Phép Bí Truyền Về Chiêm Bốc
Phàm chiếm quẻ thường sự (việc không quan trọng lắm) để biết tốt xấu, phải xem trong quẻ, có quẻ nào sinh Thể, thì cái sẽ ứng rất mau, rồi xem quẻ sinh Thể trong mục Bát quái thời tự để đoán thời kỳ, nếu quẻ sinh Thể là quẻ Dụng, thì sự việc thành tựu, nếu sinh Thể là Hổ quái, thì đoán dần dần mới thành, nếu sinh Thể là Biến quái, thì chậm hơn. Ví bằng có quẻ sinh Thể.
Lại có quẻ khắc Thể lẫn lộn thì sự việc sẽ gặp trở. Sự xấu tới cũng chưa đầy đủ rõ ràng, cần xem quái khí của các quẻ khắc Thể, trở bao nhiêu ngày, như Càn khắc Thể thì trở một ngày, Đoài khắc Thể thì trở hai ngày, cứ như vậy mà suy.
Như chiêm thường sự mà không có quẻ sinh Thể, lại có quẻ khắc Thể, tất sự việc không tốt, còn không có quẻ khắc Thể, thì sự tất thành đạt được.
Còn như chiêm quẻ thuộc sự việc quan trọng xem trong quẻ, nếu có quẻ sinh Thể thì sự việc có thể cứu vãn được, vô hại, nếu không có quẻ sinh Thể, thì sự việc không được tốt. Muốn luận về nhật kỳ xem trong quẻ có quẻ sinh Thể, ắt sự việc sẽ ứng vào ngày quái khí của quẻ sinh Thể, nếu có quẻ khắc Thể thì sự việc sẽ thất bại vào ngày quái khí của quẻ khắc Thể. Cần phải lanh trí mà xét đoán mới được.
Thể, Dụng, Hổ, Biến Pháp Thuật
Đại phàm xem quẻ lấy Thể làm chủ, Hổ, Dụng, Biến đều là Ứng quái. Quẻ dụng rất là khẩn thiết, Hổ quái là thứ khẩn, Biến quái là thứ khẩn hơn. Vì cớ ấy mà gọi Dụng quái là ứng tức thời, Hổ quái là trung gian ứng, còn Biến quái là kết cục của sự chiêm quẻ.
Song le: Hổ quái phải phân ra có: Thể quái hổ ra; có Dụng quái hổ ra. Nếu Thể quái ở trên (phía trên), thì Hổ ở trên tức là Thể hổ ra; Dụng quái ở dưới (phía dưới) thì Hổ ở dưới lại là của Dụng hổ ra.
Trái lại, nếu Thể quái ở dưới, thì hổ ra cũng nằm dưới, còn quẻ Dụng nằm trên, hổ ra cũng nằm trên. Quẻ Hổ của Thể hổ ra rất là khẩn, rồi mới tới quẻ Hổ của dụng khẩn.
Ví như quẻ Quan Mai là Hằng quái (Lôi Phong Hằng), Hổ thấy Đoài và Càn Đoài là thể quái, Hổ thấy nữ tử bẻ bông. Ví như càn là Thể, Hổ sẽ thấy lão nhân bẻ bông. Xét Đoài Càn đều khắc Thể hết, chỉ lấy Đoầi mà không lấy Càn. Như vậy là cách phân chia giữa Thể, Dụng và Hổ. Đại phàm, xem quẻ nếu Biến quái khắc mà Thể, thì sự việc hậu lai không được tốt; nếu Biến quái sinh Thể và tỵ hòa thì sự biệc cuối cùng có cát lợi. Như vậy là pháp thuật của Dụng, Hổ và Biến vậy.
Pháp Thuật Về Thể Dụng Sinh Khắc
Phàm chiếm quẻ, thì lấy quẻ mà phân ra Thể Dụng, Hổ Biến, tức là dựa vàolý của Ngũ Hành, để đoán cát hung, lẽ tức nhiên lý sinh khắc là do ở Nội, Ngoại, Thể, Dụng, Hổ, Biến mà xét đoán.
Ví bằng, Ngoại quái tất phải minh định cái lý cho tinh vi của sự chân sinh và chân khắc, của ngũ hành mới định khinh hay trọng, thì họa phước ứng ngay tức thì. Sao vậy? Thí dụ như Càn Đoài thuộc Kim là Thể quái gặp Hỏa thì khắc. Song le có chân Hỏa thật sự, và có Hình sắc Hỏa. Chân Hỏa mới thực sự là khắc Kim, còn Hình sắc Hỏa thì không tốt, mà Hình sắc Hỏa thì không khắc, mà chỉ không được thuận mà thôi.
Thí dụ: Thấy Hỏa ở trong lò nung, đốt, hoặc Hỏa ở bếp nấu, ấy thật là chân Hỏa chân khắc vậy; lại như Hỏa ở đèn, đuốc, lửa cháy có ngọn lửa, tức là chân Hỏa, nếu Càn Đoài là Thể mà gặp các thứ Hỏa đó là không tốt. Còn như Hình sắc Hỏa như ánh lửa, lửa ở cây cỏ mục, tức là Hình sắc Hỏa, không phải thật chân Hỏa thì ví dù Thể là Càn Đoài cũng chẳng ngại. Còn như Hỏa ở một cây đèn nhỏ, một cái đóm nhỏ, tuy là chân Hỏa nhưng nhỏ và ít, thì kể như khinh (nhẹ), chỉ bất lợi chút đỉnh thôi.
Bây giờ, như Chấn, Tốn thuộc Mộc là Thể, lẽ tự nhiên gặp Kim thì khắc. Song le, loại kim như vòng, xuyến, khuyên vàng, lại như loại kim ở cái miệng bát, cái lư, cái mâm làm bằng kim khí, như đồng, bạc, chì, kẽm, sắt vụn vặt tuy là loài chân Kim mà làm sao khắc được. Mộc chỉ sợ nhất là loài Kim như gươm sắc, dao bén, búa chặt, cưa đục: Chấn Tốn mà gặp phải thì rất xấu.
Lại như Ly là Hỏa là Thể gặp phải Thủy thì rất tối kỵ. Nhưng thí dụ như hình sắc đen, thể ẩm thấp như huyết cũng thuộc Khảm Thủy, vốn kỵ nhưng thật ra thì chẳng hại gì. Tất cả các quẻ trên là Thể quái, mà gặp Ngoại ứng khắc Thể, tất phải luận cái khinh và trọng mà đoán.
Xét về nhứng cách sinh Thể, cũng nên minh biện rõ ràng Thổ như gạch, ngói cũng đều là đất thuộc Khôn, nếu gặp được Kim thì Thổ sinh Kim, còn gạch ngói thì không thể sinh Kim được.
Cây cối, củi đốt đều thuộc Mộc cả, gặp Ly Hỏa thì khắc, nếu là cái đuốc thì chống khắc Hỏa; còn như cây lớn mà chưa đốn xuống thì sinh Hỏa đâu có chống được.
Thể là Mộc mà gặp Thủy thì điềm phước đức, nhưng như sữa, máu huyết đều là Thủy cả, gặp những loại như vậy ví dù là Khảm mà sinh Mộc, như thế đó đều gọi là loại khinh cả.
Ngoài ra ngũ hành sinh khắc, đều phải phân rõ ràng từng loại mà đoán.
Thể, Dụng Suy Vượng Pháp Thuật
Phàm Thể quái phải vượng, khắc Thể quái phải suy, khí quái của Thể như mùa Xuân thuộc Mộc, Hạ thuộc Hỏa, Thu thuộc kim, Đông thuộc Thủy, bốn tháng tứ quý thuộc Thổ, đều thuận với thời tiết cả, nên gọi là thừa vượng khí. Nếu có tha quái khắc thì cũng vô hại. Dụng quái, Hổ quái, Biến quái mà vượng thì tốt. Chẳng những chỉ không nên có khí vượng của quẻ khắc Thể, mà khí của Thể quái lại suy thì cũng không tốt được.
Chiêm quẻ nếu gặp phải như vậy thì ví như chiêm bịnh, ắt phải chết. Chiêm tụng sự ắt phải thất bại, nếu không phải là chiêm bịnh hay chiêm tụng sự mà là chiêm thường sự đi nữa, thì cũng phải đề phòng bịnh hoạn, quan tai.
Muốn biết nhật kỳ xảy ra, hay gặp phải thì cứ xét ngay khí quái của quẻ khắc Thể, tức ta lấy thời kỳ đó vậy. Trái lại, khí của quái Thể vượng, mà khí của quẻ sinh Thể lại vượng nữa, thì sự việc rất tốt, mau chóng thành đạt, muốn tìm cái sự xuất phát lúc nào, cứ xét ngày giờ của quẻ sinh Thể là biết. Nhược bằng Nội quái và Ngoại quái có nhiều cách sinh Thể, mà Thể quái tuy là suy thì cũng không hại lắm. Nếu nội, Ngoại đều không có quẻ sinh Thể, tuy là Thể quái có nhiều quẻ đồng hành với Thể (thuộc vào hành nào đó, giống như hành ở Thể quái) là suy quái vậy, rúy cục cũng không được tốt.
Vì lẽ ấy, cho nên Thể, Dụng cần phải xét thịnh suy cho tinh tường.
Thể, Dụng Động Tịnh Pháp Thuật
Phàm chiêm quẻ, quẻ đã bố (bày, dàn ra) rồi, và đã phân định Hổ, Biến, Thể, dụng rồi phải lấy cả Nội, Ngoại quái mà xem có động hay không động, chẳng động thì chẳng xem, mà cũng chẳng đoán cát hung, hối lận, do động mà sinh ra.
Va, Thể quái là tịnh, Hổ quái cũng tịnh, Dụng quái, Biến quái đều động hết, ấy là Nội quái động tịnh. Lấy ngoại quái mà nói, thì phương ứng, Thiên thời ứng, địa lý ứng cũng là tịnh hết, còn nhân sự ứng. Khí vật ứng lại thuộc về động. Khí vật vốn bản chất là tịnh, nếu người cầm khí vật mà tới, tức là động như: Càn là ngựa, Khôn là bò trâu đều là động. Nước ở giếng, ao, đá đất ở núi đều là tịnh, nếu có người múc, gánh nước đó và có người đem hay chở đất đá đó, thì tất nhiên nước, đá đất đó phải động cho nên phải nhờ ứng của ngoại quái. Xét cái động mà đoán cát hung, sự động đó là triệu tốt, là sự việc tốt thì quẻ rất chóng; sự động đó là triệu xấu, là sự việc xấu, thì quẻ ứng cũng rất mau, không thấy động mà ứng, thì sự việc chưa thấy được cát hung, ấy là Ngoại quái: Thể Dụng Động Tịnh vậy.
Chiếu theo quẻ động tịnh, như ta chiêm quẻ, tức là ta tịnh, mà xét đoán cái động của sự việc. Như trên toán Mai Hoa, thấy hai chim sẻ tranh nhau cành mà đậu, bị rớt xuống đất; con bò rống, con gà gáy, tiếng kêu, tiếng gáy tỏ ra bi thảm; như cây khô bị gãy đều là vật bị động hết, ta dùng cái Tịnh của ta mà xét đoán.
Lại như ta ngồi là ứng chậm, ta đi là ứng mau, ta đứng thì nửa mau nữa chậm, ấy là do cái lý của Động Tịnh vậy.