Kinh thị Dịch truyện
(Quyển thượng)
Nguyên tác Kinh Phòng thời nhà Hán
Úc Lâm thái thú nước Ngô là Lục Tích chú thích
Binh bộ thị lang triều Minh là Phạm Khâm hiệu đính.
Quách Ngọc Bội dịch
(Càn dưới Càn trên) Càn
Thuần dương nắm quyền. Tượng phối Thiên (Trời), với Khôn là Phi Phục, cư Thế (1). <<Dịch>> nói: "Dụng cửu, [kiến quần long vô thủ, cát] (2)", nghĩa là dùng 9, thấy bầy rồng chẳng có đầu, cát. Hào Cửu Tam tam công là Ứng, giống như "càn càn tịch dịch chi ưu" nghĩa là quần quật rồi đến đêm có cái lo mà cần cẩn thận.
Giáp Nhâm phối hai tượng quẻ nội ngoại (3).Tích toán khởi Kỷ Tị hỏa cho đến Mậu Thìn thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Sâm theo vị trí khởi Nhâm Tuất (6). Kiến Tý (QNB chú: tức tháng Một - 11 al) khởi Tiềm Long (7). Kiến Tị tới cực chủ "kháng vị" (8) (QNB chú: chữ "kháng"ở đây vừa có nghĩa là rất, quá, vượt quá,... vừa có nghĩa là tú Cang trong 28 Tú, còn chữ "vị" có nghĩa là vị trí, chỗ, nơi,...).
Phối vào nhân sự là cái đầu (9), là vua, cha (10), vào các chủng loại là ngựa là rồng (11). Giáng ngũ hành, ban lục vị (12). Cư ở phận dã Tây Bắc, nơi của âm dương tương chiến. Dịch nói "chiến vu càn" (13) nghĩa là chiến đấu ở chỗ Càn. Thiên lục vị, Địa lục khí, lục tượng lục bao, tứ tượng phân thành vạn vật, âm dương không sai khác, thăng giáng có cấp bậc (14). Nhân sự cát hung thấy ở tượng của nó chăng, tạo hóa phân chia có không chăng (15).
Lục vị thuần dương, âm tượng ở trong (16). Dương là vua, âm là tôi thần. Dương là dân chúng, âm là sự tình sự việc. Dương thực âm hư, tượng của minh ám, âm dương có thể biết được (17).
Thủy phối vị là phúc đức (18), Mộc nhập vào chỗ Kim hương cư bảo bối (19), Thổ lâm vào nội tượng làm phụ mẫu (20), Hỏa tới trên Tứ thượng e ngại gặp địch (21), Kim nhập vào Kim hương tiệm cận cạnh Mộc (22). (QNB chú: chỗ này nên hiểu rộng Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ là 5 hành tinh, chứ không phải là nói về khí ngũ hành. Nhưng hãy xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây, liên hệ tới khí của Nạp Giáp và Trang Chi).
Tông miếu trên thấy Tuất Hợi, gốc của Càn (23). Dương cực sinh âm (24), bát quái theo quy tắc.
(1) Nhâm Tuất thổ, Quý Dậu kim.
(2) Thuần dương dụng cái đức của 9.
(3) Càn là đầu của trời đất, phân phối Giáp Nhâm nhập vào chỗ Càn.
(4) Điềm của cát hung, tích năm mà khởi tháng, tích ngày khởi giờ, tích giờ khởi quái nhập bản cung.
(5) Thổ tinh nhập Tây phương, tựa vào Tây Bắc, cư Nhâm Tuất là Phục Vị (chỗ náu).
(6) Nhâm Tuất tại Thế, cư ở tông miếu.
(7) Tháng 11 Đông Chí, nhất dương sinh.
(8) Tháng 4 rồng thấy ở Thìn, dương cực âm lai, cát khứ hung sinh (cát đi qua, hung sinh ra), dụng cửu cát.
(9) Càn là cái đầu, là đầu mối, đứng đầu, là thủ lĩnh vậy.
(10) Càn tượng cứng rắn kiên cường, tôn quý của trời đất, cho nên là vua cha.
(11) Trời vận chuyển chẳng ngưng.
(12) Thập nhị Thần phân chia làm Lục vị thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức cát hung.
(13) Càn là dương, Tây Bắc âm, dương nhập vào âm, hai khí thịnh tất sẽ chiến đấu.
(14) Âm dương 24 Hậu (QNB chú: ám chỉ Khí - Hậu, 24 Tiết - Hậu), Luật Lã điều hòa nhịp điệu vậy.
(15) Cho nên biến động chẳng ngừng, lưu chuyển quanh Lục Hư.
(16) Dương trong âm, âm trong dương.
(17) Ba Năm là dương, Hai Bốn là âm, Sơ Thượng tiềm kháng (tiềm ẩn và vượt quá). (QNB chú: đây là nói đến thuộc tính của vị trí 6 hào trong quẻ).
(18) Giáp Tý thì Thủy là tử tôn của Càn.
(19) Giáp Dần thì Mộc là Tài của Càn.
(20) Giáp Thìn thì Thổ là là Phụ Mẫu của Càn.
(21) Nhâm Ngọ thì Hỏa là Quan Quỷ của Càn.
(22) Nhâm Thân thì Kim cùng vị làm tổn hại Mộc.
(23) Tuất Hợi là vị trí của Càn.
(24) Giáng nhập Cấu quái (giáng xuống nhập vào quẻ Cấu).
(Tốn dưới Càn trên) Cấu
Hào âm đương quyền. Kim Mộc hỗ Thể, Thiên hạ Phong hành, viết Cấu.
Cấu, gặp gỡ vậy. Dịch viết, âm gặp dương (1), cùng Tốn là Phi Phục. Nguyên sĩ cư Thế (2), tôn quý mà lại ti tiện (3), định cát hung chỉ lấy tượng của một hào (4). Cửu Tứ chư hầu kiên cường ở trên, khí âm nơi dưới. Dịch nói, quan hệ với chỗ Kim ùn ứ tắc nghẽn. Tốn tích âm nhập dương, Tân Nhâm giáng tượng nội ngoại.
Kiến Canh Ngọ tới Ất Hợi (5), tích toán khởi Ất Hợi thủy tới Bính Tuất thổ, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7), tú Tỉnh theo vị trí nhập Tân Sửu (8). Kiến Ngọ khởi Khôn cung hào Sơ Lục. Dịch nói, "lý sương kiên băng chí" nghĩa là dầm sương băng cứng tới. Kiến Hợi, "long chiến vu dã" nghĩa là rồng chiến đấu ở ruộng vườn (9).
Phối với nhân sự là bụng, là mẹ (10), ở chủng loại là ngựa. Dịch nói, "hành địa vô cương" nghĩa là đi ở nơi vô cùng vô tận (11). Nội Tốn là phong (gió), Càn là thiên (trời), thiên hạ phong hành (trời buông gió thổi), quân tử lấy hiệu lệnh tuyên cáo bốn phương (12). Gió trời khí tượng 36 Hậu (13). Mộc nhập Kim là bắt đầu (14). Âm không thể chế dương, kèm bên Kim ùn tắc. Cái đạo nhu thuận của Dịch dẫn dắt vậy. Ngũ hành thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức. Âm lay động dương, giáng nhập vào Độn (15).
(1) Nhất âm mới sơ sinh, dương khí còn thịnh, âm chưa phải là địch.
(2) Tân Sửu thổ, Giáp Tý thủy.
(3) Tử Tôn với Phụ Mẫu tương hỗ vị trí đại diện.
(4) Nhiều lấy ít làm quý báu.
(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.
(6) Điềm của tai họa và phúc sinh ở ngũ hành thăng giáng vậy.
(7) Thái Bạch ở Tây cư Kim vị.
(8) Tân Sửu nhập Thổ bắt đầu, Thổ lâm vào Mẫu vậy.
(9) Tuất Hợi chính là vị trí của Càn. Càn náu ở vị trí gốc (bản vị), tất sẽ chiến. Chỗ tích âm còn thịnh, cho nên chiến.
(10) Khôn thuận theo, dung chứa ở vật.
(11) Cái này giải thích hào một phối với Khôn tượng. Bản thể chính là Càn Tốn. Nay tán tụng hào một khởi âm. Giả làm Khôn tượng mà nói.
(12) Tốn nhập vào vậy.
(13) Ba mươi sáu Hậu, Tiết Khí giáng tượng gió lớn.
(14) Kim tiếp nạp Mộc vậy.
(15) Quẻ Thiên Sơn Độn.
(Cấn dưới Càn trên) Độn
Hào âm đương quyền. Âm lay động dương lẩn trốn (độn), Kim Thổ thấy tượng, Sơn tại Thiên hạ vi Độn (núi ở dưới trời là Độn - lẩn trốn) (1). Âm tới dương lui vậy (âm lai dương thoái). Tiểu nhân quân tử, ô trọc bề thế khế hợp cái nghĩa ấy vậy. Dịch nói, "độn thế vô muộn" nghĩa là lánh thế tục chẳng còn thấy sầu muộn oi bức khó chịu. Cùng với Cấn là Phi Phục. Đại phu cư Thế, Kiến Tân Mùi là Nguyệt (2). Hào Lục Nhị được Ứng với vị trí của vua, ngộ kiến yên. Phụng sự cho vua toàn thân xa lánh tổn hại (3).
Kiến Tân Mùi tới Bính Tý. Âm dương độn khứ, cuối cùng mà Phục Vị (4). Tích toán khởi Bính Tý đến Ất Hợi, quay vòng trở lại ban đầu (5). Dương tiêu âm trưởng, không chuyên ư bại. Hệ nói, "năng tiêu tức giả [đương tác năng tiêu giả tức]" nghĩa là cái có thể tiêu tức [đương làm cái có thể tiêu đi xuất hiện ra], nhất định cái chuyên sẽ bại vậy.
Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm, tú Quỷ nhập vị giáng Bính Thìn [đương làm Bính Ngọ] (6). Phối với nhân sự là lưng là tay (7), phối với các chủng loại là chó, là núi, đá. Nội ngoại thăng giáng, âm dương phân số 28 Hậu (8). Thổ nhập Kim là trì hoãn. Tích góp dương làm Trời, tích góp âm làm Đất. Chỗ của núi, nơi đất cao dốc, dồn thông với Trời, chính là âm trưởng dương tiêu, giáng nhập Bĩ (9).
(1) Độn, thoái lui vậy.
(2) Bính Ngọ hỏa, Bính [đương tác Giáp] Dần mộc.
(3) Độn (lánh, lui đi) mà chờ thời vậy.
(4) Theo tháng 6 tới tháng 11 vậy.
(5) Hỏa Thổ đồng cung, Thiên cùng với Sơn độn.
(6) Bính Ngọ lâm nguyên sĩ.
(7) Cấn là lưng, tay.
(8) Phân chia âm dương tiến thoái.
(9) Âm bức ép dương rời đi, nhập quẻ Thiên Địa Bĩ.
(Khôn dưới Càn trên) Bĩ
Nội tượng âm trưởng (1), Thiên khí bốc lên trên, Địa khí giáng xuống dưới, hai tượng phân ly, vạn vật chẳng giao kết vậy. Tiểu nhân đạo thì trưởng, quân tử đạo thì tiêu (2). Dịch nói, "Bĩ chi phỉ nhân" nghĩa là Bĩ đấy kẻ cướp. Cùng với Khôn là Phi Phục. Tam công cư Thế (3), Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Quân tử để chờ thời, tiểu nhân làm tai họa (4).
Kiến Nhâm Thân đến Đinh Sửu, âm khí từ từ trưởng (5). Tích toán khởi Đinh Sửu tới Bính Tý, quay vòng trở lại ban đầu (6).
Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Liễu theo vị trí giáng vào Ất Mão (8), khí phân khí hậu ba mươi sáu (9).
Âm dương thăng giáng, dương đạo thì tiêu tổn, âm khí ngưng kết. Vua tôi cha con đều chẳng kịp cùng nhau đạt tới (10).
Dịch nói, "kỳ vong kỳ vong" nghĩa là mất rồi toi rồi, gắn với cái chồi cây dâu (11).
Thiên địa thanh trọc, âm bạc (12) dương tiêu, thiên địa đầy vơi, chờ thời tiêu tức. Cái thế của sự nguy nan, xu thế không thể lâu dài được. Ngũ vị đã phân chia, tứ thời lưu hành vậy (13).
Thượng cửu nói, "Bĩ cực tắc khuynh" nghĩa là Bĩ tới cực điểm thì sẽ suy sụp đi, làm sao mà có thể lâu dài được đâu (14). Âm trưởng giáng nhập vào Quan (15).
(1) Thuần dụng âm sự (toàn là dùng sự việc mang tính âm).
(2) Âm tiểu nhân, dương quân tử.
(3) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.
(4) Ất Mão thái lai (tới cực).
(5) Tháng 7 Lập Thu tới tháng 12 Đại Hàn.
(6) Kim Sửu Thổ đồng cung.
(7) Mộc tinh nhập quẻ đương quyền.
(8) Ất Mão lâm Tam Công.
(9) Sáu lần sáu là ba mươi sáu (6x6), tích toán cát hung.
(10) Âm đãng dương lai, đạo hành hĩ (âm lay động dương tới, đạo hạnh vậy).
(11) Chồi cây dâu thì theo khóm dâu vậy.
(12) Âm bác (âm đọ sức).
(13) Quân tử đang ở thế nguy nan, đơn độc đong đếm khó khăn, chẳng thể đứng lâu riêng chỗ, chẳng cải biến điều khiển chúng, sắp sửa thái lai.
(14) Bĩ cực tắc thái lai.
(15) Hào Cửu Tứ bị âm dồn ép nhập quẻ Quan.