Jump to content

Advertisements




Nghiệp và số phận



166 replies to this topic

#16 Andrew

    Kiền viên

  • Hội Viên mới
  • PipPipPip
  • 1436 Bài viết:
  • 3027 thanks

Gửi vào 15/02/2015 - 22:28

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

quangdct, on 15/02/2015 - 21:49, said:

Trong thông tin ngày tháng năm sinh giờ sinh con người không gì là không hiện ra, chẳng qua năng lực thầy chỉ đến ABC thì sao thấy được XYZ. Phong Thủy, mồ mả, cha mẹ, anh em, thời vận, tính cách... hiện lên đủ cả. Thầy tinh thì chỉ cẩn Tử vi hoặc Tứ trụ là có thể đoán được gần như chính xác, hỏi thêm 1 số thông tin chính là loại trừ khả năng 1 lá số mà nhiều cuộc đời.
Đoán lá số trắng từ xưa đến nay đều kị đoán là như thế.
Làm sao định lượng được nghiệp tiền kiếp và nghiệp tác tạo kiếp này mà đoán chính xác ( trừ các vị chân tu đắc đạo ).
Làm sao định lượng được Địa Mệnh mà đoán chính xác, làm sao định lượng được Nhân Mệnh mà đoán chính xác.
Các yếu tố Nghiệp hoặc Địa Mệnh, Nhân Mệnh chỉ có thể xác định bằng định tính thì giải đoán cũng chỉ mang tính định tính, làm sao có được đáp số chính xác.

Thanked by 3 Members:

#17 lethanhnhi

    Thiếu Dương

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 12961 Bài viết:
  • 25440 thanks

Gửi vào 15/02/2015 - 22:40

Danh

Trăng qua cửa sổ trăng vuông

Gió dẹt mình xuống để luồn mái tranh

Con người muốn lọt vào danh

Thì mình phải tự ép thành cái tên



Bịt tai

Muốn bịt hết miệng trần ai

Hãy bịt ngay chỗ cái tai của mình
( thơ Bảo Sinh)
Tổ sư chúng nó háo cái danh
Đứa tụt quần lót đứa ngồi bành
Đứa thì ưỡn ngực đứa dạng háng
Làm sao hết mệt dê anh danh
...............
Ở đời ai cũng muốn thành tiên
Khổ nỗi ai ai cũng hám tiền
Người khôn của khó gái lại ít
Tới khi sướng đủ đã qui tiên
............
Hôm xưa lên tỉnh về làng
Áo cài khuy bấm em làm khổ tôi
Bây giờ quần trễ rốn lồi
Khổ tôi khổ cả bố tôi đang thiền


Thanked by 2 Members:

#18 Hoa Cái

    Hội Viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPip
  • 5381 Bài viết:
  • 18634 thanks

Gửi vào 15/02/2015 - 22:42

Andrew chính xác khi viết về các ẩn số (Nghiệp, ĐỊa/ Nhân Mệnh) ----> làm sao đoán trúng ? Thậm chí sai bét .

Ví dụ: hai anh em sinh đôi, cùng bị tai nạn xe, 1 người chết còn 1 người tỉnh bơ (thật sự shocked khi anh chết) .

Còn rất nhiều ví dụ tương tự .

Thanked by 3 Members:

#19 lethanhnhi

    Thiếu Dương

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 12961 Bài viết:
  • 25440 thanks

Gửi vào 15/02/2015 - 22:47

Nửa đêm nhắm mắt ngồi Thiền
Vợ kêu quang quác có tiền chưa anh
Nửa đêm sổ tức tĩnh tâm
Chày cối hàng xóm nó đâm rầm rầm
Nửa đêm ngồi xếp bằng tròn
m*y mà thế nữa ông còn nhòm sang

#20 quangdct

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1794 Bài viết:
  • 3024 thanks

Gửi vào 15/02/2015 - 22:56

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Andrew, on 15/02/2015 - 22:28, said:

Làm sao định lượng được nghiệp tiền kiếp và nghiệp tác tạo kiếp này mà đoán chính xác ( trừ các vị chân tu đắc đạo ).
Làm sao định lượng được Địa Mệnh mà đoán chính xác, làm sao định lượng được Nhân Mệnh mà đoán chính xác.
Các yếu tố Nghiệp hoặc Địa Mệnh, Nhân Mệnh chỉ có thể xác định bằng định tính thì giải đoán cũng chỉ mang tính định tính, làm sao có được đáp số chính xác.
Đã nói rồi mà bác, khi năng lực chưa đủ thì nhìn cái gì cũng bàng bạc, nói khẽ còn run làm gì dám quyết đoán chém đinh chặt sắt.
Khi đã có ( trừ các vị chân tu đắc đạo ).thì chẳng có gì là không thể mà do bản thân ta nhận thức có hạn nên ta nghĩ ai cũng có hạn như ta cả. Nếu như thế thì chúng ta việc gì phải cố gắng không ngừng nghỉ, việc gì phải lòe nhau là cải được số mệnh... Sao anh không nói: Tôi không đoán được đâu vì năng lực tôi có hạn sẽ đoán không đúng, đằng này vẫn đoán mà chẳng bao giờ bảo thân chủ "Tôi chỉ đoán đúng được 70%, còn 30% thì sau này anh tự biết" như thế có phải là tự lừa mình lừa người hay không?
Diễn đàn ta có người rất thích đoán hạn quá khứ (thậm chí đến cả ngày giờ) tất nhiên là những sự việc trọng đại trong đời thì đủ biết người ấy đã có được phương pháp luận đoán rất đáng tham khảo, nghiên cứu, học tập mà trong số đông chúng ta ở đây chưa thể tiếp cận được.

#21 lethanhnhi

    Thiếu Dương

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 12961 Bài viết:
  • 25440 thanks

Gửi vào 15/02/2015 - 23:00

Muốn làm thày bói ra trò
Phải nên gần gũi với thầy chữa răng
Lỡ mà có phán lăng nhăng
Làm răng ít tốn , có chăng vài đồng
Muốn làm cha mẹ người ta
Phải nói khó hiểu làm ra kinh hồn
Chế năm bảy chữ toán khoa
Vài lạng Anh ngữ cũng là chữ Nho


#22 Andrew

    Kiền viên

  • Hội Viên mới
  • PipPipPip
  • 1436 Bài viết:
  • 3027 thanks

Gửi vào 15/02/2015 - 23:22

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

quangdct, on 15/02/2015 - 22:56, said:

Đã nói rồi mà bác, khi năng lực chưa đủ thì nhìn cái gì cũng bàng bạc, nói khẽ còn run làm gì dám quyết đoán chém đinh chặt sắt.
Khi đã có ( trừ các vị chân tu đắc đạo ).thì chẳng có gì là không thể mà do bản thân ta nhận thức có hạn nên ta nghĩ ai cũng có hạn như ta cả. Nếu như thế thì chúng ta việc gì phải cố gắng không ngừng nghỉ, việc gì phải lòe nhau là cải được số mệnh... Sao anh không nói: Tôi không đoán được đâu vì năng lực tôi có hạn sẽ đoán không đúng, đằng này vẫn đoán mà chẳng bao giờ bảo thân chủ "Tôi chỉ đoán đúng được 70%, còn 30% thì sau này anh tự biết" như thế có phải là tự lừa mình lừa người hay không?
Diễn đàn ta có người rất thích đoán hạn quá khứ (thậm chí đến cả ngày giờ) tất nhiên là những sự việc trọng đại trong đời thì đủ biết người ấy đã có được phương pháp luận đoán rất đáng tham khảo, nghiên cứu, học tập mà trong số đông chúng ta ở đây chưa thể tiếp cận được.
70%/30% xác xuất xảy ra lớn => dự đoán cũng chỉ đề cập khả năng sự kiện xảy ra. TVLS có ông nào dám quyết đoán chém đinh chặt sắt tương lai không? Nếu có chém trúng bao nhiêu %?
Diễn đàn ta có người rất thích đoán hạn quá khứ (thậm chí đến cả ngày giờ) tất nhiên là những sự việc trọng đại trong đời thì đủ biết người ấy đã có được phương pháp luận đoán rất đáng tham khảo, nghiên cứu, học tập mà trong số đông chúng ta ở đây chưa thể tiếp cận được.
Đoán quá khứ đúng, nhưng chắc gì đoán tương lai đã đúng bởi ” lá số có cách cục sự kiện chưa chắc xảy ra, nhưng sự kiện xảy ra thì trên lá số phải có cách cục thể hiện”

Thanked by 1 Member:

#23 Hoa Cái

    Hội Viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPip
  • 5381 Bài viết:
  • 18634 thanks

Gửi vào 15/02/2015 - 23:25

Tôi rất sợ loại thầy bói như LeThanhNhi khoe 1 thương vụ bói đạt 10 ngàn đô, rồi mơ sẽ lên đến 100 ngàn đô nhưng vào đây đăng các câu trong sách vở, được truyền miệng, tưởng là quí báu. Để ý thấy đoán sai quá nhiều ngay tại TVLS, thậm chí sai những cái ấu trỉ, cho thấy thời loạn mới sinh ra loại thầy ??? Bầu trời có nhiều sao, nhất quyết loại KK hãm chỉ là đứa gian hùng, thô tục nhất.

Xá gì cái đám Kiếp Không
Mắt mà ti hí, lông bông cả đời

Gian manh hãy bỏ ngay đi
Không thi cái miệng không nhai đuợc rôi


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Andrew, on 15/02/2015 - 23:22, said:

70%/30% xác xuất xảy ra lớn => dự đoán cũng chỉ đề cập khả năng sự kiện xảy ra. TVLS có ông nào dám quyết đoán chém đinh chặt sắt tương lai không? Nếu có chém trúng bao nhiêu %? Diễn đàn ta có người rất thích đoán hạn quá khứ (thậm chí đến cả ngày giờ) tất nhiên là những sự việc trọng đại trong đời thì đủ biết người ấy đã có được phương pháp luận đoán rất đáng tham khảo, nghiên cứu, học tập mà trong số đông chúng ta ở đây chưa thể tiếp cận được. Đoán quá khứ đúng, nhưng chắc gì đoán tương lai đã đúng bởi ” lá số có cách cục sự kiện chưa chắc xảy ra, nhưng sự kiện xảy ra thì trên lá số phải có cách cục thể hiện”



Thật ra không đoán trúng quá khứ thì khó lòng đoán trúng tương lai .

Đoán quá khứ đúng ,không có nghĩa là đoán tương lai phải đúng nhưng đoán khá khứ đúng tức mình có duyên với lá số lập được mô hình (model / prototype) cho 1 phương án trong lá số thì khả năng đoán trúng cho tương lai có lẽ lên tới 70% hay hơn nữa .

Sửa bởi Hoa Cái: 15/02/2015 - 23:33


Thanked by 4 Members:

#24 dacky

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 197 Bài viết:
  • 26 thanks

Gửi vào 15/02/2015 - 23:26

Con ko piết con đọc ở đâu nữa mọi người ạ .nhưng con nhớ có một câu chuyện như thế này . Hình như có một cô gái bị chết ở ngoài đường song rồi có một người đàn ông đi qua đắp chiếu che lên cho cô gái ý rồi ra đi . Sau rồi có một người đàn ông khác đi qua nhìn thấy cô gái chết nằm trên đường lòng cảm thấy rất thương xót nên đã mang cô gái đi chôn cất và an táng .Kiếp sau của người con gái bị chết đó có yêu hai người đàn ông .Người thứ nhất đắp chiếu cho cô gái và người đàn ông thứ hai đã chôn cất cô gái ấy . và cô gái đã làm vợ của người đàn ông thứ hai . như thế có phải cô gái kia nợ ân tình của người đàn ông thứ hai nên đã làm vợ của người đó ko hả mọi người . Con ko nhớ mình đọc câu chuyện này bao lâu rồi nữa . nhưng con cảm thấy rất tin vào những gì là của của kiếp trước diễn ra . Mình gặp người thế nào .có quan hệ thế nào với người ta cũng là cái duyên . Có người mình gặp lần đầu tiên đã cảm thấy yêu quý . còn có người mình gặp hàng chục lần vẫn không ưa nổi . Chắc là do thiện cảm của mình đối với người ta từ kiếp trước truyền đến kiếp này gây ra lòng yêu gét như vậy ạ . Người yêu con và con lần đầu tiên gặp nhau đã thích nhau rồi . Anh ấy và con hay nhìn trộm nhau lắm mọi người ạ . Dù chúng con đã thành đôi lứa nhưng cũng không phải là tình yêu hoàn hảo . nhưng con chỉ mong được như vậy là hạnh phúc lắm rồi . Một người luôn chạy theo một người .có lẽ sẽ tốt hơn là cả hai chạy theo nhau .

#25 quangdct

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1794 Bài viết:
  • 3024 thanks

Gửi vào 15/02/2015 - 23:39

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Andrew, on 15/02/2015 - 23:22, said:

70%/30% xác xuất xảy ra lớn => dự đoán cũng chỉ đề cập khả năng sự kiện xảy ra. TVLS có ông nào dám quyết đoán chém đinh chặt sắt tương lai không? Nếu có chém trúng bao nhiêu %?
Diễn đàn ta có người rất thích đoán hạn quá khứ (thậm chí đến cả ngày giờ) tất nhiên là những sự việc trọng đại trong đời thì đủ biết người ấy đã có được phương pháp luận đoán rất đáng tham khảo, nghiên cứu, học tập mà trong số đông chúng ta ở đây chưa thể tiếp cận được.
Đoán quá khứ đúng, nhưng chắc gì đoán tương lai đã đúng bởi ” lá số có cách cục sự kiện chưa chắc xảy ra, nhưng sự kiện xảy ra thì trên lá số phải có cách cục thể hiện”
Hihi. Điều bác nhận xét rất tinh tế nhưng nếu không có người đoán đúng tương lai thì ai còn dám hành nghề bói toán? Trong quá khứ rất nhiều nhân vật làm được việc ấy, chẳng qua là đoán cho ai, việc gì, người thường hay quý nhân...Cùng 1 lá số trắng, người giỏi (- danh xưng đại sư đâu phải nói phét mà thành) bằng nhiều cách khác nhau (trong đó có ngoại ứng...) đã có thể đoán được bước đầu lá số đó ứng với người như thế nào.
Xin hỏi bác nếu thừa nhận có nghiệp, tức là thừa nhận có linh hồn, vậy bác có thể nói rõ hơn "Thế nào là ba hồn hay không? Và vì sao đến đời thứ tư trở đi người ta chẳng nên cúng bái nữa?" Chúng ta đi vào vấn đề tạo nghiệp và chuyển nghiệp vậy. Cảm ơn bác nhiều

Sửa bởi quangdct: 15/02/2015 - 23:46


#26 Andrew

    Kiền viên

  • Hội Viên mới
  • PipPipPip
  • 1436 Bài viết:
  • 3027 thanks

Gửi vào 16/02/2015 - 05:42

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

quangdct, on 15/02/2015 - 23:39, said:

Hihi. Điều bác nhận xét rất tinh tế nhưng nếu không có người đoán đúng tương lai thì ai còn dám hành nghề bói toán? Trong quá khứ rất nhiều nhân vật làm được việc ấy, chẳng qua là đoán cho ai, việc gì, người thường hay quý nhân...Cùng 1 lá số trắng, người giỏi (- danh xưng đại sư đâu phải nói phét mà thành) bằng nhiều cách khác nhau (trong đó có ngoại ứng...) đã có thể đoán được bước đầu lá số đó ứng với người như thế nào.
Xin hỏi bác nếu thừa nhận có nghiệp, tức là thừa nhận có linh hồn, vậy bác có thể nói rõ hơn "Thế nào là ba hồn hay không? Và vì sao đến đời thứ tư trở đi người ta chẳng nên cúng bái nữa?" Chúng ta đi vào vấn đề tạo nghiệp và chuyển nghiệp vậy. Cảm ơn bác nhiều
nếu không có người đoán đúng tương lai thì ai còn dám hành nghề bói toán.
Nếu con ngưòi không tò mò muốn biết tương lai thì nghề bói toán có tồn tại không.
thừa nhận có nghiệp, tức là thừa nhận có linh hồn, vậy bác có thể nói rõ hơn "Thế nào là ba hồn hay không? Và vì sao đến đời thứ tư trở đi người ta chẳng nên cúng bái nữa?" Chúng ta đi vào vấn đề tạo nghiệp và chuyển nghiệp vậy.
Ask Mr. google

#27 AlexPhong

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2382 Bài viết:
  • 8853 thanks

Gửi vào 16/02/2015 - 07:21

Lòng xót xa đi bên đời Vy và thấy Vy chịu nhiều đắng cay.

Thanked by 1 Member:

#28 quangdct

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1794 Bài viết:
  • 3024 thanks

Gửi vào 16/02/2015 - 08:06

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

AlexPhong, on 16/02/2015 - 07:21, said:

Lòng xót xa đi bên đời Vy và thấy Vy chịu nhiều đắng cay.
Cuối cùng thì câu này vẫn là hay nhất trong ngày.
Ôi mấy vạn câu hỏi Tử vi vì sao thế này, triệu triệu câu hỏi Tử vi vì sao thế kia? Cuối cùng tặc lưỡi: Con người rõ rườm rà, sao không hồn nhiên như cây cỏ, ngây thơ ngơ ngác như chú nai vàng, phóng đãng như chú mèo con, thướt tha đủng đỉnh như áng mây chiều, vô định như đám lục bình trôi...? Ồ con người nghĩ ra đó thôi, tất cả chỉ là TỰ NHIÊN mà. Tự nhiên thế, tự nhiên vậy, đừng hỏi, đừng đoán, đừng trả lời và đừng nghĩ linh tinh.
Nguyễn Trãi thủng thẳng:
"Nước bấy nhiêu thu vẫn vậy
Trăng bao nhiêu kiếp nhẫn nay"
Ta thì vò đầu bứt tai mới được đôi dòng hâm văn hấp:
"Tôi là ai ai là tôi
Vậy thì dự đoán tương lai làm gì
Hiện tại là cái chi chi
Quá khứ là thứ kì kì ở đâu
Nếu mà thời gian bằng không
Chẳng thì chẳng vị trong lòng hư vô"

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Andrew, on 16/02/2015 - 05:42, said:

nếu không có người đoán đúng tương lai thì ai còn dám hành nghề bói toán.
Nếu con ngưòi không tò mò muốn biết tương lai thì nghề bói toán có tồn tại không.
Câu này phải chỉnh là: Con người có nguồn gốc từ đâu, và có vị trí vai trò gì trong thế giới này? Con người có thể cải tạo được thế giới hay không (tất nhiên là có cải tạo chính mình)? Phật giáo là một tôn giáo, đồng thời là một trường phái Triết học nên quan điểm rất sâu sắc. Nhân sinh quan của phật giáo chính là trả lời cho câu hỏi trên, đó là lý do người ta mới quan tâm đến quá khứ, hiện tại và tương lai trong thời gian 1 chiều này, để rồi mới có nhân quả tuần hoàn. Bói toán cũng nảy sinh từ nhu cầu ấy của con người nhưng chỉ có 1 số luận điểm mang tính triết học mà thôi.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Andrew, on 16/02/2015 - 05:42, said:

thừa nhận có nghiệp, tức là thừa nhận có linh hồn, vậy bác có thể nói rõ hơn "Thế nào là ba hồn hay không? Và vì sao đến đời thứ tư trở đi người ta chẳng nên cúng bái nữa?" Chúng ta đi vào vấn đề tạo nghiệp và chuyển nghiệp vậy.
Ask Mr. google
Thầy Google muôn năm. Nghiệp là quan điểm của nhà Phật hay có trước nhà Phật? Vậy ta không tu theo Phật mà tu theo Lão thì nghiêp thế nào? Ta chả theo Lão, ta đi theo Khổng thì sao? Ta không theo Khổng mà thích Chúa thì chịu à, mà thôi theo thánh Ala hay thần Brátman cũng tạm. Còn hiện tại Thánh Hồ, Thánh Mác, Thánh Lê tại sao rất nhiều người lại không trân trọng? Nực cười thay với suy nghĩ của con người. Không đoán được tương lai mà cứ máu thế thì hy vọng cháu nó thế nào: Phật, Thánh thần,người, ngã quỷ hay súc sinh? TỰ NHIÊN đi. Hê hê.
Nếu người ta không đoán được tương lai thì chẳng còn thuyết nào tồn tại trên cõi đời này.
Thôi gắp nhặt rông rài cho vui cửa vui nhà:

Câu chuyện chưa kể trong lịch sử: Lão Tử, Khổng Tử và Phật Thích Ca Mâu Ni


Tác giả: Bất Danh

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


[Chanhkien.org] Sau khi thời Xuân Thu đã đi qua được 2500 năm, ngoại trừ Phật gia không có học phái nào có thể ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Trung Hoa bằng Nho gia và Đạo gia. Bởi vậy, ông tổ của 3 gia phái này là Phật Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử và Lão Tử được người đời sau ngưỡng mộ và sùng bái.
Thật trùng hợp ở chỗ, ngày tháng 3 vị ấy ra đời chênh nhau không quá 20 năm. Theo góc nhìn lịch sử, thì 3 vị ấy là người của cùng một thời đại. Năm 571 Trước công nguyên, ngày 15 tháng 2 Lão Tử giáng sinh tại nước Sở, huyện Khổ (nay là huyện Lộc Ấp, Hà Nam). 5 năm sau, ngày 8 tháng 4 năm 566 Trước công nguyên Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh ở Kim Ni Bạc Nhĩ. 15 năm sau, vào ngày 27 tháng 8 năm 551 Trước công nguyên, Khổng Tử ra đời tại Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông.
3 vị Thánh giả giáng sinh vào cùng một thời đại, ấy là sự trùng hợp của lịch sử hay là Ý Trời đã an bài như vậy?
Lão Tử
“Lão Tử” tên thật là Lý Nhĩ, tên tự là Bá Dương. “Lão” là ý gọi người tuổi cao Đức lớn. “Tử” là cách gọi bày tỏ lòng tôn kính đối với người khác. Tương truyền Lão Tử bẩm sinh có khí chất phi phàm, am hiểu chuyện xưa, giỏi việc lễ chế, từng đảm nhiệm chức quan “Thủ tàng thất sử” (tương đương với giám đốc thư viện quốc gia hoặc là giám đốc viện bảo tàng quốc gia) và chức Trụ hạ sử (tương đương với chức quan Ngự sử thời Tần, Hán). Lão Tử ở lại Lạc Dương nước Chu thật lâu, thấy rõ sự suy sụp của nhà Chu. Năm 500 trước công nguyên, trong hoàng tộc nhà Chu phát sinh cuộc nội chiến tranh giành ngôi vị, Lão Tử bị liên lụy và bị bãi quan. Lão Tử cảm thấy nhân thế hiểm ác, bèn rời đi. Ông lưu lạc khắp 4 phương trời nhưng không để ai biết danh tính của mình.
Ngày 1 tháng 9 năm 478 trước công nguyên, Lão Tử 93 tuổi đi về nước Tần. Lúc đi qua cửa Hàm Cốc, quan Lệnh tên là Doãn Hỷ ở đó xem bói đã biết trước là sẽ có một Thần nhân đi qua đây, bèn sai người quét dọn sạch sẽ 40 dặm đường để nghênh đón. Quả nhiên Lão Tử tới. Doãn Hỷ nói:“Tiên sinh Ngài muốn ẩn cư, sau này không còn được nghe Ngài dạy bảo nữa, kính xin tiên sinh viết sách để truyền lại cho hậu thế!”. Lão Tử tại Trung Nguyên chưa từng truyền thụ lại điều gì. Ông biết Doãn Hỷ trong mệnh đã định là sẽ đắc Đạo, bèn tạm dừng lại nơi này một thời gian ngắn, viết lại cuốn sách nổi tiếng ngàn đời: “Đạo Đức kinh”. Sau đó, Lão Tử ra khỏi cửa Hàm Cốc đi về phía Tây, vượt qua vùng Lưu Sa… Lưu Sa là chỉ vùng sa mạc lớn ở Tân Cương. Không ai biết cuối cùng ông đã đi về nơi đâu.
Khổng Tử từng đến kinh đô nước Chu, thỉnh giáo Lão Tử về Lễ chế. Một ngày, Khổng Tử cưỡi một chiếc xe cũ do trâu kéo, lắc la lắc lư tiến vào thành Lạc Dương – kinh đô của nước Chu. Ông đi lần này mục đích là để tham quan “Các nguyên tắc trị nước mà các vị Tiên vương đã dùng”, khảo sát “Nguồn gốc của Lễ Nhạc”, học tập “Các quy phạm đạo đức”, bởi vậy việc ông tới viếng thăm Lão Tử, vị quan tinh thông chế độ Lễ nghi và quản lý thư viện hoàng gia, ấy là an bài tối quan trọng [của Thiên thượng]. Khổng Tử sau khi hoàn thành việc khảo sát lần đó, đã nói một câu lưu truyền đời sau rằng: “Trong số rất nhiều học thuyết trên đời, ta chọn theo [học thuyết của] nhà Chu”. Chế độ Lễ nghi thời đại nhà Chu là phỏng theo Lễ chế thời đại nhà Hạ và nhà Thương làm cơ sở mà đặt định ra, và Khổng Tử chủ trương sử dụng Lễ chế của thời đại nhà Chu. Có thể thấy chuyến đi lần ấy của ông thu được ích lợi không hề nhỏ.
Khổng Tử bái kiến Lão Tử. Lão Tử hỏi Khổng Tử đọc sách gì, ông trả lời là đọc “Chu Dịch”, và Thánh nhân đều đọc sách này. Lão tử nói: “Thánh nhân đọc sách này thì được, còn ông vì sao cần phải đọc nó? Tinh hoa của quyển sách này là gì?”.
Khổng Tử trả lời: “Tinh hoa của nó là tuyên dương Nhân Nghĩa“.
Lão Tử nói: “Cái gọi là nhân nghĩa, đó là một thứ mê hoặc lòng người, giống như như muỗi rận ban đêm cắn người, chỉ có thể làm người ta thêm hỗn loạn và phiền não mà thôi. Ông xem, con chim Thiên nga kia không cần tắm rửa mà lông vũ tự nhiên vẫn trắng như tuyết, Quạ đen hàng ngày không nhuộm lông mà tự nhiên vẫn đen. Trời vốn là cao, đất vốn là dày, mặt trời mặt trăng từ trước tới nay đã phát ra ánh sáng rực rỡ, tinh thần từ trước tới nay chính là đã được an bài có trật tự, cây cỏ từ lúc sinh ra thì đã khác nhau. Nếu như ông tu Đạo, vậy cũng thuận theo quy luật tồn tại của tự nhiên, tự nhiên là có thể đắc Đạo. Tuyên dương những thứ nhân nghĩa để làm gì đây? Chẳng phải điều đó cũng đáng tức cười như việc vừa đánh trống vừa đi tìm một con dê thất lạc hay sao?”
Lão Tử lại hỏi Khổng Tử: “Ông cho rằng tự mình đắc Đạo rồi chưa?”.
Khổng Tử nói: “Tôi đã tìm cầu 27 năm rồi, vẫn chưa đắc được”.
Lão Tử nói: “Nếu như Đạo là một thứ hữu hình có thể tìm kiếm và dâng hiến cho con người, thì người ta sẽ tranh giành nó đem dâng tặng cho quân vương. Nếu như Đạo có thể đem tặng cho người khác, thì người ta sẽ đem tặng nó cho người thân. Nếu như Đạo có thể giảng rõ ra được, người ta sẽ đem nó giảng giải cho anh em của mình. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người khác, thì người ta đều sẽ tranh nhau truyền nó cho con cái mình. Song những chuyện như thế là không thể được. Nguyên nhất rất đơn giản, Đạo ấy chính là thứ mà một người bình thường không thể nhận thức một cách chính xác được, Đạo tuyệt đối sẽ không thể nhập vào tâm của người thường được”.
Khổng Tử nói: “Tôi nghiên cứu ‘Thi Kinh’, ‘Thượng Thư’, ‘Lễ’, ‘Nhạc’, ‘Dịch’, ‘Xuân Thu’, giảng nói đạo lý trị quốc của các vị tiên vương, hiểu rõ con đường thành công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy đó để bái kiến 70 quân vương, nhưng họ đều không chọn dùng chủ trương của tôi. Xem ra người ta thật là khó thuyết phục được!”.
Lão Tử nói: “Ông nói ‘Lục Nghệ’ ấy tất cả đều là những thứ xưa cũ của thời đại các tiên vương, ông nói những thứ đó để làm gì đây? Thành tựu tu học mà ông đạt được hôm nay cũng đều là những thứ xưa cũ rồi”.
Khổng Tử thỉnh giáo xong Lễ chế nhà Chu, liền quyết tâm trở về nước Lỗ khôi phục lại nguyên xi Lễ nghi của nhà Chu. Lão Tử đối với việc này vẫn bảo lưu ý kiến. Bởi vì Lễ tuy là cần phải có, nhưng muốn khôi phục toàn diện Lễ nghi nhà Chu, e rằng không thể làm được. Thời thế thay đổi, chút Lễ nghi nhà Chu ấy cũng không thích hợp với tình huống đương thời nữa. Vì vậy Lão Tử nói với Khổng Tử: “Ông theo lời những người đó, xương cốt của họ đều đã mục nát cả rồi, chỉ là những lời bàn luận của họ là còn tồn tại mà thôi. Hơn nữa quân tử gặp được thời cơ chính trị 1 thì liền theo chính, thời cơ không thích hợp thì cũng như cây cỏ bồng kia gặp sao yên vậy. Tôi nghe nói: Người giỏi kinh doanh đem cất giấu của cải hàng hóa, không cho người thác trông thấy, mặc dù giàu có nhưng dường như cái gì cũng không có. Người quân tử Đức cao thường bề ngoài cũng giống như người ngu độn, không để lộ chân tướng ra ngoài. Ông cần phải vứt bỏ tâm kiêu ngạo và dục vọng, vứt bỏ tâm thái và thần sắc mà ông đang có kia đi, vứt bỏ chí hướng quá truy cầu kia đi, bởi vì những thứ này đối với ông chẳng có chỗ nào tốt cả. Đó chính là những gì mà tôi muốn cho ông biết”.
Khổng Tử không biết nên trả lời ra sao, nhưng vẫn không buông bỏ chí hướng của mình: Đại trượng phu “biết rõ những việc không thể làm mà vẫn làm”. Tham quan xong các địa phương khác, Khổng Tử cáo từ Lão Tử, mang theo trong lòng những nỗi niềm phấn khởi xen lẫn với thất vọng mà rời kinh đô Lạc Dương của nhà Chu. Phấn khởi là vì học hỏi lễ giáo đã thành công, thất vọng là vì những lời khuyến cáo của Lão Tử. Phía sau lưng ông, một bia đá được dựng lên ghi lại mấy chữ: “Khổng Tử đến đất Chu học hỏi lễ nghi”.
Khổng Tử trở về, 3 ngày không nói chuyện. Tử Cống thấy kỳ lạ, bèn hỏi thầy chuyện là thế nào. Khổng Tử nói: “Chim, ta biết nó có thể bay; cá, ta biết nó có thể bơi; thú, ta biết nó có thể chạy. Có thể chạy thì ta có thể dùng lưới giăng bắt nó, có thể bơi thì ta có thể dùng dây tơ mà câu, có thể bay thì ta có thể dùng cung tên bắn được nó. Còn như con rồng, ta không biết nó làm sao có thể lợi dụng sức gió mà bay tới tận trời cao. Ta hôm nay gặp mặt Lão Tử, ông ấy cũng như con rồng kia thâm sâu không thể đo lường nổi!”.
Đó chính là sự khác nhau cơ bản giữa một Giác Giả độ nhân và một nhà tư tưởng của nhân gian. Cái gọi là “Đạo bất đồng bất tương vi mưu” (Tạm dịch: không cùng một trình độ tu Đạo thì tâm cảnh cũng khác nhau xa), chính là tình huống như thế này. Đạo lý của Lão Tử vi diệu khó có thể hiểu nổi, bởi vì ấy là lời giáo huấn của Thần. Lời của Khổng Tử chẳng qua chỉ là học vấn của con người, là quy phạm đạo đức và hành vi của loài người mà thôi.
Khổng Tử
Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tên tự là Trọng Ni, sinh vào nước Lỗ năm 551 trước công nguyên.
Khi lớn lên, Khổng Tử từng làm một chức quan nhỏ chuyên quản lý kho tàng, xuất nạp tiền lương công bằng chuẩn xác. Ông cũng từng đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường chăn nuôi, súc vật sinh trưởng rất tốt. Nhờ vậy ông được thăng chức lên làm quan Tư không, chuyên quản lý việc xây dựng công trình. Khổng Tử thân cao 9 xích 6 tấc (xích là đơn vị đo lường cổ Trung Hoa = 1/3 mét), mọi người đều gọi ông là “Người cao lớn”, cho rằng ông là người phi thường.
Sau khi Khổng Tử tới đất Chu học hỏi Lễ nghi trở về lại nước Lỗ, các học trò theo ông học tập dần dần đông lên. Có thể nói Khổng Tử là người thầy tư nhân chuyên thu nhận học trò đầu tiên trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Trước thời ông, trường học hoàn toàn là của nhà nước. Khổng Tử sáng lập ra trường học tư, thu nhận nhiều đồ đệ, đưa giáo dục mở rộng cho bình dân, đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân gian, có cống hiến thật to lớn đối với giáo dục thời cổ đại.
Lúc Khổng Tử 35 tuổi tới nước Tề. Tề Cảnh Công thỉnh giáo Khổng Tử về đạo trị nước. Khổng Tử nói: “Quân vương cần phải có phong thái của quân vương, bề tôi cần phải có phong thái của bề tôi, cha cần có phong thái của người cha, con cần có phong thái của con”. Cảnh Công nghe xong nói: “Cực kỳ đúng! Nếu quân vương không ra quân vương, bề tôi không ra bề tôi, cha không ra cha, con không ra con, thì cho dù có rất nhiều lương thực, ta làm sao có thể ăn được đây!”. Ngày khác Cảnh Công lại thỉnh giáo Khổng Tử về Đạo lý trị quốc, Khổng Tử nói: “Quản lý quốc gia cần nhất là tiết kiệm chi tiêu, ngăn chặn lãng phí từ gốc rễ”. Cảnh Công nghe xong rất phấn khởi, định đem đất Ni Khê phong thưởng cho Khổng Tử.
Yến Anh khuyên can nói: “Loại nhà Nho này, có thể nói đạo lý, không thể dùng pháp luật mà ràng buộc được họ. Họ cao ngạo tùy hứng, tự cho mình là đúng. Họ coi trọng tang lễ, dốc hết tình cảm bi thương, an táng trọng thể mà không ngại bị khuynh gia bại sản. Họ đi khắp nơi du thuyết, cầu xin quan lộc. Bởi vậy không thể dùng họ để quản lý quốc gia được. Hiện nay Khổng Tử nói về dung mạo phục sức, đặt định lễ tiết thượng triều hạ triều rườm rà, chính là mấy đời người cũng học tập không xong được, cả đời cũng làm không được thông. Nếu Ngài muốn đem bộ những thứ này để thay đổi phong tục của nước Tề, e rằng không phải là biện pháp tốt để dẫn dắt trăm họ”.
Yến Anh khuyên can có hiệu quả. Sau đó Tề Cảnh Công tiếp đãi Khổng Tử rất có lễ độ, nhưng không còn hỏi về những vấn đề có liên quan đến Lễ nữa. Trong số các quan đại phu nước Tề có người muốn mưu hại Khổng Tử. Cảnh Công nói với Khổng Tử: “Ta đã già rồi, không thể bổ nhiệm quan tước cho ông được nữa”. Thế là Khổng Tử rời Tề trở về Lỗ.
Tại nước Lỗ, Khổng Tử tuy về mặt chính trị có rất nhiều thành tích, cũng từng làm một vài chuyện lớn, nhưng con đường làm quan không hề trôi chảy. Có lần nhà Vua chủ trì một đại lễ tế Trời, quan đại phu Tam Hoàn cố tình không chia cho ông một khối thịt tế nào. Đó là loại hình phạt nghiêm khắc nhất trong Chế độ Lễ nghi của nhà Chu. Khổng Tử biết con đường làm quan của mình không có hy vọng gì, bèn rời quê nhà đi dạy học bốn phương trời, tuyên truyền những chủ trương chính trị của mình.
Lúc đó Khổng Tử khoảng chừng 50 tuổi. Ông không nề hà khổ nhọc, dùng 13 năm để dẫn dắt học trò chu du các nước, đi du thuyết khắp nơi. Nhưng các nước đều không chấp thuận chủ trương của ông. Năm 63 tuổi, Khổng Tử trở lại nước Lỗ. Cuối cùng nước Lỗ cũng không trọng dụng Khổng Tử, mà Khổng Tử cũng không muốn ra làm quan nữa.
Tuy là một người tuổi đã gần đất xa trời, nhưng ngọn lửa tư tưởng trong 9 năm cuối đời đã phát huy được thành tựu rực rỡ. Khổng Tử dốc lòng thu nhận học trò, biên soạn điển tịch, tạo thành một hệ thống tư tưởng Nho học trong 9 năm cuối đời mình.
Thời đại Khổng Tử, nhà Chu đã suy, Lễ nhạc đã phôi pha, ‘Thi’, ‘Thư’ cũng không còn toàn vẹn nữa. Khổng Tử tìm tòi nghiên cứu chế độ lễ nghi của 3 thời đại Hạ, Thương, Tây Chu, biên định “Thượng thư”, “Lễ ký”. Khổng Tử sau khi từ nước Vệ trở về nước Lỗ, thì bắt đầu đính chính lại Thi Nhạc, khiến cho “Nhã”, “Tụng” đều khôi phục lại được nhạc điệu ban đầu. “Kinh Thi” vốn có 3000 bài được truyền lại từ thời cổ đại. Đến thời Khổng Tử, ông cắt bỏ những chỗ trùng lặp, lựa chọn trong đó những bài phù hợp cho việc dạy bảo Lễ Nghĩa.
Lúc về già Khổng Tử thích nghiên cứu “Chu Dịch”. Ông giải thích về “Thoán từ”, “Hào từ”, “Quái”, “Văn ngôn”. Khổng Tử đọc Chu Dịch rất siêng năng, đến nỗi sợi dây da trâu buộc sách đã nhiều lần bị mòn đứt. Ông nói: “Để ta sống lâu thêm vài năm nữa, ta có thể nắm vững và giải thích rõ ràng nội dung và đạo lý trong từng câu văn của “Chu Dịch””.
Khổng Tử nói: “Quân tử lo lắng nhất chính là sau khi chết không lưu lại được tiếng thơm. Chủ trương của ta không thể thực thi, ta lấy gì để cống hiến cho xã hội và lưu danh hậu thế đây?”. Bèn căn cứ vào các sách lịch sử của nước Lỗ biên soạn ra bộ “Xuân Thu”, trên từ năm Lỗ Ân Công đầu tiên (722 TCN) xuống tới năm Lỗ Ai Công thứ 14 (481 TCN), tổng cộng 12 đời vua nước Lỗ. Lấy nước Lỗ làm trung tâm để biên soạn, tôn thờ Hoàng tộc nhà Chu làm chính thống, lấy sự tích Ân Thương làm tham khảo, mở rộng và phát triển truyền thống các thời đại từ đời Hạ, Thương, Chu, lời văn súc tích uyên thâm.
Cuối cùng Khổng Tử biên soạn xong “Lục Nghệ” là Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân thu. Khổng Tử dùng Thi, Thư, Lễ, Nhạc làm tài liệu giảng dạy học trò, đến học có ước chừng tới 3000 đệ tử, trong đó hiền nhân quân tử có 72 người. Chưa kể nhiều học trò chưa chính thức nhập tịch ở khắp nơi nữa.
Lúc Khổng Tử lâm bệnh, Tử Cống đến thăm viếng thầy. Khổng Tử thở dài, nói ngay: “Thái Sơn sắp đổ rồi, rường cột sắp gãy rồi, người trí tuệ sắp chết rồi!”. Nước mắt chảy dài, nói với Tử Cống: “Thiên hạ từ lâu đã mất đi đạo lý thông thường, không có ai tiếp nhận chủ trương của ta cả …”. 7 ngày sau Khổng Tử qua đời, hưởng thọ 73 tuổi, nhằm vào ngày Kỷ Sửu, tháng 4 năm 479 trước công nguyên.
Sách “Luận Ngữ” chính là do đệ tử của Khổng Tử căn cứ theo lời nói và việc làm của ông mà biên soạn thành. Đó là tư liệu trực tiếp nhất để cho chúng ta hôm nay hiểu biết về Khổng Tử. Khổng Tử cho người ta biết thế nào là “Trung dung”, vì đời sau mà đặt định ra quy phạm làm người theo “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. Ảnh hưởng của ông đối với văn hóa Trung Quốc và cả vùng Đông Nam Á là rất to lớn.
Tư Mã Thiên nói: “Trong kinh “Thi” có câu nói như thế này: “Cái giống như núi cao khiến người ta chiêm ngưỡng, cái giống như đại Đạo khiến người ta tuân theo”. Từ xưa tới nay trong thiên hạ, Quân Vương và người tài đức thì có cũng nhiều. Họ khi đang còn sống đều vinh hoa quý hiển, nhưng chết đi rồi thì chẳng còn lại chút gì. Khổng Tử là một người bình dân, nhưng những người đọc sách đều tôn ông làm thầy. Từ Thiên tử, Vương Hầu đến nhân dân cả nước, những ai nói về “Lục Nghệ” thì đều xem học thuyết ấy của Khổng Tử là chuẩn tắc cao nhất. Có thể nói Khổng Tử là một Thánh nhân chí cao vô thượng”.
Tư Mã Thiên đã đánh giá rất đúng.
Phật Thích Ca Mâu Ni
Trong lúc Đại Đạo Trung Quốc đang được lưu truyền tại mảnh đất Thần Châu, thì đồng thời tại Ấn Độ – cũng là quốc gia có nền văn minh lâu đời tại phương Đông – Phật Pháp mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã được truyền rộng.
Thích Ca Mâu Ni giáng sinh tại Kapilavastu (Ca tỳ La vệ), một đất nước tại vùng đất Ấn Độ xưa kia. Mẹ của ông là Hoàng hậu Mayadevi (hoàng hậu Ma Da) sinh hạ ông tại Lumbini (nằm ở Nam Nepal ngày nay) trên đường trở về nhà mẹ đẻ của bà. Người ta đồn rằng khi Thích Ca Mâu Ni giáng sinh, liền bước đi 7 bước, mỗi bước đi sinh ra một đóa hoa sen. Một tay chỉ lên trời, một tay trỏ xuống đất ông nói “Phía dưới Thiên Đàng và bên trên mặt đất, chỉ có ta là nhất”. Đây thực ra là chuyện đơm đặt của hậu thế. Trong vũ trụ này, có vô số Thần Phật của vô số Thiên Đàng, có ai dám kiêu căng khoác lác như thế không? Thích Ca Mâu Ni không bao giờ làm như vậy. Câu chuyện này thực sự chỉ là kết quả của những tình cảm tôn giáo cuồng tín của người đời sau mà thôi. Một vị Phật chỉ muốn người đời tu luyện theo lời dạy bảo của họ, chứ không muốn người ta dựng chuyện lên để mà tâng bốc.
Thích Ca Mâu Ni từ thuở nhỏ đã có tấm lòng từ bi thương xót chúng sinh và luôn đi tìm ý nghĩa chân chính của đời người. Năm ông 19 tuổi, Thích Ca Mâu Ni rời bỏ ngai vàng, rời khỏi hoàng cung đi tu luyện. Ấn Độ thời bấy giờ có đủ loại tông phái và đường lối tu luyện khác nhau. Đầu tiên Thích Ca Mâu Ni tu theo pháp “vô tưởng định” (Samadi) 3 năm và cuối cùng đã đạt tới cảnh giới này. Nhưng ông cho rằng đó không phải là Đạo, không phải là chân lý tột cùng, cho nên ông từ bỏ nó. Sau đó ông lại tu theo “Phi tưởng – phi phi tưởng định” 3 năm, thành công rồi nhưng ông thấy rằng đó cũng không phải là Đạo, nên cũng từ bỏ. 2 lần, Thích Ca Mâu Ni từ bỏ những điều mà ông biết chắc ấy không phải là Đạo. Ông không thể tìm thấy một vị chân sư nào cả, cho nên ông tự mình tới một ngọn núi băng giá phủ đầy tuyết trắng để tu hành khổ hạnh. Mỗi ngày ông chỉ ăn một ít hoa quả khô và chịu đói đến mức toàn thân khô héo. Ông khổ tu như vậy để tìm chân lý. Nhưng 6 năm trôi qua, ông nhận ra rằng khổ hạnh cũng không phải là Đạo, bèn xuống núi.
Thích Ca Mâu Ni đi tới bờ sông Hằng. Vì quá gầy yếu xanh xao, ông ngã xuống hôn mê bất tỉnh. Một người phụ nữ làm nghề chăn dê tình cờ đi qua, và cho ông một ít váng sữa. Thích Ca Mâu Ni ăn và phục hồi sức lực. Nhưng ông không có cách nào tìm thấy một vị chân sư có thể hướng dẫn cho mình, nên ông vượt qua sông Hằng, tới dưới một tán cây Bồ Đề, ngồi xuống và thiền định. Ông thề rằng nếu không trở thành một bậc “Vô thượng chính đẳng chính giác” thì ông thà chết tại nơi này.
Thích Ca Mâu Ni thiền định dưới tán cây Bồ Đề ấy trong 49 ngày. Buổi sáng ngày thứ 49, ông ngẩng đầu lên nhìn trời, và nhìn thấy được những ngôi sao sáng trên bầu trời. Cũng trong một cái nhìn ấy, thần thông và các quyền năng siêu phàm của ông lập tức nổ tung, và tư tưởng của ông khai mở. Ông lập tức nhớ lại mọi điều mà ông đã từng tu luyện trước kia, hiểu được kiếp sống hiện tại và nhiều kiếp trước của mình, và tất cả những điều khác nữa mà ông cần phải biết sau khi khai ngộ. Bởi vì năng lượng phóng ra trong quá trình khai công khai ngộ, một chấn động lớn xuất hiện trong phạm vi địa lý rộng lớn xung quanh ông. Người ta cho rằng ấy là một trận động đất nhẹ, núi đổ hay sóng thần, nhưng thực ra đó là do sự khai ngộ của Thích Ca Mâu Ni. Đương nhiên năng lượng của Phật là từ bi và không làm hại ai cả. Sau 12 năm tu luyện vô cùng gian khổ, Thích Ca Mâu Ni rốt cuộc đã ngộ Đạo. Sau đó, Phật Thích Ca Mâu Ni liền bắt đầu cuộc đời truyền Pháp 49 năm của mình.
Đặc điểm của pháp môn tu luyện mà Thích Ca Mâu Ni truyền dạy là Giới, Định, Huệ. Giới chính là cấm tất cả dục vọng và tâm cố chấp, định là nói về người nhập định tu hành, huệ là nói về người khai ngộ khai huệ. Đại tạng kinh có mấy vạn quyển, đều không lìa xa 3 chữ này. Đương nhiên, hình thức biểu hiện của nó rất phong phú phức tạp, nhưng thực chất chính là 3 chữ này.[indent]
“Mọi người đều biết rằng Bà La Môn giáo là Thích Ca Mâu Ni phản đối nhiều nhất. Ông cho rằng [nó] là một tà giáo, nó cùng với Phật Giáo của Thích Ca Mâu Ni là đối lập [với nhau] nhất. Kỳ thực tôi cho chư vị biết rằng: Thích Ca Mâu Ni chống đối Bà La Môn giáo chứ không phải chống đối Thần của Bà La Môn giáo. Thần mà Bà La Môn giáo tin theo vào thời kỳ nguyên thủy nhất đều là Phật, [họ] tin theo chính là các vị Phật trước thời Thích Ca Mâu Ni. Nhưng qua thời gian quá lâu dài, con người không còn tin Phật nữa, khiến cho tôn giáo này trở thành tà giáo, thậm chí [họ] sát sinh để tế lễ Phật. Cuối cùng, Thần mà họ tin tưởng và tôn thờ kia cũng không còn là hình tượng Phật nữa, [họ] bắt đầu tin theo và thờ phụng yêu ma quỷ quái có hình tượng quái vật. Con người đã làm cho tôn giáo trở thành tà”. (Giảng Pháp tại Pháp hội Houston).[/indent]
Lời nói và việc làm của mọi người đều trái với những điều mà các vị Phật thời tiền sử dạy bảo. Như vậy, Bà La Môn giáo tiến vào thời Mạt pháp. Trong thời gian ấy, Phật Pháp của Thích Ca Mâu Ni bắt đầu truyền rộng ra tại Ấn Độ. Bởi Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền chính là chính Pháp, trong quá trình truyền Pháp, Thích Ca Mâu Ni không ngừng bác bỏ các giáo lý của các tôn giáo khác, cho nên không ngừng có những người rời bỏ ngoại đạo đến quy y Phật giáo. Như một trong những đồ đệ của ông, người mà sau này trở thành Xá Lợi Phất ban đầu là người của Bà La Môn giáo. Ông cùng Thích Ca Mâu Ni tranh luận, biết Phật Thích Ca Mâu Ni đang truyền chính pháp, bèn rời bỏ Bà La Môn giáo và trở thành người đệ tử có trí tuệ cao nhất của Phật Thích Ca Mâu Ni. Như vậy, Phật Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền càng lúc càng cường thịnh, còn các tôn giáo kia càng lúc càng suy tàn. Phật Pháp dần dần bị các tôn giáo kia kỳ thị và phản đối. Trong thời gian mâu thuẫn tôn giáo lên đến đỉnh điểm, xuất hiện sự kiện các đệ tử Phật giáo bị sát hại một cách công khai. Người đệ tử có Thần thông nhất là Mục Kiền Liên bị những kẻ ngoại đạo lăn đá từ trên núi xuống đè chết, trở thành đệ tử đầu tiên của Phật Thích Ca Mâu Ni chết vì lý tưởng của Phật giáo. Ngoại đạo còn bắt bớ đệ tử của Phật Thích Ca, ném họ vào hầm lửa, hoặc trói vào cột rồi dùng cung tên bắn chết. Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni không còn tại thế, 500 đệ tử của Phật từng bị người ta chém đầu. Sự kiện bức hại ấy khiến người ta vô cùng đau xót!
Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni không còn trên thế gian, các tôn giáo khác bắt đầu hưng thịnh trở lại. Phật giáo ở Ấn Độ trải qua nhiều lần cải tổ, cuối cùng đã kết hợp với những thứ của Bà La Môn giáo, biến thành một loại tôn giáo mới là Ấn Độ giáo. Ấn Độ giáo không còn tin Thích Ca Mâu Ni, cũng không thờ phụng một vị Phật nào cả. Do vậy, Phật giáo sinh ra tại Ấn Độ, cuối cùng lại dần dần bị tiêu biến ở Ấn Độ. Song tại Đông Nam Á, tại Trung Quốc, Phật Pháp đã truyền rộng khắp nơi, ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa của những quốc gia này.
Tài liệu Tham khảo
1. Giảng Pháp tại Pháp hội châu Âu
2. Chuyển Pháp Luân
3. Giảng pháp tại Pháp hội Houston
Dịch từ:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi quangdct: 16/02/2015 - 08:32


#29 quangdct

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1794 Bài viết:
  • 3024 thanks

Gửi vào 16/02/2015 - 08:49

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

quangdct, on 16/02/2015 - 08:06, said:

Cuối cùng thì câu này vẫn là hay nhất trong ngày.
Ôi mấy vạn câu hỏi Tử vi vì sao thế này, triệu triệu câu hỏi Tử vi vì sao thế kia? Cuối cùng tặc lưỡi: Con người rõ rườm rà, sao không hồn nhiên như cây cỏ, ngây thơ ngơ ngác như chú nai vàng, phóng đãng như chú mèo con, thướt tha đủng đỉnh như áng mây chiều, vô định như đám lục bình trôi...? Ồ con người nghĩ ra đó thôi, tất cả chỉ là TỰ NHIÊN mà. Tự nhiên thế, tự nhiên vậy, đừng hỏi, đừng đoán, đừng trả lời và đừng nghĩ linh tinh.
Nguyễn Trãi thủng thẳng:
"Nước bấy nhiêu thu vẫn vậy
Trăng bao nhiêu kiếp nhẫn nay"
Ta thì vò đầu bứt tai mới được đôi dòng hâm văn hấp:
"Tôi là ai ai là tôi
Vậy thì dự đoán tương lai làm gì
Hiện tại là cái chi chi
Quá khứ là thứ kì kì ở đâu
Nếu mà thời gian bằng không
Chẳng thì chẳng vị trong lòng hư vô"

Câu này phải chỉnh là: Con người có nguồn gốc từ đâu, và có vị trí vai trò gì trong thế giới này? Con người có thể cải tạo được thế giới hay không (tất nhiên là có cải tạo chính mình)? Phật giáo là một tôn giáo, đồng thời là một trường phái Triết học nên quan điểm rất sâu sắc. Nhân sinh quan của phật giáo chính là trả lời cho câu hỏi trên, đó là lý do người ta mới quan tâm đến quá khứ, hiện tại và tương lai trong thời gian 1 chiều này, để rồi mới có nhân quả tuần hoàn. Bói toán cũng nảy sinh từ nhu cầu ấy của con người nhưng chỉ có 1 số luận điểm mang tính triết học mà thôi.
Vậy nếu ta sống trong một không gian khác, một thời gian khác.... ở đâu đó mênh mông trong vũ trụ chỉ có ở thời hiện tại, không có thời quá khứ và tương lai (nghĩa là thời gian không đi từ chiều quá khứ đến tương lai) tức là chúng ta sẽ TRƯỜNG SINH BẤT TỬ thì NGHIỆP QUẢ thế nào, giống như tất cả chúng ta đều có DUYÊN LÀNH và nỗ lực TU TẬP, sau chứng quả thành PHẬT về cõi NIẾT BÀN thì NGHIỆP có còn là cái quan tâm nữa chăng?


Màu Thời Gian

Tác giả:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương (2) ấm thoảng xuân tình

Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần Phi (3)
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian (4)

Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát (5)
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh (6)

Tóc mây một món chiếc dao vàng (7)
Nghìn trùng e lệ phụng (8) quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép m
à y hoa thiếp phụ chàng (9)

Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình muôn thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát (10)

Lời chú của Hoài Thanh và Hoài Chân (trích Thi Nhân Việt Nam):

(1) Không ai ngờ một cái đầu đề có tính cách triết học như thế lại dùng để nói một câu chuyện tâm tình.

(2) Hãy để ý đến cái âm điệu vấn vương của mấy chữ này.

(3) Thi nhân mượn sự tích người xưa để giữ vẻ kín đáo cho câu chuyện. Xưa có ngưòi cung phi, nàng Lý phu nhân, lúc gần mất, nhất định không cho vua Hán Võ Đế xem mặt, sợ trông thấy nét mặt tiều tụy vua sẽ hết yêu. Cái tên Tần phi, thi nhân đặt ra vì một lẽ riêng.

"Ngàn xưa không lạnh nữa" : Chuyện xưa đã hầu quên nay nhớ lại lòng lại thấy nôn nao.

(4) Thi nhân muốn nói dâng hồn mình cho người yêu. Song nói như thế thì sẽ sỗ sàng quá. Vả người thấy mình không có quyền nói thế, vì tình yêu ở đây chưa từng được san sẻ. Nên phải mượn cái hình ảnh "trời mây phảng phất nhuốm thời gian" để chỉ hồn mình. Chữ "nhuốm" có vẻ nhẹ nhàng không nặng nề như chữ "nhuộm". Chữ "dâng" hơi kiểu cách.

(5) Người Pháp thường bảo thời gian màu xanh. Nhưng thi nhân nhớ lại thời xưa, hồi người đương yêu, cứ thấy màu thời gian tím ngát vì người riêng thích một thứ hoa tím, và màu hoa lẩn với người yêu.

(6) Hương thời gian là hương thứ hoa kia mà cũng là hương yêu, một thứ tình yêu qua đã lâu rồi, nên chỉ thấy thanh sạch, nhẹ nhàng.

(7) Nàng Dương Quý Phi lúc mới vào cung, tính hay ghen, bị Đường Minh Hoàng đưa giam một nơi. Nhưng nhà vua nhớ quá, sai Cao Lực Sĩ ra thăm. Dương Quý Phi cắt tóc gửi vào dâng vua. Vua trông thấy tóc thương quá, lại vời nàng vào cung.

Đoàn Phú Tứ hợp chuyện này và chuyện Lý phu nhân làm một và tưởng tượng một người cung phi lúc gần mất không để vua xem mặt chỉ cắt tóc dâng, gọi là đáp lại trong muôn một mối tình trìu mến của đấng quân vương.

— đây không có chuyện cắt tóc nhưng có chuyện khác cũng tương tự như vậy.

(8) Chữ "phụng" rất kín đáo, chữ "dâng" sẽ quá xa vời, chữ "tặng" quá suồng sã.

(9) í nói: thà phụ lòng mong mỏi của chàng; còn hơn gặp chàng trong lúc dung nhan tiều tụy để di hận về sau.

(10) "Tím ngát" tả đúng mối tình dìu dịu. "Tím ngắt" sẽ đau đớn quá.

Sửa bởi quangdct: 16/02/2015 - 08:55


#30 AnKhoa

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6702 Bài viết:
  • 15465 thanks

Gửi vào 16/02/2015 - 10:53

Sự thật vốn giản dị, mà khi dùng ngôn ngữ miêu tả, sao nó thật xa xăm.

Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |