TIN VỈA HÈ
KimCa
08/08/2014
ttL, on 08/08/2014 - 13:16, said:
""Anh Bốn nhát quá!
Ảnh lớn rồi mà thấy mấy ông Tây bà Đầm là chạy trốn vô nhà làm tụi mình cũng sợ chạy ba chân bốn cẳng trốn không kịp!
Thằng Chuột và thằng Đít, hai đứa trẻ nít 9 và 10 tuổi xúm nhau ngạo cậu Bốn, 18 tuổi, chàng thanh niên đẹp trai nhất ở phố Cửa Bắc.Sự thật thì hai đứa nó còn sợ hơn cậu Bốn nữa, cũng như hầu hết các thanh niên và thiếu niên Việt Nam thời bây giờ, hễ trông thấy 'Ông Tây Bà Đầm' là thất kinh hồn vía. Hai đứa núp sau Miếu Cây Da, đợi ông Tây bà Đầm đi qua khỏi rồi mới thò đầu ra. Còn cậu Bốn thì ở luôn trong nhà. ""
Ảnh lớn rồi mà thấy mấy ông Tây bà Đầm là chạy trốn vô nhà làm tụi mình cũng sợ chạy ba chân bốn cẳng trốn không kịp!
Thằng Chuột và thằng Đít, hai đứa trẻ nít 9 và 10 tuổi xúm nhau ngạo cậu Bốn, 18 tuổi, chàng thanh niên đẹp trai nhất ở phố Cửa Bắc.Sự thật thì hai đứa nó còn sợ hơn cậu Bốn nữa, cũng như hầu hết các thanh niên và thiếu niên Việt Nam thời bây giờ, hễ trông thấy 'Ông Tây Bà Đầm' là thất kinh hồn vía. Hai đứa núp sau Miếu Cây Da, đợi ông Tây bà Đầm đi qua khỏi rồi mới thò đầu ra. Còn cậu Bốn thì ở luôn trong nhà. ""
thường thôi
nhớ hồi mana còn nhỏ xíu, vì ở vùng quê nghèo không có ô tô. nên khi thấy cái ô tô chạy ngoài đường thì ra mana với mấy đứa trẻ nhỏ chạy ra xem. Có một dạo đi chăn vịt với mấy anh cùng quê gặp ông Tây đi xe đạp qua trắng nõn, mấy đứa nhìn rồi cười lăn ra.
PMK
08/08/2014
Lời thú tội rùng rợn của tên cai ngục tàn ác bậc nhất lịch sử Việt Nam
Nhân tháng cô hồn, xin gửi lên đây đường link bài viết này.
Xin kính cẩn nghiêng mình trước anh linh của các vị anh hùng liệt sỹ có tên và không tên đã xả thân vì độc lập tự do của dân tộc.
Cảm ơn người đã lập ra topic.
Nhân tháng cô hồn, xin gửi lên đây đường link bài viết này.
Xin kính cẩn nghiêng mình trước anh linh của các vị anh hùng liệt sỹ có tên và không tên đã xả thân vì độc lập tự do của dân tộc.
Cảm ơn người đã lập ra topic.
OngTanDepTrai
08/08/2014
cháu chào bà PMK , tháng này bà có tâm sự gì à ?
Sửa bởi OngTanDepTrai: 08/08/2014 - 19:28
Sửa bởi OngTanDepTrai: 08/08/2014 - 19:28
vietnamconcrete
08/08/2014
Cho lái xe lên làm phó chánh văn phòng huyện ủy vì “tính tình tốt”
Tài xế Hà Huy Nam đã được bổ nhiệm làm Phó chánh văn phòng Huyện ủy huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh vào năm 2013, theo báo Một Thế Giới.
Vào thời điểm được bổ nhiệm, ông này không có bất kỳ bằng cấp nào ngoài bằng lái xe, báo này cho biết thêm.
Người trực tiếp bổ nhiệm ông Nam, Trưởng ban Nội chính Tỉnh ủy Hà Tĩnh Nguyễn Văn Huyên, giải thích nguyên nhân khiến ông có quyết định này:
“Chú Nam làm công việc lái xe và bảo quản xe rất tốt, có họ hàng cũng tốt, tính tình tốt ..."
“Nếu so với quy định thì nó phá rào tí nhưng về tình người thì nó không trái gì lắm”, ông nói thêm.
Được biết, ông Nam đã từng lái xe cho 7 đời bí thư huyện ủy, trong đó có ông Huyên.
==============================
TẠI SAO NHÂN PHẨM TỐT NHƯ TUI LẠI KHÔNG AI CHO LÀM QUAN!!!!
Sửa bởi vietnamconcrete: 08/08/2014 - 19:32
meoemrongchoi
08/08/2014
Bức ảnh "sự thật thà của người Canada" gây xôn xao cư dân mạng
PHONG HUYỀN
Một bức ảnh chụp tại một ga tàu điện ngầm tại Canada đã khiến cộng đồng mạng thế giới thán phục vì sự thật thà của người dân nước này. Bức ảnh đang lan truyền nhanh trên mạng xã hội.
Tại một ga tàu điện ngầm (chưa xác định địa điểm) của Canada, máy bán vé tự động bị hỏng. Và thay vì bỏ qua thao tác mua vé để nhảy qua hàng rào đi vào trong sân ga, những người Canada đã chủ động đặt tiền lên máy kiểm soát vé.
Qua bức ảnh, có thể thấy rằng tiền đã bắt đầu được đặt lên máy từ khá lâu trước đó và vun thành một đống, nhưng không chưa có ai có ý định "xơ múi".
Bức ảnh này đã xuất hiện trên mạng một thời gian, nhưng phải đến tuần này, nó mới thực sự gây được sự chú ý khi nhiều trang mạng xã hội và blog của phương Tây chia sẻ lại. Trên một trang facebook, chỉ sau một tiếng đăng tải bức ảnh, đã có gần 100 nghìn lượt "thích".
Một số người Canada bình luận rằng họ cảm thấy tự hào về hình ảnh này. Một số khác bình luận hài hước: "Canada đã đi nước cờ của mình, giờ đến lượt các anh đấy, Nhật Bản" - ám chỉ tới việc người Nhật thường xuyên được đem ra làm hình mẫu cho sự lịch sự và chân thật.
"Ở nước Ý thì mọi thứ đã biến mất trong vòng một miligiây" - một người Ý cảm thán.
"Ở VN thì chẳng có thứ gì để bay"_ một thành viên TVLS khẳng định.
PHONG HUYỀN
Một bức ảnh chụp tại một ga tàu điện ngầm tại Canada đã khiến cộng đồng mạng thế giới thán phục vì sự thật thà của người dân nước này. Bức ảnh đang lan truyền nhanh trên mạng xã hội.
Tại một ga tàu điện ngầm (chưa xác định địa điểm) của Canada, máy bán vé tự động bị hỏng. Và thay vì bỏ qua thao tác mua vé để nhảy qua hàng rào đi vào trong sân ga, những người Canada đã chủ động đặt tiền lên máy kiểm soát vé.
Qua bức ảnh, có thể thấy rằng tiền đã bắt đầu được đặt lên máy từ khá lâu trước đó và vun thành một đống, nhưng không chưa có ai có ý định "xơ múi".
Bức ảnh này đã xuất hiện trên mạng một thời gian, nhưng phải đến tuần này, nó mới thực sự gây được sự chú ý khi nhiều trang mạng xã hội và blog của phương Tây chia sẻ lại. Trên một trang facebook, chỉ sau một tiếng đăng tải bức ảnh, đã có gần 100 nghìn lượt "thích".
Một số người Canada bình luận rằng họ cảm thấy tự hào về hình ảnh này. Một số khác bình luận hài hước: "Canada đã đi nước cờ của mình, giờ đến lượt các anh đấy, Nhật Bản" - ám chỉ tới việc người Nhật thường xuyên được đem ra làm hình mẫu cho sự lịch sự và chân thật.
"Ở nước Ý thì mọi thứ đã biến mất trong vòng một miligiây" - một người Ý cảm thán.
"Ở VN thì chẳng có thứ gì để bay"_ một thành viên TVLS khẳng định.
meoemrongchoi
08/08/2014
Thích rồi đó.
Xuất hiện bia uống không say ở TpHCM
Nghe thì khó tin, nhưng thực tế một đơn vị ở TpHCM đã cho xuất xưởng những thùng bia không cồn đầu tiên và đang được thị trường đón nhận.
Bia không cồn là thế nào? là câu hỏi mà nhiều người thắc mắc khi nghe nói. Đã là bia thì phải có cồn, uống phải có cảm giác mới thích chứ? Bia không cồn thì hương vị ra sao?
Tôi cũng vậy, khá tò mò khi lần đầu nghe đến loại bia khá lạ tai này. Tiếp chúng tôi, ông Văn Thanh Liêm - Chủ tịch HĐQT công ty Cổ phần Bia Sài Gòn - Bình Tây, đưa ra một thùng bia lon Sagota với mẫu mã giống như Sagota đang được bán trên thị trường. Chỉ khác điều trên lon có chữ “Không có cồn”.
Một đơn vị ở TpHCM đã cho xuất xưởng những thùng bia không cồn đầu tiên và đang được thị trường đón nhận.
Chúng tôi bật khui thử một lon, cũng có tiếng nổ hơi như lon bình thường, rót vào ly cũng có bọt, nước bia màu vàng của lúa mạch quyến rũ. Đặc biệt hương vị thơm của bia không hề bị mất đi, chỉ khác một điều là uống vào cảm giác nhẹ nhàng, không bị nồng lên như bia có cồn hiện nay. Và tất nhiên uống bia không cồn thì không hề bị say, nhức đầu.
Ông Văn Thanh Liêm cho biết, đây là loại bia được sản xuất từ 100% lúa mạch như những loại bia thông thường. Chỉ khác là trong quá trình sản xuất đã tách cồn ra khỏi bia nên uống không bị say, tốt cho sức khỏe, phù hợp với các đối tượng phụ nữ, người lái xe, giới thể thao…
Hiện nay công ty chỉ mới tung ra sản phẩm để thăm dò thị trường. Trong thời gian tới khi sản phẩm bia không cồn bắt đầu quen thuộc với người tiêu dùng Việt Nam thì công ty sẽ đẩy mạnh chiến dịch quảng bá đến người dân.
Không phải ngẫu nhiên công ty Cổ phần Bia Sài Gòn - Bình Tây tiên phong sản xuất bia không cồn . “Văn hóa của người Việt Nam là không thể thiếu rượu, bia trong các bữa tiệc liên hoan, cưới hỏi. Nhưng trong điều kiện ngành chức năng tăng cường kiểm soát nồng độ cồn trong máu, trong hơi thở đối với người điều khiển phương tiện giao thông; Bộ Y tế cũng đang dự thảo quy định cấm bán rượu, bia sau 22h đêm để tránh những tác hại cho sức khỏe và có thể gây mất an ninh xã hội thì bia không cồn được xem là một giải pháp hữu ích cho nhiều người”, ông Liêm nói.
Ông Liêm cho biết, cách đây hai năm, công ty CP bia Sài Gòn - Bình Tây đã nhập máy móc, thiết bị và bắt đầu nghiên cứu sản xuất bia không cồn. Quy trình sản xuất bia không cồn gần giống với bia thông thường, với đầy đủ quá trình từ ủ, nấu dịch nha, lên men. Đến đây, bia thông thường được đóng chai, lon hoặc thùng, trong lúc bia không cồn sẽ được loại bỏ cồn.
Cách phổ biến nhất là cồn được lấy khỏi bia qua hệ thống nhiệt. Do cồn có nhiệt độ sôi thấp hơn nhiều so với nước (78,390C), bia lên men được đun nóng đến nhiệt độ đó và giữ đến khi cồn bay hết trong bia.
Theo Phan Tư/ Giao thông Vận tải
Xuất hiện bia uống không say ở TpHCM
Nghe thì khó tin, nhưng thực tế một đơn vị ở TpHCM đã cho xuất xưởng những thùng bia không cồn đầu tiên và đang được thị trường đón nhận.
Bia không cồn là thế nào? là câu hỏi mà nhiều người thắc mắc khi nghe nói. Đã là bia thì phải có cồn, uống phải có cảm giác mới thích chứ? Bia không cồn thì hương vị ra sao?
Tôi cũng vậy, khá tò mò khi lần đầu nghe đến loại bia khá lạ tai này. Tiếp chúng tôi, ông Văn Thanh Liêm - Chủ tịch HĐQT công ty Cổ phần Bia Sài Gòn - Bình Tây, đưa ra một thùng bia lon Sagota với mẫu mã giống như Sagota đang được bán trên thị trường. Chỉ khác điều trên lon có chữ “Không có cồn”.
Một đơn vị ở TpHCM đã cho xuất xưởng những thùng bia không cồn đầu tiên và đang được thị trường đón nhận.
Chúng tôi bật khui thử một lon, cũng có tiếng nổ hơi như lon bình thường, rót vào ly cũng có bọt, nước bia màu vàng của lúa mạch quyến rũ. Đặc biệt hương vị thơm của bia không hề bị mất đi, chỉ khác một điều là uống vào cảm giác nhẹ nhàng, không bị nồng lên như bia có cồn hiện nay. Và tất nhiên uống bia không cồn thì không hề bị say, nhức đầu.
Ông Văn Thanh Liêm cho biết, đây là loại bia được sản xuất từ 100% lúa mạch như những loại bia thông thường. Chỉ khác là trong quá trình sản xuất đã tách cồn ra khỏi bia nên uống không bị say, tốt cho sức khỏe, phù hợp với các đối tượng phụ nữ, người lái xe, giới thể thao…
Hiện nay công ty chỉ mới tung ra sản phẩm để thăm dò thị trường. Trong thời gian tới khi sản phẩm bia không cồn bắt đầu quen thuộc với người tiêu dùng Việt Nam thì công ty sẽ đẩy mạnh chiến dịch quảng bá đến người dân.
Không phải ngẫu nhiên công ty Cổ phần Bia Sài Gòn - Bình Tây tiên phong sản xuất bia không cồn . “Văn hóa của người Việt Nam là không thể thiếu rượu, bia trong các bữa tiệc liên hoan, cưới hỏi. Nhưng trong điều kiện ngành chức năng tăng cường kiểm soát nồng độ cồn trong máu, trong hơi thở đối với người điều khiển phương tiện giao thông; Bộ Y tế cũng đang dự thảo quy định cấm bán rượu, bia sau 22h đêm để tránh những tác hại cho sức khỏe và có thể gây mất an ninh xã hội thì bia không cồn được xem là một giải pháp hữu ích cho nhiều người”, ông Liêm nói.
Ông Liêm cho biết, cách đây hai năm, công ty CP bia Sài Gòn - Bình Tây đã nhập máy móc, thiết bị và bắt đầu nghiên cứu sản xuất bia không cồn. Quy trình sản xuất bia không cồn gần giống với bia thông thường, với đầy đủ quá trình từ ủ, nấu dịch nha, lên men. Đến đây, bia thông thường được đóng chai, lon hoặc thùng, trong lúc bia không cồn sẽ được loại bỏ cồn.
Cách phổ biến nhất là cồn được lấy khỏi bia qua hệ thống nhiệt. Do cồn có nhiệt độ sôi thấp hơn nhiều so với nước (78,390C), bia lên men được đun nóng đến nhiệt độ đó và giữ đến khi cồn bay hết trong bia.
Theo Phan Tư/ Giao thông Vận tải
pth77
09/08/2014
Nỗi ám ảnh của quá khứ
GS Trần Quốc Vượng
Tạm bỏ qua một bên mọi sự “giải thích”, nào đổ tội cho phong kiến đế quốc, thực dân, bành trướng, thiên tai, địch họa, chiến tranh, cách mạng; nào viện dẫn sai lầm chủ quan của những người cầm nắm vận mệnh quốc gia mấy chục năm qua, v.v… tình trạng ấy là không bình thường, gây nên một bức xúc tâm lý, một nỗi đau thân thể, một nhức nhối thân xác và tâm linh, buộc KẺ SĨ và NGƯỜI DÂN, vừa gian khổ kiếm sống, vừa suy nghĩ đêm ngày, tìm cách khắc phục và vượt qua tình trạng tủi nhục này…
Có ĐỘC LẬP rồi chăng, nhưng hoạ LỆ THUỘC vẫn luôn luôn mai phục, cả về mô hình chính trị và sự phát triển kinh tế…
Có THỐNG NHẤT rồi chăng, nhưng mầm CHIA RẼ mọc rễ sâu xa, nào Bắc / Nam, nào Cộng sản / không Cộng sản…
Điều chắc chắn, là NHÂN DÂN chưa có HẠNH PHÚC, TỰ DO thực sự.
Với biết bao hệ lụy của một cuộc chiến kéo dài, buộc ràng tới 3 thế hệ người Việt Nam (và rất nhiều quốc gia liên đới), lạ một điều (mà sao lại là lạ nhỉ ?), là từ “người thua” đến “kẻ thắng”, giờ đây, ai ai cũng mang một mặc cảm hoành đoạt (complexe de frustration), nói nôm na mà MẤT MÁT.
Trước hết là NGƯỜI DÂN THƯỜNG.
Người ra đi hàng triệu, bỏ xác ngoài biển khơi hàng ngàn, vạn, biết bao em gái ta, chị ta, cả mẹ ta nữa… bị kẻ hải tặc khốn kiếp dày vò làm nhục!
Chưa nói đến của cải, ai còn sống thì đều cảm thấy mất quê hương!
Người ở lại, hàng chục triệu nông dân bỗng dưng cảm thấy mất đất, không có quyền tự do hành xử trên “mảnh đất ông bà”, trong khuôn viên do chính tay mình tạo dựng; hàng triệu công nhân mất việc, thất nghiệp hay bị kém sử dụng (sous-emploi), sống ngất ngư, lây lất qua ngày…
Trí thức, thì tản mác, bị lãng phí thảm hại, trừ một số rất ít kẻ xu thời (đời nào chẳng có?), người nào cũng cảm thấy mất tự do tư tưởng và sáng tạo.
Một tình trạng như thế, chỉ có lợi cho lũ gian manh. Một cuộc “đổi đời” kỳ cục như thế, mà nếu cứ nhất định muốn gọi nó, muốn gọi đó, là “cách mạng”, thì là một cuộc cách mạng đã mất phương hướng. Phương hướng là cái tiêu ngữ trên mỗi đầu trang giấy, từ sau Tháng Tám 1945: ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC.
Cho nên phải nghĩ lại, phải bình tâm mà nghĩ lại, nói theo thời thượng từ giữa thập kỷ 80, là phải ĐỔI MỚI TƯ DUY.
Tư duy là công việc của mỗi CON NGƯỜI, vì về bản chất, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức và vì có tư duy, có ý thức mà được / phải có quyền tự do lựa chọn mô hình hành động, cho chính mình (tự do cá nhân), cho chính cộng đồng mình (nhà mình, làng mình, nước mình…) và phải / được chịu trách nhiệm về chính sự lựa chọn đó.
Tôi rất thân và rất quí Nguyễn Huy Thiệp, hẳn thế, nhưng chính vì thế mà tôi không thể nào đồng ý với anh khi anh trả lời phỏng vấn báo Libération là “Tôi đã sống như một con thú“. Con thú làm sao mà biết viết, biết in “Tướng về hưu”, “Phẩm tiết”…?
Lẽ tất nhiên là tôi hiểu cái “ý tại ngôn ngoại” của anh: Cái mặt bằng kinh tế xã hội của một Việt Nam hiện nay trên đó “anh phải sống”, sự ràng buộc của “cơ chế”? v.v…
Tôi nhớ lại, ngày 12/01/1983, trong buổi họp kỷ niệm 40 năm ra đời “Đề cương Văn hoá Việt Nam”, ông Trường Chinh (tác giả chính của cái “Đề cương” đó) đã nói với các “nhà khoa học xã hội” Việt Nam: “Nếu không có một điều kiện tối thiểu về vật chất để sinh sống thì con người có thể trở thành con thú! ”
Điều đó chẳng có gì mới lạ, vì bằng kinh nghiệm nghiệm sinh, nhiều nhà trí thức chúng tôi đã nghĩ và nói thế từ lâu. Điều mới và lạ, là cho đến tận lúc ấy, một vị lãnh đạo cao cấp của đảng Cộng sản Việt Nam mới nói ra như thế!
Mà con người, nhất là người trí thức Việt Nam, đâu chỉ đói rét vì miếng cơm manh áo? Đói tự do tư tưởng cũng có thể trở thành con thú!
Vì con thú, như con trâu, con bò, dù có no cỏ thì cũng chỉ biết theo đuôi! Theo đuôi con đầu đàn!
Bao năm qua, có biết bao con người Việt Nam chỉ biết theo đuổi kẻ cầm quyền, hoặc khốn khổ thay, là chỉ được theo đuôi người lãnh đạo và lại được “khen” là “có ý thức tổ chức, kỷ luật” và vì vậy được vào Đảng, được “đề bạt” làm kẻ “cầm quyền” bậc sơ trung cấp, để, nói cho cùng, cũng chỉ thành kẻ “chấp hành”, “thừa hành”, nhưng có được chút “quyền”: Dối trên và nịnh trên, lừa dưới và nạt dưới!
Tôi nhớ lại, khoảng mười năm trước đây, một người học trò và là bạn trẻ của tôi, trước khi đi Nga làm luận án Phó tiến sĩ sử học, trong buổi “tiệc bia” tiễn biệt thầy trò, bè bạn, đã ngỏ với tôi lời “khuyên” tâm sự: – Nếu như thày mà cũng “đầu hàng cơ chế” nữa là bọn em mất nhờ đấy!
Anh ấy ở Nga 4 năm, về nước với bằng xanh phó tiến sĩ, thẻ đỏ đảng viên và, gia nhập “cơ chế”, trở thành “người lãnh đạo” của tôi hôm nay! Tôi chẳng buồn mà cũng chẳng vui. Tôi chọn lựa cho mình một hướng đi: Gia nhập “Câu lạc bộ những người thích đùa”. Tôi thường nói đùa như người Hà Nội vẫn thường đùa, anh ấy:- Cậu là đảng viên nhưng mà tốt!,
Câu nói đùa, mà “nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào” và hơn nữa, với câu nói ấy, có thể bị “quy chụp” là “phản động”.
Tôi có một anh bạn, phải nói là rất thân, học với nhau từ thuở “hàn vi”, lại cũng làm việc dưới một mái trường Đại học trên ba chục năm trường, cùng “leo thang” rất chậm, từ “tập sự trợ lý” đến full professor, chair-department. Anh là con “quan lớn”, em của “nguỵ lớn” nhưng “có đức có tài”, được chọn làm “hàng mẫu không bán – kiểu như ông Bùi Tín vừa làm ồn ào giới truyền thông một dạo, nhưng khác ông ta là cho đến nay anh không gửi “kiến nghị” kiến nghiếc gì, nói năng với TRÊN, với DUỚI bao giờ cũng “chừng mực”, chẳng “theo đuôi” mà cũng chẳng là “dissident” của chế độ.
Anh thường bảo tôi: Thì về cơ bản cũng nghĩ như cậu thôi. Nhưng cậu thông cảm, mỗi người một tính một nết, một hoàn cảnh. Cậu “thành phần tốt”, ăn nói táo tợn thì quá lắm người ta chỉ bảo cậu là “bất mãn cá nhân” thôi. Tớ “thành phần xấu”, ăn nói bằng 1/10 cậu thôi cũng đủ bị “quy” là “phản ứng giai cấp” rồi!
O.K.! Anh cứ sống kiểu anh, tôi cứ sống kiểu tôi. Chỉ có mỗi một điều thôi, là vì vậy và vì nhiều lý do sâu xa khác nữa, nên nước ta chỉ có những nhà trí thức (intellectuals) chứ không có giới trí thức (intelligentsia).
Vậy thua thiệt thì Dân ráng chịu!
Bi kịch, nỗi bất hạnh của trí thức Việt Nam, của nước Việt Nam là ở đó…
Xem chừng bà con Việt kiều, nhất là anh chị em “trí thức”, bực mình với ông lắm.
Tôi là “trí thức” ở trong nước, ở Hà Nội nữa, nghe những lời lẽ ấy “quen tai” rồi. Cũng ông ấy, lúc còn làm “Bí thư thành uỷ” Hà Nội, khi thấy báo “Quân Đội Nhân Dân” 1987 công bố “Bức thư ngỏ gửi ông chủ tịch thành phố Hà Nội” của tôi, nói về việc “Phá hoại các di tích lịch sử của Thủ đô” đã cho triệu tôi lên trụ sở Thành uỷ và “thân mật” bảo ban 2 điều:
- Nếu anh là công nhân, anh nói (nôm na, tục tằn) kiểu đó tôi còn hiểu được, đằng này anh là giáo sư, là trí thức, sao lại nói (nôm na, “toạc móng heo, treo móng giò”) kiểu đó ?
- Nếu anh nói thế, “tôi” thì “tôi” nghe được, nhưng những “người khác”, họ không nghe được! Từ nay anh nên “thay đổi” cái “giọng nói” của anh đi!
Tôi cũng “trả lại ông” 2 điều:
- Đảng bảo: “Trí thức là của Công Nông và cũng là Công Nông”, vậy nếu công nhân – theo ông – nói được như vậy thì trí thức cũng nói được như vậy. Có gì (theo ông) là khác nhau giữa giọng “trí thức” và giọng “công nhân” ?
- Ông không khác gì người khác. Nếu theo ông, ông “nghe được” vậy thì người khác cũng phải nghe được. Vậy tôi chả việc gì phải “đổi giọng” cả!
Thực ra, tôi biết thừa cái “giọng tôi” chính ông nghe không được nên ông mới “góp ý” cho tôi, nhưng ông lại cố tình đổ cho là người khác nghe không được. Hơn nữa ông lại cố tách “tôi” ra khỏi công nhân, “đề cao” tôi là “trí thức”, để chỉ cốt răn dạy tôi: Với vị thế của anh, anh không được ăn nói với chúng tôi (những nhà lãnh đạo) bằng cái giọng như vậy!
Bà xã tôi lúc ấy còn sống và là giáo viên trường Trung học Trưng Vương nổi danh ở Hà Nội – nghe tin tôi được / bị phải gọi lên thành uỷ, lấy làm lo lắng lắm, bảo tôi (“giọng” bà ấy bao giờ cũng vậy, con gái nhà “tư sản Hà Nội” mà): – Anh lên đấy, liệu mà ăn mà nói! Anh có sao, chỉ khổ vợ con! Chùa Một Cột có bị phá để làm Bảo tàng Lăng Bác, nếu có hại thì hại cả nước, đâu dính gì đến riêng anh mà anh cứ “la làng” lên, một con én chẳng làm nổi mùa xuân, “ăn cái giải gì” mà cứ nói, chỉ khổ vào thân; có cái giấy Úc mời sang kỷ niệm 200 năm nước “nó” đấy, khéo các “bố” ấy lại không cho đi, vợ con lại mất nhờ.
Ôi, làm “thằng người Việt Nam”, làm “trí thức Việt Nam” biết bao là “hệ luỵ”.
Tôi đưa chuyện HỌC TRÒ, BÈ BẠN, VỢ CON dàn trải trên mặt giấy đâu phải để “nói xấu” họ, nhất là nói về vợ tôi (nay đã mất, cầu cho linh hồn bà ấy tiêu diêu miền cực lạc) mà trong tâm khảm tôi, bao giờ tôi cũng cảm thấy mình xấu tính hơn bè bạn – vợ con – học trò. Tôi chỉ muốn nói về thân phận trí thức ở cái nước Việt Nam mang cái nhãn hiệu Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa mà thực ra là còn đang rất kém phát triển này: Ông uỷ viên Bộ chính trị ấy, kiêm bí thư Trung ương này, kiêm bí thư thành phố này… ai chả nghĩ là ông ấy cộng sản hơn ai hết nhưng thực ra thì ứng xử của ông ấy từ Hà Nội đến Paris lại “gia trưởng”, “nho giáo cuối mùa” hơn ai hết!
Khổ vậy đó, Cho nên giáo sư Alexander Woodside, từ góc trời tây bắc của xứ tuyết Canada mới hạ một câu về cách mạng Việt Nam: “The spiritual and cultural milieu from which the vietnamese revolution sprang was both confucian and comunist” (Cái môi trường tâm linh và văn hoá mà từ đấy cách mạng Việt Nam phóng tới là cả Khổng Nho và Cộng sản).
Ông đi làm chuyên gia ở Tây Phi, thương một người con gái Hà Nội nhà nghèo vì chiến tranh mà lưu lạc mãi sang tận bờ sông Niger. Ông quyết đưa người phụ nữ bất hạnh đó trở về Tổ quốc chỉ bằng cách kết hôn với nhau, dù ông biết trước rằng hành động dấn thân ấy ông sẽ phải về nước trước thời hạn.
Và cho đến 25 năm sau, ông không bao giờ được ra nước ngoài, dù ông, không có bất cứ một hành vi gì phạm pháp. Cái án được phán quyết không theo “Luật hôn nhân và gia đình” của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành năm 1960, mà là theo đạo lý hủ Nho.
Về nước năm 1965, qua ngã Moscow, ông dừng chân ở đó 5 ngày, về Hà Nội gặp tôi ở quán cà phê Sính, ông rỉ tai tôi: “Chế độ Xô Viết không thể nào viable” (nguyên văn có nghĩa: không thể “thọ” được).
Đấy là lời tiên tri đúng trước 1/4 thế kỷ!
Vì sao NƯỚC và ĐẢNG có những người trí thức giỏi đến thế mà bây giờ cả NƯỚC, cả ĐẢNG đều lâm vào tình huống “khủng hoảng toàn diện”?
Từ năm 1965, cứ mỗi lần nghe thấy lời khuyến dụ tôi vào Đảng, ông lại bảo tôi: – Tùy ông đấy, nhưng… nếu ông có vào thì đừng để người ta đuổi ông ra! Ông biết kỷ luật của Đảng ông là “kỷ luật sắt” mà tôi thì ông cũng biết quá rõ tôi là người “tự do”, tính ưa phóng khoáng, là người “bất cơ” (không chịu ràng buộc) theo chữ dùng để đánh giá mình của nhà sử gia họ Tư Mã bên Tàu!
Tôi hỏi ý kiến ông về tính chất Cách mạng Việt Nam. Ông trả lời: Cụ Hồ bảo nước mình là một nước nông nghiệp, dân tộc mình là một dân tộc nông dân. Cứ đấy mà suy, thì cuộc “Cách mạng” bây giờ hẳn vẫn là một cuộc khởi nghĩa nông dân.
Khác chăng là trước, khởi nghĩa nông dân do một số nhà nho xuất thân nông dân như Quận He, như Cao Bá Quát cầm đầu, bây giờ là do những người cộng sản cũng xuất thân ở nông thôn và có căn tính nhà nho, như cụ Hồ, như ông Trường Chinh… lãnh đạo. Ông đọc bài ông Nguyễn Khắc Viện rồi chứ, “Confucianisme et Marxisme” (La Pensée, No 105, Octobre 1962). Ông Viện là cộng sản và là con cụ nghè Nguyễn Khắc Niệm đấy!
Đầu thế kỷ XX, trong xã hội yêu nước vẫn âm ỉ một chủ nghĩa yêu nước xóm làng (village patriotism, chữ của Alexander Woodside). Yêu nước chống Pháp kiểu Nho của cụ Phan Bội Châu thất bại ở 2 thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Và dòng trí thức Nho gia tàn lụi.
Một số con cháu nhà Nho, một số con cháu nông dân, một số con cháu nhà công thương mới trở thành lớp trí thức Tây học. Một số ấy chấp nhận le fait colonial và trở thành công chức cho Tây, như ông cụ ông là kỹ sư canh nông, như ông cụ tôi là bác sĩ…
Một số khác, yêu nước hơn, mong áp dụng ở Việt Nam những lý tưởng Mác-Lê thế kỷ XIX. Cái chủ nghĩa quốc gia của kiểu tư sản mà ông Nguyễn Thái Học, ông Xứ Nhu, kể cả cậu ruột ông đã khởi xướng ở Việt Nam Quốc dân đảng thì đã bị thực dân vùi dập khủng bố tan hoang từ thập kỷ 30. Còn lại cái chủ nghĩa quốc tế của Mác-Lê mà Nguyễn Ái Quốc và những nhà cộng sản mang về áp dụng vào một xã hội nông dân châu Á nghèo khổ, khác hẳn cơ địa xã hội tư sản Tây Âu, nơi hình thành chủ nghĩa Marxisme. Người cộng sản Việt Nam có căn tính nông dân – Nho giáo đã gần Dân hơn người tiểu tư sản Tây học ở thành thị. Họ đã vận động và tổ chức được phong trào nông dân và toàn dân đánh Pháp, đuổi Nhật, làm cách mạng tháng Tám thành công. Kháng chiến là sự nối dài của Cách mạng tháng Tám.
Kháng chiến đã thắng lợi. Chủ nghĩa thực dân phương Tây đã bị hóa giải.
Dưới thời Quân chủ – Nông dân – Nho giáo, ở Viễn Đông, có một ước mơ ĐẠI ĐỒNG. “Thế giới ĐẠI ĐỒNG, thiên hạ vi CÔNG”.
Ở đầu thập kỷ 20, trong một bài viết, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cái chủ nghĩa ĐẠI ĐỒNG của Khổng Nho ấy rất gần với chủ nghĩa Cộng sản.
Alexander Woodside nhận xét: Ông Mao phê phán rất dữ dằn Khổng Nho còn ông Hồ rất nhẹ nhàng với Nho Khổng.
Xây “đời sống mới” năm 1946, ông Hồ nêu khẩu hiệu của Nho Khổng: CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH CHÍ CÔNG VÔ TƯ. Dạy đạo đức cho cán bộ, ông Hồ lấy câu Nho Tống: “Tiên ưu hậu lạc”. Về giáo dục xã hội, ông cũng dùng câu có sẵn của Khổng Mạnh, đại loại như “Bất hoạn bần nhi hoạn bất quân…” (Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng…) hay là “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, v.v… và v.v…
Đến di chúc, ông cũng đưa vào một câu trích dẫn của Đỗ Phủ đời Đường: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Thơ chữ Hán của ông, có nhiều câu, ý phỏng theo Đường thi…
Nhưng cái mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Stalin hay kiểu Mao (Staline Mao hoá) dù đã ít nhiều Hồ hoá, Việt Nam hoá cũng tỏ ra không thành công trước thực tiễn “bướng bỉnh” của một nước Việt Nam nhỏ bé – tiểu nông.
Người Cộng sản Việt Nam đã lầm khi tưởng rằng dù với cơ cấu kỹ thuật cũ, ít thay đổi, cứ làm đại việc công hữu hoá (quốc hữu hoá, tập thể hoá, hợp tác hoá…) thì vẫn xoá bỏ được áp bức bóc lột, cải tạo xã hổi chủ nghĩa thành công. Hoá ra là một công thức đơn giản hơn:
CÔNG HỮU HOÁ + CHUYÊN CHÍNH (VÔ SẢN) = (QUÁ ĐỘ sang) CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Tôi và ông Từ Chi bàn mãi về chuyện này. Sau thời công xã nguyên thuỷ, chế độ áp bức bóc lột đầu tiên nảy sinh ở đất Việt với chế độ “thủ lĩnh địa phương”, lang đạo, phìa tạo (tiếng Anh tạm dịch là local chieftains) khi ruộng đất còn gần như y nguyên là “của công”, nhưng “dân đen” là tiểu nông tản mạn, còn thủ lĩnh giữ quyền “thế tập” theo dòng máu.
Dân gian nói giản dị:
Trống làng ai đánh thì thùng
Của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng!
Thì giờ đây, ruộng hợp tác, của kho hợp tác, bọn bí thư, chủ nhiệm, kiểm soát đều ở trong một cơ sở Đảng chuyên chính, chúng sẽ “vẫy vùng” thành riêng thôi!
Ba năm liền từ 1976 đến 1979, tôi đi Định Công (Thanh Hoá), ngày- khảo cổ ,đêm- khảo kim. Và 3 ngày liền cuối năm 79, tôi thuyết trình trước Tỉnh ủy Thanh Hóa về sự phá sản của mô hình làng Định Công (người ta tuyên bố “Định Công hóa” toàn tỉnh Thanh Hóa, với bài báo tràng giang “Bài học Định Công” của Bí thư Trung ương Tố Hữu). Thính giả cứ bỏ dần trước sự “vắng mặt” của Bí thư, Phó bí thư Tỉnh uỷ (người ta phải “nhìn Trên” để định thế ứng xử). Còn một ông thường vụ phụ trách tuyên huấn kiên trì nghe 3 ngày, để sau này khi Định Công phá sản hoàn toàn, đã khoa trương tuyên bố, chứng tỏ ta đây sáng suốt hơn các nhà lãnh đạo khác:
- “Lúc bấy giờ (79), ai dám nghe Trần Quốc Vượng nói, ngoài tôi?” (ông ấy bây giờ là Bí thư Đảng uỷ Bộ Văn hoá – Thông tin).
Năm 1982 tôi đi Liên Xô thuyết trình khoa học. Bài viết của tôi bằng tiếng Việt, Dương Tường dịch sang tiếng Anh, Từ Chi dịch sang tiếng Pháp, bà Nona Nguyễn Tài Cẩn dịch sang tiếng Nga. Bà Nona bảo: Bài của anh hay lắm, nhưng thuyết trình ở Paris thì hợp hơn, nói với trí thức nước tôi (Liên Xô), họ không hoan nghênh đâu! Mà quả nhiên!
Về nước, tôi briefing cho bạn bè nghe về Liên Xô và nói lén qua hơi men: “Dứt khoát hỏng!” Và đấy là lần duy nhất tôi “được” đi Liên Xô. Đầu năm 1983, giáo sư Phạm Huy Thông cho đăng bài của tôi lên trang đầu Tập san Khảo cổ học. Đảng uỷ Uỷ ban Khoa học Xã hội viết bản báo cáo dài lên ban Tuyên huấn Trung ương quy kết tôi 4 tội:
- Chống chủ nghĩa Mác-Lê: vì tôi bảo: Công hữu hoá có thể đẻ ra bóc lột.
- Chống công nghiệp hoá: vì tôi bảo: Nông nghiệp phải / còn là mặt trận sản xuất hàng đầu.
- Chống đấu tranh giai cấp: vì tôi bảo: Nông dân khởi nghĩa (ngay cả ăn cướp) cũng không đánh vào người làng, mà chủ yếu đi cướp nơi khác và đánh vào Quan.
- Chống chuyên chính vô sản: vì tôi bảo: Chuyên quyền đẻ ra tham nhũng.
Vụ án “văn tự” này kéo dài 3 năm, không có kết luận. Ba năm tôi được “ngồi nhà”, khỏi đi Tây và nói tiếng Tây! Cuối năm 86, khi Đại hội VI đảng Cộng sản Việt Nam kết luận lại trong nghị quyết là Nông nghiệp là “mặt trận hàng đầu”, giáo sư Phạm mỉa mai ở trụ sở Uỷ ban Khoa học Xã hội: Thế bây giờ Đảng uỷ đúng hay Trần Quốc Vượng đúng ?
Nhưng “nỗi ám ảnh của quá khứ” vẫn không tha người làm Sử như tôi (mà nói theo nhà Phật thì kiếp này còn là “quả” của kiếp trước kia mà). Năm 1985, nhân năm “quốc tế người già”, ông Nguyễn Hữu Thọ nhờ người nói tôi viết bài “Truyền thống người già Việt Nam”. Báo Đại Đoàn Kết của ông không “đoàn kết” nổi bài của tôi, tôi nhờ báo Tổ Quốc của ông Nguyễn Xiển đăng dùm. Rồi năm 1986 có hội Khoẻ Phù Đổng của đoàn Thanh Niên, ông Bí thư Thanh Niên nhờ tôi viết bài “Phù Đổng khoẻ”. Mùa hè nóng bỏng 86, trước Đại hội VI 5 tháng, ông Bí thư Trung ương Đảng phụ trách tư tưởng H.T. đem hai bài của tôi ra “chửi bới” giữa Hội nghị mở rộng Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam, đề bạt Nguyễn Khắc Viện, Trần Quốc Vượng, Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng là 4 trí thức chống đối.
Ông Giàu, thầy học cũ của tôi, đâm thư kiện. Ông H.T. biên thư trả lời (tôi còn giữ làm “chứng từ thanh toán”) bảo: Tôi không động đến anh, tôi chỉ động đến Trần Quốc Vượng, vì anh ta viết “Các vua Trần nhường ngôi” ám chỉ đòi chúng tôi rút lui, và viết “Thánh Gióng bay lên trời” ám thị chúng tôi đánh giặc xong còn cứ ngồi lại giành quyền vị…!
Khốn khổ, vì sao các ông ấy cứ “mỗi lời là một vận vào khó nghe” như vậy? Hay là tại dân gian “nói cạnh” các cụ: Có tật giật mình?
Xã hội Việt Nam truyền thống cũ có nhiều nét hay, vẻ đẹp nên ở cạnh nước lớn, bị xâm lăng, đô hộ, đè nén hàng ngàn năm vẫn trỗi dậy phục hưng dân tộc, “trở thành chính mình”. Nhưng xã hội quân chủ – nông dân – nho giáo từ sau thế kỷ XV có nhiều “khuyết tật trong cấu trúc” – nói theo các nhà khoa học hôm nay:
Ở trong NHÀ thì có thỏi GIA TRƯỞNG, tuy tâm niệm “con hơn cha là nhà có phúc” mà vẫn không thích “ngựa non háu đá”, “trứng khôn hơn vịt”.
Ở trong LÀNG thì có nạn CƯỜNG HÀO, với tinh thần ngôi thứ, chiếu trên, chiếu dưới, “miếng giữa làng hơn sàng xó bếp”.
Ở trong VÙNG thì có nạn SỨ QUÂN, thủ lĩnh vùng thích “nghênh ngang một cõi”, gặp dịp là sẵn sàng “rạch đôi sơn hà”.
Ở cả NƯỚC thì có nạn QUAN LIÊU, quan tham nhũng, tân quan tân chính sách, luật không bằng lệ, kiện thì cứ kiện nhưng “chờ được vạ má đã sưng”, nên chỉ cứng đầu thì dại, “không ngoan” nhất là “luồn cúi”. Và trí thức “lớn” thì cũng tự an ủi “gặp thời thế thế thời phải thế”.
Vì ngoài thì “bế môn toả cảng”, trong thì “chuyên quyền độc đoán”, cho nên sĩ khí ắt phải bạc nhược.
Thế giới giờ đây thay đổi đã nhiều. Song, trong nước mình thì chưa đổi được bao nhiêu. “Nỗi ám ảnh của Quá khứ” vẫn còn đè nặng.
Chỉ còn một cách để “đổi đời” cho DÂN, cho NƯỚC: Đó là xây dựng một chế độ dân chủ, một nhà nước pháp quyền, một nền kinh tế công – nông – nghiệp với thị trường tự do, một tư tưởng cởi mở, rộng dung, khoáng đạt, tự do, một nền văn hoá đa dạng, giữ cho được bản sắc tốt đẹp của dân tộc nhưng biết hoà nhập với thế giới, với nhân gian…
Tóm một chữ thì không phải là chữ “ĐẤU” mà là chữ “HÒA”: HÒA BÌNH, HÒA HỢP, HÒA THUẬN, HÒA GIẢI…
Chẳng những NHÂN HÒA mà cả NHIÊN HÒA (hoà hợp với thiên nhiên, tự nhiên)
“Hoà nhi bất đồng”… mong lắm thay!
Cornell 01/5/1991
© Gốc Sậy 2013
GS Trần Quốc Vượng
Nước Việt Nam ta hiện là một quốc gia kém phát triển về mọi mặt, vừa lạc hậu, vừa lạc điệu với một thế giới nhìn chung đã và đang phát triển rất nhanh, đặc biệt từ nửa sau thế kỷ XX.
Tạm bỏ qua một bên mọi sự “giải thích”, nào đổ tội cho phong kiến đế quốc, thực dân, bành trướng, thiên tai, địch họa, chiến tranh, cách mạng; nào viện dẫn sai lầm chủ quan của những người cầm nắm vận mệnh quốc gia mấy chục năm qua, v.v… tình trạng ấy là không bình thường, gây nên một bức xúc tâm lý, một nỗi đau thân thể, một nhức nhối thân xác và tâm linh, buộc KẺ SĨ và NGƯỜI DÂN, vừa gian khổ kiếm sống, vừa suy nghĩ đêm ngày, tìm cách khắc phục và vượt qua tình trạng tủi nhục này…
Có ĐỘC LẬP rồi chăng, nhưng hoạ LỆ THUỘC vẫn luôn luôn mai phục, cả về mô hình chính trị và sự phát triển kinh tế…
Có THỐNG NHẤT rồi chăng, nhưng mầm CHIA RẼ mọc rễ sâu xa, nào Bắc / Nam, nào Cộng sản / không Cộng sản…
Điều chắc chắn, là NHÂN DÂN chưa có HẠNH PHÚC, TỰ DO thực sự.
Với biết bao hệ lụy của một cuộc chiến kéo dài, buộc ràng tới 3 thế hệ người Việt Nam (và rất nhiều quốc gia liên đới), lạ một điều (mà sao lại là lạ nhỉ ?), là từ “người thua” đến “kẻ thắng”, giờ đây, ai ai cũng mang một mặc cảm hoành đoạt (complexe de frustration), nói nôm na mà MẤT MÁT.
Trước hết là NGƯỜI DÂN THƯỜNG.
Người ra đi hàng triệu, bỏ xác ngoài biển khơi hàng ngàn, vạn, biết bao em gái ta, chị ta, cả mẹ ta nữa… bị kẻ hải tặc khốn kiếp dày vò làm nhục!
Chưa nói đến của cải, ai còn sống thì đều cảm thấy mất quê hương!
Người ở lại, hàng chục triệu nông dân bỗng dưng cảm thấy mất đất, không có quyền tự do hành xử trên “mảnh đất ông bà”, trong khuôn viên do chính tay mình tạo dựng; hàng triệu công nhân mất việc, thất nghiệp hay bị kém sử dụng (sous-emploi), sống ngất ngư, lây lất qua ngày…
Trí thức, thì tản mác, bị lãng phí thảm hại, trừ một số rất ít kẻ xu thời (đời nào chẳng có?), người nào cũng cảm thấy mất tự do tư tưởng và sáng tạo.
Một tình trạng như thế, chỉ có lợi cho lũ gian manh. Một cuộc “đổi đời” kỳ cục như thế, mà nếu cứ nhất định muốn gọi nó, muốn gọi đó, là “cách mạng”, thì là một cuộc cách mạng đã mất phương hướng. Phương hướng là cái tiêu ngữ trên mỗi đầu trang giấy, từ sau Tháng Tám 1945: ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC.
Cho nên phải nghĩ lại, phải bình tâm mà nghĩ lại, nói theo thời thượng từ giữa thập kỷ 80, là phải ĐỔI MỚI TƯ DUY.
Tư duy là công việc của mỗi CON NGƯỜI, vì về bản chất, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức và vì có tư duy, có ý thức mà được / phải có quyền tự do lựa chọn mô hình hành động, cho chính mình (tự do cá nhân), cho chính cộng đồng mình (nhà mình, làng mình, nước mình…) và phải / được chịu trách nhiệm về chính sự lựa chọn đó.
Tôi rất thân và rất quí Nguyễn Huy Thiệp, hẳn thế, nhưng chính vì thế mà tôi không thể nào đồng ý với anh khi anh trả lời phỏng vấn báo Libération là “Tôi đã sống như một con thú“. Con thú làm sao mà biết viết, biết in “Tướng về hưu”, “Phẩm tiết”…?
Lẽ tất nhiên là tôi hiểu cái “ý tại ngôn ngoại” của anh: Cái mặt bằng kinh tế xã hội của một Việt Nam hiện nay trên đó “anh phải sống”, sự ràng buộc của “cơ chế”? v.v…
Tôi nhớ lại, ngày 12/01/1983, trong buổi họp kỷ niệm 40 năm ra đời “Đề cương Văn hoá Việt Nam”, ông Trường Chinh (tác giả chính của cái “Đề cương” đó) đã nói với các “nhà khoa học xã hội” Việt Nam: “Nếu không có một điều kiện tối thiểu về vật chất để sinh sống thì con người có thể trở thành con thú! ”
Điều đó chẳng có gì mới lạ, vì bằng kinh nghiệm nghiệm sinh, nhiều nhà trí thức chúng tôi đã nghĩ và nói thế từ lâu. Điều mới và lạ, là cho đến tận lúc ấy, một vị lãnh đạo cao cấp của đảng Cộng sản Việt Nam mới nói ra như thế!
Mà con người, nhất là người trí thức Việt Nam, đâu chỉ đói rét vì miếng cơm manh áo? Đói tự do tư tưởng cũng có thể trở thành con thú!
Vì con thú, như con trâu, con bò, dù có no cỏ thì cũng chỉ biết theo đuôi! Theo đuôi con đầu đàn!
Bao năm qua, có biết bao con người Việt Nam chỉ biết theo đuổi kẻ cầm quyền, hoặc khốn khổ thay, là chỉ được theo đuôi người lãnh đạo và lại được “khen” là “có ý thức tổ chức, kỷ luật” và vì vậy được vào Đảng, được “đề bạt” làm kẻ “cầm quyền” bậc sơ trung cấp, để, nói cho cùng, cũng chỉ thành kẻ “chấp hành”, “thừa hành”, nhưng có được chút “quyền”: Dối trên và nịnh trên, lừa dưới và nạt dưới!
Tôi nhớ lại, khoảng mười năm trước đây, một người học trò và là bạn trẻ của tôi, trước khi đi Nga làm luận án Phó tiến sĩ sử học, trong buổi “tiệc bia” tiễn biệt thầy trò, bè bạn, đã ngỏ với tôi lời “khuyên” tâm sự: – Nếu như thày mà cũng “đầu hàng cơ chế” nữa là bọn em mất nhờ đấy!
Anh ấy ở Nga 4 năm, về nước với bằng xanh phó tiến sĩ, thẻ đỏ đảng viên và, gia nhập “cơ chế”, trở thành “người lãnh đạo” của tôi hôm nay! Tôi chẳng buồn mà cũng chẳng vui. Tôi chọn lựa cho mình một hướng đi: Gia nhập “Câu lạc bộ những người thích đùa”. Tôi thường nói đùa như người Hà Nội vẫn thường đùa, anh ấy:- Cậu là đảng viên nhưng mà tốt!,
Câu nói đùa, mà “nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào” và hơn nữa, với câu nói ấy, có thể bị “quy chụp” là “phản động”.
Tôi có một anh bạn, phải nói là rất thân, học với nhau từ thuở “hàn vi”, lại cũng làm việc dưới một mái trường Đại học trên ba chục năm trường, cùng “leo thang” rất chậm, từ “tập sự trợ lý” đến full professor, chair-department. Anh là con “quan lớn”, em của “nguỵ lớn” nhưng “có đức có tài”, được chọn làm “hàng mẫu không bán – kiểu như ông Bùi Tín vừa làm ồn ào giới truyền thông một dạo, nhưng khác ông ta là cho đến nay anh không gửi “kiến nghị” kiến nghiếc gì, nói năng với TRÊN, với DUỚI bao giờ cũng “chừng mực”, chẳng “theo đuôi” mà cũng chẳng là “dissident” của chế độ.
Anh thường bảo tôi: Thì về cơ bản cũng nghĩ như cậu thôi. Nhưng cậu thông cảm, mỗi người một tính một nết, một hoàn cảnh. Cậu “thành phần tốt”, ăn nói táo tợn thì quá lắm người ta chỉ bảo cậu là “bất mãn cá nhân” thôi. Tớ “thành phần xấu”, ăn nói bằng 1/10 cậu thôi cũng đủ bị “quy” là “phản ứng giai cấp” rồi!
O.K.! Anh cứ sống kiểu anh, tôi cứ sống kiểu tôi. Chỉ có mỗi một điều thôi, là vì vậy và vì nhiều lý do sâu xa khác nữa, nên nước ta chỉ có những nhà trí thức (intellectuals) chứ không có giới trí thức (intelligentsia).
Vậy thua thiệt thì Dân ráng chịu!
Bi kịch, nỗi bất hạnh của trí thức Việt Nam, của nước Việt Nam là ở đó…
*
* *
Báo Đoàn Kết của một cộng đồng người Việt Nam bên Pháp đưa tin: Vào cuối năm ngoái (1990), có một ông uỷ viên Bộ chính trị kiêm bí thư thường trực Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam, nhân sang Paris dự Đại hội đảng Cộng sản Pháp, có tập hợp Việt kiều lại để nói chuyện. Trong khoảng 2 tiếng, ông chỉ “nói” mà không “nghe”, lại còn bảo: “Sống ở nước ngoài, biết gì chuyện trong nước, tuổi 40-50 trở xuống (nghĩa là vào hạng tuổi con cháu ông) biết gì mà góp ý kiến!“
Xem chừng bà con Việt kiều, nhất là anh chị em “trí thức”, bực mình với ông lắm.
Tôi là “trí thức” ở trong nước, ở Hà Nội nữa, nghe những lời lẽ ấy “quen tai” rồi. Cũng ông ấy, lúc còn làm “Bí thư thành uỷ” Hà Nội, khi thấy báo “Quân Đội Nhân Dân” 1987 công bố “Bức thư ngỏ gửi ông chủ tịch thành phố Hà Nội” của tôi, nói về việc “Phá hoại các di tích lịch sử của Thủ đô” đã cho triệu tôi lên trụ sở Thành uỷ và “thân mật” bảo ban 2 điều:
- Nếu anh là công nhân, anh nói (nôm na, tục tằn) kiểu đó tôi còn hiểu được, đằng này anh là giáo sư, là trí thức, sao lại nói (nôm na, “toạc móng heo, treo móng giò”) kiểu đó ?
- Nếu anh nói thế, “tôi” thì “tôi” nghe được, nhưng những “người khác”, họ không nghe được! Từ nay anh nên “thay đổi” cái “giọng nói” của anh đi!
Tôi cũng “trả lại ông” 2 điều:
- Đảng bảo: “Trí thức là của Công Nông và cũng là Công Nông”, vậy nếu công nhân – theo ông – nói được như vậy thì trí thức cũng nói được như vậy. Có gì (theo ông) là khác nhau giữa giọng “trí thức” và giọng “công nhân” ?
- Ông không khác gì người khác. Nếu theo ông, ông “nghe được” vậy thì người khác cũng phải nghe được. Vậy tôi chả việc gì phải “đổi giọng” cả!
Thực ra, tôi biết thừa cái “giọng tôi” chính ông nghe không được nên ông mới “góp ý” cho tôi, nhưng ông lại cố tình đổ cho là người khác nghe không được. Hơn nữa ông lại cố tách “tôi” ra khỏi công nhân, “đề cao” tôi là “trí thức”, để chỉ cốt răn dạy tôi: Với vị thế của anh, anh không được ăn nói với chúng tôi (những nhà lãnh đạo) bằng cái giọng như vậy!
Bà xã tôi lúc ấy còn sống và là giáo viên trường Trung học Trưng Vương nổi danh ở Hà Nội – nghe tin tôi được / bị phải gọi lên thành uỷ, lấy làm lo lắng lắm, bảo tôi (“giọng” bà ấy bao giờ cũng vậy, con gái nhà “tư sản Hà Nội” mà): – Anh lên đấy, liệu mà ăn mà nói! Anh có sao, chỉ khổ vợ con! Chùa Một Cột có bị phá để làm Bảo tàng Lăng Bác, nếu có hại thì hại cả nước, đâu dính gì đến riêng anh mà anh cứ “la làng” lên, một con én chẳng làm nổi mùa xuân, “ăn cái giải gì” mà cứ nói, chỉ khổ vào thân; có cái giấy Úc mời sang kỷ niệm 200 năm nước “nó” đấy, khéo các “bố” ấy lại không cho đi, vợ con lại mất nhờ.
Ôi, làm “thằng người Việt Nam”, làm “trí thức Việt Nam” biết bao là “hệ luỵ”.
Tôi đưa chuyện HỌC TRÒ, BÈ BẠN, VỢ CON dàn trải trên mặt giấy đâu phải để “nói xấu” họ, nhất là nói về vợ tôi (nay đã mất, cầu cho linh hồn bà ấy tiêu diêu miền cực lạc) mà trong tâm khảm tôi, bao giờ tôi cũng cảm thấy mình xấu tính hơn bè bạn – vợ con – học trò. Tôi chỉ muốn nói về thân phận trí thức ở cái nước Việt Nam mang cái nhãn hiệu Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa mà thực ra là còn đang rất kém phát triển này: Ông uỷ viên Bộ chính trị ấy, kiêm bí thư Trung ương này, kiêm bí thư thành phố này… ai chả nghĩ là ông ấy cộng sản hơn ai hết nhưng thực ra thì ứng xử của ông ấy từ Hà Nội đến Paris lại “gia trưởng”, “nho giáo cuối mùa” hơn ai hết!
Khổ vậy đó, Cho nên giáo sư Alexander Woodside, từ góc trời tây bắc của xứ tuyết Canada mới hạ một câu về cách mạng Việt Nam: “The spiritual and cultural milieu from which the vietnamese revolution sprang was both confucian and comunist” (Cái môi trường tâm linh và văn hoá mà từ đấy cách mạng Việt Nam phóng tới là cả Khổng Nho và Cộng sản).
*
* *
Ông giáo sư Từ Chi một trong những bạn bè thân thiết của tôi từ một “cậu Tú” ở Huế đi Nam tiến ngay sau ngày 23/9/1945 và trở thành cộng sản, rồi năm 1954 trở về học đại học để trở thành một nhà dân tộc học.
Ông đi làm chuyên gia ở Tây Phi, thương một người con gái Hà Nội nhà nghèo vì chiến tranh mà lưu lạc mãi sang tận bờ sông Niger. Ông quyết đưa người phụ nữ bất hạnh đó trở về Tổ quốc chỉ bằng cách kết hôn với nhau, dù ông biết trước rằng hành động dấn thân ấy ông sẽ phải về nước trước thời hạn.
Và cho đến 25 năm sau, ông không bao giờ được ra nước ngoài, dù ông, không có bất cứ một hành vi gì phạm pháp. Cái án được phán quyết không theo “Luật hôn nhân và gia đình” của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành năm 1960, mà là theo đạo lý hủ Nho.
Về nước năm 1965, qua ngã Moscow, ông dừng chân ở đó 5 ngày, về Hà Nội gặp tôi ở quán cà phê Sính, ông rỉ tai tôi: “Chế độ Xô Viết không thể nào viable” (nguyên văn có nghĩa: không thể “thọ” được).
Đấy là lời tiên tri đúng trước 1/4 thế kỷ!
Vì sao NƯỚC và ĐẢNG có những người trí thức giỏi đến thế mà bây giờ cả NƯỚC, cả ĐẢNG đều lâm vào tình huống “khủng hoảng toàn diện”?
Từ năm 1965, cứ mỗi lần nghe thấy lời khuyến dụ tôi vào Đảng, ông lại bảo tôi: – Tùy ông đấy, nhưng… nếu ông có vào thì đừng để người ta đuổi ông ra! Ông biết kỷ luật của Đảng ông là “kỷ luật sắt” mà tôi thì ông cũng biết quá rõ tôi là người “tự do”, tính ưa phóng khoáng, là người “bất cơ” (không chịu ràng buộc) theo chữ dùng để đánh giá mình của nhà sử gia họ Tư Mã bên Tàu!
Tôi hỏi ý kiến ông về tính chất Cách mạng Việt Nam. Ông trả lời: Cụ Hồ bảo nước mình là một nước nông nghiệp, dân tộc mình là một dân tộc nông dân. Cứ đấy mà suy, thì cuộc “Cách mạng” bây giờ hẳn vẫn là một cuộc khởi nghĩa nông dân.
Khác chăng là trước, khởi nghĩa nông dân do một số nhà nho xuất thân nông dân như Quận He, như Cao Bá Quát cầm đầu, bây giờ là do những người cộng sản cũng xuất thân ở nông thôn và có căn tính nhà nho, như cụ Hồ, như ông Trường Chinh… lãnh đạo. Ông đọc bài ông Nguyễn Khắc Viện rồi chứ, “Confucianisme et Marxisme” (La Pensée, No 105, Octobre 1962). Ông Viện là cộng sản và là con cụ nghè Nguyễn Khắc Niệm đấy!
Đầu thế kỷ XX, trong xã hội yêu nước vẫn âm ỉ một chủ nghĩa yêu nước xóm làng (village patriotism, chữ của Alexander Woodside). Yêu nước chống Pháp kiểu Nho của cụ Phan Bội Châu thất bại ở 2 thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Và dòng trí thức Nho gia tàn lụi.
Một số con cháu nhà Nho, một số con cháu nông dân, một số con cháu nhà công thương mới trở thành lớp trí thức Tây học. Một số ấy chấp nhận le fait colonial và trở thành công chức cho Tây, như ông cụ ông là kỹ sư canh nông, như ông cụ tôi là bác sĩ…
Một số khác, yêu nước hơn, mong áp dụng ở Việt Nam những lý tưởng Mác-Lê thế kỷ XIX. Cái chủ nghĩa quốc gia của kiểu tư sản mà ông Nguyễn Thái Học, ông Xứ Nhu, kể cả cậu ruột ông đã khởi xướng ở Việt Nam Quốc dân đảng thì đã bị thực dân vùi dập khủng bố tan hoang từ thập kỷ 30. Còn lại cái chủ nghĩa quốc tế của Mác-Lê mà Nguyễn Ái Quốc và những nhà cộng sản mang về áp dụng vào một xã hội nông dân châu Á nghèo khổ, khác hẳn cơ địa xã hội tư sản Tây Âu, nơi hình thành chủ nghĩa Marxisme. Người cộng sản Việt Nam có căn tính nông dân – Nho giáo đã gần Dân hơn người tiểu tư sản Tây học ở thành thị. Họ đã vận động và tổ chức được phong trào nông dân và toàn dân đánh Pháp, đuổi Nhật, làm cách mạng tháng Tám thành công. Kháng chiến là sự nối dài của Cách mạng tháng Tám.
Kháng chiến đã thắng lợi. Chủ nghĩa thực dân phương Tây đã bị hóa giải.
*
* *
Dưới thời Quân chủ – Nông dân – Nho giáo, ở Viễn Đông, có một ước mơ ĐẠI ĐỒNG. “Thế giới ĐẠI ĐỒNG, thiên hạ vi CÔNG”.
Ở đầu thập kỷ 20, trong một bài viết, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cái chủ nghĩa ĐẠI ĐỒNG của Khổng Nho ấy rất gần với chủ nghĩa Cộng sản.
Alexander Woodside nhận xét: Ông Mao phê phán rất dữ dằn Khổng Nho còn ông Hồ rất nhẹ nhàng với Nho Khổng.
Xây “đời sống mới” năm 1946, ông Hồ nêu khẩu hiệu của Nho Khổng: CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH CHÍ CÔNG VÔ TƯ. Dạy đạo đức cho cán bộ, ông Hồ lấy câu Nho Tống: “Tiên ưu hậu lạc”. Về giáo dục xã hội, ông cũng dùng câu có sẵn của Khổng Mạnh, đại loại như “Bất hoạn bần nhi hoạn bất quân…” (Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng…) hay là “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, v.v… và v.v…
Đến di chúc, ông cũng đưa vào một câu trích dẫn của Đỗ Phủ đời Đường: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Thơ chữ Hán của ông, có nhiều câu, ý phỏng theo Đường thi…
Nhưng cái mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Stalin hay kiểu Mao (Staline Mao hoá) dù đã ít nhiều Hồ hoá, Việt Nam hoá cũng tỏ ra không thành công trước thực tiễn “bướng bỉnh” của một nước Việt Nam nhỏ bé – tiểu nông.
Người Cộng sản Việt Nam đã lầm khi tưởng rằng dù với cơ cấu kỹ thuật cũ, ít thay đổi, cứ làm đại việc công hữu hoá (quốc hữu hoá, tập thể hoá, hợp tác hoá…) thì vẫn xoá bỏ được áp bức bóc lột, cải tạo xã hổi chủ nghĩa thành công. Hoá ra là một công thức đơn giản hơn:
CÔNG HỮU HOÁ + CHUYÊN CHÍNH (VÔ SẢN) = (QUÁ ĐỘ sang) CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Tôi và ông Từ Chi bàn mãi về chuyện này. Sau thời công xã nguyên thuỷ, chế độ áp bức bóc lột đầu tiên nảy sinh ở đất Việt với chế độ “thủ lĩnh địa phương”, lang đạo, phìa tạo (tiếng Anh tạm dịch là local chieftains) khi ruộng đất còn gần như y nguyên là “của công”, nhưng “dân đen” là tiểu nông tản mạn, còn thủ lĩnh giữ quyền “thế tập” theo dòng máu.
Dân gian nói giản dị:
Trống làng ai đánh thì thùng
Của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng!
Thì giờ đây, ruộng hợp tác, của kho hợp tác, bọn bí thư, chủ nhiệm, kiểm soát đều ở trong một cơ sở Đảng chuyên chính, chúng sẽ “vẫy vùng” thành riêng thôi!
Ba năm liền từ 1976 đến 1979, tôi đi Định Công (Thanh Hoá), ngày- khảo cổ ,đêm- khảo kim. Và 3 ngày liền cuối năm 79, tôi thuyết trình trước Tỉnh ủy Thanh Hóa về sự phá sản của mô hình làng Định Công (người ta tuyên bố “Định Công hóa” toàn tỉnh Thanh Hóa, với bài báo tràng giang “Bài học Định Công” của Bí thư Trung ương Tố Hữu). Thính giả cứ bỏ dần trước sự “vắng mặt” của Bí thư, Phó bí thư Tỉnh uỷ (người ta phải “nhìn Trên” để định thế ứng xử). Còn một ông thường vụ phụ trách tuyên huấn kiên trì nghe 3 ngày, để sau này khi Định Công phá sản hoàn toàn, đã khoa trương tuyên bố, chứng tỏ ta đây sáng suốt hơn các nhà lãnh đạo khác:
- “Lúc bấy giờ (79), ai dám nghe Trần Quốc Vượng nói, ngoài tôi?” (ông ấy bây giờ là Bí thư Đảng uỷ Bộ Văn hoá – Thông tin).
Năm 1982 tôi đi Liên Xô thuyết trình khoa học. Bài viết của tôi bằng tiếng Việt, Dương Tường dịch sang tiếng Anh, Từ Chi dịch sang tiếng Pháp, bà Nona Nguyễn Tài Cẩn dịch sang tiếng Nga. Bà Nona bảo: Bài của anh hay lắm, nhưng thuyết trình ở Paris thì hợp hơn, nói với trí thức nước tôi (Liên Xô), họ không hoan nghênh đâu! Mà quả nhiên!
Về nước, tôi briefing cho bạn bè nghe về Liên Xô và nói lén qua hơi men: “Dứt khoát hỏng!” Và đấy là lần duy nhất tôi “được” đi Liên Xô. Đầu năm 1983, giáo sư Phạm Huy Thông cho đăng bài của tôi lên trang đầu Tập san Khảo cổ học. Đảng uỷ Uỷ ban Khoa học Xã hội viết bản báo cáo dài lên ban Tuyên huấn Trung ương quy kết tôi 4 tội:
- Chống chủ nghĩa Mác-Lê: vì tôi bảo: Công hữu hoá có thể đẻ ra bóc lột.
- Chống công nghiệp hoá: vì tôi bảo: Nông nghiệp phải / còn là mặt trận sản xuất hàng đầu.
- Chống đấu tranh giai cấp: vì tôi bảo: Nông dân khởi nghĩa (ngay cả ăn cướp) cũng không đánh vào người làng, mà chủ yếu đi cướp nơi khác và đánh vào Quan.
- Chống chuyên chính vô sản: vì tôi bảo: Chuyên quyền đẻ ra tham nhũng.
Vụ án “văn tự” này kéo dài 3 năm, không có kết luận. Ba năm tôi được “ngồi nhà”, khỏi đi Tây và nói tiếng Tây! Cuối năm 86, khi Đại hội VI đảng Cộng sản Việt Nam kết luận lại trong nghị quyết là Nông nghiệp là “mặt trận hàng đầu”, giáo sư Phạm mỉa mai ở trụ sở Uỷ ban Khoa học Xã hội: Thế bây giờ Đảng uỷ đúng hay Trần Quốc Vượng đúng ?
Nhưng “nỗi ám ảnh của quá khứ” vẫn không tha người làm Sử như tôi (mà nói theo nhà Phật thì kiếp này còn là “quả” của kiếp trước kia mà). Năm 1985, nhân năm “quốc tế người già”, ông Nguyễn Hữu Thọ nhờ người nói tôi viết bài “Truyền thống người già Việt Nam”. Báo Đại Đoàn Kết của ông không “đoàn kết” nổi bài của tôi, tôi nhờ báo Tổ Quốc của ông Nguyễn Xiển đăng dùm. Rồi năm 1986 có hội Khoẻ Phù Đổng của đoàn Thanh Niên, ông Bí thư Thanh Niên nhờ tôi viết bài “Phù Đổng khoẻ”. Mùa hè nóng bỏng 86, trước Đại hội VI 5 tháng, ông Bí thư Trung ương Đảng phụ trách tư tưởng H.T. đem hai bài của tôi ra “chửi bới” giữa Hội nghị mở rộng Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam, đề bạt Nguyễn Khắc Viện, Trần Quốc Vượng, Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng là 4 trí thức chống đối.
Ông Giàu, thầy học cũ của tôi, đâm thư kiện. Ông H.T. biên thư trả lời (tôi còn giữ làm “chứng từ thanh toán”) bảo: Tôi không động đến anh, tôi chỉ động đến Trần Quốc Vượng, vì anh ta viết “Các vua Trần nhường ngôi” ám chỉ đòi chúng tôi rút lui, và viết “Thánh Gióng bay lên trời” ám thị chúng tôi đánh giặc xong còn cứ ngồi lại giành quyền vị…!
Khốn khổ, vì sao các ông ấy cứ “mỗi lời là một vận vào khó nghe” như vậy? Hay là tại dân gian “nói cạnh” các cụ: Có tật giật mình?
*
* *
Xã hội Việt Nam truyền thống cũ có nhiều nét hay, vẻ đẹp nên ở cạnh nước lớn, bị xâm lăng, đô hộ, đè nén hàng ngàn năm vẫn trỗi dậy phục hưng dân tộc, “trở thành chính mình”. Nhưng xã hội quân chủ – nông dân – nho giáo từ sau thế kỷ XV có nhiều “khuyết tật trong cấu trúc” – nói theo các nhà khoa học hôm nay:
Ở trong NHÀ thì có thỏi GIA TRƯỞNG, tuy tâm niệm “con hơn cha là nhà có phúc” mà vẫn không thích “ngựa non háu đá”, “trứng khôn hơn vịt”.
Ở trong LÀNG thì có nạn CƯỜNG HÀO, với tinh thần ngôi thứ, chiếu trên, chiếu dưới, “miếng giữa làng hơn sàng xó bếp”.
Ở trong VÙNG thì có nạn SỨ QUÂN, thủ lĩnh vùng thích “nghênh ngang một cõi”, gặp dịp là sẵn sàng “rạch đôi sơn hà”.
Ở cả NƯỚC thì có nạn QUAN LIÊU, quan tham nhũng, tân quan tân chính sách, luật không bằng lệ, kiện thì cứ kiện nhưng “chờ được vạ má đã sưng”, nên chỉ cứng đầu thì dại, “không ngoan” nhất là “luồn cúi”. Và trí thức “lớn” thì cũng tự an ủi “gặp thời thế thế thời phải thế”.
Vì ngoài thì “bế môn toả cảng”, trong thì “chuyên quyền độc đoán”, cho nên sĩ khí ắt phải bạc nhược.
Thế giới giờ đây thay đổi đã nhiều. Song, trong nước mình thì chưa đổi được bao nhiêu. “Nỗi ám ảnh của Quá khứ” vẫn còn đè nặng.
Chỉ còn một cách để “đổi đời” cho DÂN, cho NƯỚC: Đó là xây dựng một chế độ dân chủ, một nhà nước pháp quyền, một nền kinh tế công – nông – nghiệp với thị trường tự do, một tư tưởng cởi mở, rộng dung, khoáng đạt, tự do, một nền văn hoá đa dạng, giữ cho được bản sắc tốt đẹp của dân tộc nhưng biết hoà nhập với thế giới, với nhân gian…
Tóm một chữ thì không phải là chữ “ĐẤU” mà là chữ “HÒA”: HÒA BÌNH, HÒA HỢP, HÒA THUẬN, HÒA GIẢI…
Chẳng những NHÂN HÒA mà cả NHIÊN HÒA (hoà hợp với thiên nhiên, tự nhiên)
“Hoà nhi bất đồng”… mong lắm thay!
Cornell 01/5/1991
© Gốc Sậy 2013
Mrgio
09/08/2014
đã là bia và rượu uống phải phê mới uống chứ uông ko phê thì uống làm gì , mua chai mutri boost về uống ( tôi hay uống chai này ) , khi phê có thể sống với đúng bản ngã con người mình , thế mới sướng , chứ uống ko phê ko có cảm giác thì chả ai uống làm gì vì bia hay rượu nếu theo cảm nhận thì luôn đắng cay ... nhưng cái đắng cay pha cồn thì nó như một liều thuốc ngủ giúp quên đi nỗi muộn phiền .
secretsoflife
09/08/2014
KimCa
09/08/2014
KimCa
09/08/2014
Yêu Kẻ Thù
Mục sư đang khuyên giải tín đồ cai rượu: "Rượu khiến cho gia đình bất hòa, rượu khiến anh mắt sạch bạn bè, rượu làm công việc của anh bế tắc và quan trọng hơn là rượu tạo nên những tổn thất nghiêm trọng đối với sức khỏe. Có thể nói rượu là kẻ thù lớn nhất của đời anh."
Tên bợm nhậu kia đáp lại ngay: "Thưa mục sư, nhưng con thực hiện đúng điều ngài khuyên con!"
Mục sư ngạc nhiên: "Anh nói sao?"
Bợm nhậu: "Người thường bảo phải yêu thương kẻ thù của mình, có không?"
Mục sư đang khuyên giải tín đồ cai rượu: "Rượu khiến cho gia đình bất hòa, rượu khiến anh mắt sạch bạn bè, rượu làm công việc của anh bế tắc và quan trọng hơn là rượu tạo nên những tổn thất nghiêm trọng đối với sức khỏe. Có thể nói rượu là kẻ thù lớn nhất của đời anh."
Tên bợm nhậu kia đáp lại ngay: "Thưa mục sư, nhưng con thực hiện đúng điều ngài khuyên con!"
Mục sư ngạc nhiên: "Anh nói sao?"
Bợm nhậu: "Người thường bảo phải yêu thương kẻ thù của mình, có không?"
meoemrongchoi
09/08/2014
Đường kách mệnh từ khi tôi đã biết, bước chân vô là phải chịu rượu chè.
ttL
09/08/2014
pth77, on 08/08/2014 - 10:15, said:
Nỗi ám ảnh của quá khứ
GS Trần Quốc Vượng
Nước đổ đầu vịt lên những vấn nạn XH và thời đại,một trí thức trăn trở nhưng tự mình cũng đắm trong ma trận ,trách chi chú ma không có cảm giác.
hãy xem thầy Bốn Ma trong vân xoay XH và giấc mơ lèm thầy thông thầy Ký ở Sè Gòn thế kỷ 21 đang thành.
Sắp tới chính quyền sẽ giải quyêt các chính sách mới về lương,hưu, cho ng của chế độ,bác nào gia đình bị quên hãy biết cách lên tiếng..
Bốn ma nghĩa Bá môn(nhiều cửa,tạp môn) hay là 4Ma (for Ma),anh bói tên cho chú Ma nha.
Sửa bởi ttL: 09/08/2014 - 14:06
Nỗi ám ảnh của quá khứ
GS Trần Quốc Vượng
Nước đổ đầu vịt lên những vấn nạn XH và thời đại,một trí thức trăn trở nhưng tự mình cũng đắm trong ma trận ,trách chi chú ma không có cảm giác.
hãy xem thầy Bốn Ma trong vân xoay XH và giấc mơ lèm thầy thông thầy Ký ở Sè Gòn thế kỷ 21 đang thành.
Sắp tới chính quyền sẽ giải quyêt các chính sách mới về lương,hưu, cho ng của chế độ,bác nào gia đình bị quên hãy biết cách lên tiếng..
Bốn ma nghĩa Bá môn(nhiều cửa,tạp môn) hay là 4Ma (for Ma),anh bói tên cho chú Ma nha.
Sửa bởi ttL: 09/08/2014 - 14:06
pth77
09/08/2014
Gần đây, báo chí và những người trên mạng chỉ trích lẫn nhau, và phê phán những người trẻ khá nhiều về chuyện vô cảm, vô tâm, thờ ơ với thời cuộc, người xung quanh, xã hội. Họ nói như thể đấy là một đặc tính cố hữu của người Việt Nam, và cũng như mọi khi, chỉ trích chỉ để mà chỉ trích, tức là không phân tích tại sao lại như thế, cũng không nói phải làm thế nào để thay đổi. Tất cả cứ như một dàn đồng ca, thi nhau xỉa xói rằng người Việt vô tâm, người Việt lạnh lùng đến tàn bạo. Các bác người lớn đĩnh đạc trong nhà nước thì thường nói, giới trẻ ngày nay biến thái, vô cảm vì ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, của văn hóa phương tây, của các trang mạng xã hội độc hại, những câu các bác lải nhải bao nhiêu năm qua mà có khi cũng chẳng hiểu mình đang nói gì. Bản chất của cái việc phê bình mà không đưa ra nguyên do đấy khiến mình khó chịu không kém việc phải chứng kiến những biểu hiện của việc vô cảm kia.
Theo mình thì việc người ta thờ ơ, không dám lên tiếng khi chứng kiến cái xấu, không dám quan tâm khi nhìn thấy người bị nạn, bịt mắt trước những tổn thương của người khác, có mấy nguyên do thế này.
Thứ nhất, ngay từ bé, người ta đã không được phép quan tâm. Một đứa trẻ dám hỏi những câu mà cô giáo không biết sẽ bị quát bắt ngồi xuống, thay vì được khuyến khích hỏi tiếp. Một đứa trẻ dám thắc mắc khi nhìn thấy người lớn đưa bó hoa kẹp phong bì sẽ bị kéo đi, thay vì được trả lời. Có quá nhiều thứ một đứa trẻ lớn lên ở thành phố trong xã hội Việt Nam hiện đại (đối tượng bị phê phán chủ yếu, mấy người nông dân làm ruộng hoặc công nhân may chảy máu ngón tay có thấy bị chê là vô cảm bao giờ đâu), phải học cách hiểu và chấp nhận trong im lặng.
Từ cấp một lên cấp ba, mình bao nhiêu lần phải ngồi chép mỏi tay những bài thi tìm hiểu pháp luật, tìm hiểu Đoàn gì gì đó đơợc phát động mà không hiểu tí gì mình đang chép, chỉ biết là phải nộp cho xong. Rồi một đứa làm chi đội trưởng, liên đội trưởng, trong Đội Thiếu Niên Tiền Phong (đội ngũ kế cận của Đoàn, tức đội hậu bị của Đảng) cũng biết cách bịa đặt từ bé để ghi vào sổ những buổi sinh hoạt chi đội không diễn ra. Lúc đầu cô tổng phụ trách đọc cho viết, sau này đã quen thì tự bịa ra dựa vào các tháng trước. Tất cả những việc không đúng sự thật đó diễn ra như nước thấm dần, có thể đứa trẻ cắc cớ hỏi một hai lần, nhưng rồi nó cũng sẽ nhanh chóng học được cách im lặng. Mà để im lặng trước những điều không hiểu, không hợp lý, thì người ta phải lờ đi, phải giả như không biết, không nghĩ đến, lâu dần sẽ quen.
Đó là chưa kể sức ép phải giống như mọi người của một xã hội đã hàng nghìn năm vận động theo mô hình làng bản, tức là “lệ làng” là quyền uy tối thượng. “Phép vua” – tức là pháp luật quy chuẩn của nhà nước phải thua, thì tất nhiên cái tôi cá nhân bị đè bẹp dúm. Nếu lệ làng là nhìn thấy người ăn xin phải quay mặt đi, xua tay, thì ai không làm như thế sẽ bị coi là kỳ dị. Lệ làng là đi ngoài đường phải chen vào bất cứ khoảng trống nào, nếu không chen mà cứ nhường thì sẽ chôn chân mãi ở một chỗ. Mình nhớ hồi mới từ Canada về, quen thói lịch sự giữ cửa cho mọi người qua, không những không có ai nói câu cảm ơn mà tất cả mọi người cắm đầu đi qua, mình cứ đứng giữ mãi cuối cùng đành bỏ ra để cắm đầu đi giống mọi người.
Cũng là hồi mới về, mình hay có cảm giác khá khó chịu là thấy mọi người như đang di chuyển trong một quả bóng trong suốt, không ai tchạm vào ai. Có lẽ cảm giác đấy đến từ quá nhiều những xét nét (đi xe đạp thì sẽ không dám vào cửa hàng mua quần áo, mặc quần ngố thì không dám vào cửa hàng buffet) mà mọi người phải giữ kẽ để sống cho đúng khuôn khổ của nhau, và từ việc không ai dám quan tâm đến những điều có vẻ khác thường.
Nguyên nhân thứ hai của sự vô cảm (vô thưởng vô phạt) là do thiếu thông tin. Những thông tin đáng bàn nhất, đáng để gây tranh cãi nhất, đáng lẽ ở nước khác có thể gây ra bao nhiêu cuộc bút chiến hay khẩu chiến sâu sắc, thì ở nước ta đều bị bưng bít. Ví dụ như chẳng ai được phép nói về việc dân ở chỗ này chỗ kia đang khởi kiện chính quyền vì thu đất không đúng, dân đang vật vã bệnh tật vì nhà máy sản xuất xả chất thải công nghiệp vào nguồn nước mà kêu không ai xử lý, dân bị đàn áp, dân bị mất mùa vì tính toán sai của những doanh nghiệp thu mua nguyên liệu nhà nước, dân đánh cá đang bị Trung Quốc bắn tỉa.
Tất cả những vấn đề không thể được nói đến đó đương nhiên tạo ra một khoảng trống lớn trên báo đài, và những cơ quan này lại phải lấp vào bằng những tin chẳng ảnh hưởng đến ai, những vụ việc mà dù có đấu khẩu hăng hái cỡ nào cũng không gây nguy hại cho nhà cầm quyền. Nào là ngực to ngực khủng, thằng bé này tí tuổi mà hợm hĩnh, con bé kia dám viết sách bịa đặt, anh ca sĩ nọ diễn trò trên sân khấu. Người dân bị dắt mũi bởi truyền thông, cũng cứ thế là đâm đầu vào bới móc, mổ xẻ, hăng hái tranh đấu vì ý kiến của mình, trong khi những tin tức thật sự cần tranh luận, phản biện, thì hoàn toàn vắng bóng.
Sự bưng bít thông tin này, mà thường là những thông tin đa chiều, dẫn đến việc người dân không có khả năng và thói quen nghĩ ngược lại với những gì mình được dạy, hay còn gọi là tư duy phản biện. Chính vì không thể nghĩ ngược, nên khi gặp cái gì không quen, họ không nghĩ, ngại nghĩ, sợ nghĩ, vì thế lảng tránh để khỏi phải nghĩ. Sự vô cảm là thói quen, vì từ bé đã không được dạy cách lên tiếng, cách thể hiện suy nghĩ cá nhân, và cũng là kết quả của sự bất lực, vì không biết làm thế nào để suy nghĩ độc lập. Vì các thông tin đều phập phù như thế, biết hay không biết cũng chẳng ảnh hưởng gì đến tình hình xã hội, hôm nay có thằng bé to mồm này để dân tình chửi bới thì mai phải có con bé ngu xuẩn khác để bà con lên án cho xôm.
Mình rất thích TED, nhưng khi TED về đến Việt Nam, tất nhiên không dám vơ đũa cả nắm, nhưng qua những video youtube mình xem các bạn quay lại các sự kiện đã tổ chức, thì mình khá thất vọng. TED ở Việt Nam không khác gì những sự kiện diễn thuyết các bạn trẻ tổ chức, mời một số người nổi tiếng nói những bài dài lê thê, không có trọng tâm, thậm chí nhạt nhẽo. Mình cứ tự hỏi nếu những người, tạm coi là có tầm ảnh hưởng đến công chúng, được quyền nói những thông tin có thể làm ảnh hưởng đến uy tín của nhà nước, mà không bị kiểm duyệt, được bàn luận về những cái xấu và cái tốt của bộ máy cầm quyền một cách tự do, được đưa ra chính kiến của họ mà không bị bỏ tù, thì liệu các bạn trẻ đang lắng nghe hau háu kia có học được cách suy nghĩ độc lập và nhìn sự việc từ nhiều phía, để từ đó bớt vô cảm hơn được không?
Cuối cùng, nguyên nhân gốc rễ của cả hai nguyên nhân trên, mình nghĩ là do thể chế chính trị. Nếu có sự đối thoại trong nhà nước, thì cũng sẽ có sự đối thoại trong nhân dân. Nếu người dân cảm thấy rằng họ có quyền chất vấn, và thật sự có khả năng xoay chuyển tình thế, họ sẽ quan tâm nhiều hơn. Những nước phương Tây người dân của họ phê phán chính phủ rất nhiều, họ sẵn sàng phản đối khi có điều gì không vừa lòng, tại sao nước họ vẫn mạnh, vẫn giàu? Còn ở nước mình, quyền phê phán của người dân chỉ gói gọn trong mấy bộ ngực và mấy nhân vật vô thưởng vô phạt, mỗi lần túm được vụ việc nào là báo chí không chịu để nguôi ít nhất vài tuần vì có thứ để giật ***, câu view; thì nước vẫn yếu, vẫn nghèo?
Mình không tin có cái gọi là “tính cách cố hữu” của người Việt Nam. Mọi thứ là do thể chế và cách tổ chức xã hội mà ra. Như Hàn Quốc và Triều Tiên, cùng một dân tộc, tiếng nói, văn hóa, tại sao một nước giàu có thịnh vượng, một nước nghèo dân đói đến mức phải ăn thịt người? Những sự bất lực, thờ ơ, vô tâm, đều có căn nguyên sâu xa của nó. Bạn mình bảo cứ về Việt Nam là thấy không khí ngột ngạt và bi quan, thấy người ta không chịu hành động, chỉ ngồi một chỗ than thở và nêu ra các lý do mình không thể làm được cái mình muốn. Ở một xã hội không khuyến khích sự khác biệt và tính phản kháng, mọi người khuyên nhau “lo cho cái thân mình yên ấm đã” hoặc tự nhủ “có cố cũng chẳng khác được gì, con vua rồi lại làm vua.”. Chẳng phải chính Marx, người mà đi vào phòng họp của các UBND đều thấy đang ngồi sừng sững trên bệ, đã viết là “không có mâu thuẫn thì không có phát triển” sao?
Mâu thuẫn bị bóp chết, thành ra cái gì cũng xam xám, nhờ nhờ, trôi đi vô nghĩa, kể cả những người đang sống trong xã hội này.
Via
pth77
09/08/2014
Café sáng thứ 7 (#37): Tháng bảy cô hồn
1. Tháng bảy là tháng cô hồn. Cần-lao An-nam vẫn luôn tâm niệm vậy.
Không biết có phải ma xui quỷ khiến trong tháng cô hồn, mà nhiều vụ giết/chết người đã xảy ra với tính chất chung là rất nghiêm trọng và man rợ, mặc dù nguyên nhân thì khác nhau.
Chỉ mấy ngày đầu tuần, rất nhiều vụ giết người và những cái chết bất thường được báo chí đăng tải. Ngay gần trụ sở của Bộ công an (đường Hoàng Quốc Việt, Hà Nội), một người đàn ông ngồi trong ôtô bị đâm thủng tim và chết. Ở Thanh Hà (Hải Dương), một ác tử nhẫn tâm giết 4 người trong gia đình và đã tự tử trong… trại giam. Một thanh niên ở Đình Bảng (Bắc Ninh) bị chết ở tư thế cổ nằm ngửa, nghe nói trước đó có nhặt được 2 bao tải tiền. Một cặp vợ chồng chủ cửa hàng ắc-quy chết bất thường trong nhà ở Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc). Một người đàn ông chết trong tư thế quỳ gối ở Yên Viên (Hà Nội). Xác một phụ nữ đang phân hủy trong phòng trọ ở Cà Mau chưa rõ nguyên nhân. Nạn nhân thứ 3 trong vụ cuồng sát người nhà vợ ở Tiền Giang cũng đã chết trong bệnh viện. Một xe ôm ở bệnh viện Chợ Rẫy (Tp.H.C.M) bị cắt cổ chết ở một bãi đất trống. Ở Đà Nẵng một nam thanh niên nhảy cầu Thuận Phước tự tử. 3 học sinh tiểu học bị chết đuối ở biển Quỳnh Lưu (Nghệ An). Ở Tuyên Quang, một người vi phạm giao thông tử vong (chưa rõ bị CSGT đánh hay tự ngã?).
Đó mới là những vụ việc mà người viết tập hợp nhanh trên báo mạng trong mấy ngày đầu tuần. Và chưa tính đến các vụ chết người do tai nạn giao thông. Theo thống kê của UBATGTQG, chỉ riêng 3 ngày đầu tuần (4/8-6/8) đã có tới 83 người chết, 124 người bị thương do TNGT.
Có lẽ bất cứ ai đọc những dòng thông tin này cũng cảm thấy rùng mình và bất an. Bởi lẽ, những cái chết đến với cần-lao rất muôn hình vạn trạng, ở bất cứ đâu và bất cứ thời gian nào. Từ TNGT đến những va chạm xích mích trên đường, từ mâu thuẫn trong tiền bạc, tình ái đến cùng quẫn mà tự tử.
Trong 23 ngày giao tranh ở dải Gaza (8/7-30/7), theo số liệu công bố của Văn phòng điều phối các vấn đề nhân đạo của LHQ (OCHA) có 1.118 người chết, trong đó có 827 thường dân (trung bình 48 người chết mỗi ngày). An-nam không có chiến tranh, nhưng ngày nào cũng hiến cho tử thần gần 30 người.
Mới thấy, mạng người ở An-nam rất mong manh và rẻ mạt.
2. Cơ quan cảnh sát điều tra đã khởi tố vụ án mua bán trẻ em ở chùa Bồ Đề (Gia Lâm, Hà Nội), 2 đối tượng liên quan là đã bị bắt phục vụ cho công tác điều tra. Trụ trì chùa Bồ Đề cũng bị mời làm việc với cơ quan chức năng.
Trên thế giới, việc các tổ chức nhân đạo nhận nuôi trẻ mồ côi, cơ nhỡ, khiếm khuyết là việc rất bình thường. Những đứa trẻ này được những cặp vợ chồng vô sinh hay hiếm muộn nhận về làm con nuôi là chuyện rất bình thường. Việc những người nhận được con nuôi cho/biếu/tài trợ,… trung tâm bảo trợ trẻ em một số tiền lớn cũng là chuyện rất bình thường. Và điều bình thường nhất, là họ làm việc này công khai, đúng pháp luật, cả về con người lẫn tài chính.
Ở An-nam, những việc bình thường đó đôi khi lại trở nên không bình thường. Chẳng hạn như họ ra-rả rằng, vì sự từ bi của Phật nên mới nhận nuôi trẻ mồ côi (mặc dù chả ai bắt họ làm điều đó, hoặc họ có thể đăng ký thành một cơ sở thiện nguyện theo pháp luật). Hay tiền từ thiện được dùng thế nào lại là việc của người nhận (cụ thể là nhà chùa) mà không có sự minh bạch, công khai đến những người đóng góp/tài trợ.
Việc 9 trẻ em bị mất tích bí ẩn sẽ được cơ quan điều tra làm rõ trong vụ nghi vấn buôn bán trẻ em này. Nhưng có điều, nếu đúng là có buôn bán trẻ em thì 2 đối tượng bị bắt chẳng phải là thần thánh mà che mắt được thiên hạ để làm những việc đó. Những người trong chùa, đặc biệt là những người đứng đầu phải biết rất rõ.
Thế nên việc báo chí đưa thông tin về những tài sản nổi chìm của trụ trì chùa Bồ Đề chẳng phải là việc ngẫu nhiên. Đã qui y cửa Phật, sao đồ tế nhuyễn của riêng tây nhiều vậy?
Phật Như Lai chỉ là người trần mắt thịt. Ông đưa ra giáo lý phật pháp để hướng con người đến điều thiện, tạo cho họ một niềm tin vào cuộc sống. Ông xây dựng được một tôn giáo với số lượng tín đồ đông đảo, và ông được tôn thờ là Phật, chứ ông chẳng phải thần thánh hay con trời cháu thượng đế gì cả. Thế nên những người tu hành theo đạo Phật thì tu đến các thiện, cái đức, hiểu được đến tận cùng triết lý của sự vật hiện tượng để tín đồ của họ tôn vinh và tôn sùng nơi trần thế. Chứ họ chả thành thần thành thánh như thầy trò Đường tam tạng ở xứ Tàu trong truyện Tây du ký được.
Nếu mà có thần có thánh, thì đám ác nhân ác đức, sống phè phỡn trên xương máu của dân nghèo chả ung dung tự tại được từ cổ chí kim. Hay mấy ông thầy chùa tu hành đắc đạo đứng đầu giáo phái mà cứ bi-bô chống đối chính quyền thì ăn kẹo đồng là cái chắc, tỷ dụ như hồi nhà Thanh bên Tàu-khựa đàn áp chùa Thiếu lâm.
Thế nên, việc mấy ông bà thầy chùa đầu trọc mà có sổ đỏ nhà đất, tiền gửi ngân hàng, đi xe đẹp, ăn đồ ngon thì rặt một đám buôn thần bán thánh mà thôi. Khốn nỗi, cần-lao An-nam lại cực kỳ cuồng tín và sẵn sàng húp mỳ tôm để dành tiền cúng cho chùa. Có kẻ dâng lên tận mồm mà đám thầy chùa không hưởng, mới là lạ.
Tháng bảy là tháng cô hồn. Người ta đua nhau làm điều thiện để tích đức. Từ lễ Vu Lan để nhớ ơn bậc sinh thành đến cúng các hồn ma vất vưởng. Và dân có cúng lễ thì nhà chùa có thụ lộc. Sư sãi thật chả có mấy, nhưng sư sãi quốc doanh lại quá nhiều, mùa béo bở thế, phải buôn thần bán thánh để kiếm ăn chứ. Cái văn hóa quần ngư tranh thực của An-nam không chạy ra khỏi tâm tưởng của đám giả tu này được.
Khổ cho chùa Bồ Đề, vào đúng mùa kiếm bộn.
3. Sau gần 1 năm tìm kiếm trong vô vọng, báo chí An-nam lại ồn ào đưa tin đã tìm thấy xác của nạn nhân trong vụ thẩm mỹ viện Cát Tường. Thông tin được báo chí đăng tải từ xác nhận của công an Hà Nội thông qua kết quả giám định ADN. Tuy nhiên, báo chí vẫn đặt ra nhiều nghi vấn quanh vụ việc này, và ngay cả gia đình nạn nhân cũng đề nghị có thêm một đơn vị thứ 2 giám định lại ADN cho chắc chắn.
Nếu kết quả giám định của Viện khoa học hình sự Bộ công an là đúng, thì mới thấy đám “ngoại cảm rởm” ở An-nam nhiều đến thế nào. Nhớ lại hàng chục “nhà ngoại cảm” lên đồng gọi hồn khi vụ án mới được phát hiện, rồi lời khẳng định như đinh đóng cột của “ma nữ” thị Hòa trên blog của anh cu Đông La rằng không thể tìm được xác nạn nhân.
Người viết vẫn tin vào vấn đề tâm linh, vẫn tin vào khả năng ngoại cảm của con người. Điều này khoa học đã chứng minh những hiện tượng đó là có trong đời sống con người. Tuy nhiên, hiểu tận cùng về tâm linh lẫn đánh giá những người có năng lực ngoại cảm là một vấn đề không hề đơn giản.
Ấy thế mà mấy trung tâm “ma học” được chính quyền bảo trợ ồ ạt cấp giấy chứng nhận chứng nheo cho đám buôn thần bán thánh này. Lợi nhuận từ việc này quá lớn đến mức những tấm gương như tên Thủy không làm những kẻ giả thần giả quỷ này chùn bước, y như là buôn bán ma túy vậy.
Giả sử có ma quỷ thần thánh thật, sao họ không vật chết những kẻ thất nhân thất đức, lừa đảo trục lợi của người dân trên sự mê tín dị đoan của họ, thậm chí trên cả xương máu của các liệt sĩ như tên Thủy? Sao cứ để đám buôn thần bán thánh này vẫn nhởn nhơ sống, nhởn nhơ lừa đảo người lương thiện? Hay thánh thần ma quỷ ăn hối lộ của đám buôn thần bán thánh thất nhân thất đức này?
Xác nạn nhân tìm thấy trong tháng cô hồn. Người dân ở khu vực tìm thấy xác nói, ngoài nạn nhân còn có hàng chục xác chết khác đã được tìm thấy trên sông. Họ là ai? Sao chết nhiều thế? Chết do tai nạn, bất cẩn hay bị kẻ xấu hãm hại? Và khi chết họ thành ma, sao không nhờ thần thánh cõi âm trừng trị những kẻ đã hại họ đang sống nhởn nhơ nơi trần thế?
Chả lẽ ma chỉ biết dọa người lương thiện mê tín và yếu tim?
4. Thông tin ông chủ Lâm của tập đoàn Đức Khải đầu tư 1.500 tỷ đồng để mua 100 tàu đánh cá để bám ngư trường được báo chí xứ An-nam ồn ã tung hô nhiệt liệt. Dĩ nhiên, trong tình cảnh Tàu-khựa đang hạ đặt giàn khoan 981 vào vùng biển của An-nam thì hành động này của ông Lâm được coi là anh hùng, và ông ta được báo chí tung hô là người “có tinh thần yêu nước sâu sắc”.
Đang hô hào ác liệt như vậy, tự dựng báo chí im ắng hẳn, khi ông Lâm tuyên bố là ông mua tàu để kiếm tiền, chứ chả yêu nước yêu neo gì sất. Một đặc trưng của báo chí An-nam là “tự nguyện” khóc mướn để kiếm mấy đồng tiền lẻ, thể hiện rất rõ qua vụ này.
Dư luận lại sốc khi ông Lâm tuyên bố chỉ có 30% số tiền, còn lại 70% phải vay. Và ý tưởng đầu tư tàu đi đánh cá được ông nghĩ ra mới gần… 2 tháng. Ai cũng nghi ngờ ông Lâm nhắm vào gói tín dụng 10.000 tỷ đồng hỗ trợ cho ngư dân đóng tàu vươn khơi bám biển với lãi suất ưu đãi 3%/năm.
Nhưng không, ông Lâm còn cao thủ hơn thế. Ông làm đơn lên tận Thủ tướng “xin” vay hẳn 90% số tiền của dự án này (1.350 tỷ) để nhập tàu cũ, ụ nổi cũ. Không những thế, ông “còn đòi” vay với lãi suất 1%/năm.
Càng sốc hơn nữa, khi thông tin tàu cũ, ụ nổi cũ của ông Lâm nhập về đã có tuổi thọ lên đến… 30 năm. Trong khi đó, theo nghị định của Chính phủ quy định về nhập tàu cá cũ thì tuổi thọ không quá 8 năm. “Bóng ma” tàu cũ của Vinashine và ụ nổi của Vinalines lại một lần nữa ẩn hiện trong dự án này của ông Lâm.
Điều dư luận không thể giải thích nỗi là tại sao những việc bất thường như thế, sai với quy định như thế vẫn được một “đại gia” tiến hành trên danh nghĩa “kinh doanh”? Chả lẽ mức rủi ro đến gần 100% như thế mà họ vẫn nhắm mắt thực hiện (vì thông tin là ông Lâm đã đặt hàng mua tàu rồi)? Thêm nữa, những việc sai quy định về quản lý nhà nước sao vẫn được đệ trình lên Thủ tướng?
Thế mới thấy, ở An-nam chả có việc gì là không thể. Nên câu “nói dzậy nhưng không phải dzậy” luôn đúng trong mọi trường hợp. Bởi vì, biết đâu đấy ông Lâm sẽ được Thủ tướng phê duyệt cho vay hơn nghìn tỷ này.
Thế nên, chả cứ tháng cô hồn, An-nam nhìn đâu mà chả thấy âm binh âm tướng.
5. An-nam là một dân tộc tiểu nhược và cuồng tín. Những kẻ ngồi ở thượng tầng luôn dựa vào thần thánh để cai trị cần-lao thối tai khai bẹn, truyền bá vào đầu óc cần-lao sự mê tín dị đoan và đặc tính lười nhác, mong chờ vào sự may mắn hoang tưởng. Chả phải bây giờ mới thế, mà có hẳn từ thời cụ Hùng man di mọi rợ, tỷ dụ như vụ thần thánh phương nào bày cho anh cu Lang Liêu làm bánh chưng bánh dày chẳng hạn.
Trẻ em khi nhỏ thì bị nhồi nhét những câu chuyện cổ tích quái dị và thiếu nhân tính, tỷ dụ như Tấm Cám hay Sọ Dừa. Lớn lên chút thì học những bài học lịch sử hoang đường như ngựa sắt Thánh Gióng, nỏ thần An Dương Vương hay gươm Thuận Thiên của Lê Lợi.
Gần 20 năm nay, sự mê tín dị đoan của cần-lao An-nam được phát triển một cách rầm rộ, như là để bù lại cho một thời gian phá đền phá chùa bài trừ mê tín dị đoan của chính quyền. Bất cứ ở đâu cũng thấy có đền có chùa với khói hương nghi ngút. Các loại đền chùa lớn nhỏ được mọc lên như nấm sau mưa. Đến mức cứ khánh thành cái chùa hay đúc được quả chuông thì các lãnh đạo cao cấp từ trung ương đến địa phương lại có mặt và sì sụp khấn vái. Vua quan còn cuồng tín thế, trách gì dân đen.
Tâm linh, tín ngưỡng của một dân tộc cần phải được bảo tồn và gìn giữ. Nhưng là để người dân tiếp cận dưới góc độ văn hóa và tín ngưỡng dân gian chứ không phải là nuôi ảo tưởng và mong chờ vào sự ban ơn của thần thánh ảo.
Nhật Bản, Hàn Quốc cũng có đền có chùa. Các nguyên thủ các nước này vào những dịp lễ tết vẫn đến thăm đền thăm chùa như một nét văn hóa dân tộc. Nhưng chắc chắn là họ không cầu mong thần thánh xứ họ giúp cho dân cường nước thịnh được.
Ấy thế mà xứ An-nam tiểu nhược và man di mọi rợ này lại lấy thần thánh là lẽ sống. Từ thượng tầng trung ương tinh hoa đến hạ tầng cần-lao thối tai khai bẹn. Cuồng tín và ng* d*t đến mức không phân biệt được thế nào là tôn giáo, thế nào là tâm linh, đánh đồng đám thầy chùa đầu trọc với thần thánh ma quỷ. Cứ làm việc xấu, điều ác xong là lên chùa đút lót tiền cho đám đầu trọc để cầu xin thần thánh tha thứ.
Nước không nghèo, dân không hèn mới là lạ.
© 2014
Nguồn hình ảnh: Sưu tầm trên internet.
1. Tháng bảy là tháng cô hồn. Cần-lao An-nam vẫn luôn tâm niệm vậy.
Không biết có phải ma xui quỷ khiến trong tháng cô hồn, mà nhiều vụ giết/chết người đã xảy ra với tính chất chung là rất nghiêm trọng và man rợ, mặc dù nguyên nhân thì khác nhau.
Chỉ mấy ngày đầu tuần, rất nhiều vụ giết người và những cái chết bất thường được báo chí đăng tải. Ngay gần trụ sở của Bộ công an (đường Hoàng Quốc Việt, Hà Nội), một người đàn ông ngồi trong ôtô bị đâm thủng tim và chết. Ở Thanh Hà (Hải Dương), một ác tử nhẫn tâm giết 4 người trong gia đình và đã tự tử trong… trại giam. Một thanh niên ở Đình Bảng (Bắc Ninh) bị chết ở tư thế cổ nằm ngửa, nghe nói trước đó có nhặt được 2 bao tải tiền. Một cặp vợ chồng chủ cửa hàng ắc-quy chết bất thường trong nhà ở Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc). Một người đàn ông chết trong tư thế quỳ gối ở Yên Viên (Hà Nội). Xác một phụ nữ đang phân hủy trong phòng trọ ở Cà Mau chưa rõ nguyên nhân. Nạn nhân thứ 3 trong vụ cuồng sát người nhà vợ ở Tiền Giang cũng đã chết trong bệnh viện. Một xe ôm ở bệnh viện Chợ Rẫy (Tp.H.C.M) bị cắt cổ chết ở một bãi đất trống. Ở Đà Nẵng một nam thanh niên nhảy cầu Thuận Phước tự tử. 3 học sinh tiểu học bị chết đuối ở biển Quỳnh Lưu (Nghệ An). Ở Tuyên Quang, một người vi phạm giao thông tử vong (chưa rõ bị CSGT đánh hay tự ngã?).
Đó mới là những vụ việc mà người viết tập hợp nhanh trên báo mạng trong mấy ngày đầu tuần. Và chưa tính đến các vụ chết người do tai nạn giao thông. Theo thống kê của UBATGTQG, chỉ riêng 3 ngày đầu tuần (4/8-6/8) đã có tới 83 người chết, 124 người bị thương do TNGT.
Có lẽ bất cứ ai đọc những dòng thông tin này cũng cảm thấy rùng mình và bất an. Bởi lẽ, những cái chết đến với cần-lao rất muôn hình vạn trạng, ở bất cứ đâu và bất cứ thời gian nào. Từ TNGT đến những va chạm xích mích trên đường, từ mâu thuẫn trong tiền bạc, tình ái đến cùng quẫn mà tự tử.
Trong 23 ngày giao tranh ở dải Gaza (8/7-30/7), theo số liệu công bố của Văn phòng điều phối các vấn đề nhân đạo của LHQ (OCHA) có 1.118 người chết, trong đó có 827 thường dân (trung bình 48 người chết mỗi ngày). An-nam không có chiến tranh, nhưng ngày nào cũng hiến cho tử thần gần 30 người.
Mới thấy, mạng người ở An-nam rất mong manh và rẻ mạt.
2. Cơ quan cảnh sát điều tra đã khởi tố vụ án mua bán trẻ em ở chùa Bồ Đề (Gia Lâm, Hà Nội), 2 đối tượng liên quan là đã bị bắt phục vụ cho công tác điều tra. Trụ trì chùa Bồ Đề cũng bị mời làm việc với cơ quan chức năng.
Trên thế giới, việc các tổ chức nhân đạo nhận nuôi trẻ mồ côi, cơ nhỡ, khiếm khuyết là việc rất bình thường. Những đứa trẻ này được những cặp vợ chồng vô sinh hay hiếm muộn nhận về làm con nuôi là chuyện rất bình thường. Việc những người nhận được con nuôi cho/biếu/tài trợ,… trung tâm bảo trợ trẻ em một số tiền lớn cũng là chuyện rất bình thường. Và điều bình thường nhất, là họ làm việc này công khai, đúng pháp luật, cả về con người lẫn tài chính.
Ở An-nam, những việc bình thường đó đôi khi lại trở nên không bình thường. Chẳng hạn như họ ra-rả rằng, vì sự từ bi của Phật nên mới nhận nuôi trẻ mồ côi (mặc dù chả ai bắt họ làm điều đó, hoặc họ có thể đăng ký thành một cơ sở thiện nguyện theo pháp luật). Hay tiền từ thiện được dùng thế nào lại là việc của người nhận (cụ thể là nhà chùa) mà không có sự minh bạch, công khai đến những người đóng góp/tài trợ.
Việc 9 trẻ em bị mất tích bí ẩn sẽ được cơ quan điều tra làm rõ trong vụ nghi vấn buôn bán trẻ em này. Nhưng có điều, nếu đúng là có buôn bán trẻ em thì 2 đối tượng bị bắt chẳng phải là thần thánh mà che mắt được thiên hạ để làm những việc đó. Những người trong chùa, đặc biệt là những người đứng đầu phải biết rất rõ.
Thế nên việc báo chí đưa thông tin về những tài sản nổi chìm của trụ trì chùa Bồ Đề chẳng phải là việc ngẫu nhiên. Đã qui y cửa Phật, sao đồ tế nhuyễn của riêng tây nhiều vậy?
Phật Như Lai chỉ là người trần mắt thịt. Ông đưa ra giáo lý phật pháp để hướng con người đến điều thiện, tạo cho họ một niềm tin vào cuộc sống. Ông xây dựng được một tôn giáo với số lượng tín đồ đông đảo, và ông được tôn thờ là Phật, chứ ông chẳng phải thần thánh hay con trời cháu thượng đế gì cả. Thế nên những người tu hành theo đạo Phật thì tu đến các thiện, cái đức, hiểu được đến tận cùng triết lý của sự vật hiện tượng để tín đồ của họ tôn vinh và tôn sùng nơi trần thế. Chứ họ chả thành thần thành thánh như thầy trò Đường tam tạng ở xứ Tàu trong truyện Tây du ký được.
Nếu mà có thần có thánh, thì đám ác nhân ác đức, sống phè phỡn trên xương máu của dân nghèo chả ung dung tự tại được từ cổ chí kim. Hay mấy ông thầy chùa tu hành đắc đạo đứng đầu giáo phái mà cứ bi-bô chống đối chính quyền thì ăn kẹo đồng là cái chắc, tỷ dụ như hồi nhà Thanh bên Tàu-khựa đàn áp chùa Thiếu lâm.
Thế nên, việc mấy ông bà thầy chùa đầu trọc mà có sổ đỏ nhà đất, tiền gửi ngân hàng, đi xe đẹp, ăn đồ ngon thì rặt một đám buôn thần bán thánh mà thôi. Khốn nỗi, cần-lao An-nam lại cực kỳ cuồng tín và sẵn sàng húp mỳ tôm để dành tiền cúng cho chùa. Có kẻ dâng lên tận mồm mà đám thầy chùa không hưởng, mới là lạ.
Tháng bảy là tháng cô hồn. Người ta đua nhau làm điều thiện để tích đức. Từ lễ Vu Lan để nhớ ơn bậc sinh thành đến cúng các hồn ma vất vưởng. Và dân có cúng lễ thì nhà chùa có thụ lộc. Sư sãi thật chả có mấy, nhưng sư sãi quốc doanh lại quá nhiều, mùa béo bở thế, phải buôn thần bán thánh để kiếm ăn chứ. Cái văn hóa quần ngư tranh thực của An-nam không chạy ra khỏi tâm tưởng của đám giả tu này được.
Khổ cho chùa Bồ Đề, vào đúng mùa kiếm bộn.
3. Sau gần 1 năm tìm kiếm trong vô vọng, báo chí An-nam lại ồn ào đưa tin đã tìm thấy xác của nạn nhân trong vụ thẩm mỹ viện Cát Tường. Thông tin được báo chí đăng tải từ xác nhận của công an Hà Nội thông qua kết quả giám định ADN. Tuy nhiên, báo chí vẫn đặt ra nhiều nghi vấn quanh vụ việc này, và ngay cả gia đình nạn nhân cũng đề nghị có thêm một đơn vị thứ 2 giám định lại ADN cho chắc chắn.
Nếu kết quả giám định của Viện khoa học hình sự Bộ công an là đúng, thì mới thấy đám “ngoại cảm rởm” ở An-nam nhiều đến thế nào. Nhớ lại hàng chục “nhà ngoại cảm” lên đồng gọi hồn khi vụ án mới được phát hiện, rồi lời khẳng định như đinh đóng cột của “ma nữ” thị Hòa trên blog của anh cu Đông La rằng không thể tìm được xác nạn nhân.
Người viết vẫn tin vào vấn đề tâm linh, vẫn tin vào khả năng ngoại cảm của con người. Điều này khoa học đã chứng minh những hiện tượng đó là có trong đời sống con người. Tuy nhiên, hiểu tận cùng về tâm linh lẫn đánh giá những người có năng lực ngoại cảm là một vấn đề không hề đơn giản.
Ấy thế mà mấy trung tâm “ma học” được chính quyền bảo trợ ồ ạt cấp giấy chứng nhận chứng nheo cho đám buôn thần bán thánh này. Lợi nhuận từ việc này quá lớn đến mức những tấm gương như tên Thủy không làm những kẻ giả thần giả quỷ này chùn bước, y như là buôn bán ma túy vậy.
Giả sử có ma quỷ thần thánh thật, sao họ không vật chết những kẻ thất nhân thất đức, lừa đảo trục lợi của người dân trên sự mê tín dị đoan của họ, thậm chí trên cả xương máu của các liệt sĩ như tên Thủy? Sao cứ để đám buôn thần bán thánh này vẫn nhởn nhơ sống, nhởn nhơ lừa đảo người lương thiện? Hay thánh thần ma quỷ ăn hối lộ của đám buôn thần bán thánh thất nhân thất đức này?
Xác nạn nhân tìm thấy trong tháng cô hồn. Người dân ở khu vực tìm thấy xác nói, ngoài nạn nhân còn có hàng chục xác chết khác đã được tìm thấy trên sông. Họ là ai? Sao chết nhiều thế? Chết do tai nạn, bất cẩn hay bị kẻ xấu hãm hại? Và khi chết họ thành ma, sao không nhờ thần thánh cõi âm trừng trị những kẻ đã hại họ đang sống nhởn nhơ nơi trần thế?
Chả lẽ ma chỉ biết dọa người lương thiện mê tín và yếu tim?
4. Thông tin ông chủ Lâm của tập đoàn Đức Khải đầu tư 1.500 tỷ đồng để mua 100 tàu đánh cá để bám ngư trường được báo chí xứ An-nam ồn ã tung hô nhiệt liệt. Dĩ nhiên, trong tình cảnh Tàu-khựa đang hạ đặt giàn khoan 981 vào vùng biển của An-nam thì hành động này của ông Lâm được coi là anh hùng, và ông ta được báo chí tung hô là người “có tinh thần yêu nước sâu sắc”.
Đang hô hào ác liệt như vậy, tự dựng báo chí im ắng hẳn, khi ông Lâm tuyên bố là ông mua tàu để kiếm tiền, chứ chả yêu nước yêu neo gì sất. Một đặc trưng của báo chí An-nam là “tự nguyện” khóc mướn để kiếm mấy đồng tiền lẻ, thể hiện rất rõ qua vụ này.
Dư luận lại sốc khi ông Lâm tuyên bố chỉ có 30% số tiền, còn lại 70% phải vay. Và ý tưởng đầu tư tàu đi đánh cá được ông nghĩ ra mới gần… 2 tháng. Ai cũng nghi ngờ ông Lâm nhắm vào gói tín dụng 10.000 tỷ đồng hỗ trợ cho ngư dân đóng tàu vươn khơi bám biển với lãi suất ưu đãi 3%/năm.
Nhưng không, ông Lâm còn cao thủ hơn thế. Ông làm đơn lên tận Thủ tướng “xin” vay hẳn 90% số tiền của dự án này (1.350 tỷ) để nhập tàu cũ, ụ nổi cũ. Không những thế, ông “còn đòi” vay với lãi suất 1%/năm.
Càng sốc hơn nữa, khi thông tin tàu cũ, ụ nổi cũ của ông Lâm nhập về đã có tuổi thọ lên đến… 30 năm. Trong khi đó, theo nghị định của Chính phủ quy định về nhập tàu cá cũ thì tuổi thọ không quá 8 năm. “Bóng ma” tàu cũ của Vinashine và ụ nổi của Vinalines lại một lần nữa ẩn hiện trong dự án này của ông Lâm.
Điều dư luận không thể giải thích nỗi là tại sao những việc bất thường như thế, sai với quy định như thế vẫn được một “đại gia” tiến hành trên danh nghĩa “kinh doanh”? Chả lẽ mức rủi ro đến gần 100% như thế mà họ vẫn nhắm mắt thực hiện (vì thông tin là ông Lâm đã đặt hàng mua tàu rồi)? Thêm nữa, những việc sai quy định về quản lý nhà nước sao vẫn được đệ trình lên Thủ tướng?
Thế mới thấy, ở An-nam chả có việc gì là không thể. Nên câu “nói dzậy nhưng không phải dzậy” luôn đúng trong mọi trường hợp. Bởi vì, biết đâu đấy ông Lâm sẽ được Thủ tướng phê duyệt cho vay hơn nghìn tỷ này.
Thế nên, chả cứ tháng cô hồn, An-nam nhìn đâu mà chả thấy âm binh âm tướng.
5. An-nam là một dân tộc tiểu nhược và cuồng tín. Những kẻ ngồi ở thượng tầng luôn dựa vào thần thánh để cai trị cần-lao thối tai khai bẹn, truyền bá vào đầu óc cần-lao sự mê tín dị đoan và đặc tính lười nhác, mong chờ vào sự may mắn hoang tưởng. Chả phải bây giờ mới thế, mà có hẳn từ thời cụ Hùng man di mọi rợ, tỷ dụ như vụ thần thánh phương nào bày cho anh cu Lang Liêu làm bánh chưng bánh dày chẳng hạn.
Trẻ em khi nhỏ thì bị nhồi nhét những câu chuyện cổ tích quái dị và thiếu nhân tính, tỷ dụ như Tấm Cám hay Sọ Dừa. Lớn lên chút thì học những bài học lịch sử hoang đường như ngựa sắt Thánh Gióng, nỏ thần An Dương Vương hay gươm Thuận Thiên của Lê Lợi.
Gần 20 năm nay, sự mê tín dị đoan của cần-lao An-nam được phát triển một cách rầm rộ, như là để bù lại cho một thời gian phá đền phá chùa bài trừ mê tín dị đoan của chính quyền. Bất cứ ở đâu cũng thấy có đền có chùa với khói hương nghi ngút. Các loại đền chùa lớn nhỏ được mọc lên như nấm sau mưa. Đến mức cứ khánh thành cái chùa hay đúc được quả chuông thì các lãnh đạo cao cấp từ trung ương đến địa phương lại có mặt và sì sụp khấn vái. Vua quan còn cuồng tín thế, trách gì dân đen.
Tâm linh, tín ngưỡng của một dân tộc cần phải được bảo tồn và gìn giữ. Nhưng là để người dân tiếp cận dưới góc độ văn hóa và tín ngưỡng dân gian chứ không phải là nuôi ảo tưởng và mong chờ vào sự ban ơn của thần thánh ảo.
Nhật Bản, Hàn Quốc cũng có đền có chùa. Các nguyên thủ các nước này vào những dịp lễ tết vẫn đến thăm đền thăm chùa như một nét văn hóa dân tộc. Nhưng chắc chắn là họ không cầu mong thần thánh xứ họ giúp cho dân cường nước thịnh được.
Ấy thế mà xứ An-nam tiểu nhược và man di mọi rợ này lại lấy thần thánh là lẽ sống. Từ thượng tầng trung ương tinh hoa đến hạ tầng cần-lao thối tai khai bẹn. Cuồng tín và ng* d*t đến mức không phân biệt được thế nào là tôn giáo, thế nào là tâm linh, đánh đồng đám thầy chùa đầu trọc với thần thánh ma quỷ. Cứ làm việc xấu, điều ác xong là lên chùa đút lót tiền cho đám đầu trọc để cầu xin thần thánh tha thứ.
Nước không nghèo, dân không hèn mới là lạ.
© 2014
Nguồn hình ảnh: Sưu tầm trên internet.