Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Vongkiep, on 19/08/2015 - 15:12, said:
...........................................
.........................................
Tay Vương Khánh có bài "trăm năm Mệnh Lý què quặt" rất cao thâm!
Sau đây là một đoạn trong bài phản biện của tôi về bài viết này của Vương Khánh. Hy vọng bạn đọc biết được trình độ của Vương Khánh đạt tới mức “Cao Thâm“ ra sao.
“Durobi bên trang web “Mệnh Lý Mệnh Học” đã dịch bài : “Trăm năm mệnh lý què quặt“ của tác giả Vương Khánh có đoạn sau:
“…Làm thế nào để đoán định thành bại của cách cục, chủ yếu phải xem lập hướng điểm có thông qua được 3 cửa quan là hộ vệ, thật giả, thanh thuần hay không. Chỉ có 3 cửa quan đều thông qua thì mới tính cách cục được thành lập, không quí thì phú. 3 cửa chỉ cần 1 cửa không thông qua thì luận là không thành cách cục, án tình huống cụ thể phân làm 3 loại bán thành phẩm, thứ phẩm và phế phẩm, lấy tiêu chí này đoán định ngoài đại quí đại phú ra (đã thành cách cục) thì còn có các tầng thứ khác, hoặc tiểu phú quí, hoặc có thành tựu, hoặc bình phàm, hoặc là đồ bỏ đi, rõ ràng đâu ra đấy.
Cái gọi là 3 cửa quan : Hộ vệ, thật giả, thanh thuần, được biểu thuật như sau.
Hộ vệ : Tức là thập thần lập hướng (thập thần lập cách cục) xung quanh có hình thành một cơ chế bảo vệ hoặc ức chế hoàn thiện hay không. Lấy nguyên tắc hộ vệ hung thần thì nghịch dụng, cát thần thì thuận dụng để phán đoán thành bại.
4 hung thần : Sát, Thương, Kiêu, Kiếp cần chế cần hóa, như Thương Quan cần gặp Tài hoặc Ấn, Thất Sát cần gặp Thực hoặc Ấn hoặc Thương Nhận hợp Sát.
4 cát thần : Tài, Quan, Ấn, Thực cần được sinh và hộ vệ, như Quan tinh cần gặp Tài hoặc Ấn, Ấn tinh cần gặp Quan hoặc Tỷ.
Cát hung thần chỉ khi đã cụ bị cơ chế hộ vệ và ức chế này mới có thể kiện khang và thành tựu, và mới có thể là vật hữu dụng cho ta.
Lúc luận cách cục, hộ vệ là tối quan kiện, chúng ta chớ cho rằng thân vượng gặp Tài, Sát thì có thể thăng quan phát tài. Bạn đầu tiên phải tính : Tài này tự thân nó có an toàn, kiện khang hay không ? Sát này có thể thuần phục làm vật hữu dụng cho ta không ? Đơn lẻ chỉ mỗi thập thần thì nó chỉ là "nguyên liệu" mà thôi, chỉ khi qua sự tổ hợp hợp lý mới thành hình, tức biến thành "thành phẩm", tức Tài là tài phú, Quan là địa vị.
Ví dụ 1:
Càn tạo: Giáp Dần-Đinh Mão-Ất Sửu-Ất Dậu
Đại vận: Tân Mùi
Lưu niên: Kỷ Sửu
Thân vượng Kiếp vượng, vượng suy pháp nhất định sẽ cho rằng địa chi Sát có Tài sinh có thể dùng được, nhưng trên thực tế vấn đề xảy ra ngay chỗ Sát này. Thất Sát là hung thần, không có chế hóa mà lại có nguồn; mà xung quanh nhật chủ không có Ấn tinh hộ vệ, Thực Thần thì yếu nên khó dùng, không hề có chút lực để kháng kích Thất Sát, điềm đại hung. Đại vận Tân Mùi Sát thấu, ứng kỳ đến, lưu niên Kỷ Sửu bị ung thư không chữa khỏi mà chết“.
Ví dụ trên Vương Khánh luận theo
Cách Cục pháp cho ta thấy cái cốt tủy mà Vương Khánh sử dụng là coi
Sát, Thương, Kiêu, Kiếp luôn luôn là các hung thần nên cần được chế ngự, nếu không được chế ngự sẽ là
“điềm đại hung“. Ở ví dụ trên vì Sát không được chế ngự, cho nên Vương Khánh cho rằng vào đại vận Sát (Tân) đương số bị ung thư chết thì đó chính là bằng chứng để chứng minh cho lý thuyết mà Vương Khánh đã đưa ra là đúng.
Vậy thì ta thử xem có đúng là Sát ở ví dụ trên đã gây ra tai họa này hay không ?
Sau đây là sơ đồ tính điểm hạn năm Kỷ Sửu:
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Qua sơ đồ này cho ta thấy Thân quá cường vượng mà Kiêu Ấn và Thực Thương đều ít nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát là Tân tàng trong Dậu ở trụ giờ. Mộc là kỵ vượng và điểm kỵ vượng được tăng gấp đôi.
1 – Trong Tứ Trụ có Dậu trụ giờ hợp với Sửu trụ ngày không hóa (vì lực xung của Mão trụ tháng (có 9đv) với Dậu cách 1 ngôi nên bị giảm 1/3; và bị giảm thêm ¾ khi khắc Sửu trụ ngày còn 9.2/3.1/4 = 1,5đv là nhỏ hơn lực hợp của Sửu trụ ngày với Dậu có 4,8đv).
2 – Vào đại vận Tân Mùi có Mùi đại vận hợp với Mão trụ tháng hóa Mộc và bán hợp Tị với Dậu trong Tứ Trụ hóa Kim (Kim cục này không thể khắc được Mộc cục ở phía trên để gây ra Đại Chiến).
Tới năm Tân Sửu Kim cục trong Tứ Trụ hợp thêm với Sửu thái tuế và Dậu tiểu vận hợp với Sửu thái tuế đều hóa Kim. Chính Kim cục này khắc Mộc cục đã gây ra Đại Chiến nên Giáp trụ năm hợp với Kỷ lưu niên mới hóa được Thổ (vì có Sửu thái tuế động dẫn hóa). Vì Mộc cục bị khắc quá nặng nên nó không còn khả năng khắc Thổ cục, vì vậy Thổ cục có thể vẫn có điểm hạn như bình thường nhưng không sinh được cho Kim cục (?)).
Giáp trong Tứ Trụ hợp với tuế vận hóa cục (hoặc Kim cục trong Tứ Trụ hợp với Tuế Vận hóa Kim cục) nên điểm vượng trong vùng tâm phải được tính lại. Ta thấy Thân vẫn vượng và dụng thần vẫn không thay đổi. Sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận Mộc vẫn là kỵ vượng nhưng điểm kỵ vượng không được tăng gấp đôi.
Kim cục và Mộc cục gây ra Đại Chiến có (0,4.5 + 0,2)đh = 2,2đh, nên Kim cục có 2,13đh, Mộc cục có 0,5đh còn Thổ cục có -0,5đh. Mùi đại vận có 0,5đh kỵ vượng.
3 - Dụng thần Tân mặc dù Tử Tuyệt ở lệnh tháng nhưng không có 0,5đh hay 1đh do Dậu hợp với tuế vận hóa cục (bởi vì hóa cục này chính là hành của dụng thần). Tân nhược ở lưu niên nên có 0đh.
4 - Nhật can Ất nhược ở lưu niên nên có 0đh.
5 – Đinh trụ tháng thất lệnh và chỉ vượng ở đại vận nên có -0,25đh và khắc Tân đại vận có 0,5đh.
Tân đại vận nhược ở tuế vận nên khắc 2 Ất trong Tứ Trụ không có điểm hạn nhưng các lực khắc này đủ làm cho 2 Ất trở thành động, vì vậy mỗi Ất có 0,5đh kỵ vượng. 2 Ất được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên mỗi Ất có -0,5đh can động.
Tổng số có 5,08đh. Số điểm này có thể chấp nhận được (vì 5đh đã có thể gây ra tử vong). Nếu Mộc cục và Thổ cục cũng gây ra Đại Chiến hay Thổ cục sinh được cho Kim cục, hoặc Thổ cục không thể tạo thành do Mộc cục có trước ngăn cản thì tổng điểm hạn còn cao hơn nhiều.
Vậy thì :
1 - Tân là Sát ở đại vận nhược ở tuế vận còn bị Đinh trụ tháng là Thực thần chế ngự mà có thể gây ra tai họa này sao ?
2 - Hay ngược lại cho rằng Tân là dụng thần của Tứ Trụ nên vào đại vận Tân bị Đinh khắc chế nên dụng thần bị tổn thương mà gây ra tai họa chăng ?
Cả hai điều lý luận này đều sai, bởi vì hầu như tất cả các tai họa điều do nhiều yếu tố kết hợp gây ra, trong ví dụ này thì yếu tố
Đại Chiến là quan trọng nhất (4,83đh), sau đó đến yếu tố
điểm kỵ vượng (1,5đh). Nhưng đáng tiếc rằng hầu như tất cả các sách từ Cổ tới Kim đều không hề nhắc đến các khái niệm này (riêng khái niện
Đại Chiến tôi đã
“Chôm” được từ câu 12 trang 295 trong cuốn
“Dự Đoán theo Tứ Trụ” in năm 2002 của thầy trò Thiệu Vĩ Hoa (tất nhiên tôi đã mở rộng khái niệm này)
: “12 - Mệnh cục, đ
ại vận, lưu niên có 6 địa chi hợp thành hai cục khắc nhau hoặc tam hợp cục tương khắc nhau thì chủ về đại họa đến nơi, cái chết khó tránh”).
Nếu như không có Mộc cục (tức chi đại vận không phải là Mùi hay trong Tứ Trụ không có Mão) thì làm gì có Đại Chiến và dĩ nhiên làm gì có Tai Họa này (khi Kim cục và Thổ cục có điểm hạn âm). Vậy mà Vương Khánh đã khẳng định chỉ cần thấy Sát không bị chế ngự như ví dụ trên là đã đi đến kết luận tai họa do Sát gây ra.
Nhưng thực chất ở đây Tân đại vận chính là Sát đã bị Thực thần là Đinh chế ngự, vậy mà Vương Khánh lại không nhìn ra hay sao ?
Tóm lại lý thuyết đọc thấy Mê Ly nhưng khi áp dụng cho 1 ví dụ cụ thể thì "Hết Xẩy Con Bà Bẩy"....
Sửa bởi VULONG777: 21/08/2015 - 02:09