tình, nếu biết là không phải nghi tình. Biết có nghi tình cũng không phải, biết nghi tình nhỏ cũng không phải, biết nghi tình lớn cũng không phải, tức là không có tham thiền. Phàm có cái biết là không phải tham thiền, tham thiền là không biết.

Tham thiền là đi, đứng, ngồi, nằm đều được hết, cũng như khỏi cần ngồi xếp bằng; muốn ngồi xếp bằng cũng được, không ngồi xếp bằng cũng được, thòng chân ra cũng được. Tham thiền không phải ngồi thiền, ngồi thiền không phải tham thiền, tham thiền khỏi cần ngồi. Lục Tổ nói trong phẩm Tọa thiền của Pháp Bảo Đàn: “Đạo do tâm ngộ bất tại tọa”, ngộ là do tâm không phải do cái thân. Lục Tổ còn nói “ngồi lâu trói thân, có ích lợi gì!” và có bài kệ phá chấp ngồi:
Lúc sống thì ngồi hoài,
Khi chết thì nằm mãi.
Chấp giữ bộ xương thúi,
Làm sao được công phu?

Tại bây giờ người ta cứ chấp cái ngồi, cho ngồi lâu là cao, như thế là sai lầm, hại người ta. Ông cũng bị trúng độc cái đó.

Tham thiền không có nhập thiền và không có xả thiền, tại chấp ngồi nên mới có xả.

Hỏi:
Tham thiền đến chỗ nghi tình automatic thì câu thoại đầu còn không?

Đáp:
Thoại đầu là không có niệm nào hết mới gọi là thoại đầu, tức là không biết, ông cứ dùng cái biết để tìm hiểu, muốn dùng tìm hiểu biết là nghịch tham thiền. Cứ hỏi và nhìn để giữ cái không biết là được rồi.

Hỏi:
Sư Phụ nói lấy cái biết tự nhiên chụp được trái banh, con dùng cái biết để tu, như Sư Phụ chưa đến thì con vẫn thấy, Sư Phụ đến thì con vẫn thấy. Vậy như thế nào?

Đáp:
Tôi nói dùng cái biết để tu là Như Lai thiền, bây giờ tôi dạy là dùng cái không biết để tu, chứ không phải là dùng cái biết. Cho nên, chỉ cần hỏi và nhìn để giữ cái không biết là đủ rồi.

Hỏi:
Con dùng cái biết là Sư Phụ đến con vẫn biết, mà Sư Phụ không đến cũng biết, ngoài ra những niệm gì nổi lên thì tự nó sẽ lặng mất, còn con chỉ giữ cái biết đó thôi. Như vậy có đúng với chánh pháp không?

Đáp:
Cái đó là tà pháp chứ không phải chánh pháp. Chánh pháp là ngoài ra Tổ Sư thiền còn có tam thừa (đại thừa, trung thừa, tiểu thừa). Cô nói là ở ngoài tam thừa, không phải là pháp thiền của Phật dạy, tức là thuộc về ngoại đạo tà ma, mà họ lấy bản hiệu Phật giáo.

Các pháp thiền của Phật dạy:

-Đại thừa thiền có ba thứ thiền quán ở trong Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Viên Giác, nhưng không dịch nghĩa chỉ có dịch âm, gọi là sa ma tha, tam ma bát đề và thiền na. Kinh Lăng Nghiêm không có giải thích, Kinh Viên Giác thì có giải thích:
-Sa ma tha như gương soi các tướng.
-Tam ma bát đề còn gọi là tam ma đề như mạ dần dần tăng trưởng.
-Thiền na như âm thanh ẩn trong chuông trống. Như cái trống có tiếng ở trong đó, nhưng không thấy, khi nào đánh thì mới ra tiếng, đánh mạnh thì phát ra âm thanh lớn, đánh nhẹ thì âm thanh ra nhỏ. Nhưng nó không bị chuông trống hạn chế, nó vượt ra ngoài chuông trống là thiền Đại thừa.

Thiền Đại thừa ở Trung Quốc có bốn tông:

-Chỉ quán tông Thiên Thai là quán giả, quán không, quán trung. Sa ma tha giống như không quán của tông Thiên Thai, tam ma bát đề thì giống như giả quán của tông Thiên Thai, thiền na thì giống như trung quán của tông Thiên Thai. Nhưng chỉ là giống, không phải hoàn toàn không có khác. Đó là thiền Đại thừa của Phật dạy.

-Trung thừa là thừa Duyên Giác, quán Thập Nhị Nhân Duyên, từ vô minh đến lão tử, tức là trong đó có tam thế luân hồi.

-Tiểu thừa có 5 thứ thiền quán, gọi là Ngũ Đình Tâm Quán. Đình tâm là đình chỉ hoạt động của tâm, gồm có: Sổ Tức Quán, Bất Tịnh Quán, Từ Bi Quán, Lục Thức Quán, Nhân Duyên Quán.

Bây giờ phần nhiều dùng Sổ Tức Quán, có một số ít tu Bất Tịnh Quán, còn ba thứ quán kia thì theo tôi biết không có ai tu.

Còn cô biết thì không biết ai dạy! Thì không thuộc về của Phật dạy. Thiền của Tịnh Độ có 16 thiền quán ở trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, cũng không có thiền quán nào giống như cô nói vậy.

Hỏi:
Con theo dõi công phu của mình thì con thấy, như vật đến thì con nhìn thấy, sau khi thấy đó thì niệm nổi lên, con vẫn giữ cái thấy đó thì tự nhiên nó mất đi, con không có quan tâm nó mất hay nó nổi là tùy nó, vậy như thế nào?

Đáp:
Đó là tự dối mình thôi! Cái đó như đi xem đá banh hay đi xem hát kịch, lúc đang xem kịch thì kịch hấp dẫn rồi quên cảnh xung quanh, đến chừng hát kịch xong thì vẫn trở lại bình thường. Có nhà triết học tây phương cũng có sáng lập cái đó, nhưng đối Phật pháp coi là như ngoại đạo tà ma.

Hỏi:
Trước kia con cũng dùng thiền quán, cảnh đến con cũng quán thì tâm cũng thanh tịnh. Vậy như thế nào?

Đáp:
Tâm thanh tịnh giống như chú ý xem hát kịch thì cảnh xung quanh quên, đến chừng xong rồi thì trở lại như cũ.

#36 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 29/08/2011 - 20:17

Hỏi:
Hằng ngày vì công việc làm ăn nên bị dãi đãi rất nhiều, nhưng lúc con đi xe thì có công phu, đôi lúc xẩy ra tai nạn con bị té xe, con còn chưa biết là con bị té, đến chừng con đứng dậy thì mới biết bị thương. Con không biết con có chấp ngồi hay không?
Đáp:
Đi xe đâu phải ngồi!

-Nhưng công phu có đúng không?

-Nếu giữ được cái không biết thì đúng, mà dùng cái biết thì không đúng.

- Như hằng ngày sao lúc dãi đãi có khi tham?

- Biết dãi đãi thì không đúng.

- Vì sao có lúc không có thấy câu thoại đầu, có khi vọng tưởng đến, có khi lại buông?

-Tại vì đang tập nên cái biết nhiều hơn cái không biết.

-Như ngày xưa con đi xe gặp người ta lạng lách, bị quẹt xe thì con rất sợ. Từ khi con tham thiền thì con không còn sợ, như vậv có đúng công phu không?

-Trương Quốc Anh tham thiền thì không biết thật nên không có bị thương. Y được chị bảo lãnh qua Pháp, khi đến phi trường đi một khoảng đường thì bị lật xe, mọi người ở trên xe đều bị thương. Lúc nhân viên Hồng Thập Tự kéo y ra, y còn hỏi làm gì vậy? Vì y hoàn toàn không biết, nên không có bị thương. Không biết thì tâm không có tạo, tại ‘tất cả do tâm tạo’, biết thì mới tạo, không biết thì không có tạo.

Khi chở đi bệnh viện để khám rọi kiến, Trương Quốc Anh nói: Khỏi khám, tôi không có bị thương.

Người ta nói: Tuy ở ngoài không có, nhưng ở trong thân làm sao biết? Phải rọi kiến rồi mới biết!

Rọi kiến rồi chứng tỏ hoàn toàn không có bị thương. Tại do không biết thật. Còn cô còn biết nên mới bị thương.

Tất cả ngồi chung trong xe đều có cộng nghiệp, người nào cũng phải bị thương, nhưng Trương Quốc Anh ở trong cộng nghiệp cũng là tai nạn xe hơi, mà có biệt nghiệp y không có bị thương, khác hơn những người ngồi chung trong xe. Ở trong cộng nghiệp có biệt nghiệp, trong biệt nghiệp có cộng nghiệp.

Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21 nói: “Chuyện đi đầu thai tức là thần thức đầu thai”. Tại sao muôn ngàn cha mẹ không đầu thai nơi đó, mà lại đầu thai ở cha mẹ này? Vì cùng với cha mẹ này có cộng nghiệp, cho nên nó có sức hút, sức hút đó gọi là từ lực.

Hỏi:
Thế nào là vãng sanh Cực Lạc?

Đáp:
Tu Tịnh Độ cũng có chỗ không cần vãng sanh. Tịnh độ có ba cách tu:

- Thật tướng niệm Phật khỏi cần vãng sanh, tức tâm tịnh là Phật độ tịnh, nên cách này khỏi cần vãng sanh gần giống như Thiền tông vậy.

- Quán tưởng niệm Phật có 16 thiền quán ghi ở trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ.

- Trì Danh Niệm Phật thì có cầu vãng sanh. Nhưng phải biết Tín, Nguyện, Hạnh tức là phải phát đại nguyện và thực hành phát đại nguyện của mình phát thì mới được vãng sanh. Như đới nghiệp vãng sanh mà nói lâm chung 10 niệm cũng được vãng sanh, nếu không đúng tông chỉ của Tịnh Độ thì 10 triệu niệm cũng không được vãng sanh. Tu đúng tông chỉ Tịnh Độ chỉ cần 1 niệm cũng được vãng sanh, chứ khỏi cần 10 niệm.

Nghĩa chữ “Phật” là giác ngộ, muốn giác ngộ thì phải từ chỗ nghi mới đến ngộ, nên tất cả muốn ngộ thì phải nghi, không những Phật pháp mà pháp thế gian cũng vậy. Như Newton thấy trái bôm trên cây rơi xuống đất, ông phát nghi, nhưng ông dùng bộ não đi nghiên cứu tìm hiểu gọi là hồ nghi thì mới ngộ sức hấp dẫn lực vạn hữu.

Thiền tông phát nghi thì không cho tìm hiểu, mà lại phải chấm dứt tìm hiểu gọi là chánh nghi (không biết), dùng cái không biết mới chấm dứt tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết, nên mới ngộ được bản tâm. Ngộ được bản tâm thì biết không có sanh tử.

Tịnh Độ còn chấp có sanh tử và Tiểu thừa cũng chấp có sanh tử, vì có sanh tử mới có Niết Bàn.

Tâm như hư không vô sở hữu thì không có trói buộc gọi là giải thoát, chứ không phải trói buộc rồi mở trói mới giải thoát.

Người trì danh niệm Phật có trói buộc, có sanh tử, tưởng có Phật để thành. Những người tin tự tâm và tin pháp môn rồi tham thiền. Còn không tin tự tâm, khi được vãng sanh nhờ Phật Di Đà dạy cách tham thiền, rồi cũng từ nghi đến ngộ. Việc này có ghi trong Kinh Tịnh Độ mà người ta không biết. Như thiền quán có ghi trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ mà người ta cũng không để ý tới, cứ cho Tịnh Độ không phải Thiền, nhưng sự thật Tịnh Độ là Thiền.

Tất cả các pháp môn của Phật dạy đều lấy Thiền làm chủ yếu, có thiền mới có tu. Tà ma ngoại đạo cũng đều lấy thiền là chủ yếu để tu, tà ma ngoại đạo không phá ngã chấp nên không được giải thoát. Còn chánh pháp phá ngã chấp thì mới giải thoát. Tịnh Độ không phá ngã chấp triệt để, khi được vãng sanh Cực Lạc thì Phật Di Đà dạy phá ngã chấp triệt để rồi mới thành Phật. Tức là dạy từ nghi đến ngộ.


Hỏi:
Con tham thoại đầu khi đến ngày sám hối thì con có tụng kinh sám hối không?

Đáp:
Sám hối theo giới luật nhà Phật thì phải đối người sám hối, chứ không phải ở trước bàn thờ Phật mà sám hối. Như người đã thọ ngũ giới muốn sám hối thì ở trước mặt người đã thọ ngũ giới mà sám hối. Còn người đã thọ giới Bồ Tát muốn sám hối thì phải ở trước người đã thọ giới Bồ Tát mà sám hối. Sa Di cũng phải ở trước Sa Di mà sám hối, Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni cũng như vậy. Cấp dưới thì sám hối cấp trên. Nếu ở trước bàn thờ Phật sám hối thì không có ai chứng minh, sau này cũng có thể phạm lại, vì không có ai biết. Còn trước mặt người sám hối có người đó chứng minh thì người ấy sợ biết nên không phạm nữa.

Sám hối triệt để có bài kệ:

Tội từ tâm khởi đem tâm sám,
Tâm nếu diệt rồi, tội cũng tiêu.
Tội tiêu tâm diệt cả đều không,
Ấy mới gọi là chân sám hối.

Vì tất cả đều do tâm tạo, nên phải từ tâm mà sám hối. Nói đến tâm là vọng tâm cũng là bộ não. Tâm làm thì tâm sám hối, nếu tâm đã diệt rồi, tự nhiên tội cũng tiêu. Tại có tâm nên mới có tội, nếu không có tâm thì tội dựa ở chỗ nào? Cho nên, tâm diệt thì tội cũng tiêu. Tâm đã diệt và tội tiêu, cả hai đều không có, ấy mới là chân sám hối.

Tụng kinh là dạy mình tu, tụng kinh không phải tụng cho Phật nghe, tức là nghe Phật thuyết pháp, theo lời Phật dạy mà tu. Vì vậy, giáo môn lúc đang tụng là đang tu, tức là tụng đến câu nào thì quán tưởng đến câu văn đó, gọi là tùy văn quán tưởng. Như ở chùa có 30 Tăng thì phải 30 Tăng tụng kinh, mỗi ngày có 3 thời kinh. Tông Thiên Thai của Ngài Đế Nhàn có mỗi thời kinh là phải 2 giờ. Tất cả chúng Tăng tựu lại tụng và quán tưởng. Nếu tụng không đủ 2 giờ thì Ngài quở làm biếng.

Bây giờ, các chùa có khi tụng khoảng 40 phút hay chúng đông mà chỉ vài vị tụng cho Phật nghe là đủ rồi, chứ không phải tu.


Hỏi:
Quyển Cội Nguồn Truyền Thừa của Ngài Nguyệt Khê nói “nhìn chỗ sơn cùng thủy tận” có giống chỗ Sư Phụ dạy hỏi và nhìn không?

Đáp:
Sơn cùng thì không có, thủy tận cũng là không có; không có thì không biết, như vậy đâu có khác! Lời nói khác nhưng ý không khác. Như nói “Tâm như hư không vô sở hữu”, vô sở hữu thì không có trói buộc gọi là giải thoát, vô sở hữu thì trống rỗng nên không có khứ lai gọi là Như Lai, trống rỗng khắp không gian thì tự nhiên khắp thời gian không có gián đoạn gọi là Niết Bàn. Mặc dầu, danh từ khác nhau nhưng ý thì không khác, cũng là trống rỗng (vô sở hữu).

Sơn cùng thủy tận là không có tức là trống rỗng, trống rỗng không có cái gì thì lấy gì để biết? Nên không biết.

Hỏi:
Trong Thiền Thất Khai Thị Lục nói: “Khi mỗi lần khai thị thì Ngài Lai Quả cứ nói ‘hãy tham đi!’ Sao không thấy Ngài dạy như thế nào?

Đáp:
Tham là hỏi, cứ hỏi tiếp hoài. Nói tham là bao gồm hỏi và nhìn, nên gọi là chiếu cố thoại đầu, chiếu cố là nhìn, thoại đầu là chỗ chưa nổi niệm tức không biết. Nói đi nói lại cũng bao nhiêu đó, đừng có đuổi theo danh từ, bất cứ nói danh từ gì thì không có khác. Bồ Đề, Niết Bàn, giải thoát, Như Lai,… đều không có khác; danh từ muôn ngàn sai biệt, nhưng ý không khác. Chỉ là trống rỗng như hư không.

Hỏi:
Nghi thoại đầu là như thế nào?

Đáp:
Thoại đầu là không có ý niệm nào, nên không biết mới là nghi. Nếu đã biết một cái gì thì không còn nghi. Không có nghi thì không có tham thiền. Cho nên hỏi và nhìn giữ cái không biết là đủ rồi.

Hỏi:
Làm phước kiếp này hưởng hay kiếp sau hưởng?

Đáp:
Có nhân thì có quả, nhân mạnh thì quả mau đến, nhân yếu thì quả chậm đến. Nhân mạnh có thể quả kiếp này đến, còn nhân yếu có thể kiếp này, 10 kiếp sau, trăm, ngàn kiếp sau đến không chừng!

Tham thiền không cầu quả báo, mà lại muốn ra ngoài quả báo, tại vì quả báo là nhân quả ở trong chiêm bao. Ngộ là nhảy ra ngoài chiêm bao. Như ở trong nhắm mắt chiêm bao thấy mình phát tài rất mừng, khi thức dậy không có. Ở trong chiêm bao phạm tội bị chính phủ chiêm bao bắt, tuyên bố tử hình thì rất sợ, khi thức dậy không thấy có tử hình.

Cho nên, Phật muốn mình ngộ, nghĩa chữ “Phật” là giác ngộ, tất cả chúng sanh nào mà giác ngộ là xong.

Hỏi:
Tại sao phải “Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ” ?

Đáp:
Nếu có sở đắc, có sở cầu, có sở sợ thì có ta; có ta thì không phá được ngã chấp, dẫu cho tu thành cũng thành tà ma ngoại đạo. Nên chánh pháp phải phá ngã chấp, phá ngã chấp thì phải thực hành không có cái ta. Không có cái ta lấy gì cầu? Không có ta để ai đắc? Không có ta thì ai sợ? Vì vậy, không có ta nên không có đắc, không có cầu, không có sợ.

Hỏi:
Chữ “không biết” của Sư Phụ dạy là ý của Phật, ý của Tổ cũng là nghĩa lý của các kinh, có phải không?

Đáp:
-Không có nghĩa lý.

-Vậy nghĩa lý của kinh chăng?

-Phải rồi.

-Cái “không biết” của Sư Phụ dạy là bát nhã vô tri chăng?

-Vô tri là nhất thiết tri. Nếu cái tri (biết) của bộ não gọi là vọng tri.. Còn biết của chân tâm không gọi là biết, cũng không có thể gọi là không biết. Tại biết và không biết là tương đối của bộ não. Biết của chân tâm thì biết của bộ não không biết được! Cho nên gọi là bát nhã vô tri, chứ không phải là không có cái biết. Biết chân tâm là automatic, bây giờ đang biết.

Như không có ánh sáng mặt trời là không phải không có mặt trời! Vì bị che khuất bởi mây đen hay quả đất. Cái biết chân tâm cũng vậy, nó không có ngưng biết, vì nó bị che khuất. Vậy nó bị cái gì che khuất? Là bị cái biết của bộ não che khuất. Nên Phật dạy mình ngưng cái biết của bộ não thì cái biết chân tâm hiện ra. Nhưng lúc cái biết chân tâm hiện ra thì bộ não hoàn toàn không biết, nên gọi là vô tri. Tức là không có cái tri của bộ não thì mới hiện cái tri bát nhã.

Hỏi:
Quán Thế Âm Bồ Tát có thể hoá trai hay gái được không?

Đáp:
Quán Thế Âm Bồ Tát không phải trai cũng không phải gái, mà Ngài muốn hóa thứ gì cũng được, vì không phải cái gì! Không những Quán Thế Âm Bồ Tát hóa được, mà ông cũng hóa được, người nào cũng hóa được, tại bây giờ chưa hiện ra cái sức đó.

Hỏi:
Người tham thiền khi lâm chung lại sợ thì lúc đó phải làm sao?

Đáp:
Nếu hành giả tham thiền giữ được cái không biết, đã không biết làm sao có sợ hãi, biết sợ hãi là biết rồi, tức là không có tham thiền.

Hỏi:
Tâm vốn bất sanh, bất diệt, bất khứ. Tại sao người ta chết chỉ thay đổi cái khác, mà người ta lại quên tiền kiếp của mình?

Đáp:
Vì họ vẫn còn ở trong chiêm bao. Nếu họ nhảy ra ngoài chiêm bao, làm sao có tiền kiếp và có sanh tử? Sanh tử tiền kiếp, hậu kiếp là ở trong chiêm bao mới có. Khi ngộ rồi tức là nhảy ra ngoài chiêm bao thì mấy cái đó hoàn toàn kết thúc.

Hỏi:
Lúc ngồi thiền nhắm mắt thì vọng tưởng nổi lên, mở mắt thì không có vọng tưởng, lúc đi kinh hành nhắm mắt không có vọng tưởng, mở mắt thì có vọng tưởng. Như vậy làm sao trị?

Đáp:
Khỏi cần trị, cứ hỏi và nhìn giữ cái không biết, không biết làm sao có vọng tưởng? Không biết thì không biết có vọng tưởng. Biết không có vọng tưởng cũng là biết, biết có vọng tưởng cũng là biết. Nếu hỏi và nhìn thì mấy cái kia cũng giải quyết luôn.

Hỏi:
Kính xin Sư Phụ giảng người có thân trung ấm rồi đầu thai có tay heo?

Đáp:
Người này ở Đài Loan tên là Ung bá Huy, khi ấy ông được 43 tuổi quy y Pháp sư Nam Đình ở Đài Loan. Pháp sư Nam Đình thuyết pháp muốn cho người ta tin nhân quả, mới giảng có một đệ tử vừa quy y biết được 3 kiếp. Kiếp đầu tiên dạy học ở thôn quê, rồi sau khi chết nhưng không biết mình chết, cứ đi lang thang ở ngoài đường không biết đói bụng.

Ngày đó đang đi gặp gió bấc cảm thấy lạnh, đi ngang một nhà lớn cửa đang mở, mới vô trong nhà tránh gió. Trong nhà trống rỗng không có ai, trên vách tường có treo mười mấy chiếc áo lớn, người ấy lạnh quá nên ăn cắp một chiếc áo mặt vô thấy ấm rồi ngủ. Khi thức dậy, thấy mình nằm chung những con heo nhỏ với con heo mẹ, mới biết mình cũng là con heo nhỏ mới sanh ra thì biết mình đã đầu thai.

Người ấy cũng biết người ta nuôi heo lớn lên sẽ làm thịt, thấy khổ lắm, rồi không ăn không uống để tự tử; chủ nhà tưởng nó bệnh, nên đem sửa trộn với thuốc cho uống, nhưng không chịu uống, qua 7 ngày nó chết. Chết rồi khôi phục thân trung ấm, cũng đi lang thang ngoài đường gặp gió bấc, đi ngang nhà cũ, cũng vô trong nhà thấy áo treo, muốn lấy một cái để mặc, tay vừa đụng thì rút trở lại; người ấy tự nghĩ kỳ trước lấy, đã thành con heo rồi, bây giờ chẳng thà chết, chứ không ăn cắp nữa!

Vì ăn cắp là điều ác, không ăn cắp là điều thiện. Khi lạnh quá mới chết giấc, lúc thức tỉnh nghe người ta nói sanh con trai; người ấy thấy mình là đứa bé nằm chung với một bà mẹ, mới biết mình đã đầu thai thành con trai, nhưng có cái tay heo. Được mẹ chăm sóc nuôi nấng, lấy vải may túi che tay heo.

Pháp sư thuyết pháp kể có một đệ tử đầu thai có tay heo, các vị ra vô chùa cũng có thể gặp. Một bửa Ung Bá Huy ăn cơm chung một bàn, có người bới cơm giùm, ông không chịu; hai người lấy qua lấy lại, làm chiếc túi sút ra, rồi ông vội kéo chiếc túi lên lại che tay và dặn người kia rằng “đừng nói cho người ta biết”, các người khác cũng không để ý.

Khi chỉ có Ung Bá Huy với ông kia, ông kia mới hỏi “có phải Pháp sư Nam Đình nói người đầu thai có tay heo là ông phải không”? Ban đầu Ung Bá Huy không chịu nói.

Ông kia nói: Nếu ông không nói thì tôi cũng đã thấy rồi! Nói cho tôi biết, tôi không nói cho người khác biết!

Rồi Ung Bá Huy kể lại mà chuyện tôi vừa mới kể. Sau này ông được 62 tuổi, trị bệnh ở nhà thương Diêm Vương và chết ở nơi đó. Chuyện này ghi trong tuần báo của Đài Loan.

Hỏi:
Con độc long phá làng xóm, có 8 vị sư ngồi thiền định để đuổi con độc long, nhưng con độc long không đi. Có một vị sư giữ giới luật đến nói một tiếng thì nó đi. Vậy chỗ giữ giới và thiền định cái nào mạnh hơn?

Đáp:
Chuyện này ở trong Hư Vân Niên Phổ, không phải 8 vị mà 500 vị A La Hán đuổi nó không được. Nhưng một người trì giới trong sạch, nói: “Mời ông rời khỏi chỗ này được không”? Vì đuổi là đối địch rồi. Nên 500 vị A La Hán làm không được. Tức là không có tương đối thì sức nó mạnh, bây giờ tâm của ai cũng có sức mạnh đó.

Ông ấy trì giới là giữ vai trò của mình. Theo lực học của Phật Thích Ca thì mỗi mỗi đều giữ đúng vai trò của mình. Người thế gian, như cha phải giữ đúng vai trò của cha, mẹ phải giữ đúng vai trò của mẹ, con cái phải giữ đúng vai trò của con cái, chồng phải giữ đúng vai trò của chồng, vợ phải giữ đúng vai trò của vợ, mỗi mỗi chức nghiệp đều giữ đúng vai trò chức nghiệp của mình.

Người xuất gia, Sa Di phải giữ đúng vai trò Sa Di, Tỳ Kheo phải giữ đúng vai trò Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni phải giữ đúng vai trò của Tỳ Kheo Ni. Nhưng tôi gặp nhiều tu sĩ không giữ đúng vai trò của tu sĩ, vì tôi hỏi người Sa Di, 10 giới của Sa Di là gì? Mà Sa Di đó không biết, có biết cũng không đầy đủ. Nếu Sa Di mà không biết giới luật của Sa Di làm sao giữ đúng vai trò được? Còn Tỳ Kheo lại tệ nữa, không biết giới luật của Tỳ Kheo thì làm sao giữ đúng vai trò của Tỳ Kheo được?

Bây giờ, tôi có quở thì cũng không thể quở hết! Phần nhiều đều là như vậy. Đi thọ giới rồi chỉ biết mình có địa vị cao, mà không biết để giữ đúng vai trò! Như Kinh Lăng Nghiêm nói có 4 thứ tội địa ngục:

-Phỉ báng Đại thừa.

-Phá hoại luật nghi.

-Hư tiêu Tín thí (không đúng vai trò của mình mà thọ nhận của mười phương Tín thí).

-Lạm nhận cung kính (người ta cung kính lễ bái đâu phải vì mình mặc đồ tu và cạo đầu! Mình phải có bổn phận giữ đúng vai trò và cũng tự hỏi mình có tư cách gì? Để nhận sự lễ bái cung kính của người tại gia).

Có một bài kệ:
Hạt gạo của Thí chủ,
Lớn bằng núi Tu di.
Nếu không tu giải thoát,
Mang lông đội sừng trả.

Vai trò còn giữ không đúng, làm sao tu giải thoát được? Thì tự nhiên phải đầu thai trâu ngựa hay mang lông để trả nợ cho Thí chủ. Muốn trả nợ đâu phải là trả nợ liền! Chết rồi đọa xuống địa ngục, khi khỏi địa ngục thì phải làm trâu ngựa trả nợ, nên hạt gạo của Thí chủ đâu phải dễ ăn! Nhưng các vị ấy không để ý, cứ tưởng mình cạo đầu mặc đồ tu là được!

Hỏi:
Đường lối thực hành tham Tổ Sư thiền là gì?

Đáp:
Nói sơ về cách thực hành tham thoại đầu và khán thoại đầu: Thoại là lời nói, đầu là đầu tiên lời nói nghĩa là chưa khởi ý niệm muốn nói mới được gọi là thoại đầu, hễ khởi niệm muốn nói là thoại vỉ rồi. Tham là hỏi câu thoại đầu để kích thích niệm không hiểu không biết, khán là nhìn chỗ không biết, muốn xem chỗ không biết đó là cái gì? Chỗ không biết thì không có chỗ, không có chỗ thì không có mục tiêu để nhìn, nên nhìn mãi không thấy gì vẫn còn không biết, chính cái không biết đó Thiền tông gọi là nghi tình.

Hành giả tham thiền cứ đồng thời hỏi và nhìn đi song song để giữ cái nghi tình, nghi tình này sẽ đưa hành giả đến thoại đầu, thoại đầu tức là vô thủy vô minh cũng gọi là đầu sào trăm thước, cũng là nguồn gốc của ý thức. Từ đầu sào trăm thước tiến thêm một bước liền lìa ý thức, cái sát na lìa ý thức đó gọi là kiến tánh thành Phật, tức là trí bát nhã được hiện hành khắp không gian thời gian, sự hiểu biết chẳng gì thiếu sót, giáo môn gọi là chánh biến tri.

-Bây giờ tôi lấy cây viết này để ví dụ, ở trên là thoại đầu, ở dưới là thoại vỉ. Bắt đầu tham thiền là từ thoại vỉ đi đến thoại đầu tức là rời thoại vỉ chưa đến thoại đầu, đang đi ở giữa đường, đường này gọi là đường đi ý thức tức là thức thứ 6.

Thức thứ 6 gồm có hai mặt: Mặt biết là tu Như Lai thiền, còn mặt không biết là tu Tổ Sư thiền. Tham thiền là hỏi và nhìn như nói ở trên là tu Tổ Sư thiền. Tổ Sư thiền chỉ cần nghi tình, nghi tình tức là không biết, nếu biết thì không phải nghi tình là không có tham thiền.

Tham thiền do Phật Thích Ca thân truyền tức là dùng cái không biết của bộ óc để chấm dứt cái biết của bộ óc. Cái biết của bộ óc chia làm 3 bộ phận: Tìm hiểu biết, suy nghĩ biết và ghi nhớ biết.

Đầu tiên dùng cái không biết của bộ óc để chấm dứt tìm hiểu biết, rồi đến chấm dứt suy nghĩ biết, rồi đến chấm dứt ghi nhớ biết. Thói quen con người hay ham tìm hiểu, không những không chịu chấm dứt, lại dùng hiểu biết của bộ óc để tìm hiểu nghi tình, cứ sợ không có nghi tình, muốn biết có nghi tình. Muốn biết có nghi tình tức là biết rồi, biết thì không phải tham thiền.

Nếu giữ được nghi tình (không biết) thì không biết có nghi tình, nghi tình nhỏ hay nghi tình lớn đều không biết. Vì biết thì không phải nghi tình. Nếu có nghi tình mà để cho bộ óc biết được thì đã biết chứ không phải chấm dứt cái biết. Mục đích là nhờ cái không biết của bộ óc để chấm dứt cái biết của bộ óc.

Sau cùng đến đầu sào trăm thước tức là 3 cái biết đã chấm dứt. Thoại đầu gọi là vô thủy vô minh, nguồn gốc ý thức và Thiền tông cũng gọi là đầu sào trăm thước. Chỗ thoại đầu thì chưa kiến tánh, vì còn cái không biết của bộ óc. Từ chỗ thoại đầu tiến thêm một bước nữa, ngay đó liền lìa ý thức, biết và không biết của bộ óc đều sạch thì cái biết của Phật tánh hiện lên gọi là chánh biến tri khắp không gian khắp thời gian.

Khắp không gian thì không có chỗ để chỉ, khắp thời gian thì không có lúc để chỉ. Cái biết của bộ óc không có khắp thời gian nên ngủ mê không biết, chết giấc không biết, chết thật không biết. Còn cái biết Phật tánh khắp không gian khắp thời gian, khắp thời gian thì ngủ mê vẫn biết, chết giấc cũng biết, chết thật cũng biết.

Nếu chết thật không biết tức là lúc chết thì cái biết bị gián đoạn, không phải cái biết của Phật tánh là luôn luôn khắp không gian khắp thời gian không bao giờ gián đoạn. Nhưng bây giờ nói cho bộ óc biết được nên mới nói là biết. Vì nói biết thì phải có không biết để đối đãi. Thực tế không thể nói là biết và không biết, vì cái biết Phật tánh không có đối đãi, không có tương đối, nên không thể kiến lập biết và không biết.

Hành giả tham thiền cứ hỏi và nhìn, như hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” là kích thích cái niệm không biết, rồi nhìn chỗ không biết, xem chỗ không biết đó là gì, nhưng chỗ không biết thì không có chỗ, không có chỗ thì không có mục tiêu để nhìn, nên nhìn không thấy gì vẫn còn không biết.

Lúc hỏi cũng là lúc nhìn, hỏi và nhìn là hai cái song song, chứ không phải hỏi rồi mới nhìn, tức là vừa hỏi vừa nhìn, hỏi là khởi lên niệm không biết và nhìn chỗ không biết, không biết thì không có chỗ tức là không có mục tiêu, nên hỏi và nhìn là giữ niệm không biết và kéo dài niệm không biết. Bất cứ câu thoại đầu nào cũng là vậy, chứ không không phải những người muốn tìm hiểu đáp án câu thoại đầu là sai lầm lớn. Vậy tham thiền chỉ cần giữ không biết là đủ rồi.

Những câu thoại đầu như: Khi chưa có trời đất ta là gì? Muôn pháp về một, một về chỗ nào? Khi cha mẹ chưa sanh, mặt mũi bổn lai của ta ra sao?… Tức là muôn ngàn câu thoại mục đích là “không biết”, chứ không phải câu thoại đầu này khác với câu thoại đầu kia! Câu thoại đầu nào cũng giống nhau là kích thích “không biết” mà thôi.

Hỏi:
Khi con tham thoại đầu không nghĩ gì hết, như thế có phải nghi tình không?

Đáp:
Biết không có nghĩ là nghĩ rồi.

-Khi con tham thoại đầu, con mắt con nhìn ra cảnh vật bên ngoài vẫn thấy, vậy như thế nào?

-Như vậy sao gọi là tham thiền? Không biết là không thấy làm sao thấy được? Thấy tức là biết rồi.

-Nếu không thấy làm sao đi đứng tới lui?

-Không đi đứng tới lui được thì không đi đứng tới lui. Bây giờ tôi hỏi ông: Ông biết đói bụng không?

-Dạ, biết.

-Ông thấy cái bụng không?

-Dạ, không.

-Không biết sao thấy đói bụng?

-Tự nhiên đói là con biết.

-Phải rồi! Khỏi cần thấy cũng đi được mà! Phải không?

-Dạ.

-Vì ông không có thấy bụng mà biết đói bụng.

-Dạ.

-Hiểu chưa?

-Dạ.

-Được rồi.

-Cảm ơn Hòa thượng.

Hỏi:
Khi con đề lên câu thoại đầu thì con nhìn chỗ đó không biết gì hết, nhưng vẫn có cái biết của cái không biết, nên con thấy mình biết rõ ràng thấy chỗ mình không biết đó, rồi đề tiếp câu thoại đầu nữa thì mình vẫn không biết, hai niệm vẫn không biết thì con có một ý tưởng làm sao thấy được tự tánh là cái gì? Từ chỗ không biết đó con mới chăm hẩm làm sao thấy được chỗ tự tánh? Mà trước sau đều không thấy, thành ra con thấy rất mệt mỏi và có lúc rất đau đầu, con không biết mình rớt vào chỗ nào?

Đáp:
Như thế là sai lầm lớn, vì dùng cái biết tìm hiểu cái không biết. Bây giờ biết cái không biết cũng là biết. Nếu không biết làm sao biết mình biết cái không biết! Còn thật không biết làm sao biết cái biết và biết cái không biết!

Không những không chịu chấm dứt, mà lại dùng cái biết đó tìm hiểu thêm tức là tìm hiểu cái nghi tình để biết cái nghi tình. Bây giờ cứ hỏi và nhìn để chấm dứt tất cả tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ giống như người khờ ngốc không biết gì mới đúng. Còn nói biết rõ ràng có nghi tình là không đúng.

Hỏi:
Ngay đó nhìn thẳng vào coi tự tánh là cái gì? Không có qua câu thoại đầu, nhưng thật sự con cũng không biết là cái gì? Kính xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
Thoại đầu là không có ý niệm. Đã có ý niệm không biết thì khởi ý niệm rồi. Bây giờ chưa đến thoại đầu, phải chấm dứt 3 thứ biết (tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ) mới đến thoại đầu. Không chịu chấm dứt cái biết, mà lại tìm hiểu nghi tình làm sao đến thoại đầu! Nói tham thoại đầu, khán thoại đầu, kỳ thật còn cách rất xa thoại đầu.

Vì mục đích muốn đến thoại đầu nên mới nói là tham thoại đầu, khán thoại đầu. Hỏi câu thoại chứ không phải hỏi thoại đầu. Ba thứ biết được chấm dứt thì giống như người khờ ngốc không biết gì hết, làm sao biết được cái không biết!

Hỏi:
Nếu như vậy, chỗ này con thấy không có câu thoại đầu thứ hai, vì khi mình đề câu thoại vỉ?

Đáp:
Làm sao có thoại đầu ra được? Thoại đầu ra là có ý niệm rồi. Vì ông cứ muốn dùng cái biết, muốn có câu thoại đầu ra thì làm sao gọi là thoại đầu? Bây giờ hỏi là hỏi câu thoại chứ không phải hỏi thoại đầu! Thoại đầu chưa đến. Khi đến thoại đầu thì ngày đêm không biết gì cả. Tức là không có một ý niệm nào nổi lên.

-Như vậy, lúc đó câu thoại vỉ cũng không phải không?

-Làm sao có thoại vỉ! Lúc bắt đầu tham là đã rời thoại vỉ rồi, như vừa rồi tôi đã dùng cây viết thí dụ. Bắt đầu tham là rời khỏi thoại vỉ tức là đang đi ở giữa đường của thoại vỉ và thoại đầu. Vì ông đuổi theo danh từ nên mới nói như vậy.

Hỏi:
Người tu không cầu phước báo, ngày nào đó mình chưa thực sự ngộ đạo, chưa ra khỏi chiêm bao thì ra sao?

Đáp:
Bây giờ cái thật sự là cái gì? Cái thật sự của ông là cái biết của bộ não, nếu tất cả biết bộ não của ông dẹp hết thì không có thật sự hay không có không thật sự gì hết! Vì ông cứ dùng cái biết của bộ não để cho là cái này cho là cái kia, cho là thật sự cho là phải biết, cho là phải có mục đích, phải đi đến chỗ mục đích, phải đi đến chỗ kiến tánh.

Tôi dạy dẹp hết những cái biết đó, muốn dẹp thì phải giữ cái không biết. Ông cứ hỏi và nhìn cứ giữ không biết đó thì sẽ automatic dẹp những thứ biết đó. Ông không những tự dẹp mà lại kéo dài thêm, còn muốn dùng cái biết mà tìm hiểu cái này cái kia, muốn cho có cái thật sự mới được. Vậy là sai lầm lớn.

Hỏi:
Con đề khởi câu thoại đầu lên là cần thắc mắc để có nghi tình hay là cần tập trung tư tưởng?

Đáp:
Đừng có tập trung tư tưởng, đừng có cố gắng, chỉ cần hỏi và nhìn giữ cái không biết. Không biết thì không biết tập trung, không biết cố gắng, cũng như người khờ ngốc không biết gì hết là được.

Đơn giản chừng nào tốt chừng nấy, ít phí sức chừng nào tốt chừng nấy. Đó là lời của chư Tổ dạy. Nếu tập trung tư tưởng là sai lầm, chỉ có hỏi và thắc mắc, nhìn chỗ không biết. Hỏi với nhìn, hai cái đi song song.

Hỏi:
Bản thân con ăn chay, nhưng mấy đứa con không chịu ăn chay, thành ra mỗi ngày phải đi chợ nấu đồ mặn cho chúng ăn. Như vậy con có bị nhân quả gì không?

Đáp:
Ở trong gia đình cô có quyền không? Nếu con có quyền hơn thì được, nếu mà cô có quyền hơn con thì cô phải chịu trách nhiệm nhân quả đó. Tức là ăn cục thịt phải trả cục thịt, giết một mạng phải trả một mạng. Đó là nhân quả. Vì cô thương con nên chìu con thì phải chịu trách nhiệm.

-Con có khuyến khích ăn chay, nhưng nó nói mẹ ăn chay, chứ đừng bảo con ăn chay?

- Vì nó không nghe rồi cô phải giết hại chúng sanh để cho con ăn thì cô phải trả nợ lại cho chúng sanh.


Hỏi:
Nếu dùng cái không biết để tu thì cái gì cũng không biết nên không làm được cái gì, vậy làm sao sống?

Đáp:
(Muốn kiến lập………………………………… khác nhau là vậy) từ trang 3 đến trang 6.

Mình chỉ giữ đúng vai trò của mình, đói bụng thì ăn, lạnh mặc thêm áo, nực cởi bớt ra. Tham thiền giữ đúng vai trò tham thiền tức là cứ hỏi và nhìn. Nếu lúc làm việc, hỏi và nhìn không được thì phải ngưng. Lúc không có làm việc mới tập hỏi và nhìn, tập đến khi quen trong lúc làm việc nó tự động hỏi và nhìn được.

Hỏi:
Con đã tham câu “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Rồi con thấy câu “chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật là cái gì?” Con thấy câu này có nghi tình hơn câu trên, như vậy con có nên đổi câu thoại đầu để tham không?

Đáp:
Tôi hỏi ông: Khi chưa có trời đất ông là cái gì? Biết không?

-Không biết.

-Không biết là đúng rồi, như vậy cần gì đổi nữa! Không biết thì giữ cái không biết và nhìn cái không biết đó thì cái kia cũng nhìn cái không biết vậy!

-Con thấy câu trên dễ nhìn hơn?

-Nếu có dễ nhìn và khó nhìn thì khác rồi! Cái không biết làm sao có khác được? Biết mới có khác.

Hỏi:
Khi con tham câu “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” lúc con ngủ có chiêm bao thì hiện cảnh giới, khi tham câu “chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là cái gì?” Lúc ngủ không còn chiêm bao. Vậy như thế nào?

Đáp:
Đó là còn để ý cái biết, còn ham cái biết. Bây giờ cứ giữ không biết là được rồi.

Hỏi:
Thế nào sám hối thập tự mười phương Tăng?

Đáp:
Hỏi câu thoại đầu và giữ niệm không hiểu không biết là chân sám hối. Vì thoại đầu là tâm niệm không nổi lên thì vọng tâm được ngưng hoạt động. Cho nên, có câu kệ:
Tội từ tâm khởi lấy tâm sám,
Tâm nếu diệt rồi, tội liền tiêu.
Tội tiêu tâm diệt,cả hai đều không,
Aáy mới thật là chân sám hối.

Hỏi:
Tại sao phải tu? Sanh tử là gì?

Đáp:
Bây giờ hỏi và nhìn, đến thoại đầu rồi kiến tánh thì tất cả các câu hỏi đều giải quyết hết. Tức là biết sanh tử là gì, tất cả đều biết, cái biết đó không có thiếu sót. Còn bây giờ cứ dùng bộ óc đi tìm hiểu là sai lầm, tham thiền thì muốn ngưng cái biết của bộ óc. Tất cả phiền não đều do suy nghĩ sanh ra. Nếu giữ được cái không biết thì phiền não cũng ngưng.

Như có cô tên Phương, ngày đêm nhức đầu không ăn, ngủ được từ năm này sang năm khác làm cơ thể ốm yếu. Rồi chừng biết tham thiền là hỏi và nhìn cứ giữ cái không biết, khi giữ được cái không biết thì nhức đầu tự ngưng. Khi ngưng tham thiền thì nhức trở lại, vì có biết. Cho nên, cô ấy phải tham thiền liên tục thì nhức đầu mới ngưng; sau này ăn được ngủ được mới mập lại, rồi nhức đầu hết hẳn luôn.

Tất cả phiền não cũng vậy, tại biết mới có. Nếu không biết làm sao biết có phiền não, có khổ? Tu là cắt dứt khổ, không những cắt dứt khổ hiện tiền mà vĩnh viễn khổ về sau cũng không còn nữa.

Hỏi:
Ngồi tham thiền, con cảm thấy nghẹt thở mà tham một hồi thì con không biết gì nữa. Như vậy có đúng công phu không?

Đáp:
Tham thiền có không hiểu không biết là được rồi, nếu còn biết thì không được.

Hỏi:
Kính xin Sư Phụ kể lại chuyện của Huỳnh Đình Kiên?

Đáp:
Đời nhà Đường nước Trung Quốc, có Huỳnh Đình Kiên 26 tuổi thi đậu tiến sĩ làm quan. Ngày sanh nhật của ông tổ chức tại Dinh Huyện. Lúc ngủ trưa, ông thấy chiêm bao, một mình đi ra cửa sau theo con đường thôn quê, mà không có vệ binh đi theo, gặp một ngôi nhà có một bà già mời vô ăn cơm, ăn xong rồi trở về thì thức dậy nghĩ lại giống như thật vậy. Như mùi đồ ăn trên miệng còn lại giống như mới ăn xong.

Ở trong lòng nghi chuyện vừa rồi có phải như vậy không? Nên một mình không cho ai biết, không có vệ binh đi theo, đi theo con đường mà thấy trong chiêm bao. Thật cũng có con đường đó và cũng gặp bà già đó, mới hỏi bà già: Hôm nay nhà bà có làm gì không?

-Bà già nói: Có.

-Huỳnh Đình Kiên hỏi: Làm việc gì vậy?

-Bà già nói: Đám giỗ con gái, con gái tôi đã chết được 26 năm. Lúc con gái tôi còn sống không có lấy chồng, tu ở nhà; trước khi lâm chung, nó có cái rương tự nó khóa lại, ở trong đó để thứ gì cũng không biết rồi nói với tôi, kiếp sau sẽ lại mở cái rương này.

Huỳnh Đình Kiên nghe đến chỗ này thì nhớ lại kiếp trước của mình là con gái của bà già này.

Huỳnh Đình Kiên hỏi bà già: Chìa khóa bà có biết để đâu không?

Bà già nói: Không biết.

Huỳnh Đình Kiên nói: Tôi biết, rồi tự ông đi lấy chìa khóa mở cái rương ra thì ở trong đó đều là văn chương, văn bằng tú tài, văn bằng cử nhân, văn bằng tiến sĩ giống như văn bằng của ông. Bà già chỉ có một mình nên Huỳnh Đình Kiên mới đem bà già về nhà của ông nuôi.

Huỳnh Đình Kiên làm chức Thượng thư bằng chức Bộ trưởng bây giờ. Ở trong từ điển Từ Nguyên có ghi.

Người có tu mới có cảm ứng như vậy, còn người không có tu thì đâu biết. Nhưng ông Huỳnh Đình Kiên cũng có nhân duyên gặp Thiền sư Huỳnh Long được kiến tánh.

Hỏi:
Có phải Ngài Ma Ha Ca Diếp chưa viên tịch còn nhập định ở núi Kê Túc chờ Phật Di Lặc ra đời không?

Đáp:
Kiến tánh rồi biết vốn không có sanh tử, không có sanh tử làm sao có viên tịch hay không viên tịch! Vì chấp có sanh tử nên mới thấy có viên tịch. Tâm như hư không vô sở hữu (trống rỗng), trống rỗng thì không có trói buộc nên gọi là giải thoát, chứ không phải bị buộc rồi mở trói, mới gọi là giải thoát.

Vốn không bị trói buộc là không có sanh tử, ngộ được không có sanh tử tức là liễu thoát sanh tử.

Hỏi:
Những tội ác mà đời trước đã làm như: Giết người, cướp của, lường gạt, hãm hại người cô thế thì người Phật tử phải làm sao cho hết các tội trên, để việc tu hành khỏi bị chướng ngại, chúng con có thể sám hối hồng danh trước bàn Phật không?

Đáp:
Sám hối không có thể diệt tội được! Theo giới luật nhà Phật, sám hối chỉ diệt được tội phá giới, chứ không có diệt được tội nhân quả. Muốn hết tội nhân quả thì phải diệt cái tâm, tâm diệt thì tội liền tiêu.

Có bài kệ:
Tội từ tâm khởi đem tâm sám,
Tâm nếu diệt rồi tội cũng tiêu.
Tội tiêu tâm diệt, cả đều không,
Ấy mới gọi là chơn sám hối.

Muốn diệt cái tâm nên phải tu, như tham thiền đến kiến tánh thì bất cứ tội nặng bao nhiêu đều tiêu hết. Tại sao? Vì tất cả tội đều ở trong việc chiêm bao; lúc kiến tánh như ở trong chiêm bao thức tỉnh tức là đã lìa khỏi chiêm bao, thì tất cả việc làm ở trong chiêm bao đều không còn nữa. Như nhắm mắt chiêm bao, thấy phát tài rất mừng, khi thức tỉnh tìm đồng xu không có. Tạo tội cũng vậy, thức tỉnh liền hết. Muốn ở trong chiêm bao thức tỉnh thì phải tu kiến tánh thành Phật.

Hai thứ chiêm bao do duy thức biến hiện:

1-Độc đầu ý thức biến hiện nhắm mắt chiêm bao:

Ban đêm thân thể của chúng ta nằm trên giường nhắm mắt ngủ say, tiền ngũ thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) đều ngưng nghĩ, duy chỉ có một mình thức thứ 6 hoạt động, biến hiện thân thể và thế giới trong chiêm bao.

Người trong chiêm bao tiếp xúc mọi vật trong chiêm bao đều có cảm giác là thật; tiếp xúc nóng biết nóng, lạnh biết lạnh, đủ thứ cảm giác buồn vui, cũng thấy đau khi bị người đánh… Giả sử lúc ấy có một vị thiện tri thức bảo người trong chiêm bao rằng: “Tất cả những gì mà ông tiếp xúc đều chẳng có thật, kể cả thân thể của ông cũng chẳng phải thật”, thì đương nhiên người trong chiêm bao chẳng chịu tin mà còn nói: “Ông nói chẳng thật, nhưng tại sao khi tôi tiếp xúc lại có cảm giác là có thật chất? Nếu ông nói cơ thể của tôi chẳng phải thật thì tại sao khi bị đánh lại cảm thấy đau? Giả thuyết của ông dù có lý nhưng tôi chẳng thể tin nổi”.

Khi người trong chiêm bao ngủ đã rồi tự mình thức giấc (Duy Thức Học gọi là Tự chứng phần), lúc ấy tự mình chứng tỏ thế giới và người trong chiêm bao hóa ra đều không phải thật, vì thế giới và người trong chiêm bao đều biến mất, chỉ còn thân thể nằm trên giường mà thôi. Aáy là nhắm mắt chiêm bao.

2-Đồng thời ý thức biến hiện mở mắt chiêm bao:

Bấy giờ, tiền ngũ thức và ý thức (thức thứ 6) đều đang hoạt động, ví như nhĩ thức nghe tiếng nhưng không biết tiếng gì, là tiếng người hay tiếng chim kêu, chó sủa. Không biết được, phải nhờ thức thứ 6 đồng thời khởi lên mới có thể phân biệt là tiếng người già, trẻ, nam nữ… Nếu riêng chỉ có nhĩ thức thì chỉ nghe được âm thanh nhưng không thể phân biệt. Nếu chỉ có thức thứ 6 thì lại chẳng nghe được âm thanh, cho nên hai thức phải đồng thời khởi lên mới biến hiện mở mắt chiêm bao.

Mọi người chỉ cho nhắm mắt chiêm bao là chiêm bao, còn mở mắt chiêm bao không phải chiêm bao. Bởi do nhắm mắt chiêm bao có thể tự thức tỉnh và tự chứng minh được, còn mở mắt chiêm bao thì chẳng thể tự thức tỉnh; nếu chưa giác ngộ thì vẫn còn nằm trong chiêm bao. Mặc dù Phật Thích Ca đã giải thích rất kỹ càng trong kinh điển như kinh Lăng Nghiêm, kinh Lăng Già… nói hai thứ chiêm bao đều là tâm tạo, tức là “nhất thiết duy tâm tạo”. Nhưng đối với người chưa thức tỉnh thì họ vẫn không tin vì còn nằm trong chiêm bao, cũng như người ở trong nhắm mắt chiêm bao vậy, phải đợi khi tỉnh giấc thì mới có thể tự chứng minh được. Duy Thức học gọi là“được tự chứng phần”, cũng gọi là kiến tánh.

Một cái thức biến hiện là do tâm tạo, hai cái thức đồng thời biến hiện cũng do tâm tạo. Do tâm tạo thì chẳng phải thật, chẳng phải thật nên mới gọi là chiêm bao, ấy là “hai thứ chiêm bao do Duy Thức biến hiện” vậy.

Bởi do tâm thức của chúng ta ngày đêm hoạt động chẳng ngừng, dĩ nhiên phải biến hiện hai thứ chiêm bao kể trên, cũng như cơ thể của chúng ta chẳng ngừng xoay chuyển ắt sẽ thấy những cảnh vật xung quanh cũng xoay chuyển theo. Cảnh vật xoay chuyển ví như sanh tử luân hồi, cơ thể xoay chuyển ví như tâm thức hoạt động, hễ tâm thức ngưng hoạt động thì sanh tử luân hồi cũng ngưng hoạt động, ấy gọi là Niết bàn, cũng là từ mở mắt chiêm bao thức tỉnh, Phật pháp gọi là Giác ngộ (chứng ngộ), cũng gọi là kiến tánh thành Phật.

Nếu chúng ta hiểu được hai thứ chiêm bao đều do Duy Thức biến hiện thì đối với câu “vô vô minh, diệc vô vô minh tận. Nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận” của Bát Nhã Tâm Kinh tự nhiên tin chắc chẳng còn nghi ngờ vậy.

-Tức là mình cũng ở trong mở mắt chiêm bao, vì nhắm mắt chiêm bao tự thức tỉnh được nên tự chứng tỏ biết là chiêm bao, còn mở mắt chiêm bao không bao giờ tự thức tỉnh được, phải tu hành đến kiến tánh mới thức tỉnh. Bây giờ đang chiêm bao nên Phật Thích Ca nói “vô vô minh” nghĩa là không có vô minh, “vô lão tử” nghĩa là không có già chết. Chùa nào đều có tụng Bát Nhã Tâm Kinh, mỗi ngày cũng mấy lần. Nhưng tụng cứ tụng mà tin thì không tin. Tại sao? Vì mình còn ở trong chiêm bao chưa thức tỉnh. Như tôi đã già rồi sau này sẽ chết, sao Phật nói không có già chết, làm sao tin nổi?

Thức tỉnh rồi mới chứng tỏ được lời nói của Phật nói “không có vô minh, không có già chết”, còn chưa thức tỉnh dù Phật nói có lý cách mấy cũng không có tin. Nhiều người nói tôi tin Phật, sự thật không có tin. Kinh cứ tụng, nhưng kinh nói gì mà không tin.

Hỏi:
Ngài Mục Kiền Liên đã đắc quả A La Hán được tâm thanh tịnh có thần thông, mà lại có nhân bất thiện trong tiền kiếp là nghe lời vợ đưa cha mẹ vào rừng bỏ, để rồi Ngài phải bị quả báo bị ngoại đạo đánh chết. Tại sao vậy?

Đáp:
Nhắm mắt chiêm bao và mở mắt chiêm bao đều là hai thứ chiêm bao. Chiêm bao là chuyện không có thật, thức tỉnh thì hết; chư Phật chư Tổ chỉ cần muốn mình giác ngộ, tức là đúng với nghĩa chữ “Phật”. Nghĩa chữ “Phật” là giác ngộ, tiếng Ấn Độ gọi là Phật Đà. Nhưng người ta quên nghĩa giác ngộ, cứ cho Phật là một thần linh. Người nào giác ngộ người ấy là Phật.

Mình không tu để giác ngộ mà cứ tụng lời của Phật. Như ngày xưa tôi dạy học, bắt học trò trả bài; tôi đâu thích nghe học trò trả bài! Tôi rất ngán, tại những bài đó tôi đã dạy chúng mà! Vì tôi ăn lương của chúng nên tôi phải ráng nghe chúng trả bài. Như lời kinh là Phật dạy mình, đâu phải Phật muốn mình đọc cho Phật nghe! Nhưng lại tụng cho Phật nghe cho là có công đức. Đó là rất mâu thuẩn.

Phật dạy là muốn mình thực hành, giáo môn là đang tụng tức đang thiền quán tưởng, gọi là tùy văn quán tưởng. Nhưng bây giờ thấy không có như vậy, chỉ là tụng nhanh cho mau hết kinh. Như ngài Đế Nhàn tụng kinh mỗi ngày 3 thời, mỗi thời 2 giờ. Vì vừa tụng vừa quán tưởng. Nếu ở chùa có 30 Tăng thì phải đủ 30 Tăng tụng kinh, vì tụng kinh là tu, đâu phải tụng cho Phật nghe? Cho nên tụng không đủ 2 giờ thì Ngài quở là làm biếng.

Hỏi:
Bài kệ:
Tội từ tâm khởi đem tâm sám,
Tâm được tịnh rồi, tội liền tiêu.
Vậy, “Tâm được tịnh rồi, tội liền tiêu”. Câu này ý nghĩa như nào?

Đáp:
Không phải tâm tịnh! Mà tâm diệt mới được, chứ không phải tâm tịnh. Câu này dịch sai nguyên văn chữ Hán.

Hỏi:
Người tham thiền có cần giữ chặt chẻ giới luật không? Vì đâu phải lúc nào cũng thiền quán mãi mãi?

Đáp:
Đương nhiên như vậy. Bất cứ pháp môn nào đều lấy giới luật làm căn bản. Thiền tông cũng vậy. Như Sa Di phải giữ vai trò của Sa Di, Tỳ Kheo phải giữ vai trò của Tỳ Kheo, chứ không phải tu thiền mà không giữ giới. Mặc dầu có thiền giới, nhưng mình có được 24 giờ thiền giới không? Nếu mình không được 24 giờ thiền giới thì lúc bị gián đoạn công phu, nên lúc đó có thể phạm giới.

Trong Phật pháp có 7 chúng: Chúng tại gia (Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di) và chúng xuất gia (Sa Di, Sa Di Ni, Thức Xoa, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni) đều lấy giới luật làm căn bản, bất cứ tông phái nào cũng theo giới luật làm căn bản.

Hỏi:
Ngài Mục Kiền Liên chứng được 6 pháp thần thông, nhưng cứu được mẹ ra khỏi cõi ngạ quỷ, phải nhờ đến Phật, Phật dạy làm thức ăn và sắm những đồ cần dùng cúng dường chư Tăng, nhờ chư Tăng chú nguyện để cho mẹ của Ngài được vãng sanh về cõi trời. Đó có phải là một hình thức cầu siêu không?

Đáp:
Cầu siêu như thế mới là chánh thức, mặc dầu Ngài Mục Kiền Liên đã chứng quả A La Hán có thần thông, nhưng sức tâm của Ngài chỉ có một mình thì rất yếu không đủ ảnh hưởng tâm của người mẹ. Cho nên, Phật dạy trai Tăng cho 1250 Tỳ Kheo A La Hán. Sức tâm của 1250 Tỳ Kheo A La Hán hợp lại thì sức tâm mới mạnh, ảnh hưởng được tâm của người mẹ, tâm của người mẹ chỉ thay đổi một chút thì người mẹ lìa được khỏi cõi ngạ quỷ.

Thân trung ấm, nếu thiện nhiều hơn ác thì sanh thiện đạo, nếu ác nhiều thì sanh ác đạo, nếu thiện và ác bằng nhau chưa phân biệt sanh thiện đạo hay sanh ác đạo mới có thân trung ấm. Thân trung ấm cứ 7 ngày một sanh tử, nên người ta 7 ngày làm tuần một lần, làm 7 lần. Nếu 7 ngày chưa quyết định sanh về bên thiện đạo hay ác đạo thì thêm 7 ngày nữa, cho đến cuối 7 lần sẽ quyết định đầu thai.

Mẹ của Ngài Mục Kiền Liên không phải vãng sanh về cõi trời! Mà chỉ lìa khỏi đạo ngạ quỷ, tức là khỏi tam ác đạo, sanh tâm thiện đạo, là tùy theo tâm của người mẹ được chuyển biến đến mức độ nào. Nếu tâm của người mẹ không sửa được thì không bao giờ người khác cứu được.

Như khí công ở Trung Quốc nhiều người hợp lại thì sức đó rất mạnh. Mê tín cũng có hiệu ứng mê tín, nếu sức tâm nhiều người hợp lại thì cũng mạnh hơn từ lực vật thường. Bất cứ vật chất gì đều cũng có từ trường phát ra từ lực mà tùy theo mật mã của cái ấy phát ra làn sóng tin tức. Người kiến tánh có sức của tâm mạnh không thể tưởng tượng được. Còn người chưa kiến tánh thì sức mạnh của tâm bị không gian thời gian hạn chế, có mạnh cũng ở mức độ nào đó thôi.

Cho nên, Phật dạy Ngài Mục Kiền Liên trai Tăng là muốn nhiều Tăng hợp lại, mà các vị Tăng ấy gồm có 1250 vị đều chứng A La Hán, nên sức mạnh tâm của các vị ấy mới ảnh hưởng tâm của mẹ Ngài Mục Kiền Liên để sửa lại, chứ không phải có công đức. Cho lấy công đức là sai lầm. Không có công đức gì hết, cứ cho tụng kinh là có công đức, việc này không thể có. Tất cả đều do sức của tâm.

Từ lực phát từ vật chất thì yếu, từ lực phát từ phi vật chất tức là chân tâm của mình thì mạnh. Như vật chất, tốc độ nhanh nhất là ánh sáng, ánh sáng thì ở trong vật chất là cao nhất. Nhưng so với phi vật chất thì nó thấp nhất. Nên ánh sáng đi 10 triệu năm mới đến, tâm mình một niệm đến. Tâm mình một niệm đến tức là người đã kiến tánh. Tâm mình bị cái biết bộ não che khuất thì không được như thế.

Hỏi:
Theo như kinh Địa Tạng và các kinh khác dạy: Khi có người thân chết, Phật tử đến chùa thỉnh chư Tăng tụng kinh cầu siêu 7 tuần thất. Chúng con có người nhà mất phải làm như vậy không?

Đáp:
Nếu tụng kinh cầu an, cầu siêu được thì không có nhân quả, tức là chỉ cần con cháu có tiền để mời người ta tụng kinh thì làm ác cũng đâu có sao? Bởi vì tụng kinh siêu được! Nếu cầu được thì phá hoại nhân quả, phá hoại nhân quả thì phá hoại Phật pháp. Như Mục Kiền Liên chứng quả A La Hán có thần thông hóa bát cơm để cho mẹ ăn, nhưng mẹ không ăn được, huống mình là người thường, giữ giới còn không có trong sạch nữa.

Như người ta tụng chú có công hiệu không phải ở nơi chú, nếu ở trong chú có công hiệu thì ai tụng chú cũng có công hiệu. Người giữ giới trong sạch tụng chú mới có công hiệu, tại do sức của tâm, chứ không phải do sức của chú. Nên nói “tất cả do tâm tạo” là vậy.

Hỏi:
Trong gia đình có chuyện chết trùng là sao? Nếu có chuyện này thì chúng con phải làm sao để khỏi bị chết nữa?

Đáp:
Đó là không tin nhân quả, nếu tin nhân quả thì khỏi hỏi câu này. Phật tử còn không tin nhân quả thì những người khác trong xã hội làm sao tin nhân quả được? Kỳ thật, mỗi thứ gì đều có trước nhân sau quả. Chính trị, quân sự, kinh tế đều có trước nhân sau quả. Như bão lụt là do đốn cây phá rừng. Ở trong thiên nhiên đều có nhân quả, mà ở trong Phật pháp làm sao không có nhân quả?

Hỏi:
Người tu trì danh niệm Phật có phát đại nguyện hằng ngày, rủi ro ra đường bị xe đụng chết bất ngờ hay bị kẻ cướp giết chết, tinh thần bấn loạn trong những giây phút cuối cuộc đời. Vậy sau khi chết có được vãng sanh về cõi Tịnh Độ không?

Đáp:
Không được vãng sanh, vì người đó tu không đúng tông chỉ Tịnh Độ. Nếu chỉ có niệm Phật thì không phải Tịnh độ. Tông chỉ của Tịnh Độ là tín, nguyện, hạnh. Quyết được vãng sanh là do cái nguyện. Cũng như các vị ở chùa tụng kinh A Di Đà, đã phát nguyện thì đã được vãng sanh, đang phát nguyện thì đang được vãng sanh, tức là phải có nguyện. Cái nguyện đó là tiểu nguyện và đại nguyện. Nếu phát tiểu nguyện thì không được vãng sanh, vì không hợp nhân quả. Phải phát đại nguyện, không phải chỉ miệng nói tâm nghĩ là đủ, phải thực hành cái nguyện của mình phát.

Trước kia tôi hoằng dương Tịnh Độ mười mấy năm, không thấy một người tu đúng tông chỉ Tịnh Độ. Duy nhất tôi chỉ gặp được một người, nhưng lúc ấy tôi đã hoằng thiền rồi. Người đó là ông chủ tiệm vàng ở Thị Nghè, y thông suốt giáo lý cũng có phát đại nguyện. Lúc đó tôi ở chùa Từ Aân, mục đích y đến vấn nạn. Tín, nguyện, hạnh, y đều biết hết. Nhưng thiếu không có thực hành đại nguyện của y phát, mặc dầu y có miệng nói tâm nghĩ mỗi ngày.

Không có thực hành đại nguyện là nguyện suông nguyện giả. Phát đại nguyện như mình mở trương mục ở ngân hàng, mình không có tiền hay tiền ít không đủ trả nợ. Không đủ trả nợ thì mình phải làm sao? Chủ nợ đòi thì mình ký ngân phiếu, hoặc 10 năm hoặc 20 năm. Còn Tịnh Độ sau khi vãng sanh mới trả, vãng sanh để sau này tu thành Phật. Như nghe gió thổi chim kêu thì mình ham tu, cũng như mình ham tiền ở trên thế gian này vậy.

Thành Phật tự nhiên độ chúng sanh. Tất cả chủ nợ thịt, chủ nợ mạng đều ưu tiên độ hết. Nhưng mình phát đại nguyện suông tức là nguyện giả, giống như mình ký ngân phiếu giả mà ở trong ngân hàng không có tiền, rồi người ta đến kỳ hẹn lại ngân hàng lấy tiền không có, người ký ngân phiếu phải bị ở tù, giống như nguyện suông làm sao được vãng sanh?

Cho nên, mình phải thực hành đại nguyện. Như mỗi ngày mình được bao nhiêu tiền phải bỏ tiền vô ngân hàng, để sau này người có ngân phiếu mới lãnh được. Người phát đại nguyện là phát nguyện độ hết tất cả chúng sanh thì phải coi tất cả chúng sanh đều bình đẳng.

Nhưng bây giờ đâu có thực hành được như vậy, con chó dơ dấy lại gần mình lại đuổi nó đi, con mối ăn hư đồ của mình làm sao cho nó chết, tức là không thực hành đại nguyện của mình phát. Nhiều người tu Tịnh Độ mà còn ăn thịt chúng sanh, làm sao có nguyện thật được? Muốn độ nó mà còn giết hại hay làm cho nó khổ thì nguyện giả rõ ràng, không có tội là may, làm sao có công đức để vãng sanh?

Hỏi:
“Nhất nhân hành đạo, cửu huyền siêu thăng” là sao?

Đáp:
Ấy là phá hoại nhân quả. Nhân quả thì người nào người nấy chịu, không có ai làm thay thế cho ai được. Con cháu có hiếu cách mấy cũng không ăn no dùm cho cha mẹ được, cha mẹ thương con cách mấy cũng không ăn dùm cho con được. Nếu là vậy không có nhân quả. Như Ngài Mục Kiền Liên tu chứng quả A La Hán, nhưng mẹ của Ngài đâu có siêu thoát? Như vậy là rõ ràng rồi!

Hỏi:
Kính xin Sư Phụ khai thị thần thông trong đạo Phật, có phải thần thông mà Ngài Mục Kiền Liên đã chứng là có thể đi trên hư không hay lỗ tai có thể nghe xa ngàn dặm?

Đáp:
Người đó không có biết Phật pháp. Bây giờ ai cũng có thần thông bằng như chư Phật, không có kém hơn Phật một chút nào cả, không có hiện lên là do bị che khuất. Trong cuốn Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21 có giải thích kỹ.

Hỏi:
Đức Phật Thích Ca ngồi thiền định ở dưới gốc bồ đề, hàng ngày còn phải có lúc ăn uống, làm vệ sinh. Ngài Hư Vân có lần ngồi thiền 100 ngày, rồi sau đó Ngài vẫn bình thường. Người Phật tử hiểu như thế nào về việc này để khỏi phản với khoa học, như mỗi ngày cơ thể phải cần một lượng calori để nuôi sống?

Đáp:
Người này, Phật pháp không biết, khoa học cũng không biết. Em của Tổ Tịnh Độ Huệ Viễn là Huệ Trì, lúc đó Ngài Huệ Viễn có đạo tràng tu Tịnh Độ được khoảng 123 vị tu. Ngài Huệ Trì từ giả anh đi vô Tứ Xuyên thấy có lỗ cây lớn rồi ngồi ở trong đó, rồi nhập định không hay biết, lâu ngày lỗ cây dần dần bít lại, Ngài ở trong đó trải qua hơn bảy trăm mấy năm.

Lúc trời sấm sét làm cho cây nứt ra, Ngài bị té ra ngoài, té ra ngoài nhưng Ngài cũng chưa xuất định. Những người chăn trâu bò thấy như chết, coi lại thì thân còn ấm và mềm. Rồi báo cho xóm làng, xóm làng không biết, rồi báo lên quan địa phương, quan địa phương cũng không hiểu, rồi mới đưa lên kinh thành. Nhà vua có các vị Thiền sư búng vào tai Ngài làm cho xuất định (đánh chuông cũng xuất định), xuất định rồi, hỏi Ngài nhập định được bao lâu, Ngài nói mới có một chút. Người ta hỏi Ngài là ai? Ngài trả lời “tôi là em của Huệ Viễn, không biết anh tôi có mạnh khỏe không?” Người ta nói “Huệ Viễn đã tịch cách đây đã hơn bảy trăm năm rồi” Ngài mới biết mình đã nhập định lâu như thế.

Người cho Phật Thích Ca không bằng Huệ Viễn, họ ngu quá mà! Cõi trời phi tưởng phi phi tưởng nhập định 8 muôn đại kiếp. 1 đại kiếp = 4 trung kiếp, 1 trung kiếp = 20 tiểu kiếp, 1 tiểu kiếp = 16 triệu năm. Đó còn là phàm phu, chưa ra khỏi luân hồi.

#37 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 30/08/2011 - 08:43

Hỏi:
Ngài Mục Kiền Liên là người đã chứng ngộ, tại sao còn bị nhân quả? Nhân quả là ở trong chiêm bao, nhưng ngài Mục Kiền Liên đã thoát ra khỏi chiêm bao mà vẫn bị chiêm bao chi phối?
Đáp:
Phật Thích Ca muốn cho người ta tin nhân quả nên mới dùng phương tiện. Như trong Hư Vân Niên Phổ nói: “Tiền thân của Phật là đứa bé đánh con cá lớn 3 cái, mà bây giờ Phật bị nhức đầu”. Theo lẽ thường người ta nói chân thật chưa chắc tin, còn Phật nói là “lời của tôi không phải thật”, đừng có chấp thật mà muốn người ta tin. Vì Phật nói xong là phủ nhận liền, như Phật nói: “49 năm thuyết pháp, tôi chưa từng nói một chữ”, kinh Kim Cang nói: “Ai nói Phật có thuyết pháp là phỉ báng Phật”, như thế có phải mâu thuẩn không?

Chẳng có pháp để thuyết mới gọi là thuyết pháp. Phật rất sợ người ta chấp vào lời của Phật, nên Phật vừa nói xong thì phủ nhận liền. Như mình cho có vô minh có sanh tử, đến chừng kiến tánh thấy rõ ràng không có sanh tử. Nhân quả trong chiêm bao, ra khỏi chiêm bao thì hết nhân quả. Tổ Đạt Ma nói trong Pháp Môn An Tâm: “Kiến tánh triệt để thì nhân quả đều hết”.

-Pháp môn an tâm của Tổ Đạt Ma:

Lúc mê thì người đuổi theo pháp (còn pháp chấp), lúc ngộ thì pháp thuận theo người (pháp chấp đã dứt sạch); lúc mê thì sắc thân làm chủ của tâm, lúc ngộ thì tâm làm chủ sắc thân. Hễ khởi tâm phân biệt đo lường thì hiện lượng tâm thức đều như mộng huyễn chẳng thật. Nếu tâm thức tịch diệt, chẳng còn chỗ niệm khởi, ấy gọi là chánh giác.

Hỏi:
Thế nào là hiện lượng của tâm thức?

Đáp:
Thấy tất cả pháp có, có chẳng tự có, do tự tâm chấp thật thành có; thấy tất cả pháp không, không chẳng tự không, do tự tâm chấp thật thành không. Bất cứ pháp nào cũng thế, đều do tự tâm chấp có chấp không mà thành.

Nếu tạo tất cả tội, mà người ấy tự kiến Pháp Vương (kiến tính triệt để, từ mở mắt chiêm bao thức tỉnh) thì liền được giải thoát. Hễ từ nơi ấy “sự” ngộ được thì sức dụng mạnh, nơi tự kiến pháp tính, bất cứ lúc nào cũng chẳng mất chánh niệm. Còn nơi văn tự ngộ được thì sức dụng yếu kém vậy.

“Sự” tức là “pháp”, pháp tức là sự, sự và pháp chẳng hai chẳng khác, mặc cho ông nhảy nhót nhào lộn, đủ thứ tạo tác đều chẳng ra ngoài phạm vi của pháp giới. Muốn đem pháp giới dung nạp pháp giới ấy là ngu si, vì bất cứ làm việc gì cũng chẳng thể ra ngoài pháp giới tâm được. Tại sao? Vì tâm thể và sự vật tức là pháp giới, cũng gọi là “hiện lượng” của tâm (hiện lượng tức là thật tướng, chẳng phải hiển hiện số lượng vậy).

Hỏi:
Người thế gian đủ thứ tu học, tại sao chẳng đắc đạo?

Đáp:
Vì thấy có “ta” nên chẳng đắc đạo. Bậc Thánh gặp khổ chẳng lo, gặp vui chẳng mừng, ấy là do chẳng thấy có “ta” nên chẳng màng khổ vui. Do quên hẳn cái “ta” nên đến được chỗ vô vi. “Ta” còn tự quên thì còn việc gì mà chẳng quên ư!

Hỏi:
Pháp tức là Không thì còn ai tu đạo ư?

Đáp:
Có “ai” mới cần tu đạo, nếu chẳng có “ai” thì chẳng cần tu đạo. Cái “ai” này tức là “ta”, nếu không chấp ngã, gặp bất cứ sự vật gì cũng chẳng sanh tâm thị phi. “Thị” do ta tự thị mà sự vật chẳng thị, “phi” cũng do ta tự phi mà sự vật chẳng phi, nơi tâm vô tâm, ấy gọi là thông đạt Phật đạo; đối cảnh chẳng khởi tri kiến gọi là đạt đạo. Hễ gặp sự vật nào cũng liễu đạt nguồn gốc của nó thì có thể khai mở huệ nhãn.

Người trí tùy thuận sự vật chẳng tùy thuận bản ngã (ngã chấp đã dứt sạch) nên không có thuận nghịch lấy bỏ; kẻ ngu tùy thuận bản ngã (ngã chấp còn) mà chẳng tùy thuận sự vật nên có thuận nghịch lấy bỏ.

Chẳng thấy một vật gọi là kiến đạo (thấy vật chẳng chấp thật, thấy đồng như chẳng thấy); chẳng hành một vật gọi là hành đạo. Nơi tất cả xứ sở mà quên xứ sở (chẳng chấp thật có xứ sở đồng như không có xứ sở). Đang lúc tạo tác chẳng có năng tác, sở tác, tức là thấy Phật; lúc thấy tất cả tướng tức là có cái kiến chấp để chấp tướng, nên đọa địa ngục, do quán chiếu thấu triệt Pháp tính nên được giải thoát. Hễ có ghi nhớ phân biệt đều thuộc về chảo dầu sôi, lò lửa than, liền hiện tướng sanh tử. Nếu thấy được Pháp giới tính (tính Niết Bàn) tức là kiến tánh, chẳng ghi nhớ phân biệt tức là Pháp tính vậy.

Do tâm chẳng phải là sắc (vật chất) nên phi hữu, thường dụng chẳng gián đoạn nên phi vô; dụng mà thường Không nên phi hữu, không mà thường dụng nên phi vô (Tâm như hư không vô sở hữu mà dung nạp vạn vật nên Không mà thường dụng, dụng mà thường Không vậy).


Tại người đó tư tưởng chấp thật thì mới sanh ra đủ thứ phiền não mới có đủ thứ vấn đề.

Hỏi:
Muôn niệm từ đâu khởi?

Đáp:
Từ bộ não.

Hỏi:
Tâm là cái gì?

Đáp:
Phật cũng không biết nữa. Vì nó không phải là sở tri.

Hỏi:
Có phải khi kiến tánh mới biết là cái gì khởi phải không?

Đáp:
Chưa kiến tánh cũng biết vậy. Ban đêm khởi niệm gọi là nhắm mắt chiêm bao, ban ngày khởi niệm gọi là mở mắt chiêm bao. Niệm niệm không dứt, tại do vọng tâm hoạt động hoài.
Hỏi:
Có người bạn con thầu bán căn tin ở một xí nghiệp do con định bán cơm chay và nước, nhưng do yêu cầu công nhân ăn mặn, nếu con bán thức ăn mặn thì có nhân quả không?

Đáp:
Nếu lấy cái đó làm lời thì có nhân quả.

Hỏi:
Con phát nguyện hiến thân cho ngành y để nghiên cứu sau khi con chết, nhưng con của con không đồng ý giao cho y khoa thì con của con có bị tội không?

Đáp:
Người nào làm người nấy chịu, nhưng người nào ra lệnh thì người đó phải chịu. Việc ấy không phải tội mà là nhân quả, nhân quả thì do tâm tạo, khởi tâm động niệm đều có nhân quả, mặc dầu chưa làm cũng có nhân quả.

Hỏi:
Pháp Bảo Đàn Kinh nói: “Niệm trước chẳng sanh là tâm, niệm sau không diệt là Phật”. Kính xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
Như người ta hỏi “tham thiền sắp kiến tánh, sắp kiến tánh thì sắp biết phải không”? Tôi nói “không phải, không thể nói là sắp biết, tại vì cái tâm mình đâu có ngưng biết, nó ngưng rồi biết lại mới nói là sắp biết”. Nếu tâm không có ngưng làm sao có tiền niệm hậu niệm? Cũng như ánh sáng mặt trời đâu có tiền (trước) hậu (sau)? Nếu hỏi ‘trời gần sáng thì mặt trời sắp chiếu có được không’? Không được. Vì mặt trời đâu có ngưng chiếu mà nói sắp chiếu? Rồi mặt trời làm sao có trước sau? Nó không có ngưng chiếu thì không có trước sau.


Hỏi:
Quy y Tam Bảo là gì?

Đáp:
Quy là trở về, y là y nhờ, tức là trước kia không biết, bây giờ biết thì trở về y nhờ Tam Bảo. Tam Bảo là Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo.

Y nhờ Tam Bảo để làm gì? Là được sự giáo hóa của Tam Bảo theo đó tu hành được giải thoát tất cả khổ, đạt đến tự do tự tại vĩnh viễn. Đó là mục đích quy y.

Chữ “Phật” là tiếng Ấn Độ nghĩa là giác ngộ. Tại sao cần phải giác ngộ? Vì nếu không giác ngộ thì phải ở trong chiêm bao mãi, chịu cái khổ trong chiêm bao, cứ luân hồi lục đạo trong chiêm bao chịu khổ hoài không được giải thoát cái khổ sanh tử. Nên cần phải giác ngộ tức là ở trong mở mắt chiêm bao thức tỉnh. Vì vậy mình phải theo sự giáo hóa của Tam Bảo mà thực hành Pháp Bảo do Phật truyền dạy thì mới được giác ngộ, nên mới nhờ Pháp Bảo.

Cũng như quý vị học tham thiền, pháp môn tham thiền giúp quý vị đến chỗ giác ngộ giải thoát tất cả khổ đạt đến tự do tự tại vĩnh viễn, nên pháp này gọi là Pháp Bảo.

Nhưng có Phật Bảo và Pháp Bảo rồi, phải có Tăng trực tiếp giáo hóa chúng sanh. Nếu có Phật Bảo và Pháp Bảo mà không có Tăng Bảo thì cũng như không có. Cho nên cần có Tăng Bảo từ đời từ đời đem Pháp Bảo truyền dạy cho chúng sanh, đúng theo đó tu hành được giải thoát.

Tăng dịch âm tiếng Ấn Độ là Tăng Già nghĩa là hòa hợp chúng tức là phải nhiều người hòa hợp, theo giới luật thì có 4 vị Tăng hòa hợp mới thành Tăng. Tăng là Tăng đoàn chứ không phải một vị. Quy y Tam Bảo là không quy y một thầy nào, cũng như tôi thay mặt cho Tam Bảo để chứng minh quý vị đã quy y Tam Bảo đã là đệ tử của Tam Bảo nghe theo lời dạy của Tam Bảo để tu hành đến chỗ giác ngộ.

Hỏi:
Ngũ giới là gì?

Đáp:
Ngũ giới là: Sát sanh – Trộm cắp – Tà dâm – Vọng ngữ – Uống rượu.

1-Giới sát sanh: Là không được giết hại chúng sanh. Bất cứ chúng sanh loài hữu tình nhỏ như con kiến, con muỗi,… cho đến lớn như con trâu, con bò,… và con người thì không được giết hại.

2-Giới trộm cắp: Là tất cả đồ vật của người chủ không đồng ý mà mình lấy, gọi là trộm cắp. Nếu những đồ của cha, mẹ, anh, em dùng qua dùng lại thì không gọi là trộm cắp. Mặc dầu tiền của cha, mẹ, anh, em có giữ riêng, nếu chưa có sự đồng ý mà lấy thì cũng thuộc trộm cắp.

3-Giới tà dâm: Là ngoài vợ chồng mà quan hệ dâm thì cấm, còn vợ chồng chánh thức thì không cấm dâm. Việc này ở ngoài đời thì pháp luật cũng cấm. Đó là vai trò bổn phận làm chồng hay làm vợ.

4-Giới vọng ngữ: Gồm có 4 thứ: Vọng ngôn, ỷ ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt.

-Vọng ngôn: Là có nói không có, không có nói có, tức là nói gạt nói láo.

-Ỷ ngữ: Là nói lời thêu dệt nghĩa là nói chuyện quan hệ dâm dục của nam nữ.


-Ác khẩu: Là chửi mắng người ta.

-Lưỡng thiệt: Là nói hai chiều, tức là người bên này nói xấu người kia, người bên kia nói xấu người này, làm cho hai bên gây lộn đánh lộn.

5-Giới uống rượu: Đáng lẽ uống rượu không có hại đến ai. Nếu uống rượu say thì có thể phạm đến 4 giới trước (sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ), vì say nên tự mình không kềm chế được. Cho nên, nhà Phật phải cấm uống rượu.

Sát, đạo (trộm), dâm, vọng gọi là tánh giới. Bốn giới này là căn bản của nhà Phật. 5 giới của người Phật tử tại gia, 10 giới Sa Di, Sa Di Ni, 250 giới Tỳ Kheo, 348 giới Tỳ Kheo Ni, 10 giới trọng 48 giới khinh của Bồ Tát đều là lấy 4 giới này làm căn bản. 4 giới này thuộc về tánh giới. Không những thọ giới rồi mà lại phá giới thì có tội, không có thọ giới mà phạm thì cũng có tội nhân quả, tức là phải chịu quả báo.

Nhưng sám hối có thể sám diệt được tội phạm giới, còn tội nhân quả không thể sám được. Nhân nào quả nấy thì phải chịu quả báo. Không phải thuộc về tánh giới là giá giới như giới uống rượu có thể khai tức là uống không có phạm. Tại sao? Như có bệnh mà thầy thuốc bảo uống thuốc rượu mới trị được bệnh thì mình có thể công khai uống rượu để trị bệnh nên không phạm. Nếu mình uống lén thì phạm hay uống lộn rượu cũng không phạm hoặc những thứ có tên rượu mà uống không say, như cơm rượu, bỏ rượu vào đồ ăn không thể say thì không phạm.

Nhưng tánh giới không thể khai, nhưng có thể sám hối. Sám rồi là hối cải không phạm nữa.

Hỏi:
Đi trên đường lỡ đạp nhầm con trùng thì có bị tội không?

Đáp:
Mỗi năm đến mùa kiết hạ, chư Tăng không ra ngoài đường là tránh đạp nhầm côn trùng, vì mùa hạ ít lạnh côn trùng ra ngoài đường nhiều. Theo Phật pháp là tất cả do tâm tạo, nếu tâm không biết thì không có nhân, không có nhân thì không có quả. Giữ được thiền giới (không biết) thì không có phạm, lúc biết thì phạm. Nếu có phản ứng tự nhiên thì cũng phải có quả tự nhiên.

-Như vậy có tội rồi phải không?

-Việc ấy không phải tội, mà là việc nhân quả. Tức là tạo nhân nào thì chịu quả ấy. Mình cố ý phạm pháp luật ở ngoài đời tức là có tội cấm nên bị người ta bắt, giết gà vịt thì đối pháp luật ngoài đời không có tội, mà có tội nhân quả. Phạm giới mới coi là tội, mà có thể sám hối diệt tội phạm giới thì không còn tội. Như tội nặng cách mấy nhưng sám hối thì được hết.

Như tội ba la di là tội hạng nhất của người xuất gia, phải bị 9 triệu năm địa ngục, nếu được sám hối thì hết tội. Còn nhân quả thì khác, nhân nào quả nấy. Như bây giờ mình vô ý có phản ứng tự nhiên đập chết con muỗi giống như mình ra ngoài đường bị xe cán chết. Chiếc xe vô ý cán chết người thì pháp luật cũng phạt người lái xe. Nên tâm cố tình thì bị quả cố tình, tâm vô ý thì bị quả vô ý.

Hỏi:
Người chồng bán đồ mặn để nuôi vợ con, người vợ phát tâm tu. Như vậy có lọt vào nhân quả không?

Đáp:
Người nào có quyền mà chủ trương làm thì chịu nhân quả, còn người cấp dưới không có quyền là chỉ nghe lệnh cấp trên thì không bị nhân quả. Cũng có trường hợp cấp trên sai cấp dưới đi giết hại thì cấp dưới cũng phải bị nhân quả.

Hỏi:
Những người ăn thịt không thấy con vật bị giết hay không thấy con vật đau khổ la lên, vậy những người ăn thịt đó có mắc tội nhân quả không?

Đáp:
Có mắc tội nhân quả. Kinh Lăng Nghiêm và kinh Lăng Già nói: “Ăn tam tịnh nhục, ngũ tịnh nhục đều cấm”. Không nghe, không thấy, không vì mình mà giết gọi là tam tịnh nhục, rồi thêm cầm thú ăn dư hay con vật tự chết, côïng chung là 5 thứ gọi là ngũ tịnh nhục. Mình dùng đồ có liên quan đến thân thể của con vật thì cũng có dính líu nhân quả, như dùng giày làm bằng da trâu bò, áo lông thú,…

Hỏi:
Có người ăn thịt khỉ, đến khi bệnh thì có hành vi leo cây, nhảy nhót như khỉ. Người vợ của người ăn thịt khỉ thắc mắc sao nghiệp báo đến nhanh quá?

Đáp:
Nghiệp nào nặng thì trả trước, như nghiệp thiện nhiều hơn nghiệp ác thì phước báo đến trước, nghiệp ác nhiều hơn nghiệp thiện thì việc xấu đến trước. Tức là nhân mạnh thì quả mau đến, nhân yếu thì quả đến sau. Có một vị phát minh thuốc phòng tê liệt để trị cho người khác thì được, nhưng chính ông đó lại bị tê liệt mà dùng thuốc của ông thì không chữa được, nên lúc ông gần chết rất khổ.

Tại sao? Đó là quả báo của ông. Trong khi giúp người ta được phải thí nghiệm biết bao nhiêu con thỏ con chuột chịu đau khổ rồi mới chết. Cho nên trong khi sống ông bị quả báo chứ không đợi đến kiếp sau mới có quả báo.

Vì vậy, nhà khoa học Einstein ăn chay trường là ông sợ quả báo.

Hỏi:
Con đã ăn chay trường lâu rồi, nhưng người mẹ của con không chịu ăn chay thì con phải làm cách nào để cho bà ăn chay?

Đáp:
Ở Thượng Hải, có ông chủ ngân hàng ăn chay trường, nhưng khuyên mẹ ăn chay lần nào cũng bị rầy. Ông không khuyên nữa, bảo nhà bếp làm chay thật ngon nhưng không nói là đồ chay. Bà mẹ ăn chay được 2 năm mà không biết mình ăn chay. Đến lần sanh nhật của bà, ông chủ ngân hàng mới nói với bà mẹ rằng: “Sanh nhật của mẹ, mời tất cả mọi người đều dự tiệc chay và mẹ cũng ăn chay”.

Bà nói: Aên không được mà cứ nói ăn chay hoài!

Ông ấy nói: Mẹ đã ăn chay được hai năm rồi mà! Tại sao còn nói không được?

Bà nói: Sao nói tôi ăn chay 2 năm?

Ông ấy nói: Mẹ cứ hỏi các vị nhà bếp?

Về sau bà ấy không còn nói gì về việc ăn chay nữa.

-Mấy đứa em của con nói con bất hiếu và nói sao không mua thịt cho mẹ ăn? Rồi mấy đứa em chửi con hoài! Tại sao?

-Tại vì cô không biết dùng phương tiện. Nếu hại cha mẹ chịu quả báo mới là bất hiếu. Mấy đứa em có chửi cũng mặc kệ. Như ông chủ ngân hàng cũng bị mẹ ông chửi vậy.

Hỏi:
Bát quan trai là gì?

Đáp:
Bát quan trai là phương tiện cho người tại gia tập tu một ngày một đêm cuộc sống xuất gia, nên có qui định một ngày một đêm. Theo giới luật của nhà Phật là khi thọ giới thì được xả giới, còn bát quan trai khỏi cần xả, vì thọ giới bát quan trai là quy định chỉ được một ngày một đêm thì tới giờ tự xả. Như ngũ giới là cấm tà dâm, nhưng thọ giới bát quan trai là giới xuất gia một ngày một đêm thì tà dâm và chánh dâm đều cấm.

Bát quan là 8 thứ quan ải (cấm), tức là 9 giới của10 giới Sa Di, trừ ra giới cầm tiền bạc, vì người Phật tử không có thể lìa tiền bạc được. Trai là ăn ngọ.

Giới dâm là quan hệ sinh lý rất khó giữ. Các cầm thú như cọp, beo, sư tử,… mình cho nó là ác thú. Nhưng nó dâm dục vì sự truyền giống, ngoài sự truyền giống thì nó không dâm dục, nó giết hại con khác vì sự đói của nó, còn nó no thì không giết hại. Con người thì không phải vậy, không phải vì để no mà giết hại, không phải vì truyền giống mà dâm dục! Cho nên, nhà Phật phải cấm, mà lại rất là khó cấm. Tu sĩ có thêm 5 giới để làm hàng rào giữ giới dâm.

Bát quan trai như cái cầu để cho người ta tu giải thoát. Thói quen của con người rất khó sửa, nên phải tập sửa lần lần. Theo qui định người thọ giới Bồ Tát mỗi tháng phải thọ 6 ngày bát quan trai (2 ngày cuối tháng, mùng 1, rằm, mùng 8 và 23). Nếu đã tập quen thì ngày nào mình cũng có thể thọ bát quan trai được. Tức là mình ở nhà tiếp tục tu như mình đến chùa, gọi là thân tại gia nhưng tâm xuất gia. Như Lục Tổ nói: “Thân tại gia mà tâm xuất gia, còn tốt hơn thân xuất gia mà tâm tại gia”. Những người thân xuất gia mà tâm tại gia là những người tạo tội địa ngục.

Hỏi:
Con tham thoại đầu giữ nghi tình, con mắt con vẫn thấy cảnh vật cũng như không thấy, nhưng vẫn đi đứng được và con không biết trời biết đất biết ta gì nữa, rồi câu thoại đầu cũng biến mất. Như vậy là thế nào?

Đáp:
Biết câu thoại đầu biến mất thì không được rồi, đừng có biết, cứ giữ cái không biết là đủ. Nếu nghi tình còn thì không biết thì mấy cái kia khỏi cần nói.

-Làm thế nào để tăng nghi tình lên?

-Như vậy là muốn tìm hiểu cho biết làm chi nữa? Đã giữ không biết là chấm dứt tìm hiểu.

-Đến giai đoạn nào thì nghi tình thành khối?

-Vì ông muốn tìm hiểu nghi tình là nghịch với tham thiền. Đã biết tham thiền là “không biết” mà! Không biết là chấm dứt tìm hiểu, bây giờ không chịu chấm dứt tìm hiểu mà lại tìm hiểu nghi tình, tức là không có tham thiền.

Sơ lược cách tham Tổ Sư thiền:

Cách thực hành rất giản dị chỉ là hỏi và nhìn, hỏi là kích thích niệm không biết, nhìn là nhìn chỗ không biết. Như hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” thì khởi lên một niệm không biết, khán là nhìn chỗ không biết, chỗ không biết thì không có chỗ, không có chỗ thì không có mục tiêu để nhìn, nên nhìn mãi không thấy gì vẫn còn không biết, chính vẫn còn không biết đó gọi là nghi tình. Cứ hỏi và nhìn, hai cái một lượt đi song song để giữ nghi tình, thì nghi tình này sẽ đưa hành giả đến thoại đầu, rồi kiến tánh thành Phật.

Năm năm trước, mỗi năm tôi đều có đi Canada một lần để hoằng Tổ Sư thiền. Ở bên Mỹ có 10 Phật tử đi theo, trong đó có 2 mẹ con, người mẹ là tên Nguyệt Anh có đứa con mới 3 tuổi (4 tuổi ta) cùng đi theo. Đứa bé được mẹ nó dạy tập tham thiền khoảng mấy tháng. Đến thành phố lớn nhất của Canada là Toronto có quán khoa học, trong đó có máy vi tính để mình thử hoạt động của bộ óc. Khi để tay trên bộ phận máy vi tính thì đèn ở trên sáng lên. Những người theo tôi đi Canada đều là hành giả tham thiền đều thử qua máy này, lúc hỏi và nhìn thì đèn sáng lên từ trên xuống cùng rồi đèn tắt.

Tôi thường nói con nít 6, 7 tuổi và bà già 70, 80 tuổi đều biết tham thiền. Nhưng đứa bé mới 3 tuổi, tôi chưa tin nó tham thiền được, sẵn có máy để thử coi. Tôi ẳm nó trên đầu gối tôi, tôi lấy tay nó đè trên máy thì đèn cũng sáng ở trên, tôi bảo nó tham thiền đi, nó tham khi chưa có trời đất ta là cái gì? Thì đèn ở trên sáng rồi xuống dưới cùng tắt luôn.

Lúc đó những người da trắng đứng kế bên nói: Các vị sao hay quá! Người nào thử thì đèn đều xuống được, luôn đứa bé thử, đèn cũng xuống được, tại sao chúng tôi làm không được? Muốn đèn xuống một chút cũng không được vậy?

-Nói với họ: Bộ óc bớt suy nghĩ thì đèn mới xuống được.

-Họ nói: Tôi không suy nghĩ sao đèn không xuống?

Họ nói không suy nghĩ nhưng bộ óc họ không nghe lời theo. Như những người bị mất ngủ, cứ suy nghĩ hoài, muốn ngưng suy nghĩ cũng không được. Nếu ngưng suy nghĩ thì không bị mất ngủ. Đứa bé khi thử thì đèn còn xuống nhanh hơn người lớn.

Tại sao? Ở trong 10 người có cô Hành Thiền thợ may công phu được tự động hóa rồi, cô đang cắt may khỏi cần qua óc, nhưng cũng cắt xong bộ đồ. Tại sao cô biết khỏi cần qua óc? Ban đầu cũng để ý ghi thước tấc vào trong sổ theo thước tấc mà cắt, khi tham thiền nghi tình đến tự động cuồng cuồng nổi lên, nhưng cô ấy vẫn còn cắt. Khi cắt xong chợt nhớ lại “vừa rồi mình không biết, chắc cắt lộn, nên phải thường cho người ta”, nhưng xét lại thì không có lộn. Cái đó may xong mà người ta còn khen đẹp hơn kỳ trước. Từ đó về sau cô ấy cắt cứ cắt, không biết gì hết, rồi cũng cắt xong và cắt từ sáng đến chiều mà không thấy mệt. Cô ấy chỉ cắt còn người khác thì may.

Sau này cô Hành Thiền qua Mỹ vẫn cắt may; cô Duy Nghi tốt nghiệp thiết kế, thiết kế một kiểu rất phức tạp, đem cho những thợ may nghiên cứu để cắt mấy ngày làm không được, rồi nhờ cô Hành Thiền cắt, cô ấy khỏi cần nghiên cứu vẫn cắt được, vì khỏi cần qua bộ óc là do bộ óc không biết.

Lúc ở Canada, cô Hằng Thiền đo máy vi tính thì đèn tắt chậm hơn đèn của đứa bé đo máy vi tính. Vì cô Hành Thiền là người lớn đã biết quá nhiều nên phải dùng công phu dẹp cái biết, còn đứa bé thì chưa biết gì tức là không biết sẵn nên tham thiền dễ tắt đèn nhanh hơn.

Như vậy chỉ cần dùng cái không biết, nên đứa bé 3 tuổi vẫn tham thiền được. Rồi về Mỹ nó dạy mấy đứa nhỏ tham thiền, nhưng mấy đứa đó là 7, 8 tuổi hỏi nó “tại sao mày không dạy mấy đứa bằng mày”? Nó trả lời “tụi nó không biết”. Vì kiếp trước nó có thể đã tham thiền rồi, nên bây giờ nó 3 tuổi tham thiền được. Vậy nó là thành phần đặc biệt.

Hỏi:
Theo Phật dạy là “nhân nào quả nấy”, con không hiểu tại sao vào ngày rằm tháng giêng, trong hàng Phật tử đến chùa cúng sao giải hạn, thậm chí cũng có quý thầy thúc giục quở trách Phật tử nào không cúng sao một năm sẽ gặp rắc rối về bổn mạng. Vậy điều này có hợp chánh pháp không?

Đáp:
Những việc này là tà mạng thực nên Phật cấm, nhưng người ta không chịu nghe lời Phật dạy. Nếu đã tin nhân quả thì còn hỏi những việc đó làm chi! Vì người đó không tin nhân quả nên mới hỏi.
KHÓA BỒI DƯỠNG THIỀN HỌC TẠI CHÙA LONG KHÁNH (BÌNH ĐỊNH)
13 – 4 – 1999


Tâm là cái gì? Nguồn gốc Phật pháp là tâm, ai cũng nói được, mà chẳng có ai biết, vì chân tâm vô hình vô tướng không có số lượng, mọi người đều có. Chư Phật nói tâm như hư không vô sở hữu; Ngài Long Thọ là Tổ thứ 14 Thiền tông có giảng trong Trí Độ Luận; Ở trong Phật pháp với Thiền tông, tôi có giải thích.

Ngài Long Thọ nói: “Tâm như hư không vô sở hữu”. Vô sở hữu là không có hư không, mà dung nạp và ứng dụng, ấy là cái thực dụng. Như bây giờ nhà cửa đất đai, cây cối, núi sông đều phải nhờ vô sở hữu này dung nạp và ứng dụng, nhưng hiện nay, các vị ngồi đây cũng nhờ vô sở hữu mới có chỗ ngồi.

Vô sở hữu tức là trống rỗng, Phật pháp nói là Tánh Không, vì trống rỗng mới hiện bày cái dụng. Tâm mình trống rỗng, không bị thời gian không gian hạn chế, nên tất cả vũ trụ vạn vật đều ở trong đó. Nhưng cái thông minh của bộ não làm hạn chế lại, như cái tách bít lại là cái tách chết không dùng được, cái bình nầy cũng vậy, nó có cái KHÔNG mới đựng nước được. Tất cả các thứ muốn dùng đều phải nhờ cái KHÔNG.

Ngài Long Thọ nói: Trống rỗng mới dùng được, nếu không trống rỗng thì không dung nạp và không dùng được. Như cái tách bị bể thì không còn dùng được, còn hư không trống rỗng thì không bị thời gian, không gian hạn chế. Cái tách bị không gian thời gian hạn chế, nếu cái gì có thể tiêu mất thì không chân thật.

Có và không là phân biệt của bộ não, vì có và không là nhị biên tương đối, Phật pháp không có tương đối. Trong Trung Quán Luận phá tương đối. Có là pháp hữu vi, không là pháp vô vi. Trong đó phẩm Quán Như Lai, Quán Niết Bàn đều phá pháp vô vi. Quán Nhân Duyên, Quán Khứ Lai,… đều phá pháp hữu vi.

Phàm có tương đối đều phá. Vì sao lại phá? Vì nó không phải thực tế, thực tế thì không có tương đối; nhưng cuộc sống hằng ngày đều phải nhờ tương đối, cũng như mình hiện giờ ở trong mở mắt chiêm bao.

Trong biểu đồ Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21, có 2 bộ phận: Thật thể và hư thể, ở chính giữa là Diệu giác. Diệu giác là cái biết cao nhất. Vừa rồi tôi nói: Trống rỗng mới dung nạp tức là tánh không, không này chẳng phải cái không chết, không này có cái biết cao nhất của Diệu giác. Cái biết này không phải cái biết của bộ não, cái biết bộ não gọi là vọng tâm. Còn cái biết chuyển thành trí gọi là chân tâm. Thức chưa chuyển thành tứ trí thì nó hợp tác với hệ thống thần kinh bộ não, tức là lục căn gọi là vọng tâm. Cuộc sống hằng ngày ở trong vọng tâm, vì mình ở trong chiêm bao.

Triết Học, Tự Nhiên Khoa Học, Y Học, Tâm Lý Học; 4 thứ hợp lại giải quyết cơ thể của mình chưa đầy đủ. Tại sao? Vì họ không phân biệt được lục căn, lục thức. Lục căn đảm nhiệm chức vụ gì? Lục thức đảm nhiệm chức vụ gì? Tất cả đều không rõ mà chỉ biết bộ não. Thức thứ 6 và thức thứ 7 thì hoàn toàn không biết, cho nên họ giải thích không thông, như các giáo sư trường đại học, nghi thiếu cái gì nhưng không biết.

Quyển Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21 giải thích rõ và đầy đủ hơn 4 đại học hợp lại. Duy thức nhà Phật diễn giải thông suốt tất cả. Trong thật thể biểu đồ: Nhãn căn như cây đèn đảm nhiệm sự chiếu soi, nhãn thức thì phân biệt. Tức là nhờ nhãn căn chiếu soi thấy chậu bông thì nhãn thức mới nhận ra màu trắng, đỏ, vàng, xanh; đồng thời có thức thứ 6 để giúp. Nhãn căn chiếu soi hiện cái hình ra, còn nhãn thức phân biệt cái hình gì, thức thứ 6 phân biệt đầy đủ hơn; nhãn thức chỉ phân biệt cố định, thức thứ 6 có tánh khả biến. Vì tánh khả biến bao gồm tam tánh: Thiện, ác và vô ký.

Tam tánh gồm có: Biến kế chấp, y tha khởi và viên thành thật. Thiện ác thì người nào cũng biết, nhưng không có rõ, không có tiêu chuẩn. Tôi muốn hoằng dương với người tây phương, nên mới nói có tiêu chuẩn. Thế nào gọi là thiện? Thế nào gọi là ác? Trong cuốn Vũ Trụ Quan có giải thích kỹ.

Đã nói nhãn căn rồi, thì các căn kia cũng như vậy; chỉ có ý căn nhiều người chưa hiểu; ý căn đảm nhiệm suy nghĩ, còn ý thức theo đó phân biệt thiện, ác… ý căn và ý thức khác nhau.

Thức thứ 7 có 2 nhiệm vụ:

-Ngày đêm chấp thức thứ 8 là TA (thức thứ 8 là bản thể của vũ trụ, là bao gồm tất cả các chủng tử vũ trụ, cũng là bản thể của tâm mình. Đầu thai đến trước và chết đi sau cùng là do thức này).

-Truyền tống thức: Đem chủng tử thiện nghiệp, ác nghiệp của thức thứ 6 hay không thiện không ác truyền vô thức thứ 8 (còn gọi là tạng thức hay kho tàng), khi nào chủng tử chín mùi, thì nó truyền ra giao cho thức thứ 6 đi thi hành. Cái nào tâm lực mạnh thì cái quả đến trước, cái nào tâm lực yếu thì cái quả đến sau, có khi kiếp này tạo cái nhân, kiếp sau mới nhận cái quả, hoặc là 10 kiếp, 100 kiếp mới nhận cái quả.

Nếu tu Tổ Sư Thiền, tăng cường sức mạnh của tâm, tức là tạo nhân mạnh thì quả đến liền. Mặc dầu tạo nhân ác nhiều kiếp trước, nhưng nó yếu hơn nên quả đến sau. Ví dụ như tạo nhân là 1 độ, mà tham thiền 10 độ thì quả tham thiền đến trước, đến hết rồi thì tới quả 9 độ, 8 độ, cuối cùng đến quả 1 độ.

Nếu tham thiền được 10 độ, mà không ngưng tham lại tiến thêm 100 độ, 1000 độ, 1000000 độ cho đến thành Phật thì cái nhân ác không có cơ hội đến được. Thành Phật rồi phải độ chúng sanh nào có nhân duyên. Trong kinh Kim Cang nói: Tiền thân Phật Thích Ca bị Ca Lợi Vương xẻ thân ra từng miếng, mà Phật Thích Ca lại độ ông ấy trước. Ca Lợi Vương sau này là tôn giả Kiều Trần Như.

Bất cứ chủng tử thiện ác, một khi đã chín mùi thì cái quả mới đến, nhân yếu dời lại sau, nhân mạnh thì đến trước. Cho nên tự mình có thể sửa đổi nhân quả, nhưng người khác không sửa được. Như ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ, ngài đã chứng quả A La Hán được đệ nhất thần thông, nhưng không cứu được cái nghiệp mẹ ngài là bà Thanh Đề; phải nhờ tâm lực của1250 vị Tỳ Kheo A La Hán hợp lại mới chiêu cảm được tâm bà Thanh Đề, rồi tâm bà tự chuyển ra khỏi cõi ngạ quỷ.

Nhân quả là vậy! Ai ăn người nấy no, con cái có hiếu không ăn no dùng cho cha mẹ, cha mẹ thương con cách mấy cũng không ăn no giùm cho con.

Hỏi:
Những người tinh tấn tu thiền thất, phiền não chưa dứt, vậy cuối cùng cuộc đời người ấy có được giải thoát không?

Đáp:
Vừa rồi nói là tùy theo sức lực của mình tạo nhân, như kiếp trước mình tạo nhân ác, làm cho người ta bị chết đói, nếu kiếp này tâm lực chỉ 1 độ, cũng phải chịu quả chết đói. Bây giờ tham thiền từ 1 độ lên đến 2 độ, 3 độ cho đến 10 độ và mình chỉ làm việc lành, không làm việc ác thì phước báo đến trước, quả chết đói dời lại sau. Nếu tham thiền được 10 độ mà không tu nữa thì quả 10 độ hết, rồi đến quả 9 độ, 8 độ, cứ dần dần đến 1 độ thì quả chết đói cũng phải tới.

Tham thiền được 10 độ không ngưng tham, lại tiến thêm 100 độ, 1000 độ, 1000000 độ, cho đến thành Phật thì quả chết đói không đến được, nhưng nhân đó không có tiêu mất, nên thành Phật còn phải độ chúng sanh, người mình làm cho chết đói, được ưu tiên độ họ trước thì nhân chết đói mới tiêu mất, vì thế mình không bị chết đói.

Hỏi:
Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận nói: Giải ngộ rồi tu chơn như tam muội thì mới ngộ nhập được, còn tu thoại đầu công án chưa giải ngộ, có phải tu giống như ngoại đạo không?

Đáp:
Ấy là người đó không có rõ, cuộc sống hằng ngày đều phải dùng ý thức (bộ não). Bộ não gồm có 2 mặt: Biết và không biết. Người ta dùng mặt biết để tu gọi là Như Lai thiền, như Tịnh Độ tông, Thiên Thai tông, Hiền Thủ tông, Duy Thức tông,… theo phổ thông giáo môn có 52 cấp: Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác.

Dùng không biết để tu là Tổ Sư thiền không có cấp bậc, tức từ địa vị phàm phu tu chứng lên Đẳng Giác. Từ Đẳng Giác tiến thêm một cấp nữa gọi là Diệu Giác tức là quả Phật. Vì người hỏi không hiểu, cho nên câu hỏi không đúng.

Hỏi:
Tông chỉ Thiền tông là bất lập văn tự, tại sao những bản văn bất hũ, những án văn tuyệt tác, mà lại do các Thiền sư để lại?

Đáp:
Lục Tổ nói trong Pháp Bảo Đàn: Chính 2 chữ “bất lập” cũng là văn tự vậy! Kinh Lăng Già cũng nói: “Văn tự tánh lìa”. Nếu không dùng văn tự thì Phật pháp bây giờ không còn, Thiền tông cũng vậy. Có văn tự nhưng không chấp vào văn tự, tất cả cũng đều không chấp. Phật pháp là phá chấp trước của chúng sanh, nếu không chấp trước thì tất cả các pháp đều là Phật pháp, tức là theo thế lưu bố tưởng không sanh ra trước tưởng (kinh Đại Niết Bàn) .

Hỏi:
Thế gian Thánh Phàm khác biệt, phàm phu ngoài tâm chấp pháp, vọng lập kiến văn; bậc Thánh đã ngộ nhất tâm, tại còn có tri kiến như phàm phu?

Đáp:
Bậc Thánh dù có tri kiến, nhưng thấu rõ vật như huyễn, chẳng sanh chấp trước. Kinh Đại Niết Bàn nói:

Bồ Tát Ca Diếp bạch Phật: Thế Tôn! Nếu như phiền não sanh bởi điên đảo tưởng, thì tại sao bậc Thánh thật có điên đảo mà không có phiền não?

Phật hỏi: Sao nói bậc Thánh có điên đảo tưởng?

Bồ Tát Ca Diếp đáp: Bạch Thế Tôn! Tất cả Bồ Tát gọi con trâu là con trâu, con ngựa là ngựa, gọi nam, nữ lớn nhỏ, nhà cửa, xe cộ,… ấy là điên đảo tưởng.

Phật nói: Tất cả phàm phu có 2 thứ tưởng: thế lưu bố tưởng (thế gian đã lưu hành) và trước tưởng (chấp trước).

Bậc Thánh chỉ có thế lưu bố tưởng chẳng có trước tưởng, phàm phu chấp trước nên ở thế lưu bố tưởng sanh ra trước tưởng. Bậc Thánh khéo giác quán, nên ở nơi thế lưu bố tưởng không sanh ra trước tưởng. Cho nên phàm phu gọi là điên đảo tưởng.

Bậc Thánh dù tri, nhưng chẳng gọi là điên đảo tưởng; lại do cảnh vốn tự không, đâu cần hoại tướng; do linh tâm tự chiếu, đâu nhờ cảnh sanh, nên chẳng như phàm phu chấp trước năng sở tri kiến như vậy.

Triệu Luận nói: Hễ có sở tri thì có sở bất tri. Do Thánh tâm vô tri nên vô sở bất tri, cái tri của vô tri gọi là nhất thiết tri. Nên Kinh nói: “Thánh tâm vô tri mà vô sở bất tri”, thật đáng tin vậy! Cho nên bậc Thánh trống rỗng nơi tâm, mà thật tế chiếu soi, suốt ngày tri nhưng chưa từng tri, như lắng nước soi bóng, há đâu có lập tâm năng sở. Cảnh trí đều không đâu có cảnh giác tri ư! Theo sự trình bày trên đây và kinh Đại Niết Bàn, thì biết ở nơi pháp thế gian không sanh trước tưởng tức là pháp xuất thế gian, cũng là Phật pháp. Chứ không phải ngoài pháp thế gian mà có pháp xuất thế gian đặc biệt gọi là Phật pháp vậy.

Nói tóm lại, cuộc sống hằng ngày đói thì ăn, khát thì uống, lạnh thì mặc thêm áo, nóng thì cởi bớt ra, cho đến nói năng tiếp khách làm việc… ở nơi các pháp thế gian , chẳng sanh trước tưởng, tức là Phật pháp vậy. Chẳng đem chủ quan của mình xen vào sự vật, tức là chẳng sanh trước tưởng, cũng là chẳng có “cho là” thì không lọt vào nhị biên đối đãi vậy.

Phật nói: Dùng văn tự nhưng không biết văn tự, vì chỉ là phương tiện. Chấp phương tiện chân thật là si mê; phương tiện là tạm thời, đâu phải chân thật. Tất cả lời nói văn tự đều là văn tự, chớ nên chấp thật.

Cuộc sống hằng ngày, ăn cơm thì cứ ăn cơm, mặc áo thì cứ mặc áo, chứ không cho áo này đẹp, áo kia xấu, sanh tâm chấp trước thì phiền não mới đến, cũng như muốn may mà không có tiền may cũng phiền não. Theo câu hỏi trên, người hỏi có chấp trước văn tự.

Hỏi:
Minh tâm kiến tánh thì lấy cái gì để minh, lấy cái gì để kiến?

Đáp:
Tâm như hư không vô sở hữu, làm sao lấy cái gì để minh để kiến? Vì tất cả lời nói đều có ngữ bệnh, như trong kinh nói: “Từ vô thỉ đến nay”. Từ vô thỉ sao có đến nay được! Phải có hữu thỉ mới có đến nay. Rồi nói: “Kiến tánh thành Phật”, tánh làm sao kiến? Nếu tự tánh thành sở kiến thì có năng sở, đâu phải bất nhị! Nếu có năng kiến và sở kiến là nhị rồi. Cho nên, tất cả văn tự và lời nói chỉ là phương tiện; nếu chấp phương tiện cho là thật thì học cũng uổng công.

Hỏi:
Thiền là một pháp môn tương đối khó thực hiện trong hiện tại, vậy cúi mong Hòa thượng dạy cho phương pháp dễ thực hiện nhất, mà vẫn đạt như sở nguyện?

Đáp:
Phương pháp Tổ Sư thiền rất dễ tu, chỉ hỏi câu thọai và nhìn thọai đầu. Tham là hỏi câu thoại, để kích thích lên một niệm không biết; khán là nhìn, nhìn chỗ không biết, nhưng chỗ không biết thì không có chỗ, không có chỗ thì không có mục tiêu để nhìn, không có mục tiêu để nhìn, thì nhìn mãi không thấy gì vẫn còn không biết; chính vẫn còn không biết đó, Thiền tông rất chú trọng gọi là nghi tình, tức là cái không biết; hỏi và nhìn, hai cái song song đi một lượt, vừa nhìn để giữ cái không hiểu không biết, tức là nghi tình để đưa hành giả đến thoại đầu, rồi kiến tánh thành Phật.

Ví dụ chỗ trên cây viết là thoại đầu, ở dưới là thoại vỉ. Bắt đầu hỏi và nhìn là rời khỏi thoại vỉ, chưa đến thoại đầu là đang đi ở giữa đường. Vì mục đích của mình là muốn đến thoại đầu, cho nên gọi là tham thoại đầu hay khán thoại đầu.

Phật Thích Ca dạy dùng không biết của bộ não, để chấm dứt cái biết của bộ não. Tất cả biết bộ não chia ra làm 3 bộ phận: Tìm hiểu biết, ghi nhớ biết và suy nghĩ biết. 3 cái biết này hết thì sẽ đến thoại đầu, Thiền tông gọi là đầu sào trăm thước, có người dịch là đầu sào trăm trượng, chỗ này cũng gọi là nguồn gốc của ý thức, ngài Nguyệt Khê nói là vô thỉ vô minh, tức là căn bản vô minh.

Tại sao còn có vô minh? Vì còn không biết của bộ não, nên sát na cuối cùng của đầu sào trăm thước tiến lên một bước lìa khỏi ý thức, thì biết và không biết của bộ não đều sạch, cái biết Phật tánh hiện ra khắp không gian và thời gian.

Khắp không gian tức là trống rỗng nên gọi là tánh không, khắp không gian không có khứ lai nên gọi là Như Lai. Khắp thời gian không có gián đoạn, chẳng có sanh diệt nên gọi là Niết Bàn. Vì không sanh không diệt nên trống rỗng, không có chỗ trụ gọi là vô sở trụ. Lục Tổ nghe Ngũ Tổ giảng Kinh Kim Cang đến câu: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” rồi ngộ triệt để.

Cái tay nắm mở, muốn lấy gì cũng được gọi là hoạt bát vạn năng, vì nó không có trụ, tức không nắm hẳn một nắm tay cố định. Nếu nắm hẳn lại thì cái hoạt bát vạn năng bị mất, không thể cầm lấy cái gì nữa.

Cái không biết của nghi tình là cái chổi tự động quét tất cả biết và không biết của bộ não, khôi phục hoạt bát vạn năng của bản tánh, nên sử dụng việc gì cũng thông. Như cái tay tự làm nắm tay, thì trụ nơi nắm tay cũng không lấy cái gì được, nên không trụ nơi nắm tay, mới có được hoạt bát vạn năng, muốn lấy gì cũng được.

“Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”, ưng là nên, vô sở trụ là không có chỗ trụ. Sanh kỳ tâm là cái dụng, tức muốn dùng phải vô sở trụ, nếu có trụ thì không dùng được; mặc dù trụ nơi có, trụ nơi không, hay bất cứ trụ nơi nào đều không được; như trụ nơi Phật, trụ nơi Bồ Tát đều bị chướng ngại, không được hiện ra cái dụng hoàn toàn.

Hỏi:
Tu thiền dễ đưa đến thanh tịnh giải thoát, tại sao có vài vị tu thiền một thời gian lại bị điên?

Đáp:
Tham thiền không phải muốn thanh tịnh, cũng không mở trói để giải thoát. Tại sao? Vì tâm như hư không trống rỗng, tại có cái TA, muốn có sở đắc, có sở cầu, có sở sợ nên ma mới nhập được. Còn không có cái TA thì ma nhập ở đâu! Những người hỏi vì bệnh chấp thật quá nặng nên không hiểu, mới có câu hỏi này.


Hỏi:
Đạo Phật không thừa nhận định mệnh, vì làm mê hoặc con người, nhưng có người nói Phật Thích Ca thọ ký cho Phật Di Lặc một kiếp nữa sẽ thành Phật. Vậy vấn đề này có phải như định mệnh không?

Đáp:
Định mệnh gọi là nghiệp nhân nghiệp quả, nếu ở trong chiêm bao thì còn nhân quả trong chiêm bao, nhưng nhân quả của mình tự mình sửa mới được, chứ người khác không sửa giùm được. Tâm lực yếu thì theo nhân quả lúc trước, còn tâm lực mạnh thì nó sẽ sửa khác, đâu phải cái nghiệp có nhất định, tu là chuyển nghiệp.

(Kể lại chuyện Huỳnh Đình Kiên). Trang 96.
Hỏi :
Phật nói trong phẩm Phổ Môn: Nước Quỷ La Sát, vậy Quỷ La Sát có ở cõi Nam Diêm Phù Đề này không?

Đáp:
Phật nói: “Vạn pháp duy tâm tạo”, tâm mình chấp thì có, không chấp thì không có. Đại Trí Độ Luận nói : Tại chấp Phật thì có Phật, chấp Bồ Tát thì có Bồ Tát, chấp Đại thừa thì có Đại thừa,… nếu tất cả tánh không thì tất cả trống rỗng. Tất cả vì do chấp nên mới có, có và không là tương đối, thuộc sản phẩm của bộ não. Còn thực tế thì không dính dáng đến có và không. Nếu ta chấp có và không thì lọt vào biên kiến trong 5 thứ ác kiến.

Năm thứ ác kiến là: Thân kiến, biên kiến, kiến thủ, tà kiến, giới cấm thủ. Nhiều người lọt vào biên kiến mà không tự biết. Như chấp có Phật hay chấp không Phật đều là biên kiến. Tôi có giải thích trong Trung Quán Luận.

Hỏi:
Ngài Quán Thế Aâm được cúng dường xâu chuổi ngọc vô giá, tại sao Ngài không nhận?

Đáp:
Chư Phật chư Bồ Tát muốn chúng ta được ngộ, nếu chúng ta chấp thật thì không bao giờ ngộ được. Cái vô giá là cái tâm của chúng ta vậy, ngộ được cái tâm mới thật là vô giá; còn không ngộ, nếu có được vô giá, mà sau khi chết thì chẳng được gì?

Bây giờ có thế lực cao, có sự nghiệp lớn, thành công to, tiền của nhiều, có đầy châu báu vô giá,… đâu làm chủ những cái ấy được! Không muốn lìa mà nó vẫn lìa, thân này không muốn bệnh mà nó cũng bệnh, không muốn chết nhưng nó cũng chết, tự mình làm chủ không được, mà có vô giá thì được ích lợi gì!

Hỏi:
Tu Thiền phải có người hướng dẫn, nếu không có người hướng dẫn sẽ bị lạc. Vậy muốn tu không có thầy hướng dẫn, thì phải tu như thế nào?

Đáp:
“Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ”. Nếu thực hành được 9 chữ này thì bảo đảm không có bị lạc, vì chánh pháp phải cần phá ngã chấp. Nếu không phá ngã chấp thì không giải thoát mà thành tà ma ngoại đạo. Tà ma ngoại đạo cũng có thiền định rất cao, nhưng họ không có phá ngã chấp.


Hỏi:
Quán thoại đầu “Ta là ai?”, có chứng đắc gì mà không biết, thấy mặt ngơ ngáo, thân mình dơ dấy thường ngồi một mình. Vậy có phải tu không đúng chánh pháp không? Và sửa chữa bằng cách nào?

Đáp:
Vì họ không tu đúng chánh pháp, tại dùng cái biết để suy nghĩ ta là ai? Ta là đàn ông, ta là đàn bà,… có đủ thứ ta mà sao nói không biết! Họ đã tự dối mình. Họ hỏi câu thoại thiếu một đoạn đầu.

Câu thoại đầu đầy đủ là: “Khi chưa có trời đất, ta là cái gì?”, họ cứ dùng cái biết để suy nghĩ thì không phát khùng cũng phát điên. Dùng cái không hiểu không biết để chấm dứt tìm hiểu biết, chấm dứt ghi nhớ biết và chấm dứt suy nghĩ biết của bộ não.

Hỏi:
Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh đầy đủ, vì bất giác vô minh khởi niệm mà luôn sanh tử như vậy. Từ nhất niệm vô minh chuyển sang vô thỉ vô minh, chưa phải là bản tánh thanh tịnh. Từ đó dụng tâm nhìn thẳng vào hầm sâu vô minh đến 90 thì ồ lên một tiếng phá bức màn vô minh, Phật tánh hiển lộ. Vậy vô minh không thấy không nghe, không tướng, làm sao biết mà nhìn?

Đáp:
Người hỏi có đọc Bát Nhã Tâm Kinh không? Chắc là có. Chùa nào, sớm chiều thời kinh nào cũng có tụng: “Vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận”. Không có vô minh, làm sao hỏi vô minh, mà lại chấp vô minh là thật! Chỉ cần ngộ không có vô minh, không có già chết thì giải thoát.

Như Tôi bây giờ đã già, sau nầy cũng phải chết. Tại sao trong kinh nói không già không chết? Trong lúc tụng kinh mình phải tự hỏi, còn miệng cứ tụng mà kinh nói gì không biết!

Hỏi:
Trong kinh sách chư Tổ thường đả phá tất cả. Như “gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ”. Nếu ngày nay, mọi người thấy vậy, có ảnh hưởng đến đạo pháp không?

Đáp:
Gặp Phật giết Phật là giết cái tâm chấp Phật, chứ đâu phải giết Phật Thích Ca; chấp ma là giết tâm chấp ma, chứ đâu phải giết ma. Tức là chấp cái gì là giết cái đó.

Hỏi:
Lục căn tiếp xúc lục trần, làm sao lục thức không bị đắm nhiễm?

Đáp:
Tông Tịnh Độ lấy Ngài Đại Thế Chí trong kinh Lăng Nghiêm làm gương mẫu, có nói “thâu nhiếp lục căn, tịnh niệm tương tục”. Nếu nhiếp được nhãn căn không phân biệt tốt xấu, vì thấy tốt ham thích, thấy xấu chê bai; nhiếp được nhĩ căn thì không phân biệt tiếng hay dở, khen không mừng, chê cũng không tức giận.

Nhiếp được lục căn thì tịnh niệm mới được tương tục. Tức là niệm trong sạch không có niệm nào khác. Nếu nhiếp không được thì có tương đối, có lúc thương ghét, ham thích, khen chê. Vậy làm sao có niệm trong sạch được! Tất cả các pháp môn tu đều như vậy.

Tham thiền giữ cái không hiểu không biết thì đã nhiếp được lục căn. Không biết tốt thì không ham thích, không biết xấu thì không chê. Nếu dùng cái biết để tu thì khó hơn, dùng cái không biết để tu thì dễ hơn. Cái không hiểu không biết gọi là pháp Thiền trực tiếp.

Có người hỏi tôi: Nếu dùng cái không biết để tu tới thoại đầu thì sắp kiến tánh, có phải sắp biết không?

Tôi nói: không phải, không được nói là sắp biết.

Người ấy hỏi: Nếu không được nói là sắp biết, như vậy có giống như gỗ đá không?

Tôi nói: Cũng không phải, vì cái biết chơn tâm không bao giờ ngưng, nếu có ngưng rồi trở lại biết thì nói là sắp biết được. Nó không bao giờ ngưng, làm sao nói là sắp biết! Người đó không hiểu, vì cứ dùng bộ não, làm sao biết được chơn tâm?

Tôi đổi lại câu hỏi: Trời gần sáng thì mặt trời sắp chiếu, vậy có được không? Không được, không được nói mặt trời sắp chiếu! Tại sao? Vì mặt trời có ngưng chiếu hồi nào, mà nói mặt trời sắp chiếu! Trời sáng, mặt trời đâu có bắt đầu chiếu. Bây giờ nó cũng đang chiếu, vì không thấy mặt trời là do bị trái đất hay mây đen che khuất, đâu phải nó bị ngưng chiếu!

Cái biết chân tâm của mình cũng vậy, nó không có ngưng biết, vì bị che khuất bởi biết và không biết của bộ não. Cho nên, Phật dùng phương tiện không biết của bộ não, để dẹp cái biết che khuất của bộ não thì mới đến thoại đầu. Chứ không phải cái biết của chân tâm bị ngưng, nếu cái biết chơn tâm bị ngưng thì bị sanh diệt luân hồi, kiến tánh thành Phật đâu có ích lợi gì!

Bản tâm của mình không có sanh diệt, nên Phật gọi là vô thỉ (không có bắt đầu) cũng là nghĩa vô sanh (không có sự sanh khởi). Nếu có sự sanh khởi là có sự bắt đầu. Vậy, người chứng quả là ngộ pháp vô sanh hay chứng vô sanh pháp nhẫn.

Theo lý toán học không có con số nhỏ nhất và cũng không có con số lớn nhất, các nhà giỏi toán cũng biết không có con số nhỏ nhất, vì đem chia mãi không có hết.

Trong quyển toán học của Hồng Kông nói: Con sâu dép cỏ nhỏ bằng một đơn tế bào, cách ngày đêm nó sanh ra làm hai; như ngày nay 1 con, ngày mai thì 2 con, ngày mốt thì 4 con… cứ như thế trải qua 90 ngày đêm thì thể tích bằng một mét khối, cho đến 130 ngày đêm thì thể tích bằng quả địa cầu, nếu một ngày nữa thì 2 quả địa cầu.

Ngược lại, đem quả địa cầu xẻ ra, xẻ đến 130 ngày đêm thì khôi phục con sâu dép cỏ. Nếu lấy toán học đem con sâu xẻ thêm 130 lần nữa, thì thịt con sâu mình có thể biết không? Cứ theo toán học như vậy mà đến trăm lần 130, ngàn lần 130, nhưng vẫn thấy con số để biểu thị thịt con sâu dép cỏ. Nhưng thực tế còn có thịt con sâu dép cỏ đó không? Có chia nữa thì con số vẫn còn mãi.

Nếu đem con sâu đó làm đơn vị 1, thêm trước số 1 là số “0.” thì nó nhỏ 10 lần, rồi thêm số 0 sau “0.” thì nhỏ thêm 10 lần nữa, cứ thêm như thế, dài bằng một quả đất, hai quả đất… con số cứ nhỏ nhưng không có hết.

Cái gì nhỏ nhất có thể dùng kính hiển vi mới thấy được. Giả thiết khoa học cải tiến kính hiển vi, còn nhanh hơn mình thêm con số 0 thì cũng có thể nhìn thấy thịt con sâu đó. Nhưng thịt con sâu đó chưa phải thực tế. Tại sao? Vì còn phân chia được nữa.

Vậy, biết định lý toán học không thể tìm sự bắt đầu. Nên Phật nói: “Vô thỉ, bất khả đắc” gọi là vô sanh. Nhà khoa học dùng toán tìm sự bắt đầu của sanh mạng và vũ trụ, có phải si mê không? Nói nhà khoa học si mê thì không có được. Vì khoa học tạo hạnh phúc cho con người.

#38 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 31/08/2011 - 09:18

Hỏi:
Phật tử tại gia tu thiền cần trường trai không?
Đáp:
Có cần trường trai hay không cần trường trai là tương đối, cho nên không nói cần hay không cần, vì việc này là nhân quả. Như ăn một cục thịt thì phải trả một cục thịt, giết một mạng thì phải trả một mạng. Nếu mình sẵn sàng để cho người ta ăn thì cứ ăn người ta. Nếu mình sợ người ta ăn mình thì mình đừng ăn người ta. Kinh Lăng Nghiêm nói: Kiếp này làm người ăn thịt dê, kiếp sau mình đầu thai dê, dê đầu thai người thì nó ăn lại. Tức là thay phiên ăn lẫn nhau, cũng như mình ăn thân của mình vậy.

Hỏi:
Mấy mươi năm thực hành thiền, Hoà thượng có tâm đắc điều gì của mình và có suy nghĩ gì sự truyền bá trong giai đoạn phát triển của xã hội, có thuận nghịch gì không?

Đáp:
Vì sự hoằng pháp cũng làm sự chướng ngại việc tu của tôi. Tại sao? Vì bắt đầu ra hoằng Tổ Sư thiền, người ta hỏi tôi thì tôi phải biết. Nếu tôi không biết thì sao người ta tin tôi được! Bất cứ người ta hỏi cái gì thì tôi phải biết. Bây giờ, tình hình xã hội kinh tế… tôi phải biết, chính cái đó làm chướng ngại việc tu. Đã dùng cái không biết để tu, mà lại dùng cái biết mãi, vậy làm sao không bị chướng ngại?

Nhưng tôi hy vọng các vị kiến tánh trước tôi, như trong Thiền tông có: Ngài Thần Tán kiến tánh, mà thầy của ngài chưa kiến tánh. Nên thầy của ngài xin làm đệ tử ngài.
Hỏi:
Kính xin Hòa Thượng dạy cho phương pháp tham thiền, để ứng dụng trong đời sống hằng ngày khỏi bị chướng ngại với nhau?

Đáp:
Khoảng 4, 5 năm trước, tôi ở Mỹ được mời đi Canada dạy Tổ Sư Thiền, ở Mỹ có 10 Phật tử đi theo; trong đó có 2 mẹ con, người mẹ tên là Nguyệt Anh, có đứa con mới 3 tuổi tây, cũng được mẹ nó dạy nó tham thiền 4 tháng, tham câu “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Khi đến tới thành phố Toronto, có quán khoa học, trong đó có máy vi tính đo hoạt động bộ não, cái máy chia ra làm ba mươi mấy cấp. Khi để tay trên máy thì đèn báo sáng ở trên, mọi người đi trong đoàn đều có tham thiền, mỗi người đều đo thì đèn báo ở trên sáng từ từ xuống rồi tự tắt.

Tôi thường thuyết pháp, người già 70, 80 tuổi đều tham thiền được, con nít 7, 8 tuổi cũng tham thiền được. Nhưng đứa bé mới 3 tuổi tôi không tin nó tham thiền được. Sẵn có máy thử, tôi ẩm nó để trên đầu gối tôi, tôi cầm tay nó để trên cái máy. Ban đầu đèn báo cũng sáng, tôi bảo nó tham thiền đi, nó liền tham thiền, đèn báo cũng từ trên xuống, rồi tự tắt đèn.

Cái máy đo thì không có gạt ai. Bên cạnh các người Canada đang đứng nhìn, mà họ đã đo qua máy. Họ nói: Ai đo, đèn báo đều tắt và luôn đứa bé cũng vậy, còn chúng tôi tại sao không được?

Tôi nói với họ: Hãy bớt suy nghĩ thì đèn báo mới xuống và tắt được.

Họ nói: Tôi không suy nghĩ, nhưng đèn báo không xuống được.

Miệng họ nói không suy nghĩ, nhưng bộ óc đâu chịu nghe lời. Vì họ chưa có tập thì làm sao khống chế bộ óc được. Những người này đều có tập tham thiền rồi, nên khống chế bộ óc rất dễ. Nhưng đứa bé này đặc biệt, chắc là kiếp trước nó có tham thiền. Nó sẵn có cái không biết nên đèn báo xuống mau hơn những người lớn. Người lớn đã tập tham thiền mười mấy năm, lại đèn xuống chậm hơn nó. Vì người lớn đã biết nhiều, muốn dẹp cái biết, phải trải qua thời gian lâu.

Sau khi về Mỹ, nó dạy tham thiền cho mấy đứa 7, 8 tuổi.

Hỏi nó: Sao không dạy cho mấy đứa bằng mầy?

Nó nói: Mấy đứa đó không biết.

Vì vậy, dùng cái không hiểu không biết để tu thì dễ hơn dùng cái biết để tu. Tham thiền dùng cái không hiểu không biết chấm dứt tất cả biết như gió thổi tan mây đen, nếu thổi trống được lỗ nhỏ thì ánh sáng mặt trời ngay chỗ đó xuyên qua, dùng liền chứ không phải đợi tới kiến tánh mới dùng được. Lúc đó bộ não không biết, nhưng công việc của bộ não đều được hoàn thành. Có nhiều Phật tử cũng đạt đến mức độ này, nhưng chỉ được chút ít. Nếu ngưng tham thiền như mây đen che lại thì không dùng được nữa. Nếu gió thổi tan mây đen được lỗ lớn hơn thì cái dùng nhiều hơn.


Hỏi:
Tổ Sư thiền và Như Lai thiền khác nhau như thế nào ?

Đáp:
Như Lai thiền là dùng cái biết để tu, có giai cấp: Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Trụ, Đẳng Giác và Diệu Giác, tổng cộng gồm có 52 cấp.

Còn Tổ Sư thiền không có cấp bậc, nhưng có tam quan: Sơ Quan, Trùng Quan và Mạt Hậu Lao Quan. Kỳ thật, có người khỏi cần phải qua Sơ Quan, Trùng Quan, có khi thẳng đến Mạt Hậu Lao Quan.

Cho nên giáo môn tụng kinh là tu. Quán Tông Tự của Ngài Đế Nhàn, mỗi thời tụng kinh phải 2 giờ, mỗi ngày 3 thời. Nếu tụng không đủ 2 giờ thì Ngài quở cho là làm biếng. Vì tụng kinh đến đâu là quán tưởng đến đó, gọi là tùy văn quán tưởng, tức là đang tụng kinh là đang tu thiền quán, chứ không phải tụng cho Phật nghe.

Khai thị Thiền thất ngày 16-4 =>22-4-1999 tại chùa Hưng Phước.

Hỏi:
Ngài Bác Sơn trong Tham Thiền Cảnh Ngữ dạy: Người tham thiền nếu chưa triệt ngộ, trước hết phải lo giải quyết bổn phận của mình phải kiến tánh, chứ không được dạy người khác, ý như vậy là thế nào?

Đáp:
Muốn dạy người khác phải biết phương tiện, nếu không biết phương tiện mà dạy người thì có thể làm hại người, nên chư Tổ phải nói như vậy.

Hỏi:
Con có đọc tiểu truyện của Ngài Đại Am Tĩnh Sư là một thiền sư kiến tánh, sau này sao Ngài lại tu Tịnh Độ? Khi Ngài sắp lâm chung thì được vãng sanh cực lạc. Như vậy con không hiểu rõ, kính xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
Kiến tánh rồi đi hoằng Tịnh Độ thì có thể được, chứ kiến tánh rồi đâu có thể tu Tịnh Độ! Ông ấy không có biết. Người tu Tịnh Độ không tin pháp môn Tổ Sư thiền, không tin tự tâm, nên họ phải đi đường xa, khi được vãng sanh rồi thì Phật A Di Đà mới dạy pháp môn tham thiền là từ nghi đến ngộ. Đó là được ghi từ kinh Đại A Di Đà.

Người tu Tịnh Độ không biết, cho thiền không phải Tịnh Độ. Nhưng 3 cách tu của Tịnh Độ đều là thiền (Thật tướng niệm Phật gần bằng như Tổ Sư thiền, quán tưởng niệm Phật có 16 pháp thiền quán ở trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, còn trì danh niệm Phật mục đích là đến nhất tâm bất loạn cũng là thiền). Tất cả các pháp môn của Phật dạy đều lấy thiền làm căn bản, không có thiền thì không thể tu được. Không những Phật giáo là vậy, mà tà ma ngoại đạo đều cũng có thiền.

Nhưng tà ma ngoại đạo thì không có phá ngã chấp, nên không được giải thoát. Chánh pháp thì phá ngã chấp, cũng như người tu Tịnh Độ phát đại nguyện, rồi thực hành đại nguyện của mình phát, tức là phá ngã chấp. Còn ông này thì ngã chấp chưa phá được, vậy làm sao giải thoát hay nói vãng sanh cũng chưa chắc được. Việc như thế, làm cho người ta hiểu lầm tức là hại người. Nếu làm cho người ta hiểu lầm và bị hại thì phải đọa địa ngục.

Hỏi:
Cụ Để Hòa thượng được ngộ đạo do Thiên Long Thiền sư khai thị giơ một ngón tay, sau này đệ tử cũng bắt chước giơ một ngón tay thì mới lập phương tiện mài con dao thật bén để trong túi áo. Một hôm hầu trà, Hòa thượng hỏi thì giơ ngón tay lên, Hòa thượng chặt đứt. Như vậy Hòa thượng có lỗi không?

Đáp:
Cụ Để Hòa thượng chưa ngộ mà tưởng mình đã ngộ, một hôm ngồi ở thiền sàng gặp cô Ni Thật Tế từ ngoài bước vô chùa không chịu bỏ nón xuống. Cụ Để mới nói: Xin cô lấy nón xuống.

Ni Cô đi 3 vòng rồi nói 3 lần: Nói được thì ta bỏ nón xuống.

Cụ Để nói không được, cảm thấy mắc cỡ, biết Ni Cô rất hay. Ni Cô định đi ra, Cụ Để nói: Trời gần tối, mời Ni Cô ở lại một đêm (để thỉnh giáo).

Ni Cô nói 3 lần: Nói được thì ta ở lại.

Cụ Để vẫn không nói được, Ni Cô bỏ đi. Sau khi Ni Cô đi rồi, Cụ Để cảm thấy hổ thẹn, mình là đại trượng phu mà không bằng người nữ. Trong Phật pháp Tỳ Kheo Ni có bát kỉnh đối với Tỳ Kheo tức là Tỳ Kheo Ni 100 tuổi hạ cũng phải đảnh lễ Tỳ Kheo mới thọ giới. Nhưng Tỳ Kheo Ni kiến tánh thì Tỳ Kheo phải đảnh lễ Tỳ Kheo Ni.

Cụ Để định bỏ chùa đi tham học, nhưng đêm đó chiêm bao thấy Hộ Pháp thần cho biết: “Ông khỏi đi, ngày mai sẽ có thiện tri thức đến”. Đúng ngày mai có Thiên Long thiền sư đến, cụ Để tiếp đãi tử tế, rồi đem chuyện Ni Cô Thật Tế kể cho Thiên Long thiền sư nghe và nhờ thiền sư chỉ dạy. Thiên Long thiền sư không nói, chỉ đưa một ngón tay lên thì cụ Để liền ngộ.

Về sau có người đến hỏi pháp, cụ Để cũng đưa một ngón tay lên, thị giả thấy và bắt chước, có ai hỏi thì thị giả cũng đưa ngón tay lên. Người ta lại nói với cụ Để, thị giả của ngài thuyết pháp cũng hay vậy. Cụ Để hỏi: Thuyết pháp như thế nào?

Người ấy nói: Có ai hỏi pháp thì thị giả cũng đưa ngón tay lên.

Cụ Để mài con dao thật bén để trong túi áo, có một hôm thị giả bưng trà đến cụ Để, rồi cụ Để hỏi thị giả: Thế nào là Phật?

Thị giả liền đưa ngón tay lên, cụ Để lấy dao chặt ngón tay, thị giả hoảng sợ bỏ chạy, cụ Để rượt theo và nói “đứng lại!”, thị giả đứng lại nhìn. Cụ Để hỏi: Thế nào là Phật? Thị giả giơ tay lên không thấy ngón tay rồi liền ngộ.

Hỏi:
Con đã tham Tổ Sư thiền, nhưng có người nhờ con dâng hương lễ sám, việc này có nên làm không?

Đáp:
Theo giáo môn, tụng kinh là tu. Giáo môn của Thiên Thai tông ở Trung Quốc tên là Quán Tông tự (Ninh Ba), Pháp sư Đế Nhàn trụ trì ở đây, ngài là đời thứ 42 của tông Thiên Thai dạy người ta tu thiền giáo môn, mỗi ngày 3 thời tụng kinh, mỗi thời phải 2 giờ. Tụng kinh là thiền quán, tức là tụng đến đâu quán đến đó gọi là tùy văn quán tưởng.

Nếu tụng không đủ 2 giờ thì ngài Đế Nhàn quở là làm biếng. Bây giờ các chùa cũng tụng bao nhiêu đó, thường thường chỉ có 40 phút là xong. Sự thật tụng kinh là tu, chứ không phải tụng kinh để cho Phật nghe. Vì lời của Phật dạy cho người ta tu, chứ Phật đâu cần nghe, mà cho Phật nghe là có công đức, như thếø lừa gạt mình và lừa gạt người .

Hỏi:
Thông thường các thầy dạy Phật tử niệm Phật khi chết thì Phật rước về Tây Phương, tụng kinh thì rất nhiều, niệm Phật có ghi 108 biến, nhưng họ niệm có 10 biến, ra ngoài ngồi nói chuyện sàm. Con nhân cơ hội họ thích niệm Phật, con hướng dẫn họ niệm Phật đi kinh hành ở chánh điện có được không?

Đáp:
Họ niệm Phật mà không phải niệm Phật của Tịnh Độ, giáo môn thì không đúng tông chỉ của giáo môn. Niệm Phật thuộc tông Tịnh Độ, thực hành tín, hạnh, nguyện mới là tông chỉ Tịnh Độ. Chỉ có niệm Phật thì cũng không phải Tịnh Độ, vì không thực hành đúng theo tông chỉ Tịnh Độ. Giáo môn ở Trung Quốc có 4 tông: Thiên Thai, Hiền Thủ, Tam Luận, Duy Thức.

Thiên Thai tông là giáo môn, vừa tụng tới đâu thì thiền quán tới đó. Tông chỉ Tịnh Độ gồm có: “Tín, hạnh, nguyện”. Tín là có 3 thứ tin, nguyện có 2 thứ nguyện, hạnh tức là niệm Phật cũng có 2 thứ: Nhất tâm niệm Phật và tán tâm niệm Phật. Chỉ hạnh thì không thể vãng sanh được, vãng sanh được hay không là do cái nguyện.

Nếu phát tiểu nguyện thì không được vãng sanh, mà phát đại nguyện lại không thực hành đại nguyện của mình phát cũng thành nguyện suông nguyện giả cũng không được vãng sanh. Nhưng bây giờ chưa thấy người nào tu đúng tông chỉ Tịnh Độ, không đúng thì làm sao được vãng sanh!

Đại nguyện của Phật A Di Đà giống như tổng đài phát thanh, nếu mình có radio nhỏ ở bất cứ chỗ nào, xa cách mấy cũng thâu được; muốn thâu được thì phải tương ưng với tổng đài, nếu mình vặn tầng số sai một chút cũng thâu không được.

Bây giờ, những người tu Tịnh Độ không những thực hành xê xích một sợi tóc, mà xê xích không biết bao nhiêu dặm thì làm sao tương ưng với đại nguyện Phật A Di Đà!

Hỏi:
Bây giờ kinh của Phật rất nhiều, nhưng tụng kinh nào để thiền quán?

Đáp:
Kinh của Tịnh Độ là: Kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh đại A Di Đà và tiểu A Di Đà. Thường mỗi chiều ở chùa tụng kinh tiểu A Di Đà, kinh đại A Di Đà người tu Tịnh Độ cũng ít biết. Kinh Quán Vô Lượng Thọ là chuyên dạy thiền quán của Tịnh Độ mà một số người tu Tịnh Độ cũng không biết lại phủ nhận tu thiền. Tất cả các pháp môn của Phật dạy đều là thiền, vì không có thiền thì không có tu, phải có thiền mới gọi là tu. Họ không nhìn nhận mình là thiền sao gọi là tu? Vì họ không đi đúng theo lời Phật, Tổ dạy.

Tổ thứ 13 của tông Tịnh Độ là Ấn Quang đại sư dạy tín, nguyện, hạnh rất kỹ. Tôi chỉ xem qua một lần và hoằng dương mười mấy năm chưa có gặp được người tu đúng tông chỉ Tịnh Độ. Lúc tôi chưa đi Mỹ, ở Từ Aân gặp một người ở Thị Nghè là chủ tiệm vàng Mỹ Nữ, ông này thông suốt giáo lý, biết rõ tông chỉ Tịnh Độ, tu theo tông chỉ Tịnh Độ, nhưng chỉ thiếu một chút rất quan trọng là không thực hành theo đại nguyện của mình phát, thành nguyện suông nguyện giả.

Theo pháp thế gian mình ký kỳ phiếu, mở trương mục ngân hàng nhưng tiền ít không đủ trả cho các chủ nợ thì phải mắc nợ. Như lúc nhỏ mình có giết chết một con muỗi, con kiến không? Có ăn thịt không? Nếu có ăn một cục thịt thì phải trả một cục thịt, giết một mạng thì phải trả một mạng. Chủ nợ rất nhiều mà tiền thì ít không đủ trả, nên phải ký ngân phiếu 10 năm, 20 năm. Tức là đại nguyện của Tịnh Độ thành Phật rồi mới trả. Cho nên mới được đới nghiệp vãng sanh.

Nhưng mình phát đại nguyện rồi, đại nguyện là độ hết tất cả chúng sanh, mình và tất cả chúng sanh đều được vãng sanh. Nếu mình được vãng sanh rồi tu thành Phật, trở lại độ chúng sanh tức là trả nợ cho các chủ nợ của mình, chủ nợ của mình thì được ưu tiên. Vậy mình phát đại nguyện thì phải coi tất cả chúng sanh đều bình đẳng. Nhưng những người phát đại nguyện mà không coi chúng sanh bình đẳng, có người còn ăn thịt chúng sanh hay bị muỗi cắn cũng đập nó chết hoặc giết chết mối mọt vì nó làm hư nhà mình. Nợ còn chưa trả làm sao vãng sanh được?

Ông ấy nghe tôi giảng, rồi cúng dường tiền và hứa giúp đỡ tôi trong việc hoằng pháp. Ông đi dự thiền thất tham thiền không tu Tịnh Độ nữa. Người ta cho tu Tịnh Độ là dễ hơn tham Tổ Sư thiền, nhưng sự thật tu Tịnh Độ khó hơn tham Tổ Sư thiền gấp trăm ngàn lần. Người tu Tịnh Độ thường dẫn chứng Tịnh Độ của Đại Thế Chí ở trong kinh Lăng Nghiêm. Tịnh Độ của Đại Thế Chí có 8 chữ “thâu nhiếp lục căn tịnh niệm tương tục”. Nếu không nhiếp được lục căn thì làm sao có niệm trong sạch kéo dài? Không có làm được.

Vừa rồi nói có ông tu thiền kiến tánh lại tu Tịnh Độ, người ấy rất ngu không biết gì hết! Tịnh Độ còn không biết thì Thiền làm sao biết được? Tu Tịnh Độ phải theo lời dạy của Tổ Tịnh Độ. Lời dạy của Tổ Tịnh Độ không bắt chước theo, mà cứ theo không biết gì! Từ Tổ Huệ Viễn làm sơ Tổ Tịnh Độ đến bây giờ chỉ có 13 Tổ, Ấn Quang đại sư là Tổ thứ 13 của Tịnh Độ giải thích Tịnh Độ rất kỹ càng.

Hỏi:
Tu Tịnh Độ khó như thế nào? Tu Thiền khó như thế nào?

Đáp:
“Thâu nhiếp lục căn tịnh niệm tương tục” của Đại Thế Chí. Nhiếp nhãn căn thì không thấy tốt xấu, nhiếp nhĩ căn thì không biết khen chê, khen không mừng chê cũng không giận, nhiếp tỷ căn là không phân biệt thơm thúi, các căn kia cũng giống như vậy. Nhưng tôi chưa thấy những người tu Tịnh Độ nhiếp được một căn, có một số người chỉ biết chê Thiền.

Như Tứ Liệu Giản cho là của ngài Vĩnh Minh, sự thật không phải là do người ta đặt ra có mâu thuẩn mà không biết, nói có Thiền mà không có Tịnh Độ thì mười người chín người sai. Có Tịnh Độ mà không có Thiền thì một trăm người, một trăm người thành tựu tức là 100%, như vậy là tốt rồi. Tại sao tiếp theo nói là “có Tịnh Độ và có thiền còn tốt hơn, như cọp có sừng”? Đó là mâu thuẩn bậy bạ. Tại sao? Vì có Tịnh mà không có Thiền được 100%. Tại sao đem Thiền vô để bớt 90 chỉ còn có 10? Vậy lại nói hơn như cọp thêm sừng! Thêm cái gì? Vì 10 người hết 9 người sai thì 100 người phải mất hết 90 người. Đáng lẽ là 100% mà thêm Thiền vô làm hết 90 còn có 10, nói là tốt hơn có phải mâu thuẫn không?

Những người cho mình là tu Tịnh Độ đem Tứ Liệu Giản đi khoe, nói là của ngài Vĩnh Minh! Ngài Vĩnh Minh là người kiến tánh của tông Pháp Nhãn. Tông Pháp Nhãn ở Trung Quốc tuyệt truyền, nhưng ở Đại Hàn vẫn còn. Nhưng tác phẩm của ngài Vĩnh Minh không có cái đó. Ngài Vĩnh Minh kiến tánh làm sao đặt ra 4 bài kệ mâu thuẩn như vậy?

Kỳ thật, Tịnh Độ không phải là không tốt! Nhưng phải tu đúng. Vì tôi chuyên hoằng Thiền, tôi muốn viết ra đường lối thực hành của Tịnh Độ, vì mắc hoằng Thiền nên không có thì giờ viết ra cuốn đó. Nếu tôi viết ra cuốn đó thì cũng có người hiểu lầm tôi như có người nói Ngài Vĩnh Minh bỏ Thiền rồi tu Tịnh Độ thành Tổ Tịnh Độ.

Ở Tổ Tịnh Độ có 6, 7 Tổ Thiền tông kiến tánh rồi kiêm hoằng Tịnh Độ. Nhưng có người nói bỏ Thiền tu Tịnh Độ được vãng sanh. Nếu tôi viết đường lối thực hành tu Tịnh Độ, người ta nói tôi bỏ Thiền tu Tịnh Độ, thì tôi làm sao tiếp tục hoằng Tổ Sư thiền được? Chính như vậy nên tôi không viết ra. Mặc dầu tu Tịnh Độ khó, nhưng có đường lối để cho mình tập dần dần.

Hỏi:
Con đã tham Tổ Sư thiền, nhưng người ta nhờ con làm nghi lễ tụng kinh lễ sám, vậy con phải là sao?

Đáp:
Nếu ông muốn tu thiền thì chỉ hỏi và nhìn là đủ rồi, mấy cái kia khỏi hỏi nữa, cứ hỏi câu “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” không biết, nhìn chỗ không biết, hai cái đi song song là được rồi, được cái không biết thì cái kia dẹp hết.

Hỏi:
Hoà thượng dạy: Lấy không biết mà tu, ghi nhớ biết, tìm hiểu biết, những cái ấy phải quên hết. Như vậy Hoà thượng cái gì cũng biết, cái biết đó là tâm biết hay là bộ não biết?

Đáp:
Cái biết của tôi không phải là học, vì học làm sao học hết được? Cũng như Tục tạng kinh, tôi mỗi ngày xem 10 giờ, xem một năm được 7 tập, Tục tạng kinh có 150 tập, tính ra xem hết phải mất 20 năm, chưa kể Đại tạng 100 tập. Suốt đời tôi xem không hết, dẫu cho xem hết thì làm sao nhớ nổi? Nhưng bây giờ bất cứ người ta đề ra câu hỏi gì thì tôi đều giải đáp được, tôi đâu biết người ta muốn hỏi gì! Cái này không phải là học.

Hỏi:
Tông chỉ pháp môn Tổ Sư thiền là như thế nào?

Đáp:
Tông chỉ của Tổ Sư thiền thì không có tông chỉ, nếu có tông chỉ thì không phải Tổ Sư thiền. Vì Tổ Sư thiền là muốn ngộ bản tâm, bản tâm là như hư không vô sở hữu, tức là tất cả không có sở hữu, luôn cả hư không cũng không có sở hữu.

Mặc dầu, không có nhưng thực tế dung nạp và ứng dụng. Mặt trời, mặt trăng, đất đai, nhà cửa, bất cứ thứ gì đều do không sở hữu này dung nạp và ứng dụng. Thực tế không có thứ gì, không có tức là trống rỗng, trống rỗng không có chỗ để trụ gọi là vô trụ.

Trống rỗng nên không có thứ gì nên gọi là Tánh không, trống rỗng không có gì trói buộc nên gọi là giải thoát, đâu phải bị trói rồi mở trói rồi gọi là giải thoát! Kỳ thật bản tâm vốn là giải thoát. Trống rỗng nên khắp không gian không có khứ lai gọi là Như lai, khắp thời gian không có sanh diệt nên gọi là Niết bàn, Niết bàn là tiếng Ấn Độ nghĩa là không sanh không diệt.

Tất cả danh từ muôn ngàn sai biệt, nhưng ý không khác, cũng là hư không vô sở hữu. Những người không biết thì chấp những danh từ lời nói. Vì trống rỗng chẳng có thứ gì, nhưng hiện hoạt bát vạn năng.

Ví dụ cái tay là hoạt bát vạn năng, lấy cái gì cũng được, lấy khăn, lấy dĩa, lấy bình,… Nếu tay trụ cái khăn này thì hoạt bát vạn năng của tay bị mất, lấy dĩa, lấy bình, lấy tách,… đều không được.

Tham thiền khởi lên nghi tình (không biết) là cây chổi automatic, vì không biết nên không biết cái nào thì tự nhiên quét sạch tất cả mọi thứ, khôi phục lại bản tánh hoạt bát vạn năng của chân tâm, nên xử dụng việc gì cũng được.

Nhưng cái khăn, cái bình, cái tách,… là pháp có, không trụ nơi có mà lại trụ nơi không, tức là trong tay không có cái gì, nhưng cũng bị mắc kẹt nên không lấy cái gì được, vì thế cái không này phải quét, mới khôi phục hoạt bát vạn năng bản tâm.

Cho nên, Lục Tổ nghe Ngũ Tổ giảng “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” liền ngộ triệt để. Vô sở trụ mới dùng được, có sở trụ là mắc kẹt nên không dùng được. Phật pháp là ứng dụng hằng ngày, chứ không phải nghiên cứu những danh từ để đoán mò bậy bạ.

Hỏi:
Con tham câu thoại đầu “khi chưa có trời đất ta là cái gì?”, ta là cái gì là thân tứ đại này hay thắc mắc cái tâm ta là cái gì?

Đáp:
Không phải muốn tìm ta là cái gì, là muốn hỏi “chưa có trời đất ta là cái?” thì không biết. Nếu bỏ “chưa có trời đất” mà hỏi “ta là gì?” cũng như nói ta là Duy Lực, ta là đàn ông, ta là gì đó thì đã biết rồi. Còn khi chưa có trời đất thì không biết, không thể tìm hiểu, muốn biết mà không thể biết, không thể tìm hiểu, làm cho không biết mãi, không biết chân thật, rồi nhìn chỗ không biết tức là giữ cái không biết đó được lâu dài, không biết này gọi là nghi tình.

Nghi tình này sẽ đưa hành giả đến thoại đầu, rồi kiến tánh thành Phật. Chứ không phải tìm hiểu ta là gì? Là mục đích chấm dứt sự tìm hiểu. Dùng không biết của bộ não để chấm dứt cái biết của bộ não; chấm dứt tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ biết của bộ não, 3 thứ biết của bộ não được chấm dứt, rồi đến thoại đầu thì sắp kiến tánh. Khi kiến tánh gọi là mở mắt chiêm bao được thức tỉnh thì giải thoát tất cả khổ.

Người hỏi như vậy là sai lầm vì muốn tìm hiểu. Đây là muốn chấm dứt sự tìm hiểu, mà trái lại muốn tìm hiểu thêm, như thế là sai lầm lớn.

Hỏi:
Giáo môn và giáo lý Phật pháp khác nhau hay giống nhau?

Đáp:
Giáo môn là quét sạch tất cả lý, tức là không phải hợp lý và bất hợp lý. Vì tâm như hư không vô sở hữu vốn không có lý. Kiến lập lý thì phải có nhị, tự tánh là bất nhị, hợp lý và không hợp lý là nhị, đúng lý và không đúng lý cũng là nhị, nên nói lý tức là nhị. Thiền môn không nói lý, giáo môn nói lý là chướng (sở tri chướng).

Giáo môn nói lý là phương tiện, chứ không phải có chơn lý. Phật giáo khác hơn các tôn giáo khác là không kiến lập chân lý, vì kiến lập chân lý là nhị tức tương đối. Tại có chân lý thì có giả lý. Phật giáo không kiến lập chân lý, không phải là không có chân lý!

Nếu kiến lập chân lý thì có hai chân lý. Tại sao? Vì chân tâm là chân lý rồi. Kiến lập chân lý nên Thiền tông gọi là trên đầu mọc thêm đầu, vậy phải mời bác sĩ cắt bỏ mới được.

Hỏi:
Chúng con là hành giả sơ cơ nên có nhiều lỗi lầm, kính xin Sư Phụ thương xót chỉ dạy cho chúng con về bổn phận của hành giả để được tốt đạo đẹp đời?

Đáp:
Hành giả tham thiền làm đúng vai trò của mình thì cứ hỏi và nhìn. Hỏi là kích thích niệm không biết, nhìn là giữ niệm không biết được kéo dài.

Quyển Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21 nói: “Đã vì đói khát thì cứ ăn uống, đừng nghĩ cái khác; vì che thân chống lạnh thì cứ mặc áo, chớ nghĩ cái khác; làm chức nghiệp gì thì phải giữ đúng chức nghiệp đó, chẳng nghĩ cái khác. Cho nên, cha phải giữ đúng vai trò cha, mẹ phải giữ đúng vai trò mẹ, con phải giữ đúng vai trò con, chồng phải giữ đúng vai trò chồng, vợ phải giữ đúng vai trò vợ, Tu sĩ phải giữ đúng vai trò Tu sĩ, Sa Di phải giữ đúng vai trò Sa Di, Tỳ Kheo phải giữ đúng vai trò Tỳ Kheo, mỗi mỗi đều phải giữ đúng vai trò của mình”.

Hôm trước, tôi có hỏi một Tu sĩ Tỳ Kheo: Thầy có giữ đúng vai trò Tỳ Kheo không?

Tỳ Kheo đáp: Có.
Tôi hỏi giới luật Tỳ Kheo thì thầy ấy không biết, nếu không biết làm sao giữ?

Tỳ Kheo nói: Tôi tham thiền nên không để ý cái đó.

Tôi nói: Như vậy làm sao giữ đúng vai trò? Còn bé thì giữ đúng vai trò con, lớn lên có vợ thì giữ đúng vai trò chồng và con. Tu sĩ đã xuất gia thì không có nhà thì không có giữ vai trò cha con, nhưng phải giữ đúng vai trò Tu sĩ. Nếu Tỳ Kheo tham thiền phải giữ đúng vai trò hành giả tham thiền và vai trò Tỳ Kheo, chỉ giữ đúng vai trò hành giả tham thiền, mà vai trò Tỳ Kheo không giữ thì không được.

Nếu Tỳ Kheo tham thiền mà chỉ giữ đúng vai trò Tỳ Kheo, giống như thanh niên có vợ chỉ giữ đúng vai trò con mà không giữ vai trò chồng, đến khi sanh con không giữ đúng vai trò cha, như vậy không thể được. Cho nên, bổn phận đến đâu thì phải giữ đúng vai trò đến đó.

Hỏi:
Thiền Thất Khai Thị Lục nói: “Các vị tham đi sẽ được lạc đường tự tại”. Vậy câu đó như thế nào?

Đáp:
Câu đó là tiếng Hán, chữ “lạc đường” không phải đi sai đường, đó là đi đúng theo quỹ đạo, tức là công phu được thành phiến gọi là lạc đường thì mới được tự tại.

Hỏi:
Con là Phật tử thọ tam quy ngũ giới, Thầy nói “ăn một cục thịt phải trả một cục thịt”. Trong cuộc sống thường ngày có những con vật nhỏ như: Con cá, con kiến,… mình cần phải giết. Như vậy có phải trả nợ đó không?

Đáp:
Phải trả nợ, theo nhân quả “giết một mạng phải trả một mạng” mới đúng. Khi cọp gặp mình thì muốn ăn thịt mình, theo người thế gian thì phải giết chết nó; nếu mình giữ giới không sát sanh thì để cho cọp ăn, chứ không giết chết nó, việc này là hạnh Bồ Tát.

Hỏi:
Tín Tâm Minh có câu: “ Tuyệt ngôn tuyệt lự, vô xứ bất thông”. Có phải Tổ dạy: “Đừng nói đừng lo thì đừng động não sẽ có kết quả”. Kính xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
Tham thiền là dùng không biết của bộ não để chấm dứt tìm hiểu biết, suy nghĩ và ghi nhớ của bộ não. Ba thứ biết này chấm dứt thì bộ não ngưng hoạt động tự nhiên tuyệt ngôn tuyệt lự, công năng của tự tâm sẽ hiện ra dùng.

-“Cái bản thể đã chẳng thể thấy mà chẳng hợp logic kia mà phải nhờ tâm lực cá nhân của chúng ta đã sẵn có để chứng minh. Khi chúng ta y theo pháp thiền trực tiếp Tổ Sư thiền do Phật Thích Ca truyền dạy mà thực hành đến trình độ N, tức là đến giai đoạn tự động hóa, được một khoản thời gian, khiến 3 thứ biết (tìm hiểu biết, tư duy biết, ghi nhớ biết) được tạm ngưng, nghĩa là bộ não ngưng hoạt động thì phát huy được cái công năng sẵn có, chẳng dùng bộ não mà hoàn thành công tác bộ não. Khi ngưng hoạt động bộ não càng lâu thì độ thiền càng sâu, cái công năng tự phát thì lại càng lớn”.

Như vậy, “tuyệt ngôn tuyệt lự vô xứ bất thông” là vậy. Vì nó không bị không gian và thời gian làm chướng ngại.

Hỏi:
Lục Tổ dạy:
“Dục nghĩ quá tha nhân,
Tự tu hữu phương tiện.
Vật linh bỉ hữu nghi,
Tức thị tự tánh hiện”.
Kính xin Sư Phụ giải thích chữ “phương tiện” và đoạn kệ?

Đáp:
“Phương tiện” này là người kiến tánh mới dùng được.
Bài kệ trên dịch là:
Muốn giáo hóa mọi người,
Tự cần có phương tiện.
Khiến người kia hết nghi,
Tức là Tự tánh hiện.

Như bây giờ tôi giải đáp, không phải muốn cho các vị hiểu biết giáo lý cao siêu là muốn giải tỏa cái nghi của các vị để các vị đầy đủ tin tự tâm.

Tôi giải thích có 5 thứ nghi: Nghi lý, nghi sự, nghi Pháp, nghi thầy, nghi mình.

Như nghi mình có nghiệp chướng nặng cũng không được, nghi thầy cũng không được, vì còn nghi thì thầy dạy không tin. Cho nên, biết phương tiện có người hỏi thì giải tỏa cái nghi cho họ để được tăng cường lòng tin tự tâm. Mục đích tham thiền là tự tánh hiện, nếu không tin tự tâm làm sao tự tánh hiện được?

Hỏi:
Khoa học hiện đã phát minh vô sinh và thực hiện ở con bò con cừu, rồi cũng thực hiện bằng cách cấy mô. Như vạây con người này do khoa học tạo ra, có phải là chúng sanh bình thường không?

Đáp:
Khoa học không chế tạo cơ nhân được, phải nhờ cơ nhân sẵn có, cũng như mình ghép cây này với cây kia. Nếu không có cây thì làm sao ghép được? Họ phải dùng tế bào người đó, nếu không có, họ đâu có thể tự tạo ra tế bào được!

Dùng tế bào con dê này thì giống con dê này, chứ không thể giống con dê khác, vì mỗi mỗi cơ nhân khác nhau. Trong cuốn Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21, ở đoạn nói về đầu thai, nói rõ hơn sinh lý giải phẩu học của đại học Mỹ.

-“Muốn thuyết minh trình trạng luân hồi của nhân loại, nên nhờ câu tụng của Huyền Trang đại sư để chứng minh:

Bát Thức Quy Củ Tụng có câu “khứ hậu lai tiên tác chủ công”. Hấp lực tỏa ra do cộng nghiệp của mình và cha mẹ khi cha mẹ giao hợp, khiến thức thứ 8 đến trước nhất (lai tiên). Khi chết thức này rời nhục thân sau cùng (khứ hậu). Do tính chấp ngã của thức thứ 7 kết hợp với sinh lý của cơ thể, mà làm chủ nhân nơi thân này. Đồng thời do tinh cha trứng mẹ kết hợp hình thành thai nhi, nhờ bát thức làm cơ nhân (DNA) mà dần dần hình thành hệ thống thần kinh của bộ não, đồng thời cùng khắp các tế bào và lục phủ ngũ tạng của toàn thân, do bộ não làm thủ tướng.

Do sự lôi kéo của ngã chấp, khiến lục thức với lục căn hợp tác mà nghe theo lệnh của bộ não. Nhưng mà, lục căn thuộc về sắc pháp (thể vật chất), lục thức thuộc về tâm pháp (thể tinh thần), căn có thể hoại diệt, thức thì không thể hoại diệt. Nếu tu hành đến kiến tánh thì chuyển được bát thức thành tứ trí mà ra khỏi luân hồi, chấm dứt sự sanh tử, dứt hẳn sự đầu thai chuyển thế, tự do tự tại vĩnh viễn, chẳng còn tạo nghiệp và bị nghiệp lực trói buộc”.

Thức thứ 8 là cái kho chứa tất cả chủng tử thiện ác của mình kiếp trước làm cơ nhân. Cái đó mỗi mỗi khác, nên cái cơ nhân của mỗi người cũng mỗi khác. Phải dùng cơ nhân bồi dưỡng đều qua tử cung của người đàn bà mới thành thai nhi được. Bộ não làm thủ tướng, nhưng có 3 bộ phận: Tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ.

Bộ phận ghi nhớ mà nhà khoa học đã bắt chước chế tạo thành máy vi tính, dần dần họ cải tiến rất nhanh. Còn 2 bộ phận: Tìm hiểu và suy nghĩ, cũng có nhà khoa học nói là năm sau sẽ ra đời. Vì nó là vật chất có thể y theo đó mà chế tạo cái máy. Cũng như cái rada là bắt chước con dơi, con dơi không có con mắt, nhưng nó bay không đụng.

Hỏi:
Thế nào là “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”?

Đáp:
Vì tự tánh không thể thay đổi, không lay động nên gọi là bất biến. Nhưng cũng tùy duyên mà hiện ra dùng, tùy duyên nên bản thể lại bất biến, gọi là bất biến tùy duyên. Bất biến là không biến đổi thì không chết mất, nên tồn tại vĩnh viễn. Chỗ này Phật giải thích trong kinh Lăng Nghiêm rất kỹ.

-Ai cũng cho kẻ thấy là con mắt, nhưng Phật chứng tỏ không phải sự thấy là con mắt. Vậy Phật làm sao chứng tỏ? Mỗi cuốn kinh đều có vị đại diện đương cơ cả triệu người nghe để hỏi Phật. A Nan là đại diện đương cơ.

Phật dùng tay thí dụ: Ta có cái tay để làm nắm tay, ngươi có con mắt thì thấy được Như lai, vậy hai việc này có giống nhau không?

A Nan đáp: Giống nhau.

Phật nói: Không giống. Tại sao? Ta có cánh tay mới làm ra nắm tay được. Nếu không có cánh tay thì nắm tay làm sao có? Người không có con mắt vẫn còn thấy được.

A Nan nói: Người không có con mắt làm sao thấy?

Phật bảo: Ngươi đi hỏi người không có con mắt, trước mắt có thấy gì không? Người ấy sẽ trả lời: Trước mắt sẽ thấy đen tối.

A Nan nói: Thấy trước mắt đen tối, sao gọi là thấy?

Phật muốn giải thích “thấy đen tối vẫn là thấy” thì phải thí dụ thêm. Một người không có con mắt ở trong phòng đen tối không có ánh sáng gì cả, có phải thấy trước mắt đen tối phải không?

A Nan đáp: Phải, thấy đen tối.

Phật nói: Vậy người có con mắt thấy trước mắt đen tối và người không có con mắt thấy trước mắt đen tối, hai thứ đen tối này có khác nhau không?

A Nan đáp: Không khác.

Phật hỏi tiếp: Vậy người không có con mắt, thình lình được con mắt sáng thấy đồ vật sắc tướng trước mắt, phải là con mắt thấy không?

A Nan đáp: Phải, con mắt thấy.

Phật hỏi tiếp: Người có con mắt ở trong phòng đen tối, thình lình đốt đèn lên thấy rõ đồ vật sắc tướng trước mắt, có phải đèn thấy không?

A Nan đáp: Không được. Cây đèn là hiển hiện sắc tướng để chiếu soi như lục căn vậy. Năm thức trước (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) chỉ tác dụng như cây đèn, chứ không phải kẻ thấy, kẻ thấy là tánh thấy. Thấy là nhãn thức mà không phải nhãn căn, nhãn căn chỉ là chiếu soi như cây đèn.

Sáng với tối là hai pháp sanh diệt, lúc sáng thì không thấy tối, lúc tối thì không thấy sáng. Nếu thấy tối là không thấy thì thấy sáng cũng là không thấy. Vì lúc sáng thì không thấy tối cho là không thấy, lúc tối thì không thấy sáng cũng cho là không thấy. Nói thấy thì hai cái đều thấy, thấy sáng cũng là thấy, thấy tối cũng là thấy. Tại sao thấy tối mà nói là không thấy? Còn thấy sáng cho là thấy! Đó là mâu thuẩn.

Do thí dụ của Phật nên mình biết: Cái thấy không phải con mắt, mà cái thấy là tánh thấy. Con mắt là tác dụng như cây đèn để chiếu soi. Căn là vật chất thì chết mất, thức là thể tinh thần không chết mất. Tại sao? Vì nó không lay động nên không biến đổi.

Tiếp theo vua Ba Tư Nặc hỏi Phật: “Ngoại đạo nói khi thân này chết thì tất cả đều biến mất” phải không?

Phật nói: Không phải, cái nào có lay động thì biến đổi chết mất. Cái nào không lay động không biến đổi không chết mất, tồn tại vĩnh viễn.

Phật hỏi vua Ba Tư Nặc: Vua biết mình có cái không chết mất không?

Vua đáp: Không biết.

Phật nói: Để cho ta nói cho vua biết.

Phật dùng tay để đối đáp với A Nan, Tay Phật nắm buông rồi hỏi A Nan: Ngươi có thấy tay ta nắm buông không?

A Nan đáp: Thấy tay Phật nắm buông.

Phật nói: Thấy tay ta nắm buông hay tánh thấy của ngươi nắm buông?

A Nan nói: Tay của Phật nắm buông, còn tánh thấy của con đâu có lay động mà nói nắm buông!

Tay của Phật nắm buông, sau khi chết thiêu thành tro, chôn thành đất. Tánh thấy không lay động làm sao chết mất được? Vì không lay động thì không biến đổi, không biến đổi thì không chết mất. Tại vì con mắt lay động thì chết mất. Tánh thấy không lay động thì không chết mất, tồn tại vĩnh viễn.

Như vậy, Phật còn chưa thỏa mãn, cái lay động là thân của Phật, còn tánh thấy không lay động là thân của A Nan, hai thân khác nhau. Phật muốn trong một thân có cái lay động và có cái không lay động. Phật mới phóng hào quang bên vai mặt của A Nan, A Nan ngó qua vai mặt. Phật phóng hào quang vai trái của A Nan, A Nan ngó qua vai trái.

Phật hỏi A Nan: Tại sao cái đầu ngươi ngó qua ngó lại làm cho đầu ngươi lay động vậy?

A Nan đáp: Đầu của con lay động, còn tánh thấy của con tịnh còn không có làm sao có động?

Cho nên, cái đầu lay động thì sau này sẽ chết mất, thiêu thành tro, chôn thành đất. Còn tánh thấy không lay động, không biến đổi thì làm sao chết mất được? Không những tánh thấy không chết mất, mà tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc và tánh biết đều tồn tại vĩnh viễn, không chết mất.

Hỏi:
Lúc chưa tạo thiên lập địa thì mọi người ở đâu?

Đáp:
Chỗ này để các vị tham, không được giải thích. Mới có câu thoại đầu “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Nếu có thể giải thích thì có thể tìm hiểu, nên không thể làm câu thoại đầu để tham được. Cho nên, tham câu này là giữ cái không biết mãi mãi, rồi đến chỗ thoại đầu mới kiến tánh thành Phật.

Sau này các vị ngộ rồi sẽ tự biết, chưa ngộ mà đoán mò bậy bạ là sai lầm, vì không thể giải được. Mặc dầu, đã kiến tánh thì rõ biết, như Phật Thích Ca muốn nói cho mình biết thì không thể được. Nếu có thể nói được thì không phải rồi.

-Muốn làm nhà khoa học thì phải giỏi toán. Như lấy số một chia mãi không cùng tận được. Tại sao không có con số cuối cùng? Vì không có số cực nhỏ, không có số cuối cùng, không thể giải thích được. Nên Phật nói là không có sự bắt đầu (vô thỉ), cũng gọi là bất khả đắc. Chỉ có thể nói vậy thôi, làm sao giải thích được? Nếu giải thích thì có số cuối cùng, có số cực nhỏ. Không có số cực nhỏ thì không có số cực lớn, nên gọi là vô thỉ vô chung.

Hỏi:
Con hỏi câu thoại đầu “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Chưa trời đất đã có bổn tâm, nhưng không biết là cái gì? Như vậy có đúng cách dụng công không?

Đáp:
Câu thoại đầu là kích thích niệm không biết, không biết này là không biết của bộ não, để chấm dứt biết của bộ não là tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết. Khiến bộ não ngưng hoạt động, chứ không phải hỏi câu thoại để tìm hiểu đáp án của câu thoại. Nếu không chịu chấm dứt tìm hiểu, mà lại kéo dài sự tìm hiểu thì sai lầm lớn.

Bất cứ hỏi câu thoại nào đều kích thích niệm không biết, nên muôn ngàn câu thoại đều kích thích niệm không biết. Khán (nhìn) là nhìn chỗ không biết được kéo dài. Hỏi và nhìn, hai cái đi song song để giữ niệm không biết, không biết này gọi là nghi tình.

Chỉ cần giữ niệm không biết, chứ không phải tìm hiểu đáp án của câu thoại. Không phải muốn tìm hiểu ta là cái gì? “Khi chưa có trời đất ta là cái gì?” là chỉ kích thích niệm không biết. Nếu câu thoại đầu nào tìm hiểu được thì không thể dùng để tham. Phải dùng câu nào không thể giải thích, không thể tìm hiểu, mới làm cho mình khởi lên niệm chân thật không biết.

Hỏi:
Vô thỉ là không có bắt đầu, sao gọi là thoại đầu?

Đáp:
Vô thỉ thì không thể tìm hiểu, tức chưa có trời đất. Hữu thỉ (có bắt đầu) thì dễ tìm hiểu. Câu thoại đầu không thể tìm hiểu mới làm thoại đầu để tham được.

Hỏi:
Học đạo kiến tánh thì khó, vậy thế nào là kiến tánh?

Đáp:
Phật Thích Ca và chư Tổ đã kiến tánh cũng không thể nói cho mình biết được. Nếu nói cho mình biết được thì mình khỏi tu, có nói được thì không phải kiến tánh. Tự tánh không phải sở biết, sở kiến. Không có năng kiến để kiến tự tánh mới gọi là kiến tánh. Kiến tánh là tự tánh tự hiện. Nếu có tự tánh mà Phật Thích Ca thấy được thì không phải tự tánh, vì nó là nhị, tự tánh là bất nhị. Nếu có năng kiến, sở kiến cũng là nhị.

Mặc dầu, Phật Thích Ca đã kiến tánh là tự tánh tự hiện, chứ không phải có người năng kiến để kiến tự tánh. Nếu tự tánh mà Phật Thích Ca phát hiện ra thì tự tánh này là sở kiến. Tự tánh không phải là sở kiến. Năng kiến và sở kiến đều diệt thì mới hiện ra tự tánh.

Hỏi:
Một khi kiến tánh rồi thì tướng bệnh đã hết, tướng mạnh hiện ra. Tại sao ngài Hư Vân và vị sửa đường lộ gặp nhau không biết, mà phải dùng thiền ngữ mới biết?

Đáp:
Vậy cô đã kiến tánh rồi sao! Nếu cô chưa kiến tánh sao biết thế nào, thế nào? Người kiến tánh là tự biết mà không thể nói cho người khác biết được, vì tự tánh không phải là sở kiến.

Hỏi:
Con ở xa không gần các vị lão tham, có thể con tự chọn câu thoại đầu để tham được không?

Đáp:
Câu thoại đầu là mình tự chọn, chọn câu nào không thể tìm đáp án được thì mới thích hợp để tham; còn nếu có thể tìm ra đáp án hay giải thích thì không thích hợp để tham.

Hỏi:
Tham thoại đầu ở nhà, đi ít ngồi nhiều được không?

Đáp:
Tham thiền ở nhà đi đến mỏi chân thì ngồi, ngồi đến tê chân rồi đi, không cần nhất định thời gian nào. Nếu làm công việc thì cứ làm, khỏi ngồi khỏi đi.

Hỏi:
Con đến đến với đạo Phật hơn một năm, đi tìm học Phật và dự thiền thất lần thứ hai, pháp môn thiền con rất thích, con tham câu “muôn pháp về một, một về chỗ nào?” Vậy con nên học giáo lý ở trường nữa không? Nếu học thì phải trả bài, vậy con phải làm sao?

Đáp:
Làm nghề nào tham thiền cũng được, làm thợ hồ thì cứ làm thợ hồ, làm thợ mộc thì cứ làm thợ mộc, làm thợ bếp thì cứ làm thợ bếp, làm nghề học cũng được vậy, huống là học giáo lý. Bất cứ làm nghề gì cũng được, đừng làm nghề nào mà gây ra quả báo không tốt. Như sát sanh hay mua bán sinh mạng,… còn các nghề sinh sống làm bình thường, tức là mình làm cái gì thì phải giữ đúng vai trò cái đó.

Hỏi:
Nghiên cứu giáo lý sách Phật, tụng kinh hằng đêm có tiếp tục làm nữa không?

Đáp:
Tụng kinh là tu của giáo môn, tụng tới đâu thì thiền quán tới đó, gọi là tùy văn quán tưởng. Tổ đình tông Thiên Thai là Quán Tông tự tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Ngài Đế Nhàn là Pháp sư danh tiếng của tông Thiên Thai. Một ngày có 3 thời, mỗi thời có 2 giờ tụng kinh vừa quán, chứ không phải như ở đây tụng kinh bao quán tưởng, tức là đang tụng kinh là đang thiền nhiêu đó chỉ có 40 phút là xong. Tụng kinh không phải cho Phật nghe. Còn có người nói tụng kinh mới tiêu của Tín thí! Nhưng sự thật thì không phải vậy, tụng kinh là tu, có tu mới tiêu của Tín thí được, đó là cách tu của giáo môn.

Hỏi:
Vai trò của bộ não trong bát thức như thế nào?

Đáp:
Bát thức……… nghiệp lực trói buộc.(Trang 202 - 203).

Lục căn thì có mỗi căn nhiệm vụ riêng biệt, 8 thức thì có nhiệm vụ của mỗi thức. Vai trò bộ não là hệ thống thần kinh tức là lục căn. Người thường hay nhà khoa học chỉ biết bộ não, họ cho 8 thức chỉ một thức là bộ não, rồi cùng với lục căn. Đến lúc bát thức chuyển thành tứ trí thì cũng dùng bộ não, nhưng bộ não chỉ là công cụ nô lệ của tứ trí (chơn tâm) tức là cái dụng của chơn tâm.

Bát thức chưa chuyển thành trí thì hợp tác với hệ thống thần kinh (lục căn) nghe lệnh của bộ não gọi là vọng tâm, nghịch với thực tế. Bộ não làm chủ là theo ngã chấp, mới có những chuyện ác. Làm thiện làm ác đều do bộ não chỉ huy, bát thức chuyển thành tứ trí chỉ có làm thiện, chứ không có làm ác. Nhưng làm thiện cũng không cho làm thiện.

Hỏi:
Phật tánh siêu việt logic, có đồng với câu “cứu cánh cùng cực, bất tồn quỷ tắc” của Tín Tâm Minh không?

Đáp:
Cũng giống như vậy, nếu có logic thì có tương đối, phải có thí dụ. Còn chơn tâm bất nhị không có tương đối thì không thể dùng lời nói để diễn tả, không thể theo logic để chứng minh. Cho nên, nói “Phật tánh siêu việt logic”. Nếu nói đồng là nhị, nói khác cũng là nhị. Tại sao? Người ta nói “đồng nhất”, nhưng phải có hai cái mới đồng được, như cái này đồng với cái kia. Còn khác cũng vậy, cái này khác với cái kia, phải có hai cái mới nói khác.

Hỏi:
Các chùa thường có gia phả chánh pháp hoặc Lâm Tế chánh tông, có phải là triệt ngộ không?

Đáp:
Xưa, có triệt ngộ mới truyền tâm ấn gọi là nối pháp. Thường thường thầy truyền pháp, đệ tử ngộ rồi được thầy ấn chứng, nhưng thầy không biết nối pháp của mình. Sau khi vị ấy ra làm trụ trì, bắt đầu hoằng pháp, đốt cây hương đầu tiên và tuyên bố “thầy truyền pháp cho tôi là người….”, rồi gởi thư cho thầy, nói “nhờ ơn pháp nhũ của thầy mà nay con được nối pháp”, có khi thư gởi đến thì thầy đã tịch hay thư đến vị thầy đó mới biết mình có pháp tử.

Thời ấy có người kiến tánh mới nối pháp, sau này chưa kiến tánh cũng nối pháp. Rồi dần dần tệ hơn, nhưng lại có tham thiền; sau nữa thầy tìm đệ tử nối pháp. Đến sau còn tệ hơn không có tham thiền mà có niệm Phật cũng được truyền pháp thiền. Sau nữa không niệm Phật và không tu mà được truyền là đệ tử của Thiền sư đời nào đó…

Bây giờ càng ngày càng tệ, thầy viết ra pháp huyễn không biết người đó có đọc qua pháp quyển không? Nhưng cũng kể từ 7 Phật quá khứ đến bây giờ, từ đời từ đời đều đầy đủ hết. Như ban đầu là sữa nguyên chất, rồi pha thêm nước, pha đến lúc nước nhiều hơn sữa, cuối cùng chỉ còn có nước, như hiện nay cũng gọi là pháp nhũ!

Hỏi:
Con vừa hỏi câu thoại và nhìn một chỗ, một niệm chưa sanh, khi câu thoại vừa hết, con lại hỏi tiếp tục. Trong lúc đó cái nhìn vẫn liên tục. Vậy như thế nào?

Đáp:
Mình phải tập lần lần, cái hỏi thì dễ hơn cái nhìn, vì thói quen của mình thì phải có mục tiêu để nhìn; bây giờ không có mục tiêu để nhìn thì người ta không quen. Nhưng phải tập lần lần cho quen, tức là không thấy gì cũng nhìn hoài, nhìn chỗ trống rỗng không có gì cũng nhìn, mà hỏi và nhìn 2 cái đi song song tập lần lần, tập lâu sẽ nhìn được.

Hỏi:
Người kiến tánh là tương đối bước vào lãnh vực tuyệt đối. Vậy có đúng không? Tuyệt đối có phải triệt ngộ không?

Đáp:
Công phu đến chỗ nào thì biết đến chỗ đó, chưa tới mà tìm hiểu là sai lầm. Đừng nói mình chưa chứng gì hết, Sơ Địa còn chưa biết Nhị Địa, Nhị Địa thì không biết Tam Địa. Chưa chứng Nhị Địa mà tìm hiểu Nhị Địa là sai lầm, chứng Nhị Địa rồi tìm hiểu Tam Địa cũng sai lầm, huống là chưa chứng gì hết! Muốn tìm hiểu Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác, vậy làm sao được?

Tham thiền là chấm dứt tìm hiểu, công phu đến đó mới biết; còn bây giờ công phu chưa đến chỗ đó làm sao biết? Như mình chưa đến Hà Nội mà hỏi thành phố Hà Nội là sao? Dẫu cho người ta nói để mình biết, mình cũng không biết được. Khi nào mình đến Hà Nội thì tự biết rõ ràng. Nếu nghe sự diễn tả của người ta để biết, nhưng đến nơi thì lại thấy khác.

Hỏi:
Tự tánh cùng khắp, sao bộ não không cùng khắp?

Đáp:
Bộ não là vật chất thì bị không gian và thời gian hạn chế nên không cùng khắp. Còn tự tánh là phi vật chất nên tự nhiên cùng khắp.

Hỏi:
Tại sao khởi niệm hỏi câu thoại gọi là tham thoại đầu?

Đáp:
Khởi niệm lên thì không phải thoại đầu, vì mục đích muốn đến thoại đầu nên gọi là tham thoại đầu hay là khán thoại đầu. Nhưng sự thật nhờ câu thoại để hỏi mà khởi lên niệm không biết, chứ không phải thoại đầu.

Bộ não (ý thức) gồm có mặt biết và mặt không biết. Nếu dùng mặt biết để tu gọi là Như Lai thiền, dùng mặt không biết để tu gọi là Tổ Sư thiền, cuối cùng đều đến thoại đầu.

Bắt đầu hỏi và tham là rời khỏi thoại vỉ, nhưng chưa đến thoại đầu, đang đi ở giữa đường thì một ngày kia sẽ đến thoại đầu, tức là tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết đều chấm dứt.

Chỗ thoại đầu còn gọi là vô thỉ vô minh, cũng gọi là đầu sào 100 thước là nguồn gốc bộ não. Từ đầu sào 100 thước bước lên một bước nữa là lìa ý thức thì biết và không biết của bộ não được sạch, cái biết Phật tánh hiện ra khắp không gian và khắp thời gian.

Vì bộ não là vật chất nên không cùng khắp không gian thời gian, lìa bộ não được phi vật chất là Phật tánh. Nếu còn dính líu với bộ não thì không cùng khắp được.

Hỏi:
Cấy mô tế bào động vật được hình thành, vậy đó có phải là hữu tình không? Và có bị chi phối nhân quả không?

Đáp:
Hữu tình là loài động vật, nếu dùng tế bào con đực cấy vào trứng của con cái và dùng tinh trùng con đực cấy vào trứng của con cái, hai việc này giống nhau.

Hữu tình cũng phải chi phối theo luật nhân quả, có tình cảm buồn vui, yêu ghét, biết đau biết khổ. Vô tình thì không biết đau, biết khổ.

Bồ Tát là bồ đề tát đỏa, nghĩa là giác hữu tình làm cho hữu tình được giác ngộ, chứ không phải đối với vô tình, vô tình thì không thể giác ngộ được. Phật thuyết pháp là đối hữu tình mà thuyết.

Hữu tình là chánh báo, vô tình là y báo, tức là để cung cấp cho hữu tình dùng, chánh báo là chủ.

Hỏi:
Phương pháp hành thiền tự tánh như: Thiền là tỉnh thức, thiền là an nhiên, thiền là điềm đạm, thiền là không vọng tưởng, thiền là ở sáu căn, thiền là khi tụng kinh, thiền khi niệm Phật, tất cả những đề mục trên, có phải oai nghi tế hạnh của người tu không? Hay là Như lai thiền?

Đáp:
Không phải Như Lai thiền, mà là tà ma ngoại đạo thiền, không phải chánh pháp của Phật dạy. Chánh pháp của Phật dạy là Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, Tối thượng thừa (Tổ Sư thiền), tức là 4 thừa.

Ngài Nguyệt Khê giải thích 4 thừa:

1.Tiểu thừa:
-Giai đoạn chấp ngã: Tất cả pháp môn của chánh pháp đều phá ngã chấp. Tiểu thừa là giai đoạn phá chấp ngã.

-Chủ quan duy vật luận: Tại sao nói duy vật? Vì lục căn đối với lục trần đều là duy vật.

-Phạm vi tương đối: Lục căn và lục trần là tương đối.

-Tu Tứ Thánh Đế: Tứ Thánh Đế còn gọi là Tứ Diệu Đế (khổ, tập, diệt, đạo), hằng ngày mình thấy khổ, khổ đó là do tâm tạo ra gọi là tập đế. Muốn diệt khổ thì phải tu đạo, rồi mới chứng diệt (Niết bàn). Cho nên nói là khổ, tập, diệt, đạo.

-Ở trong nhất niệm vô minh: Cuộc sống hằng ngày của mình đều ở trong nhất niệm vô minh, từ niệm này qua niệm kia ngày đêm không ngừng. Ban đêm biến hiện ra nhắm mắt chiêm bao, ban ngày biến hiện ra mở mắt chiêm bao.

-Thừa Thanh văn: Là Tiểu thừa nghe âm thanh của Phật thuyết pháp được ngộ đạo.

-Mục đích đoạn dứt lục căn: Tiểu thừa cho lục căn là nguồn gốc, vì lục căn tiếp xúc lục trần, ham thích lục trần mới sanh ra phiền não. Cho nên Tiểu thừa là muốn dứt lục căn, vì không có lục căn thì không có phan duyên lục trần, nên mới hết cái khổ phiền não.

2.Trung thừa:

-Giai đoạn phá pháp chấp: Đến Trung thừa thì phá được ngã chấp, nhưng lại chấp pháp. Tất cả vũ trụ vạn vật, bất cứ cái gì đều là pháp.

-Chủ quan duy tâm luận: Không phải đối với vật hay đối với lục căn, lục trần. Phá được ngã chấp là không đối với vật, nhưng lại đối với pháp. Pháp không có hình thể chỉ là khái niệm trong tâm, nên gọi là duy tâm luận.

-Phạm vi tương đối: Thừa này còn ở trong phạm vi tương đối, vì pháp với tâm là tương đối.

-Tu mười hai nhân duyên: Trung thừa tu 12 nhân duyên là từ vô minh đến lão tử, bao gồm quá khứ, hiện tại, vị lai.

-Ở trong nhất niệm vô minh: Thừa này vẫn còn ở trong nhất niệm vô minh, tức là từ niệm này qua niệm kia.

-Thừa Duyên giác: Vì họ tu 12 nhân duyên được giác ngộ, nên gọi là thừa Duyên giác.

-Mục đích đoạn nhất niệm vô minh: Tiểu thừa đoạn lục căn, vì lục căn bám theo lục trần là duy vật. Chấp pháp là cái niệm chấp pháp. Ý niệm đó gọi là nhất niệm vô minh, nên đoạn nhất niệm vô minh để không còn chấp gì nữa.

3.Đại thừa:

-Giai đoạn không chấp: Đến Đại thừa thì phá được ngã chấp và pháp chấp, nhưng lọt vào không chấp tức là chấp không.

-Tâm vật hợp nhất: Tiểu thừa là duy vật, Trung thừa thì duy tâm, Đại thừa là duy tâm và duy vật hợp một.

-Phạm vi tương đối: Tâm với vật hợp một cũng còn tương đối.

-Tu sáu ba la mật: Đại thừa là tu sáu ba la mật (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ).

-Ở trong vô thỉ vô minh: Ở trên là nhất niệm vô minh, nhất niệm vô minh được phá rồi, đến nguồn gốc là vô thỉ vô minh, Thiền tông gọi là thoại đầu.

-Tu Bồ Tát thừa: Tu 6 ba la mật, tức là Đại thừa.

-Mục đích phá vô thỉ vô minh: Nhất niệm vô minh sạch thì đến vô thỉ vô minh. Tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ đều là nhất niệm vô minh, nhất niệm này sạch hết thì đến thoại đầu là vô thỉ vô minh.

4.Tối thượng thừa:

-Giai đoạn thật tướng: Tiểu thừa phá ngã chấp, Trung thừa phá pháp chấp, Đại thừa phá không chấp thì đến chỗ thật tướng.

-Phi tâm phi vật: Cái kia còn ở trong tương đối có tâm có vật, đến Tối thượng thừa thì chẳng phải tâm cũng chẳng phải vật. Như ngài Long Thọ nói: “Tâm như hư không vô sở hữu” tức là không có gì cả (trống rỗng).

-Phạm vi tuyệt đối: Trống rỗng không có gì, là tương đối đi vào tuyệt đối.

-Tham thoại đầu, công án: Tối thượng thừa là tham thoại đầu. Tôi dạy các vị tham thoại đầu, tham công án. Công án phức tạp hơn thoại đầu, nhưng đều giữ cái “không biết”. Như người ta gặp công án, ngộ thì ngộ, không ngộ thì không hiểu, không hiểu tức là không biết (nghi tình), giữ nghi tình thì sau này sẽ được ngộ. Chứ không phải các người làm tày khôn viết sách thiền giải công án, tìm hiểu công án, ấy là sai lầm, phải bị tội địa ngục. Công án là để cho người ta ngộ, chứ không phải để cho người ta tìm hiểu.

-Chơn như Phật tánh: Tối thượng thừa là mục đích hiện Chơn như Phật tánh.

-Nhất Phật thừa: Các thừa trên gọi là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, còn đây gọi là Phật thừa.

-Vạn đức viên mãn vô tu vô chứng: Đến chỗ này thì tất cả đầy đủ, vì nó sẵn có nên gọi là vạn đức viên mãn. Tại nó sẵn có nên không phải tu mới thành, nên nói là vô tu; không phải chứng mới đắc gọi là vô chứng, vì nó thành sẵn đắc sẵn. Tại nó bị che khuất, nên tham thiền là dẹp bỏ các che khuất thì nó tự hiện.

Như luyện quặng vàng, luyện bỏ tạp chất thì vàng ròng hiện ra; vàng ròng được hiện ra thì phải qua luyện mới được. Nhưng không phải luyện rồi mới thành, vàng đã thành sẵn ở trong quặng, nhưng bị đất cát tạp chất che khuất.

Như Phật tánh đã thành sẵn, bị biết và không biết của bộ não che khuất, nên phải nhờ tham thoại đầu hay tham công án, dẹp bỏ những che khuất để Phật tánh hiện ra, chứ không phải tu mới thành chứng mới đắc, nên gọi là vô tu vô chứng.

Hỏi:
Trong tác phẩm Nẻo Vào Thiền Học có viết một đoạn kể lại đối thoại giữa 2 vị là Thiền giả và Hòa thượng.

Thiền giả hỏi: Đạo là gì?

Hòa thượng trả lời: Đạo là tâm bình thường của con người.

Thiền giả nói: Vậy cần gì phải tu?

Hòa thượng trả lời: Nếu có tu thì trái với đạo.

Kính xin Sư Phụ giảng: Có ý muốn tu là trái với đạo?

Đáp:
Vì vô tu vô chứng, tại không phải tu mà thành.

Hỏi:
Thế nào phiền não tức Bồ đề và sanh tử tức Niết bàn?

Đáp:
Bồ đề là giác ngộ, phiền não là si mê. Nếu không có si mê thì làm sao có giác ngộ? Nên có si mê mới có giác ngộ. Mê và ngộ là tương đối.

Hỏi:
Con dùng “tâm là cái gì?” làm thoại đầu để tham được không?

Đáp:
Tâm là danh từ ai cũng nói được, nhưng tâm là cái gì thì ai cũng không biết, chỉ là tâm tự biết, Phật Thích Ca cũng không biết được. Nếu Phật biết được thì nó thành sở biết, tức là còn ở trong tương đối, có năng có sở. Chân tâm không phải sở biết nên gọi là bất nhị, nhị là tương đối; không có tương đối nên nó không bị phát hiện được, nó không thành sở biết. Nếu có năng biết và sở biết thì không phải chân tâm.

Hỏi:
Giới Bồ Tát nói: “Người đã thọ giới Bồ Tát, nếu bán rượu thì 500 kiếp không tay”, lúc con đi ăn chung với bạn, bạn có nhờ con đưa rượu cho người ta uống. Vậy con có mang tội không?

Đáp:
Ngũ giới là giới của thừa Thanh Văn, bán rượu thì không phạm, còn uống rượu thì phạm, vì chỉ không cho thân phạm. Còn giới Bồ Tát là cấm thêm tâm, cho nên tâm động là phạm. Giới Bồ Tát uống rượu là tội nhẹ, bán rượu thì tội nặng.
Bồ Tát là hy sinh thân mình là cứu độ chúng sanh, bán rượu là hại chúng sanh nên tội nặng, còn uống rượu chỉ hại một mình nên tội nhẹ.

Hỏi:
Giới Bồ Tát có xả được không?

Đáp:
Giới của nhà Phật bất cứ giới nào đều xả được hết. Như Bát quan trai giới chỉ một ngày một đêm là xả.

Hỏi:
Nghi sự là gì?

Đáp:
Sự là công việc, bất cứ công việc gì đều là sự. Như giải đáp của tôi cũng là sự, các vị đi hương, tọa hương trong thiền thất cũng là sự, tức làm là sự. Như muốn cất nhà, phải theo kiến trúc mà xây tường lợp mái, những việc ấy đều là sự.

Nghi sự của mỗi người thì mỗi khác. Cũng như nghi việc tham thiền có được giải thoát không? Nghi lý tham thiền có đúng lý không?

Hỏi:
Nếu con xuất gia mà bỏ cha mẹ già, vậy có bất hiếu không?

Đáp:
Nếu xuất gia chơn tu là đại hiếu, còn tại gia có hiếu nuôi cha mẹ đến già chết nhưng không được giải thoát, kiếp sau vẫn còn tiếp tục chịu khổ. Nếu mình xuất gia chân tu giải thoát thì sẽ cứu được cha mẹ. Như Phật Thích Ca tu được giải thoát, rồi về độ cha mẹ và tất cả thân thuộc.

#39 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 01/09/2011 - 11:30

Hỏi:
Mẹ con bán chim phóng sanh, có một số chim bị chết, con nhổ lông đem bán để khỏi bị lỗ. Như vậy con có bị phạm vào nhân quả hay không?
Đáp:
Mua chim về rồi tụng kinh để phóng sanh, mà nhiều con đã bị chết. Việc làm này không đúng, phóng sanh không có ý để mua; tức là gặp chỗ nào thì mua phóng sanh chỗ ấy liền. Chứ không đến chỗ bán chim để mua, người ta đem vào chùa bán cũng không được mua.

Người ta đem chim vào chùa bán mà mình mua để phóng sanh, là mình mướn người ta đi bắt chim. Chứ không phải phóng sanh.

Nếu mua chim về để bán thì bị tội nhân quả. Vì họ mua bán sinh mạng để kiếm lời, dù chim không bị chết nhưng nó cũng đau khổ, vì vậy người bán chim phải bị nhân quả.

Hỏi:
Những đứa con ngỗ nghịch bất hiếu, có phải cha mẹ bị mắc nợ ở kiếp trước không?

Đáp:
Cũng có người sanh 2 đứa con, người con có hiếu thì đến trả nợ, người con bất hiếu thì đến đòi nợ.

Hỏi:
Tự tánh vốn sẵn có, sao bộ não xen vào Tự tánh?

Đáp:
Bộ não là nghiệp tạo thành, do chủng tử thiện ác kiếp trước của thức thứ 8 đem theo đầu thai. Vì ngã chấp của thức thứ 7 khiến cho lục thức lục căn hợp tác nghe theo lệnh của bộ não. Bộ não là hệ thống thần kinh theo ngã chấp mà tạo nghiệp nhân thì phải chịu nghiệp quả, chứ không phải Tự tánh bất nhị không có tương đối. Khi chuyển bát thức thành tứ trí thì mới hiện Tự tánh bất nhị. Còn bây giờ Tự tánh bị che khuất, nên lục căn và lục thức theo lệnh của bộ não.

Hỏi:
Tại sao tâm ma ở trong thì khó trị, còn tâm ma ở ngoài thì dễ trị?

Đáp:
Ở ngoài thì không phải tâm ma, tự tâm của mình sanh mới gọi là tâm ma. Tâm ma ở trong ra thì khó trị, vì mình không biết; còn tâm ma ở ngoài vô thì dễ trị. Nếu mình giữ được chánh niệm nên ma không thể có. Thực hành được 9 chữ “vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ” thì ma cũng không đến được.

Hỏi:
Người cư sĩ thọ tam quy ngũ giới có bắt buộc phải ăn chay không?

Đáp:
Nên ăn chay, vì giới thứ nhất là cấm sát sanh; nếu không sát sanh thì sao có thịt để ăn! Có người nói “tôi đi mua thịt của người ta làm sẵn”. Thí dụ: Người ta làm sẵn 10 con gà để bán thì phải có người mua, nếu 10 con gà được bán hết thì ngày mai họ lại làm thêm 12 con, 12 con bán hết thì bửa sau làm 15 con. Nếu 10 con gà bán không được thì ngày mai họ phải nghĩ bán, không giết hại nữa. Cho nên người mua là thúc đẩy cho họ giết thêm. Trong kinh Lăng Già nói: “Mình dùng tiền bắt họ đi giết”.

Hỏi:
Tại sao chúng con ngồi tham thiền bị hôn trầm, trạo cử lắc lư cựa quậy?

Đáp:
Lúc bớt vọng niệm thì tự nhiên sinh lý bị hôn trầm, còn vọng niệm nhiều thì bì bị trạo cử. Khi hôn trầm phải mở mắt, mở mắt còn hôn trầm thì lấy nước lạnh rửa mặt. Nếu rửa mặt mà còn hôn trầm, nên đứng dậy đi kinh hành và kiếm công việc để làm. Còn vọng niệm nổi lên thì nhắm mắt lại, hỏi và nhìn liên tiếp.

Hỏi:
Phật tử tại gia tham thiền có những giai đoạn thử thách đau khổ trong cuộc sống, vậy có phải trả nghiệp không?

Đáp:
Có thử thách mới gọi là tu, nếu không có thử thách giống như người ta nhập thất tự nhốt trong phòng, việc ấy không phải tu, mà lại có hại nữa, vì không có tiếp xúc cảnh vật bên ngoài. Chuyện đó trong Thiền tông có công án:

Thiền sư ở trên núi một mình, có lần xuống núi gặp đứa bé bị bỏ, rồi đem về núi để nuôi. Nuôi bé được 20 tuổi, ở trên núi chỉ có 2 thầy trò, không có người khác ở. Đứa bé chỉ thấy chim cá cọp beo.

Một hôm, Thiền sư dắt đứa bé xuống chợ. Đứa bé thấy cái này cái kia không biết nên gặp cái nào cũng hỏi thầy.

Bé hỏi thầy: Cái này là gì?

Thầy nói: Cái bình.

Bé hỏi thầy: Cái này là gì?

Thầy nói: Cái tách.

Bé gặp cái nào cũng hỏi, rồi gặp người nữ lại hỏi: Cái này là gì?

Thầy nói: Con cọp chợ. Cọp ở trên núi mày đã biết rồi phải không? Cọp chợ lợi hại hơn cọp ở núi! Đừng có gần nó nghe không?

Bé nghe như vậy thôi. Khi trở về núi thầy mới hỏi bé: Lúc mày xuống núi chơi có thích nhất cái gì không?

Bé nói: Con không thấy cái gì thích, nhưng trong lòng con thích nhất cọp ở chợ.

Từ nhỏ bé đâu gặp cọp chợ, nhưng khi gặp lại thích. Cho nên bé ở trên núi như nhập thất 20 năm, đâu có ích lợi gì!

Hỏi:
Chúng con sơ cơ tham thiền chưa rõ cách nhìn. Kính xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
Vì không có chỗ để nhìn, mà tánh con người muốn nhìn thì phải có cái gì để nhìn; đã không có mục tiêu nhưng cũng phải nhìn, thành ra mới thấy khó. Tập dần dần như tập xe máy, ban đầu tập hai tay vịn nhưng cứ ngã, sau này tập được thì hai tay vịn không ngã, tập được quen mà hai tay buông cũng không ngã, tập thuần thục lúc quẹo cũng không cần tay, rồi tập thêm nữa muốn ngừng muốn nhảy cũng được nữa.

Người ta tập xe một bánh để chạy biểu diễn vẫn được. Nên tập dần dần quen thuộc thì nó tự động sẽ tham thiền được.

Hỏi:
Chúng con mới tham thiền học đạo, nhưng lỡ chết đi, chúng con có gặp lại chánh pháp này không?

Đáp:
Theo nhân quả, khi gieo chánh nhân thì sẽ thành chánh quả, tà nhân thì bị tà quả. Tham Tổ Sư thiền của Phật Thích Ca truyền dạy là gieo chánh nhân. Giả sử ngày nay tham thiền mà ngày mai chết, nhưng chánh nhân đã gieo rồi thì kiếp sau tiếp tục cho đến cuối cùng kiến tánh thành Phật, tại vì nhân quả rõ ràng.

Câu chuyện con dâu và mẹ chồng:

Mẹ chồng có bệnh đau nhức, con dâu biết châm kim, châm là hết liền, nhưng vài ngày sau đau nhức lại, nên phải châm kim. Cứ vậy mà châm đi châm lại hoài.

Mẹ chồng biết tu, cầu nguyện Quán Thế Aâm, thấy chiêm bao nghe nói: “Vì bà lúc trước châm kim con dâu nhiều lần, nên bây giờ con dâu phải châm kim bà lại, nhưng còn 19 lần châm nữa mới hết”. Mẹ chồng thức dậy chưa đau nhức lại bảo con dâu châm kim 19 lần.

Con dâu nói: Không có đau nhức mà châm làm chi?

Mẹ chồng nói: Kệ cứ châm đi, năn nỉ con dâu.

Con dâu bất đắc dĩ châm 19 lần thì bệnh đau nhức của mẹ chồng từ đó về sau không còn nữa.

Hỏi:
Tại sao các Thiền Viện chỉ thờ Phật Thích Ca và các Tổ Ma Ha Ca Diếp,… mà không thờ các vị Phật khác, như Phật Di Đà, Phật Quan Thế Aâm,…?

Đáp:
Thiền Đường ở Trung Quốc không có thờ Phật gì hết. Ngày xưa Bá Trượng sáng lập Tòng Lâm không có thờ Phật. Bây giờ có chùa chỉ thờ Phật Thích Ca, lại có chùa thờ đủ thứ, nói ra cũng không nói ra hết được. Nhưng Thiền tông không nói đến việc thờ, nếu nói đến thờ thì không phải Thiền tông. Thiền tông có chùa là bắt đầu ngài Bá Trượng.

Hỏi:
Phật Thích Ca nhập diệt rồi, có phải theo sự sanh tử của người thế gian để cứu độ họ hay là về ở cõi thiên, không còn ở cõi này nữa?

Đáp:
Người hỏi có đọc Bát Nhã Tâm kinh không? Mỗi ngày ở chùa có đọc Bát Nhã Tâm kinh ba lần. Bát Nhã Tâm kinh nói: “Vô vô minh diệc vô vô minh tận, vô lão tử diệc vô lão tử tận”. Vô lão tử là không có sanh tử, người kiến tánh triệt để là ngộ không có sanh tử. Người hỏi luôn Bát nhã Tâm kinh còn không đọc! Tưởng Phật Thích Ca còn ở trong sanh tử thì thành Phật có ích lợi gì!

Hôm qua nói: “Không phải tu mới thành, chứng mới đắc, tức là đã thành đã đắc rồi”. Thiền tông ngộ vốn không có sanh tử thì liễu thoát được sanh tử, chứ không phải có sanh tử, rồi tu đến thành Phật lại còn ở trong sanh tử nữa!

Hỏi:
Kinh Pháp Hoa có từ năm nào? Và do vị nào làm tác giả?

Đáp:
Kinh Pháp Hoa là Phật Thích Ca thuyết, nhưng Phật Thích Ca nói trong kinh Pháp Hoa: “Vị Phật nào cũng đều thuyết kinh Pháp Hoa”, chứ đâu phải có ai làm tác giả!

Hỏi:
Câu thoại đầu chưa khởi niệm là như thế nào?

Đáp:
Nếu không có khởi niệm thì làm sao nói như thế nào được! Như thế nào là đã khởi niệm rồi, mới biết là “như thế nào”. Còn chưa khởi niệm làm sao biết như thế nào, phải mâu thuẩn không?

Hỏi:
Chiếu cố thoại đầu là gì?

Đáp:
Chiếu cố thoại đầu là nhìn chỗ không biết để giữ cho không biết được kéo dài.

Hỏi:
Có người nói: Chỉ cần chăm chú hỏi rõ ràng câu thoại đầu là được rồi, có được không?

Đáp:
Không được chăm chú, không được tập trung tinh thần, không được cố gắng. Chư Tổ nói “ít phí sức chừng nào thì tốt chừng nấy”. Tức là chỉ hỏi và nhìn để giữ nghi tình (không biết), nếu không biết làm sao chăm chú! Chăm chú là đã biết rồi. Kéo dài nghi tình một chút bằng sợi chỉ cũng được, chứ không được chăm chú để phí sức.

Hỏi:
Ở thế gian muốn học Đại học thì phải tốt nghiệp Trung học rồi mới đi vào Đại học. Nếu muốn rút ngắn thời gian thì phải nhảy lớp, nhưng căn bản ở mỗi lớp phải học qua. Còn đối với pháp xuất thế gian, chúng con tu pháp Tối thượng thừa thì phải tu từ Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa để có thể nắm bắt căn bản của các thừa trên không?

Đáp:
Giáo môn là từ cấp từ cấp mà lên, còn Thiền môn là địa vị phàm phu tu chứng lên Đẳng Giác, nên không có giai cấp. Giáo môn thường có 52 cấp: Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, gồm có 50 cấp và Đẳng Giác, Diệu Giác, tổng cộng là 52 cấp.

Kinh Lăng Nghiêm có 57 cấp. Mặc dầu Thiền môn có nói tam quan là “Sơ Quan, Trùng Quan Và Mạc Hậu Lao Quan”, ấy là phương tiện tùy theo căn cơ. Có người không cần phải qua Sơ Quan, Trùng Quan mà thẳng tới Mạc Hậu Lao Quan, chứ không có cấp nào hết.

Hỏi:
Con là Phật tử tại gia có quy y thọ 5 giới, con chỉ giữ được 10 ngày ăn chay trong mỗi tháng, không biết như vậy có phạm giới sát sanh không?

Đáp:
Theo nhân quả thì ăn cục thịt phải trả lại cục thịt, giết 1 mạng phải trả 1 mạng. Người Phật tử thọ 5 giới, mà giới đầu tiên là cấm sát sanh, nếu ăn chay 10 ngày trong mỗi tháng, còn 20 ngày kia thì sao? Khỏi trả nợ chăng? Để cho người ta làm sẵn cho ăn sao!

Việc ấy là nhân quả, Phật muốn mình đừng gây ác nhân mà phải bị ác quả. Mình không ăn người ta thì không bị người ta ăn lại. Còn nói “tôi không có giết mà người ta giết sẵn cho tôi ăn”. Hôm qua tôi có thí dụ, người ta giết 10 con gà đem ra chợ bán, nếu bán hết thì ngày mai sẽ giết 12 con, 12 con bán hết thì ngày mốt sẽ giết 15 con. Giả sử 10 con gà không bán được thì họ nghĩ bán, không giết hại nữa. Vì người mua nên thúc đẩy họ giết.

Cho nên kinh Lăng Già nói: “Người dùng tiền mua thịt ăn, tức là dùng tiền để sát sanh thì cũng phải trả quả”.

Hỏi:
Chúng sanh do nghiệp mà có, rồi chừng nào mới hết nghiệp?

Đáp:
Kiến tánh triệt để mới hết nghiệp. Cho nên, chư Phật chư Tổ muốn mình kiến tánh triệt để. Vì nghiệp là ở trong mở mắt chiêm bao, kiến tánh triệt để là ở trong mở mắt chiêm bao được thức tỉnh, nhân quả và nghiệp ở trong chiêm bao đều chấm dứt. Vì nhảy ra ngoài chiêm bao thì không dính líu với chiêm bao nữa.

Nếu chưa giác ngộ triệt để thì còn dính líu trong chiêm bao, nên đầu thai thành con heo, con bò,… mà không có biết!

Như nhắm mắt chiêm bao mà tạo tội, bị chánh phủ chiêm bao bắt rồi tuyên bố tử hình; trong nhắm mắt chiêm bao phát tài thấy rất mừng, thức dậy tìm lại những việc trên không có. Nên chư Phật chư Tổ cần mình thức tỉnh ở trong mở mắt chiêm bao. Hiện nay mình ở trong mở mắt chiêm bao. Tôi đang giảng và các vị đang nghe cũng ở trong mở mắt chiêm bao.

Nhắm mắt chiêm bao là một thức biến hiện, còn mở mắt chiêm bao là đồng thời 2 thức biến hiện đều là do tâm tạo. Tâm tạo thì không phải thật, không phải thật nên nói là chiêm bao.

Hỏi:
Tự tánh cùng khắp, sao có bộ não?

Đáp:
Bộ não không phải Tự tánh, vì bộ não là vật chất, còn Tự tánh không phải vật chất. Bộ não có lục căn là hệ thống thần kinh đều là vật chất, nếu dùng kính hiển vi thì thấy được. Bộ não gồm 3 bộ phận (tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ). Bộ phận ghi nhớ, nhà khoa học bắt chước chế ra máy vi tính. Bộ phận tìm hiểu và suy nghĩ cũng có nhà khoa học tuyên bố vài năm sẽ ra đời, họ cũng bắt chước chế tạo ra được, vì nó thuộc về vật chất.

Tự tánh chẳng phải vật chất nên không thể bắt chước chế tạo được. Ở trong Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21, tôi có giải thích từng căn từng thức.

Hỏi:
Vay trả nhân quả không biết chừng nào mới hết nhân quả?

Đáp:
Kiến tánh triệt để thì hết nhân quả, vì nhân quả ở trong mở mắt chiêm bao. Kiến tánh là ra ngoài chiêm bao thì hết nhân quả. Chư Phật chư Tổ muốn mình ngộ triệt để. Nghĩa chữ “Phật” là giác ngộ. Bất cứ nghiệp chướng nặng cách mấy khi được giác ngộ là xong.

Hỏi:
Người tu Tịnh Độ có “tín, nguyện, hạnh” kiên cố, tuy hiện thời chưa được nhất tâm hay vào cảnh giới niệm Phật tam muội, giờ phút lâm chung giữ được chánh niệm thì được chư Phật, chư Bồ Tát hiện thân tiếp dẫn nên được vãng sanh, mà trong kinh gọi là “đới nghiệp vãng sanh”. Vậy người tu thiền chỉ cần phá được nghi tình của câu thoại đầu thì kiến tánh thành Phật, nhưng thực hành đến lúc lâm chung vẫn chưa kiến tánh, rồi chết sanh về đâu?

Đáp:
Người hỏi, Tịnh Độ không biết, Tổ Sư thiền cũng không biết. Phật dạy các pháp môn để tu, căn bản là thiền. Tu Tịnh Độ có 3 cách tu đều là thiền: Thật tướng niệm Phật là thiền, gần giống như Tổ Sư thiền; Quán tưởng niệm Phật là thiền quán gồm có 16 pháp thiền quán, ghi trong kinh Quán Vô lượng Thọ; Trì danh niệm Phật cũng là thiền, niệm đến nhất tâm bất loạn là thiền định.

Tịnh Độ có 3 cuốn kinh: Kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ và kinh Di Đà. Tại người hỏi không biết Tịnh Độ là như thế nào? tưởng thiền không phải Tịnh Độ.

“Tín, nguyện, hạnh”, người đó không hiểu rõ. Quyết định vãng sanh là do cái nguyện, niệm Phật là phẩm vị cao thấp. Nhưng phải có nguyện thì niệm Phật mới có phẩm vị. Nếu cái nguyện không đúng thì niệm Phật cũng có thể lọt vào ngoại đạo.

Có người cho tụng kinh là Tịnh Độ thì không đúng. Tụng kinh là thiền quán tưởng của giáo môn, tức là vừa tụng vừa quán tưởng.

Thật tướng niệm Phật là thiền không cần vãng sanh, tức là tâm tịnh Phật độ tịnh.

Nếu đúng “tín, nguyện, hạnh” khỏi 10 niệm mà chỉ 1 niệm cũng được vãng sanh. Nếu không đúng “tín, nguyện, hạnh” thì muôn triệu ngàn niệm cũng không được vãng sanh.

Thí dụ: Nguyện của Phật Di Đà như tổng đài phát ra làn sóng rất mạnh, mình có radio nhỏ ở bất cứ nơi đâu đều thâu được, nhưng phải vặn đúng làn sóng của tổng đài, làn sóng đó tương ưng mới được.

Cũng như cái nguyện của người tu Tịnh Độ với cái nguyện của Phật Di Đà phải tương ưng thì người niệm Phật mới được vãng sanh. Nếu mình vặn làn sóng xê xích một chút cũng không được. Nhưng người hỏi ấy còn cách xa biết bao nhiêu dặm! Làm sao vãng sanh được?

Nguyện có 2 thứ: Đại nguyện và tiểu nguyện. Nếu phát tiểu nguyện thì nghịch với nhân quả không được vãng sanh. Còn phát đại nguyện thì thực hành đại nguyện của mình phát, nếu miệng phát nguyện và cũng nhớ cái nguyện của mình, tức là miệng nói tâm nghĩ mà không có thực hành thì thành nguyện suông nguyện giả, làm sao được vãng sanh?

Như mình mở trương mục ngân hàng, không có tiền mà lại thiếu nợ rất nhiều, không đủ trả. Như mình từ hồi nhỏ đến bây giờ nghĩ lại có giết con muỗi, con kiến nào không? Có ăn thịt heo, gà, vịt không? Một bửa cơm ăn mấy chục con cá, con tép,… như ăn 10 con thì phải đầu thai 10 lần để cho người ta ăn lại.

Đâu phải chỉ niệm Phật là được vãng sanh ư! Được đới nghiệp vãng sanh giống như ký ngân phiếu, tức là bây giờ không có tiền trả, nhưng hẹn lại 10, 20, 30 năm sau.

Còn đại nguyện của người tu Tịnh Độ là sau khi được vãng sanh thì nhất định thành Phật, sau đó mới trả. Nhưng mình phát đại nguyện là muốn độ hết tất cả chúng sanh, mà lại giết hại chúng sanh, làm sao được đới nghiệp vãng sanh? Vì đã phát đại nguyện mà lại ăn thịt chúng sanh và còn giết hại chúng sanh. Đối với chúng sanh cũng không coi bình đẳng. Như con chó dơ dấy gần mình, mình lại đá nó đi thì cũng không được.

Mỗi buổi chiều các chùa có tụng kinh A Di Đà, trong kinh chú trọng cái nguyện, nói 3, 4 lần cái nguyện ấy là đại nguyện và thực hành đại nguyện.

Lúc trước, tôi chưa hoằng Thiền tông, tôi hoằng Tịnh Độ được mười mấy năm, mà chưa gặp người nào tu đúng tông chỉ Tịnh Độ, lúc đó tôi ở chùa Từ Aân Chợ Lớn, duy nhất chỉ gặp một người tu đúng tông chỉ Tịnh Độ, y thông suốt giáo lý, cũng biết phát đại nguyện nhưng thiếu một điều là không thực hành đại nguyện của mình phát. Còn nhiều người nói “tín, nguyện, hạnh” cũng không đúng.

Ban đầu, ông đến chùa Từ Aân muốn vấn nạn tôi, bài xích thiền. Rồi tôi giảng tông chỉ Tịnh Độ, ông ấy phát hiện mình không thực hành đại nguyện, mới biết mình nguyện suông nguyện giả. Như ký ngân phiếu giả thì bị chính phủ bắt, còn có tội thì làm sao có công đức để được vãng sanh?

Ông đó là chủ tiệm vàng Mỹ Nữ ở Thị Nghè, lúc nghe tôi giảng thì y mới phục. Rồi lấy ra 2.000 đồng cúng dường tôi, khi ấy đất nước mới giải phóng và còn hứa sau này tôi làm Phật sự sẽ ủng hộ thêm. Khi đả Thiền thất ở chùa Sùng Đức, cần tu sửa nhà vệ sinh thì y đem 50.000 đồng để tu sửa. Y cũng dự Thiền thất không tu Tịnh Độ chuyển sang tu thiền.

Phật dạy 84.000 pháp môn đều có thiền, cho đến ngoại đạo, tà ma muốn tu cũng phải có thiền, vì có thiền mới tu được. Nhưng những người chấp lại không biết, chỉ biết bài xích thiền, không biết mình đang tu thiền.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ có 16 pháp thiền quán. Tại sao người tu Tịnh Độ mà không biết? Chùa nào mỗi ngày đều tụng tiểu A Di Đà.

Người không tin tự tâm, không tin Tổ Sư thiền mà lại bỏ thiền Tịnh Độ vì người ấy không biết. Nếu họ được vãng sanh cực lạc thì Phật A Di Đà mới dạy tu Tổ Sư thiền là từ nghi đến ngộ. Nhưng mình tin Tổ Sư thiền là bắt đầu tham thiền ở cõi này.

Pháp thế gian và xuất thế gian đều từ nghi đến ngộ. Vì nghĩa chữ “Phật” là ngộ, muốn ngộ thì phải nghi. Nhà khoa học cũng vậy, như Newton thấy trái bôm trên cây rơi xuống đất mà lại nghi sao không rơi trên trời? Sau này ông được ngộ sức hấp dẫn lực của trái đất, vì ông dùng bộ não đi nghiên cứu nên gọi là hồ nghi.

Tổ Sư thiền không cho dùng bộ não đi tìm hiểu, lại còn chấm dứt cái tìm hiểu, nghịch lại hồ nghi trên nên gọi là chánh nghi. Chánh nghi thì ngộ được chân tâm của mình.

Hồ nghi thì ngộ pháp thế gian, có giá trị ở thế gian nhưng không ngộ được bản tâm. Nên không giải thoát, không được tự do tự tại. Như có nhiều tiền nhưng chết rồi tiền cũng không mang theo được.

Hỏi:
Như Sư Phụ nói “trước đây Sư Phụ hoằng dương Tịnh Độ mười mấy năm”, vậy sao Sư Phụ giờ đây chuyển sang tham thoại đầu?

Đáp:
Vì tôi hoằng dương Tịnh Độ chưa gặp người nào tu đúng tông chỉ Tịnh Độ, nên tôi mới hoằng dương Tổ Sư thiền, không bao lâu có kết quả người hạ căn chuyển sang người thượng căn.

Ngài Bác Sơn nói: “Mạt pháp có thể chuyển thành chánh pháp, hạ căn có thể chuyển thành thượng căn”. Mạt pháp chuyển thành chánh pháp thì tôi chưa chứng tỏ được, còn hạ căn chuyển thành thượng căn thì tôi chứng tỏ được.

Tại sao? Vào năm 1980 có một số người theo tôi tham thiền được 2 năm. Những người này chưa tham thiền coi kinh không hiểu, khi tham thiền tức là không học giáo lý Phật pháp, thì mở được trí huệ thông suốt kinh điển mà không cần ghi nhớ. Còn những người học Phật học đến Cao đẳng phải mất qua thời gian khoảng 15 năm học để ghi nhớ mới có trí huệ.

Những người được trí huệ ghi nhớ thì phải quên, nên hỏi cái nào còn nhớ thì mới trả lời được, cái nào quên thì không trả lời được. Còn hỏi những người tham thiền được trí huệ thì cũng trả lời được, mà những người đó chỉ có 1, 2 năm hay nửa năm tham thiền. Cho nên, chứng tỏ hạ căn chuyển thành thượng căn.

Hỏi:
Lúc mới tham thiền, vọng tưởng nhiều mà nghi tình mạnh nên con dụng công liên tục; còn bây giờ các vọng tưởng lắng dịu, tâm con được thanh tịnh. Vậy sự dụng công không còn như trước, thường hay bị gián đoạn; con biết những căn bản phiền não vẫn còn nằm sâu trong tàng thức chưa trừ diệt hết. Vậy làm cách nào để cho sự dụng công được liên tục?

Đáp:
Vị này không phải vì sanh tử, chỉ vì hứng thú mà tu, khi hết hứng thú thì hết tham. Nên ngài Hư Vân nói: “Năm đầu sơ tham, năm thứ nhì lão tham, năm thứ ba hết hứng thú thì không tham”. Ban đầu hứng thú thì công phu mãnh liệt, sau này hứng thú bớt dần, đến năm thứ 3 cũng nghĩ tham luôn.

Còn vì giải thoát sanh tử, khi nào giải quyết được sanh tử thì mới hết tham, tức là kiến tánh triệt để rồi mới xong việc. Việc này hứng thú thấy người ta tham thiền, bắt chước tham thiền; như thấy người ta mặc đồ đẹp, cũng bắt chước may một bộ đồ để mặc để có như thiên hạ.

Hỏi:
Làm sao biết được mình đã kiến tánh?

Đáp:
Người kiến tánh thì tự biết hay có thầy ấn chứng còn gọi là truyền tâm ấn. Không có thầy ấn chứng thì dùng kinh Đại thừa liễu nghĩa để ấn chứng, ngữ lục của Tổ dùng để ấn chứng cũng được.

Hỏi:
Khi tham thoại đầu không được sợ, nhưng con hay sợ, cố gắng giữ chánh niệm sao không hết sợ?

Đáp:
Nói “chánh niệm” nhưng không biết chánh niệm là gì? Lục Tổ nói trong Pháp Bảo Đàn: “Vô niệm tức là chánh niệm”, nghĩa là không có niệm nào mới gọi là chánh niệm. Người này tưởng chánh niệm là cái gì! Tham thoại đầu là không khởi một niệm nào, mới là chánh niệm.

Vô niệm, niệm tức chánh,
Hữu niệm, niệm tức tà.

Nổi lên một niệm gọi là nhất niệm vô minh tức là tà. Người hỏi đem tà niệm cho là chánh niệm!

Hỏi:
Nguồn gốc Phật giáo là tâm, tức là bản thể của nó là tri, mà dụng của nó cũng là tri. Tại sao Phật không biết nó?

Đáp:
Nếu Phật biết nó thì nó sẽ thành sở tri, nên Phật thành năng tri. Có năng sở thì không phải chân tâm, vì chân tâm là bất nhị, nói Tự tánh bất nhị mà ai cũng biết. Nếu có năng sở là nhị, vì Tự tánh không phải sở tri, nên không có năng tri nào để tri nó. Nó tri là tự nó tri, thể cũng là tri, dụng cũng là tri, mà cái tri đó trống rỗng không có bản thể.

Cho nên dung nạp tất cả, gọi là không. Nhưng không này chẳng phải cái không chết, mà có cái tri. Tri mà có cái không để dùng, nên không cũng là nó, không này là chánh giác gọi là Diệu Giác cao nhất.

Hỏi:
Ngài Long Thọ Bồ Tát biết được tâm và dụng của tâm không?

Đáp:
Phật Thích Ca chứng quả là ngộ được bản tâm và ngài Long Thọ cũng vậy. Vì tâm không có bản thể, nên Ngài nói: “Tâm như hư không vô sở hữu”, tức là không có hư không mà dung nạp tất cả vật. Như bây giờ mình thấy rõ ràng nhà cửa, đất đai, cây cối, thấy bất cứ cái gì đều phải nhờ cái “vô sở hữu” này dung nạp và ứng dụng.

Bây giờ tôi đang giảng và các vị đang nghe, nếu không có không gian vô sở hữu này thì quý vị làm sao nghe được, tất cả quý vị nhìn thấy tôi, tôi nhìn thấy quý vị cũng đều nhờ vô sở hữu này, tức là không gian trống rỗng. Phật pháp gọi là Tánh không, Tánh không thì chẳng có gì nên gọi là vô sở hữu.

Như chỗ ngồi của quý vị đều có vô sở hữu, nên mới ngồi được. Cuộc sống hằng ngày của mình là ăn cơm, mặc áo, tiếp khách đều nhờ vô sở hữu này, mình ứng dụng hằng ngày mà chẳng tự biết. Lại đi tìm những danh từ, mò đoán bậy bạ.

Phật pháp là thực dụng cuộc sống hằng ngày của mình. Nếu lìa cuộc sống hằng ngày, làm sao có Phật pháp? Nên Lục Tổ nói: “Phật pháp ở thế gian, chẳng lìa thế gian mà giác ngộ”.

Hỏi:
Nếu kiến tánh thành Phật thì mình biết được tâm và dụng của nó không?

Đáp:
Nếu kiến tánh triệt để thì cái dụng đó là cái dụng bát nhã, dụng bát nhã là automatic, không qua bộ óc, nhưng làm xong công việc của bộ não.

Thí dụ cảm giác lớp da khắp không gian và thời gian cơ thể, vì khắp không gian thì tự nhiên khắp thời gian, tại không gian và thời gian không thể lìa nhau được.

Có người cho là nó tiếp xúc nó mới biết, còn không tiếp xúc thì nó không biết, nhiều người tưởng như vậy. Nhưng sự thật có tiếp xúc nó cũng biết, không tiếp xúc nó cũng biết; tiếp xúc đau nó biết đau, tiếp xúc ngứa nó biết ngứa, không tiếp xúc nó cũng biết không tiếp xúc. Nếu không tiếp xúc nó không biết làm sao nó biết không tiếp xúc? Tiếp xúc cơ thể ở chỗ nào nó cũng biết, chứ không phải tiếp xúc tay thì tay mới biết, tiếp xúc đầu thì đầu mới biết! Vì nó cùng khắp.

Ngày đêm nó tiếp xúc không gián đoạn, tức là khắp thời gian. Như lúc mình ngủ mê bị muỗi cắn, tay tự động gãi chỗ đó, vì cảm giác của lớp da ngày đêm làm việc không ngưng; khắp không gian cơ thể thì chỗ nào trên cơ thể đều có cảm giác, chỗ nào tiếp xúc thì nó biết có tiếp xúc, chỗ nào không tiếp xúc thì nó biết không tiếp xúc là chứng tỏ khắp không gian.

Cái biết của bộ não thì không cùng khắp không gian, không cùng khắp thời gian, vì nó bị hạn chế.

Mặc dầu, mình chưa kiến tánh, nhưng cái chơn tâm cùng khắp không gian và thời gian. Vì nó bị che khuất nên bị hạn chế cái dụng. Khi nào kiến tánh triệt để thì dẹp hết che khuất cái biết và không biết của bộ não, mới hiện ra cái biết khắp không gian và thời gian.

Hỏi:
Hỏi câu thoại và nhìn vào một niệm chưa sanh khởi, không biết là cái gì, nhìn mãi không thấy gì vẫn còn không biết. Như vậy có đúng không?

Đáp:
Không biết là đúng rồi, nhưng đến thật không biết thì “không biết” cũng không biết.

Hỏi:
Tự tâm và tánh có khác không?

Đáp:
Tánh chấp ngã cũng là tánh, còn “Tự tánh” có 2 nghĩa:

Tự tánh của thế gian thì việc nào cũng có Tự tánh.

Tự tánh của chân tâm là bất nhị.

Tự tánh thế gian, như nói ông này có tánh bỏn sẻn, tánh tham,… là tự tánh của người đó.

Tự tánh của chân tâm thì khác, không có tương đối là bất nhị.

Hỏi:
Phật Thích Ca đưa cành hoa lên, thấy Ma Ha Ca Diếp miệng mỉm cười, Phật tuyên bố: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn, Diệu tâm, Thật tướng, Vô tướng. Nay ta trao truyền cho ngươi”. Vậy Ma Ha Ca Diếp được thọ ký tâm ấn tâm là gì? Làm sao có được?

Đáp:
Ấn là con dấu, người được ấn tâm là để chứng minh. Như bây giờ các tiệm và các cơ quan ký tên còn có đóng dấu, con dấu là để người ta tăng cường lòng tin. Aán chứng là thầy chứng minh trò đã ngộ rồi, còn gọi là truyền tâm ấn.

Thiền tông cần ngộ, không cần hiểu, ngộ thì tự biết. Nếu tìm hiểu thì không phải ngộ. Đầu tiên Phật đưa cành hoa trong hội cả triệu người, chỉ có một mình Ma Ha Ca Diếp mỉm cười, Phật ấn chứng cho Ma Ha Ca Diếp được ngộ.

Hỏi:
Trải qua bao nhiêu năm tu tập, con thấy có người hiển bày cái dụng của Tự tánh, tạp niệm càng bớt thì cái dụng càng rộng, tạp niệm là tà nên niệm khởi lên làm mất chánh niệm. Như vậy có đúng không?

Đáp:
Không phải vậy, chánh niệm là không có niệm; không phải có cái niệm mới gọi là chánh niệm. Lục Tổ nói: “Vô niệm, niệm là chánh”, tức là không có niệm mới gọi là chánh. Lại nói: “Hữu niệm, niệm là tà”, tức là bất cứ có niệm gì đều là tà. Dẫu cho niệm Phật nhưng đối với Thiền tông cũng cho là tà. Vì có niệm là tà.

Hỏi:
Hành giả tu đã lâu, tại sao tập khí không dứt bỏ được, thậm chí bản thân của mình không biết đó là sai, trái lại phải làm cho bao người khác phải khổ lụy?

Đáp:
Vì đó là do tập khí sâu nặng khó sửa. Như Lục Tổ là người thượng căn thượng trí, đã kiến tánh triệt để làm Tổ rồi, cũng phải trải qua 15 năm để dứt trừ tập khí, huống là mình không bằng Lục Tổ. Cho nên, tập khí không phải dễ mà dứt! Nhưng chỉ cần kiến tánh thì tập khí dần dần sẽ hết.

Hỏi:
Nếu một người đã tạo nghiệp ác ở quá khứ, nhưng giờ đây đã biết ăn năn sám hối, phát tâm đại nguyện làm các việc lành như: Phóng sanh, giúp các vị xuất gia tu học, tu sửa chùa, ấn tống kinh, đắp đường lộ. Như vậy có tiêu được nghiệp quá khứ không?

Đáp:
Nhân quả không có trừ với nhau được. Nhân thiện thì được phước báo, nhân ác thì bị khổ báo, không thể lấy nhân thiện để trừ nhân ác được. Muốn sửa lại thì tâm lực phải mạnh mới sửa được.

Như người làm thiện thì được giàu sang, nếu họ có làm ác cũng bị khổ báo, như bệnh nặng hay bị tai nạn gì đó, cũng phải chịu, chứ không lấy thiện mà trừ cái ác.

Hỏi:
Người quen cho con một món quà hay một món tiền, mà con không dùng lại cho một người bạn. Vậy theo luật nhân quả thì con phải trả hay người bạn con trả?

Đáp:
Người ta cho tiền không phải nợ, mình giựt đồ người ta hay mượn mà không trả mới là nợ. Theo luật tự nhiên, như bố thí thì người nhận sau này có dịp họ sẽ bố thí lại tức là trả. Việc này gọi là duyên, Phật giáo gọi là kết duyên hay gieo duyên, nghĩa là giúp đỡ lẫn nhau, cũng thuộc về nhân quả.

Như mình ăn cục thịt phải trả cục thịt, giết một mạng phải trả một mạng vậy. Mình bố thí hay tặng người thì sau này người sẽ bố thí hay tặng lại.

Hỏi:
Tụng kinh thấu rõ ý nghĩa của Phật là sao?

Đáp:
Tụng kinh là tu, giáo môn tụng kinh là thiền quán, tụng đến đâu là quán đến đó. Chứ không phải tụng cho Phật nghe.

Hỏi:
Có người tu trì danh niệm Phật, phát đại nguyện, mà nhà có lu nước, con lăng quăng sanh ra muỗi, hoặc trời mưa kiến ở dưới đất bò lên kéo thành đàng đi ngang qua nhà. Vì muốn giữ vệ sinh và phòng bệnh, người phát đại nguyện có nên đổ nước hay lấy dầu đốt kiến, dùng chổi quét cho kiến ra khỏi nhà không?

Đáp:
Việc này không thể nói được hay không được. Tôi đã nói “theo nhân quả là giết một mạng phải trả một mạng, ăn cục thịt phải trả cục thịt”, còn người phát đại nguyện thì không có tội ác nhân, nên không phải đi trả quả thì mới được vãng sanh. Nếu phát đại nguyện mà không thực hành đại nguyện là nguyện giả.

Hỏi:
Người tu mật tông ở thời Đức Phật Đại Nhật Như Lai. Vậy Đức Đại Nhật Như Lai là Đức Phật thật hay là biểu trưng chỉ cho Chơn tâm của người tu Mật tông?

Đáp:
Tất cả chúng sanh đều có chơn tâm, vốn cùng khắp không gian thời gian. Cùng khắp không gian thì không có khứ lai nên gọi là Như Lai, chứ không phải Đại Nhật Như Lai mới là Như Lai! Vì Như Lai này bị che khuất, tham thiền là dẹp cái che khuất thì Như Lai sẽ hiện ra. Còn Mật tông có cách tu của Mật tông, nhưng bí mật truyền thọ, khác với hiển giáo.

Hỏi:
Người phát đại nguyện sanh về Tịnh Độ, nếu giết một con mèo để cứu một vạn con chuột, thì người ấy có trái với đại nguyện đã phát ra không?

Đáp:
Trái.

Hỏi:
Hữu tình và vô tình đồng thành Phật đạo là như thế nào?

Đáp:
Nếu hữu tình thành Phật thì vô tình cũng thành Phật. Sự thật Phật đã thành sẵn rồi. Phật thí dụ trong kinh Viên Giác như quặng vàng, vàng thật đã thành sẵn, chỉ là lộn đất cát tạp chất nên nó không hiện ra, chứ không phải tu mới thành, chứng mới đắc.

Hỏi:
Người tu thiền nói chung, người tham Tổ Sư thiền nói riêng. Nếu đến lúc lâm chung tu chưa kiến tánh thì có thể biết được sanh về nơi nào không?

Đáp:
Nếu người thật tu Tổ Sư thiền đã được ngộ thì tự nhiên họ biết, còn các thiền khác như: Tà ma cũng có thiền, Tịnh Độ cũng có thiền. Thiền là tổng danh. Phàm tu là phải có thiền, nhưng Tổ Sư thiền khác hơn Như Lai thiền. Tất cả thiền khác đều dùng cái biết, còn Tổ Sư thiền là dùng cái không biết.

Hỏi:
Con mới tập tu, khi bao chuyện buồn vui hiện ra, khiến con không giữ được miên mật. Vậy làm sao giữ được nghi tình miên mật?

Đáp:
Phải thực tập “hỏi và nhìn” lâu ngày nghi tình mới miên mật được.

Hỏi:
Vừa tu Tịnh Độ vừa tu Tổ Sư thiền lấy câu thoại đầu là “Nam mô A Di Đà Phật”, khi chết có được vãng sanh không?

Đáp:
Không được. Tu Tịnh Độ phải đúng theo tông chỉ Tịnh Độ mới được vãng sanh. Còn tham thiền là giữ cái không biết để dẹp tất cả biết rồi đến thoại đầu mới có hy vọng kiến tánh. Bây giờ dùng cái biết để niệm Phật, Thiền cũng không thành, Tịnh Độ cũng không được vãng sanh, hai cái đều không được kết quả.

Hỏi:
Tạo si phước là oan gia đời thứ ba, vậy nghĩa như thế nào?

Đáp:
Tạo si phước là đầu thai thành con heo. Nhưng người ta nuôi ăn no ngủ hoài, không có bị người ta làm thịt.

Hỏi:
“Chỗ ẩn thân không tung tích, chỗ tung tích không ẩn thân” là nghĩa như thế nào?

Đáp:

Công án là để cho người ta ngộ, nếu không ngộ thì không hiểu, giữ không hiểu đó là nghi tình, sau này sẽ được ngộ. Chứ không phải công án là để cho người ta hiểu.

Tham thiền là hỏi câu thoại, chứ không phải tìm hiểu đáp án của câu thoại để hiểu, chỉ khởi lên niệm không biết và giữ niệm không biết gọi là nghi tình. Còn nếu tìm hiểu là sai lầm, tìm hiểu là che khuất chơn tâm, như mây đen che khuất mặt trời. Nếu tìm hiểu như mây đen càng nhiều thêm thì mặt trời làm sao hiện ra được?

Hỏi:
“Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ” là như thế nào?

Đáp:
Ấy là phá ngã chấp, tại có sở đắc là còn chấp ngã, tức còn có ta, có sở cầu là còn có ta, có sở sợ là còn có ta. Nếu “Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ” là phá được ngã chấp. Không có ta thì không thể tẩu hỏa nhập ma, có ta nên ma mới nhập được, ta còn không có thì ma nhập ở đâu?

Hỏi:
Chánh trí là gì? Có đồng nghĩa Như Lai không?

Đáp:
Chánh trí là trí Bát nhã không có qua bộ óc, diệu dụng của Phật tánh không qua bộ não. Nhưng nó làm xong công việc của bộ não mà bộ não làm không được. Dụng của nó là như như.

* Ngũ pháp:
_ Ngũ pháp gồm tướng, danh, phân biệt, chánh trí, như như. Nay lược giải như sau:

1. Tướng: Phàm là vật thể hữu hình mỗi mỗi đều có sự cao thấp, dài ngắn, lớn nhỏ, màu sắc, chất lượng. Luôn cả những khái niệm vô hình như ảo tưởng của sự tưởng tượng dựa theo vật thể hữu hình cũng vậy. Cả hai thứ hữu hình và vô hình đều gọi là “tướng”.

2. Danh: Y theo tướng hữu hình và vô hình mà lập ra tên gọi, gọi là “danh”.

3. Phân biệt: Đối với danh tướng kể trên, trải qua sự tư duy phân tích để nhận thức sự thật giả, tốt xấu, giá trị, chất lượng, thị phi, tà chánh,… gọi là phân biệt.

4. Chánh trí: Trí thức chẳng nhờ tác dụng của bộ não mà do công năng tự động của trí Bát nhã tự hiện, là vốn sẵn có của Diệu giác (bộ não chẳng thể biết được), là có sự thật tồn tại khách quan. Cái trí huệ chẳng cần tác ý của bộ não mà tự hiện này là trí huệ chẳng bị không gian và thời gian hạn chế, gọi là “chánh trí”.

5. Như như: do nơi chánh trí tự động phát huy, chẳng kể ngày đêm, cổ kim, luôn luôn như bổn lai thật tế từ vô thỉ đã sẵn có, chẳng có tương đối, siêu việt biện chứng của logic, gọi là “như như”.
Gọi chung là Ngũ pháp.

Hỏi:
Kính xin Sư Phụ kể lại sự tích con heo ăn bạc hà?

Đáp:
Việc này ghi trong tạng kinh là Bồ Tát thị hiện độ heo nên phải đầu thai heo.

Đại thừa Bồ Tát có:

- Lục Độ Ba La Mật là có 6 Ba La Mật (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ).
- Tứ Nhiếp Pháp (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự).

Bố thí, ái ngữ, lợi hành thì người có tôn giáo và không có tôn giáo cũng làm được. Nhưng đồng sự thì Bồ Tát của Phật giáo mới làm được, tức là muốn độ người ăn xin thì phải làm người ăn xin để độ người đó.

* Có Tăng chơn tu đi hành cước đến một ngôi chùa nhiều chúng Tăng, trong đó một vị lão tu hành bệnh ghẻ hôi hám, bề ngoài thấy xấu xí, nhiều người ở chùa không ai ưa thích gần, chỉ có Tăng đi hành cước gần gủi giúp đỡ.


Qua thời gian khoảng 3 tháng, Tăng hành cước từ giả đi về kinh thành. Lão tu hành nhờ Tăng hành cước gởi một bức thư giao cho bạc hà ở cửa thành đông.

Tăng hành cước đến thành đông, nghe mấy con nít nói bạc hà. Ông mới hỏi con nít: Bạc hà đâu?

Con nít nói: Bạc hà ở ngay vách tường kia.

Thì ra một con heo già lớn, thường thường người ta nuôi heo một năm là bán thịt, nhưng con heo này thì được mười mấy năm rồi.

Tăng hành cước hỏi con nít: Tại sao mấy đứa gọi con heo này là bạc hà?

Con nít nói: Con heo này chỉ ăn bạc hà thôi.

Tăng lại hỏi: Chủ con heo này là ai?

Con nít mới chỉ chủ con heo là ông Triệu.

Tăng hỏi ông Triệu: Có phải con heo này của ông không?

Ông Triệu trả lời: Phải.

Tăng hỏi: Sao ông nuôi con heo mười mấy năm không bán và không làm thịt?

Ông Triệu nói: Tôi nuôi heo rất nhiều, nhưng heo thường đi mất; khi nuôi bạc hà thì nó kêu mấy con heo kia về, không mất con nào. Cho nên tôi không bán và làm thịt.

Tăng hành cước lấy thư ra coi thì thấy trong thư chỉ có 16 chữ, ý trong đó là “độ chúng sanh xong rồi, mau mau về đi, chớ đừng tiếp tục mà tạo nghiệp”. Ông nghĩ bức thư này là của con heo này, chẳng phải của ai khác. Vì vậy ông đem bức thư đến con heo rồi đưa cho nó. Con heo dùng 2 chân trước chụp bức thư đưa vào miệng nuốt, đứng 2 chân sau mà chết.

Hỏi:
“Nhất niệm bất sanh, vạn duyên buông bỏ” là như thế nào?

Đáp:
Câu này không phải tu Tổ Sư thiền, vì tu Tổ Sư thiền thì không buông bỏ, mà chỉ giữ “không biết”. Nếu biết được bản tâm mình như hư không vô sở hữu thì không có gì để buông bỏ. Lục Tổ nói “bổn lai vô nhất vật”, tức là không có vật gì để buông bỏ.

Câu này hơi có mâu thuẩn, nếu không có niệm sanh khởi thì lấy gì để buông bỏ? Nếu có sự buông bỏ thì đã sanh lên một niệm rồi.

Hỏi:
Chấp thành bệnh, trước thành ma, kế thành ngoại đạo. Kế có phải là biến kế sở chấp không?

Đáp:
Trước cũng là chấp, kế cũng là chấp, Duy Thức gọi là biến kế sở chấp.

Hỏi:
Tham thiền sợ nhất nhận thức thần làm Phật sự hoặc nhướng mày chớp mắt, xoay đầu ngó lại cho là có ít nhiều kỳ đặc. Nếu nhận thức thần làm việc chánh là tôi tớ của ngoại đạo cũng chẳng được. Vậy có phải không?

Đáp:
Nếu tham Tổ Sư thiền thì chỉ hỏi và nhìn là giữ niệm không biết gọi là nghi tình. Còn biết những cái này là không phải Tổ sư thiền.

Hỏi:
Thế nào là nạp Tăng- núi bạc- vách sắt?

Đáp:
Đây là để thí dụ, nếu mình giữ được nghi tình (không biết) thì cũng như núi bạc vách sắt, các thứ phiền não và các thứ khác không vô được.

Hỏi:
Trong Tham thiền cảnh Ngữ có câu “khẩn, chánh, miên mật, dung hoát”. Chúng con chưa hiểu, kính xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
Lời nói của chư Tổ là phương tiện để đối trị. Như mình hôn trầm thì phải mở mắt to hay rửa mặt, nếu còn hôn trầm thì phải đứng dậy đi kinh hành hoặc kiếm việc làm.

Vọng tưởng nhiều phải nhắm mắt lại. Hỏi và nhìn cho khẩn (vừa vừa). Hỏi và nhìn cho đúng gọi là chánh. Nói “chánh niệm” là không có niệm nào khởi lên.

Miên mật là liên tiếp không có kẻ hở, như hỏi câu thoại đầu có kẻ hở thì vọng tưởng từ kẻ hở nổi lên.

Dung hoát là không nghiêng về bên nào, không nghiêng về bên động và cũng không nghiêng về bên tịnh. Ngài Lai Quả nói: “Động cũng không động đến mình, tịnh cũng không tịnh tới mình”, tức là giữ cái không biết thì không lọt vào 2 bên gọi là dung hoát.

Hỏi:
Con đường Bồ Tát đạo là gì? Những ai thực hành được con đường Bồ Tát đạo?

Đáp:
Người thọ giới Bồ Tát là học giới Bồ Tát. Bồ Tát tại gia của người cư sĩ có 6 điều trọng và 28 điều khinh. Bồ Tát xuất gia có 10 điều trọng và 48 điều khinh, những Bồ Tát này không phải chứng quả, không phải như Bồ Tát Quán Thế Aâm.

Không có tham thiền và chưa quy y đều được học đạo Bồ Tát. Thọ 5 giới của cư sĩ, thọ 10 giới của Sa Di và Sa Di Ni, thọ 250 giới của Tỳ Kheo, thọ 348 giới của Tỳ Kheo Ni là tiệm giới. Như muốn thọ 10 giới Sa Di thì phải thọ 5 giới rồi mới được thọ Sa Di.

Giới Bát Quan Trai và giới Bồ Tát gọi là đốn giới, tức là chưa thọ ngũ giới cũng được thọ giới Bồ Tát. Chưa quy Tam bảo cũng được thọ giới Bồ Tát, cũng được thọ Bát Quan Trai, nên mới gọi là đốn giới. Như mỗi lần truyền Bát Quan Trai đều phải tam quy, muốn truyền giới Bồ Tát đều phải qua tam quy. Bất cứ truyền giới gì đều phải qua tam quy. Cho nên chưa quy y đều được thọ giới, tức là trước thọ giới là đã quy y.

Hỏi:
Công năng của giới luật làm cách nào để người xuất gia giữ đúng tất cả giới mà mình đã thọ?

Đáp:
Theo giáo môn thì nửa tháng bố tát một lần để kiểm thảo. Bố tát là hội nghị làm việc, chứ không phải chỉ tụng giới thôi. Trước khi tụng giới phải kiểm thảo, cũng như cử ra chủ tịch lâm thời hỏi đại chúng “nửa tháng nay có ai phạm giới không? Có thì ra sám hối trước đại chúng”, vì người phạm giới mà sám hối thì được thanh tịnh, nên người ấy có tư cách được nghe tụng giới. Hỏi 3 lần mà không có ai lên thì tuyên bố tất cả đại chúng trong sạch, rồi mới tụng giới.

Mỗi năm kiết hạ rồi giải hạ, có kiểm thảo là kiến, văn, nghi. Như hỏi đại chúng “có ai thấy tôi phạm giới không? Nếu không có. Có ai nghe không? Nếu không thấy không nghe, mà có ai nghi không? (Không biết người ấy có phạm giới hay không phạm giới, gọi là nghi. 3 cái này gọi là kiến, văn, nghi). Nếu có ai thấy xin cử tội tôi trước đại chúng hay là có ai nghe hoặc là có ai nghi thì ra cử tội”. Từng người ra trước đại chúng mà nói như thế, gọi là Tự tứ.

Hồi xưa truyền giới Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni vào ngày bố tát.

Hỏi:
Từ bi là gì? Làm sao được tâm từ bi?

Đáp:
Người ta thường hiểu lầm từ bi và bác ái giống nhau. Kỳ thật, bác ái có ngã chấp, từ bi là không có ngã chấp.

Có người Mỹ đến Thiền Đường Từ Aân, y là người đạo Tin Lành cho bác ái và từ bi không khác. Nên tôi mới giải thích cho y hiểu:

Tôi nói: Mình ăn đồ ngon mới tự thấy vui, nếu người khác ăn mình không có cảm thấy vui, phải không?

Ông ấy đáp: Phải.

Tôi nói: Như mình chơi tự mình thấy vui, mình không có chơi mà thấy người khác chơi, mình cũng không thấy vui phải không?

Ông ấy đáp: Phải.

Tôi nói: Nếu mình thấy người ta chơi mà mình không có chơi thì mình cũng vui, thấy người ta ăn mà mình không ăn thì mình cũng vui.

Ông ấy nói: Không có lý này được!

Tôi nói: Chính ông cũng làm được.

Ông ấy nói: Tôi đã nói không làm được, sao nói tôi làm được?

Tôi hỏi: Ông có con ruột không?

Ông ấy đáp: Có.

Tôi hỏi: Con ruột của ông còn nhỏ phải không?

Ông ấy đáp: Phải.

Tôi hỏi: Vậy ông mua đồ ăn cho con ruột ông ăn mà ông không ăn, thấy con ruột ông ăn, vậy ông vui không?

Ông ấy đáp: Vui.

Tôi hỏi: Ông mua đồ chơi cho con ông chơi, mà ông không có chơi, ông thấy con ông chơi, vậy ông có vui không?

Ông ấy đáp: Vui.

Tôi nói: Phải không! Ông cũng làm được mà! Nhưng ông chỉ làm được với con ruột của ông thôi. Còn con của người khác thì ông làm không được. Nếu mình đối với tất cả chúng sanh như con ruột, làm sao có việc giết hại, làm sao có chiến tranh? Tất cả chúng sanh coi như con ruột của mình, nhưng chưa phải là từ bi. Vì còn thấy có đồ của tôi cho nó, đó chỉ là bác ái.

Từ bi lại khác, không có ta từ bi, không có người nhận từ bi của ta, cũng không có tài vật để tôi làm việc từ bi đó, mới gọi là từ bi. Phật giáo gọi là tam luân thể không. Ở trong phẩm Phổ Môn của yếu chỉ kinh Pháp Hoa, tôi có phụ lục.

Hỏi:
Tăng Ni và Phật tử chúng con phải thương yêu như thế nào mới đúng theo lời Phật dạy?

Đáp:
Tăng thì phải giữ đúng vai trò của Tăng, Sa Di phải giữ đúng vai trò của Sa Di, Tỳ Kheo phải giữ đúng vai trò của Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni phải giữ đúng vai trò của Tỳ Kheo Ni. Nếu Sa Di không biết giới luật của Sa Di hay biết mơ hồ thì làm sao giữ đúng vai trò của Sa Di được? Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni cũng vậy.

Người thế gian thì cha phải giữ đúng vai trò cha, mẹ phải giữ đúng vai trò mẹ, con cái phải giữ đúng vai trò của con cái, chồng phải giữ đúng vai trò của chồng, vợ phải giữ vai trò của vợ.

Tu sĩ giữ đúng vai trò của Tu sĩ, chứ không phải tu sĩ cạo đầu mặc áo cà sa được người cung kính lễ bái, mà không giữ đúng vai trò của mình. Nên có một bài kệ:
Một hạt gạo của Thí chủ,
Lớn bằng núi tu di.
Nếu không tu giải thoát,
Mang lông đội sừng trả.

Hỏi:
Người mới tham thiền thì căn tiếp xúc với trần, đương nhiên ý thức phân biệt phát sinh làm cho tâm vọng động. Vậy tham bằng cách nào để cho tâm khỏi giao động?

Đáp:
Nếu giữ được không biết thì sao bị giao động? Thấy cái nào đẹp cũng không biết, làm sao có sự ham thích? Thấy cái nào xấu cũng không có chê. Giữ được cái không biết thì tự nhiên tất cả đều không bị giao động. Tức là giữ nghi tình là được rồi.

Hỏi:
Tại sao là “sắc tức thị không, không tức thị sắc”?

Đáp:
Sắc là vật chất, không là chẳng phải vật chất. Nếu không chấp sắc là thật sắc tức là sắc tức là không. Không chấp cái không là thật không thì không tức là sắc.

Cho nên, ở trong thế lưu bố tưởng không sanh ra trước tưởng, tức là Phật pháp (không chấp thật). Như chấp thật có là bệnh còn nhẹ thì dễ trị, còn chấp thật không là bệnh nặng thì khó trị.

Hỏi:
Sao có pháp mà gọi là không pháp?

Đáp:
Nếu không có chấp trước thì tất cả pháp thế gian là Phật pháp, tức có pháp cũng như không có pháp. Nên ăn cơm, mặc áo đều là pháp, không có cái gì không phải là pháp! Tại không còn tương đối thì pháp và không pháp không khác, vì có tương đối nên mới khác.

Hỏi:
Sao gọi tu mà vô tu?

Đáp:
Vì chấp nên mới có tu, nếu ngộ rồi thì biết là không có tu. Như thành Phật không phải tu mới thành, chứng quả không phải chứng mới đắc. Tại vì đã thành sẵn, chứng sẵn. Như Phật trong kinh Viên Giác dùng quặng vàng để thí dụ. Vàng thật ở trong quặng đã thành sẵn, chứ không phải luyện các tạp chất rồi mới thành. Nếu không có vàng sẵn, dù có luyện cách mấy thì vàng không thể có được. Cho nên không phải tu mới thành, chứng mới đắc. Vì người ta chấp nên mới có tu mới thành, chứng mới đắc.

Tâm như hư không vô sở hữu thì không bị trói buộc gọi là giải thoát, không phải bị buộc rồi, mở trói rồi mới là giải thoát. Tu cũng vậy, tu không phải mở trói, mà ngộ vốn không có trói tức là giải thoát. Như liễu thoát sanh tử, vốn không có sanh tử để liễu thoát thì gọi là liễu thoát sanh tử.

#40 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 02/09/2011 - 11:54

Hỏi:
Tại sao có vật mà Lục Tổ nói “bổn lai vô nhất vật”?
Đáp:
Vì tại chấp mới có, nên ngài Lâm Tế nói “gặp Phật chém Phật, gặp ma chém ma”, tại tâm mình chấp Phật nên phải chém tâm chấp Phật, tại tâm mình chấp ma thì phải chém tâm chấp ma.

Hỏi:
Thường 5 giờ sáng tụng kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi Thập Chú, rồi qua tháng khác thì tụng kinh Pháp Hoa, Thủy Sám, Vu Lan. Bây giờ bắt đầu tham thiền không tụng kinh nữa, vậy có lỗi không?

Đáp:
Nếu như trước kia tụng kinh thì đã có lỗi rồi đó! Tại vì tụng kinh là tu theo giáo môn, tụng kinh tới đâu là thiền quán tới đó. Nếu tụng kinh mà không thiền quán, cho người hiểu lầm tụng kinh có công đức, cũng như câu hỏi đó thì đã có tội rồi, vì để cho người ta hiểu lầm Phật giáo.

Tham Tổ Sư thiền phải giữ đúng vai trò hành giả tham Tổ Sư thiền. Thiền Tịnh Độ phải giữ đúng vai trò thiền Tịnh Độ. Thiền Tịnh Độ có 3 cách thiền có ghi trong kinh Tịnh Độ. Nếu tu một pháp môn nào không thành thì có thể tu pháp môn khác cũng được, chứ làm sao có lỗi?

Trước kia tụng kinh không đúng theo vai trò tụng kinh là thiền quán tụng kinh. Theo giáo môn tụng kinh là thiền. Như ngài Đế Nhàn, mỗi thời kinh phải 2 giờ, một ngày 3 thời kinh. Nếu tụng kinh không đủ 2 giờ thì ngài quở làm biếng. Vậy người hỏi tụng kinh có thiền quán không? Nếu không thì đã có lỗi rồi.

Hỏi:
Người ăn con nhộng khi kéo tơ tầm hết. Vậy có bị nhân quả không?

Đáp:
Có sát sanh thì phải đền mạng, ăn cục thịt phải trả cục thịt, chứ không phải có tội hay không có tội! Đó là việc nhân quả, tạo nhân nào thì chịu quả nấy. Tôi nói “nếu không sợ người ta ăn mình thì mình cứ ăn người ta, nếu sợ người ta ăn mình thì mình đừng ăn người ta”.

Hỏi:
Chúng con là hành giả mới, kính xin Sư Phụ từ bi phổ biến tài liệu khoa học và tâm linh trong Phật pháp để chúng con tăng trưởng lòng tin và dạy lại đường lối tham Tổ Sư thiền?

Đáp:
Tâm linh và khoa học trong Phật pháp là mục đích tôi muốn hoằng dương người tây phương, vì người tây phương phải có bằng chứng cụ thể thấy được họ mới chịu tin, nếu họ không tin thì không học. Cuốn Tâm Linh và Phật Pháp không bằng cuốn Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21, cuốn này bao gồm hết. Tôi đã nói hơn Sinh Lý Giải Phẩu, Tâm Lý Học, Triết Học, Tự Nhiên Khoa Học của đại học Mỹ, 4 thứ hợp lại giải thích còn không thông. Cuốn Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21 giải thích đầy đủ trọn vẹn hơn 4 đại học hợp lại.

Hỏi:
Hành giả tham thiền bị những thử thách đau khổ, có phải đó là lúc trả nghiệp không?

Đáp:
Làm sao cứ trả nghiệp trả nghiệp! Ở trong thuận cảnh tu khó hơn ở trong nghịch cảnh. Như người ta chấp nhập thất, tự mình nhốt trong phòng không tiếp xúc bên ngoài, nếu lấy cái đó để tu là có hại chứ không có ích, tại vì không có tiếp xúc thì không có cảnh để khởi tâm động niệm. Tôi có kể thằng bé ở trên núi 20 năm, vì không tiếp xúc thì không khởi tâm động niệm, có tiếp xúc mới gọi là tu, không tiếp xúc sao gọi là tu? Rồi người ta nói là thử thách, nói là trả nghiệp! Đó là nói bậy. Vậy như thằng bé xuống núi thấy người nữ gọi là trả nghiệp sao?

Hỏi:
Chúng con tham thiền đã lâu, nhưng vẫn thấy những tập khí vẫn còn nhiều, chỉ bớt chút đỉnh chứ không bỏ hẳn được. Vậy chúng con phải làm thế nào?

Đáp:
Phải hỏi và nhìn thì lâu ngày thấy như khờ ngốc, nên tập khí sẽ bớt dần dần. Nhưng người ta không biết coi người đó như người khờ ngốc, vì cái gì đều cũng không biết.

Hỏi:
Khi thiền thì tâm tịnh trở thành không, khi nào nhận biết được bản lai của mình hiện ra?

Đáp:
Nếu nói như vậy thì người đó không có tham thiền. Vì tham thiền là giữ cái không biết. Người đó dùng cái biết để tìm hiểu tâm tịnh, không những không chấm dứt mà còn kéo dài phát triển tìm hiểu, như thế là nghịch với tham thiền.

Hỏi:
Khi thiền tâm tịnh thì cảnh giới Phật được ra, như vậy cảnh giới Phật thật hay giả? Nếu cảnh thật thì người ngồi thiền có tiếp nhận được cảnh giới đó không?

Đáp:
Người đó có thể tẩu hỏa nhập ma, tức là giống ma. Tham thiền thì không biết, làm sao biết những cái đó? Sao còn đi tìm hiểu mấy cái đó?

Tâm tịnh Phật độ tịnh là Tịnh Độ, tức là thật tướng niệm Phật không cần vãng sanh. Còn Thiền chỉ cần hỏi và nhìn để giữ nghi tình.

Hỏi:
Tâm từ đâu ra?

Đáp:
Bây giờ ông tự hỏi để mà tham! Tâm là một danh từ ai cũng nói được, nhưng Tâm là cái gì thì ai cũng không biết! Luôn cả Phật Thích Ca cũng không biết. Nếu tâm bị Phật Thích Ca biết thì nó thành sở biết. Có sở biết và có năng biết là nhị. Còn chân tâm bất nhị hay còn gọi là tự tánh bất nhị. Cho nên, tự tánh không cho ai biết được, tự tánh tự biết.

Nếu ông muốn ngộ phải nghi, còn dùng bộ não để tìm hiểu thì một trăm năm, một kiếp hay hai kiếp, muôn ngàn triệu kiếp cũng không thể tìm được. Vì bộ não không thể biết được tự tánh, tại bộ não là vật chất, còn tự tánh không phải vật chất. Như lục thức phối hợp với lục căn nghe lệnh của bộ não, đó là vọng tâm tức là bộ não.

Hỏi:
Tu theo pháp môn Tổ Sư thiền được giác ngộ rồi sẽ trừ tập khí, sau người ấy chết có đầu thai làm người để độ chúng sanh không?

Đáp:
Bây giờ tự lo cho mình được giác ngộ rồi tự biết, nếu dùng bộ não để đoán mò bậy bạ chỉ là chướng ngại thôi! Người hỏi có đọc Bát Nhã Tâm kinh: “Vô vô minh diệc vô vô minh tận, vô lão tử diệc vô lão tử tận”, không có già không có chết tức là không có sanh tử, đã ngộ không có sanh tử làm sao đi đầu thai? Nếu còn đi đầu thai thì chưa ngộ. Ngộ là vốn không có sanh tử gọi là liễu thoát sanh tử, mà còn hỏi kiến tánh rồi còn đi đầu thai không? Hỏi gì kỳ vậy!

Hỏi:
Con chưa hiểu 2 chữ “năng, sở”, kính xin Sư Phụ giải thích?

Đáp:
Ông có ăn cơm không?

-Có.

-Ông là năng ăn, cơm là sở ăn. Ông có uống nước không?

-Có.

-Ông là năng uống, nước là sở uống. Đó là năng sở. Ông thấy cái bình này không?

-Thấy.

-Ông là năng thấy, cái bình là sở thấy.

Khóa bồi dưỡng giảng sư tại văn phòng 2: Từ ngày 10 – 5 => 19 – 5 – 1999.

Thiền là gì? Thiền là phương pháp thực hành để vọng tâm lặng xuống, đạt đến an định. Thường thường chữ “thiền” đi đôi chữ “định” gọi là thiền định.

Thông thường dùng công phu thiền quán chiếu gọi là thiền quán. Như tông Thiên Thai gọi là Chỉ quán thiền. Chỉ là định, quán là đạt đến chỗ định. Định sâu chừng nào thì quán cao chừng nấy, nên thiền định đi đôi với nhau.

Nguồn gốc của Phật pháp là Tâm, tức bất nhị. Bây giờ Phật giáo chia ra nhiều tông phái, làm sao bất nhị được? Chia nhiều tông phái là giáo pháp, chứ không phải Phạât pháp. Phật pháp là pháp bất nhị không thể chia, giáo pháp mới có thể chia. Phật vì để thích ứng căn cơ của mỗi chúng sanh, mới thuyết 84000 pháp môn.

Phật pháp là trên phù hợp ý Phật thì không thể chia, dưới khế hợp đương cơ thì có thể chia. Cách dạy của Phật có 84000 pháp môn thì nhiều mênh mông, nhưng quy nạp lại gồm có tam thừa (Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát). Có người nói Thanh Văn là Tiểu thừa, Duyên Giác là Trung thừa, Bồ Tát là Đại thừa. Mỗi thừa có thiền tu tập riêng biệt.

Thừa Thanh Văn có thiền để tu tập là Ngũ Đình Tâm Quán, Đình là đình chỉ hoạt động của nội tâm, gọi là Ngũ Đình Tâm (năm thứ thiền quán). Năm thứ thiền quán là:

- Sổ Tức Quán.
- Bất Tịnh Quán.
- Từ Bi Quán.
- Nhân Duyên Quán.
- Lục Thức Quán.

Bây giờ phần nhiều theo Sổ Tức Quán, có một số ít theo Bất Tịnh Quán, còn ba thứ kia chưa thấy người ta tu, ấy là thiền quán của Tiểu thừa. Gọi Tiểu thừa nhưng các nước Tiểu thừa họ không nhìn nhận và không nhìn nhận Đại thừa.

Thừa Thanh Văn là nghe thanh giáo của Phật mà ngộ đạo. Mục đích của Tiểu thừa là diệt lục căn. Vì tất cả phiền não vọng tưởng là do lục căn tiếp xúc với lục trần mà sanh khởi. Cho nên, muốn diệt lục căn đối tượng lục trần là vật chất, theo triết học là Chủ Quan Duy Vật Luận.

Trung thừa là thừa Duyên Giác, pháp tu là Thập Nhị Nhân Duyên, Thập Nhị Nhân Duyên bao gồm tam thế (quá khứ, hiện tại, vị lai).

Tôi chỉ nói sơ lược nghĩa chữ “Thiền” như vậy thôi.

Theo triết học thì Thanh văn là Chủ Quan Duy Vật Luận, Duyên Giác là Chủ Quan Duy Tâm Luận. Tại sao? Vì diệt được lục căn, nhưng một niệm không diệt được; muốn diệt lục căn thì phải giữ một niệm. Vậy một niệm đó là nguồn gốc phiền não.

Nên Trung thừa muốn diệt được một niệm, nhưng một niệm này không phải vật chất mà là tâm pháp, theo triết học gọi là Chủ Quan Duy Tâm Luận. Vậy một niệm phát xuất từ chỗ nào? Phát xuất từ nguồn gốc vô thỉ vô minh (căn bản vô minh). Khi đã diệt một niệm rồi thì trở về nguồn gốc cũng là vô minh (vô thỉ vô minh), chỗ này không có chỗ bắt đầu.

Bồ Tát thừa (Đại thừa) thấy diệt lục căn và một niệm chưa được, nên cần phải phá vô thỉ vô minh. Muốn phá vô thỉ vô minh thì không diệt lục căn và một niệm vô minh.

Thí dụ: Muốn diệt những người phản loạn, vua cướp dụ cho vô thỉ vô minh, tướng cướp và binh lính cùng binh khí của cướp dụ cho một niệm vô minh.

Như Tiểu thừa là tịch thu vủ khí của cướp cho là xong, nhưng họ có thể tạo lại được.

Trung thừa như giết hết binh lính của cướp, nhưng vua cướp vẫn còn, rồi ngày nào họ chiêu binh mãi mã, tổ chức lại. Vậy chưa có triệt để nên phải bắt luôn vua cướp.

Đại thừa lợi dụng binh lính của cướp, tướng cướp và vủ khí của cướp để bao vây vua cướp, bắt được vua cướp thì tất cả đều bình yên; tướng cướp, binh lính của cướp thành lính chính quy của nhà nước vẫn còn sử dụng, chứ không diệt họ. Ấy là nghĩa Đại thừa.

Tiểu thừa là duy vật, Trung thừa là duy tâm, Đại thừa là tâm và vật hợp một.

Lục Tổ nói trong Pháp Bảo Đàn: “Ở ngoài tam thừa còn có Tối thượng thừa”, tức là có 4 thừa. Tối thượng thừa không ở trong tam thừa nên gọi là phi thừa (không phải thừa), là pháp Thiền trực tiếp do Phật Thích Ca truyền dạy, vì đó không phải là thiền gì, mà Phật Thích Ca truyền cho Tổ Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Diếp truyền cho nhị Tổ A Nan, A Nan truyền cho tam Tổ Thương Na Hòa Tu, từ Tổ từ Tổ truyền xuống đến Tổ Đạt Ma thứ 28, rồi mới truyền sang Trung Quốc, sau này Trung Quốc mới truyền qua Việt Nam. Thiền đó do Tổ Sư từ đời từ đời truyền xuống, nên mới có tên gọi là Tổ Sư Thiền.

Nói đến vọng tâm thì phải có chân tâm. Chữ “Tâm” là một danh từ ai cũng nói được, nhưng Tâm là cái gì? Không có ai biết. Tại sao? Vì chân tâm không có hình tướng không có số lượng, nhưng nó có thực dụng rõ ràng, cái thể mình không thể thấy được, cái thể không có ai biết, luôn cả Phật cũng không thể biết.

Tại sao Phật không biết? Phật đã chứng chân tâm nhưng chân tâm tự biết. Nếu Phật Thích Ca biết chân tâm thì chân tâm trở thành sở biết, có năng sở là nhị. Chân tâm là bất nhị, vì chân tâm không phải sở nên không có ai biết nó, nó tự biết cao nhất là Diệu giác. Cái biết bây giờ là cái biết của bộ não, gọi là vọng tâm che khuất cái biết chân tâm.

Cho nên, các thiền Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, Tối thượng thừa đều là ngưng hoạt động của bộ não (vọng tâm), tức là dẹp hết những che khuất thì chân tâm tự hiện.

Chân tâm và vọng tâm là những danh từ lộn xộn. Vậy làm sao để phân biệt? Không thể nói, nhưng có thể thí dụ, nên chư Phật nói “Tâm như hư không” mà thí dụ vậy thì khó lãnh hội. Tổ 14 của Thiền tông là Long Thọ Bồ Tát dùng hư không vô sở hữu để thí dụ cho chân tâm của mọi người.

Theo chữ Hán, chữ “vô” là không có, không có sở hữu thì cũng như không có hư không. Mặc dầu nó không có, không có là lời nói của thế gian, thực tế nó dung nạp và ứng dụng; mình thấy hư không trống rỗng này, khoa học gọi là không gian. Mặt trời, mặt trăng, đất đai, núi sông, nhà cửa, bất cứ cái gì,… đều phải nhờ cái vô sở hữu này dung nạp và ứng dụng.

Không có cái nào ở ngoài vô sở hữu này, vô sở hữu tức là trống rỗng là không có gì hết, nhưng trống rỗng nên nó dung nạp và ứng dụng. Vì trống rỗng nên không bị không gian và thời gian hạn chế, nên nó khắp không gian thời gian. Khắp không gian thì không có khứ lai nên gọi là Như Lai (đúng như bản lai), khắp thời gian không có gián đoạn thì không có sanh diệt, nên gọi là Niết Bàn (Niết Bàn là tiếng Ấn Độ nghĩa là không sanh không diệt).

Vì trống rỗng thì không có chỗ để trói buộc, nên gọi là giải thoát, chứ không phải bị trói rồi mới mở trói gọi là giải thoát, tại bản thể vốn không có trói buộc. Kinh Duy Ma Cật cũng nói nghĩa này.

Vì trống rỗng thì không có chỗ để trụ, nên gọi là vô trụ. Như Lục Tổ nói “lấy vô trụ làm gốc”, kinh Duy Ma Cật nói “từ gốc vô trụ lập tất cả pháp”, lập tất cả pháp là cái dụng của vô trụ. Lục Tổ nghe Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” liền ngộ đạo triệt để.

Nhiều người nghe đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” thấy còn mơ hồ. Bây giờ tôi dùng cái tay để thí dụ:

Cái tay hoạt bát vạn năng dụ cho chơn tâm, dùng cái gì cũng được, lấy cái khăn, lấy cái túi, lấy cái bình,… hoạt bát vạn năng vì nó vô sở trụ. Nếu có sở trụ rồi, như trụ cái khăn này thì cái hoạt bát vạn năng bị mất, nên lấy cái dĩa, cái bình không được. Bản tánh là vô trụ, thể vô trụ, dụng cũng là vô trụ.

Cho nên, tôi hoằng pháp Tổ Sư thiền, dùng nghi tình là cái chổi automatic quét sạch tất cả biết và không biết của bộ não thì khôi phục lại bản tánh vô trụ hoạt bát vạn năng của tự tánh.

Nhưng cái khăn thuộc về pháp có, đối cái có thì phải có cái không có. Nếu trụ nơi không (ở trong này chẳng có gì), đã có sở trụ rồi thì đánh mất hoạt bát vạn năng, muốn lấy cái khăn, cái dĩa, cái bình,… đều không được. Vậy cái không này cũng phải quét, mới khôi phục cái dụng vô trụ. Cho nên, nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, sanh kỳ tâm là dụng vô sở trụ.

Bây giờ, theo triết học, khoa học của thế gian; đối với vọng tâm thì khoa học chưa rõ. Tại sao? Quý vị có học Phật học rồi, biết có 8 thức với lục căn, mỗi căn đảm nhiệm chức vụ gì? Mỗi thức đảm nhiệm chức vụ gì? Mà nhà khoa học chưa rõ, nhà khoa học chỉ biết bộ não, lục căn là hệ thống thần kinh của bộ não, họ chỉ biết có một cái thức tức là bộ não. Họ không phân biệt rõ ràng mỗi căn mỗi thức.

Thừa Thanh văn chỉ biết có 6 thức, không biết có thức thứ 7 và thức thứ 8. Kỳ thật bản thể của vũ trụ và bản thể của sanh mạng là thức thứ 8, còn gọi là tạng thức (kho tàng). Tất cả chủng tử thiện ác, phi thiện phi ác đều ở trong kho tàng đó. Cho nên, thức thứ 8 là bản thể của vũ trụ, cũng là bản thể của sanh mạng.

Theo Duy Thức, thức thứ 8 là vô ký chẳng che lấp, còn thức thứ 7 cũng là vô ký có che lấp. Tại sao có che lấp? Vì có tánh chấp trước, nó luôn luôn ngày đêm chấp thức thứ 8 là ta. Thức thứ 7 có 2 nhiệm vụ:

- Chấp thức thứ 8 là ta.

- Truyền tống thức.

Tại sao gọi là truyền tống thức? Nó đem thức thứ 6 lãnh đạo 5 thức trước tạo ra thiện, ác, vô ký thành chủng tử truyền vô thức thứ 8. Thức thứ 7 đem các chủng tử chín mùi ở trong thức thứ 8, rồi giao cho thứ thứ 6 lãnh đạo 5 thức trước để thi hành, nên mới có những hiện tượng mình đang sống đây.

Do thức thứ 7 chấp thức thứ 8 là ta, thành có ngã chấp, hợp tác với lục căn rồi nghe theo lệnh bộ não. Thí dụ: Bộ não là Thủ tướng điều khiển các bộ. Các hoạt động tạm thời chia ra làm 3 bộ: Bộ tìm hiểu, bộ suy nghĩ, bộ ghi nhớ.

Theo bộ ghi nhớ là lục căn và hệ thống thần kinh đều là vật chất. Nếu dùng kính hiển vi có thể thấy được, nên nhà khoa học bắt chước cấu tạo bộ ghi nhớ, chế tạo thành máy vi tính. Máy vi tính nhớ rất hay, bao nhiêu phức tạp đều nhớ hết cả, bây giờ mỗi ngày đang cải tiến; cải tiến cách mấy cũng không bằng bộ ghi nhớ của bộ não, nhưng thực dụng nó hay hơn bộ não. Tại sao? Vì bộ não hay quên, còn máy vi tính nhớ không quên. Tại sao bộ não hay quên? Vì bộ não có phần suy nghĩ nên làm nó hay quên.

Đối với vật chất thì nhà khoa học bắt chước làm được. Cho nên nhà khoa học tuyên bố rằng: “Bộ tìm hiểu, bộ suy nghĩ vài năm sau sẽ ra đời”. Vì nó là vật chất nên có thể bắt chước chế tạo được. Còn 8 thứ thức là thể tinh thần, không phải vật chất nên nhà khoa học không thể bắt chước chế tạo được.

Sức dụng của vật chất bị không gian thời gian hạn chế, còn phi vật chất thì không bị không gian thời gian hạn chế. Theo lực học của Einstein nói “vật chất nhỏ nhất chừng nào thì tốc độ nhanh chừng nấy”, tốc độ nhanh như ánh sáng thì vật chất càng nhỏ, sự quan hệ không gian và thời gian cũng thay đổi, lại nói vật chất có thể biến thành năng lượng.

Năng lượng không phải vật chất, mà năng lượng có thể biến thành vật chất, nhưng năng lượng phải từ vật chất mới biến thành được. Nếu không có vật chất thì không thể biến ra được năng lượng. Còn phi vật chất khỏi cần vật chất, nó sẵn sàng có năng lượng đó, mà lại không bị không gian thời gian hạn chế.

Nhà Thiên văn muốn diễn tả khoảng cách của không gian, nếu dùng con số thì không thể thấy được, nên dùng tốc độ ánh sáng để diễn tả. Tốc độ ánh sáng đi một năm mới đến thì khoảng cách đó gọi là một quang niên. Ánh sáng đi một trăm năm mới đến thì khoảng cách đó gọi là một trăm quang niên.

Ánh sáng là tốc độ cao nhất, mỗi giây đi được 300.000 cây số. Nếu ánh sáng đi một trăm năm đến thì tâm mình chỉ một niệm đến. Ánh sáng đi một triệu năm đến thì tâm chỉ một niệm đến. Tại sao? Vì nó trống rỗng, không bị không gian thời gian hạn chế. Nên ngài Long Thọ nói “Tâm như hư không vô sở hữu”. Mình phải tin sức của tâm mình đều sẵn có, nhưng không có hiện ra là bị che khuất.

Bây giờ phải nói chuyện cụ thể để thí dụ. Có người hỏi tôi: Thầy dạy Tổ Sư thiền là dùng cái không biết để tu, khi đến thoại đầu có phải sắp biết không?

Tôi nói: Không phải sắp biết.

Người ta nói: Nếu vậy thì đâu khác như gỗ đá?

Tôi nói: Không phải vậy. Tại sao? Vì cái biết chơn tâm không bao giờ ngưng, nếu nó ngưng rồi biết lại thì mới nói là sắp biết.

Ông đổi lại câu hỏi đi! Như hỏi trời gần sáng thì mặt trời sắp chiếu được không? Không được. Mặt trời không thể sắp chiếu. Tại sao? Mặt trời đâu có ngưng chiếu hồi nào mà nói sắp chiếu! Trời đâu phải sáng rồi mới chiếu! Trời chưa sáng nhưng nó cũng đang chiếu vậy. Không thấy mặt trời là nó bị che khuất bởi quả đất, mây đen, chứ đâu phải mặt trời ngưng chiếu.

Cái biết chơn tâm của mình cũng vậy, nó không bao giờ ngưng biết. Đã không ngưng biết thì tại sao nói là sắp biết? Nó chỉ bị che khuất bởi cái biết và không biết của bộ não, nên nó không được hiện ra.

Pháp Thiền Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, Tối thượng thừa đều dẹp hết các thứ che khuất để chơn tâm hiện ra, gọi là kiến tánh thành Phật.

Vừa rồi, tôi nói 3 bộ phận biết, các vị học thì phải tìm hiểu, tìm hiểu rồi thì phải suy nghĩ, mới phân biệt đúng sai chánh tà, rồi ghi nhớ. Nhưng 3 bộ phận biết này che khuất chơn tâm, nên cần phải dẹp hết. Các giáo pháp dạy dẹp những che khuất gọi là pháp thiền.

Tiền ngũ căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) và tiền ngũ thức thì cái dụng khác nhau. Năm căn giống như cái đèn chiếu soi, không có sự phân biệt. Như nhãn căn chiếu soi cảnh rồi, nhãn thức mới phân biệt đó là tướng gì? Tức là năm căn dùng cảm giác trực tiếp, theo khoa học thì nhãn căn là thị giác, nhĩ căn là thính giác, tỷ căn là khứu giác, thiệt căn là vị giác, thân căn là xúc giác. Đó chỉ là cảm giác thôi, qua cảm giác của năm căn rồi mới đến năm thức phân biệt.

Tiền ngũ căn và tiền ngũ thức dễ phân biệt, còn ý căn và ý thức khó phân biệt. Ý căn là đảm nhiệm suy nghĩ, ý thức là phân biệt thiện ác đúng sai. Tác dụng năm căn trước cũng giống, nhưng tác dụng đối với tiền trần (tiền là trước mắt nên gọi là tiền ngũ căn, tiền ngũ thức).

Còn ý căn và ý thức là đối với pháp trần, không phải vật chất, mà cũng có thể là cái sanh diệt của vật chất, nhưng nó không phải trước mắt. Quá khứ, vị lai cách xa, nếu dùng ý thức nhớ lại chuyện quá khứ, nhớ lại thân nhân ở nước ngoài, như nước Mỹ, nước Pháp,… quý vị ngồi đây có thể nhớ lại cái tủ cái chén để trong nhà của quý vị, dùng ý thức nhớ lại những thứ ấy, khỏi cần trước mắt nên gọi là pháp trần, chứ không phải tiền trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc).

Tôi đại khái phân biệt lục căn lục thức, nhiệm vụ mỗi căn mỗi thức đều khác biệt. Nhưng sự luân hồi làm sao giải thích đây?

-Bát Thức Quy Củ Tụng có câu “khứ hậu lai tiên tác chủ công”.

Thức thứ 8 chứa các chủng tử thiện ác nghiệp, khi đầu thai thì đến trước (lai tiên), khi chết là rời nhục thân sau cùng (khứ hậu), do tính chấp ngã của thức thứ 7 kết hợp sinh lý của cơ thể mà làm chủ nơi thân này. Bắt đầu tinh cha trứng mẹ kết thành thai nhi, nhờ bát thức làm cơ nhân (DNA) mà dần dần hình thành hệ thống thần kinh của bộ não, đồng thời cùng khắp các tế bào và lục phủ ngũ tạng của toàn thân, do bộ não làm thủ tướng.

Do sự lôi kéo của ngã chấp, khiến lục thức và lục căn hợp tác mà nghe theo lệnh của bộ não. Nhưng mà, lục căn thuộc về sắc pháp (thể vật chất), lục thức thuộc về tâm pháp (thể tinh thần), căn có thể hoại diệt, thức thì không thể hoại diệt. Nếu tu hành đến kiến tánh thì chuyển được bát thức thành tứ trí, mà ra khỏi luân hồi; chấm dứt sự đầu thai chuyển thế, tự do tự tại vĩnh viễn, chẳng còn tạo nghiệp và bị nghiệp lực trói buộc.

Hỏi:
Vừa qua nói bản thể sanh mạng theo Duy Thức, hiện tại khoa học phối thai trong ống nghiệm:
Thứ nhất đi đến trình trạng vô tính mà nghiệp cảm duyên sanh luân hồi, thì phải có linh hồn cha mẹ và linh hồn đồng cảm, mới có một chúng sanh ra đời. Cái này là điều thông thường, nhưng nó quan trọng vô cùng, những nhà khoa học cho rằng: “Có thể đảo lộn thế giới”. Bởi vì vô tính thì không có đồng cảm của linh hồn. Như vậy vật chất sanh ra con người hay sao? Hay trường hợp này dẫn đến thế giới hóa sanh?

Nghĩa là muốn hỏi Hòa thượng giải thích cho chúng con biết là cái dục phải đi tò mò tọc mạch của thần thức tìm nơi sáng khi mà phôi thai? Còn vô tính là chỉ có một người đàn ông thôi, lấy 2 vật chất trong người đàn ông sanh ra đứa con, chứ không phải do sắc thể của nam và nữ?

Đáp:
Cái cơ nhân vừa rồi đọc là bao gồm các chủng tử thức thứ 8. Bây giờ khoa học khỏi cần giao phối mà họ cũng tạo ra được, nhưng phải có cơ nhân, cũng như lấy tế bào của con dê này làm cơ nhân để trồng vô trứng con dê cái, mới tạo ra dê con. Họ không có thể tạo ra cơ nhân, cơ nhân đó là chủng tử thức thứ 8.

Hỏi:
Xin Hòa thượng giảng rõ thần thức ở chỗ khác, tìm đến đó để vô thai. Đó là nghiệp cảm duyên sanh ở dạng đặc biệt hay là nhà khoa học tạo ra một linh hồn?

Đáp:
Không có tạo được! Vì cơ nhân mà khoa học không thể tạo được. Ấy chỉ là có sẵn, qua sự sẵn có mà biến đổi thôi, chứ không phải từ chỗ không có. Tôi xin giảng lời nói của Phật là “vô thỉ” chứng minh cho quý vị biết.

Tại sao nói là vô thỉ? Thỉ là bắt đầu, vô là không có; tức là không có bắt đầu, không có bắt đầu là nghĩa vô sanh, cũng là không có sự sanh khởi. Vì có sự sanh khởi thì có sự bắt đầu. Nên người chứng quả là ngộ pháp vô sanh, cũng gọi là chứng vô sanh pháp nhẫn.

Tại sao chắc chắn không có sự bắt đầu? Vì nguồn gốc bắt đầu chỉ có 2 cái: Bắt đầu chỗ có và bắt đầu chỗ không có.

Nếu bắt đầu chỗ có thì không thể nói là bắt đầu, vì cái có kia đã bắt đầu rồi, tức nói cái cơ nhân vừa nói đã có sẵn.

Nếu bắt đầu chỗ không có thì thế giới này loạn hết. Tại sao? Cây đào khỏi cần cây đào sanh, cây lý khỏi cần cây lý sanh, con người khỏi cần con người sanh, con dê khỏi cần con dê sanh. Nhưng nhà khoa học muốn sanh con dê cũng phải lấy tế bào từ con dê để trồng vô trứng con dê cái, chứ không phải khi không từ chỗ không có mà tạo ra được!

Nếu mà chỗ không có tạo ra được thì không có giá trị gì hết, vì tại không có tạo ra cái gì cũng được, tạo ra con người, con dê, cây đào cũng được. Như vậy thế giới loạn hết.

Hỏi:
Vừa rồi Hòa thượng có nói trong kinh Kim Cang là “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Vậy một hành giả dụng công phải nhận biết như thế nào? Bây giờ nhận biết các pháp vô sở trụ hay chúng ta dụng công phu trên lục căn không trụ trên lục trần, ấy là nhận vô sở trụ? Hoặc nhận tánh các pháp vô trụ, rồi mình sống vô trụ đó?

Đáp:
Phật pháp là muốn hiển bày chơn tâm cũng gọi là tự tánh. Chơn tâm là bất nhị không có tương đối, không có tương đối nên không thể dùng lời nói của thế gian để diễn đạt được. Vì muốn diễn đạt thì phải có tương đối, mà chứng tỏ cái tương đối đó đúng hay sai gọi là logic, nó có hai cái mới thành logic được.

Còn chơn tâm thì không có tương đối là bất nhị, siêu việt logic, nó không có thể dùng logic để chứng tỏ, vì dùng logic để chứng tỏ là tương đối rồi. Cho nên, muốn chứng minh phải qua tự tâm của cá nhân.

Hỏi:
Vậy người hành giả phải thế nào để trọn vẹn cái nghĩa vô sở trụ?

Đáp:
Tôi nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” là lời nói của thế gian. Kinh Duy Ma Cật, kinh Lăng Già, cho đến Đại Thừa Khởi Tín luận, phải lìa văn tự lìa lời nói, vì lời nói văn tự không thể diễn tả. Mặc dầu, tôi nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” thì cái đó cũng là lời nói. Nếu chấp vào lời nói văn tự thì nghịch ý của Phật.

Hỏi:
Ý con muốn hỏi là một hành giả đang dụng công, trong kinh Phật dạy “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, cũng như trước có nói “bất ưng vị sắc sanh tâm, bất ưng vị thinh sanh tâm,… mới ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Như vậy một hành giả nhận theo cái ý, tức là trên lục căn trên lục trần là đúng hay nhận như thế nào mới gọi là đúng?

Đáp:
Nếu mà có đúng thì có sai, đúng sai là tương đối.

Hỏi:
Nếu vậy, mình tiếp xúc trên căn trần không trụ trước, đó là lối của con tu tập hay là có lối dụng công cao hơn nữa để dụng công tiến xa hơn?

Đáp:
Nếu mà tự tâm chứng được sẽ biết không có nghĩa lý gì hết, nếu lập ra nghĩa lý thì có tương đối, có đúng lý và không đúng lý, hợp lý với không hợp lý. Ở trong tương đối thì có tranh luận, mỗi người mỗi khác. Còn tuyệt đối thì không có tương đối, lấy cái gì để tranh luận! Nhưng cái ấy tự tâm ngộ mới dược, chứ không phải học. Cái học là phương tiện tương đối, như thầy nói thí dụ, thí dụ là dùng logic.

Mặc dầu, Phật dùng đủ thứ thí dụ, nhưng sau khi nói xong đều phủ định liền. Như ai cũng biết Phật tự phủ định nói “49 năm thuyết pháp, tôi chưa từng nói một chữ”. Vì không thể nói, tất cả lời nói là phương tiện tạm thời, chứ không phải là chơn lý. Lại Phật giáo không kiến lập chơn lý, tất cả các tôn giáo đều có kiến lập chơn lý.

Cho nên, cái nào có kiến lập chơn lý thì sẽ bị lật đổ, còn Phật Thích Ca không thể bị lật đổ, vì không có kiến lập chơn lý. Tất cả đều không thể kiến lập chơn lý, nên mới gọi là “vô thỉ vô sanh”. Nếu có kiến lập thì có “thỉ” (bắt đầu) tức là có sanh rồi, tức là nghịch với ý Phật.

Bây giờ danh từ của Phật nói chỉ là phương tiện thôi, chứ không được cho chấp thật. Như các vị có học Phật pháp, nói là “thật tướng vô tướng”, tức là thật tướng thì không có tướng. Chữ “vô” là lời nói của thế gian, nếu theo thực tế thì hữu cũng vô, mà vô cũng vô. Tức là phủ định tương đối, hữu và vô đều phủ định, mới là thật tướng.

Nếu chấp vô tướng là thật tướng thì lọt vào biên kiến (một bên). Phật pháp có năm thứ ác kiến, mà biên kiến là một trong năm thứ ác kiến (thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến và giới cấm thủ). Nhưng bây giờ nhiều người lọt vào biên kiến mà tự mình không hay biết. Tức là chấp vào một bên, không chấp cái có lại chấp cái không.

Vừa rồi tôi dùng “ưng vô sở trụ” thì không được chấp, nên cũng phải quét. Vì chơn tâm trống rỗng là vô sở hữu, không có thể kiến lập, nên Phật mới nói là “vô thỉ vô sanh”, người chứng quả gọi là ngộ pháp vô sanh hay là chứng vô sanh pháp nhẫn, nếu có sanh thì không phải.

Nhưng bây giờ mình thấy có sanh, thấy có bắt đầu; cái bắt đầu này là bắt đầu từ chỗ có, bắt đầu từ chỗ có tức là ở chính giữa rồi, không phải là chỗ bắt đầu.

Hỏi:
Có người tu kinh Kim Cang, cuộc sống hằng ngày họ không trụ lục căn lục trần, trong lúc tọa thiền không trụ trên pháp trần. Như vậy công phu dần dần họ đạt đến chỗ lặng lẽ thường tịch, công phu đó còn tiến thêm lên nữa không?

Đáp:
Cái tịch lặng này cần phải tiến lên nữa, vì đó là Đại thừa thôi, chứ chưa phải là Tối thượng thừa. Đại thừa là tâm vật hợp một, Tối thượng thừa là phi tâm phi vật (chẳng phải tâm chẳng phải vật).

Hỏi:
Đến giai đoạn đó thì hành giả phải làm sao để tiến lên?

Đáp:
Đến giai đoạn đó thì hành giả phải dùng cái “không hiểu không biết” của bộ não để dẹp cái “biết” của bộ não, gọi là nghi tình. Như dùng câu thoại đầu để hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” thì khởi lên một niệm không biết, rồi khán thoại đầu là nhìn chỗ “không biết”, nhưng chỗ “không biết”, mặc dầu nói chỗ, nhưng không có chỗ, vì có chỗ là biết rồi.

Không có chỗ thì không có mục tiêu để nhìn, không có mục tiêu để nhìn thì nhìn mãi không thấy gì, chỉ trống rỗng vẫn còn không biết, chính cái trống rỗng không biết đó, Thiền tông gọi là nghi tình; cứ hỏi và nhìn hai cái song song để giữ nghi tình, sẽ đưa hành giả đến thoại đầu, rồi kiến tánh thành Phật, lúc ấy ngộ rồi tự biết, chứ không phải do ai phát hiện.

Hỏi:
Nếu hành giả đến giai đoạn “không biết”, mà vẫn giữ công phu “không biết” để diệt trừ những cái biết của tâm thức. Nhưng giai đoạn đó, hành giả vẫn còn ôm lấy công phu, như vậy có vượt thoát chưa hay còn kẹt trong công phu?

Đáp:
Phải tới ngộ mới được! Vừa rồi tôi nói là mục đích muốn đến thoại đầu là căn bản vô minh, cũng là vô thỉ vô minh, ấy là nguồn gốc của ý thức, Thiền tông gọi là đầu sào trăm thước. Thầy nói dùng cái biết để tu theo kinh là Như Lai thiền. Kinh giáo thuộc về giáo môn là Như Lai thiền, mục đích cũng đến thoại đầu.

Còn Tối thượng thừa là dùng cái “không biết” để tu, cũng gọi là tham Tổ Sư thiền. Nếu dùng “không biết” thì không biết trụ, không biết vô trụ. Biết vô trụ tức là đã biết rồi, chứ không phải là không biết! Vì không biết là không có cái gì dính mắc, không có cái trụ và vô trụ dính mắc.

Hỏi:
Hành giả còn biết chỗ “không biết” thì sao?

Đáp:
Nếu còn biết chỗ “không biết” thì không phải Tổ Sư thiền. Đó là cái biết để tìm hiểu cái “không biết”, chứ không phải dùng “không biết” để chấm dứt tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết. Những người đi sai lầm là dùng cái biết để tìm hiểu cái “không biết”, tức là không phải Tổ Sư thiền, không có tham thiền.

Hỏi:
Như vậy, còn dụng công là còn kẹt trong công phu phải không?

Đáp:
Cái đó gọi là Như Lai thiền, ấy là tùy cái biết mà tiến lên, tức là có 52 cấp (Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa là 50 cấp và Đẳng Giác, Diệu Giác. Tổng cộng là 52 cấp). Còn Tổ Sư thiền dùng cái “không biết” là không có cấp nào hết, từ địa vị phàm phu tu chứng Đẳng Giác.

Hỏi:
Phẩm Định Huệ của Pháp Bảo Đàn nói: “Định huệ thì đồng đẳng”, còn kinh khác nói: “Có giới rồi mới có định, đến sau phát huệ”. Như vậy định huệ đồng đẳng của Lục Tổ Huệ Năng so với định huệ của kinh điển có khác nhau như thế nào?

Đáp:
Tự nhiên hai cái khác nhau rồi, vì định huệ của kinh điển là dùng cái “biết” của giáo môn. Còn định huệ của Lục Tổ là Thiền môn dùng cái “không biết” để tu.

Biết và không biết là hai mặt khác nhau, dùng cái biết thì có giai cấp, vừa rồi tôi nói có 52 cấp. Còn dùng cái không biết thì không có giai cấp nào hết.

Hỏi:
Nếu dùng cái không biết thì Lục Tổ nói “định huệ đồng đẳng”, vậy ngay khi có định có huệ thì cái huệ có biết hay không?

Đáp:
Thầy có đọc 36 pháp đối của Lục Tổ dạy không?

Có.

Người ta hỏi: Thế nào là sáng? Thì trả lời là: Tối.

Người ta hỏi: Thế nào là tối? Thì trả lời là: Sáng.

Theo giáo môn thì đâu có được vậy? Hỏi sáng thì giải thích có mặt trăng, mặt trời, có đèn mới sáng. Còn Lục Tổ thì không phải vậy, hỏi tối thì đáp sáng, hỏi sáng thì đáp tối. Tại sao? Vì sáng với tối làm nhân với nhau, tại có sáng mới có tối, có tối mới có sáng.

Sáng tối là hai pháp sanh diệt, đều không phải thực tế là tương đối mới có. Như con gà với trứng gà, vậy con gà có trước được không? Không được. Tại sao? Vì không có trứng gà làm sao có con gà! Trứng gà có trước được không? Không được. Tại sao? Vì không con gà thì không thể có trứng gà.

Cho nên, trứng gà và con gà mà tương đối mới có, thì sáng với tối cũng vậy, hữu vô cũng vậy, tất cả tương đối đều là vậy. Chỗ thật tế (thật tướng) thì phủ nhận tương đối. Không có tương đối thì không thể dùng lời nói để diễn tả.

Kết luận của Vũ Trụ Quan: (Trang 3).
----------------------------------------------------------

Ở trên là vai trò của người thế gian, như vai trò cha, mẹ, vợ, chồng, con cái. Tu sĩ có vai trò của người Tu sĩ, tức là Sa Di phải giữ đúng vai trò của Sa Di, Tỳ Kheo phải giữ đúng vai trò Tỳ Kheo, Sa Di Ni phải giữ đúng vai trò của Sa Di Ni, Tỳ Kheo Ni phải giữ đúng vai trò Tỳ Kheo Ni, mỗi mỗi đều giữ đúng vai trò của mình thì tự nhiên tập khí sẽ dứt dần dần.

Cũng như vừa nói “vì đói khát ăn uống thì cứ ăn uống, đừng nghĩ cái khác. Vì che thân chống lạnh cần mặc áo thì cứ mặc áo, đừng nghĩ cái khác”. Cần nhất là “đừng nghĩ cái khác”, tại mình ham nghĩ cái khác nên tập khí không dứt được. Cứ giữ đúng vai trò của mình, đói bụng thì ăn cơm, lạnh mặc thêm áo, nực cởi áo ra. Cho nên Phật pháp chỉ là vậy thôi.

Hỏi:
Chúng con biết Hòa thượng là bậc tu thiền, xin Hòa thượng chỉ dạy, tại sao những vị tu thiền bị tẩu hỏa nhập ma? Xin chỉ dạy phương pháp điều thân điều tâm như thế nào?

Đáp:
Người tu bị nhập ma vì có ngã, tức là có cái ta nên ma mới nhập được. Tham Tổ Sư thiền có 10 điều kiện, điều thứ nhất có 9 chữ “vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ” là phá ngã chấp. Ban đầu tôi nói “vô sở sợ”, họ nói không được, phải nói là “vô sở úy”, tôi nói phải “vô sở sợ”, tại sao? Vì tôi nói “vô sở sợ” là 10 người thì 10 người đều hiểu, còn nói “vô sở úy” là 10 người thì chỉ 5 người hiểu. Thành ra, tôi muốn 10 người đều 10 người hiểu, nên mới nói như vậy.

Nếu thực hành được “vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ” thì không bị ma nhập. Tham đúng Tổ Sư thiền thì ma làm sao nhập? Chỉ các Thiền khác có ngã chấp nên ma mới nhập được. Như kinh Lăng Nghiêm có 50 thứ ma ngũ ấm, do người đó có mong cầu, nên ma thừa mong cầu mà nhập vào; muốn đắc thì ma hóa ra có sở đắc để nhập, có sở sợ cũng vậy.

Chánh pháp Phật giáo đều phá ngã chấp, mới giác ngộ ra khỏi sanh tử luân hồi; tất cả các tôn giáo khác không phá ngã chấp, nên không được giải thoát cái khổ sanh tử luân hồi.

Hỏi:
Ngày xưa, Tổ Huệ Năng nói với các Thiền giả rằng: “ Các vị tu thiền phải làm sao cho nhân tâm tử thì đạo tâm mới trường tồn”. Chúng con thấy chánh pháp này là pháp giải thoát, nhưng nó gắn liền với pháp thế gian. Đối với thế gian pháp, mà các lãnh đạo của chúng ta hết sức bâng khuâng việc này.

Vì tâm sanh nên các pháp sanh, tâm diệt nên các pháp diệt; mà nhân tâm không chịu tử, làm sao đạo tâm trường tồn được? Chỗ này con thấy các ban trị sự, ban đại diện, giữa Tăng Ni, giữa tự viện, nhân tâm sao không biết mà nó xảy ra những chuyện va chạm với nhau, thậm chí thưa kiện đến chánh quyền này nọ.

Đây là những vướng mắc của các giảng sư sắp đến các vùng sâu. Nhờ Hòa thượng chỉ cho con, làm sao cho nhân tâm này tử, không cho các tâm sanh thì các pháp không sanh, tất nhiên mọi việc sẽ được êm đẹp?

Đáp:
Thế gian pháp tức là Phật pháp, chứ không phải ngoài thế gian mà có Phật pháp.

Thế lưu bố tưởng và trước tưởng (trích từ kinh Đại Niết Bàn):
Hỏi:
Ở nơi thế gian Thánh phàm khác biệt, phàm phu ngoài tâm chấp pháp, vọng lập kiến văn, bậc Thánh đã ngộ nhất tâm, tại sao còn tri kiến như phàm phu?

Đáp:
Bậc Thánh dù có tri kiến nhưng thấu rõ vật hư như huyễn, chẳng sanh chấp trước.

Như kinh Đại Niết Bàn nói: “Bồ Tát Ca Diếp bạch Phật: Thế Tôn, nếu như phiền não sanh bởi điên đảo tưởng thì tại sao tất cả bậc Thánh đều thật có điên đảo tưởng mà chẳng có phiền não?

Phật bảo: Sao nói bậc Thánh có điên đảo tưởng?

Bồ Tát Ca Diếp bạch Thế Tôn: Tất cả bậc Thánh cũng gọi con trâu là trâu, gọi con ngựa là ngựa và gọi nam nữ, lớn nhỏ, nhà cửa, xe cộ… ấy tức là điên đảo tưởng.

Phật bảo: Thiện nam tử, tất cả phàm phu có hai thứ tưởng: Thế lưu bố tưởng (thế gian đã phổ biến lưu hành) và trước tưởng. Phàm phu chấp trước, ở nơi thế lưu bố tưởngg sanh trước tưởng. Bậc thánh chỉ có thế lưu bố tưởng, khéo giác quán nên ở nơi thế lưu bố tưởng chẳng sanh trước tưởng. Cho nên, phàm phu gọi là điên đảo tưởng, bậc thánh dù tri mà chẳng gọi điên đảo tưởng. Lại, do cảnh vốn tự không, đâu cần hoại tướng! Do linh tâm tự chiếu, đâu nhờ cảnh sanh! Nên chẳng như phàm phu chấp trước năng sở tri kiến vậy”.

Triệu Luận nói: “Hễ có sở tri thì có sở bất tri. Do Thánh tâm vô tri nên vô sở bất tri”. Cái tri của bất tri là nhất thiết tri, nên kinh nói: “Thánh tâm vô tri mà vô sở bất tri” thật đáng tin vậy. Cho nên bậc Thánh trống rỗng nơi tâm mà thật tế chiếu soi suốt ngày tri mà chưa từng (cho là) tri, như nước lắng soi bóng, há có lập tâm năng sở; cảnh trí đều sáng, đâu có tư tưởng giác tri ư!

Theo sự hình thành trên đây (kinh Đại Niết Bàn) thì biết: Ở nơi thế gian chẳng sanh khởi trước tưởng tức là pháp xuất thế gian, cũng là Phật pháp. Chứ không phải ngoài pháp thế gian mà có pháp xuất thế gian đặc biệt gọi là Phật pháp vậy.

Nói tóm lại, đối với cuộc sống hằng ngày, đói thì ăn, khát thì uống, lạnh thì mặc thêm áo, nóng thì cởi bớt áo ra, cho đến nói năng tiếp xúc, làm việc… đủ thứ pháp thế gian đều chẳng sanh khởi trước tưởng, tức là Phật pháp vậy. (Chẳng đem chủ quan của mình xen vào sự vật của thế gian tức là chẳng sanh trước tưởng, cũng chẳng có “cho là” để lọt vào nhị biên đối đãi vậy).

Hỏi:
Hòa thượng dạy chúng con nhận thức điểm đó, con suy nghĩ nghiệp vụ hoằng pháp như ở đây thì rất dễ vì là giáo hội. Giáo hội thì có hành giáo và thiền giáo, mà pháp môn Hòa thượng giảng từ sáng đến giờ là tu để cầu giải thoát. Nhưng con thấy Phật pháp đã đi sâu vào xã hội để phổ hoá độ sanh, để vượt qua khổ não trần lao. Phải nhờ pháp môn giải thoát này để trấn an cho pháp thế gian. Vì vậy chúng con nhờ Hòa thượng khai thông những giới xuất gia của Phật.

Hai chúng xuất gia cũng còn bất đồng quan điểm với nhau, đi đến chỗ cho giáo hội phải nhọc nhằn. Đây là công tác trước mắt của các giảng sư về những vùng sâu đến các vị trụ trì. Hòa thượng cho con biết thêm làm sao nhân tâm tử thì đạo tâm mới trường tồn? Nếu nhân tâm không tử thì vạn pháp thế gian sanh mãi mãi, làm cho Phật pháp khó thực hiện ở thế gian?

Đáp:
Quí vị đều là giảng sư, đi giảng cho mọi người nghe, tạo cho xã hội được hạnh phúc, cũng như tất cả ngành nào cũng muốn cho nhân loại được hạnh phúc. Kinh Viên Giác nói vấn đề thuyết pháp:

- Bạch Thế Tôn! Nếu giác tâm này bản tánh trong sạch, vì sao bị ô nhiễm, khiến những chúng sanh mê muội chẳng thể ngộ nhập? Xin Như Lai vì chúng con khai thị pháp tánh, để làm đạo nhãn cho tương lai, khiến cho đại chúng trong hội này và chúng sanh đời mạt pháp dễ được ngộ nhập.

Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ Tát nói xong, 5 vóc gieo sát đất, đảnh lễ thưa thỉnh 3 lần như vậy.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tịnh Chư Nghiệp chướng Bồ Tát rằng:

- Lành thay! lành thay! Thiện nam tử! Ngươi khéo vì các Bồ Tát và chúng sanh thời mạt pháp, hỏi Như Lai về những phương tiện như thế. Nay ngươi hãy lắng nghe, ta sẽ vì ngươi mà thuyết.
Khi ấy Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ Tát và đại chúng hoan hỷ vâng lời Phật dạy, im lặng mà nghe.

- Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vọng chấp thật có 4 tướng: Ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng, nhận lầm 4 tướng điên đảo là thật thể của mình, do đó liền sanh 2 cảnh yêu ghét, vậy nơi thể hư vọng lại chấp thêm một lớp hư vọng nữa. 2 thứ vọng nương nhau sanh ra vọng nghiệp, vì có vọng nghiệp nên vọng thấy có luân hồi; kẻ nhàm chán luân hồi lại liền thấy có Niết Bàn, do sự chấp thật ngã tướng này nên chẳng thể ngộ nhập được bản giác trong sạch. Chẳng phải bản giác chống cự với những kẻ năng nhập, vì có kẻ năng nhập (ngã tướng) thì chẳng phải bản giác vậy.

Cho nên, động niệm và dứt niệm đều là mê muội. Tại sao? Vì có bổn khởi vô minh đã làm chủ cho mình từ vô thỉ rất khó đoạn trừ, phải có huệ nhãn mới trừ được. Vì tất cả chúng sanh, sanh ra chẳng có huệ nhãn, hiện tiền các tánh thân tâm đều là vô minh, vô minh chẳng thể tự dứt vô minh, cũng như người có sinh mạng, sinh mạng chẳng thể tự dứt sinh mạng vậy.

Vậy ngươi nên biết, có người yêu ta tùy thuận với ta thì tâm sanh hoan hỉ, người chẳng tùy thuận thì liền sanh oán ghét. Có tâm yêu ghét để nuôi dưỡng vô minh, làm cho vô minh tương tục mãi, nên cầu đạo chẳng thể thành tựu.

Thiện nam tử! Thế nào là ngã tướng? Những chúng sanh tu hành, tâm biết có sở chứng đều thuộc về ngã tướng.

Thiện nam tử! Ví như có người cơ thể điều hòa thư thái, tay chân thư giãn, bỗng quên mất thân ta, vì ăn uống thất thường sanh bệnh hoạn, nhờ thầy thuốc châm cứu thấy đau mới biết có ta còn đây, cho nên người chấp có sở chứng mới hiện ra ngã tướng.

Thiện nam tử! Nếu tâm liễu tri rốt ráo biết có sở chứng, dù chứng đến thanh tịnh Niết Bàn của Như Lai đều thuộc về ngã tướng.

Thiện nam tử! Thế nào là nhơn tướng? Như những chúng sanh tâm có sở chứng, cho kẻ năng chứng là ta, nay tiến thêm một bậc, ngộ biết chứng chẳng phải là ta, ngộ này siêu việt tất cả chứng, nhưng còn giữ tâm ngộ tức là nhơn tướng.

Thiện nam tử! Những tâm biết có năng sở đều thuộc về ngã, tâm dù chỉ còn chút năng ngộ để chứng lý cùng tột của Niết Bàn đều gọi là nhơn tướng.

Thiện nam tử! Thế nào là chúng sanh tướng? Chỗ này là những chúng sanh có tâm biết năng chứng năng ngộ đều chẳng thể biết.

Thiện nam tử! Ví như có người nói rằng: “Ta là chúng sanh”, thì biết kẻ nói chúng sanh kia chẳng phải ta cũng chẳng phải ngươi. Sao nói chẳng phải ta? Vì “ta là chúng sanh” thì chẳng phải ta, sao nói chẳng phải ngươi? Vì nói “ta là chúng sanh” thì chẳng phải ngươi cũng chẳng phải ta vậy.

Lược giải:
Nói “ta là chúng sanh” vì chúng sanh là nhiều người nhiều loài. Nay nói “ta” chỉ có một mình ta, như thế thì chúng sanh chẳng phải “ta”; nói ngươi cũng vậy, nghĩa là chỉ có một mình ngươi chẳng phải nhiều chúng sanh, nên nói “ta là chúng sanh” thì chẳng phải “ngươi” cũng chẳng phải “ta” vậy.
(lược giải hết).

Thiện nam tử! Nếu những chúng sanh có tâm biết năng chứng năng ngộ đều là Ngã tướng, Nhơn tướng. Nay tiến thêm một bậc, liễu tri chỗ này là Ngã tướng, Nhơn tướng chẳng thể đến, nhưng còn có sở liễu tri, biết có năng chứng năng ngộ để lìa, nên gọi là Chúng sanh tướng.

Thiện nam tử! Thế nào là Thọ mạng tướng? Những chúng sanh tiến thêm một bậc nữa, tâm quán chiếu sáng tỏ chiếu soi tâm liễu tri cũng bất khả đắc, chỉ còn một giác thể trong sạch; giác thể này tất cả nghiệp trí trong luân hồi đều chẳng thể tự thấy được, cũng như con mắt chẳng tự thấy mắt, tất cả tịch diệt. Vì trụ nơi tịch diệt thì mạng căn chưa dứt, nên gọi là Thọ mạng tướng.

Thiện nam tử! Nếu tâm chiếu soi thấy tất cả người giác tri và cấu bẩn của trần lao. Có năng giác sở giác là chẳng lìa được trần lao. Ví như nước canh làm băng tan, nước canh là năng tan, băng là sở tan; khi băng đã tan thì nước canh và băng đều thành nước, năng tan (nước canh) sở tan (băng) đều diệt, nếu còn có kẻ biết băng tan thì còn cái năng biết, cái biết đó là ngã. Nói “còn Thọ mạng tướng” thì nghĩa cũng như vậy.

Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp chẳng rõ 4 tướng không thật, dù trải qua nhiều kiếp siêng năng khổ hạnh tu hành, chỉ gọi là pháp hữu vi, rốt cuộc chẳng thể thành tựu tất cả Thánh quả (pháp vô vi), cho nên gọi là “chánh pháp trong đời mạt pháp”. Tại sao? Vì lầm nhận tất cả ngã tướng cho là tướng Niết Bàn; cho có chứng có ngộ mới gọi là thành tựu. Cũng như có người nhận giặc làm con thì tài sản nhà họ chẳng thể thành tựu. Tại sao? Như có người luyến ái ngã, cũng luyến ái Niết Bàn, đè nén gốc luyến ái ngã trở thành tướng Niết Bàn; có người chán ngã, cũng chán sanh tử, chẳng biết gốc luyến ái ấy mới thật là chơn sanh tử vậy. Nay có tâm nhàm chán sanh tử, nên gọi là chẳng giải thoát.

Tại sao biết được pháp ấy chẳng giải thoát?

Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp tu tập Bồ đề, cho sự chứng của mình tự trong sạch, chứng được chút ít cho là đủ, chưa dứt sạch cội gốc của ngã tướng nên chẳng giải thoát. Nếu có người tán thán pháp mình thì liền sanh tâm hoan hỉ, muốn cứu độ họ; nếu phỉ báng pháp sở đắùc của mình thì liền sanh tâm sân hận. Vậy thì biết cái tâm chấp ngã tướng rất kiên cố, tiềm ẩn trong tạng thức, gặp ngoại cảnh kích thích thì phát khởi hiện hành nơi các căn, mãi chẳng gián đoạn.

Thiện nam tử! Người tu hành vì chẳng dứt sạch ngã tướng nên chẳng thể ngộ nhập bản giác trong sạch.

Thiện nam tử! Nếu biết ngã tướng vốn không, thì chẳng có cái bản ngã để cho họ tán thán và phỉ báng; nay thấy “có ta thuyết pháp” thì ngã tướng chưa dứt, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ mạng tướng đều cũng như thế.

Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp vì chưa dứt ngã tướng, cho sự thuyết pháp là “do ta thuyết”, nên pháp của họ thuyết là cái bệnh của ngã tướng, chẳng phải thuyết cái pháp của Niết Bàn vậy, cho nên gọi là kẻ đáng thương xót! Dù siêng năng tinh tấn, chỉ tăng thêm các pháp bệnh, nên chẳng thể ngộ nhập bản giác trong sạch.

Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp vì chẳng thấu rõ 4 tướng kể trên, chấp chỗ hành và kiến giải của Như Lai cho là kiến giải của mình, vì chẳng phải do tự mình tu chứng, nên rốt cuộc chẳng thể thành tựu. Hoặc có chúng sanh chưa đắc nói đắc, chưa chứng nói chứng, thấy người hơn ta thì sanh ganh tỵ, ấy là do chúng sanh chưa dứt ngã kiến, nên chẳng thể ngộ nhập bản giác trong sạch.

Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp muốn tu thành đạo, chớ nên sanh tâm cầu ngộ; người sanh tâm cầu ngộ thì muốn học rộng nghe nhiều để hiểu thêm giáo lý, vậy chỉ thêm đa văn tăng trưởng ngã kiến, chẳng phải người chơn tu.

Người chơn tu chỉ nên tinh tấn hàng phục phiền não, khởi tâm đại dũng mãnh: Niết Bàn chưa đắc khiến cho đắc, phiền não chưa dứt khiến cho dứt. Những tâm tham, sân, si, mạn, siểm khúc, ganh tỵ đối cảnh chẳng sanh, ân ái giữa mình và người tất cả đều tịch diệt, Phật nói người ấy sẽ dần dần thành tựu Thánh quả. Nương theo nhân địa này tu hành để cầu thiện trí thức thì chẳng đọa tà kiến, nếu có sở cầu khác với nhân địa phát tâm kể trên, lại sanh lòng yêu ghét thì chẳng thể ngộ nhập biển giác trong sạch.

Lúc ấy Thế Tôn muốn giảng lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
Tịnh Nghiệp Chướng nên biết,
Tất cả những chúng sanh,
Đều do chấp ngã tướng,
Luân hồi từ vô thỉ.
Chưa dứt sạch bốn tướng,
Chẳng được thành Bồ Đề.
Yêu ghét sanh nơi tâm,
Siểm khúc giữ trong niệm.
Cho nên bị mê muội,
Chẳng thể vào giác thành.
Nếu muốn về cõi Phật,
Phải bỏ tham sân si,
Tâm chẳng luyến ái pháp
(pháp Niết Bàn),
Dần dần được thành tựu.
Thân ta vốn chẳng có,
Yêu ghét do đâu sanh?
Cầu thầy bạn chánh tu,
Thì chẳng đọa tà kiến.
Nếu tâm cầu pháp khác,
Rốt cuộc chẳng thành tựu.


“Ta đã chứng Niết Bàn” thì Thiền tông gọi là mạng căn chưa dứt, cũng còn ngã tướng. Trong kinh Viên Giác diễn tả: “Ngã, Nhân, chúng sanh, thọ mạng”, còn kinh Kim Cang nói: “Ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả”. Vì nhận lầm 4 tướng này, nên tu hành không dứt được ngã kiến.

Hỏi:
Ngài Hương nghiêm nói với một vị Tăng rằng: “Có người ngậm một cành cây, dưới cây có một hố sâu, có một người đi ngang qua hỏi: Thế nào là Phật? Người ấy trả lời liền mất mạng. Nếu không trả lời thì phụ câu hỏi của người kia. Ngưỡng mong Hòa thượng khai thị cho chúng con rõ?

Đáp:
Ông Newton thấy trái bôm ở trên cây rơi xuống đất, ông phát nghi tại sao trái bôm không rơi lên trời, mà lại rơi xuống đất? Từ đó ông mới dùng bộ não đi nghiên cứu tìm hiểu, cuối cùng ông ngộ được hấp dẫn lực của quả đất, rồi đến ngộ hấp dẫn lực vạn hữu.

Pháp thiền của Phật cũng từ nghi đến ngộ, nhưng không phải tìm hiểu; tìm hiểu không thể ngộ được, vì tìm hiểu là sản phẩm của bộ não, bộ não là che lấp chơn tâm, nên Phật dạy phương pháp dẹp nó.

Nếu tiếp tục tìm hiểu thì giống như mây đen nhiều thêm che lấp ánh sáng mặt trời không hiện ra được. Cho nên công án là để cho mình ngộ, chứ không cho mình tìm hiểu; còn những người không ngộ tất nhiên là không hiểu, nhưng giữ cái không hiểu đó (nghi tình), sau này sẽ được ngộ.

Hỏi:
Lúc tham thiền bị hôn trầm thì phải làm sao? Và tán loạn thì phải như thế nào?

Đáp:
Nếu hôn trầm thì phải mở mắt to ra, mở mắt to mà còn hôn trầm thì lấy nước lạnh rửa mặt, rửa mặt bằng nước lạnh mà còn hôn trầm thì phải đứng dậy đi kinh hành hay kiếm công việc làm, cũng phải tiếp tục thiền nữa. Nếu có tán loạn thì phải nhắm mắt lại.

Hỏi:
Thiền sư Duy Tính nói: “Lão Tăng 30 năm trước, khi chưa có vào đạo, thấy núi là núi, thấy nước là nước; sau này được Thiện tri thức dẫn cho lối vào thì thấy núi không phải núi, thấy nước không phải nước. Rồi sau này ngộ nhập thiền rồi, thấy núi là núi, thấy nước là nước”. Vậy cái đầu tiên thấy núi là núi, thấy nước là nước và cái sau cùng thấy núi là núi, thấy nước là nuớc, khác nhau chỗ nào?

Đáp:
Đó là nghĩa ba câu của kinh Kim Cang, tôi có dịch kinh Kim Cang, trong đó giải thích rất kỹ càng. Nhưng bây giờ có câu hỏi rồi thì tôi giải thích.

Kinh Kim Cang từ đầu đến cuối đều là nghĩa ba câu. Như Phật nói: “chúng sanh, tức phi chúng sanh, thị danh chúng sanh. Thế giới, tức phi thế giới, thị danh thế giới. Đệ nhất ba la mật, tức phi đệ nhất ba la mật, thị danh đệ nhất ba la mật”, đều là nghĩa ba câu.

Vừa rồi thầy hỏi, ban đầu thấy núi sông thì chấp thật có núi sông, khi tu đến giai đoạn thấy núi sông không phải thật tức là phi (chẳng phải) núi sông; sau cùng đã ngộ rồi thấy núi sông vẫn là núi sông.

Câu thứ nhất “núi sông” là giả danh, câu thứ nhì “phi núi sông” cũng giả danh, câu thứ ba “thị danh núi sông” cũng giả danh. Tức là chẳng trụ nơi câu thứ nhất, chẳng trụ nơi câu thứ nhì và chẳng trụ nơi câu thứ ba. Ấy là nghĩa “vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” của kinh Kim Cang.

Khai thị Thiền thất ngày 15-5 =>21-5-1999 tại chùa Hưng Phước.

Hỏi:
Con tham Tổ Sư thiền khoảng 2 tháng, khi tham một tháng bắt đầu quen; con ăn rồi tắm, chừng nửa giờ sau, không biết mình ăn và đã tắm xong; lúc ấy con đi chợ mua đồ, đưa tiền cho người bán, người bán thối tiền, con cũng không nhớ; hiện tại con dọn dẹp đồ đạc trong nhà không biết cất ở đâu, sự sinh hoạt của con hằng ngày có phần xáo trộn. Vậy cái quên của con có tương ưng với công phu không?

Đáp:
Nếu tham Tổ Sư thiền, hỏi và nhìn mà quên như vậy là hiện tượng tốt, không có ảnh hưởng đến sự sống; nếu sự tu tiến bộ như cảnh giới này thì dùng tiền đâu có thể mua được!

Tham thiền quên mọi cảnh xung quanh là tốt, nếu là bệnh tâm thần mà quên thì không được. Như Truyền Nam mua bán không để ý đến tiền, người ta trả bao nhiêu thì lấy, mỗi ngày bán bao nhiêu lời lỗ không cần biết! Nhưng thật sự công phu đến mức này mới được.

Hỏi:
Tham thiền đang đi ở ngoài đường, đến mức độ quên không biết về nhà. Có trường hợp này không?

Đáp:
Có chứ, nhưng không hại gì hết, cũng có người như vậy, như Trương quốc Anh tham thiền trong lúc đi về nhà mà không biết vô nhà.

#41 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 03/09/2011 - 18:54

Hỏi:
Con bị áp huyết cao, thần kinh căng thẳng, con tiếp tục tham hay ngưng rồi uống thuốc cho hết mới được tham?
Đáp:
Nếu vậy thì đã kể trên không phải thật rồi, nếu thật quên làm sao còn nhớ áp huyết cao mà sợ? Người ta chưa quên mà còn phải vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ. Nếu còn nhớ cái sợ, tức là còn nhớ cái ngã, làm sao gọi là quên?

Hỏi:
Nếu vừa hỏi vừa nhìn song song, hỏi đến đâu thì nhìn đến đó, phải vậy không?

Đáp:
Đó là dùng cái “biết”, chứ không phải dùng cái “không biết”. Tổ Sư thiền là dùng cái không biết của bộ não, để chấm dứt cái biết của bộ não, tức là ngưng hoạt động của bộ não. Vì cái biết của bộ não che khuất cái biết của chơn tâm. Cho nên phải dẹp những cái che khuất, rồi chơn tâm mới hiện ra, gọi là kiến tánh thành Phật.

Bây giờ không những không chịu dẹp, mà lại dùng cái biết để tìm hiểu, vì có tìm hiểu nên biết mình có áp huyết cao, rồi sợ áp huyết cao, sợ chết, làm sao mà không biết được? Nếu đã quên làm sao biết áp huyết cao và sợ chết?

Hỏi và nhìn đi song song thì đâu có trước sau! Đâu có hỏi trước nhìn sau, rồi nói hỏi đến đâu rồi nhìn đến đó! Vậy hỏi trước nhìn sau rồi, tức là nhìn theo cái hỏi; hỏi và nhìn cùng một lượt, đâu có phải nhìn theo cái hỏi, cái hỏi theo cái nhìn! Như vậy người đó nghịch với Tổ Sư thiền, vì tìm hiểu cái không biết.

Cái “không biết” là từ câu hỏi để kích thích lên niệm không biết, nhìn là kéo dài niệm không biết. Nhưng không chịu dùng cái “không biết” để ngưng cái “biết”, mà dùng cái biết để tìm hiểu, để đuổi theo câu hỏi, nên mới nói là hỏi tới đâu nhìn tới đó.

Nếu đã không biết thì đâu có hỏi tới đâu! Làm sao có chỗ để nhìn tới đó? Vì không biết thì không có chỗ, không có chỗ thì không có mục tiêu. Vậy làm sao biết hỏi tới đâu nhìn tới đó được? Tức là câu hỏi mâu thuẩn vì dùng cái biết. Dùng cái biết là không phải tham thiền, tham thiền là dùng cái “không biết”.

Tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết, 3 cái biết này chấm dứt thì đến thoại đầu. Bây giờ không những không chịu chấm dứt, lại còn kéo dài tìm hiểu, dùng tìm hiểu để tìm hiểu nghi tình, cho nghi tình tới đâu thì tìm hiểu tới đó, tức là có chỗ rồi. Đã không biết thì không có chỗ, không có chỗ thì không có mục tiêu để nhìn, nhìn mãi không thấy gì vẫn còn không biết, nên gọi là nghi tình.

Hỏi thì không biết nên làm sao có chỗ? Vô sở hữu thì không có, không có nên trống rỗng, trống rỗng thì khắp không gian, khắp không gian tự nhiên không có chỗ. Vì có chỗ nên không cùng khắp không gian. Cùng khắp không gian thì không có khứ lai nên gọi là Như lai.

Vì trống rỗng cùng khắp không gian tự nhiên cùng khắp thời gian, tại không gian và thời gian thì không thể rời nhau được. Cùng khắp thời gian không có sanh diệt gọi là Niết Bàn.

Tôi không phải có dạy giáo lý cao siêu, là muốn giải tỏa 5 thứ nghi của quý vị để tăng cường lòng tin tự tâm.

Năm thứ nghi là gì? Là nghi lý, nghi sự, nghi pháp, nghi thầy, nghi mình.

Tại sao nghi mình? Nghi mình nghiệp chướng nặng; nhiều người cho mình là nghiệp chướng nặng, đó là sai lầm.

Tại sao nghi thầy? Như tôi dạy quý vị, mà quý vị nghi không biết thầy dạy có đúng không? Nên mới hỏi thì tôi mới giải tỏa cái nghi đó. Như nghi mình nghiệp chướng thì tôi giải tỏa nghiệp chướng không có nặng, không có nghiệp chướng gì hết.

Tại sao nghi pháp? Không biết pháp này có đúng hay sai, nên tôi giải tỏa cái nghi đó.

Nghi sự và nghi lý cũng như nghĩa này, không biết đúng hay không đúng, sanh ra cái nghi nên đề ra câu hỏi để tôi giải đáp cho hết nghi.

Quý vị có hỏi đều ở trong 5 thứ nghi này, qua sự giải đáp thì hết nghi. Vì 5 thứ nghi này làm chướng ngại lòng tin tự tâm. Tham thiền là muốn hiện tự tâm của mình, nếu không tin tự tâm thì tham thiền không hiện tự tâm ra được.

Hỏi:
Thế nào tránh trong thoại đầu? (Ẩn dấu trong thoại đầu).

Đáp:
Khi những cái che khuất bị dẹp thì ánh sáng mặt trời hiện ra. Như mặt trời mới mọc thì mình nhìn được, đến chừng ánh sáng mạnh thì nhìn không được. Ánh sáng Phật tánh hiện ra thì ma quỷ và Thiên thần đều không thể thấy được. Nên không thể nói là tránh!

Bây giờ, người nào đều cũng có hào quang, người nào có tu thì hào quang sáng hơn, không tu thì hào quang tối hơn. Với người kiến tánh thì hào quang rất mạnh.

Sơ Tổ luật tông là Đạo Tuyên luật sư trì giới rất trang nghiêm, cảm ứng Thiên thần trên trời. Vì trì luật nên ăn ngọ (chỉ ăn một bữa trưa, quá 12 giờ không ăn), mỗi bữa trưa trước giờ ngọ, Thiên thần đem cơm xuống cúng dường cho Đạo Tuyên, ngày nào cũng như mọi ngày, tiếng tăm truyền khắp các nơi.

Một Thiền sư nghe vậy, muốn biết Thiên thần như thế nào? Nên mới đến thăm Đạo Tuyên để gặp thiên thần. Nhưng hôm đó đợi mãi qua 12 giờ không thấy Thiên thần, ông nghĩ rằng Thiên thần hôm nay bận việc nên không đến, rồi từ giã Đạo Tuyên đi về.

Sau khi Thiền sư đi về, Thiên thần mới vào. Đạo Tuyên hỏi: Tại sao hôm nay ông đến trễ? Bây giờ quá ngọ thì đâu có ăn được!

Thiên thần nói: Không phải tôi đến trễ, 11 giờ tôi đã đến rồi, nhưng tòa nhà của ông có hào quang che lấp nên tôi vào không được, lúc hào quang tan hết thì tôi mới vào nhà được.

Vậy chứng tỏ Thiền sư ngồi đây có hào quang sáng che khắp tòa nhà này, nên Thiên thần không vào được. Thiên thần còn vào không được, huống là quỷ sứ của Diêm La Vương có nhằm gì! Vậy sao mà cần dấu? Nếu mình tu đến kiến tánh thì hào quang cũng mạnh vậy.

Kim Bích Phong có hào quang mạnh nên quỷ sứ của Diêm La Vương không thấy được. Ông đâu có ẩn dấu! Aån dấu thì không thể được.

Người ta nói tụng chú có linh nghiệm, tại sao người này tụng chú linh nghiệm, mà người kia tụng chú không linh nghiệm? Linh nghiệm là tâm người tụng, chứ đâu phải do chú ấy! Chú ấy chỉ là công cụ, làm sao có sức dụng? Sức dụng là do tâm.

Cho nên, người tâm lực mạnh tụng chú thì linh nghiệm, người tâm lực yếu tụng chú thì không linh nghiệm. Chứng tỏ chú ấy không có linh nghiêm gì hết, có linh nghiệm hay không là tâm người tụng, chứ không phải do chú. Hỏi câu thoại đầu cũng vậy, câu thoại chỉ kích thích niệm không biết, chứ đâu có sức che dấu!

Hỏi:
Người tham thoại đầu, khi nghi tình thành khối thì Diêm La Vương có bắt được người ấy không?

Đáp:
Nếu dẹp hết che khuất thì hào quang hiện ra, tức là được tâm lực mạnh thì nghiệp lực sẽ sửa đổi. Như lúc mình tạo ác nghiệp, kiếp trước làm cho người ta chết đói, nhưng tâm lực chỉ 1 độ. Kiếp này mình không tu thì tâm lực cũng chỉ 1 độ, nên phải chịu quả chết đói.

Nếu mình biết tu thì tâm lực từ 1 độ lên đến 2 độ,…10 độ, tức là không làm ác mà chỉ làm thiện, cái quả sẽ đến trước. Các nhân ác đã làm, nhưng yếu hơn nhân thiện, nên nhân ác này phải ẩn lại để nhân thiện hiện ra trước.

Như mình tham thiền tâm lực lên 10 độ, rồi không tham thiền nữa, khi cái quả 10 độ hết thì quả 9 độ đến, dần dần đến quả 1 độ thì mình phải chịu chết đói. Còn bây giờ mình không có ngưng tham thiền, từ 1 độ đến 1 triệu độ là thành Phật, nhưng cái nhân chết đói đó vẫn còn.

Khi thành Phật phải độ chúng sanh (nghĩa chữ “Phật” là tự giác, giác tha. Giác tha là độ chúng sanh). Những người nào mình làm cho họ chết đói thì tự nhiên phải độ họ trước.

Tiền thân của Phật là Tiên Nhân bị Ca Lợi Vương xẻ thịt, sau này vị Tiên Nhân thành Phật Thích Ca, Ca Lợi Vương là Kiều Trần Như thì được độ trước, nên cái nhân mới hết.

Khi kiến tánh thành Phật thì không phân biệt thiện ác, người có ân với mình thì cũng được độ, người có thù với mình (hại mình) cũng được độ, như tiền thân Kiều Trần Như hại tiền thân Phật cũng được ưu tiên độ trước.

Chánh pháp phải phá ngã chấp, nếu tu có ngã chấp thì không bao giờ kiến tánh được. Tu là phải quên thân mình, đừng coi nặng thân này, coi nặng thân này là ngã chấp. Như có người nói là xuất gia, đáng lẽ xuất gia là ra gia đình, tức là không có gia đình. Nhưng cũng phải lo cho gia đình, lo cho con cái, lo cho cháu chắc.

Nếu dùng tiền của Thí chủ 10 phương để lo cho gia đình thì sau này phải làm trâu làm ngựa trả nợ cho Thí chủ. Cho nên Phật giáo có bài kệ:
Hạt gạo của Thí chủ,
Lớn bằng núi Tu di.
Nếu không tu giải thoát,
Mang lông đội sừng trả.

Cho nên, một hạt gạo của Thí chủ không dễ gì ăn! Không phải mình cạo đầu mặc áo tu cho là có địa vị cao, mà để cho người ta kính lễ cúng dường, nếu mình thiếu tu thì không thể được.

Người tại gia có bổn phận của chồng, vợ, con cái. Người Tu sĩ có bổn phận của người Tu sĩ, Sa Di có bổn phận của Sa Di, Tỳ Kheo có bổn phận Tỳ Kheo, Sa Di Ni và Tỳ Kheo Ni đều cũng vậy.

Nếu không giữ đúng vai trò của mình, như kinh Lăng Nghiêm nói có 4 thứ địa ngục:

1- Hư tiêu Tín thí: Là những việc ăn, ở, đi,… đều của Thí chủ cúng dường cho mình, nếu mình không tu giải thoát theo đúng nghĩa chữ Phật, phải đầu thai trâu ngựa trả nợ cho Thí chủ sau khi chết. Cho nên, mình làm Tu Sĩ thọ nhận của 10 phương Thí chủ, mình phải tu giác ngộ, rồi giác ngộ cho người khác, mới đúng nghĩa chữ “Phật” là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.

2- Lạm nhận cung kính: Như người tại gia lạy người xuất gia, nếu người xuất gia không giữ đúng bổn phận của mình, tức là không có tu thì gọi là lạm nhận cung kính của người tại gia, cũng là tội địa ngục, phải đầu thai trâu ngựa để trả nợ cho Thí chủ.

3- Phỉ báng đại thừa.

4- Phá hoại luật nghi.

Hỏi:
Vừa rồi Sư Phụ nói chấp nghiệp sâu nặng là sai lầm. Vậy như thế nào?

Đáp:
Một Kỹ sư người Mỹ, khoa học và Phật pháp đều thông suốt. Kỹ sư nói với tôi: Con có nghiệp chướng phiền não nhiều quá, thầy dạy cho con trừ nghiệp chướng đó.

Tôi hỏi Kỹ sư: Nghiệp chướng của ông phải không?

Kỹ sư đáp: Phải.

Tôi hỏi: Nếu nghiệp chướng của ông thì ông biết nghiệp chướng từ đâu mà ra? Như tiền trong túi của ông thì ông biết tiền đó từ đâu mà có phải không?

Kỹ sư suy nghĩ trả lời không được. Tôi nói tiếp: Ông khỏi trả lời, tôi sẽ nói cho ông biết, nghiệp chướng của ông là do ông suy nghĩ mà ra. Tâm ông là năng suy nghĩ, nghiệp chướng là sở suy nghĩ. Năng thì không phải sở, sở thì không phải năng. Tâm của ông không có nghiệp chướng, tại ông suy nghĩ nên mới có sở sanh ra nghiệp chướng.

Tâm là danh từ mà ai cũng nói được, nhưng ai cũng không biết được. Kỹ sư giỏi khoa học, thông suốt giáo lý, nhưng đối với danh từ “tâm” còn mơ hồ. Tôi nói vậy Kỹ sư chưa hiểu được, vì tâm là một danh từ trống rỗng, không có hình thể, không có số lượng. Nên tôi phải nói cái khác, nói cái có hình thể có số lượng.

Hai chân của ông là năng đi, con đường gai gốc cứt sình là sở đi của hai chân, tại vì hai chân của ông ham giẫm trên con đường đó, rồi bị dính cứt sình, tự cho cứt sình của mình.

Kỹ sư hỏi tôi: Có cách nào để rửa sạch cứt sình đó?

Tôi nói: Khỏi cần, cái đó là sở thôi, hai chân của ông sạch đâu có cứt sình! Vì hai chân của ông ham đi con đường đó, mới bị dính cứt sình, cho cứt sình đó của ông, rồi nhờ tôi tìm cách rửa sạch cứt sình đó. Mặc kệ nó, chỉ cần hai chân không giẫm trên con đường đó thì đâu có bị dính! Vì nó là sở.

Tâm của ông cũng vậy, tâm của ông đâu có nghiệp chướng! Tại ông ham suy nghĩ nên mới có nghiệp chướng, nghiệp chướng đó là sở suy nghĩ.

Hỏi:
Câu “bổn lai vô nhất vật”, hiện tại con tham câu “chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật là cái gì?” Ý 2 câu này có giống nhau không ?

Đáp:
Tham thiền là dùng cái không biết để chấm dứt tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết. Không được tìm hiểu câu thoại đầu, tìm hiểu nghi tình. Tìm hiểu đáp án câu thoại là sai lầm lớn. Ba cái biết trên (tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ) hết, đến thoại đầu mới hy vọng kiến tánh. Nếu dùng cái biết tìm hiểu nghi tình thì vĩnh viễn không thể kiến tánh được.

Hỏi:
Đức Phật Thích Ca mới sanh ra nói: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”. Chúng con chưa rõ, xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
Phật Thích Ca mới sanh ra nói câu này là muốn hiển bày Tự tánh bất nhị. Thiền tông có một công án cũng ý này:

Tăng đem việc này hỏi Vân Môn. Vân Môn nói: “Nếu lúc ấy gặp, tôi sẽ đánh chết cho chó ăn”.

Tại sao? Phật Thích Ca nói “duy ngã độc tôn” là không có đối đãi, tức là bất nhị. Nếu có Phật thích Ca và Vân Môn khác nhau là nhị rồi. Đánh chết mà còn xác cũng là nhị, nên phải đem xác cho chó ăn thì không còn xác mới gọi là bất nhị. Cho nên, Vân Môn nói: “Đánh chết cho chó ăn” cũng là hiển thị nghĩa bất nhị.

Hỏi:
Hoàng hậu Ma Gia nơi vườn Lâm Tỳ Ni sanh ra Thái tử, có nơi gọi là đản sanh, có nơi nói là sanh bên hông, xin Sư Phụ từ bi khai thị?

Đáp:
Tự tánh bất nhị không thể dùng lời nói để diễn tả được. Thường thường dùng văn học cổ truyền của Ấn Độ để thí dụ diễn đạt. Nếu lấy đó để giải thích thì vô lý, giống như thần thoại, không nên hiểu theo ý của mình.

Lời của chư Phật chư Tổ là muốn mình ngộ, không phải muốn mình hiểu. Nếu mình không ngộ thì không hiểu, không hiểu thì sẽ phát nghi, giữ cái nghi đó sau này sẽ được ngộ.

Ngài Long Thọ nói “Tâm như hư không vô sở hữu” tức là trống rỗng thì không có nghĩa lý gì hết. Nhưng bộ não đem cái không đó hạn chế thành cái không của cái tách, cái bình, cái nhà,… thì muôn ngàn thứ nghĩa không khác biệt, vì có hạn chế nên mới sanh ra nghĩa lý, có nghĩa lý rồi mới có sự tranh cải.

Nếu không có cái không làm sao dựng cái nhà lên được? Làm sao có cái không của cái tách? Làm sao có cái không của cái bình? Cái không ở trong nhà và cái không ở ngoài nhà, cái không ở trong tách và cái không ở ngoài tách thì đâu có khác?

Nhưng đem cái không này không kia để hạn chế thành ra có khác. Cái dụng của mỗi thứ đều khác, nhưng nguồn gốc của nó thì không có khác, mà luôn nghĩa lý của nó không có nữa. Vì kiến lập rồi nên mới có nghĩa lý khác nhau.

Cho nên, Phật Thích Ca rất sợ người ta đuổi theo lời nói, vì vậy Phật nói “49 năm thuyết pháp, tôi chưa từng nói một chữ”. Kinh Kim Cang nói “ai nói Phật có thuyết pháp là phỉ báng Phật”. Vì không thể nói được, nếu nói được thì không phải rồi. Nói ra là để mình ngộ nhập, chứ không phải để hiểu nghĩa lý, nên tìm hiểu nghĩa lý là sai lầm, nghịch với ý Phật.

Hỏi:
A lại da thức là gì?

Đáp:
A lại da thức là thức thứ 8. Tiền ngũ căn (nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn) là đối với tiền ngũ trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc) mới có tiền ngũ thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức). Thứ thứ 6 là đối với pháp trần (không cần trước mắt), cũng như quá khứ, vị lai cách xa đều thấy được.

Thức thứ 7 gọi là mạt na thức, có 2 nhiệm vụ:
- Chấp thức thứ 8 là ta.

- Truyền tống thức là đem chủng tử thiện ác của thức thứ 6 vào thức thứ 8 và khi chủng tử thiện ác chín mùi từ thức thứ 8 giao cho thức thứ 6 cùng 5 thức trước thi hành.

Thức thứ 8 còn gọi là tạng thức, tức kho chứa chủng tử thiện ác. Đầu thai là thức thứ 8 đi, nhưng thức này bao gồm hết 7 thức kể trên, chứ không phải có 8 thức riêng biệt.

Bản thể là A lại da thức cũng là bản thể sanh mạng và bản thể vũ trụ. Vì bản thể này trống rỗng tức là vô sở hữu mà dung nạp và ứng dụng. Như hư không trống rỗng dung nạp mặt trời, mặt trăng, đất đai, nhà cửa,… bất cứ cái gì cũng đều nhờ cái trống rỗng này.

Hỏi:
Tâm viên ý mã ẩn dụ như thế nào?

Đáp:
Như con khỉ ở trên cây nhảy qua nhảy lại, con ngựa hay chạy nhảy, không bao giờ yên tịnh.

Tâm của mình cũng vậy, suốt ngày nổi niệm này sang niệm khác, cứ suy nghĩ liên tục không bao giờ ngưng, nên gọi là “tâm viên ý mã”. Trong Phật học gọi là nhất niệm vô minh, ban đêm hoạt động gọi là nhắm mắt chiêm bao, ban ngày hoạt động biến hiện ra mở mắt chiêm bao.

Như bây giờ tôi đang giảng và các vị đang nghe đều ở trong mở mắt chiêm bao là do tâm thức hoạt động biến hiện ra.

Hỏi:
Thế nào là giới tánh?

Đáp:
Giới luật nhà Phật chia ra làm 2 thứ: Tánh giới và giá giới.

- Những giới có dính líu đến sát, đạo, dâm, vọng gọi là tánh giới.

- Những giới thuộc về oai nghi gọi là giá giới. Ở trong giới luật Tỳ Kheo có 100 giới oai nghi thuộc về giá giới, giới này không có tội nhân quả mà có tội phạm giới.

Tại sao Phật muốn chế giới? Vì Phật muốn đem Phật pháp hoằng dương ở nước nào cũng hoan nghinh, nên phong tục tập quán của nước nào thì giới luật cũng có thể thuận theo.

Như phong tục ở Ấn độ không cho Tu sĩ đi làm ruộng, nếu Tu sĩ đi làm ruộng thì phạm giới, nên Tu sĩ phải đi khất thực để sống. Ở Trung Quốc, nếu Tu sĩ đi làm ruộng thì được hoan nghinh, còn đi khất thực thì người ta chê là “con sâu ăn gạo”.

Cho nên, Tu sĩ ở Trung Quốc làm ruộng là giữ giới, ở Ấn Độ là phạm giới, tức là theo phong tục truyền thống của địa phương, nên gọi là giá giới. Để Phật giáo khỏi bị phê bình là không tốt, giá giới có thể tùy theo địa phương mà thay đổi.

Tánh giới thì không thể thay đổi, tánh giới là có cái phạm pháp luật nhà nước, có tội nhân quả. Như sát, đạo, dâm, vọng thì bất cứ nước nào cũng có pháp luật để cấm.

Mặc dầu, những giới mà nhà nước không cấm, nhưng có tội nhân quả. Như giới sát, nếu giết hại con người thì cấm, còn giết hại súc sanh thì không cấm, nhưng có tội nhân quả, tức là giết một mạng phải trả một mạng, ăn cục thịt phải trả lại cục thịt.

Pháp giới tánh thì lại khác, pháp giới là bao gồm tất cả vũ trụ. Chữ Hán là tùy theo chỗ hợp danh từ này thì nghĩa thế này, với danh từ kia là nghĩa thế kia, danh từ có nghĩa khác nhau. Như thường nói tánh và tướng khác nhau, chưa giác ngộ thì khác, khi giác ngộ rồi thì tánh và tướng chẳng khác, gọi là bất nhị. Cho nên, nguồn gốc vạn vật là thật tướng. Nói là Tự tánh bất nhị thì thật tướng cũng là bất nhị vậy.

Hỏi:
Vừa nhìn vừa hỏi song song với nhau. Vậy nhìn vào câu hỏi hay nhìn chỗ không biết mới đúng?

Đáp:
Câu thoại đầu là kích thích niệm không biết, không phải nhìn vào câu thoại đầu; nhưng hỏi với nhìn phải cùng một lượt, không có trước sau, phải một tâm hỏi và một tâm nhìn; hỏi và nhìn cùng một tâm đồng thời 2 thứ, 2 thứ không gián đoạn đều một lượt.

Như mình muốn 3 thứ một lượt cũng được. Ví dụ cái đồng hồ này, nhìn kim giờ, kim phút và kim giây và 3 kim này chạy không gián đoạn.

Hỏi:
Xin Sư Phụ kể lại người bán đậu hủ đi 3 vòng trong Thiền Đường thì được lợi ích, lúc chết không đầu thai làm con chó, mà được tăng thêm 30 năm nữa?

Đáp:
Phật nói: “Tất cả đều do tâm tạo”, Phật pháp muốn hiển bày cái tâm, tâm ấy là chơn tâm, không phải bộ não. Người ta nói tâm là bộ não, biết tìm hiểu, biết suy nghĩ, biết ghi nhớ. Như vậy không phải là chơn tâm, mà là vọng tâm che khuất chơn tâm.

Chơn tâm là không hình thể, không số lượng, không phải vật chất. Vọng tâm là bộ não, hệ thống thần kinh đều là vật chất. Vật chất có thể hoại diệt. Còn phi vật chất, như 8 thức thì không thể hoại diệt.

Tham thiền được tâm lực mạnh, những thứ che khuất bị dẹp thì chơn tâm hiện ra. Sức chơn tâm rất mạnh không bị không gian và thời gian hạn chế.

Người thiền định đến mức nào thì có thể biết được quá khứ, biết được vị lai. Ông bán đậu hủ thiền định chưa đến mức đó, nhưng cũng hiện ra một chút dụng. Các nghiệp ác của ông tạo yếu thì ẩn lại sau, các nghiệp thiện của ông tạo mạnh hơn thì hiện ra trước. Không phải ông đó đi 3 vòng mà được lợi ích.

Như Kim Bích Phong chỉ có 1 tuần lễ ra sức tham thiền thì quỷ sứ không thấy được ông. Tham thiền được tâm lực mạnh thì có thể sửa đổi nghiệp quả của mình, nên đời sống cũng được sửa đổi.

Hỏi:
Kính xin Hòa thượng giảng chữ “tri” của Ngài Huyền Giác?

Đáp:
Chữ “tri” của Ngài Huyền Giác là cái tri của Phật tánh, tri của Phật tánh thì không thể kiến lập, vì vốn sẵn có đã kiến lập rồi. Nếu có kiến lập thì thành 2 cái tri. Một người chỉ một cái tri, nếu kiến lập thành 2 cái tri, nên Thiền tông gọi là “đầu mọc thêm đầu”.

Bây giờ mình có một cái đầu thì đủ dùng, nếu ở trên đầu mọc thêm một cái đầu nữa thì khổ lắm, phải mời bác sĩ cắt bỏ mới được, cho nên tri không thể kiến lập.

Bốn bài kệ của Ngài Huyền Giác nói về chữ “tri”:
1- Bài kệ thứ nhất là kiến lập sở tri tịch lặng, bình thường người ta tu đến thanh tịnh cho là cao, nhưng kiến lập sở tri biết tịch lặng thành chướng ngại, không hiện ra cái dụng hoạt bát vạn năng của bản tri (vô duyên tri), vì có sở tri thì phải có năng tri. Như tay cầm như ý thì trụ nơi ngoại cảnh, đánh mất sự hoạt bát vạn năng của tay, tay chẳng cầm cây như ý thì tay muốn lấy gì cũng được, hễ tay cầm cây như ý thì muốn lấy gì cũng chẳng được.

2- Bài kệ thứ hai là tiến thêm một bước, dù chẳng lập sở tri nhưng biết mình có năng tri vẫn là kiến lập sự tri, nên chẳng phải vô duyên tri. Như tay chẳng cầm vật bên ngoài mà tự làm nắm tay (tức là trụ nơi cái tri của tự mình kiến lập) thì mất hết sự dụng hoạt bát vạn năng của cánh tay, nên chẳng thể cầm lấy đồ vật nào cả.

3- Vậy chẳng biết ngoại cảnh cũng chẳng tự có biết, người ta thường cho như thế là lọt vào vô tri như gỗ đá chẳng biết gì cả, nên có bài kệ thứ ba: Vì tự tánh rõ ràng, chẳng đồng như gỗ đá. Thế thì làm sao chứng minh được?

4- Nên có bài kệ thứ tư dùng cánh tay để chứng tỏ: Như tay chẳng cầm vật ngoài, cũng tự làm nắm tay, chẳng phải là không tay, vì tay vẫn an nhiên chẳng hề bị mất, nên chẳng đồng như sừng thỏ, vì sừng thỏ chỉ có tên gọi mà chẳng có vật thật vậy.

Ngài Huyền Giác luôn cả cái tri cũng không kiến lập, nhưng người tham thiền hay ham thích cái biết, dùng vọng tâm để tìm hiểu; dùng vọng tâm là mây đen che khuất, Phật dạy mình dẹp hết che khuất, lại không chịu dẹp mà càng tăng thêm. Ngài Huyền Giác dạy mình đừng kiến lập cái biết, vì cái biết chơn tâm sẵn có, chỉ cần dẹp những che khuất thì cái biết chơn tâm hiện ra dùng.

Nhưng bây giờ người ta khó tin, khi đã sanh ra thì cha mẹ dạy mình chấp thật rồi, tin cái biết vọng tâm. Vào trường thầy cô cũng dạy mình vậy. Bổng nhiên sửa lại, nghịch với thói quen của mình, nên rất khó. Cho nên, Phật dạy lấy cái “không biết” của bộ não để chấm dứt cái “biết” của bộ não, tức là ngưng hoạt động của bộ não.

Hỏi:
Phật cao nhất xích, ma cao nhất trượng. Nghĩa này như thế nào?

Đáp:
Thuốc là dùng để trị bệnh; Phật pháp là trị bệnh chấp ngã, nhưng người ta không biết, như học giáo lý, học sơ cấp rồi lên trung cấp, lên cao đẳng; theo chánh pháp thì phải phá ngã chấp mới đúng, thực tế thì không phải vậy.

Lúc học sơ cấp thì cái ngã còn nhỏ, học hết trung cấp thì cái ngã lớn hơn, đến cao đẳng thì ngã càng lớn nữa cho mình biết nhiều. Chỗ này kinh Viên Giác, Phật có chỉ ra: Những người cho mình thuyết pháp tứ là thuyết cái ngã tướng, không phải thuyết pháp Niết Bàn. (Ở văn phòng 2 có đọc. Trang 333).
-----------------------------------------------------------

Tức là thông suốt giáo lý mà tăng cường ngã chấp, ngã chấp đó là ma. Cho nên, Phật cao nhất xích, ma cao nhất trượng là vậy. Cho ta thuyết pháp, các ngươi là người nghe pháp, đó là cái ngã.

Hiểu hết giáo lý của Phật, rồi cho ta là cao nhất, ta biết còn các ngươi không biết, đó chính là cái ngã, ngã là ma, vì thế không ngộ được bản giác trong sạch.

Vì lời Phật dạy đâu phải của mình tu chứng! Nhưng rồi cho là của mình, mình thông suốt giáo lý, thuyết pháp độ sanh, lại chấp vào đó, chính là “ma cao nhất trượng”.

Hỏi:
Từ vô thỉ, Đạo cùng một cội nguồn. Nay ta theo đạo Phật, ta có thể tìm thêm kiến thức cho ta để chứng ngộ không? Vậy có phải ngay đó tự đến? Tìm ai? Tìm ở đâu?

Đáp:
Câu hỏi này đã sai lầm rồi, Phật đã nói vô thỉ thì không có cội nguồn, có cội nguồn tức là có thỉ (có bắt đầu). Phật đã nói trắng ra là không có sự bắt đầu, cũng là nghĩa vô sanh tức là không có sanh khởi. Nếu có sanh khởi thì mới có nguồn, đã không có sanh khởi làm sao có nguồn! Có nguồn thì mới có bắt đầu. Nhưng thực tế thì không thể bắt đầu. Cho nên, người chứng quả là ngộ pháp vô sanh, cũng là chứng vô sanh pháp nhẫn.

Nếu bắt đầu thì bắt đầu từ chỗ nào? Theo mình hiểu thì phải 2 chỗ bắt đầu: Chỗ có và chỗ không có.

-Nói bắt đầu từ chỗ có thì không gọi là bắt đầu. Tại sao? Vì cái có kia đã bắt đầu rồi.

-Bắt đầu chỗ không có là vô lý. Tại sao? Vì bắt đầu chỗ không có thì không sanh ra đủ thứ. Như cây lý khỏi cần cây lý sanh, cây đào khỏi cần cây đào sanh, con người khỏi cần con người sanh, con dê khỏi cần con dê sanh. Nếu vậy thì loạn hết rồi, nhưng thực tế thì không phải vậy. Con người thì phải con người sanh, con dê thì phải con dê sanh, cây đào thì phải cây đào sanh, cây lý thì phải cây lý sanh, chứ không phải từ chỗ không có mà sanh được.

Không cần tinh trùng con dê đực cũng có thể làm ra con dê được, tuy không có tinh trùng nhưng phải có tế bào của con dê đực; tế bào của con dê đực là chủng tử thức thứ 8, tức là thức thứ 8 làm cơ nhân, đem tế bào của con dê đực chích vào trứng con dê cái, rồi ở trong tử cung con dê cái sanh ra con dê con. Đâu phải chỗ không có mà sanh ra được? Nếu chỗ không có mà sanh được thì loạn hết! Vì tất cả không có sự bắt đầu, không có sanh khởi, vậy làm sao có nguồn?

Câu “từ vô thỉ đến nay” đã là bệnh. Vô thỉ làm sao có đến nay được? Phải hữu thỉ mới có đến nay, phải bắt đầu kiếp nào rồi đến kiếp nào. Vô thỉ thì không có lúc bắt đầu, sự thật câu nói của thế gian đều là bệnh, vì ở trong tương đối. Như nói kiến tánh, nếu chấp 2 chữ “kiến tánh” cũng là bệnh. Vì Tự tánh không có sở kiến, nếu Tự tánh có sở kiến thì có năng kiến rồi, có năng sở là nhị. Tự tánh là bất nhị không có năng sở.

Kinh Viên Giác nói: “Biết có sở chứng thanh tịnh Niết Bàn cũng là ngã tướng”. Người hỏi này có ngã tướng quá nặng không thể cứu nổi. Chánh pháp Phật pháp thì phải phá ngã chấp. Tứ tướng là ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng (kinh Kim cang), kinh Viên Giác gọi là thọ mạng tướng. Bốn thứ tướng này là cảm giác sai lầm của vọng tâm. Như nói chứng quả là ta chứng, đó là ngã tướng, nói thuyết pháp là thuyết cái bệnh ngã tướng, không phải thuyết pháp Niết Bàn.

Hỏi:
Cái biết sẵn có, có thể sáng chế như cái biết của các khoa học gia không?

Đáp:
Không thể kiến lập cái biết, nếu có kiến lập thì giống như trên đầu mọc thêm đầu, làm chướng ngại cái đầu chính, cần bác sĩ cắt bỏ mới được.

Hỏi:
Tánh hung ác, tánh không chân thật, tánh tham lam,… Vậy tánh nào là chân tánh của các tánh trên và có khác với tánh thấy tánh nghe không?

Đáp:
Tất cả đều là vọng, kinh Lăng Nghiêm nói: “Chơn với vọng là 2 thứ vọng”, phàm có tương đối đều là vọng, hễ có dùng lục căn nhận biết đều là vọng.

Hỏi:
Nói có tâm độc ác, có tâm tham, có tâm thiện. Các tâm ấy đều là vọng, trước không khởi, đó có phải là chơn không?

Đáp:
Chơn với vọng là hai thứ vọng, còn thực tế thì không có đối đãi, không có chơn với giả, không có chơn với vọng, gọi là Tự tánh bất nhị hay Thật tướng vô tướng, không phải chấp vào một bên mà nói vô tướng. Tức là hữu tướng cũng vô và vô tướng cũng vô, Thật tướng là phá vô tướng và hữu tướng. Nếu chấp thật cái hữu tướng là biên kiến, chấp thật vô tướng cũng là biên kiến.

Người hỏi này thì Phật không thể giáo hóa nổi, vì có ngã chấp quá nặng.

Hỏi:
Tám thức chuyển thành tứ trí chỉ là tên gọi chẳng chân thật, nghĩa là chỉ chuyển cái tên mà cái thể chẳng thể chuyển. Vậy bản lai diện mục của vô thỉ vô minh và bản lai Phật tánh giống nhau không?

Đáp:
Chuyển thức thành tứ trí của Pháp Bảo Đàn có 8 câu kệ:

Đại viên cảnh trí tánh thanh tịnh,
Bình đẳng tánh trí tâm chẳng bệnh.
Diệu quan sát trí chẳng tác ý,
(Sự thấy của Diệu quan sát trí chẳng cần tác ý)
Thành sở tác trí đồng viên cảnh.
Ngũ, bát, lục, thất quả nhân chuyển,
Chỉ dùng tên gọi chẳng thật tánh.
Nếu ngay nơi chuyển chẳng dính mắc,
Ở chỗ náo động cũng đại định.

Lược giải:
1. Đại viên cảnh trí tánh thanh tịnh: Thức thứ 8 chuyển thành trí, như gương tròn chiếu soi, phổ chiếu vạn pháp là trí vốn thanh tịnh của bản tánh.

2. Bình đẳng tánh trí tâm chẳng bệnh: Thức thứ 7 chấp thức thứ 8 là ta (thức thứ 8 là bản thể tất cả pháp) thành ô nhiểm, nay chuyển thành “bình đẳng tánh trí”, ảnh hưởng thức thứ 6 chẳng khởi phân biệt tưởng thì tâm chẳng bệnh.

3. Diệu quan sát trí chẳng tác ý: Do sự chấp ngã của thức thứ 7 khiến thức thứ 6 sanh khởi vọng tưởng phân biệt, khi chuyển thành Diệu quan sát trí rồi, dù thấy mà chẳng có tác ý phân biệt, nên gọi là chẳng tác ý.
4. Thành sở tác trí đồng viên cảnh: Tiền ngũ thức duyên theo sự lãnh đạo của thức thứ 6 mà khởi vọng tưởng phân biệt, khi chuyển thành sở tác trí rồi, tức đồng như Đại viên cảnh trí, dù dùng nhưng chẳng tác ý phân biệt.

5. Ngũ, bát, lục, thất quả nhân chuyển: Nghĩa là lục và thất trong nhân chuyển, thức thứ 6 là nhân tiệm tu của Giáo môn, thức thứ 7 là nhân đốn ngộ của Thiền môn. Ngũ và bát là trên quả chuyển, vì vọng chấp của thức thứ 7 chuyển thì ngũ và bát cũng chuyển theo.

6. Chỉ dùng tên gọi chẳng thật tánh: Nghĩa là 8 thức kể trên chuyển thành tứ trí chỉ là tên gọi chẳng có tánh thật, nghĩa là chỉ chuyển cái tên, chẳng thể chuyển cái thể vậy.

7. Nếu ngay nơi chuyển chẳng dính mắc: Nghĩa là ở ngay nơi chuyển mà chẳng chấp trước, chẳng chấp thật.

8. Ở chỗ náo động cũng đại định: Nghĩa là ở chỗ náo động cách mấy cũng đều đại định, chẳng có nhập định và xuất định tức là vĩnh viễn ở trong định.
Đây là chuyển 8 thức thành 4 trí.

Hỏi:
Như Lai thiền dùng cái “biết” để tu, tu khác với Tổ Sư thiền như thế nào?

Đáp:
Như Lai thiền là dùng cái “biết” để tu, còn Tổ Sư thiền dùng cái “không biết” để tu. Bộ não của mình gồm có 2 mặt: Mặt biết và mặt không biết. Dùng mặt biết để tu là Như Lai thiền, Như Lai thiền của Phật dạy, còn dùng cái biết của tà ma ngoại đạo thì không phải.

Dùng cái không biết cũng là Phật Thích Ca dạy, do Phật Thích Ca truyền xuống cho Ma Ha Ca Diếp, rồi Ma Ha Ca Diếp truyền cho A Nan, A Nan truyền cho Thương Na Hòa Tu,… từ Tổ từ Tổ truyền xuống, nên gọi là Tổ Sư thiền. Thiền này chỉ hỏi và nhìn, hỏi là kích thích niệm không biết, nhìn là giữ niệm không biết được kéo dài.

Tu Như Lai thiền gồm có 52 cấp (Thập Tín,Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác và Diệu Giác). Tổ Sư thiền từ địa vị phàm phu tu chứng Phật quả, không qua giai cấp nào.

Hỏi:
Ban đêm tham Tổ Sư thiền, ban ngày học giáo lý. Vậy con đi 2 cái song song được không?

Đáp:
-Biết và không biết có nghịch nhau không?

- Có nghịch nhau.

- Nếu có nghịch nhau làm sao song song được? Bây giờ cô học giáo lý Tiểu thừa, Trung thừa hay Đại thừa?

- Con học sơ cấp Phật học năm thứ hai ở chùa Tòng Lâm.

Cô nói đại khái sơ cấp là gì?

- Bài đầu tiên là vô thường, kế đến nghiệp và nhân quả, luân hồi, thiểu dục tri túc, đó là năm thứ hai của con.

- Theo cô nói thì gần như Tiểu thừa, nhưng phải căn cứ kinh nào? Vì giáo môn phải căn cứ lời kinh.

- Bây giờ có lẽ là kinh Tiểu thừa, nhưng ở chùa con có chương trình Cao đẳng Phật học thì học Diệu Pháp Liên Hoa.

- Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là kinh Đại thừa, thiền của Đại thừa thì khác thiền của Tiểu thừa và Trung thừa. Thiền Đại thừa gọi là Bồ Tát thừa. Thiền Trung thừa gọi là Duyên Giác thừa. Thiền Tiểu thừa gọi là Thanh Văn thừa.

Thiền Thanh văn thừa là Ngũ Đình Tâm Quán có 5 thứ thiền quán: Sổ Tức Quán, Bất Tịnh Quán, Từ Bi Quán, Lục Thức Quán, Nhân Duyên Quán. Những thiền quán này là đình chỉ cái tâm.

Cô học Tiểu thừa mà không biết Tiểu thừa thiền là gì! Còn Trung thừa là Duyên Giác, thiền của thừa Duyên Giác là Thập Nhị Nhân Duyên là từ vô minh đến lão tử (12 thứ nhân duyên). Trong Đại Thừa Tuyệt Đối Luận có giải thích 4 thừa.

Ba thứ thiền quán ghi trong kinh Lăng Nghiêm, nhưng chỉ dịch âm không có dịch nghĩa, gọi là Sa ma tha, Tam ma bát đề, Thiền na.

Kinh Viên Giác giải thích 3 thứ thiền:

-Sa ma tha là thiền quán cực tịnh, thí dụ như gương soi các tướng; bất cứ người nào đến gần trước gương thì nó chiếu soi rõ ràng, nhưng nó không lay động.

-Tam ma bát đề là biến hóa mình không thể thấy được, nó đang biến hóa, thí dụ lúa mạ dần dần tăng trưởng, như mình đem hạt lúa bỏ vào đất thì mọc thành cây mạ, không thấy nó tăng trưởng, nhưng nó đang tăng trưởng trong từng sát na.

-Thiền na thí dụ tiếng ẩn trong chuông trống, như chuông trống đâu có tiếng, nhưng trong đó có tiếng, đánh nhẹ ra tiếng nhỏ, đánh mạnh ra tiếng lớn, mà tiếng không bị hạn chế trong chuông trống, nó vượt ra ngoài xa tùy theo mức độ đánh.

Tông Thiên Thai Trung Quốc có 3 thứ Chỉ quán thiền:

-Sa ma tha giống như Không quán của tông Thiên Thai.

-Tam ma bát đề giống như Giả quán của tông Thiên Thai.

-Thiền na giống như Trung quán của tông Thiên Thai.

Nhưng chỉ giống thôi, chứ không phải hoàn toàn không có khác! 4 tông thiền quán Đại thừa của Trung Quốc là : Thiên Thai, Hiền Thủ, Tam Luận, Duy Thức. Mỗi thừa đều có thiền quán riêng biệt, thiền quán đó không ngoài Sa ma tha, Tam ma bát đề, Thiền na. Nhưng mỗi mỗi khác, không phải hoàn toàn giống nhau hết, cuối cùng có một cái giống nhau là “ từ nghi đến ngộ”.

Tổ Sư thiền là bắt đầu từ nghi rồi đến ngộ. Hành giả mới bắt đầu tham thiền, tôi đã dạy hỏi và nhìn tức là giữ cái nghi (không hiểu không biết) để đưa đến ngộ.

Tông Thiên Thai mới trải qua rất lâu đến cùng tột rồi mới phát nghi. Như ban đầu thì quán giả, quán mãi thấy không thật giả, rồi đến quán không, nhưng không thì không phải thật không, chẳng phải giả chẳng phải không thì quán trung.

Nhưng giả với không là hai đầu, hai đầu không có làm sao quán trung được? Tức là hai đầu không có làm sao có chính giữa được? Cho nên mới phát nghi “không phải giả, không phải không, không phải trung là cái gì?” Ấy là phát nghi rồi, phát nghi là đến thể chơn chỉ, gọi là tam chỉ tam quán.

Ban đầu là hệ duyên chỉ, tùy duyên chỉ đến thể chơn chỉ. Thể chơn chỉ là thể cứu Chơn Như bằng tham Tổ Sư thiền, nhưng đến chỗ cùng tột mới tự nhiên phát nghi. Vì cái gì đều cũng không phải thì tự nhiên phát nghi: Tại sao? Là cái gì vậy? Là cái gì mới phải?

Bất cứ tông nào cũng vậy, như tông Hiền Thủ gọi là Pháp Giới Quán thiền, gồm có: Lý pháp giới, lý sự vô ngại pháp giới, rồi đến sự sự vô ngại pháp giới, mới phát nghi giống như tông Thiên Thai vậy.

Vì có nghi mới có ngộ, cho nên cuối cùng các pháp môn đều phải phát nghi, như tông Tịnh Độ cũng vậy.

Có một số người không nhìn nhận tu Tịnh Độ là thiền, tất cả pháp môn của Phật dạy đều là Thiền, 3 cách tu Tịnh Độ là thiền, có số người tu Tịnh Độ không biết. 3 cách tu của Tịnh Độ là:

1-Thật tướng niệm Phật giống như Tổ Sư thiền.

2-Quán tưởng niệm Phật là thiền quán trong kinh Quán vô Lượng Thọ là kinh của Tịnh Độ. Tịnh Độ chỉ có 3 thứ kinh: Kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ và A Di Đà (tiểu A Di Đà, đại A Di Đà). Phật có dạy 16 pháp thiền quán ghi ở trong kinh Quán Vô Lượng Thọ.

Nhưng sao số người tu Tịnh Độ không nhìn nhận Tịnh Độ có thiền? Tôi cũng không hiểu nữa! Mà lại những người ấy bài xích thiền! Vì bất cứ pháp môn nào đều phải có thiền mới gọi là tu. Nhưng thiền có đủ thứ, tà ma ngoại đạo cũng có thiền vậy.

3-Trì danh niệm Phật là muốn đến chỗ “nhất tâm bất loạn”, nếu đến nhất tâm bất loạn là thiền rồi. Vì nhất tâm bất loạn là thiền định, mà tại sao số người đó phải nhờ tha lực, còn thiền thì phải nhờ tự lực? Họ không chịu tự lực, sự thật đâu có ai tu giùm! Phải tự lực tu chứ không phải nhờ người khác hay Phật A Di Đà tu giùm cho mình.

Họ còn không biết đại nguyện của kinh A Di Đà là mình sanh về cõi cực lạc rồi, Phật A Di Đà mới dạy pháp Tổ Sư thiền là “từ nghi đến ngộ”. Bây giờ các vị đồng tham chưa chết mà đã tham Tổ Sư thiền rồi.

Hỏi:
Diệu dụng công phu Tổ Sư thiền và làm thế nào hành giả đi đúng đường lối Tổ Sư thiền?

Đáp:
Chỉ cần hỏi và nhìn, hỏi là kích thích niệm không biết gọi là tham thoại đầu, khán là nhìn chỗ không biết, nói chỗ không biết nhưng không có chỗ, vì có chỗ là biết rồi. Không có chỗ là không có mục tiêu để nhìn, nên nhìn trống rỗng thì không biết gì, chỉ cần giữ cái niệm không biết được kéo dài (nghi tình). Tham thoại đầu và khán thoại đầu là 2 cái đi song song, đó là công phu của Tổ Sư thiền.

Đoạn này diễn tả hiện ra cái dụng:

-Chẳng thể thấy mà hợp logic kia, cần phải nhờ tâm lực cá nhân của chúng ta sẵn có chứng minh, khi chúng ta y theo pháp thiền trực tiếp (Tổ Sư thiền) do Phật Thích Ca truyền dạy, thực hành đến trình độ N tức là đến giai đoạn tự động hóa được một khoảng thời gian khiến 3 thứ biết: Tìm hiểu, tư duy, ghi nhớ được tạm ngưng. Nghĩa là bộ não được ngưng hoạt động thì phát huy được công năng sẵn có, chẳng dùng bộ não mà hoàn thành công tác bộ não chẳng thể làm. Khi ngưng hoạt động của bộ não càng lâu thì độ thiền càng sâu có công năng phát ra càng lớn.

Tiểu thừa cũng ngưng hoạt động của bộ não, tức là dùng Ngũ Đình Tâm Quán để đình chỉ Tâm, Trung thừa và Đại thừa cũng vậy. Nhưng Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa là dùng cái biết để tu, còn Tổ Sư thiền là dùng cái không biết để tu.

Hỏi:
Lục Diệu Pháp Môn có phải tu bước đầu không?

Đáp:
Lục Diệu Pháp Môn của thừa nào? Tiểu thừa cũng có Lục Diệu. Nếu là Tổ Sư thiền thì khỏi cần Diệu, chỉ cần hỏi và nhìn tức là hỏi câu thoại đầu cảm thấy không biết và không đi tìm hiểu là đủ rồi. Khi nào kiến tánh rồi tự nhiên sẽ Diệu, nếu chưa kiến tánh có muốn Diệu cũng không được.

Hỏi:
Hiện tượng cầu hồn cầu cơ của người dân tộc đối với trong Phật pháp phải giải thích như thế nào?

Đáp:
Trong Phật pháp thì Phật cấm những mê tín dị đoan, cầu hồn, cầu cơ. Nếu dùng những thứ đó để sanh sống thì Phật pháp gọi là tà mạng thực, tức là dùng pháp tà để kiếm ăn.

Hỏi:
Hành giả tham Tổ Sư thiền có vượt qua 50 thứ ma ngũ ấm không?

Đáp:
Tại có chấp ngũ ấm là ta nên mới có ma ngũ ấm. Tổ Sư thiền điều thứ nhất trong 10 điều của Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền là phá ngã chấp. Tức là không có ta, vì không có ta nên vô sở đắc, vô sở cầu và vô sở sợ. Ta còn không có thì ngũ ấm cũng không có, ngũ ấm còn không có làm sao có ngũ ấm ma?

Hỏi:
Con người có trí khôn hơn các loài động vật, tu hành sẽ mau thành Phật. Loài động vật nhỏ bé như con kiến, con muỗi, cua, ốc, côn trùng,… với ý thức nhỏ bé có thành Phật không?

Đáp:
Thành Phật không phải nhờ trí khôn. Chứng Đạo Ca nói: “Ngoại đạo thông minh chẳng trí huệ”. Súc sanh muốn thành Phật phải đầu thai thành người, tức là ngoài con người và các ngoại đạo không thể thành Phật. Chỉ có người tu theo chánh pháp của Phật mới thành Phật.

Bên ngoài nhìn thấy hành giả tham thiền giống như khờ ngốc, nếu thật sự hành giả tham thiền đến giai đoạn khờ ngốc thì mới hy vọng thành Phật. Vì giữ được công phu tốt nên người ta nói mình như khờ ngốc. Vì vậy không cần phải nhờ trí khôn để tu thành Phật.

Hỏi:
Pháp thí có thể đổi được tài thí không? Ví dụ có người cho mình nhiều đồ vật, rồi ta đem pháp mà nói cho họ nghe hoặc đem kinh tặng cho họ. Như vậy có thể đổi được đồ vật của họ cho mình không?

Đáp:
Người hỏi không biết pháp thí là gì! Nếu chấp có pháp để thí cho người thì người đó đã có ngã tướng. Kinh Viên Giác nói: “Cho ta có thuyết pháp là ngã tướng”, mà có sở đắc có sở chứng cũng là ngã tướng.

Ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng là từ thấp lên cao. Chứng đến thanh tịnh Niết Bàn cũng còn ngã tướng, vì không tham luyến ngũ uẩn ngã, nhưng tham luyến Niết Bàn ngã, cho Niết Bàn là ta chứng, nên vẫn còn ngã.

Tại có ngã nên mới thấy có người để ta thí pháp, ta thấy có pháp để thí cho người là còn ngã, chứ không phải pháp Niết Bàn.

Hỏi:
Con nhặt được của rơi, rồi đem cho người bạn dùng. Vậy nhân quả đó ai chịu?

Đáp:
Nhân quả là “ai làm nấy chịu”, như ăn cơm là “ai ăn nấy no”, không có người khác ăn no giùm cho mình được! Người nào làm người ấy chịu, không phải con làm mà mẹ chịu, không phải mẹ làm con chịu.

Hỏi:
Tiểu thừa thiền và Đại thừa thiền có phải thuộc về Như Lai thiền không?

Đáp:
Những pháp thiền do Phật dạy dùng cái biết để tu là Như Lai thiền, như phạm vi thiền thì khác.

Tiểu thừa thiền là muốn dứt lục căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý). Vì Tiểu thừa cho rằng lục căn tiếp xúc lục trần sanh ra phiền não, nên phải dứt lục căn mới hết phiền não. Lục trần là vật chất, theo triết lý gọi là Duy Vật Luận.

Trung thừa biết dứt lục căn là không đúng, vì muốn dứt lục căn thì phải giữ một niệm, chính một niệm đó gọi là nhất niệm vô minh, cũng từ đó sanh ra phiền não. Nhưng nhất niệm đối với pháp trần thì ở trong nội tâm, nên triết lý gọi là Duy Tâm Luận.

Đại thừa không dứt lục căn, không dứt nhất niệm vô minh, chỉ cần phá vô thỉ vô minh (căn bản vô minh).

Ngài Nguyệt Khê đã kiến tánh tịch năm 1965, có thí dụ: Nhất niệm vô minh và lục căn là vũ khí và binh lính của cướp, vô thỉ vô minh là vua cướp; Đại thừa là dùng vũ khí và binh lính của cướp để bao vây bắt vua cướp.

Lục căn như vũ khí của cướp, nhất niệm là binh lính của cướp. Nếu tịch thu hết vũ khí, nhưng cũng có thể sắm lại vũ khí, hay giết hết binh lính, nhưng vua cướp còn thì có thể chiêu binh mãi mã lại.

Cho nên, Đại thừa không tịch thu vũ khí và không giết lính của cướp, mà lại dùng vũ khí và binh lính của cướp để bao vây bắt vua cướp. Vua cướp bắt được rồi thì vũ khí và binh lính của cướp đều trở thành tài sản và lính chính quy của nhà nước, khỏi cần giết chết binh lính. Đó là pháp thiền Đại thừa.

Tiểu thừa gọi là Duy Vật, Trung thừa gọi là Duy Tâm, Đại thừa gọi là Tâm Vật hợp một, Tổ Sư thiền gọi là Tối Thượng Thừa, không phải tam thừa, còn gọi là Phi tâm phi vật (chẳng phải tâm chẳng phải vật), không có gì hết, trống rỗng.

Hỏi:
Có người suốt đời làm thiện, khi cuối đời gặp ác duyên. Vậy việc này như thế nào?

Đáp:
Có người nói: suốt đời không có làm ác, sao tôi bị tai nạn đến hoài?

Tôi hỏi: Ông có ăn cá thịt không? Có giết kiến, giết muỗi không?

Người ấy không trả lời được, vì một bửa cơm đã ăn biết bao nhiêu con cá con tép rồi? Vậy từ nhỏ đến lớn đã ăn hết bao nhiêu chúng sanh? Giết hại hết bao nhiêu chúng sanh? Làm sao nói không có làm ác? Theo nhân quả giết một mạng phải trả một mạng, ăn cục thịt phải trả cục thịt.

Như Lương Võ Đế đã làm việc thiện, nhưng cũng có làm ác, thành ra làm ác thì phải chịu khổ báo, làm thiện thì được phước báo, 2 việc này thì không thể trừ với nhau được. Mà lại nhân quả là tam thế, như kiếp trước làm thì kiếp này phải chịu, kiếp này làm thì kiếp sau phải chịu, vì mình không thấy chứ không phải là không có nhân quả.

Hỏi:
Thế nào là đới nghiệp vãng sanh?

Đáp:
Có nghiệp nhân phải có nghiệp quả, nhân quả rõ ràng. Nếu muốn được đới nghiệp vãng sanh, mặc dầu nghiệp nhân đã gieo mà được vãng sanh, tức là quả báo kiếp này khỏi đến, nhưng phải có cái nguyện. Tịnh Độ có đại nguyện và tiểu nguyện.

Nếu tiểu nguyện cầu một mình mà được vãng sanh thì không hợp nhân quả, vì ăn cục thịt phải trả cục thịt, giết một mạng phải trả một mạng, nên phải đi đầu thai để trả nợ, chứ không được vãng sanh.

Còn đại nguyện như mình thiếu nợ mà không có tiền để trả, thiếu tiền rất nhiều, nhưng mình có trương mục ngân hàng, tiền ở ngân hàng có ít không đủ trả nợ, mình có thể ký kỳ phiếu là 10, 20 năm sau trả. Người tu Tịnh Độ được vãng sanh rồi mới trả, việc ấy giống như kỳ phiếu cũng gọi là đại nguyện.

Phát đại nguyện là cùng tất cả chúng sanh đều được vãng sanh, phải thực hành đại nguyện là coi chúng sanh bình đẳng, khi đã được vãng sanh rồi thành Phật thì những chúng sanh chủ nợ thịt chủ nợ mạng được ưu tiên độ trước. Như mình mỗi ngày gởi tiền vào ngân hàng thì sau này người ta cầm kỳ phiếu đến ngân hàng mới lãnh được tiền.

Phát đại nguyện mà không thực hành đại nguyện của mình phát, còn ăn thịt chúng sanh, giết chết chúng sanh, tức là mỗi ngày không gởi tiền vô ngân hàng thì sau này người ta đến ngân hàng lãnh không có tiền, như thế là ngân phiếu giả, ở thế gian phải bị tù, làm sao có công đức để được vãng sanh? Vì chỉ miệng nói tâm nghĩ nhưng không thực hành, gọi là nguyện giả.

Được đới nghiệp vãng sanh đâu phải dễ! Thực hành được đại nguyện cũng không phải dễ! Nói dễ là tham thiền mới thật là dễ, chỉ cần hỏi và nhìn, ngoài ra không cần biết đến cái gì hết, chỉ giữ cái không biết là đủ.

Hỏi:
Người tu Tổ Sư thiền có cần phát đại nguyện và hồi hướng đến quả Vô thượng Bồ đề không?

Đáp:
Người hỏi này không biết lại chấp cái biết của mình và theo giáo môn cũng còn không biết. Kinh Đại Niết Bàn thuộc về giáo môn có 3 cửa giải thoát: Không, vô tướng, vô nguyện.

-Vô nguyện là không có nguyện, nếu còn ôm cái nguyện thì không được kiến tánh, vì tâm như hư không vô sở hữu (trống rỗng) là giải thoát, không bị trói buộc, nó đã sẵn như vậy. Chỉ cần phát hiện vốn không có sanh tử, vốn không có trói buộc thì đâu cần nguyện gì nữa!

Nếu có nguyện tức là còn có trói buộc, những người có bệnh chấp thì còn trói buộc, nên mới có cái nguyện để mở trói. Tổ Sư thiền ngộ thấy không có trói, vì trống rỗng. Ngộ không có trói thì đã giải thoát rồi, đâu phải là bị trói rồi mới mở trói cho là giải thoát! Vậy đâu cần mở trói, vì đâu có ai trói!

Hỏi:
Có phải tất cả chiêm bao đều là giả không? Và chuyện nàng dâu châm kim thêm 19 lần cho bà mẹ chồng như lời nhắc nhở trong mộng, khi bà nằm ngủ. Vậy chuyện này chiêm bao hay không phải chiêm bao?

Đáp:
Người hỏi này không biết, nên Phật nói “rất đáng thương xót!”. Chân tâm là bất nhị thì không có tương đối. Họ bỏ chấp thật lại chấp giả, nếu chấp thật thì bệnh còn dễ trị, chấp giả thì bệnh khó trị hơn. Vì thật và giả là tương đối, chấp thật và chấp giả đều lọt vào biên kiến. Biên kiến ở trong Phật pháp là một thứ trong 5 thứ ác kiến, nhưng chính người hỏi lại không biết, thành ra mới đặt ra câu hỏi vậy.

Đã là chiêm bao thì không có thật, chơn thật không phải thật, cái giả cũng không phải thật. Vì chiêm bao đâu có cái nào thật, đâu có cái nào giả? Thật không thành lập làm sao lập ra cái giả?

#42 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 04/09/2011 - 09:33

Hỏi:
Trong lúc tụng kinh ta phải tham thiền như thế nào?
Đáp:
Tham thoại đầu là hỏi câu thoại để kích thích niệm không biết, khán thoại đầu là nhìn chỗ niệm không biết, cứ hỏi và nhìn 2 cái đi song song là đủ rồi.

Tụng kinh đến đâu quán tưởng đến đó là cách tu của giáo môn, không phải tham Tổ Sư thiền. Đó là Đại thừa thiền có Sa ma tha, Tam ma bát đề và Thiền na.

Hỏi:
Người phụ nữ tu thiền chỉ ngồi bán già, không ngồi kiết già, vì có bệnh của người nữ. Vậy như thế nào?

Đáp:
Tôi đã nói “không cần nhất định phải ngồi bán già hay kiết già”, Lục Tổ nói: “Đạo do tâm ngộ bất tại tọa”, còn nói: “Ngồi lâu trói thân có ích lợi gì!”. Trong Pháp Bảo Đàn có kệ phá chấp ngồi:
Lúc sống ngồi chẳng nằm,
Khi chết nằm chẳng ngồi.
Vốn là đống xương thúi,
Đâu thể lập công phu?
Vậy tại sao còn hỏi toàn già, bán già nữa?

Bệnh của phụ nữ là do sinh lý, đâu phải do cái ngồi! Người phụ nữ có kinh nghiệm đó, cũng như có kinh nguyệt đều đều mỗi tháng, nhưng có người trước khi có kinh hay hết kinh, họ cũng có tâm lý bất thường, như nổi giận, buồn rầu.

Hôm trước có người hỏi “tại sao người nam được xuất gia 7 lần, mà người nữ chỉ được xuất gia 1 lần”? Đó cũng tại sinh lý, như có 5 chúng xuất gia: Bên nam thì Sa Di lên Tỳ Kheo, chỉ có 2 bực. Còn bên nữ phải có 3 bực: Sa Di Ni lên Thức Xoa rồi đến Tỳ Kheo Ni.

Ban đầu Phật cũng chế Sa Di Ni lên Tỳ Kheo Ni, nhưng sau này phát hiện Tỳ Kheo Ni sanh con, bị người thế gian phê bình công kích, vì người đó có chồng rồi có thai mà không biết lại xuất gia, tuy chồng có đồng ý cho xuất gia.

Vì vậy, Phật mới chế thêm một cấp nữa là Thức Xoa. Thức Xoa nghĩa là học pháp của Tỳ Kheo Ni, quy định 2 năm mới được thọ giới Tỳ Kheo Ni. Mặc dầu quy định 2 năm, thật ra chỉ 12 tháng và thêm một ngày, nhưng cũng tính 2 năm, cũng như tuổi âm lịch vậy.

Vì người đàn bà có thai 9 tháng 10 ngày thì đã sanh con rồi, 12 tháng là đủ kiểm tra có thai hay không. Nếu không có thai thì được thọ giới Tỳ Kheo Ni, ấy là người nữ có sinh lý khác nên Phật mới chế giới thêm.

Theo đây mình biết, nếu người nữ hoàn tục một lần có thể sanh thêm một đứa con, hoàn tục hai lần có thể sanh ra 2 đứa con,… cứ như thế nhiều lần, vậy làm sao xuất gia thêm được? Cho nên, Phật chỉ cho người nữ xuất gia một lần thôi.

Hỏi:
Có người lấy trộm đồ vật của người khác, rồi đem cho người nghèo để sống. Vậy người lấy trộm có được phước không?

Đáp:
Họ không phải tự mình làm ra vật đó, mà lại trộm cướp đem cho người khác. Vậy làm sao có phước được? Vì đã hại người mất đồ bị khổ. Cho nên, người trộm cướp đó bị tội chứ không có phước.

Hỏi:
Hư Vân lão Hòa thượng thuộc dòng phái nào?

Đáp:
Hư Vân lão Hòa thượng thuộc dòng phái Lâm Tế. Ở Trung Quốc có 5 phái thiền là: “Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn, Quy Ngưỡng”. Hai phái Lâm Tế, Tào Động thì còn tiếp tục đến ngày nay, còn ba phái kia tuyệt truyền. Ngài Hư Vân muốn ba phái kia tiếp tục truyền, nhưng rồi cũng không thành.

Hỏi:
Lời của Phật không có nghĩa thật. Tại sao Hòa thượng dùng lời của Phật để dẫn chứng? Vậy có phải dùng thuốc giả để trị bệnh giả có đúng không?

Đáp:
Lời của Phật gọi là bất định pháp, chỉ là công cụ để phá chấp. Lời của tôi cũng vậy, tôi cũng bắt chước lời của Phật Thích Ca dùng công cụ để phá chấp thôi. Nếu chấp công cụ đó thì Phật không thể giáo hóa.

-Trung Quán Luận: Phẩm Phá “Hành”.

Hỏi:
Như kinh Phật sở thuyết,
Hư vọng chấp lấy tướng.
Vì vọng chấp chư hành,
Nên gọi là hư vọng.

Đáp:
Kẻ hư vọng chấp lấy,
Trong đó lấy cái gì?
Phật thuyết những việc này,
Muốn hiển bày nghĩa không.
Vì các pháp khác nhau,
Biết đều là “vô tính”.
Tính vô pháp cũng vô,
Vì tất cả pháp không.
Đại Thánh chuyển pháp không,
Vì lìa chư kiến chấp.
Nếu lại thấy có không,
Phật chẳng thể giáo hóa.

Lược giải:
“Hành” là sự hành vi biến hóa, hành vi biến hóa là sát na sanh diệt, nên Phật nói chư hành vô thường, vô thường thì chẳng thật, chẳng thật nên hư vọng. Hư vọng thì chẳng thể chấp lấy, Phật nói hư vọng chẳng thể chấp lấy là muốn hiển bày nghĩa không vậy.

Vì các pháp khác nhau thì mỗi mỗi chẳng có tự tánh. Pháp chẳng có tự tánh thì pháp chẳng có, nên nói tất cả pháp không, Phật thuyết pháp không là để dùng phá 62 kiến chấp và phá phiền não của nghiệp ái vô minh.

“Không” là công cụ dùng để phá chấp, nếu trở lại chấp “không” thì người ấy chẳng thể giáo hóa. Như có bệnh mới cần uống thuốc, nếu chấp thuốc thành bệnh thì chẳng thể trị. Cũng như lửa từ củi ra thì phải dùng cái gì để diệt?

“Không” dụ cho nước, có thể dẹp tắt những lửa phiền não. Nếu lại ở nơi “không” mà sanh khởi kiến chấp, hoặc cho là có cái “không”, hoặc cho là chẳng có cái “không”, vì tranh chấp “hữu” “vô” lại sanh khởi phiền não nữa.

Nếu dùng “không” để giáo hóa người này thì họ nói tôi biết “không” đã lâu. Nếu lìa “không” thì chẳng có đạo Niết Bàn. Như kinh nói: Không, Vô tướng, Vô tác, nơi ba cửa này được giải thoát. Đấy chỉ là ngôn thuyết thôi. (Không, Vô tướng: Thì chẳng thể tu; Vô tác: Thì không có tu, vậy đâu thể giải thoát).


Lời nói của Phật không còn cho chấp, huống là lời nói của tôi! Tôi chỉ là bắt chước lời nói của Phật, chứ tôi không chấp lời nói của Phật.

Hỏi:
Tứ pháp y là gì?

Đáp:
Tứ pháp y là 4 thứ y chỉ ghi ở trong kinh Duy Ma Cật:

1-Y pháp bất y nhân:
Là y theo pháp chứ không y theo người, tuy người đó có danh tiếng, địa vị cao, nếu nói pháp không đúng cũng không nên theo. Những người nói pháp đúng nhưng không có địa vị cao, không có danh tiếng nên theo.


2-Y nghĩa bất y ngữ:
Ngữ là nói, nghĩa là cái ý. Cũng như lời nói của Phật, mình không y theo, mình y theo ý của Phật.

3-Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa:
Phật thuyết pháp có hai thứ: Liễu nghĩa và bất liễu nghĩa, như kinh Đại thừa là liễu nghĩa, kinh Trung thừa và kinh Tiểu thừa là bất liễu nghĩa. Mình phải y theo kinh liễu nghĩa, chứ không y theo kinh bất liễu nghĩa.

4-Y trí bất y thức:
Thức thì phân biệt là vọng tâm của bộ não, có phân biệt thì có tương đối, Tự tánh là bất nhị không có tương đối. Không phân biệt là trí, không có tương đối.

Hỏi:
Con ăn mặn tu thiền này được không? Và ngồi như thế nào?

Đáp:
Tất cả Thiền khác đều chú trọng ngồi, còn Tổ Sư thiền thì không chú trọng ngồi, không cần ngồi cũng được. Lục Tổ nói: “Đạo do tâm ngộ bất tại tọa”, ngộ là do ở nơi tâm, không phải ở chỗ ngồi. Lại nói: “Ngồi lâu trói thân có ích lợi gì!” Nhưng các Thiền khác lại chú trọng ngồi, ngồi lâu là cao. Tổ Sư thiền là ngồi lâu trói thân, chẳng có ích lợi gì!

Có người ngồi đến 6 giờ bị ói máu, phải chở đi bệnh viện. Trong Pháp Bảo Đàn có kệ phá chấp ngồi:
Lúc sống ngồi chẳng nằm,
Khi chết nằm chẳng ngồi.
Vốn là đống xương thúi,
Đâu thể lập công phu?

Cho nên, hành giả tham Tổ Sư thiền, không muốn ngồi cũng được, muốn ngồi thì ngồi; đi đứng nằm ngồi đều tham thiền được. Nếu có ngồi khỏi cần ngồi kiết già, ngồi sao cũng được. Chỉ cần ở trong tâm hỏi câu thoại và nhìn thoại đầu.

Hỏi:
Tam pháp ấn là gì?

Đáp:
Là 3 pháp ấn của Tiểu thừa, còn Đại thừa chỉ có 1 pháp ấn là Thật tướng vô tướng, tức là không có tướng có, cũng không có tướng không. Vì có hữu tướng và vô tướng là tương đối. Thật tướng vô tướng là công cụ để phá tương đối. Cho nên, hữu tướng cũng phá và vô tướng cũng phá, chẳng có tướng nào hết thì mới gọi là Thật tướng.

Các vị đến đây là tham Tối Thượng Thừa thiền thì luôn cả pháp ấn cũng không có, nên gọi là Tâm ấn. Nhưng tâm như hư không vô sở hữu, luôn cả tâm cũng không có, vì như hư không.

Như Tiểu thừa là duy vật, Trung thừa là duy tâm, Đại thừa là tâm và vật hợp một, Tối Thượng thừa là phi tâm phi vật (chẳng phải tâm, chẳng phải vật).

Chúng ở đây học Tối Thượng thừa là siêu việt Đại thừa, Đại thừa còn gọi là Bồ Tát thừa. Theo giới luật Bồ Tát, khi thọ giới Bồ Tát là học đạo Bồ Tát. Nếu còn dạy người ta học giới Tiểu thừa là phạm giới Bồ Tát, hay người tu Đại thừa mà còn học giới Tiểu thừa cũng phạm giới Bồ Tát.

Tại sao? Tiểu thừa là tiểu học, Trung thừa là trung học, Đại thừa là đại học, mà bài đại học không học lại học bài tiểu học, tức là xuống cấp, đáng lẽ phải lên cấp mới phải, nếu xuống cấp học để làm chi! Người ta học phải lên cấp, nên giới Bồ Tát không cho người Đại thừa học Tiểu thừa là vậy. Còn Tiểu thừa học Đại thừa thì được, vì lên cấp.

Hỏi:
Làm thế nào công phu được liên tục?

Đáp:
Khi tham thiền cảm thấy làm biếng thì ngưng tham, nghĩ lại việc sanh tử của mình; cũng như mình đang còn sống, không biết giờ nào chết, có khi tối ngủ chết luôn cũng không chừng, chết rồi thì tham thiền đâu có được!

Cho nên, người phát tâm xuất gia, cũng như phát tâm tham thiền phải có chánh nhân là muốn giải thoát sanh tử. Có chánh nhân mới có chánh quả, còn những người không có chánh nhân, cũng như vợ chồng gây lộn rồi đi tu thì không phải chánh nhân, hay sự nghiệp thất bại rồi bỏ đi tu cũng không phải chánh nhân.

Như thấy Thiền thất đông người, mình cũng bắt chước tham thiền, chứ không phải vì giải quyết vấn đề sanh tử. Vì hứng thú mà tu nên ngài Hư Vân nói “năm đầu thì sơ tham, năm thứ hai là lão tham, năm thứ ba không tham”, vì họ hết hứng thú thì không tham.

Nếu sanh tử chưa giải quyết thì phải tiếp tục tới chừng nào được giác ngộ, giải thoát được sanh tử mới thôi. Vì vậy mình phải vì sanh tử mà tham thiền, gọi là sanh tử thiết tức là thiết tha giải quyết sanh tử.

Hỏi:
Người chưa ăn chay, có tu Tổ Sư thiền được không?

Đáp:
Ai cũng tu Tổ Sư thiền được. Theo nhân quả là “ăn cục thịt phải trả cục thịt, giết một mạng phải trả một mạng”. Có người hỏi: Tham thiền cần ăn chay không?

Tôi nói: Cần và không cần là tương đối. Tham thiền là phá tương đối. Nếu ông sợ người ta ăn mình thì đừng ăn người ta, không sợ người ta ăn mình thì cứ ăn người ta. Kiếp trước mình ăn người ta thì kiếp sau người ta ăn lại mình, tức là thay phiên ăn với nhau. Thay phiên ăn với nhau làm sao giải thoát được sanh tử?

Hỏi:
Lục Tổ dạy: Dụng tánh chứ không dụng thức là sao?

Đáp:
Lục Tổ không nói dụng tánh, vì tánh không thể chỉ chỗ nào. Trí thì đối với thức. Vừa rồi nói “y trí bất y thức” là dùng trí không dùng thức, vì thức là phân biệt tương đối, trí không phân biệt phá tương đối.

Hỏi:
Tham Tổ Sư thiền tu thêm Bát Quan Trai giới được không?

Đáp:
Bát Quan Trai giới là giới cấm chứ không phải pháp tu, cũng như các vị xuất gia là Sa Di thọ 10 giới, Bát Quan Trai là thọ 9 giới của Sa Di, chỉ bỏ không cầm tiền bạc. Vì người tại gia được phép cầm tiền bạc. Theo giới luật nhà Phật không cho Tu sĩ cầm tiền bạc, phải giao cho cư sĩ giữ, gọi là tịnh thí.

Tức là Tu sĩ thí tiền cho cư sĩ, nhưng cư sĩ không được dùng tiền đó, chỉ là giữ giùm, Tu sĩ muốn dùng tiền thì phải hỏi cư sĩ. Tịnh thí là thí cái tên, cư sĩ đã giữ tiền rồi thì Tu sĩ cũng không dám dùng bậy, vì dùng bậy thì cư sĩ biết, phải vì Phật sự mới được dùng.

Bát Quan là giới, chỉ tập tu một ngày một đêm, còn Sa Di, Sa Di Ni, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni phải giữ giới suốt đời. Vậy họ tham thiền không được sao? Giới là giúp cho sự tu.

Có thiền thì mới có tu, thiền Tiểu thừa, thiền Trung thừa, thiền Đại thừa và thiền Tối Thượng thừa. Tịnh Độ cũng có 3 thứ thiền: Thật tướng niệm Phật, Quán tưởng niệm Phật, Trì danh niệm Phật.

Hỏi:
Trong lúc tu tập thiền định, Ngài có gặp những chướng duyên nào?

Đáp:
Tu là sửa chướng duyên, chướng duyên là nghiệp giúp cho mình tu, còn thuận duyên có thể hại cho mình tu. Tại sao? Vì thuận duyên là mình ham thích thỏa mãn dục vọng, không còn nhớ đến việc tu nữa. Có chướng duyên là kích thích mài giũa cho mình tu thêm. Cho nên, người tu không sợ chướng duyên mà sợ thuận duyên.

Hỏi:
Thuận duyên nào mà Ngài có?

Đáp:
Thuận duyên là mình muốn việc gì thì được đáp ứng việc ấy. Như muốn nhà cửa thì có nhà cửa, muốn ruộng đất thì có ruộng đất, muốn xe cộ thì được xe cộ,…

Còn tôi ăn, mặc, ở đều của Thí chủ ủng hộ, tự mình tôi không có tiền. Có bài kệ:
Hạt gạo của Thí chủ,
Lớn bằng núi tu di.
Nếu không tu giải thoát,
Mang lông đội sừng trả.

Tu sĩ ăn gạo của Thí chủ không dễ gì ăn! Nếu không tu giải thoát thì phải đầu thai trâu ngựa để trả nợ cho Thí chủ.

Hỏi:
Phiền não rất nhiều, có phương pháp nào để tu giải thoát?

Đáp:
Một kỹ sư rất thông suốt giáo lý tam thừa, cũng là nhà khoa học. Một ngày y nói với tôi: Con phiền não rất nhiều, nghiệp chướng nặng quá, thầy có cách nào dạy cho con bớt phiền não?

Tôi hỏi: Có phải phiền não của ông chăng?

Kỹ sư đáp: Phải.

Tôi hỏi: Phiền não của ông từ đâu có? Như tiền trong túi của ông thì ông biết từ đâu mà có rồi!

Kỹ sư nghĩ đi nghĩ lại một hồi nói không ra, tôi nói: Bây giờ, ông khỏi nói, tôi nói cho ông biết, phiền não của ông là do tâm ông suy nghĩ mà ra, tâm của ông là năng suy nghĩ, phiền não là sở suy nghĩ, sở thì không phải năng, năng thì không phải sở. Như ăn cơm, tôi là năng ăn, cơm là sở ăn. Vậy tâm của ông không có phiền não, vì ông suy nghĩ nên mới có.

Tâm là danh từ không nói được, không có ai biết. Mặc dầu, y là kỹ sư nhưng nói đến tâm lại mơ hồ, vì không có hình thể, không có số lượng để nắm.

Tôi mới thí dụ cái khác, ông có hai chân là năng đi, con đường đầy gai gốc cứt sình là sở đi của hai chân, tại vì hai chân của ông ham đi con đường đó nên bị dính cứt sình. Rồi nói với tôi: “Cứt sình đó của tôi”.

Tôi nói: Đâu phải! Cứt sình là sở đi của hai chân ông, rồi nhờ tìm cách rửa hết cứt sình. Khỏi cần, thúi cách mấy mặc kệ nó. Đừng có biết tới, chỉ cần hai chân của ông không giẫm lên con đường đó thì không bị dính.

Như tâm không suy nghĩ làm sao có phiền não, tại ông ham suy nghĩ mới sanh ra phiền não. Cho nên, mình cần hỏi và nhìn, giữ cái “không biết” làm sao có phiền não được? Tìm hiểu, ghi nhớ đều ngưng hết làm sao có phiền não và nghiệp chướng?

Hỏi:
Ăn chay mà ăn trứng gà công nghiệp có được không?

Đáp:
Trứng gà không có trống là không có sanh mạng thì không có sát sanh. Mục đích ăn chay là tránh sát sanh, trứng gà đó không phải thịt, con gà đẻ trứng gà thì con gà vẫn còn sống, nếu để trứng lâu ngày trứng cũng thúi hư. Vậy ăn trứng gà đâu khác gì ăn cứt gà!

Để biết gà có trống hay không trống, chỉ cần đem trứng gà trước ngọn đèn thấy chấm đen thì trứng đó có trống, còn không có chấm đen thì trứng đó không có trống.

Hỏi:
Ngài có những chướng duyên nào trong lúc thiền định? Và khắc phục như thế nào?

Đáp:
Tâm là danh từ mà ai cũng nói được, nhưng tâm là cái gì thì chẳng ai biết? Luôn cả Phật Thích Ca cũng không biết nữa! Nếu Phật Thích Ca biết thì nó thành sở biết. Vừa rồi tôi nói năng sở, ông có hiểu không?

Chân tâm không phải sở biết, nên không bị ai phát hiện. Nếu bị ai phát hiện thì nó thành sở, nên Phật chỉ nói “Tâm như hư không” mà không thể giải thích.

Ngài Long Thọ là Tổ 14 Thiền tông nói: “Tâm như hư không vô sở hữu”, hư không vô sở hữu là không có hư không. Mặc dầu không có hư không, nhưng nó dung nạp và ứng dụng. Như mặt trời, mặt trăng, đất đai,… bất cứ cái gì, luôn cả ông đều ở trong cái vô sở hữu này.

Vô sở hữu này cũng là tâm của ông, nhưng tại ông không biết lại cho là chướng duyên và không có chướng duyên! Aáy là ông bị trúng độc tri chướng mới nói như thế đó! Kỳ thật, vô sở hữu thì không có chướng duyên, vì ông có bệnh chấp nên mới thấy có chướng duyên.

Vô sở hữu là trống rỗng, trống rỗng thì không có chỗ trói buộc tức là giải thoát. Đâu phải có sự trói buộc chướng duyên để mở trói mà được giải thoát! Nó vốn không có trói buộc, vì nó trống rỗng.

Ông ở thế gian học hết lớp nào? Nếu học hết đại học thì ông biết toán học. Định lý của toán không có số nhỏ nhất và lớn nhất phải không? Không có số nhỏ nhất nên vô thỉ (không có bắt đầu), nếu có số nhỏ nhất thì có bắt đầu.

Toán học là công cụ của khoa học, nếu không có toán học thì không có khoa học. Toán học chứng tỏ là không có sự bắt đầu, không có sự bắt đầu là nghĩa vô sanh tức là không có sanh khởi, nếu có sanh khởi là có sự bắt đầu. Cho nên, người chứng quả thì ngộ pháp vô sanh, cũng gọi là chứng vô sanh pháp nhẫn.

Hỏi:
Có phải Hòa thượng an trú trong cõi Thánh Tăng, còn con ở trong phàm nhân?

Đáp:
Ông cũng biết giáo lý, Phật tánh của mỗi chúng sanh đều bằng nhau. Tôi hỏi ông thì trả lời ngay, đừng có suy nghĩ, trả lời có hay không có, phải hay không phải.

-Ông tin ông có Phật tánh không?

-Có Phật tánh.

-Phật tánh có giảm bớt được không?

-Giảm bớt.

-Nếu Phật tánh giảm bớt thì ông khỏi cần tu, vì tu rồi Phật tánh vẫn còn sanh diệt! Tu là muốn hiện ra Phật tánh, Phật tánh thì không thể tăng giảm, nó mới tồn tại vĩnh viễn. Nếu Phật tánh giảm được thì sẽ hết, nó thành pháp sanh diệt rồi, nên đâu phải là Phật tánh! Phật tánh là không sanh không diệt tức là Niết Bàn.

Nếu ông không hiểu Phật tánh thì những câu hỏi của ông đều là dư thừa. Bây giờ, ông nói “Phật tánh không có tăng giảm” là đúng rồi.

-Phật tánh có gián đoạn không?

-Không có gián đoạn.

-Đúng rồi, nếu Phật tánh không gián đoạn thì bây giờ thần thông, trí huệ, năng lực của ông bằng Phật Thích Ca. Vừa rồi ông nhìn nhận Phật tánh không có gián đoạn thì hiện nay ông đã là Phật, sao ông còn cho ông còn phàm phu! Phải mâu thuẫn không?

Hỏi:
Thiền là gì?

Đáp:
Thiền không phải là gì, nếu là gì thì không phải thiền, thiền là công cụ để dẹp loạn tâm, tức là đình chỉ vọng tâm.

Hỏi:
Tánh thông là gì?

Đáp:
Thông là trống rỗng, như hư không trống rỗng là thông, không có chướng ngại.



Hỏi:
Thường trụ Tam bảo là gì?

Đáp:
Thường trụ Tam bảo gồm có: Tượng Phật thay cho Phật bảo, kinh của Phật thay cho Pháp bảo, Tăng chúng thay cho Tăng bảo, Tăng là hòa hợp chúng là từ 4 người thanh tịnh sắp lên mới gọi là Tăng.

Hỏi:
Làm thế nào để khai thác điều kỳ diệu của tâm?

Đáp:
Tham Tổ Sư thiền như hỏi câu thoại đầu “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” là khởi lên niệm không biết, gọi là tham thoại đầu; đồng thời khán là nhìn, nhìn chỗ không biết, chỗ không biết thì không có chỗ, không có chỗ thì không có mục tiêu để nhìn, cho nên nhìn đi nhìn lại không thấy gì vẫn còn không biết, cái vẫn còn không biết đó, Thiền tông gọi là nghi tình.

Cứ hỏi và nhìn một lượt 2 cái đi song song, đồng thời giữ cái không biết đó được kéo dài, cái không biết này sẽ đưa hành giả đến thoại đầu, rồi sẽ kiến tánh thành Phật.

Hỏi:
Khi tham thoại đầu, nhìn chỗ thùng sơn đen không đáy và đề thoại đầu trong lúc lái xe đi đường, phải làm như thế nào cho tương ưng như lúc ngồi ?

Đáp:
Mới tập tham thiền mà chưa tự động nghi tình khởi lên, nên ngưng tham thiền trong lúc lái xe hay làm việc, khi không có việc gì thì mới tập tham thiền; tập quen trong lúc không làm việc rồi, tự động trong lúc làm việc hay lái xe thì nghi tình khởi lên, lúc đó không thấy xe cộ mà không bị đụng xe.

Hỏi:
Chúng con học Phật pháp và tham thiền làm sao không trở thành ngoại đạo?

Đáp:
Phá ngã chấp thì không thành ngoại đạo, vì ngoại đạo không phá ngã chấp. Chánh pháp phá ngã chấp, như tham thiền điều thứ nhất trong Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền là “vô sở cầu, vô sở đắc, vô sở sợ”. Tất cả các pháp môn khác của Phật dạy đều phải phá ngã chấp mới được giải thoát.

Hỏi:
Sự lợi ích của quy y Tam bảo là gì?

Đáp:
Quy y Tam bảo là để cho mình có lòng tin. Tăng bảo là trực tiếp đem Pháp bảo trực tiếp truyền dạy cho chúng sanh. Những người đã quy y là đệ tử của Tam bảo, được sự giáo hóa của Tam bảo, tu đúng theo lời Phật dạy được giải thoát tự do tự tại vĩnh viễn.

Hỏi:
Tâm là danh từ chỉ bản tánh, kể cả Phật Thích Ca không giải thích được, nên con dùng “Tâm là cái gì?” làm câu thoại đầu để tham. Vậy có được không?

Đáp:
Tâm không có bản thể, ai cũng nói được, nhưng tâm là cái gì thì không có ai biết. Vì bản thể trống rỗng, nên chỉ nói là “Tâm như hư không vô sở hữu”. Mặc dầu, nói vô sở hữu là không có nhưng có thực dụng, như nhà cửa, đất đai, cây cối,… bất cứ cái gì đều phải nhờ vô sở hữu này dung nạp và ứng dụng.

Chư Phật chư Tổ dùng lời nói diễn đạt là muốn mình hiểu theo ý. Vì vậy 49 năm thuyết pháp, cuối cùng Phật dạy pháp môn Tổ Sư thiền để cho mình khởi nghi tình, tức là từ nghi đến ngộ.

Tất cả các công án là muốn cho người ta ngộ, không phải muốn cho người ta hiểu. Mình cứ hỏi và nhìn để đạt đến ngộ, tức là dùng cái không biết của bộ não để chấm dứt tất cả biết của bộ não, cái biết của bộ não gồm có tìm hiểu biết, suy nghĩ biết và ghi nhớ biết, 3 thứ biết này hết thì đến thoại đầu.

Thoại đầu là chưa khởi ý niệm, nếu có khởi ý niệm là thoại vỉ. Tuy nói tham thoại đầu nhưng vẫn còn khởi ý niệm, nên chưa phải đến thoại đầu. Bắt đầu tham thiền là rời thoại vỉ, đang đi giữa đường đến thoại đầu.

Những người tìm hiểu nghi tình là sai lầm lớn, vĩnh viễn không đến thoại đầu được. Vì tham thiền là muốn chấm dứt tìm hiểu, suy nghĩ và ghi nhớ; trái lại không chấm dưtù mà tìm hiểu, muốn tìm hiểu nghi tình như thế nào là đại nghi hay tiểu nghi? Vậy làm sao chấm dứt được cái biết?

Hỏi:
Có người cho rằng: “Thời gian có tánh co giãn”, nghĩa này như thế nào?

Đáp:
Thời gian đâu phải vật chất mà có tánh co giãn! Đặt ra thời gian là do cảm giác sai lầm của bộ não. Không gian, thời gian, tất cả hiện tượng vũ trụ chỉ là cảm giác của bộ não hiện ra. Bộ não là vọng tâm tạo ra, gọi là “nhất thiết duy tâm, vạn pháp duy thức”.

Tâm tạo thì không phải thật, không phải thật nên gọi là chiêm bao. Có 2 thứ chiêm bao: Mở mắt chiêm bao và nhắm mắt chiêm bao. Tôi đang nói và các vị đang nghe là mở mắt chiêm bao. Chiêm bao thì không phải thật, không phải thật nên khỏi cần tìm hiểu.

Nhưng các vị đề ra câu hỏi, tôi lại giải đáp. Tại sao? Vì tôi giải đáp là không phải cho hiểu giáo lý, mà muốn các vị giải tỏa cái nghi để tăng thêm tin tự tâm. Nghi lý, nghi sự, nghi pháp, nghi thầy, các vị có hỏi đều ở trong 5 thứ nghi này. Nếu còn nghi thì tin tự tâm chưa đầy đủ 100%, làm chướng ngại việc tham thiền, nên tôi mới cho các vị hỏi.

Chỗ thực tế như hư không vô sở hữu thì đâu có cái gì cao siêu! Chư Phật chư Tổ muốn mình ngộ, chứ không muốn mình hiểu, vì không có cái gì để hiểu. Chính cái hiểu đó làm chướng ngại, gọi là lý chướng. Tức là có nghĩa lý thành chướng ngại, tất cả hiểu biết của bộ não là sở tri chướng.

Nhưng hằng ngày mình phải dùng bộ não để ứng phó cuộc sống. Nếu nói vậy mình khỏi sống sao? Không phải vậy. Mình sống theo phương pháp do Phật dạy, như mình vì sự đói khát ăn uống thì cứ ăn uống, chứ đừng suy nghĩ cái khác; vì che thân chống lạnh cần mặc áo thì cứ mặc áo, chỉ cần đừng nghĩ cái khác. Vậy đâu bỏ cuộc sống!

Mỗi mỗi chức nghiệp làm theo vị trí vai trò của mình, nên cha giữ đúng vai trò của cha, mẹ giữ đúng vai trò của mẹ, con cái giữ đúng vai trò của con cái, chồng giữ đúng vai trò của chồng, vợ giữ đúng vai trò của vợ, Tu sĩ giữ đúng vai trò của Tu sĩ.

Vậy mỗi mỗi giữ đúng vai trò của mình thì được an cư lạc nghiệp, thiên hạ thái bình. Đâu phải mình bỏ nghề! Vẫn sống bình thường, làm cái nghề gì thì cứ làm, chỉ cần mình đừng có suy nghĩ bậy bạ, suy nghĩ cái khác.

Hỏi:
Từ vô thỉ các loài hữu tình do đâu mà có?

Đáp:
Đã là vô thỉ thì vô sanh rồi, công cụ của khoa học là toán học, nếu không có toán học thì không có khoa học. Những người nghiên cứu khoa học thì phải giỏi toán, nhưng định lý của toán thì không có số cực nhỏ, tức là không có bắt đầu, nên Phật Thích Ca gọi là “vô thỉ”. Không có bắt đầu thì vô sanh là không có sự sanh khởi.

Tại sao? Vì có sự sanh khởi phải có sự bắt đầu. Tại không có bắt đầu thì không có sanh, nên người chứng quả ngộ pháp vô sanh, gọi là chứng vô sanh pháp nhẫn. Pháp vô thỉ vô sanh mà sao còn hỏi nữa!

Hỏi:
Ngài Triệu Châu nói: “Một chữ Phật không thích nghe”, nghĩa đó như thế nào?

Đáp:
Vì người ta chấp Phật, như Lâm Tế nói: “Gặp Phật chém Phật, gặp ma chém ma”, tức là chém tâm chấp.

Nghĩa chữ “Phật” là giác ngộ, không phải là một thần linh. Nhiều người mê tín cho Phật là một thần linh, người nào giác ngộ thì người ấy là Phật.

Hỏi:
“Duy tuệ thị nghiệp” là gì?

Đáp:
Trí tuệ này không phải trí tuệ của bộ não, mà là trí tuệ của Phật tánh gọi là bát nhã. Trí tuệ của bộ não thì phải qua suy nghĩ tác ý mới dùng ra được, còn trí tuệ của bát nhã không qua bộ não suy nghĩ, nó tự động luôn luôn khắp thời gian. Bây giờ mình học Phật là để phát huy trí của Phật tánh, lấy cái đó để làm sự nghiệp.

Hỏi:
Con đến tịnh Xá có vị sư hỏi con: “Ông từ đâu đến, rồi sẽ về đâu”? Con ngơ ngác không hiểu. Xin Sư Phụ từ bi khai thị?

Đáp:
Thì ở nhà đến đây, chút nữa từ đây về nhà. Đó là việc thế gian, tại sao không biết?

Chân tâm của mình khắp không gian khắp thời gian, khắp không gian không có khứ lai gọi là Như Lai. Đã không có khứ lai mà còn hỏi đi về đâu? Người hỏi câu đó sai lầm thì đâu cần phải trả lời!

Hỏi:
Khoa học ngày nay có đưa ra lý thuyết, nếu có 2 người cùng 20 tuổi, một người lên phi thuyền bay bằng vận tốc ánh sáng một năm, khi quay về thì 21 tuổi, còn người ở lại quả đất thì 60 tuổi. Chúng con không hiểu nghĩa này như thế nào? Như vậy thời gian có phụ thuộc vào lực từ trường vận tốc đó không?

Đáp:
Theo lý luận của Einstein: Vận tốc gần bằng ánh sáng thì quan hệ không gian và thời gian có sự biến đổi, vật chất nó càng biến nhỏ. Einstein nói: “Vật chất có thể biến thành năng lượng, năng lượng có thể biến thành vật chất”, nhưng tất cả năng lượng cũng phải có vật chất mới biến ra năng lượng được.

Lực học Thích Ca Mâu Ni ngoài vật chất biến ra năng lượng, còn có năng lượng phát từ phi vật chất (không phải vật chất), thuộc về phạm vi Tâm pháp, vật chất thuộc về sắc pháp, vì thế nó không bị thời gian không gian hạn chế. Vì bây giờ dùng cảm giác của bộ não thì mỗi mỗi có cảm giác, nên có tranh cãi, vì người này cho thế này, người kia cho thế kia.

Tất cả nhà khoa học khắp thế giới đều công nhận định luật của Newton là đúng. Nhưng sau này Einstein lật đổ lý luận của Newton cho là không đúng. Tức là lý luận của nhà khoa học A, tất cả nhà khoa học thế giới công nhận là đúng, sau này nhà khoa học B phát minh cái mới lật đổ lý luận nhà khoa học A cho là không đúng. Sau này nhà khoa học C phát minh cái mới lật đổ nhà khoa học B cho là không đúng.

Cứ lý luận sau lật đổ lý luận trước, định luật cho người ta sau này lật đổ, vậy làm sao định luật đó đúng được? Vì lập ra cái lý thì có thể bị lật đổ. Còn lực học của Thích Ca Mâu Ni thì không có lý, nên không có cái nào lật đổ được? Tại nó không có cái để lật đổ được. Nó vốn trống rỗng không có gì hết thì lật đổ cái gì!

Trong Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21: Năng lượng phát từ vật chất thì Newton từ 0 đến 50, Einstein từ 0 đến 50 rồi 50 đến 100 là cùng tột. Vật chất nhỏ nhất gọi là quang tử là tổ chức thành ánh sáng thì vận chuyển ánh sáng nhanh nhất, tức 1 giây đi 300.000 km là cao nhất.

Nhưng năng lượng phát từ phi vật chất thì tốc độ ánh sáng là thấp nhất. Chơn tâm của mình là phi vật chất. Phàm vật chất thì có thể biến mất. Nhưng nhà khoa học cũng dẫn chứng vật chất không có biến mất, nó chỉ chuyển biến thôi, như nước mình dùng, nó vĩnh viễn còn hoài, số lượng bao nhiêu vẫn còn bấy nhiêu, không có mất, các vật chất khác cũng vậy.

Nó chuyển biến là ảo tượng, cũng nói về không gian: Ánh sáng đi một ngàn năm hay một triệu năm, như tâm mình chỉ một niệm đến. vật chất thì có tốc độ nên có thời gian, còn phi vật chất không có tốc độ nên phi thời gian. Nếu không có thời gian làm sao nói là bao nhiêu tuổi?

Tại vì có cảm giác chấp thật của bộ não, nên mới nói có tuổi, tức là sanh cái lý thì phải có sự tranh chấp. Cuốn Yếu Chỉ Trung Quán Luận phá tất cả tương đối, không có cái gì để thành lập được. Hữu vi pháp, vô vi pháp đều phá, vì không thể kiến lập nên gọi là vô thỉ vô sanh. Pháp không thể kiến lập làm sao kiến lập cái lý cho là cái tuổi có xê xích, thời gian có xê xích!

Cũng như tương đối luận của Einstein nói về cảm giác của thời gian, có thí dụ: Có ý trông chờ thì cảm thấy 1 ngày như 1 năm, như chơi với người yêu cảm thấy 1 ngày như tên bắn (thấy rất mau), 3 năm thì giống như 1 ngày.

Thực tế thì không gian và thời gian không thành lập được. Tại sao? Căn cứ quả đất xoay xung quanh mặt trời là 1 năm bằng 365 ngày 4 giờ và mấy phút. Cho nên, dương lịch 4 năm phải thêm 1 ngày. Người ta đem 1 ngày đêm chia ra làm 24 lần cho là 24 giờ. 1 giờ chia làm 60 phút, 1 phút chia làm 60 giây, 1 giây nhà Phật chia làm 60 sát na. Sát na đó mình có thể tưởng tượng được.

Nếu đem chia 3 lần theo toán học, 1 sát na chia làm 60 A, 1 A chia làm 60 B, 1 B chia làm 60 C. Tôi nói chưa dứt lời thì đã qua hết bao nhiêu C rồi, tức là hiện tại không thành lập được. Nếu tôi đem chia 30 lần, 300 lần, 3.000 lần thì con số vẫn còn biểu thị thời gian đó, nhưng thời gian do con số biểu thị đó, thực tế ra sao!

Tôi chỉ chia 3 lần mà hiện tại không thành lập được, huống là 30 lần, 300 lần, 3.000 lần! Con số vẫn còn, nhưng thời gian làm sao nói? Bây giờ nói hiện tại cũng không được, nói quá khứ cũng không được, nói vị lai cũng không được. Quá khứ không thành lập, hiện tại không thành lập, vị lai cũng không thành lập. Vậy tuổi thọ làm sao thành lập?

Tôi dùng toán là chứng tỏ đúng theo khoa học, vì toán là công cụ của khoa học, muốn nghiên cứu khoa học thì phải giỏi toán. Định lý của toán là không có số cực nhỏ, tức là không có sự bắt đầu, cũng là nghĩa vô thỉ, vô sanh của nhà Phật vậy. Nhưng những người si mê đó lại tìm bắt đầu của vũ trụ, sanh mạng!

Như nhà khoa học hạng nhất ở Luân Đôn dạy toán, ông có đề ra 2 câu hỏi: Vũ trụ có bắt đầu chăng? (Muốn tìm bắt đầu của vũ trụ). Con gà có trước hay trứng gà có trước? (Muốn tìm bắt đầu của sanh mạng). Thực tế con gà có trước không được và trứng gà có trước cũng không được, hai cái đều không thể bắt đầu, tức là nghĩa vô sanh của nhà Phật.

Mỗi mỗi theo nhận biết của bộ não đều phải theo tương đối mới có thể thành lập, chứ không thể độc lập được. Tại mình có tư tưởng chấp thật, cha mẹ sanh ra mình đã dạy mình chấp thật rồi, đi học ở trường thầy cô giáo cũng dạy mình chấp thật, ra xã hội thì xã hội cũng dạy mình chấp thật, nên chấp thật đã thành sẵn.

Nhưng chấp thật không đúng với thực tế, vì không đúng thực tế nên Phật mới phá, nên dùng hiểu biết của mình để biết sự hiểu biết là không đúng.

(Giảng tánh thấy kinh Lăng Nghiêm- trang 204)

Vì tánh thấy là tâm pháp thuộc thể tinh thần, thể vật chất là lục căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) sẽ chết mất; còn lục thức thì tồn tại vĩnh viễn, không thể chết mất, vì nó không lay động nên không có biến đổi.

Mấy năm trước tôi đi nước Úc thuyết pháp đến chỗ này, có một Phật tử hỏi tôi: Thầy nói tánh của con tồn tại vĩnh viễn, không có chết mất. Vậy sau khi con chết thì tánh thấy con ở đâu?

Tôi nói: Bây giờ, tôi chưa chết, ông cũng chưa chết, chuyện sau khi chết làm sao nói được? Ông ngồi đây cùng nhiều người và bàn, ghế, bình, tách,… có phải do tánh thấy của ông thấy không?

Ông ấy đáp: Phải.

Tôi hỏi: Vậy ông còn sống hãy tự chỉ ra tánh thấy của ông ở đâu?

Ông ấy ngó qua ngó lại chỉ không ra. Tại sao chỉ không được? Vì cùng thấy một lượt, cũng như 100 người cùng thấy một lượt, nếu chỉ tánh thấy ở người này thì 99 người kia không có tánh thấy. Vậy làm sao chỉ một lượt? Đâu phải thấy người này, rồi đến người kia, thấy từng người rồi mới chỉ được?

Nếu chỉ ra được thì tánh thấy chỉ có tiếp xúc một người, còn 99 người kia không có tiếp xúc.Vậy làm sao tiếp xúc thấy một lượt? Cho nên có chỗ thì không cùng khắp, vì tánh thấy cùng khắp nên không có chỗ để chỉ.

Cùng khắp không gian thì không có chỗ để chỉ, cùng khắp thời gian thì không có lúc để chỉ. Nếu có lúc để chỉ thì không cùng khắp thời gian, có chỗ để chỉ thì không cùng khắp không gian. Nhưng tất cả tâm pháp của mình (tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh xúc, tánh nếm, tánh biết) đều cùng khắp không gian và thời gian.

Hỏi:
Tổ Trúc Lâm nói: “Đói thì ăn, buồn ngủ thì ngủ”, và Linh Chiếu cũng nói: “Đói thì ăn, buồn ngủ thì ngủ”. Vậy ý trên như thế nào?

Đáp:
Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21 nói: “Tất cả đều là Phật pháp” và không dùng 2 chữ “cho là”, tức thế lưu bố tưởng không sanh ra trước tưởng là Phật pháp. Nếu sanh ra trước tưởng là thế gian pháp điên đảo tưởng, vì có cho “cho là”, cho là đúng, cho là sai, cho là có, cho là không,… đều thuộc chủ quan của mình xen vào sự vật.

Nếu không có chủ quan thì đói cứ ăn, khát thì uống, lạnh mặc thêm áo, nóng cởi bớt ra. Tất cả ăn uống, nói năng, tiếp khách, làm việc đều là Phật pháp. Còn sanh trước tưởng thành điên đảo tưởng (kinh Đại Niết Bàn).

Lời tác bạch của Thượng tọa Minh Hiền đại diện cho hành giả tham Tổ Sư Thiền dự Thiền thất tại chùa Hưng Phước, Quận 3.

Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Ngưỡng bạch Hòa thượng viện chủ chùa Hưng Phước.
Ngưỡng bạch Sư Phụ.

Con xin thay lời hành giả tham Tổ Sư thiền, ngưỡng bạch Hòa thượng và Sư Phụ. Vì sự cần cầu tu tập của chúng con, Hòa thượng đã từ bi cho chúng con tu tập thời gian qua, trong khi chúng con tham thiền có điều gì sơ sót, ngưỡng mong Hòa thượng từ bi cho chúng con được sám hối. Và Sư Phụ tuổi già sức yếu, vì thương tưởng chúng con mà khai thị để cho chúng con trên đường tu tập được lợi ích. Vậy chúng con hôm nay xin đầu thành đảnh lễ Hòa thượng và Sư Phụ.
Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Ngưỡng mong Hòa thượng và Sư Phụ chứng minh cho.

Lời đáp từ của Hòa thượng viện chủ chùa Hưng Phước.

Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
-Ngưỡng bạch Hòa thượng Thiền sư.
-Kính thưa Đại đức Tăng Ni và đạo hữu hành giả Thiền thất.

Chúng tôi hết sức hoan hỷ, bởi vì từ xa xôi cũng nghĩ nhớ đất nước là nói chung, nhớ đến Phật tử nói riêng, Hòa thượng cũng có quan tâm về đây, có những hoàn cảnh điều kiện họp các Phật tử lại sinh hoạt về tu tập thiền định, rồi chúng ta thực hiện, như vậy đã qua 3 thiền thất. Chúng tôi hết sức cảm kích với tinh thần cao cả truyền pháp của Hòa thượng hết sức cao quý.

Cho nên, tôi nghĩ rằng công đức này, các Phật tử chúng ta ghi tâm khắc cốt, riêng chùa của chúng tôi thì thấy quá nhỏ chật hẹp, những chỗ nghĩ ngơi và chỗ ăn uống chưa được chu đáo. Nghĩ rằng vì tánh chân tình mến mộ Phật pháp mà quý vị quan tâm thực hiện được 3 thiền thất. Như vậy tôi nghĩ công đức này hết sức lớn lao, vì mỗi ngày chúng ta tu hành như thế! Chư Phật long thần hộ pháp hết sức hoan hỷ và ghi nhận công đức của chúng ta.Việc chùa thiếu thốn như vậy, các vị cũng niệm tình hoàn cảnh, vì đạo pháp mà bỏ qua cho những gì thiếu sót.

Chúng tôi kính chúc Hòa thượng được nhiều sức khỏe và tăng cường đạo lực, trí tuệ được trang nghiêm, cũng cầu chúc cho Tăng Ni và Phật tử trong lớp tu thiền của chúng ta được đạt nhiều kết quả và tạo những thắng duyên sau khi lâm chung thị hiện Niết Bàn.
Và một lần nữa gởi đến lời cầu chúc gia đình quý vị được an khang, tu hành tinh tấn mau gặp được Phật pháp, để hổ trợ chúng ta trong việc tu hành được nhiều kết quả.
Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.



#43 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 05/09/2011 - 08:46

THIỀN THẤT KHAI THỊ LỤC(Thiền sư Lai Quả)

KHAI THỊ - thất đầu
KHAI THỊ
Ngày 17 tháng 10 (thất đầu ngày thứ nhì)

Đả thất để làm gì ? Chẳng có gì khác hơn là tinh tiến. Ta nói ngay ra là “chân” tinh tiến. Tại sao đả thất lại là chân tinh tiến ? Lúc bình thường, cho là các ông cũng có thể tinh tiến được nhưng chung quy khó có thể lâu dài mãi được, ấy là do lúc bình thường có nhiều công việc phiền nhiễu nên không thể trách các ông. Bởi vì vừa đang dụng công tinh tiến thì bảng gõ hối phải đi lên chánh điện, mới cảm thấy công phu hơi đắc lực lại phải đi quá đường, cho đến việc tuần hương, đổi phiên trực thiền đường, đều là những việc quấy rối sự dụng công. Nhưng hiện tại đả thất thì không như vậy, không thượng điện, không quá đường, cho đến đi tiêu giấy xúc cũng không cần các ông động tay, có thể cho là chu đáo lắm rồi !Ngày thường tất cả việc quấy rối làm cho trong lòng bận hết sức, nhưng hôm nay thì mọi việc quấy rối đều đã có người quét sạch cả rồi, chẳng còn tí nào nữa, như vậy có thể hoàn toàn tinh tiến được. Nhưng ta muốn hỏi các ông : Tuy mọi việc quấy rối đã quét sạch rồi, chỉ lo rằng trong lòng các ông lại quét không sạch thôi !Các ông quét sạch chưa ? Mọi người đều đứng ở đây, ta hỏi các ông : Sạch hay chưa ? Các ông hãy xét kỹ thử xem. Nếu muốn nhà chùa giúp các ông thành tựu, vậy thì phải buông bỏ tất cả, chỉ lo dụng công thôi ; các ông còn có được cơ hội tốt này, tất cả chẳng cần chúng ta phải làm gì hết, trống rỗng cả rồi, để thời gian trôi qua như thế lại là đả thất sao ?Để thời gian đi qua trống rỗng như thế thì thực là phụ ơn nhà chùa mà cũng phụ ơn bản thân các ông. Nhưng hôm nay ta còn để các ông tự phụ ơn mình sao ? Các ông phải biết cái loại nhân cho thời gian bỏ trống qua (hư tiêu tín thí) này như đã gieo xuống, đến khi cảm quả (quả địa ngục) thì không biết ra làm sao nữa ! Ta nói như vậy nhưng có lẽ trong lòng các ông lại không như vậy. Vậy thì như thế nào ? Quả thật tôi từ lúc vào thiền đường đến nay, việc thượng điện, quá đường, quy củ lớn nhỏ bận rộn hết sức chẳng có tí rỗi rảnh. Trước kia chịu nhiều khổ sở để học được Kinh Lăng Nghiêm, Pháp Hoa cho đến những đều thấy được, lãnh hội được còn chưa sờ mó (suy nghĩ) tới, ngày nay đả thất tốt rồi, chẳng có việc gì làm, tôi ngồi xuống ôn lại những việc tôi đã trao đổi từ lâu không muốn để quên mất.Đúng đấy ! Các ông ngồi xuống trong lòng có như thế không ? Ta thấy trong bụng các ông đầy ắp những Lăng Nghiêm, Pháp Hoa tuôn ra như nước chảy. Nhưng hôm nay lo việc căn bản đại sự thì những kinh giáo các ông chứa đầy trong bụng một chữ cũng chẳng dùng được ; không những một chữ cũng chẳng dùng xong mà ngay cả một mảy may cũng chẳng dùng được, các ông có tin không ? Ta thiết nghĩ : Sợ rằng không dễ gì tin được. Tại sao vậy ? Các ông cho là : Trong Thiền tông vì lẽ gì một chữ cũng dùng không xong ? Vậy thì lấy bảy chỗ trung tâm, mười phen hiển kiến trong Kinh Lăng Nghiêm chẳng là công phu sao ? Nhất chân Pháp giới trong Kinh Hoa Nghiêm vì sao Thiền tông một chữ càng dùng không được ? Thế chẳng phải khiến các ông khó tin sao ?Đúng đấy ! Vậy thì ta muốn hỏi các ông : Có tham câu thoại đầu không ? Các ông không cần hỏi câu thoại đầu là pháp lớn hay pháp nhỏ, cứ cho nó là cây củi mục vô dụng đi, các ông hãy nhai nó xem có mùi vị gì không ? Bảo các ông nhai thì cứ nhai thử xem ! Chúng ta mắt thì thấy giống nhau, ví dụ câu thoại đầu viết lên tờ giấy đỏ dán trên cột, các ông thấy, ta cũng thấy, có thể cho là cùng một nhãn kiến đi. Ta nói các ông thấy đỏ, ta thấy xanh, các ông có tin không ? Ta không những thấy được chẳng phải là đỏ mà lại là xanh, mà ngay cả xanh cũng bất khả đắc, các ông lại càng khó tin. Ta muốn hỏi các ông, cái câu thoại đầu như củi mục này các ông nhai có được tí mùi vị nào không ? Giả sử đã nhai ra được tí mùi vị, tự nhiên sẽ thấy không phải là đỏ mà là xanh. Lại thêm cái tinh tiến này trong thời kỳ đả thất thì chẳng phải ngay cả đến cái xanh này củng bất khả đắc sao ?Đến lúc đó ta sẽ hỏi ông : Lăng Nghiêm có còn không ? Pháp Hoa có dùng được không ? Cho đến tất cả kiến, văn, giác, tri có còn không ? Các ông thử nghiên cứu xem, có phải như thế hay không ?
Cho nên ta bảo các ông đem tất cả cái học, cái thấy, cái nghe, cái hiểu chứa đầy trong bụng quăng hết đi, quăng bỏ cho thật sạch hết, một chút cũng không cho còn, có lẽ các ông còn chưa chịu quăng bỏ, dù cho có bỏ cũng không chịu quăng bỏ cho sạch trơn. Mặc dù quăng bỏ cho sạch trơn rồi thì trong Thiền tông cũng chưa cho là xong việc đâu. Vậy các ông lại phải đem cả cái da bụng mà quăng tuốt đi luôn thì có thể cho là xong việc chưa ? Chưa xong đâu ! Việc trong Thiền tông còn phải đem quăng cả cái bụng đi thì mới kể là xong việc. Nếu chẳng quăng bỏ luôn cái bụng thì lâu ngày về sau nó vẫn còn chứa cái khác. Các ngươi hãy phát tâm. Tham đi !


KHAI THỊ
Ngày 18 tháng 10 (thất đầu ngày thứ ba)

Dụng công thiên nhật, ngộ tại nhất thì (dụng công ngàn ngày chỉ ngộ trong nhất thời). Giả sử công phu các ông được không tí nào gián đoạn, dụng công được ngàn ngày thì đối với sự khai ngộ ta dám bảo đảm. Giả sử công phu chưa đến được chỗ đó thì ta không dám bảo đảm. Trong các ông có người đã ở đây được năm ba năm, cũng có người ở chùa Kim Sơn được năm ba năm, tính chung là ở chùa Kim Sơn, Cao Mân mười năm, hai mươi năm khổ hạnh tại sao không được công phu ngàn ngày?Đã có công phu ngàn ngày thì không phải nhất định ở trong thời kỳ đả thất này sẽ khai ngộ sao ?Trong thời kỳ đả thất là chuyên môn để nắm chắc công phu khai ngộ, vì sao mà không khai ngộ được ? Bởi vì đáng tiếc cho các ông quá, tuy nói không có năm năm, mười năm, hai mươi năm công phu, mà ngàn ngày công phu cũng đã có rồi, nếu các ông không có được ngàn ngày công phu thì đối với sự khai ngộ hãy còn chưa làm đến được.Ta nói như vậy thì trong lòng các ông cho rằng : “Mùa hè khí trời nóng bức quá, lại còn lên chánh điện, quá đường, dụng công phu thì chưa được xứng đáng. Đợi đến thời kỳ thay đổi chức sự cần phải phép tắc lớn nhỏ, làm cho hết sức bận rộn, cho đến “gia hương” … đều không phải là lúc dụng công phu. Đả thất mới là chân thật dụng công phu, không được lại bỏ qua nữa.” Đại khái các ông đều như thế cả.Ta thấy cái tư tưởng này của các ông cứ cho là một năm chỉ có đả thất mới dụng công phu, mùa hạ thì kiết hạ, lúc thay đổi chức sự thì cũng là thay đổi chức sự, gia hương còn phải lên chánh điện, quá đường … đả thất thì mới cần dụng công phu, loại người như vậy là tệ hại nhất. Tại sao vậy ? Đả thất thì phải định kỳ thủ chứng, là lúc nhất văn thiên ngộ, chứ đâu phải là thời kỳ để dụng công phu ! Dụng công phu phải ngay trong lúc bình thường, ngày thường không chịu dụng công phu, đợi đến đả thất mới dụng công, thì đến lúc nào mới có thể khai ngộ được ? Ta nói đến chữ ngộ thì còn có phần của các ông không ?Ta cho các ông một thí dụ : Trước đời nhà Thanh, người đi học được mười năm rồi hễ gặp kỳ thi thì đi thi, phải không ? Nếu đến trường thi mà còn chưa biết viết chữ, nhìn mặt chữ không ra, trong khi thi mới tập viết như vậy phỏng có được không ? Ra làm quan có phần các ông không ? Trong thời kỳ mười năm học hành các ông không đi học, chỉ mang cái tên là người đi học, đến trường thi thì chỉ muốn được đậu làm quan, sợ là không xong rồi. Chúng ta hôm nay đả thất cũng giống như ở trường thi, khổ công ba năm đã đủ tư cách rồi, khi nhà chùa mở Thiền thất thì phải khai ngộ liền mới đúng. Các ông bình thường mang tiếng dụng công mà thật ra chẳng có dụng công gì cả, đến lúc đả thất làm sao khai ngộ được ? Cũng như không đi học mà đi thi, các ông sai lầm như vậy đã lâu lắm rồi, không phải mới hôm nay. Thế thì còn phải đả thất không ? Có phải là không đả thất cũng được chăng ?Bởi vì các ông không có một người có tư cách đả thất, các ông như vậy là phụ ơn nhà chùa, nhà chùa chỗ nào cũng vì các ông mà lo lắng, có một tí trái ngược với đạo thì mau mau sửa đổi cho tốt, như thế ta dám nói nhà chùa đã hết bổn phận đối với thiên hạ, chỉ có thể nói các ông phụ ơn nhà chùa chứ nhà chùa quyết không hề cô phụ các ông.Nếu có người dụng công phu được năm ba năm, mặc quần áo, ăn cơm, lên chánh điện, quá đường, đi cầu, ngủ nghỉ đã dụng công đến cực điểm, hôm nay đến chùa Cao Mân dự tính tham gia đả thất lại muốn được thủ chứng ngay, không ngờ nhà chùa không cho các ông đả thất, vậy thì nhà chùa cô phụ các ông rồi. Ta hỏi các ông còn có một người như vậy không ?
Ta lại hỏi các ông nữa : Đừng nói quá khứ ba năm, năm năm không dụng công phu đã bỏ luống qua, cả mùa hè cũng chưa đề lên một câu thoại đầu, cho đến vào Thiền đường gia hương cũng không biết đề lên câu thoại đầu. Bây giờ đang thời kỳ đả thất từng cây hương một, từng thất một, ngồi hương, đi hương đề được mấy câu thoại đầu ? Các ông xét lòng tự hỏi xem có làm đủ bổn phận đối với người đời không ? Đối với bất cứ việc học nào cũng vậy, đều cần phải nói đến tiến bộ; cái tiến bộ ở trong Thiền tông các ông có biết ở chỗ nào không ? Lên chánh điện có tiến bộ, quá đường có tiến bộ, đi cầu có tiến bộ, cho đến nơi nơi đều có tiến bộ cả. Các ông có biết lên chánh điện tiến bộ ở chỗ nào không ? Đứng trên chánh điện đầu không chút nghiên, thân cũng không tí nhúc nhích , như thế là tiến bộ. Tại sao ? Công phu dụng đến chỗ đắc lực, đầu làm sao nghiên được, thân làm sao nhúc nhích được ? Đầu hễ nghiên, không thấy sắc thì nghe tiếng, thân cử động không nhức thì ngứa, đâu còn công phu nữa ! Trong lúc quá đường, lên chánh điện, cho đến mọi nơi, ngay cả đi vào nhà tiêu đậy nắp cầu không ra tiếng, thậm chí nhướng mày nháy mắt, đi đứng nằm ngồi đều dụng công phu. Các ông cần nhận thức chỗ quý trong lúc bình thường của Thiền tông, cái chỗ tốt của Thiền thất. Các ông hãy phát tâm. Tham đi !


KHAI THỊ
Ngày 19 tháng 10 (thất đầu ngày thứ tư)

Pháp của Thiền tông vốn là bất lập văn tự, không mượn ngôn ngữ. Bất lập văn tự thì không có lời để nói, không mượn ngôn ngữ thì không có gì để mở miệng. Cứ theo như thế mà nói thì không cần phải nói chuyện sao ?Tại sao mỗi ngày có vài lần khai thị ? Phải hiểu rằng, trong Thiền tông nói chuyện vốn là bất đắc dĩ, vì tâm các ông mỗi mỗi đều khác nhau. Cái bất lập văn tự, không mượn ngôn ngữ của Thiền tông là cần phải đạt đến chỗ hành đồng nhất ; mười phương chư Phật, lịch đại Tổ sư hành như vậy, mới có thể nói không mượn ngôn ngữ. Nay vì các ông tâm hạnh khác nhau, trăm người trăm hạnh, muốn cả trăm người các ông đều quy về một tâm hạnh thôi, cho nên phải nói là vậy. Nhưng lời nói là lời nói của Thiền tông, trong Thiền tông bất cứ người nào cũng không cho giảng kinh điển, ngữ lục, công án. Các ông nghe vậy đương nhiên có mối hoài nghi : “Kinh điển chư Phật thuyết không được giảng, tại sao ngữ lục, công án của Tổ sư cũng không được giảng ?” Bởi vì giảng rồi đối với các ông cũng vô ích, lại thêm cho các ông tâm của trăm người lại phân thành mấy ngàn cái tâm.Đây là lẽ gì vậy ? Cái hạnh của các ông đều phải đi con đường hướng thượng, lấy cây thoại đầu làm miếng ngói gõ cửa, bia chỉ đường. Người xưa tuy có những công án “Lúc cha mẹ chưa sanh ra”,”Con chó không có Phật tánh” cho đến một ngàn tám trăm công án, nhưng bất cứ Tổ sư nào cũng đều phải ở một công án mà thâm nhập, cho nên Thiền đường Hòa thượng, vị Ban thủ hễ mở miệng là thoại đầu, ngậm miệng lại cũng thoại đầu, nói chuyện cũng thoại đầu, chẳng nói chuyện cũng thoại đầu, cái này là rất cần yếu trong Thiền tông.Trong bụng các ông cứ cho là tham thiền cũng như đi chơi ở Thượng Hải, hôm nay Tân Thế Giới, ngày mai Đại Vũ Đài, ngày kia Tiên Thi Công Ty mới tương ưng tâm của các ông. “Nhưng hôm nay đến Thiền đường, tại sao từ sáng đến tối, từ đầu năm đến cuối năm đều chỉ có một câu thoại đầu ? Một tí mùi vị cũng chẳng có, làm cho người ta buồn muốn chết đi !” Đúng đấy ! Lại nữa, lời khai thị chẳng có trình tự gì hết, không có hình ảnh văn chương gì hết, thực làm cho người ta chẳng muốn nghe, chẳng lạ gì khi người ta nói : Thông thiền mà không thông Giáo, cứ mở miệng là nói bậy.” Đúng ! Thật đáng thương xót cho các ông.Ta nói ấy là các ông không hiểu đạo. Giả sử như các ông thật biết nói bậy, thế thì tốt đấy. Tại sao ? ông không hợp cơ thì ông không chịu nghe, người khác nghe thì thấy hứng thú lắm ; ông nghe thấy tốt người khác lại nghe không tốt, bởi vì tâm hạnh mỗi người đều khác nhau, thì nói chuyện làm sao nhất trí được ? Cho đến việc làm văn chương cũng không có luôn.Các ông lại hiểu sai rồi ; ở đây không cho các ông làm chương, cũng không phải Giáo môn giảng kinh, y văn thích nghĩa, phân khoa phán giáo. Trong Thiền tông, cũng như hôm nay ta nói chuyện này chuyện kia, cũng có người nghe rồi nói tốt, lại lúc Sư Ban thủ giảng huyền giảng diệu, cũng có người nghe rồi nói tốt, cái này tức là “Thô ngôn cập tế ngữ, khái quy đệ nhất nghĩa” (lời nói thô và tế đều quy về đệ nhất nghĩa), cốt là ở nơi các ông biết nghe.Các ông phải hiểu được cái khổ tâm của người nói chuyện, vì các ông có tâm hạnh khác nhau, sự bất đồng ấy đều là vọng tưởng chấp trước của các ông, cho nên các ông có trăm cái tâm, người nói chuyện nói ra trăm cái pháp, muốn dạy cho các ông trăm cái tâm này quy thành một tâm, quả là chẳng dễ gì.Hôm nay ta giảng về đường lối công phu, người người các ông biết nghe giảng, nghe rồi trong bụng cảm thấy tốt lắm, tựa hồ còn cái nghi tình chưa giảng đến, vậy ngày mai ta sẽ giảng làm sao để khởi nghi tình lên. Các ông nghe rõ nghi tình biết khởi lên rồi, nhưng lại không kéo dài được, hôm sau sẽ giảng đến nguyên do gì làm cho nghi tình không phát khởi được, từng bước từng bước một giảng tới, cho đến từng thất từng thất một nói chuyện khác nhau. Thất thứ nhất giảng về việc dụng công phu, thất thứ hai giảng về con đường dụng công phu, thất thứ ba giảng về tiến bộ của công phu, thất thứ tư giảng về tin tức của công phu, thất thứ năm thì giảng về chỗ thấy của công phu, cho đến thất thứ mười, từ cạn vào sâu, từ xa đến gần.Hôm nay nói chuyện trình tự cho các ông biết rồi, các ông trong lòng có cái nắm được rồi. Hãy tham đi!
KHAI THỊ

Ngày 20 tháng 10 (Thất đầu ngày thứ năm)

Các ông đều là mộ Đạo mà đến đây vì chùa Cao Mân có đạo để tu, các ông người nào cũng đều như vậy cả. Nhưng nói câu mộ Đạo nghe ra thì thấy dễ nghe lắm, mà nói đến sự thực hành: Đạo tại sao phải mộ? Các ông từ ngàn muôn dặm muốn mộ cái Đạo của chùa Cao Mân, vậy không phải là hướng ngoại mộ Đạo sao? Mộ Đạo như vậy chẳng phải là hướng ngoại tìm cầu sao? Đâu cứ đều nhất định phải đến chùa Cao Mân mới có Đạo?Đạo vốn không có Đông, Tây, Nam, Bắc, cũng không có ông có tôi, cứ trực hạ thừa đương (ngộ ngay lúc đó) thì được rồi. Hai chữ “thừa đương” cũng là lời thừa, vốn không thiếu không thừa sẳn sàng đầy đủ. Tiếc thay chúng ta vô lượng kiếp trước với chư Phật cùng đã đồng diện mục, không những đồng diện mục, sợ còn có chỗ siêu việt hơn cả thập phương chư Phật ! Bỗng đâu được cái thân huyễn hóa này, rồi không chịu cái này bèn đổi lấy cái khác, không chịu nữa thì đổi lấy cái khác nữa. Từ cái này đổi qua cái kia, thay đổi mãi cho tới ngày nay, cứ mỗi lần thay đổi thì lại thêm một dấu vết làm cho bản lai diện mục của chúng ta bị che lấp kín mít, một tí hơi cũng không thấu được.Mặc dầu bị che lấp kín mít, nhưng nói chung không thiếu xót tí nào. Mười phương chư Phật cũng như vậy, Bồ tát, Tổ sư cho đến côn trùng nhỏ xíu cũng như vậy, sơn hà đại địa cũng như vậy, thảo mộc tòng lâm cho đến trong hư không, ngoài hư không cũng như vậy; trong một hư không cho đến vô lượng vô số hư không đều như vậy cả. Ông không thiếu sót, ta cũng không thiếu sót, chỉ tiếc một cái là không dám “thừa đương”. Giả sử chúng ta thừa đương được thì e rằng không phải là người như thế này đâu.May mắn cho chúng ta ngày nay được cái thân xác làm người này, trong thời kỳ “làm người” này phải nghĩ ra cách thế nào để có thể “thừa đương” được! Đối với cách thừa đương được của mình, cần các ông phải có lòng tin. Nhưng lòng tin trước hết phải tin rằng cái xác này chẳng bao lâu sẽ tan hoại, hoại rồi thì đường đi nhiều lắm, không hiểu kiếp nào mới được thành người nữa, đường trước mắt thì mênh mông không biết thế nào. Phải triệt để tin cái mặt mũi bổn lai của mình, phải hết sức tin tưởng mình như thế, không thừa đương thì không được, không hiểu cái ta thì không được.Tự tin được mình thì tiếp tục phải tin phương pháp của câu thoại đầu, câu thoại đầu là thừa đương mình, câu thoại đầu là phương tiện để hiểu mình, không phải chỉ nói câu thoại đầu có bao nhiêu cái tốt mà còn muốn các ông tự mình thấy đến được là câu thoại đầu xác thực không sai.Nhưng dạy các ông dụng công phu các ông lại cho rằng: ”Câu thoại đầu này dùng được gì đâu ? Niệm Phật là ai ? Niệm Phật là tôi, còn có người khác niệm Phật cho tôi sao?” Không những các ông sơ tham mới có tình hình như vậy thôi đâu, lúc ta còn tham học, đến các chùa thấy dán câu “Niệm Phật là ai”, thấy qua rồi cảm thấy hình như không giống với tất cả học vấn thế gian. Học vấn thế gian hễ học là thông liền, còn câu thoại đầu thì không dễ gì thông. Nghiên cứu như vậy niệm Phật là ai? Là tôi chăng? Suy nghĩ một hồi thì cảm thấy không phải là tôi, vậy lấy gì làm tôi? Hơn nữa, tôi nói niệm Phật là tôi, tôi hôm nay sửa tấm giấy đỏ lại, niệm Phật là tôi có thể được không? Nếu không sửa được tức là không phải tôi. Vậy không phải tôi thì là Phật sao? Không phải, tất cả đều không phải. Như vậy suy nghĩ phân biệt một lúc, quày đầu lại mới biết mình đã sai lầm rồi, ai dạy ông ở trong phân biệt suy nghĩ mà dụng công phu? Ông phải biết đề lên câu thoại đầu, cảm thấy không hiểu thì ở chỗ không hiểu không rõ mà đi tìm cứu cánh, ấy tức là nghi tình. Ở trong nghi tình này dụng công phu lâu đi rồi, dụng đến quày đầu trở lại, lúc ấy ông mới triệt để nhận thức được chính mình. Hãy tham đi!
KHAI THỊ
Ngày 21 tháng 10 (Thất đầu ngày thứ sáu)

Lúc Phật còn tại thế, có một người ngoại đạo đem hoa cúng Phật, lạy xong, Phật nói: ”Bỏ hoa xuống”. Người ngoại đạo bèn bỏ hoa xuống, Phật lại nói “Buông tay xuống”. Người ngoại đạo buông tay xuống. Phật lại nói nữa: “Buông thân ngươi xuống”. Người ngoại đạo đứng ngơ ngác cả nữa ngày, thân làm sao buông xuống được? Bèn hỏi :“Thưa Thế Tôn, thân làm sao buông xuống được?” Phật nói :”Không buông xuống được thì gánh lên đi!” Người ngoại đạo liền ngộ.Các ông thử nghĩ xem: hai chữ “buông xuống” còn có gì quý hơn đâu ? Cho nên ta thường dạy các ông buông xuống, thân cũng buông xuống, thế giới cũng buông xuống, hai chữ “buông xuống” cũng buông xuống luôn. Các ông chẳng những không chịu buông xuống, mà hình như muốn nhiều hơn chút nữa mới vừa lòng. Bởi vì trước kia đã có cái thói quen lấy được sự nhiều cho là tiến bộ, được ít là không tiến bộ. Cho nên hôm nay học kinh Lăng Nghiêm, ngày mai học kinh Pháp Hoa, ngày mốt học kinh Hoa Nghiêm, càng nhiều càng tốt.Các ông nghe nói hôm nay giảng câu thoại đầu này, ngày mai giảng “Trước khi cha mẹ chưa sanh ra,” ngày mốt giảng “Con chó không có Phật tánh”, mỗi ngày đổi một câu thoại đầu như thế mới vừa lòng các ông, nghe cho nhiều lắm thì mới thấy phải.Hôm nay ta bảo các ông buông xuống, thì phải buông xuống cho đến không còn chỗ nào để buông nữa. Cái chỗ không có cái gì để buông ấy cũng còn phải buông luôn. Nếu không lãnh hội được đích chỉ Thiền tông ở chỗ này, không chịu tin cái từ tâm tha thiết của Thiên tông thì các ông sanh ra sự hiểu lầm, đã có sự hiểu lầm này rồi thì gieo cái nhân phỉ báng, tương lai sẽ chiêu cảm cái quả phỉ báng, lúc ấy thì khổ chết thôi.Cái hiểu lầm của các ông ở chỗ nào? Thứ nhất, bảo các ông buông xuống thì buông xuống, buông xuống rồi trong tư tưởng mình suy nghĩ này nọ như ở trong cái động đen tối. Thứ hai, bảo các ông lấy cái nghe được, học được, lãnh hội được, tất cả đều buông xuống, các ông không chịu buông xuống, trái lại còn nỗi tâm sân lên nói rằng:”Thiền tông mở miệng không nói cái không đúng của Giáo môn thì nói cái không đúng của Tịnh Độ, đó không phải là chuyên môn phỉ báng Giáo môn, phỉ báng Tịnh Độ sao?”Các ông hiểu lầm như vậy ấy là “sai một mảy may mất đi một ngàn dặm” rồi. Bởi vì các ông không hiểu cửa Thiền tông là cái cửa gì, ấy là cái cửa tuyệt tướng, siêu tông, ly danh, ly tướng. Cũng không phải bảo ông hủy bỏ kinh điển, vứt bỏ Tịnh Độ, không có sự như vậy đâu! Chỉ bảo các ông trong thời kỳ tham thiền này phải buông bỏ tất cả, tức bảo các ông nghỉ ngơi cái tâm, cho nên nói:”Nghỉ ngơi tức là Bổ Đề”. Muốn bảo các ông nghỉ ngơi cho đến một mảy lông cũng không có mới được, nếu còn một mảy lông nào, sẽ che khuất cả hư không.Ta lại cho một thí dụ: Người đi học nghề thợ mộc, học được năm ba năm cho là học thành nghề rồi, cưa cũng biết cưa, bào cũng biết bào, vì kiếm không được nhiều tiền liền đổi sang nghề may vá. Học may thì học cầm kéo phải không? Ông đến tiệm may mà còn đem búa, đem cưa sao? Búa với cưa còn có chỗ dùng chăng? Không những búa, cưa đều không dùng được, cũng không cho cả cái tâm làm thợ mộc tồn tại; bởi vì tay ông cầm kim mà trong tâm lại là thợ mộc thì việc may vá của ông học làm sao thành được?Hôm nay các ông tham thiền đương nhiên phải lo việc tham thiền, tham thiền cần phải buông xuống, cần phải nghỉ ngơi, các ông đem sự học được, nghe được, lãnh hội được đựng trong bụng, thế còn có chỗ dùng gì được đâu! Thiền còn tham được chăng? Cũng như học thợ may đem búa đem đục đựng trong túi đeo trong người vậy. Các ông suy nghĩ cẩn thận xem có phải không? Không phải cứ nghe ta nói là xong việc đâu, cần phải trong tâm các ông lãnh hội triệt để mà nói “Đúng thế” mới được. Tham thiền cần phải buông bỏ muôn niệm, nếu có một tí không buông bỏ thì cái một tí này sẽ che khuất cả hư không. Các ông lãnh hội được chưa?Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay chỉ vì cái không buông bỏ, lớn là thế giới, nhỏ là thân tâm, một đời, một kiếp đến nay, tương lai lại chẳng sẽ là nối tiếp một đời sao? Chúng ta muốn làm người phản bổn quy nguyên mà không đem thân tâm, thê giới vứt bỏ hết thì phản bổn quy nguyên chỉ là nói suông thôi, thực hành thì làm không đến được.Nếu muốn danh và thực phù hợp nhau, thì trước hết cần phải biết: Thế giới từ đâu mà đến, Thân từ đâu mà có? Tâm lấy gì mà có? Nếu biết được thân tâm, thế giới từ đâu mà có thì mới có thể cắt đứt từ căn bản, một hết thì tất cả đều hết, mới là rút củi dưới đáy nồi ra (để nước ngưng sôi). Nếu không giải quyết từ căn bản, chỉ là múc canh để nước ngưng sôi thôi.Thế giới lấy gì mà có? Phải hiểu: Thế giới lấy thân mà có, thân lấy tâm mà có, tâm lấy mê hoặc mà có. Muốn quét sạch thân tâm, thế giới thì trước tiên trên căn bản phải quét sạch cái mê hoặc, mê hoặc quét sạch rồi thì tâm sẽ sạch, tâm sạch rồi thì thân phải sạch, thân sạch rồi thì thế giới đương nhiên sẽ sạch luôn. Như vậy phương pháp quét mê là đề lên câu thoại đầu, phương pháp này quét mê rất triệt để, mê nếu không có câu thoại đầu thì không thể quét sạch căn bản được.Các ông sau khi có thể lấy câu thoại đầu khổ công tham cho thông rồi thì hành cái hạnh đại bi cứu thế, cái hạnh nào lại không được đâu! Sợ cái học cả đời các ông không đủ dùng. Muốn các ông đều đầy đủ chánh tri chánh kiến để tránh cái hảo tâm vì đạo mà lại chịu lấy cái quả ác, phải nhanh chóng lên, hãy phát tâm. Tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 22 tháng 10 (Thất đầu ngày thứ bảy)

Thật tội nghiệp cho người đời nay, người nào mở miệng cũng biết nói liễu sinh, ngậm miệng nói thoát tử, nhưng sợ còn chưa biết cái gì gọi là sinh, làm sao gọi là tử. Chẳng những người thế gian như vậy, ngay cả người tu hành chúng ta cũng như vậy luôn.Lấy chuyện người xuất gia ngày nay của chúng ta mà nói, tối ngày dụng công phu sợ còn chưa biết dụng công phu làm gì, hiện tại tu nhân gì, tương lai cảm quả gì, chắc các ông chưa có một người hiểu được, tối ngày chỉ là trống rỗng trôi qua thôi. Cũng chẳng hiểu trời bao cao, đất bao dày, thế nào là Tứ Thánh, thế nào là lục phàm, chúng ta hôm nay ở thiền đường tu là tu nhân gì, tương lai cảm được quả gì, chắc không có người hiểu được. Các ông nếu có người hiểu được thì e rằng ta không bảo các ông dụng công phu, các ông còn chịu không dụng chăng?Các ông phải biết: Hôm nay ở thiền đường gieo cái nhân thành Phật, tương lai nhất định cảm được cái quả thành Phật. Người xưa nói “nhân nào quả nấy”, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Chúng ta người dụng công phu chỉ cần quyết tâm triệt để mà dụng đi, bất kể ba, năm, tám, mười năm cũng được, ba mươi năm, năm mươi năm cũng được, nói tóm lại: Lấy đại ngộ làm cứu cánh triệt để.Cổ nhân nói “Treo cao túi bát, lấy ngộ làm kỳ hạn”. Cứ ngay thẳng mà dụng công đi, quyết định lấy câu thoại đầu làm chánh hạnh của ta, dù kiếp này không ngộ thì phát nguyện kiếp sau, không hỏi ba kiếp, năm kiếp hay ba mươi kiếp, quyết định không tu pháp môn nào khác. Các ông muốn được cái chí nguyện kiên cố như vậy mà hành thì ta dám bảo đảm nhất định sẽ khai ngộ. Hành như vậy mà không khai ngộ thì chư Phật, Tổ sư há lại chẳng rơi vào vọng ngữ sao? Tổ Triệu Châu nói: ”Các ông hành như vậy mà không khai ngộ thì chặt cái đầu của lão Tăng đi”.Phương pháp tham thoại đầu này là phương pháp chơn thật bất hư, là pháp căn bản của tất cả các loài hữu tình, vô tình. Chỉ cần dụng công phu, không hỏi khai ngộ hay không khai ngộ, không cần ông lo nghĩ đến ngộ. Nếu chỉ muốn khai ngộ mà không chịu dụng công phu thì làm sao ngộ được? Cổ nhân nói: ”Không cần cầu ngộ, chỉ cần đề, lên câu thoại đầu thẳng tay ma tham, tham đến sơn cung thuỷ tận, “Ồ” lên một tiếng, được đến chỗ này, như người uống nước lạnh nóng tự biết”.Trong quá khứ có một vị tham thiền, ở thiền đường ba năm, chê trong thiền đường người đông làm lộn xộn, tự thấy công phu không được thâm nhập, bèn bỏ đi vào núi. Ở trên núi cất một nhà tranh, trồng một ít cải, ban ngày trông chừng không cho chim rừng ăn cải, ban đêm hổ sói tranh giành, ngày đêm chẳng yên, đối với công phu mình cũng bị xáo trộn. Ở trên núi ba năm rồi công phu cũng không thâm nhập được bèn chẳng muốn ở nữa, muốn tìm một căn nhà để nhập thất, như thế mới tương ưng với công phu. Đi khất thực được hai, ba năm, gặp một cụ già tại gia đã kiến tánh, bà ấy thấy người tham thiền này rất có đạo đức hành trì, bèn thỉnh đến nhà mời dùng cơm chay và nói chuyện về tâm rất tương đắc.Bà ấy nói: Thưa Đại sư, tôi muốn thành tựu cho sự nhập thất của người.Người tham thiền nghe rồi nói: “Rất tốt! Tôi đang muốn nhập thất đây.Bà ấy bèn đưa Sư nhập thất. Bà cụ trong nhà không có ai ngoài con gái mới 16 tuổi cũng đã khai ngộ. Bà sai con gái mỗi ngày đem cơm xuống cho Sư ăn, được ba năm sau bà bảo con gái:- Con đã đưa cơm được ba năm rồi, hôm nay đưa cơm, đợi thầy ấy ăn xong thì con đến ôm cứng lại bảo ông nói.- Người con gái nhớ kỹ và cũng làm theo lời dặn, đến ôm chặt rồi bảo rằng: Nói đi!Người tham thiền nói: Khô mộc ỷ hàn nham, tam đông vô noãn khí (cây khô dựa trên núi tuyết, mùa đông chẳng chút hơi ấm).Người con gái buông tay về nhà kể lại cho mẹ nghe, bà ấy nghe xong rồi mắng người tham thiền đuổi đi, đốt luôn cái am tranh và nói:Tôi cúng dường ba năm mà chỉ cúng dường một thằng chết!Người tham thiền nghe cảm thấy mắc cở bèn cầm bồ đoàn lên và đi khất thực nữa, tự trách mình được người ta cúng dường ba năm mà chưa khai ngộ, bị họ chửi mắng rất là tủi hổ, bèn ra sức công phu. Khất thực ba năm lại đến chỗ bà nọ, cùng nói chuyện công phu, yêu cầu bà cho nhập thất một lần nữa. Lại nhập thất thêm ba năm và ba ấy cũng bảo con gái đưa cơm như trước. Tròn ba năm, cô gái cũng y theo lời mẹ dặn trước, lại đến ôm chặt lấy người tham thiền bảo:Nói đi, nói đi!Kỳ này người tham thiển mở miệng đáp lại: Trời biết,đất biết, người biết, ta biết, đừng cho bà già ngươi biết.Cô gái về nhà kể lại cho mẹ nghe, bà mẹ nghe rồi trong lòng hoan hỷ nói với người tham thiền:Tốt lắm rồi! Tốt lắm! Tốt lắm! mừng ngươi đã khai ngộ rồi.Các ông nghe chuyện này rồi hãy tưởng tượng xem; ngươi biết, ta biết, đừng cho bà gia ngươi biết, nếu là người thế gian nói vậy thì có còn là chuyện tốt không? Đại khái các ông cùng có một cách lãnh hội như vậy, nếu lãnh hội như vậy là sai lầm rồi. Bảo các ông ở trên bổn phận mà lãnh hội, các ông tưởng tượng xem, có lãnh hội được hay không? Nếu không lãnh hội được thì cứ tham đi!

#44 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 07/09/2011 - 08:22

KHAI THỊ
Ngày 23 tháng 10 (thất thứ nhì ngày đầu)

Liễu sanh, thoát tử, minh tâm, kiến tánh, pháp tham thiền rất là đương cơ, cũng có thể nói là trùm khắp tam căn. Ta thật tin tưởng pháp nầy, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn không pháp nào sánh cùng pháp nầy. Nhưng mà trong các ông còn nhiều người không cho như vậy, cứ nghĩ rằng tham câu thoại đầu làm sao có thể vượt hẳn lên tám vạn bốn ngàn pháp môn được! Dù ông không tin thế cũng được, chúng ta hãy bỏ qua câu thoại đầu, các ông nói pháp nào được liễu sanh thoát tử trực tiếp nhất, triệt để nhất? Có cái nào khỏi cần tham, cũng khỏi cần dụng công phu mà có thể minh tâm, kiến tánh được không? Các ông nghĩ thử xem, nếu thực có một pháp nào so với tham thiền còn mau hơn thì ta cũng muốn theo các ông mà học. Bởi vì ngã kiến các ông quá sâu, thiện căn quá cạn, muốn trừ cái chấp kiến của các ông quy về một con đường lớn nầy nên cần phải chỉ ra cho các ông biết, các ông suy nghĩ cẩn thận xem: xem Kinh có thể liễu sanh thoát tử không? Niệm Phật trì chú có thể liễu sanh thoát tử không? Các ông đến nơi đây là vì sanh tử mà đến, đương nhiên cần phải nghiên cứu, không phải là việc nhỏ đâu, các ông thảo luận thử xem; coi Kinh chỉ có thể gieo trồng một chút thiện căn, biết được chút ít ý nghĩa, muốn nói liễu sanh thoát tử thì làm không xong. Niệm Phật, niệm A Di Đà Phật cũng có thể liễu sanh thoát tử, mà muốn bảo đạt đến đỉnh núi Niết Bàn thì làm không được, trì chú thì thân tâm được thanh tịnh, có thể được một tí thần thông, liễu sanh thoát tử thì không thể được, bởi vì xem Kinh, niệm Phật, trì chú đều là hướng ngoại tìm cầu, sanh tử của các ông không phải từ ngoài mà được, không dựa vào cái khác mà có, đều từ trong nhà mình mà ra, ông chạy ra ngoài càng chạy càng xa. Ông cần phải biết: tham câu thoại đầu tức là hướng vào trong nhà mà chạy. Tại sao vậy? Ta nói một ví dụ: như con cháu đi học, đọc quyển Bá Gia Tính Từ Triệu, Tiền, Tôn, Lý, Châu, Ngô, Trịnh, Vương cứ đọc thẳng một mạch bất quá mấy ngày thì thuộc lòng rồi, giả sử đọc câu Triệu, Tiền, tôn, Lý rồi hỏi đó là lý lẽ gì thì làm sao giải thích, cứ hỏi như vậy không phải là ngớ ngẩn sao? Chỉ trong câu Triệu, Tiền, Tôn, Lý mà nghiên cứu thì câu Châu, Ngô, Trịnh, Vương không phải mất rồi sao? Đạt đến chỗ thâm nhập của việc nghiên cứu thì Triệu, Tiền, Tôn, Lý, cũng mất tiêu luôn. Các ông hãy nghĩ: hai chữ niệm Phật, không phải A Di Đà Phật, A Di Đà Phật từng câu mà thẳng tay niệm. Hôm nay hỏi ông: niệm Phật là người nào? Đứng ngay chỗ nầy không phải quày đầu lại sao? Cũng giống như đọc câu Triệu, Tiền, Tôn, Lý, các ông suy xét cẩn thận thử một chút xem có đúng không? Niệm Phật là ai không phải là quày đầu vào trong nhà mà chạy sao? Hướng vào trong nhà là gì? Không có sanh cũng không có tử, nói minh tâm, kiến tánh cũng là lời nói dư, đến nhà tâm không đợi nói minh, bổn lai đã minh, tánh không cần kiến, đã saün sàng hiện tiền. Cái câu thoại đầu nầy bước một chân thì đưa ông đến nhà, chỉ cần có một câu mà có thể về nhà ngơi nghỉ yên ổn. Tại các ông không biết câu thoại đầu có chỗ tốt như vậy. Các ông tưởng rằng: "tối ngày cứ đề câu thoại đầu lên thì vọng tưởng cũng nổi lên nhưng lại không kéo dài được, vậy thì làm sao lại nói tham câu thoại đầu thì đến nhà được? Thực là làm cho tôi khó hiểu". Đúng thế! Các ông phải hiểu được: biết có vọng tưởng đó là công phu đã tiến bộ, đề khởi lên được mà kéo không dài, lại càng tiến bộ thêm. Các ông phải hiểu: bất cứ một pháp môn nào cũng ở trong vọng tưởng mà sinh hoạt. Làm sao biết được có vọng tưởng? Sở dĩ biết được có vọng tưởng cảm thấy không kéo dài được đều là tin tức tốt. Thực tại các ông tu đạo là đáng thương. Chúng ta đứng ở đây là người mấy chục tuổi cả, nói đến sanh tử thì không kể xiết, nên muốn tu đạo, truy cứu câu niệm Phật là ai không được thông, ba năm, năm năm cũng còn chưa thông, tình huống như vậy thì nói làm sao tu đạo? Nói sanh tử làm sao cho xiết? Chỉ để cho ngày tháng trôi qua thôi. Câu thoại đầu nầy tham không được thông còn kể được là người tu hành sao? Chỗ nào cũng cần thể diện, câu thoại đầu không thông thì không cần thể diện gì cả. Người có chút tri thức thì phải biết làm sao cho đúng bổn phận. Các ông còn có người nào chảy nước mắt không? Thật là tội nghiệp. Tất cả đều ở trong chỗ đen tối.

Ngày nay bảo các ông nhắm mắt lại, các ông đều nhắm mắt lại. Ta lại hỏi các ông: Mắt mở ra rồi có thấy được ta chăng? Mắt nhắm lại rồi ông còn tự mình thấy được mình không? Các ông nhắm mắt lại thì thấy tối um, một tí gì cũng chẳng thấy. Ta hỏi các ông nữa: đang lúc nhắm mắt lại rồi, bước thêm bước nữa thì đến chỗ nào? Các ông còn có ai nắm chắc được không? Các ông có hiểu được bước một bước nầy thì đi đến chỗ nào không? Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 24 tháng 10 (thất nhì ngày thứ hai)

Người mới phát tâm tham thiền dụng công sợ vọng tưởng, ngồi lâu sợ hôn trầm. Ta nói loại người như các ông thì dụng công không được, liễu thoát sanh tử không có phần của các ông. Tại sao vậy? Bởi vì các ông không biết phạm vi của vọng tưởng cũng như hôn trầm từ đâu ra? Các ông cần phải hiểu: Từ vô lượng kiếp đến nay lên thiên đường cũng nó, xuống địa ngục cũng nó, biến thành trâu ngựa cũng nó, hôm nay tu hành cũng là nó, muốn liễu thoát sanh tử cũng là nó, muốn thành Phật, làm Tổ cũng là nó. Cần phải hiểu rằng: trên từ thành Phật dưới đến địa ngục tất cả mọi cái đều do nó làm chủ. Lực lượng của nó lớn lắm, ông muốn sợ nó thì phải lìa xa nó, ông muốn lìa xa nó phỏng ông có lực lượng bao nhiêu? Lực lượng của vọng tưởng có tưới bao nhiêu nước cũng không vào được, còn lực lượng của ông chỉ cần một giọt trong số đó cũng đã thấm vào rồi. Các ông tưởng tượng xem sức lực các ông nhỏ bé như vậy thì làm sao mà lìa nổi cái sức của vọng tưởng lớn dường ấy được? Ông nhất định là sợ nó rồi, xa lìa nó không được, mà lìa không được lại càng sợ, còn một ngày lìa không được thì chỉ có sợ nó thôi, càng sợ lại càng lìa không được, ba năm, năm năm muốn lìa muốn sợ như vậy cho đến suốt đời cũng chỉ muốn lìa nó, sợ nó thôi. Các ông tưởng tượng xem còn dụng công phu được không? Nếu đã dụng công phu không được thì còn làm sao liễu thoát sanh tử được? Cho nên các ông sợ vọng tưởng, sợ hôn trầm là việc không đúng rồi. Lại nữa, vọng tưởng là làm sao mà lìa? Cả thân tâm các ông vốn là ở trong vọng tưởng. Bởi vì tâm các ông là tâm vọng tưởng, thân các ông cũng là thân vọng tưởng, thế giới cũng là vọng tưởng, trong hư không là vọng tưởng, ngoài hư không cũng là vọng tưởng, cử tâm, động niệm, đi đứng nằm ngồi, lằm việc đều ở trong vọng tưởng. Ta hỏi các ông: lìa vọng tưởng rồi ông ở chỗ nào? Lìa vọng tưởng rồi ông là người gì? Các ông hãy nghiên cứu cẩn thận xem còn có thể lãnh hội một tí nào không? Vậy thì làm thế nào mới có thể dụng công phu được? Vọng tưởng có nhiều chừng nào đi nữa cũng đừng đợ nó, vậy không sợ nó thì phải yêu nó sao? Cũng không được yêu nó. Không sợ nó, không lấy nó làm bạn ác, không yêu nó, không lấy nó làm bạn tốt. Giả sử ông yêu nó vậy thì đến phải xuống địa ngục rồi. Vì ông yêu nó thì phải tùy thuận nó, thuận nó thì phá giới, phá giới thì không phải xuống địa ngục sao? Cho nên, sợ cũng sợ không được, yêu cũng yêu không được, chỉ cần đề lên câu thoại đầu là cái gì? Khởi lên nghi tình để tham vấn truy cứu, nhưng mà hai chữ truy cứu chỉ cho ông truy cứu câu thoại đầu niệm Phật là ai? Rốt ráo là ai? Cứu kính là ai? Nếu mà cứ truy cứu cái đề khởi câu thoại đầu "Niệm Phật là ai?" là ai? Người biết truy cứu lại là ai? làm như thế thì không những không phải là truy cứu mà trái lại chỉ là ngược trở lại thôi, đây là việc bên thức thần không gọi là tham thiền, không thể liễu sanh thoát tử được! Vậy thì tham làm sao đây? Hôm nay ta cho các ông rõ: cái đường lối trực tiếp là ở niệm Phật là ai, là người nào, không hiểu được, cứu kính là ai cũng không rõ ràng. Ngoài ra một tí suy nghĩ, đoán nầy đoán nọ cũng không có. Các ông ở chỗ nầy thẩm định sâu sắc một tí xem có vọng tưởng không? Còn hôn trầm không? Hãy nghiên cứu cẩn thận, không phải chuyện nhỏ nhặt đâu. Các ông lúc tham thiền đi tiêu đi tiểu xong ngồi xuống, ngồi xuống rồi chưa nghe đánh bản chỉ tịnh còn phải đợi thêm một chút xíu nữa, đánh ba lần bản, một lần chuông chỉ tịnh rồi mới suy nghĩ đề lên câu thoại đầu thì vọng tưởng cũng đến luôn, chán quá! Muốn lìa bỏ vọng tưởng; một lìa, lìa không được, lại lìa nữa thì hôn trầm đến luôn. Đuổi vọng tưởng hôn trầm không được thì mặc kệ nó. Đến giờ khai tịnh thì cũng hết chuyện rồi, chạy hương thì chạy, đại khái đều như thế. Tiếc thay! Cứ như thế mãi thì cho đến tận vị lai cũng không có khi nào dứt được. Các ông muón thấy rõ cái khổ của việc sanh tử, cái khổ của tam ác đạo, trong nháy mắt đã bị lôi kéo đi, thực đáng sợ, đáng sợ lắm! Chỉ mong các ông triệt để nhận thức mau chóng đề lên câu thoại đầu tham cho thông rồi thì sanh tử sẽ không có phần của các ông, lục đạo luân hồi còn ở đâu lại được nữa! Các ông hãy phát tâm. Tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 25 tháng 10 (thất nhì ngày thứ ba)

Mở mắt thì không chiêm bao, tâm không khởi ý thì không có đối đãi. Ý nghĩa hai câu nầy ta giảng sơ qua: mắt mở thì cứ mở cho lớn thì không chiêm bao, mắt nhắm lại thì nằm chiêm bao, đại khái là như vậy. Nhưng ta nói: mắt nhắm nằm chiêm bao, mắt mở rộng lại còn nằm chiêm bao hơn, các ông tin hay không? Các ông nghĩ rằng mắt nhắm thì ngủ nằm chiêm bao, tại sao mắt mở rộng cũng còn nằm chiêm bao. Tôi có chỗ không tin. Đúng đấy! Nhưng ta nói các ông đứng ngay đây đang nằm chiêm bao, suốt ngày suốt đêm chiêm bao, mắt nhắm lại nằm chiêm bao còn có thể mau chóng tỉnh lại được, các ông mở mắt mà chiêm bao thì chẳng có lúc nào tỉnh, còn biết cái chiêm bao nầy sẽ kéo dài tới thời gian nào mới có thể tỉnh được? Tội nghiệp quá! Người chưa liễu ngộ đều là mở mắt nằm chiêm bao mà không hiểu được đang nằm chiêm bao. Muốn biết cái chiêm bao nầy lúc nào mới tỉnh lại được thì nhất thiết phải khai ngộ, khai ngộ rồi cũng như ngủ nằm chiêm bao thình lình tỉnh dậy. Ta hỏi các ông cái chiêm bao nầy còn có kỳ hạn tỉnh dậy không? Còn nói về cái tâm không khởi ý, ý tức là niệm, tâm có thể khởi thiện niệm, khởi ác niệm, nếu tất cả niệm đều không khởi ấy tức là không có đối đãi, đại khái ý nghĩa là như vậy đó. Kỳ thực không phải thế, cần phải thánh bất khả đắc, phàm bất khả đắc, niệm bất khả đắc, tâm cũng bất khả đắc, nói không rơi vào hai (có đối đãi) thì đã rơi vào ba, luôn cái nhất cũng bất khả đắc mới cho là có một tí tương ưng trong thiền tông. Trong thiền tông chính yếu là phá cái mở mắt chiêm bao, quét sạch mọi tà niệm. Chiêm bao không tỉnh được thì sanh tử không liễu được, tà niệm không trừ thì vọng sinh ra chi tiết, chi tiết vọng rồi thì thiện nhân chiêu ác quả. Ông tưởng là không sai: kỳ thật là báng Phật, phỉ Tổ, phỉ báng thiền đường, phỉ báng đại pháp luân, cái nhân nầy đã gieo xuống rồi thì khỏi nói nữa, phải đọa địa ngục A Tỳ. Mỗi khi có người nói: "Trong thiền tông nói nghe thì tốt lắm, có huyền có diệu, nhưng làm thì có chỗ như không đúng. Mỗi khi ngồi xuống lại buồn ngủ mà còn ngáy nữa", thế thì tâm ông sanh hột giống khinh mạn, ông làm như vậy thì cái nhân phỉ báng đã gieo xuống rồi. Tại sao vậy? Người xưa có câu chuyện tương tợ nay ta kể ra một câu chuyện xưa cho nghe: Ngày trước Tứ Tổ đến núi Ngưu Đầu ở Nam Kinh thấy có tử khí (hơi màu đỏ). Tổ nói: "Trong núi nhất định có người tu đạo." Tổ bèn trèo lên, thì gặp Thiền Sư Pháp Dung, có con cọp ở một bên, Tứ Tổ làm ra vẻ hoảng sợ, Dung nói: "Ông còn có cái nầy tồn tại sao?" Tứ Tổ nói thầm trong bụng "Đây là bậc Đạo nhân" rồi chạy đến chỗ ngồi bằng cỏ của Pháp Dung và vẽ một chữ Phật lên trên đó. Dung thấy có chữ Phật thì không dám ngồi, Tứ Tổ bèn hỏi: "Ông còn cái nầy tồn tại sao?" Biết được đồng là có đạo. Đêm đó Dung nhường chỗ cho Tổ ngủ, trên giường suốt đêm Tổ cứ ngáy. Sáng ngày hôm sau, Dung nói: "Ông thực không biết mắc cở, ngáy suốt đêm làm tôi ngồi không yên". Tứ Tổ nói: "ông còn làm phiền tôi, ông làm con rệp rớt xuống đất té gảy chân vừa kêu vừa nhảy không thôi suốt đêm làm tôi ngủ không yên". Người đời sau có hai câu nói:

"Pháp Dung khi chưa gặp Tứ Tổ thì như thế nào? Sau khi gặp rồi thì thế nào? Khi chưa gặp thì Trời, người đều cúng dường, vượn khỉ dâng trái cây, sau khi gặp Tổ chẳng còn ai cúng dường, quả chẳng ai dâng. "Các ông tham xem tại sao như vậy? Lúc ta ở Chùa Kim Sơn khi dụng công phu đắc lực nằm trên quảng đơn nghe tiếng ồn ào, ta đi xuống xem thì không thấy ai, tất cả đại chúng đều ngủ không một người nào nói chuyện, ta nhìn dưới đáy quảng đơn mới thấy hai con rệp cắn lộn nhau, ta mới đưa chúng tới liêu như ý, cho ít đồ ăn để chúng nó ăn. Các ông thử tưởng tượng xem, còn có thể lấy cái vọng tưởng của mình mà phân biệt được không? Điều ta nói chính là bản thân ta làm đến. Hôm nay ta nói cái chỗ hành của ta, sợ các ông còn có điểm hoài nghi, đợi khi công phu của các ông đến chỗ nầy rồi thì các ông sẽ được biết. Nhưng đợi đến các ông biết để ăn năn cái nhân phỉ báng đã tạo lúc trước thì đã trễ rồi, cho nên ta hôm nay đặc biệt chỉ ra cho các ông, ấy là việc rất cần cần lắm. Các ông hãy phát tâm, tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 26 tháng 10 (thất nhì ngày thứ tư)

Tham thiền dụng công quý ở chỗ hành. Hành được mới gọi là tham thiền, không hành, miệng nói tham thiền cũng như không. Chữ hành trong thiền tông rất quan trọng. Không những đời nay hiểu sai lầm cái chữ hành nầy mà ngày xưa người hiểu sai lầm cũng không ít; tất cả đều cho thấy được là xong, hoặc lãnh hội được sự kiện nầy người xưa nay đều vốn có, không cần tu chứng, hoàn toàn là vậy rồi, vậy còn hành cái gì? Cứ cho hành là dư thừa, kỳ thực thiền tông rất quý chữ hành, ấy là sự thực hành, chớ nên lầm tưởng. Phải biết cửa thiền tông là cửa vô thượng, cái hành của thiền tông là hành vô thượng. Muốn đạt đến mục đích trước tiên phải biết: chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay là do hành mà đến, tuyệt không phải khi không mà có được, cũng không phải người ta đưa ông đến; lên thiên đường cũng do ông đi, xuống địa ngục cũng do ông đến, thai trâu bụng ngựa cũng do ông đi đến, nay làm người như thế nầy cũng do ông hành tới, đại khái đều như vậy cả. Chẳng thấy người ta lôi ông xuống địa ngục. Từ đó suy ra phàm chúng sanh có sinh tử thì cũng từ lý nầy. Chúng ta dĩ nhiên đều biết tất cả đều do tự ta hành đến, vậy ngày nay muốn phản bổn quy nguyên đâu phải cứ nói ra là đến nhà được đâu, là lãnh hội được đâu? Thời gian tới phải trãi qua biết bao niên đại mới đến nơi xa như thế nầy, nay muốn phản bổn quy nguyên tất phải theo lối cũ mà về thôi. Hơn nữa, trên tâm hạnh các ông đều biết phiền não không tốt, vọng tưởng xấu xa, nghiệp chướng không được nổi lên, nhưng mà tuy biết phiền não là không tốt, phải vứt đi, vọng tưởng là cái xấu phải bỏ đi, sự thật thì có thể bỏ được chăng? Giả sử vứt được thì vứt ngay bây giờ xem nào, dù ông bản lĩnh to bằng trời sợ không làm được như lời đâu, đã không làm được thì không được như thế, theo thế mà nghiên cứu thì chữ hành tất nhiên không được thiếu sót, nhưng đối với người trung hạ căn mà nói thì cái hành này cũng giống như đi đường từ bao xa đến, khi trở về cũng phải đi từng ấy xa thì mới trở về được nguyên xứ. Ví dụ từ ngoài nghìn dặm đến hôm nay trở về cũng phải trải qua nghìn dặm, mỗi ngày đi trăm dặm thì phải đi mất mười ngày mới đi hết. Giả sử thiếu một ngày hay thiếu một dặm cũng không đến nhà được, lý do nầy thì nhất định. Nhưng đối với các ông người có chút căn cơ lại thêm vào đích chỉ trong thiền tông của chúng ta thì không cần phải đi như vậy. Chỗ hành của thiền tông thì như thế nào? Ông từ ngàn dặm đến đây, hôm nay không những không cần ông đi ngàn dặm mới đến được quê nhà mà luôn cả danh từ ngàn dặm đường cũng bất khả đắc, danh từ đã bất khả đắc mà còn muốn ông đi sao? Quày đầu lại là đúng rồi, gót chân không cần nhúc nhích hễ cử động là phải rồi. Các ông thử nghĩ xem: cái pháp tham thiền nầy có trực tiếp không? Người căn cơ thượng đẳng phải hiểu được rằng không phải sinh ra là đã được thượng căn rồi mà cũng là do ở chúng ta từ làm người hạ căn đạt đến trung căn, rồi từ trung căn thành thượng căn, đến thượng căn rồi thì nhất văn thiên ngộ (một nghe ngàn ngộ). Tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 26 tháng 10 (thất nhì ngày thứ năm)

Pháp tham thiền là một chính pháp cứu thế, cứu thân và diệu pháp cứu tâm. Chữ thiền nầy là cái cửa ngõ tất yếu mà làm người cần phải đi qua, người tham thiền không phải đã tham được thiền là xong đâu, thực ra phải có một tí mùi vị gì của tham thiền; vậy thì ông phải bận rộn hết sức, có bảo các ông dừng nghỉ một chút các ông cũng không chịu. Nếu chân thực đạt được mục đích của thiền thì việc thành Phật saün sàng trước mắt. Phật đây không có quốc độ nầy quốc độ nọ, không có chúng sanh chư Phật. Muốn thành Phật trải qua a-tăng-kỳ kiếp, cần phải xả đầu mắt, xả óc tủy tim gan, ngũ tạng, kết duyên cho với chúng sanh cõi đại địa, kết duyên cho đầy đủ rồi, nhân duyên thành thục thị hiện giáng sanh, khổ hạnh thành Phật tọa đạo tràng, một đời hoằng dương thánh giáo. Nhưng quả địa Phật nầy lại do nhân địa Phật tạo ra quả địa Phật, khi thành thì làm giáo chủ cả đại thiên thế giới. Mỗi người tham thiền các ông cần đạt đến mục đích của thiền, không những các ông ở tại thiền đường nầy mà cả tăng lẫn tục ở khắp nơi, nam hoặc nữ đều cần phải đạt đến mục đích của thiền, muốn đạt đến mục đích đương nhiên phải có một phen sự việc, còn mong các ông dư ra được mấy người không chỗ làm việc, ở đó mà ngủ gục, tại sao vậy? Mỗi thế giới có một giáo chủ, vậy vô lượng thế giới cho đến vi trần trong hư không đều có giáo chủ. Người thành Phật quá động còn dư ra mấy người không có thế giới để làm giáo chủ giáo hóa chúng sanh, đây là điều tôi hy vọng đối với các ông, không những ta hy vọng các ông như vậy, cả đến thập phương Chư Phật thấy các ông có cái tri thức tham thiền được như vậy cũng phải vui vẻ cười to, chư Đại Bồ Tát cho đến hộ pháp long thiên đều phải chắp tay hoan hỷ hộ trì các ông, không những hộ trì mà lễ bái cũng còn được nữa. Vì vậy ở trong đạo tràng nầy, thêm vào thời kỳ thiền thất được định kỳ thủ chứng, nên cần phải thiết tha nổ lực, mọi cái đều phải buông bỏ hết, buông đến sạch sành sanh. Tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 28 tháng 10 (thất nhì ngày thứ sáu)

Người trong thiền tông phải làm việc trong thiền tông. Các ông cần phải hiểu cái hành trong thiền tông là cái gì? Nếu không hiểu rõ thì cho ông có suốt đời ở thiền đường thì vẫn còn đứng ở ngoài cửa thôi. Hôm nay ta nói cho các ông biết qua, ấy là việc ở thiền tông không có gì khác ngoài việc tham thiền ngộ đạo, liễu sanh thoát tử nhưng tham thiền là tham ở nơi mình, liễu sanh thoát tử là liễu thoát sanh tử của mình chứ không phải là thay cho người khác, dù cho ông có bản lĩnh lớn bằng trời cũng không thể làm thay cho người khác được. Còn có người ở thiền đường tưởng rằng là ở thay cho người khác, cho đến làm mọi việc là làm thay cho người khác. Các ông phải biết rằng tất cả mọi việc, việc nào không phải việc của mình đâu? Các ông nếu là người có chút tri thức không đợi ta nói ra mà đã biết quay về với chính mình rồi. Lại có một số người tưởng ở thiền đường Chùa Cao Mân, dụng công là dụng cho Chùa Cao Mân. Trong các ông nếu có người như vậy thì còn xứng đáng là người làm cái việc trong thiền tông không? Tham thiền ngộ đạo, liễu sanh thoát tử còn có phần của các ông không? Vì vậy muốn các ông mở mắt thấy cho rõ. Nhưng tham thiền ngộ đạo liễu sanh thoát tử, hai câu nói đó gom lại chỉ là hai chữ tham thiền. Do tham thiền mà ngộ được đạo, ngộ đạo rồi sanh tử lý nào không liễu? Tóm lại là tham thiền. Đối với việc tham thiền thì thế nào là thiền? Thế nào là tham? Các ông cần phải biết rõ ý nghĩa tham thiền rất rộng. Ta sơ lược chỉ cho các ông một chỗ hạ thủ rất xác thực, mong các ông cứ nghe thì lãnh hội ngay và một mạch mà hành thì sẽ đến nhà. Trước nhất phải biết: từ vô lượng kiếp do một niệm bất giác nên đều hướng ngoại mà chạy cho đến nay vẫn còn bất tri bất giác, thậm chí đều không biết có nhà, vì thế nên gọi là chúng sanh. Phải biết hướng ngoại là gì? Hướng nội là gì? Hướng ngoại là lục đạo luân hồi sanh tử bất định; hướng nội là bổn lai diện mục cùng đồng một thể với chư Phật. Dạy các ông tham thoại đầu là dạy các ông hướng nội, tham thoại đầu tức là tham thiền, là hướng nội. Tóm lại, muốn thấy bổn lai diện mục mà không hướng nội là không được; không hướng nội ấy là sinh tử. Vì sao tham thoại đầu là hướng nội? Có lẽ các ông không rõ ràng, ta giảng một thí dụ cho các ông nghe: các ông đang ngồi đây ta hỏi các ông: "Có thấy bàn thờ Phật không?" Các ông đương nhiên trả lời là thấy, ta hỏi thêm: "Trên bàn thờ có gì?" Nhất định các ông sẽ trả lời là: Bên trong có Phật Tỳ-Lô và những thứ khác." Ta lại hỏi: "Người thấy bàn thờ Phật là ai?" Các ông hãy quay đầu hướng vào chính mình xem! Trong lúc đó không thấy có Phật, ngay cả bàn thờ Phật cũng không có luôn, các đồ vật khác còn có không? Không những không còn mà còn phải quay đầu lại tham vấn trên cái niệm của chính mình đi. Các ông thử nghĩ xem thấy bàn thờ là hướng ngoại, không thấy là hướng nội; không thấy bàn thờ Phật trên niệm nầy mà "truy" ấy là hướng nội. Theo như thí dụ nầy mà thấy thì tham thoại đầu cũng vậy. Niệm Phật, có Phật để niệm được là hướng ngoại; tham "niệm Phật là ai" thì cứ trên niệm ấy mà tham vấn, ấy là hướng nội, hướng nội tức là tham thiền. Hôm nay ta đem ví dụ về sự tham thiền giảng cho các ông nghe qua rồi các ông không được nói là không biết tham thiền, không hiểu được tham câu thoại đầu nữa. Ta hôm nay giao hẹn rõ ràng cho các ông rồi, hãy phát tâm. Tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 29 tháng 10 (thất thứ nhì ngày thứ bảy)

Người có một tí lợi căn thì dụng công không lấy gì làm khó. Không nhờ ở tu chứng, đương thể bổn lai chân tánh không dư, không thiếu, thanh tịnh quang minh không do người khác mà được, đều tụ mình saün có, chỉ vì các ông không thể hành như vậy thôi. Bệnh ở đâu? Bệnh ở nơi chữ "chướng". Chúng ta vốn không có mê, vì chướng mà có mê, chướng lìa thì ngộ, sanh tử vì chướng mà có, nếu không có chướng thì sanh tử cũng không. Nếu bỏ chướng đi thì bổn lai diện mục chúng ta đương nhiên hiện ra. Như vậy phải biết chướng là cái cửa ngõ trọng yếu của người dụng công phu, các ông có biết không? Nếu biết được cái chướng nầy thì các ông sẽ có biện pháp để trừ nó. Nếu không biết chướng là cái gì, lấy cái gì làm chướng thì còn nói làm sao trừ chướng được? Làm sao lo cho xong? Đối với người thông thường thì cho là: "sanh tử là chướng, sanh tử bên bờ nầy là chướng, bên bờ kia là Niết Bàn, Niết Bàn không phải là chướng, mê là chướng, ngộ tức không phải là chướng, trần lao là chướng, thanh tịnh là cứu cánh, chúng sanh là chướng, Phật là rất tốt". Đại khái là thế. Thiền tông thì không vậy, sanh tử là chướng, Niết Bàn cũng là chướng, mê là chướng, ngộ cũng là chướng, chúng sanh là chướng, Phật cũng là chướng, thân là chướng, tâm cũng là chướng, sơn hà đại địa là chướng, hư không cũng là chướng. Các ông còn tin chăng? Có người cho rằng: sanh tử là khổ đương nhiên là chướng rồi, Niết Bàn là lạc làm sao lại là chướng được? Chúng sanh là chướng, sao Phật cũng là chướng? Sưn hà là chướng, hư không tại sao cũng là chướng? Nói như vậy thì tôi cần dụng công làm cái gì? Việc trong thiền tông thật là khó tu quá! Đúng đấy! Các ông hồ nghi như vậy nên ta muốn chỉ ra cho các ông, muốn dẫn các ông đi trên đường đi của thiền tông. Nhưng ta chỉ vẽ cho các ông, dẫn đường cho các ông là muốn các ông tự đi, chứ nếu các ông không tự mình đi thì ta không đi thay cho được đâu. Tại sao trong thiền tông muốn nói sanh tử Niết Bàn, chúng sanh Chư Phật, bờ nầy bờ kia, thanh tịnh phiền não, mê ngộ, thân tâm, hư không đại địa đều là chướng? Phải biết rằng tất cả chướng không rời tâm, sanh tử là tâm, chứng Niết Bàn cũng là tâm, cho đến hết thảy hư không đại địa cũng đều là tâm cả. Cái tâm nầy là cái chướng căn bản, căn bản đã chướng thì còn chổ nào không phải là chướng nữa? Các ông muốn lìa cái chướng nầy thì phải có cách nào? Nếu nói: sanh tử khổ là chướng thì lìa bỏ nó, lạc của Niết Bàn cũng là chướng thì cũng bỏ luôn lạc đi; bờ nầy không trụ, bờ kia không trụ, phiền não không trụ, thanh tịnh không trụ, cho đến hư không cũng không trụ. Tóm lại, tất cả trần lao thế giới bên ngoài thân đều bỏ sạch, nhức ngứa trên thân cũng bỏ, vọng tưởng nhiều như cát trong tâm cũng bỏ. Phương pháp trừ bỏ như vậy sai hay không sai? Nhưng trong thiền tông không như vậy. Tại sao như thế? Nếu bỏ từng món một thì chẳng lúc nào hết được; bên nầy dứt thì bên kia sanh, chôn hồ lô trên nước thì không dễ gì được đâu. Đến nhà rồi thì mới có thể đem gốc của nó mà bỏ đi hết được. Thí dụ như mặt trời mặt trăng sơn hà đại địa v.v... tuy là sắc tướng nhiều lắm nhưng đều ở trong một cái hư không, nếu ta muốn bỏ mặt trời mặt trăng, sơn hà đại địa không phải là nhiều lắm sao? Nếu muốn bỏ lần lượt từng món vật cho hết thì e rằng không có bản lĩnh to như thế! Nếu ta có sức lực một tay đặp bể hư không thì còn cái gì nữa? Liễu chướng cũng như vậy thôi. Mặt trăng mặt trời và mọi cái khác cũng giống như những cái chướng nầy nọ của chúng ta, hư không thì cũng như tâm của chúng ta, nếu có thể đem tâm mà liễu bỏ được, thế không phải là trừ bỏ hết tất cả chướng hay sao? Pháp liễu tâm tức là tham thoại đầu; pháp nầy để trên niệm mình mà truy cứu, lâu ngày rồi thì tâm sẽ hết, vọng tưởng cũng sẽ hết, nhân, pháp, đều mất. Lúc bấy giờ thì các ông mới nhận thức Chùa Cao Mân, mới hiểu được lợi ích của câu thoại đầu ở thiền đường! Nhưng sự dụng công ngay bây giờ của các ông cần phải đề lên câu thoại đầu từng giây, từng phút mà truy cứu, chẳng hỏi động tịnh nằm ngồi đi đứng, niệm niệm không gián đoạn, có ngày các ông sẽ đập bể được hư không. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 30 tháng 10 (thất thứ ba ngày đầu)

Pháp luân chưa chuyển thực luân phải chuyển trước. Trong sự khó khăn vô vàn của nhà chùa, dù cho khó khăn đến đâu cũng phải ra sức duy trì cho nên phát khởi thiền thất cho các sư được chuyên tâm tu hành. Cũng vì đạo tâm của các sư thành khẩn cảm động đến hộ pháp long thiên và được nhiều vị trưởng lão ở các nơi phát đại từ bi, thấy nhà chùa đời sống thanh bần mà quan tâm đến đạo niệm của các ông vì thế đặc biệt cung cấp dầu, muốn, gạo, củi để nhà chùa khỏi phải lo lắng, các sư được an tâm tu đạo. Các vị trưởng lão nầy trước kia hoặc là thủ tọa hòa thượng. Tây đường sư phụ, hoặc đường chủ sư phụ, lâu nay vẫn thường quan tâm đến sự thanh bần của đạo tràng. Nhưng các sư đó không thể so sánh với người đại phú được, đều tiện tặn, ăn xài bỏn xẻn, tích tụ tiền bạc do y bát khất thực không dễ gì có được. Không thể nói là cứ ngồi ngồi, đi đi mà trai thực tiêu đi được đâu. Nếu các ông cứ cho như thế mà không có công việc gì khác thì làm sao có thể trang trải được nợ cơm! Người xưa đã nói: "Thốn hương năng tiêu đấu kim (một tấc hương có thể tiêu được đấu vàng)". Tại sao suốt ngày tọa hương mà không đủ trả được nợ cơm? Thật đúng lắm! Ta muốn hỏi các ông:

Từ sáng đến tối, tấc hương nào tiêu được đấu vàng? và tấc hương nào không tiêu được đấu vàng? Các ông hãy nghiên cứu thử xem? Không phải là việc nhỏ đâu! Ta thấy các ông đối với "tấc hương tiêu đấu vàng" đại khái còn chưa làm được. Đối với việc trang trải nợ cơm, ta không những có thể hứa với các ông mà còn có thể bảo đảm nữa. Ta bảo đảm ở chỗ nào? Là ở chỗ muốn cho các ông đối với câu thoại đầu không biết là ai, cứu cánh là ai, điều đó không hiểu được, rốt ráo là ai cũng còn không hiểu được; suốt ngày tiền niệm là câu thoại đầu, mà hậu niệm cũng là câu thoại đầu. Các ông tự mình đi như vậy thì ta bảo đảm các ông tiêu được cái nợ cơm. Ta muốn hỏi các ông có tham thiền hay không? Các ông đương nhiên trả lời:

"Suốt ngày tôi tham câu thoại đầu không mảy may gián đoạn", ta hỏi thêm các ông: câu thoại đầu không gián đoạn thì trên thân các ông có áo mặc không, quả đường còn ăn cơm không? Các ông trả lời ta cách nào? Nếu biết sự mặc là áo quần, sự ăn là cơm gạo thì không đúng rồi, tôi không dám bảo đảo đâu! Ngoài ra các ông còn trả lời ra sao nữa, hãy nghiên cứu thử xem? Mặc áo không phải mặc áo, ăn cơm không phải ăn cơm; cũng như người xưa nói mặc áo suốt ngày không dính một sợi chỉ, suốt ngày ăn cơm không cắn một hạt gạo. Nếu các ông tham thiền được như thế thì đầy là bằng chứng ta có thể bảo đảm. Trái lại, ta không những không dám bảo đảm mà ngay cả Phật Thích Ca cũng chẳng dám. Các ông phát tâm, hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 1 tháng 11 (thất thứ ba ngày thứ hai)

Tham thiền không phải là việc hưởng nhàn. Hôm nay là trong thời kỳ đả thất không cần phải nói lại con đường công phu làm chi nữa, nếu cần phải nói thì không còn đả thất nữa. Vì sao vậy? Vì lúc bình thường cần phải dụng công cho tốt, kịp đến lúc đả thất cần thêm tinh tiến thời ngộ ngay thôi. Nếu muốn nói đường đi trong thời kỳ thất vậy thì, đường đã nhiều lại thêm lắm: vọng tưởng, hôn trầm, chẳng biết đến tham thiền. Không biết đến việc phát khởi nghi tình, phiền não, vô minh v.v... lại càng thêm lắm. Cứ theo như thế mà vẫn còn được gọi là đả thất hay sao? Đả thất cần ở sự khai ngộ cũng như theo đuổi việc thi cử vậy. Kỳ thi không phải là lúc đi học, lúc bình thường cần phải học hành cho tốt. Một khi đã đến nơi trường thi rồi thì chỉ còn lo việc công danh. Giả sử vô trường thi chữ không biết lại còn đi tìm lấy người để hỏi, điều nầy có được không? Đả thất cũng như thế. Trong thời kỳ đả thất còn không hiểu được sự dụng công, lại cũng chẳng hiểu vọng tưởng và tham thiền có như nhau hay không, đầu mối sự phát nghi tình là như thế nào, như thế mà đả thất hay sao? Thật tiếc cho các ông không thể không nói được. Nếu mà không nói thì không những chỗ sâu xa không thấy đến mà chỗ nông cạn cũng chẳng nhìn ra, cho nên ta nay vì các ông mà nói, tham thiền khởi nghi tình là như thế nào? Phải biết câu thoại đầu là như thế nào? Không rõ cứu cánh là ai? Chẳng hiểu được là ai, rốt rào là ai? cũng chẳng biết là ai, không rõ không biết, mơ mơ hồ hồ tức là nghi tình vậy. Vọng tưởng với tham thiền đều là một vọng tưởng, cùng một con đường. Ta nói như thế các ông nghe lại cho là: "tham thiền cũng là vọng tưởng, vậy còn phải tham thiền làm gì? Vọng tưởng hóa ra là lục đạo luân hồi, tham thiền cũng là vọng tưởng vậy tham thiền không phải là luân hồi sao?" Cần phải hiểu được là chỗ khác nhau giữa vọng tưởng của sự tham thiền với vọng tưởng của vọng tưởng là thế nào? Vọng tưởng thì tùy nghiệp chuyển, tham thiền thì tùy tâm chuyển, tùy nghiệp chuyển thì tâm đi trước, các ông đi theo sau tâm. Nghiệp thì chuyển hướng về nẻo luân hồi mà đi, cho nên vọng tưởng là theo nghiệp chuyển, tùy nghiệp thì tất cả là sanh tử. Tham thiền thì tùy tâm chuyển. Tâm là cái gì vậy? Có phải quả tim bằng thịt của các ông không? Thế lấy gì làm tâm của các ông? Tâm, vậy thì ở đâu? Ở trong chăng? Ở ngoài chăng? Hay là ở khoảng giữa hay nơi nào nữa? Thật đáng tiếc! Các ông thật chẳng biết gì? Ta nói đưa chân lên, để chân xuống, đi đứng nằm ngồi, ra vào tới lui, tất cả chỗ nào cũng chẳng mảy may rời tâm cả, vậy có chỗ nào không phải tâm đâu? Ấy chỉ là mình thừa nhận không được thôi. Hôm nay ta hai tay mang đến trước mặt các ông sợ rằng các ông cũng chẳng biết ra được. Thế còn người nào có thể thừa nhận được chăng? Ta dám nói với các ông một người cũng chẳng có. Vậy thì câu thoại đầu đợi các ông tham cứu cho đến chỗ đắc lực, muốn các ông tự mình nhận thức một tí. Ta nói cái gì các ông cũng có thể tin lấy được, nếu công phu không đến được nơi nầy thì dù ta có nói tốt nữa cũng không dễ gì tin được đâu. Nhưng câu thoại đầu này nói là chân như cũng được, nói là Phật tính cũng được, nói là Pháp thân cũng được, nói là tâm cũng xong, phạm vi của nó rất rộng lớn vậy. Thật đáng tiếc cho các ông! Đối với tâm thì tuyệt không biết gì. Hôm nay ta dạy cho các ông hãy lấy câu thoại đầu làm tâm đấy. Câu thoại đầu đến nơi đâu các ông đến nơi đó, câu thoại đầu đi trước các ông đi theo sau. Nói tóm lại, lấy câu thoại đầu để xét tâm ta, hỏi tâm ta, truy cứu tâm ta, lâu ngày đi rồi cũng có thể làm sáng được tâm ta. Đây tất cả sẽ là: vọng tưởng tùy nghiệp chuyển tức là sanh tử, vọng tưởng tùy tâm chuyển tức là minh tâm. Các ông phải thấu đáo thấy được là lời ta có đúng không, việc ta nói là việc của ta, không liên can gì đến các ông, muốn cho các ông dụng công phu đến nơi ấy thì các ông tự mình sẽ thấy thôi, và các ông mới có được sự thụ dụng. Giả sử như lời của ta nói mà các ông đối với bổn phận mình lại không nghe không hỏi, thế thực là đáng tiếc! Đáng buồn! Phải hiểu được là: cái xác thân nầy, thời giờ thì hữu hạn, một khi đã ngã xuống rồi thì không còn gì để truy xét nữa. Tiền đồ thật không kham nghĩ đến. Cần phải nhanh chóng lên. Hãy tham đi!

#45 thanhlong4251

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 194 Bài viết:
  • 112 thanks

Gửi vào 08/09/2011 - 10:38

KHAI THỊ
Ngày 2 tháng 11 (thất thứ ba ngày thứ ba)
Về người dụng công có câu rằng: "một người địch với muôn người", câu nói nầy đối với người xưa thì thật là đúng, nhưng đối với người nay thì không hợp. Tại sao vậy? Vì đạo tâm người xưa sung mãn, trăm lần gãy đổ chẳng trở lui, một lần bạo gan nhảy tới có thể vượt qua được ngay, người nay đạo tâm không vững, cứ một lần gãy đổ thì phải lùi lại ngay, nhiều lần bạo gan nhảy tới cũng chẳng vượt qua được. Mà không bạo gan đối địch thì còn tốt chứ bạo gan đối địch thì trái lại phải đầu hàng. Như vậy làlẽ làm sao? Đó là vì một người chúng ta sức lực thì hữu hạn, muôn người khác mỗi mỗi đèu có sức lực rất lớn. Muôn người là ai? Là tham, sân, si, mạn, nghi và các thứ phiền não vô minh. Muôn niệm nầy thì đã quen thuộc từ lâu không cần các ông đến gần nó, nó cũng tự nhiên tùy thuận các ông. Cái niệm tùy thuận tự nhiên nầy có sức lực vô lượng, muôn niệm thì sức lực lại càng lớn không kể được. Hôm nay một niệm dụng công tham thoại đầu từ lâu chẳng thấy qua cũng như chưa từng làm qua, như vậy làm sao nó tùy thuận các ông mà lại còn muốn các ông đi tìm nó, thuận nó nữa. Rõ ràng cái niệm tìm nó cực nhỏ mà cực lạ, sức lực rất nhỏ. Thí dụ như một gia đình trai gái cháu con cùng với quyến thuộc đều tự nhiên đoàn kết nhất trí, bỗng nhiên có người lạ mặt ở đâu bên ngoài đến nói rằng: "các người hãy đi ra, nhà nầy là của ta". Các ông xem đấy, thế gia đình đó có chịu nhường người ấy không? Hay là muốn địch lại người ấy? Một mình ông có muốn đuổi họ như thế thì cả gia đình họ sẽ địch lại ông, thế liệu ông có địch lại họ không? Chúng ta một niệm địch muôn niệm cũng như vậy. Muôn niệm vọng tưởng đã quen thuộc là trong nhà saün sàng. Một niệm dụng công phu nầy là còn lạ còn mới, với muôn niệm thì nó không đồng lõa. Các ông nghĩ xem, như một người cùng với cả gia đình đấu tranh thì làm sao một người địch được cả gia đình người ta? Đó cũng là một lý cả. Vậy nếu địch không nổi thì phải có cách nào lo liệu? Không tùy thuận nó được thì bỏ sao? Biện pháp thì có, trước hết cần các ông thấy rõ được nguyên nhân không địch lại họ được là nguyên nhân ở đâu? Rõ được nơi đó thì đương nhiên mới có biện pháp. Nhân vì một người các ông muốn địch lại muôn người. Các ông có niệm địch lại thì ở ngoài mặt tự nhiên sẽ có trạng thái muốn địch lại. Các ông đã có trạng thái muốn địch lại biểu thị ra đương nhiên đó là vì có địch nhân mới có. Kẻ địch thấy ông muốn địch lại họ thì đương nhiên họ muốn địch lại các ông. Tỷ như một người dự bị cùng người khác đánh nhau, nhất định trên tay phải mang dao, đầu đội nón sắt, mình mặc giáp, đứng chỗ đất rộng. Các ông đã có dự định nầy thì đối phương cả vạn người cũng muốn đến để đánh nhau. Bọn họ cũng cần phải cầm dao, cầm súng xúm lại, các ông một khi đã thấy vậy thì còn có dám đánh nữa không? Có phải khi thấy đã muốn đầu hàng rồi không? Thứ nữa, các ông có dự bị cầm dao cầm súng đánh người, không những muôn người muốn đến đánh các ông mà một người hai người thấy được cũng muốn đánh ông nữa. Tại sao vậy? Ông đương đầu với họ thì đương nhiên họ cũng xem ông là đối phương, há có lý nào lại không đánh nhau? Đúng không? Tất cả lời nói trên đều là ví dụ, chúng ta hãy học các ví dụ. Các ông nghĩ rằng: vọng tưởng đến rồi thì mau chóng lấy câu thoại đầu đánh lui nó. Như vậy đánh với nó ba lần, hai lần, bất tri bất giác tùy vọng tưởng mà đi mất đến nửa ngày, biết ra rồi lại cho là: "lạ lùng thay, ta tham thoại đàu muốn hàng phục vọng tưởng ai dè vọng tưởng nổi lên cả nửa ngày mà cũng còn chưa biết", lại tham thoại đầu nữa, một khắc sau nghiệp chướng nổi dậy, ông vẫn theo như trước mà địch lại, ba lần địch, hai lần địch, bất tri, bất giác lại tùy nghiệp chướng mà đi mất, nổi nghiệp chướng lên cả nửa ngày mới biết. Các ông suốt ngày như thế mà địch với nó, bất tri, bất giác tùy thuận nó, tức là các ông dụng công "một người địch muôn người", thực ra người đời nay không thể dụng công được. Cần phải làm sao cho muôn người bỏ ác làm lành, tất cả đều đầu hàng, chúng ta chỉ cần chuyện chú giữ lấy câu thoại đầu không rõ ràng cứu cánh là ai? Cũng chẳng biết rốt ráo là thế nào? vọng tưởng đến ta không hỏi, nghiệp chướng đến ta không hỏi. Nói tóm lại, không rời câu thoại đầu. Phật là người nào niệm? Dầu cho nổi tình yêu, nổi vọng tưởng, nổi nghiệp chướng đủ thứ nhiều đến đâu ta cũng không hỏi. Ta vẫn còn giữ lấy câu thoại đầu để khởi nghi tình. Nghi tình phải rõ ràng, mạch lạc, cứ ung dung, ngay thẳng mà tham đi. Vậy thì vọng tưởng nổi lên mặc kệ nó, ta cứ tham câu thoại đầu của ta, mỗi người làm lấy việc của mình, các ông nổi vọng tưởng cũng được, không nổi vọng tưởng cũng được, ta cứ tham thoại đầu mà thôi, cứ giữ cái nghi tình không hiểu mà thôi. Để vọng tưởng nổi cho đã đi, nổi đến hết rồi thì không nổi nữa. Ta vẫn còn tham như thế lâu ngày rồi nó phải đầu hàng ta. Làm cho nó chí tâm quay về, thế không phải là phản vọng quy chân sao? Tỷ như ta mặc chiếc áo vá, đắp chiếc y, đầu đội mũ ngồi xếp bằng một bên đường, cho dù thiên quân vạn mã cầm đao súng đi ngang qua chỗ ta, ta có quan hệ gì đâu? Phải chăng nó đi đường nó, ta không phải là kẻ địch của nó thì làm sao nó lại đánh ta? Lâu ngày nó đi tới, đi lui, đi quen mãi rồi nó còn đến thỉnh giáo, thỉnh ta nói về tâm rất là thân thiện, có phải là quy thuận ta chăng? Các ông tất cả hãy nghĩ xem có đúng không? Ta với nó làm địch tất nó sẽ liều mạng với ta, ta không cùng nó làm địch nó sẽ thân cận ta, tùy thuận ta thôi. Các ông thử nghĩ ta chỉ với câu thoại đầu mà không minh bạch gặp vọng tưởng nào cũng chẳng hỏi, không lấy nó làm bạn xấu, cũng chẳng lấy nó làm bạn tốt, không đến gần nó cũng chẳng xa nó, dụng công tham thiền như thế thì còn gì tốt hơn. Rõ ràng câu thoại đầu nầy mà nhận chân tham cứu không cùng với tát cả vọng tưởng, nghiệp chướng làm bạn, không cùng với thiên, nhơn, A-tu-la làm bạn, cũng không cùng với Chư Phật, Bồ Tát, lịch đại Tổ sư làm bạn. Các ông e sợ mà còn mối hoài nghi mới hỏi: "Nói câu thoại đầu không cùng vọng tưởng, nghiệp chướng làm bạn còn có thể được không cùng Chư Phật, Bồ Tát làm bạn tôi có chỗ không tin". Đúng đấy! Không tin thì không lạ gì ông, ta muốn hỏi ông: Có tham câu thoại đầu hay không? Giả sử không có tham thì hãy tin lời ta. Hãy tham câu thoại đầu đến rốt ráo xem là ai, cứu cánh là ai? Các ông từ sáng đến tối cứ như thế không gián đoạn, liền không có kẽ hở, chính vào lúc nghi tình đắc lực, các ông hãy mở mắt ra mà xem, Phật có còn không? Tổ có còn không? Đấy, ấy phải là tự các ông đi đến nơi đó thì mới thấy được. Tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 3 tháng 11 (thất ba ngày thứ ba)

Trình tự của việc tham thiền, đại khái từ đa tâm đến thiểu tâm, do thiểu tâm mà đến nhất tâm, về sau từ từ đạt đến vô tâm, liễu tâm. Đa tâm của các ông bây giờ nhất định chẳng có đâu. Đa tâm là sao? là tất cả cảnh giới bên ngoài, hoặc Thượng Hải, Bắc Bình, hoặc Tô Châu, Nam Kinh cho đến tất cả mọi nơi đều là đa tâm cả. Đa tâm chẳng có thì còn có thiểu tâm, thiểu tâm lại là cái hình sắc thấy được, âm thanh nghe được ở chốn thiền đường, cho đến chỗ thiểu tâm nầy, đại khái là có vậy. Hôm nay nói câu thoại đầu nầy, ngày mai cũng nói câu thoại đầu nầy, lâu ngày rồi sẽ tự biết do thiểu tâm đến nhất tâm, nhất tâm lại là cái tâm tham thoại đầu, còn cái gì khác nữa cũng chẳng có: đi, đứng, nằm, ngồi cũng là cái tâm nầy; mặc áo ăn cơm cũng là cái tâm nầy. Với cái tâm nầy đã quen thuộc rồi thì đối với vô tâm, liễu tâm đều có thể tiếp tục đạt đến được. Đây cũng là trình tự dụng công tham thiền trong thiền tông cũng không phải là giáo môn nói theo lục thức, nhất thức, bát thức, trần sa vô minh. Thiền tông chỉ là: từ nhiều đến ít, từ ít đến không. Nhiều nhất chỉ là nói thô hay tế, đó là phương tiện cùng cực. Lại nữa, câu thoại đầu nầy, các ông thực không ưa nghe "ngày nào cũng nói, nhiều quá đi rồi, chán nãn quá! Mà có cái gì nói đâu, câu thoại đầu ấy một chút mùi vị cũng chẳng có". Các ông đã không thích nghe mà tại sao ta còn cứ muốn nói câu nhạt nhẽo nầy? Vậy thì ta muốn hỏi các ông: muốn hay không muốn tham thiền? Các ông là người làm việc gì? Nếu là người tham thiền muốn liễu sanh thoát tử, vậy thì sanh tử muốn liễu thoát đó, thiền thì nhất định phải tham. Đa tâm thì người nào cũng có, các ông dùng phương pháp nào mà có thể làm cho đa tâm thành thiểu tâm, làm cho thiểu tâm thành nhất tâm cho đến vô tâm, liễu tâm? Trình tự tham thiền không trải qua con đường nầy tất không thể nào được liễu tâm. Cái pháp tham thoại đầu nầy thì rất xứng đáng, thâu đa tâm thành thiểu tâm, từ thiểu tâm mà đến nhất tâm, vô tâm, liễu tâm. Các ông không tin vào cái pháp nầy, thế các ông có thể tin vào cái pháp nào nữa? Nếu các ông thực không tin, chẳng thèm nghe, ta cũng chẳng cần nói. Câu thoại đầu cũng không có gì là phạm vi lớn cả, chỗ của nó rất nhỏ, một tấc, một phân cũng chẳng có. Nói cho gọn thì có thể nói thật là nhỏ, bỏ nó vào tay cũng được, bỏ xuống chân mà đạp lên cũng được, đặt lên đầu lông mày cũng được. Các ông xem đó mà cho là một việc không đáng kể. Tiếc thay! Tất cả chúng ta đều ở trong căn phòng nhỏ bé nầy, các ông ở trong đó ta cũng ở trong đó, thập phương Chư Phật, lịch đại Tổ sư cũng đều ở trong đó. Các ông còn có một người nào không ở trong đó không? Còn có thể ra khỏi phạm vi bé tí ti nầy không? Ta hỏi các ông: có ra được hay không ra được? Không ra được, đầu thai thành trâu cũng từ nơi nầy ra, ngựa cũng từ nơi nầy ra. Các ông còn có người đứng ra nói: "Tôi không ở trong, tôi đã ra ngoài rồi". Các ông còn có người nào đứng ra nói như thế không? Đại khái các ông không có người nào như vậy. Giả sử các ông có một người nói:

"Ta đã ở bên ngoài rồi" cũng còn chưa đúng, ông ở bên ngoài, ta ở bên trong, đem bên trong bên ngoài quăng bỏ đi hết thì mới đúng. Nếu trong ngoài đều không vứt bỏ thì chưa được kể là liễu sự. Câu thoại đầu mà các ông không chịu nghe nó không có mùi vị thì kết quả vẫn còn ở trong bụng nó, không ra khỏi phạm vi của nó được một bước. Có bản lĩnh lớn nhất cũng không làm gì nỗi nó. Các ông còn phải tin nó không? Nếu không tin nó thì các ông có bản lĩnh gì ra khỏi phạm vi của nó không? Tại sao muốn nói câu thoại đầu làm cho ta tất cả đều ở trong phạm vi của nó? Bởi vì một câu thoại đầu nầy là ai, rốt ráo không rõ được vì bị nó nhốt lại đến chặt cứng. Cái cửa nầy phá không được tất nhiên thiên đường, địa ngục, thai trâu bụng ngựa cũng không phá được. Chung qui bị nó nhốt lại, nếu muốn phá cửa nầy thì cần phải tham câu thoại đầu. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 4 tháng 11 (thất ba ngày thứ năm)

"Chỗ lạ chuyển thành quen, chỗ quen chuyển thành lạ" nói chung là pháp thế gian và xuất thế gian đều như thế cả. Tỷ như có người ở Chùa Kim Sơn các ông thì sự việc trong Chùa đều biết, không những là nhà cửa, cột kèo, ngói gạch các ông cũng đều đếm qua từng cái, cũng có thể nói là thông thuộc lắm vậy. Ngày nay đến Chùa Cao Mân một chỗ cũng chẳng thông, cái gì cũng không hiểu được, đây hoàn toàn là lạ vậy; đây cũng là cái lý thông thường thôi và mọi người đều thấy được cả. Tuy nhiên Chùa Cao Mân là lạ, Chùa Kim Sơn là quen, các ông được ở Chùa Cao Mân một ngày thì đương nhiên sẽ quen được một ngày. Người mới bắt đầu tuy ở Chùa Cao Mân, nhưng tâm vẫn ở Chùa Kim Sơn, đợi đến khi ở được một năm thì mới quen được một năm, ở cho đến hai mươi năm, ba mươi năm thì đương nhiên Chùa Cao Mân cũng quen thuộc cùng cực. Cao Mân quen được một ngày thì Kim Sơn lạ đi một ngày, Cao Mân quen được một năm thì Kim Sơn lạ đi một năm, ba mươi năm cực quen thuộc Cao Mân rồi thì Kim Sơn cũng cực lạ rồi, đây cũng là lẽ thường. Đối với chúng ta thì dụng công cũng như vậy. Câu thoại đầu từ vô lượng kiếp đến nay chưa thấy qua, lại cũng chưa làm qua, nổi vọng tưởng, nổi nghiệp chướng quen thuộc lắm rồi từ vô lượng kiếp đến hôm nay, chẳng mảy may có giây phút nào lìa khỏi nó. Sống trong vọng tưởng đã rồi nổi nghiệp chướng, nghiệp chướng nổi đã rồi lại khởi tình ái, tình ái khởi đã rồi đi đến chỗ nổi giận, như thế suốt ngày, suốt năm, đời nầy đến đời kia, kiếp nầy đến kiếp kia, không phút nào ngừng nghỉ, tất cả những điều nầy đều quen thuộc cả rồi. Hôm nay muốn các ông tham câu thoại đầu, một chút hình ảnh đều không thấy, một câu thoại đầu mới đề lên vọng tưởng đã nhanh chóng lôi nó đi, gắng sức đề lên một lần nữa, hai lần nữa nhưng tâm vẫn còn ở trong vọng tưởng. Các ông muốn suốt ngày không rời câu thoại đầu, rốt cuộc lại bị vọng tưởng nghiệp chướng dắt đi. Tại sao vậy? Đó tất là vọng tưởng nghiệp chướng thì hoàn toàn quen thuộc còn câu thoại đầu thì xa lạ hoàn toàn, cũng giống như Chùa Kim Sơn thì quen mà Chùa Cao Mân thì lạ vậy. Giả sử như nếu có vọng tưởng thì cũng còn là câu thoại đầu, không có vọng tưởng cũng là câu thoại đầu, nổi nghiệp chướng cũng là câu thoại đầu, chẳng nổi nghiệp chướng cũng là câu thoại đầu, lạ cũng là câu thoại đầu, quen cũng là câu thoại đầu, đề lên được cũng là câu thoại đầu, không đề lên được cũng là câu thoại đầu. Chung qui có thể không ăn cơm, không ngủ nghỉ, nhưng không có câu thoại đầu thì không được. Hôm nay thì lạ, ngày mai cũng lạ, lâu ngày đương nhiên sẽ thành quen, cho đến mỗi năm lại càng thêm quen, hai mươi năm, ba mươi năm chắc chắn sẽ quen thuộc hoàn toàn thôi. Câu thoại đầu từ lạ mà dần dần chuyển thành quen, vọng tưởng nghiệp chướng từ quen mà dần dần chuyển ra lạ. Câu thoại đầu đã quen thuộc rồi thì vọng tưởng nghiệp chướng, thế sự đều sẽ thành xa lạ thôi. Như quen thuộc Chùa Cao Mân xa lạ Chùa Kim Sơn vậy, các ông có một chút tri thức ta nói như thế thì các ông sẽ hiểu được sự quan hệ giữa lạ và quen, thì có phải là cần khổ công tham cứu không? Cần tham cứu lâu dài không?

Tham không được, không có bệnh nào khác, bởi vì quá lạ nên vọng tưởng nghiệp chướng không đánh lui được, không dằn xuống được, muốn được lạ chuyển thành quen, quen chuyển thành lạ đương nhiên cần phải khổ công tham cứu câu thoại đầu, lâu rồi cũng đến một ngày phải thành công thôi. Công phu không dụng được đó là vì ông không triệt để tin vào pháp tham thoại đầu nầy. Tại sao vậy? Bởi vì câu thoại đầu đề lên cũng như núi bạc, vách sắt, kêu ông đi thì ông phải bước chân vào chỗ nào? Chẳng những không có được đường đi mà ngay cả nơi nghỉ chân cũng chẳng có, mở mắt xem thì không thấy đồ vật, lắng tai nghe cũng không nghe được âm thanh, mắt thấy không được, tai nghe không được, chỗ để chân cũng không có, bảo ông đi thì làm sao ông đi được? Ông không đi được ông còn tin được sao. Nhất định là không tin rồi, vì từ vô lượng kiếp đến nay nơi đi đều có hình sắc thấy được, có âm thinh nghe được, có đường đi được. Ngày nay dạy các ông tham câu thoại đầu, cái chỗ nầy không giống như nó đâu: xem không được, nghe không xong, chân không có chỗ đặt xuống thì hình như khổ muốn chết đi. Các ông cho là: "Từ trước nơi nào cũng đến qua rồi, cái chỗ tham câu thoại đầu không đầu không đuôi, chẳng có đông tây, nam bắc, chẳng tư duy trên dưới nầy, không những chẳng có người nào mà ngay cả ta cũng không có được. Chỗ nầy chưa có đến qua làm sao có thể dạy ta tin được, tin cái gì? Có cái gì hãy đưa ta xem, có âm thanh gì hãy cho ta nghe mới được chứ, thì bây giờ tôi mới có thể tin được, thí dụ có một cô gái mặc áo đỏ xanh, mặt mày thật đẹp đẽ, mở miệng nói tiếng nghe rất hay, ông bảo tôi tin thì tôi nhất định tin, bởi vì nhìn thấy sắc đỏ xanh, nghe được tiếng êm dịu, tự mình mắt thấy tai nghe thì phải tin thôi. Hôm nay tham câu thoại đầu rỗng không, cái gì đâu cũng chẳng thấy, lại còn bảo người tin làm sao được, thực là làm cho người ta thấy khó chết đi thôi!" Cũng giống như dạy các ông đi trên hư không vậy, chẳng đi thì không qua được, muốn đi lại đi không đến, không đi cũng buộc phải đi, hôm nay cũng buộc, ngày mai cũng buộc, buộc cho tới không có cách nào thì phải đề câu thoại đầu mà tham. Không có chỗ để chân cũng phải bỏ một chân, không thấy được vật gì, nghe chẳng được âm thanh nào thì chẳng quản gì nó lại cũng từ nơi nầy hướng tới trước mà đi xem, đợi đến khi ông bước một bước hình như có một chỗ để chân xuống, chẳng quản gì nó lại đi thêm một bước nữa, à! có thể đi được rồi, lâu dần đi, từng chút từng chút một bước về phía trước, cứ như thế thì có thể bước ra đến một con đường sáng sủa, cũng như bảo ông đi trên hư không không nơi đặt chân. Cần phải buộc ông đi, hôm nay cũng buộc, ngày mai cũng buộc, cứ buộc tới không có cách nào cũng phải hướng tới trước mà đi từng tí từng tí một. Lâu dần đi thì đi trên hư không cũng có thể đi được, đi quen rồi cũng không thấy quái lạ gì, muốn lăn người, muốn nhào lộn cũng có thể cho ông tự do. Đó là lẽ làm sao? Chẳng có gì khác cả, chỉ là quan hệ giữa lạ và quen. Lạ là không động, nếu quen rồi thì cái gì cũng làm được hết. Tham câu thoại đầu cho quen thuộc rồi lại còn lý gì mà không dụng công phu được nữa đâu. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 5 tháng 11 (thất ba ngày thứ sáu)

Người muốn liễu thoát sanh tử thì phải siêng dụng công phu, người không biết sự sanh tử thì tối ngay sống trong sự khổ cực. Đối với người ở chốn tòng lâm thường tình đều như thế cả, người có chút đạo tâm biết hai chữ sanh tử là lợi hại đương nhiên không liễu thoát nó không được. Việc thế gian có thể ngưng lại một bước nhưng việc sanh tử thì gấp lắm, không cho chậm trể được. Người muốn hành đạo thấy được đả thiền thất họ sẽ mừng lắm, phấn khởi tinh thần tham gia, bởi vì lúc thường thì có nhiều sự phá rối việc công phu, mặc dù phục vụ nhà Chùa là vun trồng cội phúc đối với bổn phận của mọi người thì nói vun trồng cội phúc cũng được, nói là việc quấy rối công phu cũng có thể được. Trong thời kỳ đả thiền thất nầy việc gì cũng khỏi làm thì công phu mới xứng đáng. Một nén hương rồi một nén hương tự mình xem xét mình, nén hương nầy công phu còn đắc lực, nén hương kia nửa nén đắc lực, nửa nén thì không, tự mình xét mình tất cả, tự mình buộc lấy mình, nén hương trước không đến nơi đến chốn nén hương sau có được hơn nửa đắc lực, thì một nén hương nữa có thể đắc lực hoàn toàn. Từng bước từng bước tiến lên. Người muốn liễu thoát sanh tử cứ mãi lo sự tham cứu nầy, và người không có chút đạo tâm sẽ nghĩ rằng: "Ngày thường còn có chút việc để tiêu khiển, còn có thể mượn sự làm việc để giải buồn mà hôm nay đả thiền thất thì hỏng rồi, một chút việc cũng chẳng có, thật làm ta buồn muốn chết đi. Từ sáng đến tối chỉ đi đi, ngồi ngồi trong thiền đường, không thì đi cầu tiêu đại và tiểu tiện trong lúc khai tịnh, ngoài việc quả đường ra thì cũng chẳng thấy được cảnh giới bên ngoài, thực làm cho người ta thấy khổ muốn chết đi, một khắc thời gian cũng không có". Thế là lý lẽ làm sao? Bởi vì tâm của các ông không có giờ phút nào ngừng được. Ngày thường ngoài việc nổi vọng tưởng, làm công việc, làm rồi lại nổi nghiệp chướng nghiệp chướng nổi đã rồi thì đi ngủ. Mở mắt tỉnh dậy lại nổi vọng tưởng nữa. Hôm nay đả thiền thất không có việc gì để làm, muốn ngủ thì không cho nhưng ông nổi vọng tưởng thì không ai làm gì nổi cho ông được, không những ta mà ngay cả Phật Thích Ca cũng không làm gì được cho ông. Cho ông nổi vọng tưởng nhưng chỉ nổi vọng tưởng thôi thì còn thấy không vui. Ngoài nổi vọng tưởng tâm không còn vật gì để dựa vào. Lo cái tâm cực khổ, lo nén hương dài quá, lo lúc đánh bản thì không hiểu sẽ được ăn món gì hoặc là vị giám hương đánh bản quá mạnh. Tối ngày cứ lo việc nầy không còn việc gì khác. Các ông những người như vậy thì không ít. Nếu không sửa đổi thì ta nói thật, ta không khách sáo với các ông, các ông làm người như vậy tức là tội nhân. Các ông tưởng rằng không có phạm pháp chi thì làm sao gọi là tội nhân? Đúng đấy! Các ông cần phải hiểu tất cả hộ pháp trong ngoài nhà Chùa đều vì các ông dụng công hành đạo để liễu sanh thoát tử. Ai bảo ông là làm cho qua ngày? Ông làm như vậy, không dụng công, không hành đạo thì không phải là tội nhân hay sao? Ta nói đại đa số các ông không dụng công là tội nhân là ta còn ưu đãi các ông đó, các ông có tin không? Các ông cả ngày ba tuần trà, bốn bửa cơm, hai lần nước người ta làm saün sàng để thọ dụng, không dụng công đương nhiên là tội nhân. "Vậy đã nói là tội nhân sao còn ưu đãi chúng tôi?" Ta nói ưu đãi các ông là sao? Các ông cần phải biết: "Hào ly hệ niệm, tam đồ nghiệp nhân" (hễ mảy may niệm nổi lên thì tạo nhân ba ác đạo). Các ông thử nghĩ xem, các ông suốt ngày muôn ngàn niệm cũng có đâu phải mảy may thôi đâu? Một mảy may niệm thì tạo các nghiệp nhân đọa vào ba ác đạo, tương lai sẽ thọ quả ba ác đạo. Một niệm mà có nhiều quả báo như vậy mà các ông niệm nầy qua niệm kia muôn muôn ngàn ngàn không ngưng nghỉ thì chịu quả báo biết bao nhiêu. Vậy ta chỉ nói tội nhân là ưu đãi các ông rồi đó nhưng ta cũng hy vọng mọi người cần tham câu thoại đầu, tham cho đến thông suốt hết mới được. Chỗ nào là chỗ dụng công phu cho được, ta muốn hỏi: các ông có tham câu thoại đầu không? Các ông trả lời: có. Ta lại hỏi: Nghi tình có đắc lực không? Các ông nói đắc lực. Ta lại hỏi thêm: trong khi đắc lực còn có thiện niệm, ác niệm không? Còn có cái niệm thành Phật không, còn có cái niệm độ chúng sanh hay không? Nếu nói đều không có thì luôn cả hai chữ <B>không có <D>cũng không biết. Nói như thế thì được sự thực hành rồi. Muốn các ông tự mình hành đến chỗ nầy thì mới có sự thụ dụng. Các ông nếu thật có công phu như thế, quày đầu lại (ngộ) với câu "niệm Phật là ai?" lẽ nào không mở miệng được! Hôm nay ta hỏi ông: Niệm Phật là ai? các ông không mở miệng được. Ta hỏi nữa thì mặt các ông đỏ hết, không được hỏi nữa, hỏi nữa thì không đúng rồi. Như vậy tức là công phu à! Một người bị người ta hỏi một câu không mở miệng được, hỏi nữa cũng không trả lời được. Các ông làm người như vậy, nếu người có một tí ti học thức đương nhiên cần phải buông bỏ tất cả học vấn cùng tột của mình, chỉ chuyên giữ lấy câu thoại đầu thà chết chứ không buông. Muốn cái đầu của ta thì được, chứ muốn bỏ câu thoại đầu thì không được. Người chức sự bảo trải nệm ngồi, ta cũng không biết trải hay không? Cần nhất là chiếu cố đến câu thoại đầu, quá lắm chỉ là bị đánh hương bản thôi, chung qui bảo ta bỏ câu thoại đầu để đi trải nệm ngồi thì ta không làm, thà chịu hương bản, chúng tôi trước kia dụng công là vậy đó. Thà rằng phạm quy củ bị đánh hương bản chứ bảo ta bỏ câu thoại đầu thì không được. Trong các ông chưa có ai nói công phu là cần thiết hơn cả. Phạm quy củ bị đánh hương bản là việc không đáng kể, chỉ cần có công phu để dụng là được rồi, có được một người như thế chăng? Ta dám nói không có, vậy các ông là người như thế nào? Các ông muốn giữ cái mặt bề ngoài cho tốt, rất sợ mất mặt. Bị đánh hương bản là sự mất mặt rất khó chịu. Cái thứ mặt thối như cứt chó nầy mà giữ nó làm gì. Nhưng các ông muốn giữ cái mặt thúi đó không giám ruồng bỏ nó. Với các bổn lai diện mục rất qúy lại không nghe không hỏi, cho là không cần vì người ta không thấy mà chỉ muốn giữ lấy cái mặt thúi cho tốt là đủ rồi. Như vậy há chẳng đáng tiếc, đáng buồn sao? Các ông cam tâm làm thứ người vô dụng như vậy sao? Các ông còn biết các ông khổ não không? Hôm nay có duyên ta giảng cho các ông nghe, các ông còn không dễ gì nghe nhiều được. Các ông hãy gắng sức tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 6 tháng 11 (thất ba ngày thứ bảy)

Người dụng công phu thường ngày dụng còn khá. Dù có nổi vọng tưởng, đề lên câu thoại đầu thì vọng tưởng mất tiêu, công phu cũng còn dụng được, lúc tịnh dụng được, lúc động cũng dụng được, hình như niệm niệm cũng không bỏ trống. Hôm nay đả thiền thất thì trái ngược lại, thoại đầu đề không lên, vọng tưởng cũng nổi không được, thanh thanh tịnh tịnh, muốn đề lên không câu thoại đầu để dụng công phu. Đề lên một lần không được, hai lần không được, ba lần không được, đề đến tức ngực cũng đề không lên. Hình như đả thất đã hỏng rồi. Ngày thường tham rất tốt, tại sao đả thất lại dụng công không được? Thôi buông nó cho xong! Còn một thứ người thì đến chỗ nầy lại tưởng rằng: "Tốt lắm, thanh thanh tịnh tịnh, công phu mặc dù đề lên không được, vọng tưởng thì không có, vậy không có vọng tưởng thì đại khái như thế là đúng rồi, không cần dụng công phu nữa, nếu dụng công phu nữa há có phải là nhiều chuyện không?" Cho nên ở chỗ thanh thanh tịnh tịnh nầy hãy nghỉ ngơi đi thôi. "Thiểu số người có chút ít đạo tâm lần mờ trên sự công phu nhất định phải có một thiên sự thực nầy. Tại sao vậy? Chỗ nầy thì dụng công tất phải trải qua, ông muốn dụng công thì phải y theo đường lối nầy mà đi; con đường nầy là người dụng công tất phải đi qua, cũng không có việc lạ gì đáng kể. Mặc dù tất phải có, nhưng tri thức của hai loại người nầy đều không đúng: một loại là đề thoại đầu không lên, đề một lần nữa cũng không lên, đề năm lần, ba lần rồi bỏ luôn, một loại thì không muốn đề lên tưởng rằng đã đến nhà, nhưng sự thực nầy đối với bổn phận các ông thì còn xa lắm, cách xa như trời với đất. Hai loại nầy đều là sai lầm! Tại sao vậy? Lý do đề không lên và không muốn đề đều là do các ông đối với công phu nầy chưa thấy được thấu đáo. Nếu mà thấy được thấu đáo, tự nhiên không có sự đề không lên và không muốn đề rồi bỏ luôn nó. Người dụng công tại sao có con đường nầy? Cần phải hiểu rằng: lúc bình thường đều ở trên thanh sắc mà dụng công, không phải mắt thấy sắc thì tai nghe tiếng; và lúc ấy mặc dù đề câu thoại đầu lên được nhưng vẫn còn trên thô tâm để thấy sắc, nghe tiếng. Cái thô tâm nầy, vọng tưởng cũng có, hôn trầm cũng có, nghiệp chướng cũng có; những cái nầy thường hiện ra, bởi vì thô tâm tất phải như thế. Hôm nay đả thiền thất, thanh sắc bên ngoài đều không được đến trước mắt ông, nghĩa là không cần các ông trừ bỏ thanh sắc, thanh sắc tự nhiên không có. Vì không có thanh sắc bên ngoài nên bên trong cũng không có tư tưởng phân biệt. Có thể gọi là ngoại vô thanh sắc, nội vô phan duyên, vì thanh sắc khởi lên phan duyên, vì phan duyên phân biệt mà nói thanh sắc, vì thanh sắc phan duyên thấy nhau mà nói một thô tâm. Hôm nay thanh sắc đã không thì phan duyên làm sao có được; phan duyên, thanh sắc đều không, thô tâm đương nhiên cũng không có; thô tâm đã không thì tất cả đương nhiên sẽ ngưng lại. Đề cũng đề không lên, dụng công dụng không được, vọng tưởng cũng nổi lên không được. Thanh thanh tịnh tịnh đường đường chánh chánh tức là cái chỗ nầy và cũng là cái thô tâm đã ngưng nghỉ. Thiền tông nói như vậy, không phải như giáo môn nói cái gì là kiến tư hoặc, cái gì là tiền ngũ thức. Thiền tông chỉ nói thanh sắc, thô tâm; thô tâm ngưng nghỉ rồi không phải là hết chuyện mà còn phải tiến tới trước mới đúng. Đã là thoại đầu đề không lên thì làm sao đi? Có cách nào không? Có! Cách nầy đối với hai thứ tri kiến của loại người trên đều có thể hợp dụng. Người mà đề không lên rồi bỏ luôn cũng cần cách nầy. Người không muốn đề tưởng rằng đến nhà, cũng cần cách nầy. Cách nầy là thế nào? Tức là chỗ các ông đề không được, nghĩ ra một phương pháp đó là: "hãy tham câu thoại đầu". Ông chưa nói tôi đã nói rồi: "đề không lên thì làm sao tham?" Vậy thì đề, buông xuống, lại niệm câu thoại đầu. Mọi người đều có thể niệm được một câu thì cứ ở chỗ niệm mà tham! Chiếu theo như vậy, ở nơi đề không lên nữa, hoặc không muốn đề, là niệm một câu thoại đầu nữa. Từ chỗ năng niệm hạ thủ tham, chỗ hạ thủ nầy nổi lên nghi tình. Ta cho các ông biết; ông không muốn tham nó cũng không nghe ông, nghi tình dâng lên thì tốt lắm! Nhưng mà ta nói tốt xấu là của ta, muốn cho các ông đi được tới chỗ nầy thì các ông mới hiểu được sự chân thật bất hư. Lúc ta ở Chùa Kim Sơn công phu dụng đến chỗ nầy cũng như các ông bây giờ vậy. Đề thì đề không lên, vọng tưởng chẳng cần nói, đương nhiên cũng không nổi được, bởi vì công phu của ta và các ông không giống nhau ở chỗ đó. Ta lúc mới dụng công ta tự mình từng nén hương một mà khảo cứu, mỗi khi gặp nén hương nào khai tịnh trước hết phải tự mình thẩm vấn mình: công phu nén hương nầy ra sao? Còn hôn trầm không? Còn vọng tưởng không? Nếu còn một tí hôn trầm hoặc một tấc hương vọng tưởng thì ngay lúc đó tự mình đánh mình một bạt tai; nén hương sau tự mình trách lấy mình, phải làm sao đốn đến hôn trầm vọng tưởng không còn một tí nào nữa mới được, câu thoại đầu thật ngay thẳng, thật rõ ràng thì ta mới chịu bỏ qua không tự trách mình nữa. Dụng công cho đến chỗ nầy, cho dù đề không lên ta cũng không giống với người, đối với chỗ nầy thì ta không trụ, biết là không phải cảnh giới tốt, cho là cảnh giới tốt ta cũng không trụ. Chỉ muốn tham cứu mới đúng, không có phương pháp thì kiếm một vọng tưởng quen thuộc để suy nghĩ, vừa mới kiếm được chưa nổi lên thì đã mất rồi... Nói Thượng Hải đại vũ đài tốt lắm, lấy nó làm vọng tưởng suy nghĩ thì không được. V-ong tưởng nầy nổi không lên sau đó lại thong thả niệm ra một câu thoại đầu, thử nghĩ xem cái câu thoại đầu nầy từ chỗ nào đến đây? Đã là năng niệm thì tại sao tham không được? Từ chỗ nầy mà hạ thủ, ngưng cho đến hai ngày sau đó lại từ chỗ nầy tham nữa; giống như ba ngày không ăn cơm, thấy được cơm thì có bỏ mạng cũng muốn ăn, thì mới cảm thấy công phu dụng được tốt, lại cứ thế tiến tới. Tình hình đó thì nhiều lắm, đợi các ông dụng công đến chỗ nầy, ta sẽ thương lượng với các ông nữa. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 7 tháng 11 (thất thứ tư ngày đầu)

Ngày trước Phù Thượng Tọa đả thất được 6 ngày thì khai ngộ. Ngài Triệu Châu đả được một thất thì khai ngộ. Quốc Sư Trung Phong đả được hai thất thì khai ngộ. Triệt Tổ Thiên Tuệ chùa ta đả được bốn thất thì khai ngộ. Các ông hôm nay đả được mấy thất rồi có biết không? Ta tuy hỏi thế thì các ông cũng có người nói: "Tôi từ lúc bắt đầu khởi thất đến giờ, sớm tối đều không rõ, ngày nay, ngày mai, mùng một, ngày rằm càng không biết; chỉ mong hiểu được câu thoại đầu thì còn biết đâu là bao nhiêu thất?" Có được loại người nầy thì ta tán thưởng lắm đó! Ta cho các ông biết: hôm nay thất thứ ba đã qua rồi. Người xưa một hai thất đã khai ngộ. Các ông đả được ba thất nhưng đối với việc khai ngộ thì vẫn chưa có tí tin tức gì. Các ông hãy tự hỏi mình, dầu cho không có tin tức nào, chỉ cần không biết đến có ngày giải thất; đại chúng ngủ ông cũng nằm xuống, chẳng biết được là ngủ hay không ngủ, câu thoại đầu rõ ràng minh bạch. Người ta ngồi tôi cũng ngồi, người ta đi tôi cũng đi, nhưng ngồi hay đi đều không biết đến. Mọi người đi về phía trai đường, tôi cũng đi, đi là đi vậy, chứ làm việc gì ta cũng không biết. Mọi người ăn cơm, bát đũa ông cũng không biết cầm. Các ông có sức dụng công phu như thế ba thất không ngộ thì năm sáu thất ta có thể bảo đảm ông quyết sẽ ngộ thôi. Ta muốn các ông có công phu như thế, bằng không thì cái câu khai ngộ ấy không xong rồi. Nhưng mà cái tâm khai ngộ liễu thoát sanh tử thì đương nhiên người nào cũng có, người nào cũng mong. Đối với việc công phu cho đến tùy duyên đứng lên nằm xuống mà không biết có đứng lên nằm xuống, cũng người ta đi đến trai đường mà không biết cầm bát đũa. E rằng các ông chưa tin mà cho rằng: "Nhất định là gạt người ta rồi chứ làm gì có lẽ đó!" Đúng đấy! Chỗ đi của người khác các ông không tin vì chưa thấy đến; hôm nay ta đem chỗ hành của ta bảo cho các ông nghe thì không thể lại không tin nữa, ấy là tự ta đã đi qua, các ông nhất định phải tin. Không phải khi không ta bảo các ông tin, trong đó có một sự thực như thế nầy, ở trai đường không cho bạt tai, việc ấy có liên hệ đến sự dụng công chịu khổ của ta đã qua. Khi ta ở Chùa Kim Sơn dụgn công đến chỗ thực khẩn trương, nghi tình đang cuồn cuộn, ông muốn không tham nó cũng không cho, cứ liên tiếp mãi như thế. Khi đả thất khai bản quả đường ngồi xuống rồi nghi tình thật đắc lực, người ta ăn cơm ta không biết cầm lấy bát đũa; người ta ăn gần xong, ta hé mắt nhìn thấy cơm rau trước mặt ta bèn càm bát đũa lên, sau lại nghĩ: không thể quăng bỏ công phu được, ăn cơm vẫn phải đề công phu cho tốt, lại đẩy mạnh câu thoại đầu; rau cơm không biết lối đi vào miệng cứ ngơ ngơ ngác ngác ngồi ngay ra đấy. Bỗng nhiên buông tay đập bể chén cơm. Sư tăng trực bước đến bạt mạnh một bạt tai làm cho ta đánh rơi luôn bát cơm xuống đất vỡ toang. Sư tăng trực bạt luôn năm ba bạt tai nữa, bạt đến đầu óc ta quay cuồng. Ta bèn nghĩ; đánh, tuy là đáng rồi, công phu cũng phải chiếu cố cho tốt, không thể vì bị đánh đập mà quăng bỏ công phu. Vì thế, phàm nơi nào ta đã ở qua thì ở trai đường không cho bạt tai. Hơn nữa, người ở trong Chùa đều là người lãnh đạo cho nên chỉ cho quát tiếng lớn chứ không cho đánh bạt tai. E rằng các ông không phải như ta vậy, hễ bị đánh đập thì lập tức rút lui ngay. Việc nầy vốn không phải dễ mà lo liệu đâu: lo đầu nầy thì mất đầu kia, lo đến qui củ thì nhất định lo không tròn công phu rồi, và do vậy mà thoái bộ. Cho nên dù cho bên ngoài ra thế nào, việc sanh tử của ta chưa liễu thoát được thì chung quy không chịu bỏ công phu. Các ông muốn khai ngộ tất phải cần ra sức dụng công phu, dụng cho đến lúc đi không biết là đi, ngủ không biết là ngủ, tiểu tiện không biết kéo quần: công phu như vậy không phải là đọa các ông mà đó là cái ta đã đi qua rồi. Ta có một lần lúc đánh hiệu báo đi cầu mà không biết đi hướng nào, đây là công phu đã đến lúc khẩn trương, mọi người ra thiền đường ta cũng đi ra, người ta đi cầu mà ta đi đến điện Vi Đà rồi nhưng cũng không biết là làm việc gì. Vị ban thủ nhìn thấy liền quát lên một tiếng, ta cũng không biết tại sao. Sau lại có vị Tây đường nọ thấy ta liền chỉ tay vào ta mà nói rằng: "đại khái là công phu của ông đứng đắn, tức là quên hẳn tất cả rồi đó! Bây giờ là lúc đi cầu à, ông hãy hướng về phía tây đi!" Nhờ câu nói của người, ta mới biết được. Ta lúc công phu đắc lực có rất nhiều lần nhờ vị sư Tây đường nầy chiếu cố đến, cho đến hôm nay ta còn cảm tạ người: đây là những điều ta đã từng kinh nghiệm qua cả cho nên ta mong các ông cũng hành cho đến được công phu như vậy, quả không phải là gạt các ông đâu. Lại nói câu cảnh sách: các ông đều ở cùng một thiền đường, cùng tham một pháp nhưng cảm quả thì vô vàn sai khác. Trên trời, nhân gian, thai trâu, bụng ngựa, mỗi mỗi đều khác nhau. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 8 tháng 11 (thất tư ngày thứ hai)

Có người hỏi Triệu Châu: "Thế nào là đại đạo?" Châu đáp: "Tâm bình thường là đại đạo". Lại nói: "Tôi không phải hỏi cái đạo nầy, cái tôi hỏi là đại đạo". Châu nói: "Đại đạo thông trường an". Vị hỏi câu nầy ngộ ngay lúc đó. Người xưa ngộ đạo trực tiếp như thế, ngày nay các ông cũng hỏi như vậy, ta cũng đáp như thế các ông có nhanh chóng ngộ đạo được chăng? E rằng các ông làm không được! Nếu nói người xưa là Bồ Tát chuyển thế, La Hán tái lai ấy là gạt người vậy. Cần hiểu được là: sự thực hành của người xưa và các ông không giống nhau, cách xa nhau như trời với đất; người xưa dụng công không kể nóng lạnh, không có đêm ngày, bất luận là nơi nào thì còn nói gì đến đả thất với không đả thất? Ngừơi xưa suốt ngày đêm không để một sát na xa rời công phu cho nên hễ có cơ duyên, một lời, nửa câu lúc đó thì ngộ đạo ngay. Các ông không ngộ được là tại sao vậy? Là vì sự sai lầm lớn: "Lúc khát mới đào giếng". Ngày thường không mảy may dụng công, cứ cho là lúc thường không cần dụng công, lúc gia hương đả thất mới là lúc dụng công. Lại cho là vào mùa hạ khí trời nóng bức, ngày thường lại phải thượng điện cúng Phật; ngày thường tuân theo quy củ thì cần thiết hơn, những lúc như thế nầy cũng tùy theo đại chúng mà thôi, lúc gia hương đả thất mới là lúc dụng công. Đại khái các ông bị cái tri kiến sai lầm nầy mà bỏ mất thời gian không ít mà người sai lầm cũng không ít. Các ông nghĩ xem lúc khát nước mới đào giếng, người khát chết rồi giếng chưa đào xong phỏng có ích gì? Bách công kỹ nghệ trên thế giới đều phải cần đến 3 năm 5 năm mới có thể học xong để đổi lấy một bát cơm; huống chi cái diệu pháp xuất thế gian nầy của chúng ta thì đâu dễ dàng như thế? Các ông là người có tri thức thì đường nhiên cần phải đừng phân biệt mùa đông trời lạnh cũng như mùa hè trời nóng chỉ cần đề lên câu thoại đầu, ở chỗ không minh bạch mà khổ công tham cứu thường xuyên không dứt, dầu cho nó có nóng nực lắm ta có câu thoại đầu thì đương nhiên sẽ mát mẻ tự tại; dù có lạnh đến đâu ta cũng có câu thoại đầu thì cũng chẳng biết đến lạnh rét là gì. Cứ khổ công tham cứu như thế 3 năm 5 năm muốn khai ngộ đương nhiên sẽ được dễ dàng. Nếu muốn lấy việc gia hương đả thất để dụng công, mà ngày thường lại không thì trong một năm kể ra cũng lãng phí hết chín tháng, chỉ còn dụng công có ba tháng. Các ông thử nghĩ xem có đúng không, còn kể là người dụng công sao? Ta ngày nay đối với các việc trước đả thất và sau khi giải thất mà đem giải bày ra hết, nếu người có tâm liễu thoát sanh tử sẽ tự nhiên biết theo đấy mà làm, cũng không phải ta đơn độc muốn các ông làm như vậy. Ta vốn đã làm như thế rồi; việc ta đã làm qua, nói để các ông nghe. Ở trong các ông có người tri thức hơn ta thì phải vượt trên ta, hoặc có người không bằng ta thì phải theo học. Trước kia ta ở Chùa Kim Sơn lúc dụng công thì ta chẳng bận tâm vấn đè giao thiệp với người chung quanh, ta chỉ chiếu cố đến câu thoại đầu rõ ràng minh bạch chẳng mảy may gián đoạn. Hễ lầm lỗi với người nào cho dù là chức sự, ta cũng chẳng để ý đến. Khi đi đường chỉ chiếu cố đến công phu, gặp vị tri khách ta cũng không biết chấp tay nhường lối. Đi đường có đụng nhau giữa đường làm vị tri khách phải lùi lại quá xa, ông ta bèn quát lên một tiếng. Bấy giờ ta mới nghĩ: không đúng rồi! Va chạm như thế là xúc phạm đến cảm tình, vậy nên tạm bỏ công phu để xin lỗi đi! Lại nghĩ: Không, không thể được! Vì sao ta xuất gia? Ta đã vì sanh tử mà xuất gia, hôm nay việc sanh tử còn chưa liễu thoát ta không thể bỏ công phu để tính chuyện xin lỗi phải với người được. Nếu muốn làm như vậy thì tốt hơn đừng xuất gia. giữ công phu mới, cần nhất, dù cho bị dọa nạt, bị đánh đập ta cũng vui lòng chấp nhận. Xong! Vị ấy không đánh ta mà ta còn phải yêu cầu đánh mấy cái để thử xem công phu của ta như thế nào? Giả sử đập cho vài cái bạt tai, công phu của ta vẫn còn chiếu cố như thường vậy! Như thế là rất tốt, nếu là đánh một bạt tai, câu thoại đầu theo bạt tai mà đi mất, thế thì con người của ta đây còn được xem là người dụng công nữa không? Cho nên phải giữ lấy lập trường nhất định, dù cho bất cứ người nào nạt ta, mắng ta, đánh ta thì chung qui câu thoại đầu vẫn không được bỏ. Đây là chỗ làm người tham thiền của ta. Cứ đi như thế đụng nhau một lần, hai lần thì đương nhiên người ta sẽ không vui. Đến kỳ thay đổi chức sự trong chùa mọi người đều ra thiền đường cả, vị tri khách hỏi vị ban thủ: "Ở trong thiền đường có lão người Hồ Bắc, đi hay chưa?" Vị ban thủ nói: "chưa đi". Vị tri khách lắc đầu nói: "Cái lão Hồ Bắc nầy xấu lắm, không biết quan chức gì xuất gia mà lúc đi đường cứ kênh kênh kiệu kiệu không xô người nầy cũng đẩy người nọ. Thực là con chim chín đầu trên trời, lão Hồ Bắc dưới đất! Thằng nầy còn không đi thực là đáng ghét". Những câu nói nầy chính ta đã nghe được, nói chung thì việc sanh tử của ta chưa liễu thoát, mấy việc nhỏ nhặt nầy thì chấp nhứt ông ta làm gì? Lại có một hôm sau khi điểm tâm đi ngoài xong trở lại thiền đường, đang đi giữa đường có vị sư nọ chặn ta lại hỏi: "Bồ Tát ở trên chính điện là nam hay nữ?" Bị hỏi như thế ta hoang mang không trả lời được, ta nói: "không biết" ông ta lại hỏi: "Vị Bồ Tát chính giữa có râu không?" Ta lại không mở miệng được, chỉ trả lời là:

"không biết". Trên thực tế, ta ở Chùa Kim Sơn đã hai ba năm, khi thượng điện không hề ngẩng đầu lên nhìn thì đâu biết được là Bồ Tát nam hay nữ, có râu hay không râu. Các ông ngày nay còn có người nào như thế không? Ta có được chỗ hành như thế mà ngày nay vẫn còn là người nghiệp chướng. Còn chỗ hành của các ông đâu nếu không được khai ngộ thì còn được liễu thoát sanh tử chăng? Các người thử phát tâm tự hỏi mình xem! Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 9 tháng 11 (thất tư ngày thứ ba)

Mỗi khi có người nói: "Dụng công kéo không dài, đối với câu thoại đầu thì cũng biết đề lên, nghi tình cũng biết khởi lên, đắc lực với không đắc lực cũng rõ ràng, tất cả chỉ là kéo không được dài!" Câu nầy có rất nhiều người nói; muốn biết nguyên nhân của nó thì e không dễ dàng gì biết được. Lại nữa, thứ người kéo không dài nếu có chút tri thức thì sẽ kéo được dài, nghĩ đến một cách: lấy cái kéo không dài được quyết định làm cho kéo được dài. Các ông còn có tri thức nầy hay chăng? Phải hiểu được dụng công kéo không dài, không phải ngày hôm nay kéo không dài mà các ông đã từ kiếp vô thủy đến nay đều lặn hụp trong sự kéo không dài! Các ông còn biết đấy: các ông từ kiếp trước đến nay cái vốn đa tu là nhân của sự kéo không dài thì hôm nay làm sao có thể kéo dài được? Nhưng về quá khứ đã gieo nhân kéo không dài thì đương nhiên sẽ cảm lấy quả kéo không dài, đó là lý tất nhiên. Cứ để mặc kệ nó chăng? Mặc kệ thì đầu thai thành trâu, thành ngựa cũng mặc kệ nó, hết thảy đều mặc kệ nó, mặc kệ nó thì đâu còn việc gì nữa? Không gì ngoài việc luân chuyển trong lục đạo! Các ông là người có chút đạo tâm muốn còn chạy luân chuyển trong chốn nầy chăng? Nếu không muốn thì đương nhiên nghĩ đến một biện pháp, phải làm sao cho kéo dài thì mới được! Các ông còn có người nào như thế không? Mỗi người hãy tự hỏi lòng mình xem! Muốn nói đến phương pháp làm sao cho công phu kéo dài được, người xưa chỉ ra con đường nầy bảo chúng ta đi. Sự thực là vì người trung hạ căn trong chúng ta bất đắc dĩ mới nói: Ở trên bổn phận thì đâu cần phải đi đường (ý nói đối với người thượng căn, trong bổn phận của tự tánh thì đâu cần phải đi, vì suốt ngày đêm đã ở trong đó rồi). Ngoảnh đầu là xong, chân quay bước là về đến nhà ngồi an ổn. Nói có một con đường để đi là nói sai lạc ra ngoài rồi! Bởi vì các ông không nhận ra được ngay lúc đó, trước mắt đường đi lại nhiều cho nên bày ra một phương tiện, chỉ ra con đường nầy bảo các ông đi để có thể bỏ hết mọi con đường khác. Tỷ như một nắm tóc trên đầu thì không ít, đường các ông đi so với nắm tóc còn nhiều hơn, ta đương nhiên vì các ông mà đem những con đường nhiều hơn nắm tóc nầy mà bỏ ra ngoài chín từng mây, các ông ngay lúc đó thấy được cái bản lai diện mục thì ta mới mãn nguyện. Tuy nhiên, nếu làm không xong được thì thập phương Chư Phật cũng không thể làm giùm được, hết thảy Bồ Tát, lịch đại Tổ Sư lại càng không thể làm giùm được. Nếu thập phương Chư Phật có thể làm thay cho ông được thì các ông khỏi cần dụng công, Phật nếu thay chúng ta làm thì đâu còn chúng sanh? Được hay không được? Thập phương Chư Phật chỉ có thể chỉ dẫn một con đường, các ông có thể y theo con đường nầy mà đi, có thể bỏ tất cả con đường khác, con đường nầy đi đến đầu mút thì cũng được về nhà. Cho nên thập phương Chư Phật chỉ có thể chỉ ra một con đường bảo các ông đi, các ông đi được thì đương nhiên những con đường khác sẽ bỏ được hết. Thập phương Chư Phật không thể đi thay ông được. Nếu các ông không đi thì thập phương Chư Phật cũng không thể gánh vác cho các ông được! Con đường nầy chính là câu thoại đầu. Con đường ta hôm nay chỉ cho các ông, Phật cùng Bồ Tát, Tổ Sư cũng chỉ con đường nầy. Những con đường các ông đã đi là những con đường nào? Đấy là con đường kéo không dài, từ vô thủy kiếp đến nay đều đi trên con đường kéo không dài nầy. Hôm nay đứng ở chỗ nầy mà muốn kéo được dài thì đương nhiên sẽ không làm được. Đường kéo không dài tuy nhiều nhưng cũng không ra khỏi thân, tâm và thế giới; vì có thân tâm thế giới gom lại một chỗ nên mới biến hóa ra vô số con đường. Các ông đi được con đường câu thoại đầu nầy thì có thể bỏ hết thân, tâm, thế giới, những con đường kéo không dài. Thế sao lại phải nói thân, tâm, và thế giới là kéo không dài? Các ông muốn rõ cái kéo không dài nầy, vì những người trong giáo môn đối với danh từ thì đại khái dễ hiểu, trong thiền tông chỉ nói là kéo không dài mà không nói gì khác cả. Trong giáo môn giảng kéo không dài là gì? Đấy là: sinh, trụ, dị, diệt; sinh cũng là kéo không dài, trụ cũng là kéo không dài, dị cũng là kéo không dài, diệt cũng là kéo không dài. Ta muốn hỏi các ông: "Có tâm không?" Các ông đương nhiên sẽ nói: "Có tâm", ta lại hỏi các ông:

"Lấy gì làm tâm?" Các ông đương nhiên nói: "Lấy cái năng tri năng giác làm tâm". Vậy thì năng tri năng giác làm tâm các ông, vậy cái tri giác nầy dài bao nhiêu? Cái tri giác nầy có phải là sinh, trụ, dị, diệt không? Các người suy nghĩ xem: Sinh thì tức khắc sinh ra; một khi đã sinh ra thì phải trụ, trụ thì đâu được bao lâu lại lập tức đổi thành dị, đã dị thì một khi niệm khởi thì phải diệt. Sự sau khi diệt ra thế nào? Các ông thử nghiên cứu đi và trả lời ta một câu. Thật đáng tiếc! Chúng ta sau khi diệt thì lại sinh, trụ, dị, diệt. Vì có tri giác nên mới nói đến tâm, tri giác đương nhiên là sinh, trụ, dị, diệt; sinh, trụ, dị, diệt tức là kéo không dài. Các ông nghĩ xem! Cái tâm kéo không dài nầy có phải hôm nay mới có hay quá khứ đã có? Cội nguồn còn tìm ra được chăng? Trong tương lai lấy cái tâm để suy tính được không? Hiện nay thân chúng ta cao được hơn bốn thước, tương lai sẽ giảm đến còn một hoặc hai thước; cao nhất được bốn mươi trượng. Hiện nay sống được sáu bảy mươi tuổi, trong tương lai sẽ giảm xuống mười tuổi; dài nhất là 8 vạn 4 ngàn tuổi. Các ông nghĩ xem: thân cao có mấy mươi trượng, thọ được 8 vạn 4 ngàn tuổi mà trong đó lại không được rời sanh, già, bệnh, chết. Thân thể từ sinh mà có, bất luận mười tuổi trong tương lai, sáu, bảy chục tuổi ở hiện tại, cho đến 8 vạn 4 ngàn tuổi đều có một ngày phải già. Già rồi thì phải bệnh, bệnh rồi đương nhiên sẽ chết; sau khi chết thì thế nào? Đương nhiên lại sinh, già, bệnh, chết nữa. Cái kéo không dài của sanh già bệnh chết nầy chuyển mãi không dứt, vậy có kỳ hạn chăng? Thân, tâm, thế giới đều như vậy. Thân, tâm, thế giới kéo không dài là còn nói gọn đấy, bằng nói rộng ra thì nhiều lắm, các ông là người có tâm dụng công đương nhiên sẽ nghĩ đến một biện pháp làm sao cho tất cả cái kéo không dài có thể kéo dài được. Chỉ có thể dùng câu thoại đầu, đây là phương pháp trực đạt tâm nguyên. Tâm tuy kéo không dài nhưng tâm nguyên thì còn mãi mãi. Tỷ như giòng nước, nước thì lưu chuyển, nguồn (thủy nguyên) thì không; nếu nguồn mà di chuyển thì đương nhiên cái "chảy đi" không có; vì nguồn không chảy cho nên chảy mãi không thôi. Chúng ta tất cần đạt đến tâm nguyên thì mới có thể kéo dài được. Nhưng cái tâm nguyên nầy đã cách chúng ta bao xa rồi? Ta nói sơ lược các ông nghe, tỷ như ngày nọ đánh bản trong tịnh các ông nghe được, hôm nay đánh bản lại nghe được cho đến ngày mai ngày kia đánh bản cũng nghe được. Ta hỏi các ông: cái nghe của ngày hôm qua, cái nghe của ngày hôm nay cho đến cái nghe của ngày mai ngày kia là một hay là hai cái. Nếu là một thì dài hay không dài? Mọi người hãy nghiên cứu kỹ một chút xem. Phải lĩnh hội một chút ít thì mới được! Giáo môn gọi cái này là chân tâm thường trụ, suốt ngày chẳng rời một bước. Chúng ta muốn triệt lưu quy nguyên (dứt giòng về nguồn) thì phải lấy câu thoại đầu mà khổ công tham cứu, không sợ nó kéo không dài thì mới có thể từ cái kéo không dài nầy mà đạt tới cái chân thường được! Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 10 tháng 11 (thất tư ngày thứ tư)

"Tam học kiêm tu, một tham đủ cả", tam học là giới, định, huệ: Giáo môn đối với tam học thì tu trì hết sức khẩn mật. Tại sao phải nói là kiêm tu? Ấy là trước hết phải trì giới, do giới mà định, định rồi có thể phát huệ. Giới có đại tiểu, định có chính thiên; tuệ phải từ trí mà có tuệ, chỉ nói đến tuệ thôi thì cái tuệ đó chưa rộng rãi, trí tuệ đầy đủ thì mới được gọi là viên tuệ. Trong giáo môn cần phải trải qua bao nhiêu thời kỳ thì mới có thể đạt đến được. Còn thiền tông thì không vậy: một câu thoại đầu thì tam học đủ cả. Tại sao cứ có người nói: "Trong thiền tông chữ giới chẳng nghe nói đến". Ấy là vì họ không thấy được sự trì giới của thiền tông. Giới của thiền tông thì không phải là đại thừa, tiểu thừa, của ngừơi phổ thông mà là trì cái "vô trước thánh giới". Ấy là lẽ gì? Các ông hãy đem câu thoại đầu mà đề lên xem, không rõ thì cứ ở chỗ không rõ mà truy cứu, tham vấn. Ta hỏi các ông: còn có thân đi giết người đốt nhà không? Một câu thoại đầu còn chẳng minh bạch ông còn có tâm nói hai chiều, vọng ngữ được chăng? Cũng như tham câu "niệm Phật là ai", thân bất khả đắc, cứu kính là ai, tâm cũng bất khả đắc; đáo để là ai, bất khả đắc cũng không. Thân bất khả đắc rồi thì đâu còn phạm việc giết người, đốt nhà? Tâm bất khả đắc rồi làm sao còn có tâm trì giới? Cái bất khả đắc cũng không tức là thánh giới của thập phương Chư Phật đều trì hết.

Thứ "vô trước thánh giới" nầy trì phạm đều bất khả đắc thì còn nói gì đại thừa, tiểu thừa. Cái câu nói không trì của thiền tông còn để ở chỗ nào được? Còn chữ định của giáo môn thì thân ngồi ở một nơi, trong tâm muôn duyên chẳng động, ngưng nghỉ cả thân tâm đều không động; tâm không động dễ gì làm được, thì cần phải quán, quán không xong thì phải dùng chiếu, chiếu không xong thì phải nghĩ đến một phương pháp để kiềm chế nó, lần lần kiềm chế cho lâu mới được định, định đến một bước công phu nào thì phát được bước ấy huệ: đại khái là như vậy. Thiền tông thì triệt để trái ngược, không phải cái định đó, mà định trong động; tại sao vậy? Đi hương là động, trải bồ đoàn ngồi xếp bằng cũng là động, dọn nệm cũng là động, từ sáng tới tối đều động. Tuy là động như vậy mà ở trong cái động đó câu thoại đầu thật rõ ràng minh bạch không mảy may gián đoạn. Cái định trong động nầy dù cho hết thảy động cũng không làm động được cái định nầy; vì nó do động làm thành, toàn định là động, toàn động cũng là định. Tại sao tất cả động không làm động được cái định nầy? Các ông hễ cứ đề câu thoại đầu lên, ngay chỗ không minh bạch được đắc lực, cái đẹp nhất Thượng Hải cũng không có, đáo để là ai, cho dù người con gái đẹp nhất đến trước mắt ông, ông cũng không có tâm nào nghĩ đến cô ta. Thượng Hải đã không có thì cái động của Thượng Hải không làm động được nó! Không có tâm để nghĩ đến người nữ, cái động của người nữ cũng không động được nó. Hai thứ động dễ động nhất nầy đều đã không làm động được nó thì còn cái gì làm động nó được nữa? Đạt đến cái định nầy thì được trí huệ như trở bàn tay, ngay lúc đó sẽ đều đầy đủ. Đến được chỗ nầy thì thực sự là: "một tham đủ cả" (phần cảnh sách lược bỏ). Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 11 tháng 11 (thất tư ngày thứ năm)

Cái sự tham cứu nầy cần niệm phân minh, tâm tâm trong sạch. Niệm niệm phân minh thì không có vọng tưởng, tâm tâm trong sạch thì không có hôn trầm. Chỉ cần phân minh, vọng tưởng chẳng trừ mà tự trừ; chỉ cần trong sạch, hôn trầm không bỏ mà tự bỏ. Như thế nào là phân minh? Hãy đề lên câu thoại đầu làm cho rõ rệt từng chữ một, niệm Phật là người nào? Cái nghi tình nầy hãy cứ đi thẳng, đi rõ ràng mạch lạc chẳng có một tí mơ hồ thì vọng tưởng làm sao mà có được. Thế nào là trong sạch? Hãy đề lên bốn chữ "niệm Phật là ai" thành khẩn mà tham đi, hai chữ niệm Phật một khi ra khỏi miệng thì cái niệm danh hiệu Phật đã ở trong đó rồi; hai chữ "là ai" tức là người nào? câu hỏi nầy cũng giống như muốn các ông trả lời ta vậy: dù không có người đáp cũng bằng như ta lớn tiếng hỏi người khác. Niệm Phật là người nào? Mỗi chữ đều rõ ràng, tưởng niệm đều trong sạch, lại cũng chẳng phải là bốn chữ "niệm Phật là ai" mơ hồ không rõ, tựa có mà tựa không có, đi qua miệng mà thôi. Ban đầu thì nghĩ muốn dụng công, hễ thoại đầu đề lên thì vọng tưởng đã nổi lên rồi, hoặc là không có tinh thần cảm thấy mệt mỏi, câu thoại đầu đề lên mà không nghi tình gì, chẳng có nghi tình thì một câu là hết. Câu nầy đã mất, nhắm mắt lại như ngủ mà không ngủ, lại đề lên một câu thoại đầu nữa thì ngủ quên đi rồi, đó chính là chẳng phân minh, chẳng trong sạch. Các ông phấn khởi tinh thần cũng như gánh một gánh nặng 120 cân, lại cũng như thực phẩm rất ngon, niệm Phật là người nào vậy? Rất rõ ràng, nghi tình thì thật rõ ràng, không biết là ai, hết sức thành khẩn mà hỏi lại một câu: cứu cánh là ai? Cũng còn chưa rõ được, đáo để là người nào? Các ông có được niệm niệm phân minh như thế, tâm tâm trong sạch như thế, không cho nó được sơ hở chút nào. Ta hỏi ông: vọng tưởng từ nơi nào đến? Hôn trầm từ đâu mà ra? Bởi vì không phân minh, hễ mơ hồ thì vọng tưởng xâm nhập, có chút mơ hồ thì hôn trầm đã lên trên mình, công phu niệm niệm phân minh thì không có vọng tưởng, nổi vọng tưởng lên thì đương nhiên công phu không có. Lại chẳng phải ông muốn dụng công nó lièu mình muốn nổi vọng tưởng, ông không dụng công nó còn nghỉ ngơi một tí. Ông đã dụng công mà nó còn nổi vọng tưởng, đó không phải là hai sao? Đâu có lý lẽ như vậy được. Như con khỉ ở trên cây chuyền sang phía đông, nhảy sang phía tây, lúc cây đào khi cây lý, làm như có đến tám, mười con, chỉ cần định tỉnh để xem lại thì thực tại chỉ là một con, có trên cây đào thì không có trên cây lý. Vọng tưởng cũng vậy, suốt ngày như nổi ngàn muôn cái nhưng kỳ thực chỉ có một cái thôi. "Một cái" nầy vì người trung hạ căn như chúng ta bất đắc dĩ mà nói; nếu không phương tiện mà nói một cái nầy thì các ông lại không có chỗ hạ thủ. Muôn ngàn vọng tưởng đã nói trên thực ra chỉ có một; nổi một vọng tưởng nầy thì đánh mất công phu. Nếu dụng tâm ở trên công phu thì vọng tưởng nổi không lên, cũng như con khỉ ở trên cây nầy thì không ở trên cây kia vậy. Nếu chổ nầy dụng công, chổ kia nổi vọng tưởng thế không phải là hai sao? Không có lẽ như vậy! Các ông phải tự mình thấy đến nơi, không phải cứ ta nói rồi thì xong được đâu. Nếu chỉ muốn ta nói với các ông lại không quan hệ gì hết, như thế thì khổ chết đi! Các ông cũng có người nghe ta nói niệm niệm phân minh, tâm tâm trong sạch bèn đem câu thoại đầu mà niệm liên tiếp, ấy cũng lại là không đúng đâu! Niệm như thế thì không bao lâu tâm khí sẽ đau; cần từng câu từng câu một, không chậm không gấp, rõ ràng trong sáng. Nếu gấp thì bị thương thân, chậm thì dễ nổi vọng tưởng, niệm không rõ ràng trong sáng thì dễ buồn ngủ. Mổi người các ông có thể cứ liên tục rõ ràng mà tham ngay đi. Hãy tự mình đề lên câu thoại đầu xem còn một tí kẽ hở nào không? Nếu qua loa một tí câu thoại đầu dường có dường không thì cái kẽ hở lớn lắm! Văn Thù, Phổ Hiền cũng theo cái chỗ nầy ma đi ra đi vô, heo, dê, trâu, ngựa cũng từ chỗ nầy mà đi vô đi ra. Mỗi người các ông hãy nghĩ xem có còn là việc nhỏ không? Nếu được câu thoại đầu phân minh thì cái kẽ hở nầy phải được bít cho chặt lại rồi Văn Thù, Phổ Hiền cũng chẳng được vô ra; trâu, ngựa, heo, dê cũng dứt hẳn luôn. Vậy không phải là rất tốt sao? Cái kẽ hở nầy tuy bít được song chung quy phải tham câu thoại đầu cho thông, nhất định phải lấy câu "niệm Phật là ai" để tìm cho được mới đúng. Rõ ràng có người niệm Phật đừng có mơ hồ bỏ qua cho đó là xong. Các ông cần phải hiểu: từ vô thủy đến nay bị cái thân, tâm, thế giới nầy trói buộc chặt chẽ, các ông muốn được rời bỏ chốc lát, tơ hào cũng chẳng được đâu! Vì thế mà cứ quanh quẩn trong chốn lục đao luân hồi, chẳng rời xa được một tấc. Hôm nay muốn tham niệm Phật là người nào, đáo để là người gì, cứu cánh là ai, các ông tham cứu như thế, ta hỏi ông: thân có còn không? Thân nhất định là không có, thân đã không có thì tâm nhất định là không có nơi để. Thân tâm đều đã không có thì thế giới còn để được ở chỗ nào? Các ông ở nơi thân tâm và thế giới đều không có nầy, ta hỏi ông thế nào là câu thoại đầu? Các ông hãy tại chỗ nầy mà trả lời ta một câu. Nếu trả lời, không được thì phải ở chỗ trả lời không được nầy đề lên câu thoại đầu mà gấp rút truy cứu, gấp rút tỉnh ngộ. Tương lai thế nào cũng có được một tin tức. Ta nói như thế không ngoài hai câu "thô và tế", như thế các ông cũng lấy thô tâm mà nghe, muốn nghĩ đến chỗ vi tế thì cần phải từ câu nói về thô nầy mà làm đến chỗ vi tế mới được. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 12 tháng 11 (thất tư ngày thứ sáu)

Người đả thất đại khái đều biết nói: "dụng công hành đạo". Nói thì cho các ông biết nói; nếu hỏi kỹ lại các ông: vì sao cần phải dụng công hành đạo, sợ rằng đại đa số các ông không hiểu rõ triệt để được. Bởi vì đều là nghe người ta nói: "Ở chốn tòng lâm cần phải dụng công hành đạo!" Bản thân mình thì chưa từng có một kế hoạch đầy đủ nào. Các ông cần biết: việc sanh tử chưa dứt, chỉ cần một hơi thở không trở lại là chết thì con đường đi trước mặt thật vô cùng hiểm trở! Cần có kế hoạch đầy đủ như thế thì tất phải biết: từ vô lượng kiếp về trước lúc ban đầu một niệm chưa động, với thập phương Chư Phật, hết thảy Bồ Tát, Tổ Sư đều đồng nhau không hai không khác. Chúng ta ở trong biển giác nầy, hễ động thì sanh ra niệm, do một niệm nầy sinh ra thì biển giác biến thành biển khổ, tuy nói là biển khổ, nhưng chỉ vì một niệm bất giác vô minh mà có thôi, kỳ thực xưa nay chưa hề rời biển giác mãi cho đến ngày nay tuy kim cổ đã trải qua bao đời, trăm ngàn vạn đời mà một niệm hiện tiền nầy cũng chẳng mảy may phân cách. Vì sao làm chúng sanh? Cần phải hiểu: tuy làm chúng sanh nhưng vốn có Phật tính, với Phật tính của Chư Phật thì không có gì sai khác; cái sai khác đó là do một niệm không giác tạo thành biết bao sanh tử, mãi cho đến giờ vẫn còn tâm tâm tạo sanh tử, niệm niệm tạo sanh tử. Sanh tử là cái gì? Mọi người các ông hãy nghe cho rõ: hư không đại địa là sanh tử, thân của ta đây là sanh tử, tâm cũng là sanh tử; nói chung lại thì có ba thứ:

Ấy là sanh tử của thân, tâm và thế giới. Đã có thân ta, tâm ta, đã có hư không đại địa chúng ta ở: ấy là căn bản của sự sanh tử luân chuyển không dứt của chúng ta. Nhưng thế giới nầy với thân, tâm cũng là bởi một niệm không giác tạo thành; giả sử như các ông phản vọng quy chân, thoát biển khổ mà chứng biển giác thì hư không, thế giới, thân, tâm đều ở trong một niệm nầy của ta; niệm nầy nếu giác thì thân, tâm, thế giới đều bất khả đắc. Chúng ta hiện nay không những không được giác ngộ mà còn tiếp tục tạo vô lượng sanh tử, sự tạo thành ấy như thế nào? Vì có cái thế giới, hư không đại địa nầy cho nên mới có thân thể chúng ta ở trên thế giới; đã có thân rồi thì hẳn phải có tâm, cái tâm nầy lại là cái công cụ tạo nên sanh tử. Trong khoảng một niệm tạo nên sanh tử của mười pháp giới, hiện tiền mỗi một sát na niệm niệm không dừng ấy tức là cái nhân niệm niệm tạo sanh tử của mười pháp giới. Nhân đã tạo thành thì tương lai sẽ cảm quả tơ hào không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Nếu các ông gieo nhân Phật thì đương nhiên cảm lấy quả thành Phật. Nếu gieo nhân a-tu-la, địa ngục thì nhất định sẽ nhận lấy quả báo a-tu-la, địa ngục. Như vậy niệm cái gì gieo nhân ấy. Hiện tiền người có niệm, niệm chúng sanh khổ, phát tâm Bồ Đề tức là hướng thượng tu nhân Phật; cái niệm sát, đạo, dâm tức là hướng hạ gieo nhân địa ngục ngạ quỷ súc sanh. Như thế là có mười thứ nhân cảm quả là mười loại pháp giới, ấy là bốn giới thượng: Phật giới, Bồ Tát giới, Duyên Giác giới, Thanh Văn giới gọi là bốn thánh giới. Sáu giới hạ là: thiên giới, nhân giới, a-tu-la giới, địa ngục giới, ngạ quỷ giới, súc sanh giới gọi là sáu giới phàm. Bốn thánh, sáu phàm nói chung là mười pháp giới. Nhân của mười pháp giới nầy đều do một niệm hiện tiền của chúng ta tạo thành. Hãy lấy lời ta nói làm thí dụ: ta nói ở đây, các ông đứng ở đây nghe; ta một người nói các ông trăm người nghe, chỗ hiểu của mỗi người đều không giống nhau. Có người nghe ta nói thì trong lòng vô cùng thanh tịnh tin theo mà thực hành chẳng mảy may nghi hoặc, lúc ấy lại muốn lập định chí hướng không làm đến không được; đấy là nhân thành Phật? Có người trong lòng hoan hỷ phấn chấn: "tương lai ta sẽ liễu thoát sanh tử, còn muốn độ tất cả chúng sanh nữa"; đây là nhân Bồ Tát. Còn có người nghe trong lòng muốn dụng công phu, ở chốn núi non, hang động chịu khổ nhất trên đời; đây là nhân Duyên Giác, Thanh Văn. Lại có người nghe trong lòng cho rằng: "Thầy nói nghe đến hay đấy, nhưng làm có nên đâu? Chúng tôi còn phải trì giới, cầu phúc kia!", đấy là nhân trời, người. Lại có người nghe rồi trong lòng hậm hực nói: "Chán nản quá! Ngày nào cũng một câu nói nầy, nghe đến chán luôn; hãy nói cho chúng tôi nghe ít chuyện đời mới còn hay hơn!", đã là chán ghét thì là nhân sân, nhân sân là nhân a-tu-la. Ngoài ra những việc phá giới bỏn xẻn, tham lam, tà dâm, những điều ác đều là nhân tam đồ. Như thế hợp thành nhân của mười loại pháp giới. Cùng trong một câu nói của ta, trăm người các ông nghe rồi đều có sự suy nghĩ bất đồng, ấy là do cái nhân mọi người đã gieo không giống nhau. Nhân của mười pháp giới là sự sanh tử của mười pháp giới. Các ông thử nghĩ: suốt ngày nổi một vọng tưởng bên nầy, nổi một vọng tưởng bên kia, vui vẻ, giận hờn, tất cả phiền não vô minh, gieo một thứ nhân như vậy thì sanh tử còn có lúc dứt không? Còn có ngày nhô đầu ra không? Luôn cả hơi thở cũng không ra được. Các ông nghiên cứu thử xem có phải như thế không? Nhưng sanh tử có nhiều như vậy thì phải cần thế nào mới có thể dứt được? Niệm Phật có thể dứt được không? Ta nói có thể được nhưng niệm Phật chỉ có thể thu tất cả niệm, câu thoại đầu có thể rời tất cả niệm. Tỷ như: các ông nổi vọng tưởng ngay nơi ấy, tạo sanh tử, bận lắm, một câu thoại đầu sẽ nhanh chóng thay ông mà xa rời niệm tạo sanh tử. Mọi người các ông hãy nghĩ: lực lượng câu thoại đầu có mạnh không? Ta nói lực lượng của câu thoại đầu lớn; nói lớn hơn nữa, muốn các ông tin hình như là không phải dễ. Các ông hãy thí nghiệm qua xem là biết thôi. Các ông hãy nổi một vọng tưởng thử xem; ngay trong lúc nổi vọng tưởng ấy hãy đề câu thoại đầu lên cho rõ ràng minh bạch. Đáo để là ai? Cứu cánh là ai? Tham như thế thì bóng dáng vọng tưởng có còn không? Các ông xem đấy, lực lượng câu thoại đầu lớn đến dường nào? Các ông có thể tâm tâm tham như thế, niệm niệm tham như thế được, chuyện về sau ta sẽ cùng các ông thương lượng. Tham đi!






Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |