Jump to content

Advertisements




Tả Ao bí kíp


29 replies to this topic

#16 nangvang

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 1 Bài viết:
  • 1 thanks

Gửi vào 25/04/2015 - 23:33

Trong dã đàm tả ao có câu: nhất thì được nước sinh vào
Nhì thì được nước khắc vào hướng ta

Câu này tức là thế mào ạ, mong các bác giải thích rõ , cháu xin cảm ơn ạ

Thanked by 1 Member:

#17 khongbiengioi

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 90 Bài viết:
  • 91 thanks

Gửi vào 26/04/2015 - 07:50

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

nangvang, on 25/04/2015 - 23:33, said:

Trong dã đàm tả ao có câu: nhất thì được nước sinh vào
Nhì thì được nước khắc vào hướng ta

Câu này tức là thế mào ạ, mong các bác giải thích rõ , cháu xin cảm ơn ạ
Sinh nhập, khắc nhập danh vi tiến
Sinh xuất khắc xuất danh vi thoái

Thế thôi, hihi

Thanked by 2 Members:

#18 tracmitrac

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 20 Bài viết:
  • 2 thanks

Gửi vào 26/04/2015 - 15:04

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

khongbiengioi, on 26/04/2015 - 07:50, said:

Sinh nhập, khắc nhập danh vi tiến
Sinh xuất khắc xuất danh vi thoái

Thế thôi, hihi

Các hạ,
nói vậy chứ hỏi thiên hạ được mấy thầy hiểu câu này???
Tại hạ nhờ các hạ diễn tả rõ bằng chữ việt xem thế nào?

Thanked by 1 Member:

#19 khongco

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 251 Bài viết:
  • 128 thanks

Gửi vào 30/04/2015 - 11:29

Đọc các giai thoại phong thủy bên cạnh của thầy Tả Ao, thì thấy có cả thầy Thanh Lã, nhưng rất ít. Ví dụ giai thoại về cuộc đất " Lưỡng Long tranh châu "...

Đọc các giai thoại phong thủy bên cạnh của thầy Tả Ao, thì thấy có cả thầy Thanh Lã, nhưng rất ít. Ví dụ giai thoại về cuộc đất " Lưỡng Long tranh châu "...

#20 anhdat

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 1 Bài viết:
  • 1 thanks

Gửi vào 19/11/2015 - 00:19

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

khongbiengioi, on 26/04/2015 - 07:50, said:

Sinh nhập, khắc nhập danh vi tiến
Sinh xuất khắc xuất danh vi thoái

Thế thôi, hihi
Có vẻ thấy Thầy Tả ao và Thầy Dương công gặp nhau ở điểm này rồi!
Câu thứ nhất chỉ dẫn nước dẫn long,
Câu thứ hai ý nói thành môn thủy khẩu phản khí.
Ai tinh đúng sẽ cho kết quả như vậy, muốn ai tinh đúng thì phải nhận biết loan đầu chính xác để an lý khí vào đó.

Thanked by 1 Member:

#21 nhoti

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 185 Bài viết:
  • 16 thanks

Gửi vào 19/11/2015 - 14:51

Bác anhdat và bác tracmitrac là bạn nhau nhỉ? Các bác bí chỗ nào cứ nói ạ.

Thanked by 1 Member:

#22 tamtai

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 2 Bài viết:
  • 0 thanks

Gửi vào 02/12/2015 - 22:47

học địa lý không dễ đâu các bác. tâm long , điểm huyệt , lập hướng . tất cả đều khó .
lập hướng là khó nhất , đẻ lập được hướng phải có thấy chính tông dạy

#23 tamtai

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 2 Bài viết:
  • 0 thanks

Gửi vào 02/12/2015 - 22:56

lập hướng sinh nhập sinh xuất. khắc nhập khắc xuất và nhiều vấn đề khác không đơn giản.

#24 nhoti

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 185 Bài viết:
  • 16 thanks

Gửi vào 03/12/2015 - 08:26

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

tamtai, on 02/12/2015 - 22:47, said:

học địa lý không dễ đâu các bác. tâm long , điểm huyệt , lập hướng . tất cả đều khó .
lập hướng là khó nhất , đẻ lập được hướng phải có thấy chính tông dạy

Trời khó vậy! Bác cho cháu hỏi thầy chính tông là thầy như thế nào ạ?

#25 nhoti

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 185 Bài viết:
  • 16 thanks

Gửi vào 04/12/2015 - 16:16

Cháu xin bác tamtai và các bác cho vài chỉ dẫn ạ.

#26 nhoti

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 185 Bài viết:
  • 16 thanks

Gửi vào 05/12/2015 - 09:35

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Các bác không có ý kiến gì ạ? Thầy chính tông...tông của sư phụ thầy....tông của sư tổ thầy....vậy ai là sư phụ của sư tổ thầy...ôi nhức đầu quá.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi nhoti: 05/12/2015 - 09:41


#27 nhoti

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 185 Bài viết:
  • 16 thanks

Gửi vào 06/12/2015 - 10:17

Kính các bác!

Cháu nghĩ nát óc rồi ạ. Tông thì phải có chứng nhận, ngày nay chứng nhận dựạ trên tiêu chuẩn. PT của các bác chưa có bộ tiêu chuẩn gì nên chưa có tông, trăm hoa đua nở. Cháu nói thế này: ai bảo mình là thầy chánh tông tức tự phong thôi các bác ạ.

Xã hội văn minh lắm rồi, đến nấu cơm hàng ngày bây giờ cũng có mấy chục cách nấu và người ta còn sáng tạo ra nhiều cách nữa trong tương lai. Các bác học PT cứ dựa hết vào tạp cổ thư thì cháu cứ ví như về cái máng lợn ngày nào ạ

Thôi cháu cúi chào các bác kiểu Nhật, cháu lượn.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



#28 khongco

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 251 Bài viết:
  • 128 thanks

Gửi vào 06/12/2015 - 21:42

Thầy tả ao cũng có câu : nhắn ai địa lý vô tông... gì gì đó. Vậy bác tinho cho cháu hỏi vô tông và có tông thì khác nhau ra sao? Vì cả hai đều làm.

Thầy tả ao cũng có câu : nhắn ai địa lý vô tông... gì gì đó. Vậy bác tinho cho cháu hỏi vô tông và có tông thì khác nhau ra sao? Vì cả hai đều làm.

Thầy tả ao cũng có câu : nhắn ai địa lý vô tông... gì gì đó. Vậy bác tinho cho cháu hỏi vô tông và có tông thì khác nhau ra sao? Vì cả hai đều làm.

Thầy tả ao cũng có câu : nhắn ai địa lý vô tông... gì gì đó. Vậy bác tinho cho cháu hỏi vô tông và có tông thì khác nhau ra sao? Vì cả hai đều làm.

#29 nhoti

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 185 Bài viết:
  • 16 thanks

Gửi vào 07/12/2015 - 10:28

Cháu chưa tin thầy Tả Ao nói câu đó ạ. Các bác tin kệ các bác nhé....

Có tông? tông ở đâu? ai công nhận hả bác?

Có cụ Bill Gate bỏ tông đi theo vô tông làm cháu ngưỡng mộ quá! Gần đây có anh Mark cũng bỏ ngang tông, tự làm face kiếm ăn cũng khá.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



#30 nora12

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 1 Bài viết:
  • 0 thanks

Gửi vào 15/02/2016 - 13:59

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

khongbiengioi, on 05/10/2012 - 16:41, said:

Phong thủy địa lý - cụ TẢ AO!


Cụ Tả Ao được tôn là Thánh Địa Lý Tả Ao là người Việt Nam thứ nhất học được khoa Địa lý Chính Tông ở Trung Quốc, và là thầy Địa lý giỏi nhất Việt Nam xưa kia.

TẠI SAO KHÔNG CÓ AI MUỐN HỌC PHONG THỦY CHÍNH TÔNG CỦA VIỆT NAM NHỈ? Trong khi đó TRUNG QUỐC có hẳn 1 diễn đàn lớn nghiên cứu về địa lý tả ao?

MUỐN HỌC PHÁI TAM HỢP THÌ PHẢI HỌC TẢ AO! Sao lại bỏ THỰC học những cái NGỤY của hàng xóm, ôi thôi - DÂN TA PHẢI BIẾT SỬ TA / NẾU MÀ KHÔNG BIẾT THÌ TRA GOOGLE?

Mình muốn là người khởi mào về Tả Ao, nhưng sức mình còn hạn chế, mong các thành viên cùng đóng góp nhé!

Cám ơn.
Thân

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
NGUYÊN VĂN ĐỊA ĐẠO DIỄN CA CỦA CỤ TẢ AO

1. Mấy lời để truyền hậu thế
2. Ai học địa lý theo học Tả Ao
3. Một là hay học càng cao
4. Hai là cố ý, cứ lời phương ngôn
5. Ba là học thuộc Dã Đàm
6. Bốn là mở sách La Bàn cho thông
7. Chẳng qua ra đến ngoài đồng
8. Tỏ mạch, tỏ nước, tỏ long mới tường.
9. Mạch có mạch âm, mạch dương.
10. Mạch nhược, mạch cường, mạch tử, mạch sinh
11. Sơn cước mạch đi rành rành.
12. Bình dương mạch lần, nhân tình không thông
13. Có mạch qua ao, qua sông
14. Qua đầm, qua núi, qua đồng, qua non.
15. Lại có mạch phát ngôi dương
16. Nhìn xem cho tường, ấy mạch làm sao?
17. Mạch thô đi chẳng khép vào
18. Vốn đi một chiều ấy mạch phát dương
19. Ba mươi sáu mạch cho tường
20. Trước là cứ sách, sau y lời truyền.
21. Ruộng cao uốn xuống thì mạch táng trên.
22. Ruộng thấp uốn lên thì mạch táng dưới.
23. Bình dương mạch chẳng nề châm gối
24. Hề chính long thì tả hữu chiều lai
25. Đâu có chính long thì có sơn thủy gối kề
26. Nhưng trên sơn cước non cao
27. Cường long thô mạch, thế nào mới hay?
28. Tìm nơi mạch nhược long gầy.
29. Nhất thời oa huyệt, nhi thời tàng phong
30. Đất có cát địa chân long.
31. Táng cho phải phép anh hùng giàu sang
32. Nọ như dưới đất bình dương
33. Mạch thính giác điền xem tưởng mới hay
34. Bình dương lấy nước làm thầy
35. Thứ nhất khai khẩu thứ nhì ngũ long
36. Thứ ba mạch thắt cổ bồng.
37. Thứ tư sơn chỉ hồi long càng tài
38. Muốn cho con cháu tam khôi
39. Phương Nam có bút phương Đoài có nghiên.
40. Muốn cho con cháu Trạng Nguyên.
41. Thời tìm bút lập hai bên sắp bày
42. Nhất là Tân, Tốn mới hay
43. Bính, Đinh, Đoài, Cấn sắp bày đột lên.
44. Bút lập là bút Trạng Nguyên.
45. Bút thích giác điền là bút thám hoa
46. Nhìn xem cho kỹ sẽ là đất hay.
47. Khuyên ai học làm thầy Địa lý
48. Trước phải đọc sách, sau là lượng cao.
49. Dù ai khôn khéo thế nào
50. Học mà chẳng xét ấy là vô tông
51. Thắt cỏ bồng phồng ra huyệt kết.
52. Xem cho biết Mộc tiết Kim loan
53. Mộc tiết văn đỗ Trạng Nguyên.
54. Kim loan võ được tước quyền Quận Công.
55. Con Mộc vốn ở phương đông.
56. Con Kim vốn nó về dòng phương tây.
57. Xem cho biết nó mới hay
58. Táng cho phải phép thực dày vinh hoa.
59. Thắt cuông cà phi ra mới kết.
60. Xem cho biết huyệt cát huyệt hung.
61. Huyệt cát nước tụ vào lòng.
62. Đôi bên Long, Hổ uốn vòng chiều lai
63. Huyệt hung Minh Đường bất khai
64. Sơn tà thủy Sạ hướng ngoài tà thiên.
65. Táng xuống kính sảng bất yên
66. Con cháu thường thường phát bệnh ốm đau.
67. Muốn cho con cháu sống lâu.
68. Tìm nơi Huyền Vũ đằng sau cao dày.
69. Long Hổ bằng như chân tay
70. Chẳng có Tả, Hữu bằng ngay chẳng lành.
71. Kìa như đất có ngũ tinh.
72. Nhận xem cho biết tương sinh loan hoàn
73. Muốn cho con cháu nên quan
74. Thì tìm Thiên Mã phương Nam đứng chầu.
75. Muốn cho kế thế công hầu
76. Thì tìm cờ trống dàn chầu hai bên.
77. Ngũ tinh cách tú chiều nguyên
78. Kim, Mộc, Thủy, Hỏa bốn bên loan hoàn.
79. Thổ tinh kết huyệt trung ương.
80. Ấy đất sinh Thánh sinh Vương đời đời
81. Thiên sơn vạn thủy chiều lai
82. Can chi bát quái trong ngoài tôn nghinh
83. Nhị thập bát tú thiên tinh.
84. Tại thiên chiếu huyệt rành rành chẳng sai.
85. Ngôi Đế Vượng mặc Trời chẳng dám.
86. Huyệt công khanh chẳng kiếm ai cho.
87. Đất khai hoa nhìn xem cho kỹ
88. Thấy thì làm chớ để lưu tâm
89. Trên sơn cước xa xăm cũng táng.
90. Dưới bình dương nửa tháng cũng đi
91. Minh sinh, ám tử vô di.
92. Coi đi coi lại quản chi nhọc nhằn.
93. Quả nhiên huyệt chính long chân
94. Tiêu sa, nạp thủy chớ lầm một ly
95. Táng chi phúc lý tuy chi.
96. Trâm anh bất tuyệt thư thi gia truyền.
97. Muốn cho con trưởng phát tiên.
98. Thì tìm long nội đất liền quá cung.
99. Thanh long liên châu cao phong.
100. Kim tinh, thổ phụ, phát dòng trưởng nam.
101. Con gái về bên hổ sơn
102. Hổ cao thì phát, sơn bàn cho thông.
103. Phản hổ con gái lộn chồng.
104. Phản long trai nó ra lòng bất nhân.
105. Vô long như người vô chân.
106. Vô hồ như đứa ở trần không tay.
107. Trong Long - Hổ lấy làm thầy trước.
108. Sau sẽ tìm thấy chỗ huyệt chôn
109. Nước chẳng tụ được kể chi
110. Kiếm ăn cũng khá xong thì lại không
111. Con trai thì ở bất trung
112. Con gái thất tiết chả dùng cả hai.
113. Thấy đâu Long Hổ chiều lai.
114. Minh Đường thủy tụ huyệt tài mới hay.
115. Tiền quan, hậu quỷ sắp bầy.
116. Án dày muốn thấp, chiều dày phải cao.
117. Xem huyệt nào làm cho phải phép.
118. Chớ đào sâu mà thiệt như không.
119. Kìa ai Địa lý vô tông.
120. Chẳng cứ đúng phép cũng dòng vô tư.
TẢ AO
Các bài viết tương tự:

ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ HỌC KHOA ĐỊA LÝ

1. Mấy lời để truyền hậu thế.
2. Ai học địa lý theo học Tả Ao.
3. Một là hay học càng cao
4. Hai là có ý cứ lời phương ngôn
5. Ba là học thuộc Dã Đàm
6. Bốn là mở sách la bàn cho thông.
7. Chẳng qua ra đến ngoài đồng.
8. Tỏ mạch tỏ nước tỏ long mới tường.

Theo cụ Tả Ao thì muốn học cho giỏi khoa Địa lý phải học 4 cách:
Một là phải luôn luôn học hỏi cho mỗi ngày một tiến thêm lên.

==> Thành ra mình sẽ cố gắng tìm kiếm và post các bài nghiên cứu lên DĐ.

Thân

Vì sao Tả Ao không truyền "nghề" cho hậu duệ? - Võ Giáp


GiadinhNet - Tả Ao được tôn là "Thánh địa lý", từng theo khoa Địa lý chính tông ở Trung Quốc và là thầy địa lý giỏi nhất Việt Nam theo dân gian.
Đền thờ của ông được lập ở nhiều nơi, có cả bên Trung Quốc; sách của ông được nhiều thế hệ thầy địa lý sau này "ăn theo"... Thế nhưng tại sao Tả Ao lại không truyền "nghề" cho hậu duệ?

Tả Ao chỉ là tên địa danh?

Ông là thuỷ tổ khai sinh môn địa lý phong thuỷ ở Việt Nam. Các sách vở cũng như truyền thuyết đều gọi ông là Thánh Địa lý Tả Ao, Trạng Tả Ao; là đệ nhất chính tông về địa lý, giỏi như Cao Biền bên Trung Quốc. Trong dân gian lưu truyền nhiều giai thoại về hành trạng pháp thuật của ông ở nhiều làng quê.

Thực ra, Tả Ao không phải là tên mà là địa danh nơi ông sinh sống, cũng như Nguyễn Tiên Điền là Nguyễn Du người xã Tiên Điền (Nghi Xuân, Hà Tĩnh). Theo sách vở và cả truyền miệng thì Tả Ao có những tên sau: Vũ Đức Huyền hiệu Địa Tiên, Nguyễn Đức Huyền hiệu Phủ Hưng, Hoàng Chiêm, Hoàng Chỉ.

Ông sinh vào thời Lê sơ (1428-1527), có sách nói thời Lê – Mạc (1533-1592), thời Lê – Trịnh – Nguyễn (1592-1789), có người khẳng định ông sinh năm Nhâm Tuất (1442) có sách còn nói Tả Ao và Cao Biền thi thố tài năng (tức là đời nhà Đường ở thế kỷ IX). Tuy nhiên, qua những chuyện kể có liên quan đến Mạc Kinh Độ nên hiện nay người ta dễ chấp nhận ông sinh vào thời Lê sơ.

Quê quán, có sách nói ông sinh ở làng Tả Ao (Hà Tĩnh). Có sách lại nói gốc ở Sơn Nam (vùng Hải Dương, Hưng Yên), sau đó gia đình phiêu bạt và định cư ở làng Tả Ao. Do các sách đều ghi Vũ Đức Huyền (hợp với ngoài Bắc còn miền Trung trở vào là họ Võ). Từ suy đoán này có thế chấp nhận ông sinh ở vùng Sơn Nam (Hải Dương, Hưng Yên) phiêu bạt và định cư về xã Ao Cầu (sau này tách thành 2 xã Tả Ao và Tiên Cầu), phủ Đức Quang, trấn Nghệ An, nay là xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ở đây có đền thờ Tả Ao, giếng Tả Ao. Ở thôn Nam Trì, xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên có đền thờ 3 thượng đẳng phúc thần: Tể tướng Lữ Gia (Bảo Công), tướng Nguyễn Danh Lang (Lang Công) và Cao Biền (Cao Vương) và Bản cảnh thành hoàng Tả Ao. Bởi nơi đây Tả Ao đã chọn đất lập làng để làng thịnh vượng và phát triển.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Đền thờ Tả Ao ở thôn Nam Trì, xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.




Tại sao ngài lại giỏi địa lý như vậy?

Có 2 nguồn truyền miệng về việc Tả Ao tầm sư học đạo nên nggười. Một truyền thuyết kể rằng, Tả Ao cứu một thầy địa lý người Trung Quốc chết đuối ở sông Phù Thạch xứ Nghệ. Ông ta đem vàng bạc trả ơn, ngài không lấy. Thấy ngài tướng mạo khôi ngô và tính tình hiền hòa, ông ta đưa về Tàu truyền nghề địa lý để trả ơn. Do thông minh nên ngài thu thập được những tinh hoa trong thuật phong thủy địa lý của người thầy, về nước rồi hành trạng pháp thuật.

Một giả thuyết thứ hai nói rằng, do mẹ của ngài mù lòa, nhà lại nghèo, để có thuốc chữa mắt cho mẹ, ngài đã ở không công cho người khách ngồi bốc thuốc ở Phù Thạch. Thấy ngài là người con hiếu thảo, lại ăn ở chu đáo, hiền lành, nên khi về nước, ông ta xin cho ngài đi theo. Ở đây ngài học lỏm được nghề cắt thuốc chữa mắt. Có lần ngài đã chữa khỏi mắt cho một thầy địa lý lành nghề, thấy tướng mạo tuấn tú, tính cách nhanh nhẹn hợp với nghề của thầy và cũng để trả ơn, ông xin phép thầy lang đưa ngài về nhà để truyền thuật địa lý.

Do bản tính thông minh ngài đã thâu tóm được phép thuật đó về nước. Giả thuyết này về sau được người đời tin là thật hơn vì cách lí giải trọn vẹn tình hiếu thảo với mẹ (sách nào viết về ngài cũng nói có người mẹ mù lòa), hợp với hoàn cảnh nhà nghèo, nhưng lại là người thông minh, có chí học hỏi nên thành tài.

Cái tài của thầy địa lý Tả Ao có bao câu chuyện hấp dẫn có trong sách vở cũng như truyền miệng dân gian, ta có thể tìm đọc hay nghe kể với các biệt tài: Xem thế đất để chọn hướng nhà thỏa mãn yêu cầu của thân chủ như sống thọ, phát tài phát lộc, phát quan, chọn nghề, sinh lắm con nhiều cháu; Chọn hướng táng mồ mả sao cho người sống được mạnh khỏe, giàu có, thành đạt; Chọn nơi đào giếng có nước lành, trong ngon, không cạn, không chạm long mạch; Chọn hướng đình để làng yên ấm trong ngoài, dân cư phát triển... Câu chuyện khẳng định cái tài địa lý của Tả Ao nhưng cũng lắm kết cục khôi hài (chứ không làm hại ai) nếu thân chủ, các chức sắc trong làng xã có những ý tưởng ngông cuồng...

Nhưng sao không truyền cho hậu duệ?

Tả Ao nổi tiếng bậc thầy về địa lý phong thuỷ, nhưng con cháu của ngài về sau thì không ai kế nghiệp được. Xung quanh câu chuyện này cũng có nhiều “dị bản” lí giải khác nhau. Có chuyện kể rằng, Tả Ao bị thầy địa lý (người dạy ngài) sang yểm huyệt táng cha của ngài nên không thể truyền nghề cho hậu duệ. Có truyện chép là một đêm nằm mộng, ngài được báo rằng “đất tốt là của quý, là bí mật của tạo hóa, nếu tiết lộ hết thì “âm” sẽ oán, nên phải tự dấu kín phép thuật”.

Cũng có ý kiến cho rằng, Tả Ao có con nhưng các con bất hạnh, làm ông nản. Sau này thi thoảng mới xem phong thủy địa lý cho người khác (cũng ở mức bình thường), ông dành thời gian để chữa mắt cho dân.

Tuy vậy, với 2 tập sách mỏng Tả Ao đã để lại cho đời như: Địa đạo diễn ca (chỉ 120 câu), Dã đàm (trong mấy trang văn xuôi) đã được người đời sau phát triển thành lý luận, thành gia bảo chân truyền. Trừ 2 cuốn nói trên, còn những sách khác hiểu lấp lửng là do ngài viết như: Địa đạo diễn ca (Tả Ao hiệu Địa Tiên); Dã Đàm (Tả Ao hiệu Địa Tiên) còn gọi Tả Ao tầm long gia truyền bảo đàm; Tả Ao chân truyền di thư; Tả Ao chân truyền điạ lý (Hoàng Chiêm – 5 tập); Hoàng Chiêm địa lý luận; Hoàng Chiêm truyền cơ mật giáo; Tả Ao tiên sư bí truyền gia bảo trân tàng; Tả Ao địa lý luận; Tả Ao chân truyền tập (nhiều tập); Tả Ao tiên sinh bí truyền gia bảo trân tàng (nhiều tập); Tả Ao tiên sinh địa lý (nhiều tập)...

Trừ 2 cuốn đầu là của Tả Ao, còn các cuốn sau là của các thầy địa lý khác phát triển về thuật địa lý Tả Ao. Với ngài, ngài không tự xưng là tiên sư, tiên sinh. Hay chân truyền, bí truyền, gia bảo vì không hợp với phong cách và hoàn cảnh của ngài.

Với hiệu trong đền thờ Tả Ao là Địa Tiên (còn hiệu của Nguyễn Đức Huyền là Phủ Hưng). Hầu như các sách đều viết : “Tả Ao tên là Vũ Đức Huyền hiệu Địa Tiên, có nơi còn gọi là Nguyễn Đức Huyền...”. Trong cuốn Nghi Xuân địa chí do Đông Hồ – Lê Văn Diễn soạn năm 1842 cũng viết vậy. Cuốn Từ điển Hà Tĩnh ngoài mục Tả Ao cũng ghi như vậy, còn có mục Vũ Đức Huyền, nhưng không có mục Nguyễn Đức Huyền.

Vậy ta dễ chấp nhận Thánh sư địa lý Tả Ao xưa còn gọi là Mỗ (một cách gọi dân dã), tên là Vũ Đức Huyền hiệu Địa Tiên. Sinh vào thời Lê sơ (1428 - 1527). Gốc người Sơn Nam (vùng Hải Dương, Hưng Yên), gia đình phiêu bạt và định cư ở làng Tả Ao nay thuộc xã Xuân Giang huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Có đền thờ Tả Ao, giếng Tả Ao nằm trong khuôn viên của cụm đền huyện Nghi Xuân.

Các giai thoại về cụ tả ao

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Phần 1 :

Tả ao Phong thủy nhất trên đời
Họa phúc cầm cân định chẳng sai.
Mắt Thánh trồng xuyên ba thước đất,
Tay Thần xoay chuyển bốn phương Trời.
Chân đi Long Hổ luồn qua gót,
Miệng gọi Trâu Dê ứng trả lời.
Ai muốn cầu sao cho được vậy
Ấy ai Địa lý được như ngài.



Nhà Phong Thủy nổi tiếng của Việt nam Tả Ao tên thật là NGUYỄN ĐỨC HUYỀN, người làng Tả Ao thuộc tỉnh Hà tĩnh. Cụ sống vào đời Chúa Trịnh , gia đình quá nghèo, cha lại mất sớm, mẹ bị mù nên phải tìm đủ mọi việc để giúp đỡ mẹ già. Lúc bấy giờ có một ông thầy thuốc người Tầu nổi tiếng về khoa chữa mắt, nên cụ tìm đến xin được hầu hạ thầy để thầy ra tay tế độ chữa mắt cho mẹ mình. Ông thày Tầu thấy cụ siêng năng, chăm chỉ lại thông minh nên đã truyền cho cụ một số phương cách chữa mắt. Nhờ vậy mà cụ chữa được mắt cho mẹ. Khi nghe tin ông thày Tầu sắp về nước, cụ vội vã đến xin phép thầy đi theo hầu hạ và học hỏi thêm về khoa chữa mắt. Ông Thầy bằng lòng. Thế là cụ bôn ba theo thầy Tàu và được truyền dạy tất cả những gì mà ông thày Tầu có được về nghề chữa mắt, nhất là khi ông thày Tầu đã quá già.Từ đó cụ tự chữa cho nhiều người lành bệnh mắt, danh cụ vang khắp vùng.Có một thày Địa lý nổi danh trong vùng bị đau mắt, nghe danh cụ , liền cho người dẫn đến gặp cụ. Chỉ trong một thời gian ngắn ,cụ đã chữa khỏi bệnh mắt cho ông thầy Địa lý. Thầy Địa lý mừng quá, đem vàng hậu tạ, nhưng cụ không nhận mà chỉ xin được làm đệ tử môn Địa lý Phong thủy mà thôi. Thấy người có tài đức lại có chí ham học hỏi, nên thầy Địa lý không ngần ngại đồng ý truyền hết những gì về Phong thủy mà mình có được. Chẳng bao lâu, cụ đã thành thạo tất cả những gì mà vị thày Địa lý đã truyền cho mình. Tương truyền khi học xong nghề thầy, ân sư người Tầu thử tài môn đệ trước khi "tốt nghiệp" : ông thầy chôn 100 đồng tiền xuống mô hình bãi cát rồi bắt cụ Tả Ao cắm kim vào đúng lỗ mỗi đồng. Cụ Tả Ao châm đúng giữa 99 đồng, chỉ có hơi lệch 1 đồng. Thầy Tầu than: "Thôi nghề của ta từ nay truyền sang nước Nam rồi!", ông thầy Địa lý công nhận cụ là người sáng trí, tài cao, đức trọng, nên không tiếc rẻ công sức mình truyền dạy cho. Khi dời nước Tầu về nước, cụ đã chữa mắt cho rất nhiều người, ngoài ra cụ còn đi tìm những vùng đất tốt và nghiên cứu các Long mạch, các Địa linh ở quanh vùng. Cụ không vì tiền bạc, danh vọng mà đi tìm các cuộc đất tốt cho những kẻ không xứng đáng được hưởng. Dù cụ giới hạn về khoa địa lý, nhưng nhiều người đã tìm đến cụ để nhờ cụ giúp tìm đất tốt cho nhà cửa, mồ mả, phương hướng thuận lợi cho họ. Dân chúng thời bấy giờ đã gọi cụ là cụ Tả ao ( Làng Tả ao ), danh tiếng của cụ vang đi khắp nơi và người đương thời truyền tụng cho nhau nhiều giai thoại của cụ Tả ao ngay còn lúc cụ còn sống.

Một trong những giai thoại nổi tiếng nhất của cụ Tả Ao là chữa thế đất cho làng Hành Thiện ở Nam Định: cụ đi tới làng Hành Thiện thấy đất làng hình con cá chép bơi ra biển, phù sa mỗi ngày một bồi thêm đất làm làng hưng phát, chỉ hiềm con cá chép không có mắt nên không phát khoa danh. Dân làng nghe cụ nói bèn hậu đãi trà rượu và khẩn khoản xin cụ đặt lại hướng làng. Cụ Tả Ao thấy dân làng tử tế liền chỉ cho làng đào một cái giếng lớn làm mắt cho con cá chép, từ đấy dân làng bắt đầu phát khoa danh, nhất là họ Đặng.

Cụ Tả Ao đi xem đất suốt từ Nghệ Tĩnh ra các làng mạc ở khắp miền Bắc và trong gia phả của nhiều gia đình còn ghi lại những công trình địa lý phong thủy của cụ. Nhiều chuyện khôi hài do quần chúng thêm thắt như chuyện cụ Tả Ao thấy dân làng kia rất xấu tính mà lại xin cụ để kiểu đất nào có thể "đè đầu thiên hạ", cụ liền tìm cho làng một kiểu đất khiến dân làng dần dần theo nghề "húi tóc" có thể "đè đầu vít thiên hạ" đúng như ý nguyện!

Tương truyền cụ đang đi chơi ngoài bãi biển thấy sóng gió nổi lên ầm ầm biết là hàm rồng 500 năm mới há mồm một lần ở biển Đông, liền chạy về nhà mang cốt mẹ ra định ném xuống hàm rồng, nhưng vì thương tiếc chần chờ nên hàm rồng đóng lại, biển khép êm sóng lặng như trước!

Lúc sắp chết, cụ dặn con cháu khiêng mình ra miếng đất đã định trước là đất địa tiên "nhất khuyển trục quần dương" (một con chó đuổi đàn dê), nhưng không kịp đành dừng lại nửa đường phân kim lựa cho chính mình một miếng đất phúc thần đời đời ăn hương hoa mà thôi.


Tương truyền ông để lại 2 bộ sách về địa lý:

Địa Lý Tả Ao (Địa Đạo Diễn Ca) 120 câu

Dã Đàm Tả Ao Tầm Long Gia Truyền


Sau này có nhiều dị bản chép lại và có nhiều tên khác:

Địa lý Tả Ao di thý chân chính pháp
Tả Ao chân truyền di thý
Tả Ao chân truyền tập
Tả Ao tiên sinh bí truyền gia bảo tàng
Tả Ao tiên sinh địa lý
Tả Ao tiên sinh thý truyền bí mật cách cục
Bản quốc Tả Ao tiên sinh địa lý lập thành ca


- Phần 2

Truyền thuyết về Tả Ao thành Phúc Thần như sau:

Sau nhiều năm bôn ba tầm long, Tả Ao đã chọn cho mình chỗ an táng khi về già theo thế ĐỊA TIÊN"nhất khuyển trục quần dương" ( Con chó đuổi đàn dê) ở xứ Đồng Khoai . Nếu táng được ở đây thì chỉ ba ngày sau là thành Địa Tiên. Tả Ao có 1 đệ tử tin cậy và khi ông mất người trò sẽ theo lời dặn dò để an táng Thầy vào đó, nhưng khi Thầy trò từ Trung Quốc về thì trên đường không may người trò bị ốm dịch mất. Tả Ao có hai người con trai nhưng do chu du thiên hạ, không màng dang vọng, bổng lộc nên gia cảnh, con cái thì bần hàn. Lúc sáu lăm tuổi, biết mình sắp về chầu tiên tổ nên bảo hai con khiêng đến chỗ ấy, rồi nằm dưới mộ và tự phân kim lấy, dặn con cứ thế mà chôn. Mới được nửa đường, biết là sẽ chết trước khi đến nơi , không thể kịp được nên Tả Ao bèn chỉ một gò bên đường có thế "huyết thực" mà dặn con rằng: "Chỗ kia là ngôi huyết thực, bất đắc dĩ thì cứ táng ở đó, sẽ được người ta cúng tế". Hai con bèn táng luôn ở đó, sau Ngài thành Phúc Thần một làng (Nam Trì).

Trong đình Nam Trì có câu đối của Tả Ao nói về địa lý, phong thuỷ Nam Trì: "Tây lộ khê lưu kim tại hậu - Đông giang thuỷ tụ mộc cư tiền" nghĩa là phía tây của đường làng có dòng nước chảy, phía sau của làng là hướng Tây Bắc (hướng tây bắc hành kim) – phía đông làng có sông nước tụ làng nhìn về hướng nam (hướng nam hành hoả). Sau này dân làng Thờ Tả Ao như Thành Hoàng làng .



Phần 3: Đây là giai thoại cụ Tả Ao theo cuốn Nam Hải Dị Nhân của Phan Kế Bính, nay xin post lên đây để mọi người tham khảo thêm.


TẢ AO.


Người làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Nghệ An, tên là Nguyễn Đức Huyên (có bản nói là Hoàng Chỉ). Nhân tên làng, cho nên tục gọi là Tả Ao. Lúc còn trẻ nhà nghèo lắm, mẹ phải bệnh lòa mắt, Tả Ao mới theo người khách buôn ở phố Phù Thạch về Tàu, để lấy thuốc chữa mắt cho mẹ. Thầy thuốc khen là người có hiếu, mới dạy cho phép làm thuốc. Học thành nghề mới trở về, xảy có một thầy địa lý chính tông đau mắt, sai người mời thầy thuốc đến chữa, thầy thuốc già yếu không đi được, mới sai Tả Ao đi chữa thay. Thầy địa lý khỏi đau mắt, thấy Tả Ao có ý tứ khôn dễ dạy, và cảm cái ơn chữa khỏi cho mình, mới truyền cho Tả Ao phép làm địa lý, Tả Ao học hơn một năm đã giỏi. Thầy địa lý muốn thử xem sức học làm sao, đổ cát làm ra hình sông núi, rồi yểm 100 đồng tiền xuống dưới cát, và cho Tả Ao 100 cái kim sai tìm huyệt mà cắm kim vào lỗ đồng tiền.

Tả Ao ngắm xem các huyệt, cắm trúng 99 cái kim vào 99 lỗ đồng tiền, chỉ sai mất một cái cắm ra ngoài.

Thầy địa lý nói rằng:

- Nghề ta sang phương Nam mất rồi!

Mới cho Tả Ao một cái tróc long và các câu thần chú hô thần để cho về nước Nam. Tả Ao vâng lời từ về; về đến nhà thì mẹ vẫn còn mạnh, mới chữa thuốc cho mẹ khỏi lòa.
Một khi, đi qua núi Hồng Lĩnh, trông lên xem, thấy có kiểu đất “cửu long tranh châu”, mừng mà nói rằng:

- Huyệt đế vương ở đây rồi!

Lập tức nhổ ngôi mộ của cha, cất vào huyệt trên núi. Không bao lâu sinh được một đứa con trai. Người Tàu xem thiên văn, thấy các vì sao chầu cả về phương Nam, biết là người nước Nam được đất. Chính phủ Tàu truyền cho các nhà địa lý, ai để đất cho người An Nam, hoặc là dạy người An Nam, thì phải sang nước Nam dùng thuật mà phá đi, nếu không thì tru di cả ba họ.

Thầy địa lý trước, biết chắc là ông Tả Ao được đất mới sai con sang tìm đến nhà Tả Ao, lập mưu mà triệt đi.

Người ấy tìm đến nơi, vào chơi nhà mà bảo rằng:

- Từ khi đại huynh ở Tàu về, đã cất được ngôi tiên phần nào chưa?

Tả Ao nói thực cả chuyện trước. Con thầy Tàu mới dùng mẹo đào lấy ngôi mộ ấy, mà bắt đứa con của Tả Ao đem về Tàu.

Được ít lâu mẹ Tả Ao mất. Tả Ao tìm một ngôi đất ở ngoài bãi bể, kén ngày kén giờ để hạ huyệt. Đến giờ, sóng gió ầm ầm, người anh Tả Ao giữ áo quan của mẹ, không cho hạ xuống, một lát sóng gió yên thì ở đấy nổi lên thành bãi rồi.

Tả Ao than rằng:

- Đây là hàm rồng đây, cứ 500 năm mới há miệng ra một lần, mà há chỉ trong một lát mà thôi. Bây giờ đã ngậm lại rồi, còn táng làm sao được nữa. Trời không cho thì chỉ uổng mất công ta mà thôi.

Từ bấy giờ Tả Ao không chịu làm ăn gì cả, chỉ lang thanh đi làm đất cho người ta. Một bữa đi xem đất đến làng Bùi Sơn, huyện Hoằng Hóa, thấy có một huyệt đất hay, bèn bảo người ta rằng: “Có ngôi đất, táng giờ Dần đến giờ Mão thì phát, nếu ai táng ngôi ấy tất được của, hễ ai chịu nhường cho ta một phần chia mười, thì ta cho ngôi đất ấy”. Có một người xin táng, Tả Ao dặn đến sáng sớm mai thì cất. Táng xong mặt trời mới mọc. Người ấy vác cuốc ra rửa chân ngoài sông, thấy một người chết trôi, nhân thể có cuốc, mới vớt lên chôn cho xác ấy, thấy trong bọc người chết có hai túi bạc, mở ra đếm thì được 50 nén, mới biết Tả Ao là tài, biếu Tả Ao 5 nén, rồi Tả Ao đi.

Khi đến huyện Thanh Liêm lại tìm được một ngôi, bảo người ta rằng: “Đây có ngôi đất, chỉ táng trong một tháng thì phát quận công, nếu ai cho ta 100 quan tiền, thì ta táng cho”. Có một ông nhà giàu xin táng. Bấy giờ chúa Trịnh đang đánh nhau với nhà Mạc. Tướng nhà Mạc là Mạc Kinh Độ thua trận ở huyện Kim Bảng chạy trốn. Chúa Trịnh rao ai bắt được thì thưởng cho làm quận công một đời. Ông nhà giàu ấy táng được 20 ngày rồi. Bỗng một hôm thấy có một người vào nhà bảo rằng: “Ta là Mạc Kinh Độ đây, cho ta đánh một bữa chén, ta sẽ làm ơn mà cho đem nộp lấy thưởng”. Ông nhà giàu mừng rỡ, làm cơm thết đãi. Mạc Kinh Độ ăn uống xong, cho trói mình lại mà đem đến đồn Cầu Châu nộp cho chúa Trịnh. Chúa Trịnh lập tức thưởng cho làm quận công. Người ấy được thưởng tạ Tả Ao 100 quan tiền. Tả Ao chỉ lấy 3 quan để ăn đường, rồi đi chỗ khác.

Tự bấy giờ danh tiếng đồn khắp thiên hạ. Tả Ao đi chu du bốn phương, phàm 20 năm trời. Đi qua các huyện Gia Bình, Từ Liêm, Đông Ngạn, Siêu Loại, Gia Lâm, táng cho nhà nào cũng được, lớn thì làm đến Tiến sĩ, Thượng thư; nhỏ cũng làm nên giàu hùng trưởng. Kể ra nhiều lắm, không sao cho xiết.

Khi đi qua làng Thiên Mỗ, thấy có một ngôi đất to, muốn táng hộ cho nhà họ Trần. Vừa đặt tróc long xuống đất, tróc long đổ ba lượt. Tả Ao niệm phù chú gọi Thổ thần lên hỏi, thì Thổ thần nói rằng: “Đất này phát ba đời quốc sư đại vương, con cháu công hầu không bao giờ hết. Trời đã để đành cho nhà Nguyễn Qui Đức; còn nhà họ Trần kia ít hồng phúc, không kham nổi được đất này; nếu ông làm cưỡng của trời thì tất có vạ. Vả lại ông đi khắp thiên hạ, làm phúc cho người ta đã nhiều, mà không được ngôi nào để táng cho cha mẹ, ông nên nghĩ thế thì biết”. Vì thế, Tả Ao từ bấy giờ không dám khinh thường để mả cho ai nữa.

Tả Ao sinh được hai con trai, nhà thì nghèo mà làm đất không lấy tiền của ai, cho nên con cái thường không đủ bữa mà ăn. Khi đã già, tìm sẵn một ngôi đất sinh phần cho mình, ở xứ Đồng Khoai, gọi là cách “Nhất khuyển trục quần dương” (nghĩa là một con chó đuổi đàn dê). Nếu táng được ngôi ấy, thì chỉ ba ngày thành địa tiên. Đến lúc phải bệnh, sai hai con khiêng mình ra đấy, toan phân kim lấy rồi nằm xuống cho chôn; nhưng đến nửa đường thì đã gần chết, không kịp đến được chỗ kia, mới trỏ một cái gò bên cạnh đường, dặn con rằng: “Chỗ kia là ngôi huyết thực (nghĩa là được hưởng người ta cúng tế), bất đắc dĩ táng ngay ở đấy cũng xong”.

Nói xong thì mất, bấy giờ mới 65 tuổi. Hai con đem táng vào gò ấy, quả nhiên về sau làm phúc thần một làng.

Địa lý xưa nay ở nước Nam, không ai giỏi bằng ông Tả Ao, thế mà chỉ làm phúc cho người, đến mình thì không sao làm được, mà con cái vẫn nghèo khổ, thế mới biết rằng câu tục ngữ nói:

[color="#ffff00"]“Tiên tích phúc nhi hậu tầm long”.
Dịch : Tích phúc (đức) trước, tìm long (tìm long mạch; tróc long) sau.


PHẦN NGHIÊN CỨU
Tài liệu quý giá nhất về khoa Địa Lý của người Việt Nam là Tả Ao Địa Lý Toàn Thư đã có trên 400 năm nay vẫn được các cụ giữ kín dùng làm gia bảo riêng cho giòng họ nhà mình. Nhưng cũng lạ thay trên các trang diễn đàn, tìm mãi không thấy một diễn đàn nào thảo luận sâu về Địa lý tả ao, có thể là gia bảo? có thể là không thực dụng? có thể là khó khăn chăng hay cũng có thể là THÍCH ĐỒ NGOẠI CÓ CHỮ TÀU MỚI XỊN CHĂNG!

Chính vì không có tài liệu tham khảo, trình độ hạn chế, nên chăng tiếp cận Địa lý Tả Ao như thế nào mới khám phá được cái huyền bí trong địa lý tả ao; thôi tôi thích hướng nội, tại vì người Trung Quốc cũng hướng ngoại cuối cùng họ cũng tìm địa lý Tả Ao để nghiên cứu, trong khi đó mình là người Việt sao không đọc cho thông?
Đọc lại quyển Địa lý bí thư đại toàn của Tg Cao Trung cho rằng, quyển địa lý này có 3 phần phụ lục thật đặc sắc.

+ Một là Bát Đại Hoàng Tuyền và
+ Hai là Long Thượng Bát Sát và
+ Ba là Thủy Pháp.

Nó là phần quan trọng nhất của khoa Địa Lý. Chúng tôi biết đến 9 phần 10 Địa Lý Gia không nắm vững 3 phần quan trọng này.
Thủy pháp trong khoa Địa lý là phần quan trọng nhất. Nó là phần bí truyền của khoa Địa lý. Có nhiều vị học Địa lý 30, 40 năm mà vẫn không nắm được Thủy pháp. Làm địa lý mà không biết thủy pháp thì không thể biết được đâu là chân huyệt, đâu là giả huyệt do đó 10 ngôi có thể lầm đến 9 ngôi.
Nội cuộc của một cuộc đất đầy đủ rồi mà Thủy pháp trúng thì 10 ngôi trúng cả 10.

Q:Tại sao chúng ta không đi từ phần bản chất & cỗi lõi của vấn đề đi ra nghiên cứu địa lý tả ao? ĐÓ LÀ PHẦN MỞ BÀI CỦA TÔI SẼ KHỞI ĐẦU CỦA ĐỊA LÝ TẢ AO LÀ PHẦN THỦY PHÁP!

Thân

Trước khi đi vào phần thủy pháp chúng ta đi qua một số khái niệm cơ bản của phần lập hướng (phần lập hướng có tham khảo bài viết của anh Vân Từ trên dđ hkls) bao gồm 6 phần cơ bản sau:

+ Một số khái niệm về phần lập hướng
+ Âm Dương tọa hướng luận.
+ Bát Quái Chính Phối, Thứ Phối
+ Nạp Giáp nhất khí
+ Tam Phương Tam hợp
+ Can, Chi, Quý, Nhân, Lộc, Mã
+ Thiên Tinh Hỷ Kỵ

1. Một số khái niệm về phần lập hướng.
Nội dung địa lý Tả Ao gồm 2 phần chính đó là phần: Lý Khí và Hình thể (tầm long):

"Khuyên ai học làm thầy địa lý.
Trước phải đọc sách sau là lượng cao."

Lý khí là phần lý thuyết về dịch lý, âm dương, ngũ hành, can chi, độn giáp, … để suy xét cuộc đất, tìm sự quân bình âm dương.
Phần hình thể (tầm long) của Địa lý Tả Ao (tỏ mạch, tỏ nước, tỏ long mới tường) vậy Mạch, Long, Nước, … là gì?

+ Long Mạch: Long mạch là mạch của đất chạy trên/trong đất trong đó có khí mạch (tưởng tượng như: dòng nhựa của thân cây; hay mạch máu chạy trong cơ thể của con người). Nhưng, nhựa cây, hay máu là hữu hình có thể nhìn thấy, sờ mó,… được; còn Khí thì là vô hình. Long mạch có thể đi cao (như miền sơn cước là những dãy núi, đồi, …), cũng có thể đi thấp (như ở bình dương: là những con đê, những bờ ruộng, … có khi chỉ cao 4 cm.

“11. Sơn cước mạch đi rành rành
12. Bình dương mạch lẩn, nhân tình không thông”

+ Thủy/nước: Nước từ Long chảy ra và chảy theo nuôi dưỡng và hộ vệ long. Những chỗ nước tụ có khi là minh đường, có khi chỉ là hộ tống thủy (nước dẫn long).
+ Thủy khấu: Nơi nước đến minh đường và nơi nước từ minh đường đi (cấp và thoát nước).
+ Minh đường: Nước tụ trước huyệt để nuôi dưỡng khí mạch của huyệt.
+ Long nhập thủ: Là Long kết huyệt.
+ Huyệt trường: là nơi kết huyệt.
+ Huyền vũ: Thế đằng sau huyệt trường.
+ Thanh Long:
+ Thanh Long: Thớ đất ở bên trái huyệt trường mọc ra ôm chầu vào huyệt.
+ Bạch Hổ: Thớ đất ở bên phải huyệt trường mọc ra ôm chầu vào huyệt.
+ Tiền án: Đất nổi trước mặt huyệt.
+ Sa: Là gò đống, chứng cứ hiện ra, nổi lên xung quanh huyệt cả trước và sau, bao gồm: bút, bảng, chiêng, trống, voi, ngựa, kiếm, ấn…
+ Long sinh: Long mạch sống động, bò ngoằn ngoèo, quay đầu, vẫy đuôi.
+ Long tử: Long mạch nằm ngay đơ, đuồn đuỗn như lươn, cá chết.
+ Long cường: Long mạch nổi lên to lớn hùng vĩ, ngạo nghễ.
+ Long nhược: Long mạch nhỏ nhắn, sắc thái thư thả, ung dung.

Tóm lại cái gì có nước là thủy, cái gì có thớ đất là long, bất kỳ không gian nào (nhà và các phòng ốc) cũng dụng phép tỏ trạch, tỏ nước, tỏ long mà xét đoán.


2. Âm dương tọa hướng luận / 1 động, 1 tĩnh/tịnh âm, tịnh dương

Có tất cả 24 long nhập thủ (vào huyệt) một nửa thuộc về âm, một nửa thuộc về dương. Do đó những long này được chia ra làm hai nhóm, nhóm thuộc âm được gọi là Tịnh Âm, nhóm thuộc dương được gọi là Tịnh Dương.

a) Tịnh Dương: có 12 long thuộc tịnh dương bao gồm:
+ Phần nạp giáp thiên can: Càn, giáp; khôn, Ất; Ly, Nhâm; Khảm, Quý.
+ Phần địa chi: Dần, Thân, Thìn, Tuất.
=> Toàn dương long. [Xem chương 17-âm dương luận – địa lý gia truyền bí thư đại toàn].

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Tịnh Âm: Có 12 long thuộc tịnh âm bao gồm:
+ Phần nạp giáp thiên can: [Chấn, canh; Cấn, Bính; Tốn, Tân; Đoài, Đinh
+ Phần địa chi: Tỵ, hợi, Sửu, mùi
=> Toàn âm long. [Xem chương 17-âm dương luận – địa lý gia truyền bí thư đại toàn]

c) Long, hướng
+ Âm Long tác âm hướng, thuần âm bất phát: Âm long làm âm hướng, thời thuần âm không phát.
+ Dương long tác dương hướng, thuần dương bất sinh. Dương long làm dương hướng thời thuần dương không phát.
Chính vì những long thuộc tịnh âm hoặc tịnh dương này nên khi lập hướng,

- Nếu gặp âm long nhập thủ phải lập âm hướng, thủy phóng/thủy khứ âm, thu âm thủy lai.
- Nếu gặp dương long nhập thủ lập dương hướng, thủy phóng/thủy khứ dương, thu dương thủy lai.

Nếu âm long nhập thủ mà lập dương hướng hoặc dương long nhập thủ mà lập âm hướng là âm dương bát tạp rất hung. Tuy nhiên nếu thuần âm/cô âm cả hoặc thuần dương/cô dương cả cũng không kết phát. Do đó đối với âm long khi lập hướng phân kim phải ghé sang dương vài phân và ngược lại, đối với dương long khi lập hướng phân kim phải ghé sang âm vài phân; và như thế trong âm sẽ có dương và trong dương sẽ có âm thì mới có sự giao hòa hợp cấu âm dương mà kết phát được.
Khi phân kim phải dùng la kinh. La kinh là một la bàn tròn 360 độ và được chia làm 24 sơn, mỗi sơn chiếm 15 độ, tất nhiên chính giữa mỗi sơn là 7,5 độ. Không được chọn ngay chính giữa sơn mà phải ghé sang bên phải hoặc bên trái 3,5 độ hoặc 11,5 độ. Tùy theo âm long hay dương long nhập thủ mà ghé sang âm hoặc dương. Nếu âm long thì ghé sang dương vài phân và dương long thì ghé sang âm vài phân (ghé sang 3.5 độ hoặc 11,5 độ).

Cụ thể Địa lý tả ao có trích dẫn:
+ Như Hợi long (âm long) làm Bính (âm hướng) thì lúc tọa huyệt phân Kim phải gia sang Ngọ (Dương) nửa phân, thừa lấy vượng, tướng, khiến cho hướng khôngcô âm.
+ Như Tý Long (Dương long) làm Ngọ hướng (dương hướng) thì lúc tọa huyệt phân Kim phải gia sang Mùi nửa phân, khiến cho hướng không cô dương. Ngoài ra đều theo như vậy.

....

3. Bát quái chính phối, hư phối
a) Bát Quái: Nếu lập bát quái để tính về nhân sự thì: Càn là cha, khôn là mẹ, chấn là trưởng nam, tốn là trưởng nữ, khảm là trai giữa, ly là gái giữa, cấn là trai út, đoài là gái út.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Chính Phối [trong bát trạch là quan hệ Diên niên]:
là phối đúng đối tượng, do đó:
+ Càn là cha thì phải phối với khôn là mẹ;
+ Chấn là trưởng nam phải phối với tốn là trưởng nữ;
+ Khảm là trai giữa phải phối với ly là gái giữa;
+ Cấn là trai út phải phối với đoài là gái út.
Lấy chính đạo mà phối với nhau thì luôn luôn là hợp cục. Nếu chính phối mà không lập được thì phải lập thứ phối, như thế mới có âm dương tương kiến giao hòa, nhờ đó mới có sinh khí.

Sau đây là phần phân loại của những long nhập thủ cùng những chính phối và thứ phối:
- Nếu Chấn, canh; hợi, mùi long nhập thủ thì lập chính phối là Tốn, Tân hướng và lập thứ phối là Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu hướng.
- Nếu tốn, tân long nhập thủ thì lập chính phối là chấn, canh, hợi, mùi hướng và thứ phối là cấn, bính hướng.
- Nếu đoài, đinh, tỵ, sửu long nhập thủ thì lập chính phối là cấn, bính hướng và lập thứ phối là chấn, canh, hợi, mùi hướng.
- Nếu cấn, bính long nhập thủ thì lập chính phối là đoài, đinh, tỵ, sửu hướng và lập thứ phối là tốn, tân hướng.
- Nếu ly, nhâm, dần, tuất long nhập thủ thì lập chính phối là khảm, quý, thân, thìn hướng và lập thứ phối là càn, giáp.
- Nếu càn, giáp long nhập thủ thì lập chính phối là khôn, ất hướng và lập thứ phối là ly, nhâm, dần, tuất hướng.
- Nếu khảm, quý, thân, thìn long nhập thủ thì lập chính phối là ly, nhâm, dần, tuất hướng và lập thứ phối là khôn, ất hướng.
- Nếu khôn, ất long nhập thủ thì lập chính phối là càn, giáp hướng và lập thứ phối là khảm, quý, thân, thìn hướng.

4. Nạp giáp nhất khí
Nạp giáp nhất khí nghĩa là áp dụng bát quái để nạp (thu nhận vào) một số Can và Chi cho đồng một khí hầu tạo được một sự nhất khí. Có nhất khí thì mới nhất chí để có sự hòa hợp với nhau. Cổ nhân thường nói, đồng thanh tương ứng, đồng ý tương cầu, không ngoài cái ý hòa hợp với nhau vậy.

Bảng nạp giáp của bát quái:
- Càn nạp (nhận vào) Giáp.
- Khôn nạp Ất.
- Khảm nạp Quý, Thân, Thìn.
- Chấn nạp Canh, Hợi, Mùi
- Cấn nạp Bính.
- Tốn nạp Tân
- Ly nạp Nhâm, Dần, Tuất.
- Đoài nạp Đinh, Tỵ, Sửu.

* Ứng dụng: Ứng dụng vào phép lập hướng thì:
- Càn long nhập thủ ==> lập ==> Giáp hướng.
- Giáp long nhập thủ ==> lập ==> Càn hướng.
- Khảm, Quý, Thân và Thìn long nhập thủ ==> lập ==> Ly, Nhâm, Dần và Tuất hướng.
- Ly, Nhâm, Dần và Tuất long nhập thủ ==> lập ==> Khảm, Quý, Thân và Thìn hướng.

Chương XIV – Nhật ký sơn thủy hợp cát pháp - Địa lý tả ao có nêu rõ cát nạp giáp sơn thủy:
Long thủy nạp Giáp
a. Càn long nạp Giáp thủy
b. Khảm long nạp Quý thủy
c. Cấn long nạp Bính thủy
d. Chấn long nạp Canh thủy
e. Tốn long nạp Tân thủy
g. Khôn long nạp Ất thủy
h. Đoài long nạp Đinh thủy
Nạp Giáp như trên đây là hợp pháp tốt.

5. Tam phương tam hợp
Tuy gọi là tam hợp mà tình thì không hợp vì địa chi mà phối hợp với địa chi thì phạm sát nên phải lấy thiên can phối hợp với địa chi thì mới có sinh khí. Do đó:

a) Nếu là Hỏa cục của: [Cấn/Dần – Bính/ngọ - Tân/Tuất]
- Cấn, Bính, Tân long thì ==> lập ==> Dần, Ngọ, Tuất hướng.
- Dần, Ngọ, Tuất long thì ==> lập ==> Cấn, Bính, Tân hướng.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Nếu là Kim cục của: [Tốn/Tị - Canh/Dậu – Quý/Sửu]

- Tốn, Canh, Quý long thì ==> lập ==> Tỵ, Dậu, Sửu hướng.
- Tỵ, Dậu, Sửu long thì ==> lập ==> Tốn, Canh, Quý hướng.

c) Nếu là Mộc cục của: [Càn/Hợi – Giáp/Mão – Đinh/Mùi]
- Càn, Giáp, Đinh long thì ==> lập ==> Hợi, Mão, Mùi hướng.
- Hợi, Mão, Mùi long thì ==> lập ==> Càn, Giáp, Đinh hướng.

d) Nếu là Thủy cục của: [Khôn/Thân – Nhâm/Tý – Ất/Thìn]
- Khôn, Nhâm, Ất long thì ==> lập ==> Thân, Tí, Thìn hướng.
- Thân, Tí, Thìn long thì ==> lập ==> Khôn, Nhâm, Ất hướng.
....

6. Can, chi, Lộc, Mã, Quý nhân

a) Lộc: Tết ra mọi người thường đi hái LỘC, chúc nhau Năm mới Lộc đầy nhà, .... Lộc là gì? LỘC ở đây BẢN CHẤT LÀ LÂM QUAN TRÊN VÒNG TRƯỜNG SINH!

Tính theo thiên can và nạp giáp:

+ Tính theo Thiên can:
- Giáp lộc ở Dần
- Ất lộc ở Mão
- Bính lộc ở Tỵ
- Đinh lộc ở Ngọ
- Mậu lộc ở Tỵ
- Kỷ lộc ở Ngọ
- Canh lộc ở Thân
- Tân lộc ở Dậu
- Nhâm lộc ở Hợi
- Quý lộc ở Tí

+ Tính theo Nạp giáp thiên can, địa chi (tam hợp cục):
- Càn theo Giáp lộc ở Dần
- Khôn --> Ất lộc ở Mão
- Chấn --> Canh lộc ở Thân
- Tốn --->Tân lộc ở Dậu
- Cấn ---> Bính lộc ở Tị
- Đoài --> Đinh lộc ở Ngọ
- Khảm --> Quý lộc ở Tý
- Ly --> Nhâm lộc ở Hợi
- Hợi, (mão/chấn), Mùi theo Chấn lộc ở Thân
- Tị, (dậu/đoài), Sửu theo Đoài lộc ở Ngọ
- Thân, (Tý/khảm), Thìn theo Khảm lộc ở Tý
- Dần, (ngọ/Ly), Tuất theo Ly lộc ở Hợi

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Mã:

Tính theo Tam Hợp địa chi:
- Dần, Ngọ, Tuất Mã ở Thân
- Thân, Tí, Thìn Mã ở Dần
- Hợi, Mão, Mùi Mã ở Tị
- Tị, Dậu, Sửu Mã ở Hợi
Trên đây là Mã ở 12 địa chi. Nếu Thủy cục là Thân, Tý, Thìn thì cần phải có nước ở phương Dần triều về [THU THỦY], hoặc Sa ở phương Dần nổi cao [NẠP SA].


* Dịch Mã: Sau đây là dich Mã của Bát Can và Tứ Duy, mặc dù cũng là Mã, tuy nhiên phúc lực (sức mạnh của phúc) không bằng Mã ở Tam Hợp Cục Địa Chi:
- Giáp Sơn kiêm Dần thì Mã ở Thân, nếu kiêm Mão thì Mã ở Tỵ
- Ất sơn kiêm Mão thì Mã ở Tỵ, nếu kiêm Thìn thì Mã ở Dần.
- Bính sơn kiêm Tỵ thì Mã ở Hợi, nếu kiêm Ngọ thì Mã ở Thân
- Đinh sơn kiêm Ngọ thì Mã ở Thân, nếu kiêm Mùi thì Mã ở Ty.
- Canh sơn kiêm Thân thì Mã ở Dần, nếu kiêm Dậu thì Mã ở Hợi
- Tân sơn kiêm Dậu thì Mã ở, nếu kiêm Hợi thì Mã ở Tuất
- Nhâm sơn kiêm Hợi thì Mã ở Tỵ, nếu kiêm Tí thì Mã ở Dần
- Quý sơn kiêm Tý thì Mã ở Dần, nếu kiêm Sửu thì Mã ở Hợi
- Càn sơn kiêm Tuất thì Mã ở Thân, nếu kiêm Hợi thì Mã ở Tỵ
- Khôn sơn kiêm Mùi thì Mã ở Tỵ, nếu kiêm Thân thì Mã ở Dần
- Cấn sơn kiêm Sửu thì Mã ở Hợi, nếu kiêm Dần thì Mã ở Thân
- Tốn sơn kiêm Thìn thì Mã ở Hợi, nếu kiêm Tyh thì Mã ở Hợi

c) Quý Nhân.
Tính theo thiên can ta cần thuộc bài thơ sau đây:
- Giáp, Mậu, Canh Ngưu Dương
- Ất, Kỷ Thử Hầu hương
- Bính, Đinh Trư Kê vị
- Nhâm, Quý Xà Thố tang
- Lục, Tân tầm Mã Hổ
- Thử thị Quý Nhân hương

- với 3 thiên can Giáp, Mậu, Canh thì Quý Nhân ở Sửu (Ngưu) và Mùi (Dương)
- với 2 thiên can Ất , Kỷ thì Quý Nhân ở Tý (Thử) và Thân (Hầu)
- Với 2 thiên can Bính, Đinh thì Quý Nhân ở Hợi (Trư) và Dậu (Kê)
- với 2 thiên can Nhâm, Quý thì Quý Nhân ở Tỵ (Xà) và Thỏ/Mão (Thố)
- với Tân Quý Nhân ở Ngọ (Mã) và Dần (Hổ)


Sau đây là bài ứng dụng của Quý Nhân Quý Nhân sa và Quý Nhân thủy:

- Nếu thấy long nhập thủ là Giáp và thấy sa khởi (phát xuất) ở hướng Mùi [NẠP SA] và thấy thủy lai ở hướng Mùi [THU THỦY].
- Nếu thấy long nhập thủ là Ất và thấy sa khởi (phát xuất) ở hướng Thân và thấy thủy lai ở hướng Thân
- Nếu thấy long nhập thủ là Bính và thấy sa khởi (phát xuất) ở hướng Dậu và thấy thủy lai ở hướng Dậu
- Nếu thấy long nhập thủ là Đinh và thấy sa khởi (phát xuất) ở hướng Hợi và thấy thủy lai ở hướng Hợi
- Nếu thấy long nhập thủ là Canh và thấy sa khởi (phát xuất) ở hướng Sửu và thấy thủy lai ở hướng Sửu
- Nếu thấy long nhập thủ là Tân và thấy sa khởi (phát xuất) ở hướng Dần, Ngọ và thấy thủy lai ở hướng Dần, Ngọ
- Nếu thấy long nhập thủ là Nhâm và thấy sa khởi (phát xuất) ở hướng Mão và thấy thủy lai ở hướng Mão.
- Nếu thấy long nhập thủ là Quý và thấy sa khởi (phát xuất) ở hướng Tỵ và thấy thủy lai ở hướng Tỵ.

Tất cả những sa và thủy nói trên đều là Quý Nhân Sa và Quý Nhân Thủy. Tuy nhiên phải là Dương Quý Nhân thì mới phát, nếu là Âm Quý Nhân thì chỉ yên (an) nhà mà thôi.
Bảng Âm Dương Quý Nhân:

Can Ngày: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Dương Quý: Mùi, Thân, Dậu, Hợi, Sửu, Tí, Sửu, Dần, Mão, Tỵ
Âm Quý: Sửu, Tí, Hợi, Dậu, Mùi, Thân, Mùi, Ngọ, Tỵ, Mão.

Tứ Duy Quý Nhân theo Nạp Giáp:
- Càn sơn Quý Nhân tại Mùi
- Khôn sơn Quý Nhân tại Thân
- Cấn sơn Quý Nhân tại Dậu
- Tốn sơn Quý Nhân tại Dần

Tất cả những Tứ Duy Quý Nhân trên đều là Dương Quý Nhân cả.

* CHÚ Ý QUAN TRỌNG:
1. Có Quý Nhânkhông có Lộc, Mã (lâm quan) thì không phát Quan được.
2. Có Lộc, Mã (lâm quan) mà không có Quý Nhân (người nâng đỡ) thì làm quan không được bền.
3. Có Quý Nhân sơn cùng Lộc, Mã sơn cùng hiện [QUÝ, LỘC, MÃ] là Thôi Quan Cách, phát phú quý song toàn.
4. Quý Nhân sơn và Mã sơn cùng hiện tại một chỗ thì gọi là Quý Nhân Phùng Mã cách, quý không thê nói hết được.
5. Tọa sơn có gò Quý Nhân hiện, Án tiền có gò Lộc hiện là Quý Nhân Vong Tộc cách, phú quý khả kỳ.
6. Cục, hướng sa thủy đều có Lộc tinh hiện và Tú Lộc cách, tài lộc mỗi ngày mỗi bồi thêm.

.....
Bác biết nhiều về phong thủy vậy? chỉ em 1 ít được k ?






Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |