NGŨ UẨN = SÀO HUYỆT CỦA KHỔ ĐAU
Một vị tướng soái, trước khi muốn đánh địch cần phải biết rõ vị trí của địch, nội tình của địch. Đức Phật cũng vậy, trước khi dạy ta «diệt khổ», cần phải cho ta biết rõ khổ đau nằm tại nơi đâu. Nếu như dùng từ ngữ bình dân mà nói, thì có lẽ Đức Phật đã nói: Đau khổ nằm sẵn trong:
1– Ngoại cảnh.
2– Hình hài thân xác ta.
3– Trí lự ta.
4– Tâm tư ta.
5– Cách thức ta đối phó với ngoại cảnh.
Thay vì nói nôm na như vậy, Đức Phật đã dạy: Ngũ uẩn là địa bàn của đau khổ, vì Ngũ uẩn có đủ những đặc tính sau đây là: biến thiên, vô ngã, và đau khổ (xem chú thích 2 nơi trên).
Ngũ Uẩn hay Ngũ âm (Skandas, - Five Aggregates) được hiểu là Năm món tích tụ, hòa hiệp lại thành thân, tâm con người, và chúng sinh.
Ngũ Uẩn gồm có: Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức.
-
Sắc (rupas- Forms or corporeality): Sắc là cái gì hữu tướng hữu hình, được cấu tạo bởi Tứ Đại (the four great elements: Đất, Nước, Gió, Lửa), bởi Ngũ Trần (Sắc, thanh hương, vị, súc), Ngũ Căn (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân).[18]
Như vậy Sắc là ngoại cảnh, và xác thân ta.
-
Thụ (Vedana– Sensations– Feelings): 'Thụ' bao gồm tất cả những cảm giác được sinh ra khi ngũ quan (ngũ căn) tiếp xúc với ngoại cảnh (ngũ trần).
-
Tưởng (Sanjna– Perceptions– Cognitive phenomena– Notions): 'Tưởng' là tri giác bao quát tất cả những hình ảnh, những dữ kiện mà tâm tư, trí não đã thu thập được từ ngoại cảnh.
-
Hành (Samskaras– Psychic constructions, including both conscious and unconscious activity– Volitions– Impressions): 'Hành' bao gồm tất cả những hoạt động của trí lự, tâm tư hữu ý hay vô tình.
-
Thức (Vijnana– thoughts– Knowledge), Thức có 6 loại: Nhãn thức, nhĩ thức, Tị thức, Thiệt thức, thân thức, ý thức.
Như vậy: Sắc bao quát ngoại cảnh và thân xác, ngũ quan con người.
Thọ, Tưởng, Hành, Thức bao quát tâm tư, trí lự con người.
Ngũ uẩn vẽ ra hình ảnh một con người hướng ngoại, chỉ lo ứng phó với ngoại cảnh. Ngũ uẩn làm tôi liên tưởng đến bộ máy computer hiện giờ. Sắc Thụ là giai đoạn thu thập dũ kiện; hànhlà giai đoạn biến hóa dữ kiện; tưởng là giai đoạn áp dụng dữ kiện để giải quyết công việc thường nhật.
Nếu hiểu Ngũ Uẩn như vậy, thì bất kỳ ai nếu chỉ sống bằng Ngũ Uẩn, trong Ngũ Uẩn, người ấy chỉ mới là một con người dung phu, dung tục, hướng ngoại, hết sức lệ thuộc vào ngoại cảnh, tùy nghi độ nhật, mưu sinh, chưa có gì là cao đại.
Vô Cấu Tử có kệ: Ngũ Uẩn sơn đầu nhất đoạn không, Đồng môn xuất nhập bất tương phùng. Vô kượng kiếp lai nhẫm ốc trú, Đáo đầu bất thức Chủ Nhân Ông. Tạm dịch
: Đầu non Ngũ Uẩn một vừng Không, Vào ra cùng cửa chẳng tương phùng. Từ bao nhiêu kiếp thuê nhà ở, Tới nay, nào biết Chủ Nhân Ông.
Ngũ Uẩn chính là con người phù du, hư ảo, chính là cái
Vọng Tâm, tà ngụy, biến thiên, chính là nguồn gốc sinh tử, khổ đau. Khi đã rõ bộ mặt thực của nó là biến thiên, sinh tử, giả tạo, khổ đau, thì nhất định chúng ta không thể nào còn muốn ôm ấp, chắt chiu, tu sửa, dùi mài gì nó được. Nó chính là giặc cướp hóa trang làm con cái trong nhà. Chỉ có một giải pháp là vứt bỏ nó cho mau, để vươn vượt tới Con Người Chân Thực, tới
Chân tâm quang minh, hằng cửu, tĩnh lãng, hạnh phúc. Thế chính là Diệt Ngã để nhập Niết Bàn, để khế hợp với Chân tâm...
Phật Học Từ Điển, Đoàn Trung Còn, nơi chữ Bổn Ngã, cũng ghi nhận đại khái rằng 'Bổn Ngã', hay Ngã, hay Cái ta, tức là Ngũ Uẩn tạm hiệp, và luận tiếp rằng:
Nhà đạo học chân chánh phải cho rằng cái bổn ngã tức thân tâm là giả, vốn không. Tưởng quyết như vậy mới dứt các mối tríu mến, phiền não, mới dễ bề đắc đạo...
Kinh Tạp A Hàm - Samyutta Nikaya - bình về Ngũ uẩn như sau: «Giả sử sông Hằng chảy xuôi với những bọt nước bồng bềnh trôi nổi bên trên, lại giả sử có một người biết nhận xét tinh tế đứng quan sát cảnh tượng đó, người đó sẽ thấy bọt nước là rỗng không, không có thực tướng. Cũng như thế, thể xác vì là sắc tướng nên là giả tạo, không có thực chất. Bốn uẩn kia cũng vậy:» Sắc là bọt nổi; Thọ là bong bóng nước; Tưởng là ảo ảnh; Hành như cây chuối xốp; và Thức như bóng ma. Đã hẳn rằng cái gì có sinh tất phải có diệt...[19]
Ngũ uẩn như vậy là những hiện tượng biến thiên, nên nhất định là bị hủy hoại. Muốn trường sinh, bất tử chắc chắn chúng ta phải vượt lên trên cảnh giới của Ngũ Uẩn, nghĩa là phải vào cảnh giới Niết Bàn.
Nếu thật sự Ngũ Uẩn nó xấu xa như vậy, tại làm sao mà con người lại không chịu vứt bỏ nó, tại làm sao con người lại cứ ôm ấp nó để mãi mãi luân lạc trong cảnh luân hồi sinh tử?
Phật giải câu hỏi trên bằng Thập Nhị nhân duyên, và cho rằng sở dĩ thế chính là vì con người ngu dốt.
THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
(Doctrine of Dependent Origination, which stressed the conditionality, relativity and interdependence of all the factors that compose what we call man): CĂN DO CỦA LUÂN HỒI SINH TỬ.
Dưới đề mục Thập Nhị Nhân Duyên, Đức Phật đại khái luận về cái thế giới hiện tiền, biến thiên sinh diệt, cái thế giới của các nhân duyên tương liên, tượng hợp; tương giao, tương tùy; tương hô, tương ứng; tương khắc, tương thừa; tương sinh, tương diệt. Cái thế giới này bao quát cả ngoại cảnh, đến hình hài, đến tâm tư, trí lự con người. Cái thế giới biến thiên ảo hóa ấy chung qui vẫn là ở trong vòng luân hồi, sinh tử...
Con người bị luân hồi sinh tử, chính là vì chỉ biết nhìn thấy cái Hiện Tượng nhãn tiền, phiến diện bên ngoài, mà không nhìn thấy cái Bản Thể vi diệu bên trong, chính là vì NGU SI, DỐT NÁT.
Con người bị luân hồi sinh tử chính là vì tham luyến, vì ôm ấp trần ai, tục lụy, chính là vì đã chạy theo giả cảnh, biến thiên bên ngoài, mà bỏ quên mất cái Chân thường Vi Diệu bên trong.
Đức Phật trình bày quan niệm trên bằng Thập Nhị Nhân Duyên.
Thập Nhị Nhân Duyên (Pratitya samutpada– dvadasanga pratityasamutpada) là:
1. Vô Minh - 2. Hành - 3. Thức - 4. Danh Sắc - 5. Lục Nhập - 6. Xúc - 7. Thụ - 8. Ái - 9. Thủ - 10. Hữu - 11. Sinh - 12. Lão, Tử.
Các sách thường giải Thập Nhị Nhân Duyên chính là căn do làm cho con người luân lạc trong cõi sinh tử luân hồi. Họ giải Vô Minh, Hành là nhân trong kiếp trước; Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thụ, Ái, Thủ, Hữu là quả trong kiếp này; còn Sinh, và Tử là hậu quả cho kiếp sau.
Tôi thấy giải thích kiểu này có vẻ bất ổn, nhất là chỉ cho nó có ảnh hưởng trong ba kiếp.
Ngoài ra ta còn thấy Phật giáo Tây Tạng thường vẽ Thập Nhị Nhân Duyên chung vào một hình cùng với Tham Sân Si, và Lục Đạo, Tam Đồ.
Vòng tròn trong cùng là Tham, Sân Si, tượng trưng bằng hình con Gà (Tham); Con Rắn (Sân), Con Lợn (Si). Ba con cắn đuôi nhau. Tham Sân si chính là Vọng Tâm.
Vòng tròn giữa có hình Lục đạo: Thiên (Tiên)– Atula (Thần)– Nhân (Người)– Địa Ngục– Ngạ quỉ (Ma đói)– Súc sinh– Súc vật.
Vòng ngoài cùng là vòng Thập Nhị Nhân Duyên: Có 12 hình vẽ: 1. Bà lão mù (Vô Minh)– 2. Hình thợ gốm (Hành)– 3. Hình con khỉ (Thức)– 4. Hình chiếc thuyền (Danh Sắc)– 5. Hình cái nhà (Lục Nhập)– 6. Hình trai gái ngồi với nhau (Xúc)– 7. Hình một người bị tên (Thụ)– 8. Hình người đang uống rượu (Ái)– 9. Hình người hái quả (Thủ)–10. Hình trai gái yêu nhau (Hữu)– 11. Hình người đang sinh con (Sinh)– 12. Hình bà lão chống gậy hay hình hai người khiêng cái xác (Lão, Tử).
Ngoài cùng có hình Ma Vương (Mara– Tử Thần).
Ngụ ý toàn hình: ôm ấp Vọng tâm, coi đó là Mình; Ngu muội ám tâm, luyến trần, luyến cảnh đó chính là duyên do đưa con người vào cảnh sinh tử, luân hồi.
Cắt nghĩa như vậy, thật hết sức sáng tỏ.
Trở lại Thập Nhị Nhân Duyên (Pratityasamutpada – The formula of Dependent Origination – Doctrine of Causality – Dependently Coordinated Origination):
1. Vô Minh (Avidya – Ignorance): Sự ngu dốt chính là nguồn gốc, là căn do đưa con người vào trần ai tục lụy. Ngu dốt chính là vì đã không nhìn thấy Bản Thể vi diệu, sang cả của con người, nên đành dấn thân vào con đường trần ai, tục lụy.
2. Hành (Samskara – Karnic Formations – Action – Activity – Conceptions – Dispositions). Con người sinh ra vốn có khuynh hướng hoạt động, nên nếu không hướng nội, sẽ hướng ngoại, nếu không biết được cái cao siêu, vĩnh cửu, thì sẽ dồn nỗ lực vào công cuộc mưu sinh bên ngoài.
3. Thức (Vijnana): Rồi ra sẽ tò mò tìm hiểu ngoại cảnh.
4. Danh sắc (namarupa – Names and forms). Danh sắc là Hình, Danh, Sắc, Tướng bên ngoài, tức là ngoại cảnh. Từ đây con người bắt đầu ứng đối, giao tiếp với cảnh trí bên ngoài.
5. Lục nhập (Sadayatana – The six sense-organs – The six bases of Consciousness). Lục nhập là ngũ quan và ý của con người.
6– Xúc (Sparsa – contact) Xúc là sự tiếp xúc giữa con người và ngoại cảnh.
7– Thụ (Vedana – Feelings, sensations): Ảnh hưởng ngoại cảnh bắt đầu xâm nhập vào ý thức tâm tư con người qua lối đường cảm giác.
8– Ái (Trsna. Yêu, ước muốn). Do đó nảy ra lòng ham muốn, thèm khát.
9– Thủ (Upadana – laying hold of, grasping). Tức thời sinh ra lòng muốn chiếm đoạt.
10– Hữu (Bhava – being, existing, becoming – life i. e. various conscious activities): Chiếm đoạt để làm của sở hữu, và cuộc đời cứ thế chảy trôi. Hết danh, đến lợi, đến tình, lặn ngụp mãi trong vòng hưởng thụ. Và cứ như thế, tầm nhìn lối nghĩ hẹp mãi dần, thần trí hôn quyện dần...
11– Sinh(Jati – Birth) và cứ thế sinh sinh...
12– Lão, Tử (Jana – Marana – old age and dealth) rồi lão, tử.
Đối với tôi, Thập Nhị Nhân Duyên chính là một cuốn phim chiếu chậm lại để mô tả hình ảnh một con người, vì mê lạc, nên đã chạy theo hình danh sắc tướng bên ngoài, chạy theo biến thiên, ảo hóa. Mà gieo gì sẽ gặt nấy, những người xốc nổi phù phiếm như vậy sẽ gặt hái được phù du, hư ảo. Hướng đi của Thập Nhị Nhân Duyên là hướng đi ra TRẦN CẢNH, TỤC LỤY bên ngoài. Cứu cánh sẽ chỉ là toàn sinh, với diệt, toàn là những khổ với đau.
Sau khi đã luận về Niết Bàn, về Vô Minh, về Ngũ Uẩn, về Chân tâm, Vọng tâm, về Tứ Diệu Đế, về Thập Nhị Nhân Duyên, ta thấy Đức Phật hoàn toàn khảo sát về con người và về các tầng lớp trong con người, nên tới đây tôi thiết nghĩ nên vẽ ra một sơ đồ về con người, để cho thấy đâu là Chân Tâm, đâu là bức màn Vô Minh, đâu là Vọng tâm, đâu là Ngũ Uẩn, Lục Trần, Lục Căn, đâu là Thập Nhị Nhân Duyên, đâu là Luân Hồi, đâu là Niết Bàn v.v...
Sơ đồ đó như sau:
- Vòng tròn trong cùng là Chân tâm, là Cảnh giới Niết Bàn, là Ba La Mật Tâm.
- Giữa Vòng trong cùng, và vòng thứ 2, có một vòng đen, tượng trưng cho bức màn Vô Minh. Nó ngăn cách Chân Tâm và Vọng Tâm. Nó cũng thường được ví như là một biển khơi, có hai bờ: Bờ Mê, và Bến Giác. Bờ phía Chân Tâm là Bờ Bên Kia, là Bến Giác. Bờ phía Vọng Tâm (vòng thứ 2) là Bờ Bên Này, là Bờ Mê. Muốn vượt biển Vô Minh phải dùng «Tuệ Giác» tức là Con Thuyền Bát Nhã, nói theo tiếng Phật Giáo.
- Vòng thứ 2 là Vọng Tâm, gồm đủ thất tình, lục dục, trí lự, tâm tư.
- Vòng ngoài cùng là xác thân, với Ngũ Quan.
- Vòng tròn 2 và 3 (vọng tâm, thân xác) cộng với Ngoại Cảnh sẽ tạo thành Ngũ Uẩn.
- Cảnh giới Luân Hồi chính là ở trong ngoại cảnh đó. Thập Nhị Nhân Duyên cũng hoạt động ở trong các môi trường Ngũ Uẩn, và Lục Trần (Ngoai cảnh).
Vậy muốn vào Niết Bàn, chỉ có một phương thế duy nhất là biết rõ hướng đi dẫn tới Niết Bàn (tức là đi sâu vào nội tâm); lặng lẽ vượt qua được các trạm kiểm soát, các chướng ngại ngoại cảnh, xác thân, ý thức, tâm tư; tìm ra được tới bờ biển Vô Minh; sắm được một con thuyền Bát Nhã, và làm một cuộc hải trình tâm linh đơn độc; cố sang tới Bờ Bên Kia. Sang tới Bờ Bên Kia tức là thoát Luân Hồi, vào tới Chân Tâm, tới cảnh giới Niết Bàn.
Chúng ta có thể áp dụng kinh nghiệm «Vượt Biên», để thoát Luân Hồi mà vào Niết Bàn.
Còn như nói theo từ ngữ triết học, Phật học thì ta sẽ rằng: Muốn tìm ra con đường giải thoát, tìm ra lối vào cảnh giới Niết Bàn, con người phải thay đổi, tầm nhìn, lối nghĩ, thay đổi chiều hướng, thay đổi lối sống thường nhật. Đó là BÁT CHÍNH ĐẠO
BÁT CHÍNH ĐẠO = CON ĐƯỜNG DẪN TỚI NIẾT BÀN
Bát Chính Đạo (Aryastangamarga – The Eight Fold Paths) là:
- Chính kiến (right view): Hãy có cái nhìn cho đúng.
Phật giáo xưa nay đặt nặng chữ Giác Ngộ, chữ Huệ. Nên Đức Phật dạy muốn vào Niết Bàn điều kiện tiên quyết là phải nhìn nhận cho đúng.
Nếu chúng ta cho rằng cuộc đời này là vô thường, là biến thiên, là vô ngã, là khổ đau, ngoài ra chẳng có cái gì gọi là chân thường, là bất sinh bất tử, thì chúng ta sẽ kết luận rằng: Sống trên đời, hưởng thụ được gì, cứ việc hưởng, rồi ra buông hai tay xuôi, thế cũng là xong.
Nhưng nếu chúng ta nhìn thấy rằng ngoài cái biến thiên, sinh tử, còn có cái gì bất sinh bất tử; Ngoài con người phù phiếm bên ngoài của chúng ta, một con người đang bềnh bồng trên trùng dương thời khắc, còn có một con người vĩnh cửu mà ta có thể thực hiện được; ngoài cái khổ đau, sinh tử bên ngoài, chúng ta còn có thể tìm được cõi Niết Bàn ẩn áo bên trong, thì dĩ nhiên ta sẽ có hành động khác.
Cái đau khổ, biến thiên, chất chưởng bên ngoài chúng ta ai cũng nhìn thấy. Nhưng cái con người vĩnh cửu, chân thực vô biên tế trong ta, cõi Niết Bàn vĩnh cửu trong ta thì không ai nhìn thấy. Chúng ta tránh né không dám dùng những chữ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, mà chỉ dám coi Niết Bàn như là cái gì Tịch Diệt. Chúng ta hãy thay đổi tầm nhìn lối nghĩ, và hãy nhận định rõ ràng rằng Niết Bàn chính là hạnh phúc trường tồn, là trạng thái thoát vòng Sinh, Lão, Bệnh, Tử, thoát vòng biến thiên, thoát vòng lệ thuộc của thời gian. Đức Phật đã thấy như vậy, đã dạy như vậy. Thánh, Hiền, Tiên, Phật xưa nay đều tin như vậy, đều dạy như vậy. Không nhận định, không tin tưởng như vậy, sẽ không có đủ hùng tâm, dũng chí mà tiến tới.[20]
2–
Chính Tư Duy (Right Thought– Right Resolve– Right purpose or aspiration). Có học giả dịch chính tư duy là suy nghĩ cho đúng; có học giả lại dịch là quyết định cho đúng. Tôi cũng hiểu là quyết định cho đúng.
Tôi nghĩ rằng muốn nhìn cho đúng, tất nhiên là đã phải nghĩ cho đúng rồi. Nên đối với tôi, muốn vào Niết Bàn, phải quyết tâm, phải lập đại nguyện. Đó là một điều kiện tiên quyết để làm nên những đại công, đại nghiệp.
Đức Phật đã hạ quyết tâm nếu không tìm ra được chân lý rốt ráo, sẽ không đứng dậy, sẽ không rời gốc Bồ Đề.
3– Chính ngữ (right speech): Nói năng cho hẳn hoi.
4– Chính nghiệp (right action– right conduct): Hành vi cho hẳn hoi.
5– Chính mệnh (right livelihood): Sống một cuộc sống hẳn hoi.
Các thánh hiền xưa nay đều giảng dạy mọi người phải có tư tưởng hay, phải có lời nói cho hay, phải có hành động cho hay.
Bái Hỏa Giáo cho rằng nghĩ hay, nói hay, hành hay là như ba lớp lông của cánh chim thần. Nhờ chúng mà con người có thể bay về với Tối Thượng Thần Ahura Madza.
Trung Hoa xưa có thơ:
Minh kính chỉ thủy dĩ tồn tâm, Thái sơn kiều nhạc dĩ lập thân, Thanh thiên bạch nhật dĩ ứng sự, Thanh phong, minh nguyệt dĩ đãi nhân. Dịch: Lòng như nước lắng, gương trong, Thân như non Thái, phong long cao vời, Thanh thiên bạch nhật đối đời, Trăng trong gió mát với người ở ăn.
Trung Dung chương 29 có câu: Mỗi động tác quân tử đều nên như mẫu mực, Mỗi hành vi là khuôn phép chúng dân theo. Mỗi lời nói, thiên hạ đời sau sẽ nương vào, Người xa ngưỡng vọng, người gần không hề chán... Mượn ý đó, nên trong tập
Trung Dung Yếu Chỉ, tôi đã viết: Mỗi động tác phải nên gương mẫu, Mỗi hành vi nên dấu, nên khuôn. Nhời nhời ngọc nhả châu phun, Lưu cho hậu thế muôn ngàn dài lâu...
Hệ Từ Thượng, khi bình giải Hào Cửu Nhị quẻ Trung Phu, cũng đã viết: Khi người quân tử nói lời, Nói ra ảnh hưởng đến đời, đến dân. Hành vi phát động tuy gần, Nhưng mà ảnh hưởng dần dần lan xa. Việc nhời ấy chính động cơ, Động cơ đã phát, hãy chờ nhục vinh. Mới hay quân tử ngôn hành, Làm cho trời đất rung rinh mấy hồi. Cho nên trong việc, trong lời, Cố sao thận trọng đáng người hiền nhân.
6– Chính tinh tiến: (right effort). Cố gắng vươn vượt. Không cố gắng, không vươn vượt, sẽ không tiến tới được.
Trung Dung chương XX viết:
Còn những kẻ cố công nên thánh, Gặp điều lành, phải mạnh tay co. Ra công học hỏi thăm dò, Học cho uyên bác, hỏi cho tận tường. Đắn đo suy nghĩ kỹ càng, Biện minh thấu triệt, quyết mang thi hành. Đã định học, chưa thành chưa bỏ, Đã hỏi han, chưa tỏ chưa thôi. Đã suy, suy hết khúc nhôi, Chưa ra manh mối chưa rời xét suy. Biện luận mãi tới khi vỡ lẽ, Chưa rõ ràng, không thể bỏ qua. Đã làm làm tới tinh hoa, Tinh hoa chưa đạt, việc ta còn làm. Người một chuyến, thâu toàn thắng lợi, Ta tốn công, dở dói trăm khoanh. Người làm mười bận đã thành, Ta làm nghìn thứ ta ganh với người. Đường lối ấy, nếu ai theo được, Dẫu u mê, sau trước sẻ thông. Dẫu rằng mềm yếu như không, Sớm chầy, cũng sẽ ra lòng sắt son.
7–
Chính niệm (right kind of awariness or mindfulness: You must think about it incessantly). Tôi giải chữ Niệm theo từ nguyên là «kim tâm»: Lúc nào cũng sẵn có trong tâm, và tôi giải chính niệm là: Muốn thành Phật, muốn vào Niết Bàn, thời ngày đêm phải luôn luôn tâm niệm đến công trình đó, có thể đến quên ăn, quên ngủ. Có vậy mới thành công!
8–
Chính định (right concentration): Tôi hiểu chính định là biết định tĩnh tâm thần; biết thu thần định trí; là giữ cho tâm thần tĩnh lãng, an nhiên, tự tại.
Có định mới phát huệ, có phát huệ mới nhìn ra được Bản thể siêu việt nơi mình, mới thấy Niết Bàn là gần kề trong gang tấc!
Nhìn ra được nẻo về, lập đi nguyện thành Thánh, thành Phật ngay từ kiếp này, luôn luôn giữ gìn cho thân, khẩu, ý được toàn hảo, cố gắng vươn lên siêu tuyệt, vươn tới lý tưởng; không lúc nào ngừng nghỉ, luôn luôn canh cánh bên lòng, nhất định thực thi đi nghiệp; giữ cho tâm hồn, điềm đạm hư vô, an nhiên định tĩnh, thì làm sao mà không đạt được tới Niết Bàn, ngay từ kiếp này.
Thế là lời Phật dạy không có ngoa vậy.
Có một điều ta nên chú ý là Đạo Phật đề cao sự Giác ngộ của con người. Phật giáo tuy hay, nhưng nếu con người không Giác ngộ được nó, và thể nhập được nó vào trong mình, thì ảnh hưởng cũng không được bao lăm.
Thế nào là Giác ngộ: Giác ngộ là phá được bức màn vô minh che phủ con người thực tại và con người giả tạo của chúng ta để trở thành con người viên mãn, toàn diện..
Giác ngộ là một sự chuyển hóa tâm hồn hết sức thần kỳ, xảy đến hết sức thình lình, không sao biết trước được. Richard Maurice Bucke, M. D. tác giả quyển
Cosmic Consciousness xác định nó thường xảy ra vào khoảng từ 30 tới 50 tuổi. (Xem Sđd., tr. 81). Cũng có người sớm hơn hay muộn hơn. Đó là 1, vài ngoại lệ. Vì thế Đạo Khổng, Đạo Lão gọi khi đó là
Hoạt Tí Thời.
Tuy nó chỉ xảy ra trong phút giây nhưng sẽ hoàn toàn thay đổi con người chúng ta. Khi chúng ta chưa giác ngộ, khi còn là chúng sinh, còn là một thiền sinh, theo lời Suzuki, «thực chẳng khác nào một con chó quèn, lang thang đầu đường xó chợ, nguẩy đuôi, ăn mày đầu tôm, xương cá và cả tình thương, và bị trẻ con đánh đuổi không tiếc tay, giờ đây biến thành sư tử lông gáy vàng, một khi rống lên là khiếp đảm tất cả các tâm hồn hèn yếu...(Thiền Luận bản dịch Trúc Thiên, quyển thượng tr. 392. –
Hoa sen số 8, Nguyễn văn Thọ,
Suy Tư về Thiền, tr. 16-48. –
Hoa Sen, số 23,
Mạn đàm về Thiền, của Nguyễn Văn Thọ, tr.129-164)
TỐI THƯỢNG THỪA PHẬT GIÁO
A. Những nguyên tắc tu thân căn bản.
1. Băng qua Vạn Pháp biến thiên, trở về với Chân Như Bản Thể.
Khi nhận thấy rằng chỉ có một Bản Thể duy nhất bao trùm không gian và thời gian, bao trùm cả vạn hữu, khi đã chấp nhận rằng Bản Thể ví như Đại Dương, hiện tượng và quần sinh ví như muôn nghìn sóngcả,hay như những bọt nước bồng bềnh trên mặt, thì điều kết luận dĩ nhiên sẽ là:
a. Bản Thể thì trường tồn, vĩnh cửu.
b. Hiện Tượng, quần sinh thì phù du, hư ảo.
c. Cho nên, phải bỏ phù du, để trở về với vĩnh cửu; bỏ hiện tượng để tìm về Bản Thể Chân Như. [21]
Phật xưa đã ba lần chuyển Pháp Luân:
Lần thứ Nhất: Giảng kinh Hoa Nghiêm, để chỉ vẽ gốc rễ, căn bản con người.
Lần thứ hai: thuyết kinh A Hàm, Bát Nhã, Phương Đẳng, để chỉ vẽ chi mạt, ngọn ngành con người.
Lần thứ ba: thuyết kinh Pháp Hoa, Niết Bàn để dạy đời thu nhiếp ngọn ngành để trở về cội gốc, bỏHiện Tượng để trở về với Bản Thể, Chân Như. Đó là thành Phật, thành Đạo, đó là vào Niết Bàn.[22]
2. Tìm ra Chân Tâm, Chân Như Bản Thể dưới lớp Vọng Tâm, Vọng Ngã.
Sau khi đã dùng hai chữ Bản Thể và Hiện Tượng để bao quát hết mọi lớp lang đại vũ trụ từ vô hình đến hữu hình, ta trở lại tiểu vũ trụ là con người chúng ta.
Như trên đã nói, trong vũ trụ, một Bản Thể Duy Nhất phát sinh muôn ngàn hiện tượng, nay trở lại con người, ta cũng thấy vẫn một Bản Thể Duy Nhất, Tuyệt đối ấy phát sinh ra muôn vàn hiện trạng, điều động mọi suy tư, hướng dẫn mọi hành động. Bản thể ấy, theo từ ngữ Phật Giáo, chính là Phật Tính, làm căn cốt cho mọi người, cũng như làm căn cốt cho vũ trụ và muôn vật, vì thế nói
: Chúng sinh đều có Phật Tính (Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật Tính).
Cũng như vũ trụ có hai phương diện Biến Thiên và Hằng Cửu, mỗi một người chúng ta cũng có hai bộ mặt, hai con người. Bộ mặt bên ngoài, con người bên ngoài thì nhem nhuốc, biến thiên chịu định luật thành, trụ, dị, không của thời gian; một bộ mặt, một con người bên trong thì uy nghi, rực rỡ, siêu thoát trên mọi hình, thức, sắc, tướng, và không điêu tàn với quang âm, tuế nguyệt.[23]
Vì thế mà Phật giáo mới phân Chân Tâm, Vọng Tâm, Chân Ngã, Vọng Ngã.
Vọng Tâm, Vọng ngã gồm tất cả những trạng thái biến thiên của tâm hồn, gồm thất tình, lục dục, tri giác, cảm giác, hoài bão, lý luận, tư tưởng, sinh sinh, diệt diệt với các hiện tượng bên ngoài.
Còn Chân Tâm, Chân Ngã thời tế vi, huyền diệu, bất biến trường tồn.
Chân Tâm, Chân Ngã còn gọi là Đại Ngã. Vọng tâm, Vọng Ngã gọi là Tiểu Ngã.
Đại Ngã là có. Tiểu Ngã là không.[24]
Con người tưởng chừng hữu hạn, tưởng chừng lao lung, tưởng chừng tảo vong, yểu tử, mà kỳ thực đã chứa đựng sẵn vô biên, vô tận, đã sẵn có hạnh phúc, đã sẵn có trường sinh, bất tử.
Có như vậy, mới cắt nghĩa được con người tại sao luôn mơ ước vô biên, luôn tìm cầu hạnh phúc, luôn mong mỏi trường sinh bất tử.
Tìm ra được Chân Tâm tiềm ẩn dưới lớp Vọng Tâm, các hiền triết Phật Giáo mới chủ trương con người thay vì có ngũ quan và ý thức, lại còn có đến tám thức: nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, Mạt Na thức, A lại Da thức.[25]
Ý thức là Vọng Tâm, mà A Lại Da chính là Chân Tâm. Còn Mạt Na ở giữa đóng vai môi giới.
Khi mê thì Mạt na đóng vai vô minh chỉ liên lạc được một chiều từ Chân Tâm ra Vọng Tâm, thành thử Vọng Tâm không bao giờ nhìn nhận ra được Chân Tâm. Khi Ngộ thì Mạt Na đóng vai Bát Nhã, thành con thuyền đưa người từ bến bờ Vọng Tâm cho tới bờ bến Chân Tâm, lúc ấy sự liên lạc sẽ hoàn tất cả hai chiều, không còn Sâm Thương đôi ngả.
Duy thức Tông có thơ: Đệ huynh bát cá, nhất nhân si, Độc hữu nhất cá, tối linh lại, Ngũ cá môn tiền tố mãi mại, Nhất cá gia trung tác chủ y.[26] (Tu tâm, tr. 21) Anh em tám kẻ, một người si (mạt na = Ngã si) Duy có một chàng rất linh ly. (ý thức) Năm người buôn bán ngoài cửa ngõ (Ngũ quan) Một vị trong nhà đứng chỉ huy. (A Lại Da)
Các sách thường chủ trương khi giác ngộ, Thức sẽ biến thành Trí. Và A Lại Da sẽ biến thành Đại Viên Cảnh Trí. Chủ trương này xét ra cũng chính xác, vì nếu trong A Lại Da thức còn có chút tì ố nào, thì chưa phải là Chân Tâm.
Có sách lại chủ trương còn có Đệ Cửu Thức gọi là Bạch Tịnh Thức, mà Đệ Cửu Thức mới là Căn Nguyên Tuyệt Đối. [27]
Khám phá ra được rằng, sau những lớp lang tâm tư biến ảo, còn có Tuyệt Đối Chân Tâm, sau bộ «mặt nạ» tiểu ngã hóa trang, còn có «bộ mặt Bản lai diện mục», «bộ mặt Đại Ngã»; khám phá ra được rằng: dưới làn sóng vô thường, vô ngã, tràn ngập vũ trụ, tràn ngập lòng mình, dưới lớp ba đào trùng điệp ấy, còn có Giác Hải Chân Như tĩnh lãng, ấy là Giác ngộ.
Đại Ngã là Phật Tính, là Chân Như, là căn cốt của tạo vật và của con người; vĩnh cửu, trường tồn, chân thường, bất biến, bất hoại.
Còn Tiểu ngã là vọng tâm của mỗi người, kết cấu bằng những tầng lớp hình ảnh, tư tưởng, dục tình, biến thiên, vô thường, vô định.[28]
«Lạc trong muôn tứ, nghìn tình,
Soi gương, nào biết tướng mình thế nao?»
Trở về Đại Ngã Đại Đồng, Chân Ngã vô tướng, tức là không còn cái mình nhỏ nhoi, hèn mọn nữa, và sẽ trở thành Pháp Thân uy nghi, trang trọng, phổ biến, phổ quát. Đạt tới Đại Ngã là đạt tới Niết Bàn. Vì thế Niết Bàn được định nghĩa là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
Bà Blavatsky viết: «
Bao giờ Thần con người hoàn toàn không còn tơ vương chút vật chất nào, không còn chút hình tượng nào, sẽ trở thành Linh Khí hoàn toàn. Khi ấy, nó mới vào được Niết Bàn vĩnh cửu, bất biến, trường tồn, đó là Niết Bàn vĩnh cửu thật sự. Linh Khí ấy là Thần, là Không, vì nó là mọi sự. Nó hoàn toàn vô hình tướng; nhưng về phương diện thuần Thần, thì nó là chính Bản Thể. Khi hồn con người đã thành thần thì được gọi là Nhập vào Bản Thể Đại Đồng, hay là phối hợp với Bản Thể chứ không bao giờ có nghĩa là hủy diệt, vì hủy diệt là vĩnh cửu chia ly.» [29]
Nhiều người theo Phật giáo chỉ chú trọng đến vô thường, vô ngã mà quên biến mất Chân Thường, Chân Ngã. Như vậy mới là biết Biến Thiên chưa biết Hằng Cửu, mới biết hiện tượng chưa biết Bản Thể, mới biết Luân Hồi chưa biết Niết Bàn. [30]
Biết Vô Thường, Vô Ngã mới là biết Biến Thiên, Khổ Ải, Luân Hồi, mà chưa biết Niết Bàn. [31]
Biết Vạn Pháp là Vô Thường, Vô Ngã mới là biết hiện tượng phù phiếm, biến thiên; chưa biết Bản Thể bất biến, chưa biết được Thực Tại trường tồn. [32]
Biết Hiện Tượng, chưa biết Bản Thể gọi là Mê; thấy Bản Thể mà không thấy hiện tượng cũng chưa gọi được là Ngộ. [33]
Giác Ngộ là phải thông suốt lẽ biến hằng, thông suốt hai phương diện thể dụng trong trời đất và lòng người. [34]
Người theo đạo Phật mà chỉ nói Vô Ngã, Vô Thường, mà không biết Chân Ngã, Chân Thường, thì cũng y như người học Dịch mà chỉ biết hào quải bên ngoài, chưa biết Vô Cực, Thái Cực bên trong...
Nhiều người khảo cứu về Đạo Phật rất bạo dạn khi nói về thuyết vô ngã Anatta,[35] Anatman,[36] nhưng không dám đả động đến Chân Ngã. Nhưng may thay, cũng còn có nhiều người dám bàn về Chân Ngã,[37] nhưng may thay trên nhiều cổng chùa, còn có viết bốn chữ đại tự: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm viết: «Thất nhữ Nguyên Thường, cố thụ luân chuyển.» 失 汝 元 常 故 受 輪 轉 (Không biết căn nguyên vĩnh cửu nên bị luân chuyển).[38]
Kinh Đại Niết Bàn viết: «Kiến nhất thiết Không, bất kiến bất Không, bất danh Trung Đạo, nãi chỉ kiến nhất thiết Vô Ngã, bất kiến Ngã giả, bất danh Trung Đạo. Trung Đạo giả, danh vi Phật Tánh.» 見 一 切 空, 不 見 不 空, 不 名 中 道. 乃 只 見 一 切 無 我, 不 見 我 者, 不 名 中 道. 中 道 者, 名 為 佛 性.
«
Thấy tất cả đều là 'Không', mà chẳng thấy cái 'chẳng Không', thì chẳng gọi là Trung Đạo, thấy tất cả là 'Vô Ngã' mà chẳng thấy có 'Ngã' thì cũng chẳng gọi là Trung Đạo. Trung Đạo ấy gọi là Phật Tánh.» [39]
Không hiểu trong con người có hai thứ Ngã (Đại Ngã, Tiểu Ngã), có hai thứ căn nguyên (Niết Bàn, Sinh Tử), có phân ngôi Chủ khách (Hằng, Biến), thì không sao hiểu được giáo lý đạo Phật, không sao thành Phật được, dù tu luyện mấy muôn kiếp.
Kinh Thủ Lăng Nghiêmviết:
«
Phật bảo A Nan: Từ muôn kiếp tới nay, chúng sinh bị lao lung, điên đảo, các nghiệp chướng sinh ra đầy dẫy như trái ác xoa. Còn những người tu hành chẳng thành được vô thượng Bồ Đề lại thành ra bực thanh văn, duyên giác, và các thứ ngoại đạo, các Trời và ma vương, ma quyến, đều là vì không biết hai thứ căn bản, tu luyện cuồng xiên, thác loạn, y như đòi nấu cát thành cơm, thì có đến ngàn muôn kiếp cũng chẳng được.
Thế nào là hai thứ căn bản, hỡi A Nan! Một là căn bản tử sinh từ muôn kiếp, y như nay ngươi và chúng sinh lấy tâm vọng tưởng (tâm phan duyên) làm tự tính.
Hai là căn bản « vô thủy Bồ Đề Niết Bàn Nguyên Thanh Tịnh Thể» đó ở nơi ngươi, chính là «Thức Tinh Nguyên Minh«có thể sinh ra vạn duyên, vạn sự, mà đã bị trần duyên làm mất bỏ. Cũng vì chúng sinh đã bỏ mất cái căn nguyên sáng láng ấy, cho nên hằng ngày tuy vẫn luôn luôn dùng mà chẳng tự biết được nó, rồi ra lăn lộn, đắm đuối vào các thú vui, uổng phí cả cuộc đời. [40]
Bỏ cái «nguyên thường» trường cửu, mà theo cái vô thường biến dịch, coi vọng tưởng mà lầm là «chân tính» thì có khác gì nhận giặc làm con, làm sao thoát khỏi Luân Hồi, khổ ải?
Phật bảo A Nan
: «Cái đó là vọng tưởng do lục trần bên ngoài mà sinh, nên gọi là vọng tưởng; nó làm hoặc loạn chân tíng ngươi. Bởi vì từ xưa tới nay, ngươi nhận giặc làm con, bỏ mất tính chân thường của ngươi, nên ngươi bị luân chuyển, luân hồi.» [41]
Làm sao phân biệt được Chân Tâm, Vọng Tâm nơi con người?
Phật cho rằng; cái gì từ bé đến già mà chẳng đổi thay là Chân Tâm. Theo đà thời gian, đầu ta tuy bạc, mặt ta tuy nhăn, nhưng cái Tính Thấy ấy chẳng hề nhăn, chẳng hề bạc,[42]
mà đã không nhăn, không biến thì làm gì có sinh, có diệt? [43] Suy ra, trong con người, cái gì bất động, bất biến là Chân Tâm.
Đã bất biến, thường trụ thời là Chủ Nhân, đã trừng tịch bất động thời là «Không».[44]
Trái lại, cái gì thay đổi, biến thiên trong con người, cái gì giao động thì là Vọng Tâm. Mà đã giao động, biến thiên, thì chẳng qua là trần ai, hay khách qua đường mà thôi.
Cho nên Vọng Tâm chính là hiện tượng sẽ bị sinh, diệt; còn Chân Tâm mới là Bản Thể bất sinh, bất diệt.[45]
Bỏ mất bản tâm, mà lại nhận lầm duyên trần, nhận vật làm mình, nhận giao động biến thiên làm Chân Tâm, Chân Cảnh, thì làm sao mà chẳng bị quay cuồng trong ngọn lốc Luân Hồi lưu chuyển.[46]
Không ý thức được quan niệm căn bản ấy, đã mất Chân Tâm, bản tâm rồi, thì dẫu «
có đem thân xuất gia, lòng vẫn chẳng nhập đạo, chẳng khác nào đứa con bỏ cha ra đi, ắt bị lao lung, khổ ải. Tu trì như thế, làm sao mà chứng quả được, cũng ví như nghe người nói chuyện uống ăn, thì làm sao mà no được.» [47]
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn bảo Lục Tổ Huệ Năng: «
Kẻ nào chẳng biết Bổn Tâm, thì học đạo vô ích. Nếu ai biết Bổn Tâm, thấy Bản Tánh tự nhiên, tức thị là Trượng Phu, là thày của Trời, Người, là Phật.» [48]
3. Bỏ Vọng Tâm để sống theo Chân Tâm, hay diệt ngã để khế hợp với Chân Như Bản Thể.
Nếu không phân biệt Chân Tâm, Vọng Tâm, thì không sao hiểu được đạo Phật. Phật giáo chủ trương Vô Ngã, rồi lại dạy Diệt Ngã. Nếu chỉ có Vọng Tâm, mà không có Chân Tâm, thì chủ trương như vậy rất vô lý, vì đã Vô Ngã thì còn gì mà diệt; vả lại tu mà đi đến tận diệt, thì tu để làm gì? Nhưng trái lại, nếu biết sau Vọng Ngã, còn có Chân Ngã, thì vấn đề sẽ sáng tỏ ngay.
Chủ trương Phật giáo chính là:
con người hữu hạn hàm tàng Chân Như vô hạn. Như vậy, phương châm và mục đích tu luyện sẽ được vạch rõ:
Từ Vọng Ngã nhỏ hẹp ta sẽ phát huy Đại Ngã rộng lớn, mênh mông;[49] trong sắc thân phàm tục, ta sẽ cố phát huy pháp thân siêu việt; trong phàm thân dễ bị hủy hoại, sẽ cố phát huy kim cương thân bất khả tiêu diệt; trong u minh, ta sẽ làm bừng sáng lên ngọn đuốc Chân Tâm.
Chữ Diệt Ngã, hiểu cho đứng đắn, là phá tan mọi hình tướng để tìm ra Chân Tính (khiển tướng, chứng tính);[50] làm lu mờ tan biến mọi nhỏ nhen, ti tiện cho quang minh chính đại hiện ra (ẩn liệt, hiển thắng).[51] Mục đích tối hậu là khế hợp với Tuyệt Đối,[52] là hoà hợp với Bản Thể Tuyệt Đối.
Thế là đi từ Hữu Vi, Hữu lậu trở về Vô Vi, Vô lậu; rũ bỏ hết mọi phiền trược, buộc ràng, mà sống ung dung tự tại; vất bỏ hết mọi giả tạo, để tìm ra Chân Thực trường tồn (khiển hư, tồn Thực);[53] rũ bỏ mọi tạp thù, để giữ nguyên thuần tuý (xả lạm, lưu thuần);[54] bỏ ngọn nghành, chi mạt, để trở về gốc gác, căn nguyên (nhiếp mạt, lưu bản).[55]
Đạo Nho gọi thế là Khử Nhân Dục, tồn Thiên Lý, vì theo qui luật «phục, khởi» của Kinh Dịch, thì «Nhân dục thắng, Thiên Lý vong» và ngược lại «Nhân dục tận, Thiên Lý hiện», hay Âm tận thì Dương thuần. Nhân dục và Thiên Lý không thể lưỡng lập.
Đạo Lão gọi thế là «tâm tử, thần hoạt» (tâm có chết đi, thần mới sống được.)
Suy ra thì nhẽ Phản Bản, Qui Nguyên trước sau chỉ là một, từ ngữ tuy thay đổi, cách diễn tả tuy không đồng nhất, nhưng tinh thần muôn đời vẫn chẳng có hai.
B. Con đường giải Thoát: Tìm Chân Tâm ở đáy lòng. Hướng ngoại mà tìm cầu, Tất cả đều ngoan si. Hướng nội mà tùy xứ tiện nghi, Tất cả đều là chân thật.
(Lâm tế lục thị chúng, ĐĐ Thiên Ân,
Triết học Zen, tr.103)
Tất cả các kinh sách Phật Giáo, các môn phái Phật Giáo đều có mục đích chỉ vẽ Chân Tâm.
Như trên đã nói: Chân Tâm là Phật Tánh, là Chân Như bất biến, hằng cửu lồng ngay trong vạn hữu và trong tâm hồn ta, chẳng ở đâu xa.
Kỳ lạ thay là thân thế con người: thân thế con người, tuy lao lung, chất chưởng, nhưng chính đã được gắn liền vào trường sinh, tuyệt đối, như sóng gắn liền với nước.[56]
Như vậy, con đường giải thoát không phải là đường sông, đường biển, đường Tây Trúc xa xăm, mà chính là con đường nội tâm của mỗi người.
Phải đi sâu vào đáy lòng mới tìm ra Chân Tâm, mới tìm ra Niết Bàn, mới tìm ra hạnh phúc, tự do, giải thoát.
Lục Tổ Huệ Năng nói: «Tự mình tu, tự mình hành, thấy Pháp Thân của mình, thấy Phật ở Tự Tâm mình, độ lấy mình mới được.» [57]
Như vậy châm ngôn để đi tìm chân lý sẽ là:
Con đường hướng nội tiến cho sâu, Càng sâu, càng thấy lắm nhiệm mầu. Tâm khảm bao la không bờ bến, Vũ trụ mênh mông đã thấm đâu.
Tâm con người càng tìm hiểu, càng thấy kỳ diệu. Phiến diện, thì lao lung, chất chưởng, biến thiên,[58] đầy tràn trần ai, nghiệp chướng, mà trái lại, căn cốt thì vô biên, tuyệt đối.
Như vậy, mỗi người đã sẵn có bảo châu vô giá giấu trong vạt áo, sao không cố tìm kiếm cho ra, mà cứ an phận sống một cuộc đời khổ ải.[59]
Như vậy, mỗi người có thể ví như một hoàng tử lưu vong, mà bụi phong trần đã phủ kín hết các nét hào hoa, phong nhã, mà cuộc đời luân lạc đã làm cho lầm than, chìm nổi, cho đến quên khuấy cả dòng dõi sang cả mình, quên hết căn nguyên huy hoàng, quên hết cả đến định mệnh siêu việt đang chờ đón mình trong những bước đường tương lai.[60]
Phật đã nhắc nhở con người về dòng dõi sang cả, cũng như về định mệnh cao quí cuả con người.
Phật khi đắc đạo đã nhận định rằng: «
Đạo quả chân thật giải thoát không phải do hành hạ xác thân, không thể nương vào kẻ khác và cũng không phải tìm kiếm đâu xa ngoài chính mình.» [61]
Vậy muốn tìm Chân Tâm, muốn tìm Phật Tính, phải tìm ngay trong người mình, trong lòng mình.
Phật bảo A Nan:
Chân Tính đã ở nơi ngươi mà ngươi chẳng tin, lại theo nơi miệng ta mà tìm Chân Tính, vậy ngươi đã lầm chưa? [62]
Tây Du Ký cũng đã vạch rõ đâu là động phủ để tầm sư học Đạo: Muốn tìm Chân Đạo, muốn gặp Chân Sư, Tề Thiên Đại Thánh phải tìm về Phương Thốn Sơn, vào Tà Nguyệt Tam Tinh Động; Mà Phương Thốn Sơn là Tấc Vuông, hay Tấc Lòng, còn Tà Nguyệt Tam Tinh Động, chính là chữ TÂM, viết bằng nửa vành trăng khuyết và ba sao rực rỡ. [63]
Trong Hồi 85 của Tây Du, tác giả còn nhắc lại: Tìm Phật phải tìm ở đáy lòng:
«Phật ở Linh Sơn, vốn chẳng xa, Linh Sơn kỳ thực, tại lòng ta. Người người đều có Linh Sơn tháp, Tu tại Linh Sơn, mới khéo là.» [64]
Thiền Tông tha thiết chủ trương: «Trực Chỉ Nhân Tâm, kiến Tính thành Phật.» [65]
Các tổ sư thiền học giúp các đệ tử đả thông vấn đề này bằng câu thoại đầu:
«Bính Đinh đồng tử lai cầu hỏa.» (Thần lửa Bính Đinh đến xin lửa.)[66]
Lục Tổ Huệ Năng thường đề cập tới bí quyết: «tìm Phật ở đáy lòng.» Ngài nói: «Phật tự Tính trung tác, Mạc hướng thân ngoại cầu.» Phật do trong Tính khởi lên,
Chớ đừng vất vả, kiếm tìm ngoài thân.[67]
Trong Phẩm Sám Hối, Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ lại nói: « Qui y Phật, thì Phật ở nơi đâu? Nếu không thấy Phật, thì không biết nơi nao tìm về.
Hoa Nghiêm Kinh viết: «Quy y với Phật của mình, chớ chẳng quy y với Phật khác.» [68]
Bồ Đề Đạt Ma Sư Tổ, vị sáng lập Thiền Tông tại Trung Quốc, là người tha thiết nhất với vấn đề đi vào nội tâm để tìm Phật Tính, tìm Bồ Đề, Niết Bàn.[69]
Quyển Đạt Ma Huyết Mạch Luận[70] đã ký thác hoài bão Ngài. Ngài chủ trương:
Bất lập văn tự, Trực chỉ nhân tâm, Kiến Tính thành Phật.
Lĩnh hội vi ý sách Đạt Ma huyết mạch luận,[71] ta có thể thâu tóm tư tưởng của Ngài Bồ Đề Đạt bằng mấy vần thơ sau: Chân tâm bao quát đất Trời, Xưa nay, chư Phật chẳng ngoài Chân Tâm. Chẳng cần lập tự, lập văn, Xưa nay chư Phật, tâm tâm tương truyền. Tâm ta gồm mọi nhân duyên, Mọi đời sau trước, mọi miền gần xa.[72] Tâm ta là chính Phật Đà, Phật Đà ở tại tâm ta chẳng rời. Niết Bàn, Viên Giác, Như Lai, Ngoài tâm tìm kiếm, công toi, ích gì? Ngoài tâm, tìm kiếm được chi? Niết Bàn đâu có lối về ngoài tâm. Tự Tâm trí chính, chí chân, Tự Tâm là Phật, Tự Tâm, Niết Bàn.[73] Ngoài tâm, tìm kiếm đa đoan, Tay không bắt gió, mơ màng hư vô. Tâm ta tạo Phật cho ta, Bỏ tâm tìm Phật, hỏi là tìm đâu, Phật tâm, tâm Phật trước sau, Ngoài tâm, tìm Phật, hỏi sao chẳng lầm. Cho nên phải biết hồi tâm, Nội quan, quán chiếu mà tầm siêu linh. Bản Lai Diện Mục của mình, Muốn tìm thì phải ly hình, nhập tâm.[74]
Khi đã biết rõ căn bản cao siêu của mình, khi đã nhận thức được Pháp Thân trường tồn trong mình; khi đã biết rõ bộ mặt thật của vọng tâm, biết rõ thân phận mây trôi, bèo nổi của vọng tâm, các bậc Chân Tu mới ra công «diệt ngã». «Diệt Ngã» là «diệt Tiểu Ngã», cho Chân Như Đại Ngã hiện ra.[75]
«Diệt Ngã» đây cốt là để:
-Hoà hợp với Bản Thể tuyệt đối.[76]
- Nhất trí với thực tại. [77]
- Đồng thể với Di Đà.[78]
- Khế hợp với Chân Như tuyệt đối. [79]
Diệt Ngã là cốt diệt trừ hết những vọng tưởng, vọng niệm, diệt trừ hết mọi dây rợ luyến ái bên ngoài, thoát ly hết mọi giây triền phược, trói buộc mình vào hoàn cảnh và vật chất. Đây là một thái độ tinh thần trừu tượng, chứ không phải là một sự trốn tránh, thoát ly vật chất cụ thể. Cho nên, ta có thể Diệt Ngã ngay giữa lòng đời, ngay trong chốn phồn hoa, đô hội. Đó tức là sự thanh tịnh, tự do, tự tại về tinh thần, đó tức là«đắc thiên hạ nhi bất dự yên.» [80]
Diệt ngã là vén mây mù tăm tối cho vừng dương muôn thủa hiện ra, bỏ Sắc Thân mà hiển «Pháp Thân»;[81] bỏ Phàm Thể mà mặc Thánh Thể. [82]
Như trên đã nói: Chân Như là Bản Thể, là Như Lai siêu xuất trên hình thức, sắc tướng, siêu xuất trên mọi vọng tưởng, vọng niệm, cho nên muốn thấy Bản Thể phải lìa bỏ hình tướng, đi ngược lại dòng tư tưởng, niệm lự; đi sâu vào chỗ dục tình chưa phát xuất; chỗ tư tưởng chưa manh nha; hư không, trạm tịch mới chứng quả được. [83]
Mượn ý kinh Kim Cương và Đạt Ma Huyết Mạch Luận, ta phác họa phương pháp Tu thân Kiến Tính, Thành Phật như sau: Hãy rũ bỏ phù vân sắc tướng, [84] Hãy cố tìm vô thượng Bồ Đề, Niết Bàn muốn rõ nẻo về, Đừng nên chấp trước, đam mê lụy trần. Con đường giải thoát nội tâm, Cố suy, cố nghĩ, cố tầm cho ra.[85] Vọng Tâm cố vén mây mù,[86] Băng qua hình tướng, vào toà Như Lai,[87] Nơi Vô Trụ là nơi an lạc, [88] Pháp Vô Vi là Pháp Thánh Hiền. [89] Chớ đừng dính líu sự duyên, Đừng đem thanh sắc mà phiền Như Lai. [90] Hãy nhớ kỹ hình hài, sắc tướng, Đều là tuồng mộng tưởng, mau qua. Đều là bào ảnh, quang hoa, Sương vương ngọn cỏ, chớp loà chân mây. [91] Như Lai chẳng ở đây, ở đó, Chẳng đi đâu, chẳng có đến đâu. [92] Như Lai ở sẵn lòng sâu, Vào sâu tâm khảm mà cầu Như Lai.
Tóm lại, trước sau, chư vị Phật, chư vị Đạt Trí, Đại Giác đều công nhận rằng: Không thể nào tìm ra được Bản Thể Tuyệt Đối ngoài vũ trụ và ngoài tâm mình. Bản Thể ấy, Chân Tâm ấy đã lồng ngay trong lòng vũ trụ, và trong lòng con người. Sự giác ngộ cũng bắt đầu từ đó, và sự chứng quả cũng tận cùng ở đó.
Cho nên ta có thể mượn lời Đạt Ma tổ sư mà kết thúc như sau: Tâm, tâm, tâm, Tâm kia sao khó, khó sao tầm, Khi rộng, rộng trùm muôn pháp giới, Khi thu, thu nhỏ, khó lọt châm. Ta chỉ tìm tâm, không tìm Phật, Rũ không tam giới, mới hết lầm. Phật kia, muốn chứng, muốn tầm, Muốn tầm ra Phật, ngoài tâm chớ hòng. Tâm ấy Phật, chớ không đâu nữa, Phật tính nào, đời thủa ngoài tâm Tâm sinh, sinh cả cát lầm, Tâm sinh, tội cũng âm thầm sinh theo.[93]