Jump to content







Advertisements




tử vi cư mệnh

tử vi

1 reply to this topic

#1 CanhChimKhongMoi

 

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 9 Bài viết:
  • 10 thanks

 

Gửi vào 02/09/2014 - 12:46

Trong Đẩu Số, dùng cung mệnh để luận đoán mệnh cách của người đó là cao hay thấp, nó chủ về thực chất của vận thế. Nếu cung mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục cao, thì khó gặp đại hạn và lưu niên quá xấu. Trái lại, nếu cung mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục thấp, thì sẽ khó gặp đại hạn và lưu niên quá tốt, bất quá chỉ thuận lợi nhất thời mà thôi. Do đó có thể thấy sự quan trọng của cung mệnh.
Cung mệnh đối nhau với cung Di ở tứ chính, và tương hội với cung Quan với cung Tài ở tam phương. Cũng chính là nói, chúng có thể ảnh hưởng đến thực chất của vạn trình, những t*o ngộ như xuất ngoại, và mối quan hệ với người ở nơi xa hay người ngoại quốc, và các yếu tố như sự nghiệp phát triển có thuận lợi toại ý hay không (quan), tài phú có được như ý hay không, .v.v...
Do đó cung mệnh trong tinh bàn Đẩu Số là then chốt chủ yếu để luận đoán. Xem xét tổ hợp các sao của cung mệnh, hầu như đã có thể định được đại khái vận thế của một đời người.
Còn cung thân, theo thuyết thông thường, là dùng để luận đoán sự phát triển hậu thiên của người đó. Nếu cung mệnh cát, cung thân cũng cát, đương nhiên cuộc đời nhiều thuận lợi toại ý. Nếu cung mệnh cát, nhưng cung thân không cát, thì giống như khối ngọc đẹp, nhưng lúc điêu khắc đã xảy ra sai sót, do đó làm giảm đẹp. Nếu cung mệnh không cát, cung thân cũng không cát, thì cũng giống như gỗ xấu không được điêu khắc, đời người đương nhiên giảm sắc, chỉ có thể khéo vận dụng đại hạn và lưu niên (nhân mệnh), lấy nỗ lực hậu thiên để bổ cứu. Đại hạn có cung mệnh của đại hạn. Lưu niên có cung mệnh của lưu niên.


TỬ VI
1)- Tử vi độc tọa ở cung Tý hoặc Ngọ thủ cung Mệnh hay Thân.
Tử vi độc tọa, ở cung Tý không bằng ở cung Ngọ, bởi vì khi ở cung Ngọ là nhập miếu, tài lãnh đạo và lực điều hòa với lực chế hóa đều lớn hơn khi độc tọa ở cung Tý, vì vậy địa vị và tài phú cũng đều hơn hẳn.
Tử vi độc tọa, ngoài việc ưa "bách quan triều củng" ra, còn ưa Tả phụ, Hữu bật giáp mệnh, Văn xương Văn khúc giáp mệnh, Long trì Phượng các giáp mệnh, thảy đều có thể làm tăng khí thế và giảm bớt vất vả.
Nếu là "tại dã cô quân", còn gặp các sao "không" như Thiên không, Địa không, thì thích hợp làm người truy tìm chân lý, thành nhân vật tôn giáo, cũng có thể thành nhân vật lãnh đạo. Gặp Hoa cái, khuynh hướng tôn giáo tín ngưỡng càng sâu, hơn nữa còn thích tìm hiểu về việc thần bí.
Tử vi độc tọa, mà gặp các sao Phụ - Tá - Sát - Hóa, thì cần phải xét xem các sao cát hung nhiều ít thế nào, sức mạnh của chúng ra sao, để định tốt xấu. Thông thường phần lớn trường hợp đều chủ về có lý tưởng cao nhưng sức mạnh hành động không đủ, cần phải dùng hậu thiên để bổ cứu (nhân mệnh), để nỗ lực thực hiện lý tưởng.
Nếu như không có sao Cát hội hợp, mà chỉ gặp Sát tinh, thì rất dễ cảm thấy có tài mà không gặp thời, nên làm việc ở lĩnh vực kinh doanh thương mại. Chỉ cần Sát tinh nhập miếu, mà Sát tinh không nhiều, thì vẫn có thể hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại mà trở nên giầu có. Tốt nhất là được Hóa Lộc hoặc Lộc tồn hội hợp, dễ giầu có mà còn có địa vị trong xã hội, nhất là càng dễ phát triển trong giới thương nghiệp. Nếu theo lĩnh vực chính trị, văn hóa, giáo dục, thì trái lại, sẽ gặp nhiều trắc trở, bất đắc chí.
Sát tinh nặng, thông thường đều chủ về bất hòa, tranh chấp thị phi. Nhất là gặp phải Kình dương lạc hãm, càng chủ về kiện tụng, hoặc phẫu thuật ngoại khoa
Tử vi độc tọa, cũng ưa hóa Quyền (can Nhâm) hóa Khoa (can Ất), khi hóa Quyền thì làm tăng tài lãnh đạo và có sức cạnh tranh, khi hóa Khoa thì có tiếng tăm, hơn nữa theo ngành nghiên cứu học thuật thì có thể dung hợp được các thuyết mà sáng tạo ra cái mới. Nhưng đều khiến cho mệnh tạo tăng mạnh tính chủ quan, nên khó tiếp thu ý kiến của người khác. Đây là đặc thù khi gặp hóa diệu Khoa Quyền.
Trường hợp Tử vi chỉ gặp một hai sao Sát - Kị, thì lại chủ về dễ nghe lời nói xấu, dèm pha, thị phi.
Phàm Tử vi độc tọa, đối cung ắt sẽ gặp Tham lang, chủ về hiếu sắc, có các sao đào hoa hội hợp thì càng nặng. Nếu chỉ hội hợp Thiên hình, thì chủ về tự bản thân biết kiềm chế, gặp Đà la cũng có thể tự kiềm chế.
Trong đại hạn hoặc lưu niên, Tử vi độc tọa tại cung hạn, cần phải xét kỹ các sao hội hợp để định cát - hung. Gặp cát tinh thì chức vị thăng tiến, thượng vụ phát triển, phúc lộc đều hậu hỉ, nếu gặp Địa không, Địa kiếp, sao Hao, thì chủ về nguồn kinh tế khó khăn hoặc phá tài, có Sát tinh tương hội thì chủ về bất hòa tranh chấp, trong làm ăn có thể dẫn đến đình trệ, trong chức vụ có thể bị giáng chức, hoặc bị truất phế.


2)- "Tử vi Phá quân" thủ cung Mệnh hay Thân
Tử vi ở hai cung Sửu hoặc Mùi, luôn có Phá quân đồng độ, đây là kết cấu tinh hệ rất có khí lực khai sáng. Phá quân vốn là chiến tướng tiên phong, được Tử vi cầm cương điều khiển (là đặc thù của Phá quân cần phải có người cầm cương nảy mực), lực phá hoại của Phá quân nhờ vậy mà được giảm thiểu, sắc sáng tạo trái lại sẽ tăng. Tuy đời người không tránh được vất vả, nhưng nhờ có tài lãnh đạo, có tính quyết đoán, nên cũng chủ về trải qua vất vả mà có được thành tựu.
Nhưng lúc Phá quân hóa Quyền (can Giáp), sẽ làm tăng tính chất biến động của Phá quân, vì vậy mà đời người cành thêm thay đổi. Nếu có Tả Hữu đủ "cặp đôi" hội hợp, có thể giảm thiểu vất vả. Nếu gặp tứ Sát, thì chỉ thích hợp làm việc trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, và cần phải chú ý tính chất sáng tạo cái mới trong kinh doanh.
Nếu Phá quân hóa Lộc (can Quý), đồng thời với sự khai sáng là cơ hội kiếm tiền, khiến cho sinh hoạt vật chất của người này được sung túc, bù đắp cho những vát vả đã trải qua. Nhưng như vậy, đồng thời cũng chủ về tình cảm gặp nhiều tình huống rắc rối khó xử, hơn nữa, sẽ khiến cho mệnh tạo thiên về hưởng thụ nhục dục. Bởi vì lúc này sẽ gặp tinh hệ "Liêm trinh Tham lang" ở cung Tị, do hội hợp với Phá quân hóa Lộc mà phát huy tác dụng.
Bất kể Phá quân hóa Quyền hay hóa Lộc, cũng đều có thể khiến cho mệnh tạo trở thành phú quý. Nhưng nếu đồng thời hội hợp với các sao Sát - Hình - Kị, thì tuy giầu có sung túc nhưng lại dễ chuốc điều tiếng thị phi. Gặp Kình dương, Thiên hình, Hóa Kị, còn dễ vướng vào tranh chấp kiện tụng, thích hợp theo binh nghiệp hoặc ngành pháp luật.
Tinh hệ "Tử vi Phá quân" chủ về biến động, cho nên trong kinh doanh làm ăn cần phải chú ý cơ hội đến bất ngờ, hơn nữa, có khả năng đồng thời kinh doanh hai ba lĩnh vực có liên quan với nhau. Nếu là nhân làm thuê, thì chủ về khiêm thêm ngành nghề, kiêm thêm chức vụ, hoặc làm tăng ca, nhưng nhất định sẽ một mình đảm trách công việc.
Tinh hệ "Tử vi Phá quân" đóng cung mệnh là người thẳng thắn. Nhưng nếu gặp Hoa cái, thì thích hợp nghiên cứu Tôn giáo hoặc triết học.
Có điều, do mệnh tạo hay lo toan nghĩ ngợi về nhiều biến động, vả lại Thiên phủ ở cung Phúc chủ về lo toan chu đáo, nên khi gặp các sao Sát, sao "không" có lúc sẽ bộc lộ tính cách tư lự, ích kỷ. Cổ nhân nói: "Tử Phá làm tôi thần bất trung, làm con bất hiếu" (Tử vi Phá quân, vi thần bất trung, vi tử bất hiếu), cổ nhân còn nói: "Tử Phá đồng cung, mà không có Tả Hữu, không có cát tinh, là phường quan lại hung ác" (Tử Phá đồng cung vô Tả Hữu, vô cát diệu, hung ác tư lại chi đồ), tức là đã chỉ ra bản tính tự kỷ, ích kỷ, và khuynh hướng hay lo toan nghĩ ngợi của mệnh tạo. Nhưng chỉ cần có Cát tinh hội hợp, thì những tính cách không lành này sẽ giảm nhẹ, thậm chí tiêu trừ.
Đại hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ "Tử vi Phá quân", chủ về "Khứ cựu canh tân" (bỏ cũ để đổi mới), được sao Cát hội hợp, đương nhiên biến động sẽ cát lợi. Nếu gặp Sát tinh, thì nên suy nghĩ kỹ, không được vội vã thay đổi. Nếu Cát tinh và Sát tinh đều có, thì phải xem đến vận hạn sau, soát xét xem có Cát hay không để quyết định làm hay dừng.


3)- "Tử vi Thiên phủ" thủ cung Mệnh hay Thân
Hai sao Tử vi và Thiên phủ đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân. Tử vi là chủ tinh của Bắc Đẩu, tính thích hợp khai sáng. Thiên phủ là chủ tinh của Nam Đẩu, tính lợi về bảo thủ. Cho nên khi hai chủ tinh gặp nhau, không những xung đột "một núi không thể có hai cọp", mà tính chất còn kiềm chế nhau, sẽ khó phát huy.
Thông thường, chỉ chủ về thanh cao, thậm chí có khả năng phát triển thành tự sùng bái mình. Kết cấu tinh hệ kiểu này, rất nên theo sự nghiệp giáo dục, làm công chức cũng được, không thể theo nghiệp kinh doanh, nếu không sẽ có phản ứng sai lầm, hành động không mang lại hiệu quả tốt cho bản thân, thường đánh mất cơ hội, hoặc "khéo quá thì biến thành vụng".
Khi Tử Phủ đồng cung, nếu Tử vi hóa Quyền (can Nhâm) hoặc hóa Khoa (can Ất), thì vầng hào quan của Tử vi càng lớn, khí quý phái cũng lớn. Nếu Thiên phủ hóa Khoa (can Nhâm) thì chỉ có khuynh hướng giữ uy tín, xem trong lời hứa, nhưng sẽ quá khiêm cung hiền lành, thiếu năng lực lãnh đạo và khai sáng mọi thứ từ thực tế.
Kết cấu tinh hệ Tử Phủ rất nên có cách "Lộc Mã giao trì cách" đến hội hợp, chủ về phú quý song toàn, kế đến là "Lộc Văn củng mệnh cách", tức là Lộc tồn hoặc Hóa Lộc và Văn xương Văn khúc hội hợp, cũng chủ về phú quý, kế đó nữa là các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp, chủ về quý mà không chủ về giầu có.
Nếu các sao Phụ diệu và Tá diệu không hội hợp, mà có đủ tứ Sát: Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, thì trái lại, thì sẽ chủ về bề ngoài trung thành mà bên trong gian trá, phần nhiều hay tráo trở thị phi, nếu gặp sao "không", hoặc Không Vong, thì chủ về là người cô độc, tầm thường, kiếm sống qua ngày.
Nữ mệnh gặp tinh hệ Tử Phủ, nếu Tham lang của cung Phúc hội hợp với các sao đào hoa Hồng loan, Thiên hỷ, Hàm trì, Thiên diêu, thì nên xem trọng sinh hoạt tình cảm, nếu cung Mệnh có các sao Sát - Hình tụ tập đủ, thì có thể làm kế thất, hoặc do quá tự sùng bái mình mà suốt đời không kết hôn.
Cung Mệnh của đại hạn, hoặc lưu niên gặp Tử Phủ, thì cát lợi hơn so với gặp ở cung Mệnh nguyên cục, chủ về được quý nhân trợ lực, dễ phát đột ngột. Nếu gặp Khôi Việt, hoặc lưu Khôi lưu Việt, thì có thể nhờ thay đổi mệnh lệnh, hoặc Cty thay đổi quy tắc mà được lợi. Trong làm ăn phần nhiều không cầu mà bỗng nhiên gặp may.


4)- "Tử vi Tham lang" thủ cung Mệnh hay Thân
Tử vi và Tham lang đồng độ ở hai cung Mão Dậu, cổ nhân gọi cách này là "Đào hoa phạm chủ", cho rằng chủ về dâm loạn, cho nên gặp "Tử vi Tham lang" đồng cung, rất kị gặp thêm các sao đào hoa Hồng loạn, Thiên hỷ, Hàm trì, Đại hao, Thiên diêu, Mộc dục, nếu không sẽ chủ về mất kiềm chế trước sức hấp dẫn của người khác giới, nếu còn gặp thêm Sát tinh, thì vì sắc đẹp mà gặp họa. Dù không gặp Sát tinh thì cũng ảnh hưởng đến sự nghiệp tương đối sâu sắc.
Nếu Tử vi hóa Quyền (can Nhâm) được "bách quan triều củng", thì giống như thiên tử phong lưu ở thời thái bình, chủ về phú quý đa tình. Khi Tử vi hóa Khoa (can Ất) gặp sao Cát, tuy có tiếng tăm và học có thành tựu, nhưng vẫn thiên nặng về dục tình và ham muôn vật chất.
Nếu Tham lang hóa Lộc (can Mậu) thì chủ về một năm giao tế thù tạc nhiều, thên nặng về ham muôn vật chất, nhưng lại có tài vận hanh thông. Khi Tham lang hóa Quyền, ham muốn vật chất cũng nặng, nhưng phải trải qua cạnh tranh mới thành tựu. Khi Tham lang hóa Kị, tuy có giảm sắc thái đào hoa, nhưng về tài nghệ thì lại khó phát triển, nhiều ham muốn vật chất nhưng cũng khó mà toại nguyện.
Tinh hệ "Tử vi Tham lang" ưa gặp Tả phụ Hữu bật đồng cung, mà không ưa Văn xương Văn khúc. Nếu Xương Khúc đồng cung, thì khuynh hướng hấp dẫn người khác giới càng lớn, mà lại còn quá chú trọng trang điểm, chải chuốt, biểu hiện bề ngoài hoàn mỹ, cho nên hành sự "giả" nhiều mà "thực" ít. Nếu Tả phụ và Văn xương, hoặc Phụ bật và Văn khúc giáp cung Mệnh, thì trái lại, sẽ dễ phát huy tài chí, sự nghiệp có thành tựu. Cổ nhân nói "Tả Hữu Xương Khúc giáp chế", theo bí truyền của Trung Châu phái, đây là nói về cách "giao thoa nhau mà giáp cung mệnh", bởi vì Tử Tham vĩnh viễn không có khả năng được "Tả Hữu giáp mệnh" hay "Xương Khúc giáp mệnh".
Tử Tham gặp Sát tinh, chỉ nên hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, nhưng Sát tinh nặng thì có thị phi tranh chấp. Nếu lại gặp sao "không" và Hoa cái thì trái lại, sẽ sinh nhai bằng hoạt động tôn giáo.
Nữ mệnh gặp Tử Tham, gặp đào hoa và Sát tinh, dễ rơi vào chốn phong trần, kị nhất là gặp Kình Dương. Nếu có các sao đào hoa tụ tập, nguy cơ rơi vào chốn phong trần càng lớn, đồng thời cũng vì vậy mà ham muôn vật chất có khuynh hướng trụy lạc. Nếu cung Mệnh ở Dậu, mượn Tử Tham của cung Mão để nhập cung, thì càng phải nên chú ý.
Cung Mệnh của lưu niên hay đại hạn mà gặp Tử Tham, thì tính đào hoa sẽ nhẹ hơn khi gặp ở cung Mệnh nguyên cục. Thông thường, nếu hội hợp với sao Cát, thì chủ về ít có sự biến động thay đổi, ít tiến bộ. Nhưng nếu các Sát tinh cùng tụ tập, mà không gặp các sao Hình - Kị, thì lại có thể tiến bộ. Còn nếu các Sát tinh cùng tụ tập, lại gặp thêm các sao Hình - Kị, thì có thể vì sắc mà phá tài, chuốc họa, hoặc vì thù tạc mà chuốc lấy điều tiếng thị phi.

5)- "Tử vi Thiên tướng" thủ cung Mệnh (Thân)
Tử vi Thiên tướng đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Tử vi là đế diệu, Thiên tướng là sao "ấn", thoạt nhìn thì có vẻ là một kết cấu rất lý tưởng, nhưng khi hai sao này đồng cung, thì lại vì Phá quân ở đối cung mà thay đổi tính chất. Phái Trung Châu xem trọng đặc tính của toàn bộ kết cấu của các tinh hệ, đây là một ví dụ.
Tinh hệ Tử Tướng rất ưa được Lộc tồn hội chiếu, có thể giầu có, nhưng thành kiến chủ quan cực sâu, mà còn thích tranh quyền, nên dễ bị người ta dạt bỏ, chèn ép. Nếu không có Lộc tồn, mà Tử vi hóa Quyền (can Nhâm), thì tính thích tranh quyền càng kịch liệt, còn nếu Tử vi hóa Khoa (can Ất), tính thích tranh quyền tuy có hơi giảm, nhưng lòng tự tôn và trọng danh dự càng nặng, dễ bị người ta úy kị.
Nếu không gặp Lộc Quyền Khoa, thì tinh hệ này ưa được "bách quan triều củng", mà không ưa các sao Sát Kị hội hợp. Nếu được Tả phụ Hữu bật Văn xương Văn Khúc hội chiếu thì sự nghiệp có thể thành tựu, là nhân vật lãnh đạo, tính tình ôn hòa đôn hậu. Nhưng vì ảnh hưởng của Phá quân ở đối cung, nên trong đời ắt phải trải qua một lần sóng gió trắc trở.
Nếu không gặp Cát tinh, mà có tứ Sát hội hợp, thì lấy trường hợp Kình Đà là khá tốt, thích hợp hoạt động trong lĩnh vực thương mại. Nếu gặp Hỏa Linh, do gặp Hỏa Linh phải hao phí sức lực hóa giải nên tăng thêm vất vả gian khổ. Giả dụ như gặp Hỏa Linh mà còn gặp thêm Không Kiếp, hay Thiên hình, thì có thể gặp bất hạnh, tinh thần hay bị kích thích, hoặc mắc bệnh tim. Phàm Tử Phủ thủ Mệnh, dù không gặp Sát tinh, cũng nên chú ý sức khỏe tim mạch và tu dưỡng tinh thần.
Nếu có nhiều Sát tinh hội hợp, chủ về phát lên một cách nhanh chóng rồi suy sụp cũng rất nhanh chóng, mà còn dễ có biểu hiện vô tình vô nghĩa. Nếu có sao Cát tương hội, thì chủ về đời người trải qua nhiều sóng gió, trắc trở, hoặc cuộc đời có sự thay đổi đặc biệt, hoặc gặp bất hạnh bất ngờ, hoặc là gặp cơ hội tốt. Nhưng trong ngẫu nhiên vô tình vẫn có biểu hiện tình nghĩa lạnh nhạt.
Nữ mệnh gặp tinh hệ "Tử vi Thiên tướng", cần chú ý sinh hoạt tình cảm, đồng thời cũng lưu ý đặc tính vô tình vô nghĩa của tinh hệ này, mà biết tự kiềm chế thì mới tốt lành, nhưng trong tình yêu ắt thường nổi sóng.
Cung Mệnh của lưu niên hay đại hạn có "Tử vi Thiên phủ", nếu gặp các sao Sát Kị, ắt sẽ bị gặp nhiều trở ngại, rồi sinh lòng thay đổi, như mong muốn thay đổi việc làm nhưng lại không được, gặp Cát tinh thì vận hạn thuận lợi toại ý, sự nghiệp có thành tựu.


6)- "Tử vi Thất sát" thủ cung Mệnh hay cung Thân
"Tử vi Thất sát" đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi. Tử vi là đế diệu, Thất sát là tướng tinh, hai sao này mà đồng cung sẽ có uy không ai so bì được. Cho nên, Tử Sát chủ về giầu tính khai sáng, hơn nữa còn có tư tưởng độc đáo.
Thông thường, Tử Sát có thể xem là tượng trưng của quyền lực, cho nên Tử vi không nên Hóa quyền, vì như vậy sẽ "kích phát" về lòng ham muốn quyền lực lên quá cao, có biểu hiện khí "bá đạo" mà những người khi tiếp xúc khó mà nhịn được. Điều này gây ảnh hưởng đến mối quan hệ bền vững và để lại hậu quả lâu dài rất sâu sắc.
Tử Sát rát nên được các sao Cát hội chiếu. Như Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Lộc tồn, Thiên mã hội hợp , thì tính "cương dũng" của Thất sát có đất dụng võ. Cái gọi là "hóa sát làm quyền" là cách cục này. Nhưng giả dụ không có sao Cát hội chiếu, thì giống như anh hùng thảo dã làm giặc cướp, khó tránh có biểu hiện tàn nhẫn bá đạo, chủ về phát lên một cách nhanh chóng rồi suy sụp cũng rất nhanh chóng. Nếu như không có sao Cát, mà còn có Sát tinh hội hợp, thì khó tránh "hình thương, khắc hại".
Nữ mệnh gặp Tử Sát, về phương diện sinh hoạt hôn nhân, sẽ không có trở ngại gì lớn, nhưng nếu gặp Sát tinh hội chiếu, thì chủ về cô độc.
Đại hạn hoặc lưu niên gặp Tử Sát, nếu còn gặp Sát tinh, thì tuy có cơ hội thay đổi, nhưng lại khó được như nguyện. Nếu có Cát tinh tụ hội, thì chủ về trải qua thay đổi mà được cát lợi.





Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn






1)- Thiên Cơ độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ
Thiên cơ độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ là nhập miếu, là cung vị có thể phát huy đặc tính của nó một cách cao nhất. Do xung chiếu với Cự môn ở đối cung, chỉ cần Cự môn không hóa Kị, thì sẽ không bị ảnh hưởng bởi điều tiếng thị phi gây nên, mà thiên Cơ còn phát huy được tài ăn nói, mưu trí và quyền biến.
Thông thường, Thiên cơ và Cự môn đối nhau, nếu được Tả Hữu Xương Khúc, Hóa lộc, Hóa quyền, Khôi Việt hội chiếu, thì có thể nắm giữ uy quyền, trở thành người lãnh đạo công ty lớn, hoặc thủ trưởng một bộ môn của chính phủ. Nếu có thêm Lộc tồn Thiên mã vây chiếu, thì nguồn tiền tài càng dồi dào. Nếu Xương Khúc giáp Mệnh, thì chủ về thông minh ưu tú, có thể theo đuổi sự nghiệp văn hóa nghệ thuật, cũng thích làm cồn việc quảng bá, môi giới. Nếu có sao Cát đến hội, mà gặp thêm Sát tinh, làm việc trong lĩnh vực chính trị hoặc thương nghiệp tuy có thể phú quý, nhưng không được lâu dài, không bằng lợi dụng tính chất của Sát tinh để "tìm cát tránh hung". Thông thường gặp hóa Kị thì thích hợp công việc quảng bá. Gặp Kình dương thì có thể theo ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật, gặp thêm Thiên hình thì có thể làm bác sỹ ngoại khoa. Gặp Hỏa Linh hoặc Kình Đà thì nên có nghề chuyên môn để mưu sinh.
Nữ mệnh Thiên cơ thủ Mệnh độc tọa ở Tý hoặc Ngọ, chủ về khéo léo, thông minh cơ trí, nhưng tính rất ham quyền bính, cũng chủ về biết chăm lo gia đình. Rất ngại Thiên cơ hóa Kị, có thể vì bị kích thích mà đùa giỡn với tình cảm, nếu Cự môn của đối cung hóa Kị, gặp Sát tinh thì nên kết hôn muộn, nếu không sẽ "hình phu khắc tử".
Cung Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Thiên cơ độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thì sự nghiệp có xu thế biến thiên, cần xem các sao mà nó hội hợp để định cát - hung.

2)- Thiên cơ độc tọa ở hai cung Sửu hoặc Mùi
Thiên cơ độc tọa ở hai cung Sửu hoặc Mùi là lạc hãm, đặc điểm của nó là đối chiếu với Thiên lương ở đối cung. Cổ nhân nói: "Cơ Lương hội hợp thì giỏi bàn việc binh" (Cơ Lương hội hợp thiện đàm binh), thực ra câu nói này chẳng biểu thị người này có tài năng quân sự, mà chỉ biểu thị người này thích bàn luận đề tài mà người bình thường không rành, hơn nữa còn biểu hiện phong thái hùng tài vĩ lược, tất nhiên là giỏi biện luận, nhạy bén mưu trí và quyền biến. Thông thường không nên làm công việc kinh doanh buôn bán, có thể trở thành nhân tài tham mưu cố vấn.
Thiên cơ hóa Lộc không những chủ về tiền đến tiền lại đi, mà còn rất khó tích lũy căn cơ, nhưng lại dễ có vận may kiếm tiền một cách đột ngột bất ngờ. Nếu Thiên cơ hóa Quyền có thể làm tăng quyền thế, hoặc có cơ hội quen biết được với những người có quyền thế, quyền lực, tạo nguồn trợ giúp cho sự nghiệp phát triển và nâng cao địa vị của bản thân. Thiên cơ hóa Khoa (can Đinh) ở hai cung Sửu hoặc Mùi, ắt phải được Văn tinh giáp cung, hoặc vây chiếu mới có biểu hiện tốt, chủ về thông minh xuất chúng, ăn nói biện giải trong giao tế có tính thuyết phục một cách chắc chắn, phản ứng nhạy bén.
Thiên cơ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, rất ngại gặp Sát tinh, Kị tinh, cổ nhân nói : "Thiên cơ mà thêm ác sát đồng cung, thì như chó trộm chuột cắp" (Thiên cơ gia ác sát đồng cung, cẩu thâu thử thiết), tức là nói trường hợp ở hai cung Sửu hoặc Mùi. Tất nhiên phải có Sát - Hình - Kị hội chiếu, mà không có Cát tinh hội hợp, mà còn gặp Ânm sát, Thiên hư thì mới đúng. Nhưng cũng chỉ chủ về nhân phẩm con người thấp, vẫn có thể dùng nỗ lực tu dưỡng hậu thiên để bổ cứu.
Nữ mệnh Thiên cơ hóa Kị thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, thì đặc biệt rất nhiều lo nghĩ và gặp trở ngại về tình cảm, yêu ghét hay do dự thay đổi bất định, nội tâm đau khổ chưa hẳn là do người khác gây ra. Cung Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên mà gặp trường hợp này, nếu đứng núi này trông núi nọ, thì sẽ rất bất lợi. Nếu gặp Thiên cơ hóa Kị và có Sát tinh đồng độ thì buộc phải thay đổi, nhưng sự thay đổi này sẽ bất lợi.

3)- "Thiên cơ Thái âm" đồng độ thủ Mệnh (hoặc Thân)
Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, cung Tài có Thiên đồng, cung Quan có Thiên lương. Đây là một tinh hệ điển hình của cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương", cổ nhân nói: "Cơ Nguyệt Đồng Lương là làm thư lại" (Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân), trong trường hợp này rất là đúng tiêu chuẩn.
Đặc tính các sao của bản cung là xử sự có mạch lạc, lớp lang, ngăn nắp, thứ tự, có thể dựa vào đó để định phương kế và kế hoạch làm việc, cho nên thích hợp làm công chức, hoặc đảm nhiệm chức vụ trong công ty. Xã hội hiện đại xem trọng việc quản lý công ty, rất thích hợp với người có mệnh cách này.
Ở phương diện khác, cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" còn chủ về mệnh tạo thiên về mặt âm nhu, phái nam nhờ vậy mà dễ tiếp cận phái nữ, biết rõ tâm lý nữ giới, phái nữ cũng chủ về dung mạo xinh đẹp, giầu tình cảm, dễ được phái nam theo đuổi.
Nhưng tính cách âm nhu này cũng có thể phát triển thành thủ đoạn xấu bên trong, như kiểu mua chuộc lòng người. Đây cũng là nhân tố cơ bản của "lại nhân" (nhân viên trông coi văn thư trong huyện phủ thời xưa)





Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn





Sao Tử vi ở cung Mệnh thì chủ về người có sắc mặt đỏ tía, hoặc vàng trắng, lúc tuổi già sắc thái đỏ vàng hoặc tía; eo lưng mập dày, thân thể cao trung bình; mặt dài gầy mà có kèm tròn, tính tình trung hậu hào sảng, song hay đi chơi, di chuyển bất định; chí khí cao ngạo, tính tình quật cường; có thể biến sát khí của Thất sát thành quyền uy; có thể biến cái khí bất tường của Hỏa tinh và Linh tinh thành sự trung hòa.

Tử vi hội chiếu với các sao Thiên phủ, Thiên tướng, Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Lộc tồn, Thiên mã, Hóa lộc, Hóa quyền, Hóa khoa mà ở cung vị nhập miếu tất sẽ phú quý xong toàn.

Nếu Tử vi có Lộc Mã giao trì, mà không có Không Kiếp, thì càng chủ về đại phú đại quý.

Nếu như không có các sao như Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc vây chiếu, đồng thời Tử vi ở ngôi vị không miếu, đó chính là vị quân vương ở nơi hoang vắng, trở thành vị vua cô độc. Chủ về người có tính tình cô độc, tư tưởng siêu thoát, có thể xuất thế làm tăng, hoặc làm đạo sỹ tìm cầu chân lý.

Tử vi đồng cung hoặc hội chiếu với Phá quân, không có sát tinh, thì nên mưu tính phát triển trong chính giới. Nếu hội chiếu với Lộc tồn, Thiên mã thì có thể buôn bán kinh doanh phát đạt, song nên kinh doanh đến ngành nghề có liên quan đến công cộng hoặc công việc hành chính.

Nếu Tử vi bay đến Thìn địa và Tuất địa thì cuộc đời nhiều trắc trở, có thể phú mà không thể đại quý, hoặc là quý mà không thể đại phú. Sự việc không đươc song toàn, phân nửa là hư không vậy.

Mệnh của người làm ăn kinh doanh bình thường, mà có 4 sát tinh Kình Đà Hỏa Linh cùng tới, chỉ cần sao Tử vi nhập miếu hoặc có Cát tinh khác hội chiếu, cũng có thể phát tài, song phiền nhiễu rắc rối, miệng lưỡi thị phi rất nhiều. Hội chiếu với Kình dương lạc hãm thì chủ về hay gặp miệng tiếng thị phi, kiện cáo.

Sao Tử vi ở cung mệnh, hiện tượng rất phổ biến là tai thì mềm mà lòng hay thay đổi, có thói quen thích đủ thứ.

Nữ mệnh có Thiên phủ và sao phụ cát hội chiếu là mệnh của một vị phu nhân danh giá. Nếu có Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp chiếu hội, lại có thêm Phá quân vây chiếu, thì một đời tự tung tự tác, tuy có phát tài, song khó tránh khỏi dâm ô nhiều chồng. Ở cung Phu mà có sao Tử vi bay đến, thêm Thiên phủ và sao phụ cát cũng chủ về chồng vinh, con quý.

Lưu niên, đại hạn mà có sao Tử vi đến, thì chủ về phúc nhiều lộc hậu, ở thương trường chủ về phát triển, làm quan thì được thăng chức, gặp nhiều cơ hội. Có Thiên phủ đồng độ càng được quý nhân giúp đỡ, đột nhiên danh lợi đều thu về. Nếu có Phá quân đồng độ hay chiếu hội, thì có ý nghĩa bỏ cũ thay mới. Gặp Địa không Địa kiếp, Thiên hao là có khó khăn về kinh tế, gặp những bất lợi như phá tài, đình trệ. Tương hội Kình Đà Hỏa Linh thì càng lo lắng hảo, tranh chấp, bị giáng chức, mất việc làm.














Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn







DUNG MẠO VÀ TÍNH CÁCH
Người có sao Tử vi tọa thủ cung Mệnh thường có sắc mặt mầu vàng tía, người to béo, tướng mạo hiền hậu điềm tĩnh, ánh mắt trong sáng. Mệnh nam thì vai rộng lưng dày, rắn rỏi uy nghiêm; mệnh nữ thì đôn hậu thanh tú, phúng phính đãy đà, khoan thai quý phái.
Tính cách ngay chính ngay thẳng, trung hậu thật thà, bên ngoài cứng rắng bên trong yếu mềm, có lòng tự trọng tự ái, tâm địa lương thiện, có lòng nhân hậu hay nghĩ cho người khác, có khí chất tôn quý, có tính kiêu ngạo, thích phân minh rõ ràng. Có tinh thần trách nhiệm, thích hư vinh, ưa thể diện, tự tin lại hiếu thắng, giỏi biện luận, tâm địa khá hẹp hòi, thích chiếm hữu, đa nghi thiếu chủ kiến, dễ làm việc theo cảm tính tùy theo mong muốn của bản thân, thường cảm thấy tủi thân, dễ tự tìm đến phiền muội. Thông minh học rộng, năng lực quản lý tài chính giỏi, có khả năng lãnh đạo. Làm việc chăm chỉ nhiệt tình, tính cầu toàn, thích những điều mới mẻ.
Nữ có sao Tử vi tọa thủ cung mệnh, ngoài có tiền đồ còn có dung mạo xinh đẹp, da dẻ mịn màng, khí thái đoan trang, được giáo dục tốt, là mẫu phụ nữ vợ đảm mẹ hiền điển hình. Đại đa số đều có được người bạn đời có địa vị cao trong xã hội, hưởng cuộc sống hạnh phúc về cả vật chất lẫn tinh thần. Nếu gặp Cát tinh thì là người vợ giúp chồng, nuôi con giỏi.

SUY ĐOÁN MỆNH LÝ
Sao Tử vi tuy là Đế tọa phú quý, có khí thể độc tôn, quyền uy cao ngất, là chúa tể của các sao nhưng khi tọa thủ tại cung Mệnh, thì không nhất định là thể hiện phú quý vinh hoa, còn phải xem xét cát hung của các sao trong cung và các cung bên cạnh, cung đối diện và cung tam hội với cung này.
Sao Tử vi không thích hợp tọa thủ một mình, tọa thủ một mình cũng giống như vị vua đơn độc không có hiền thần phò tá, lại vì làm việc không có chủ kiến, thường bó buộc trong vỏ bọc tôn quý, dễ bị gian thần tiểu nhân làm hại, dễ độc đoán chuyên quyền, về tinh thần không tránh khỏi cô độc, nếu không biết biến thông thì khó tránh khỏi gặp trở ngại tai ương.
Người có sao Tử vi tọa thủ cung mệnh, thích được người khác tiếp thu ý kiến của bản thân, thích ra lệnh, thường đưa ra kiến nghị cho người khác, nên dễ bị hiềm khích. Do sao Tử vi có khuynh hướng duy trì địa vị tôn quý của mình, hy vọng được người khác tôn trọng và thừa nhận. Vì vậy tính tình thường kiên định, đòi hỏi cái tôi khá cao, làm bất cứ việc gì đều rất nghiêm túc, có khả năng cải tiến đi lên, đồng thời lại mang tính cầu toàn, thích thể hiện mặt tốt đẹp của bản thân ra ngoài; nhiều khả năng do nỗ lực sau này trong công việc thể hiện nổi trội mà trở nên có quyền uy ở một phương diện nào đó. Sau khi thành danh, tất tiếp tục khẳng định cái tôi, nếu chuyên về tri thức hoặc kỹ thuật đặc thù, lấy hiện trạng đột phá, đồng thời biết tiếp thu ý kiến của bạn bè, duy trì bản năng có lòng hiếu kỳ với bất kỳ sự việc nào, tất có vận may được hiển đạt lớn, nếu không sẽ dễ đi theo khuynh hướng hư danh.
Sao Tử vi hợp nhất đồng cung với 6 cát tinh phò tá, cũng hợp cát tinh như Thiên phủ, Thiên tướng, Thái dương, Thái âm, Lộc tồn, Thiên mã, hoặc gặp được hỗ trợ trong cùng một cung, như vậy mới có thể phát huy được uy lực chân chính của đế tinh.
Suy đoán cát hung của sao Tử vi tọa thủ tại cung mệnh cần phải đồng thời xem xét Tam thai, nếu cung vị của sao Tử vi là Trung thai, thì trước nó một cung là Thượng thai, sau nó một cung là Hạ thai. Các sao Tam thai đều là cát tinh của miếu vượng thì mọi việc hanh thông. Nếu các sao của Tam thai đều là hung tinh rơi vào thế hãm thì mọi việc không như ý.

nguon :http://tuvitinhquyet.blogspot.com/

Sửa bởi CanhChimKhongMoi: 02/09/2014 - 12:48


Thanked by 1 Member:

#2 chonhoi

 

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 8 Bài viết:
  • 0 thanks

 

Gửi vào 03/09/2014 - 14:15

Xin hỏi câu : tử vi cu menh vo hinh ky vi tri cong khanh
Câu này ám chỉ gặp cả hình, cả ky hay mot trong 2 cũng đủ phát tác?
La so tử vi cu ngo moi thứ đều ok. Nhưng có hoa ky thì có vấn đề gì k?
Xin duoc chi giao






Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |