Muốn hiểu về Nguyên Lưu, trước cần hiểu một chút về các loại dụng thần trong Tử Bình Vượng Suy. Thường nói: mệnh quý trung hòa. Tức lấy yếu tố “trung dung bình hòa” làm kim chỉ nam trong việc luận đoán cát hung, phú quý bần tiện của một mệnh cục. Định Thái Cực tại nhật can (nhật chủ), nghĩa là lấy nhật chủ làm Thể. Nếu nhật chủ cường vượng, lấn át những yếu tố khác thì cần tiết chế, nếu nhật chủ yếu nhược thì cần phù trợ. Từ tình trạng vượng nhược của cái Thể đó (nhật chủ) mà xác định được cái Dụng để giúp nhật chủ nói riêng và mệnh cục nói trung trở về, hoặc ít nhất là hướng đến, trạng thái cân bằng, bớt thái quá bất cập. Cho nên mới có dụng thần ức dương. Ức, tức ức chế, tiết chế. Dương, tức phù trợ, sinh phù.
Tuy nhiên, Tử Bình Vượng Suy không chỉ có một loại dụng thần là dụng thần ức dương, mà còn có dụng thần điều hậu, và dụng thần thông quan, chỉ là hai loại dụng thần này thường được xem là yếu tố phụ, dệt hoa trên gấm. Tức là nếu định được dụng thần ức dương rồi, nếu dụng thần ức dương đó lại trùng với dụng thần điều hậu, tốt càng thêm tốt.
Dụng thần điều hậu phản ánh việc xem một bát tự là một tiểu thế giới (tiểu thời không). Nếu thế giới đó quá nóng thì cần điều chỉnh cho mát mẻ hơn, hoặc nếu quá lạnh thì cần sưởi ấm nó lên. Khí hậu hài hòa thì vạn vật mới phát triển.
Còn dụng thần thông quan phản ánh quan niệm cổ: hài hòa thì cát lợi hơn xung đột. Quan niệm này vẫn còn được phản ánh ở nhiều bộ môn chiêm bốc, mà rõ nhất có thể kể đến bộ môn Bói Dịch Lục Hào: dụng thần được sinh phù thì cát lợi, dụng thần bị hình xung khắc hại thì hung hiểm; với điều kiện không nên được sinh phù thái quá thì “vật cực tất phản”, vui quá hóa buồn. Trong Tử Bình cũng vậy, khi nói “mệnh quý trung hòa” thì “trung” chính là cân bằng, còn “hòa” có nghĩa là hòa hợp, tức càng ít hình xung khắc hại thì lại càng tốt. Từ đó mà có thêm một tiêu chuẩn để bình xét độ cao thấp của một bát tự: lưu thông sinh hóa.
Lưu thông sinh hóa, tức tương sinh, tương sinh thì hòa hợp, hòa hợp thì cát lợi. Tức là lưu thông sinh hóa dựa vào mối quan hệ tương sinh của tám chữ can chi trong một bát tự. Do có mối quan hệ tương sinh nên sẽ tạo thành một dòng khí chuyển động, hoặc còn gọi là “chạy” trong bát tự đó. Tôi lấy ví dụ bên dưới:
Càn: Giáp Tý – Bính Tý – Đinh Hợi - Ất Tỵ
Do Tỵ - Hợi tương xung, mà thủy vượng, Tý – Tý – Hợi dung hợp nên thủy thế cường vượng xung tán hỏa thế, thành ra Tỵ hỏa thương tổn hơn Hợi thủy, cũng chính là nói Giáp mộc tàng trong Hợi thủy bị thương tổn nhưng không bị xung tán.
Có một dòng khí chạy trong bát tự: Tý – Tý – Hợi (Giáp) --> niên can Giáp --> Bính - Đinh <-- thời can Ất <-- Tý – Tý – Hợi (Giáp). Diễn đạt bằng lời văn như sau: vòng khí thứ nhất là vượng khí thủy đắc lệnh, tại địa chi Tý – Tý – Hợi dung hối thành thủy thế, thông qua hai yếu tố là can Giáp tàng trong Hợi và can Giáp thấu tại niên trụ mà thủy khí chảy đến Giáp niên trụ, sau đó Giáp sinh cho Bính và Đinh (Bính – Đinh dung hối hỏa thế). Vòng khí thứ hai là vượng khí thủy đắc lệnh, tại địa chi Tý – Tý – Hợi dung hối thành thủy thế, thông qua yếu tố là can Giáp tàng trong Hợi mà chảy đến can Ất thấu tại thời trụ (Giáp có thể xem là căn khí của Ất mộc nhưng là một loại nhược căn – căn khí yếu), sau đó Ất mộc sinh Bính và Đinh (Bính – Đinh dung hối hỏa thế).
Dòng khí chuyển động dựa vào mối quan hệ tương sinh của tám chữ trong một bát tự gọi là Nguyên Lưu. Nguyên, tức nguyên khí, thiên địa chi khí (linh khí thiên địa). Lưu, tức chảy, chuyển động. Nơi dòng khí phát nguyên (bắt đầu) gọi là Nguyên Đầu, nơi dòng khí chảy đến cuối cùng là Thu Cục. Do có Nguyên Đầu và Thu Cục, cùng với việc xem một bát tự là một tiểu thời không (tiểu thế giới), mà từ đó có thể xem một bát tự là một cách cục phong thủy, Nguyên Đầu là Tổ Sơn, Thu Cục là Khí Huyệt, bát tự quý cần tàng phong tụ khí. Cho nên Tam Mệnh Thông Hội (nếu tôi nhớ không lầm) thấy Thu Cục bị xung thì luận mệnh tiện, cũng là vì lí do này; tức Khí Huyệt bị xung, xung thì tán, thì không tàng phong tụ khí.
Luận Nguyên Lưu theo tôi cần một số lưu ý:
(1) Quan trọng nhất: phải phối hợp hỷ kỵ. Hỷ Dụng thu cục thì cát. Kỵ cừu là Nguyên Đầu, hỷ kỵ là Khí Huyệt thì càng tốt đẹp.
(2) Một Nguyên Lưu cát lợi (hỷ dụng thu cục) kỵ Khí Huyệt bị hình xung khắc hại; khi bị hình xung khắc hại thì tán khí.
(3) Một Nguyên Lưu cát lợi (hỷ dụng thu cục) cũng kỵ bị ngăn trở. Ví dụ một chỗ nào đó của Nguyên Lưu bị tuế vận làm cho ngăn trở thì không cát lợi.
(4) Cùng lý với mục số 3, một Nguyên Lưu lẽ ra cát lợi, nhưng trong nguyên cục bị ngăn trở thì hung, nhưng nếu ở tuế vận được khai thông thì được cát hóa, trở nên cát lợi.
(5) Từ mục số 3 và số 4, cần nắm bắt qui tắc tuế vận nhập cục.
(6) Luận Nguyên Lưu là mặc nhiên chấp nhận tính xa gần trong tám chữ bát tự.
(7) Nguyên Lưu nên có Khí Huyệt, không có Khí Huyệt mà liên tục lưu thông cũng chính là tán khí.
Vận dụng khái niệm Nguyên Lưu, có thể hiểu được vì sao Trích Thiên Tủy luận “tình hòa khí hiệp” là cát, “thiên phúc địa tái” là cát. “Tình hòa khí hiệp” tức dụng hỷ được sinh phù, được bang trợ đến từ hai bên trái phải trong mệnh cục. “Thiên phúc địa tái” tức dụng hỷ được sinh phù, được bang trợ đến từ hai chiều trên dưới trong mệnh cục: cùng một trụ, thiên can sinh địa chi thì địa chi được “thiên phúc” (trời che), địa chi sinh thiên can thì thiên can được địa tái (đất chở).
Ở đây cần chú ý, luận cát hung không thể xa rời hỷ kỵ. Kỵ thần gặp “tình hòa khí hiệp”, “thiên phúc địa tái” thì hỏng.
Vận dụng khái niệm Nguyên Lưu, có thể hiểu khái niệm “Bính đoạt kỳ quang”, và khi nào đoạt, khi nào không đoạt. Như bát tự ví dụ phía trên, Càn: Giáp Tý – Bính Tý – Đinh Hợi – Ất Tỵ là “Bính đoạt kỳ quang” nhưng không đoạt hoàn toàn. Tại sao nói “Bính đoạt kỳ quang”. “Kỳ” ở đây chỉ nhật can Đinh hỏa, ánh sáng của Đinh hỏa bị Bính hỏa đoạt mất, nên là “đoạt kỳ quang”. Thường thấy, bát tự sinh ngày Đinh, thấy thấu Bính liền luận “Bính đoạt kỳ quang”, vì Bính là lửa mặt trời, Đinh là lửa ngọn đèn, nên Bính sáng tỏ, lấn át Đinh. Luận như vậy là chưa chính xác. “Bính đoạt kỳ quang” chỉ xảy ra khi Bính “hứng” lấy Nguyên Lưu, trước khi Nguyên Lưu chảy đến Đinh. Như ví dụ phía trên, Nguyên Lưu phân làm hai nhánh, nhánh bên trái chảy đến niên trụ, rồi chảy đến Bính trước khi chảy đến Đinh. Tuy nói Bính – Đinh dung hối hỏa thế, nhưng vẫn là Bính hưởng phần lớn, Đinh hưởng phần nhỏ, nên luận “Bính đoạt kỳ quang”. Tại sao nói là đoạt không hoàn toàn? Vì trong bát tự còn có một Nguyên Lưu thứ hai chảy sang bên phải, đến thời trụ rồi đến Đinh, trước khi đến Bính. Thực tế bát tự được đưa ra ví dụ là bát tự của tôi. Tôi có một cô em gái kế, cuộc sống nếu so với tôi thì viên mãn hơn nhiều (tính đến hiện tại), vì cổ may mắn về nhiều mặt trong cuộc sống. Bát tự của tôi có một chỗ hỏng đó là Hợi xung Tỵ, làm tán mất một phần nguyên khí, ví Ất mộc đồng thời sinh cho cả Tỵ hỏa và Đinh hỏa, cho nên Tỵ hỏa cũng là một Khí Huyệt.
Ngoài ra luận Nguyên Lưu còn hiểu được câu “thủy kỳ sở thủy, chung kỳ sở chung” trong Trích Thiên Tủy. Nhìn vào bát tự phải thấy khí thế của bát tự, cái khí thế đó từ đâu sinh ra (thủy kỳ sở thủy), cái khí thế đó kết thúc tại đâu (chung kỳ sở chung), là hỷ là kỵ thì mới biết cát hung. Cũng như luận đoán bát tự cũng phải có đầu có cuối, đầu tiên là lập Thái Cực, định Thể Dụng. Sau đó là định Tiểu Thái Cực, luận cát hung. Vì sao cát, vì sao hung, hết thảy đều phải dựa vào cơ sở là hỷ kỵ, không dựa vào hỷ kỵ tức là không có Thái Cực Điểm, không có Thái Cực thì vũ trụ hỗn mang, tiểu thiên địa còn hỗn độn thì làm gì có cát hung mà luận?
Sửa bởi ThienKhanh: 31/03/2021 - 14:22