

Suối nguồn yêu thương
#16
Gửi vào 07/02/2014 - 11:53
Với sự có mặt của Phật giáo, người phụ nữ được nhiều kính trọng hơn và được xem là những cá nhân, chứ không phải chỉ là những món đồ sở thuộc đàn ông.
Theo Phật giáo, người phụ nữ có khả năng tâm linh giống như đàn ông. Đức Phật còn nói, đời sống tâm linh ngài thiết lập sẽ không hoàn hảo nếu không có phụ nữ tu tập giáo pháp.
Theo Phật giáo, phụ nữ không có giới hạn về quyền và bổn phận đối với việc sinh con hay nuôi con,và họ là một phần không thể tách rời của xã hội. Đời sống tâm linh hoàn hảo nhờ… phụ nữ.
Với ảnh hưởng của Nho giáo, một thế giới quan trọng nam khinh nữ, người phụ nữ vì lý do gì đó không sinh được con trai sẽ bị xem là một món hàng khiếm khuyết, cũng là cái cớ để ông chồng mừng rỡ đi lấy vợ khác “kiếm đứa con trai”. Thế nhưng thái độ “phải có con trai” này tuyệt nhiên không quan hệ gì với thế giới quan Phật giáo cả.
Phật giáo nguyên thuỷ không xem người phụ nữ giản dị như một công cụ sinh đẻ và mục tiêu duy nhất của người phụ nữ không phải chỉ là hôn nhân. Người phụ nữ có quyền chọn không lập gia đình mà người khác không nên dè bỉu và được quyền trở thành tu sĩ, nghĩa là theo đuổi đời sống tâm linh.
Phật giáo cho phép phụ nữ ly dị đàn ông nhưng không khuyến khích việc làm này. Bởi vì Phật giáo nhấn mạnh từ bi, tôn trọng sự hài hoà xã hội, hiểu rằng ly dị không phải là một biến cố vui mừng.
“Phụ nữ có cùng những giới hạn và khả năng tâm linh giống như đàn ông. Ni có thể phát triển tâm linh giống như Tăng”, L.B. Horner, một trong hai phụ nữ tiên phong trong việc truyền Phật giáo qua Tây phương, nói.
Đức Phật luôn luôn dạy những giáo lý tương tự cho cả đàn ông lẫn đàn bà, đôi khi ngài còn nỗ lực một cách đặc biệt để dạy giới phụ nữ. Theo đó, Phật có nói rằng đời sống tâm linh ngài thiết lập sẽ không hoàn hảo nếu không có phụ nữ tu tập giáo pháp.
- Người phụ nữ có thể cạnh tranh với đàn ông
Theo Phật giáo thì chúng sinh có cùng một bản thể, vô nhị vô biệt, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Sự khác biệt giữa giới tính nam nữ chỉ là thứ yếu và sự giác ngộ của tâm tính mới là quan trọng.
Phật giáo giải phóng phụ nữ thoát khỏi tình trạng vật sở hữu để tồn tại một cách độc lập trong xã hội. Phật giáo cho rằng: “Những người phụ nữ như người độc thân, có chồng, góa phụ đều không có giới hạn về quyền và bổn phận của họ đối với việc sinh con hay nuôi con và họ là một phần không thể tách rời của xã hội”.
Với sự ảnh hưởng của Phật giáo, phụ nữ độc thân có thể không bị thành kiến, sống chan hòa, vui vẻ, bình đẳng với mọi thành viên gia đình… Và sự thành lập Ni đoàn (nữ tu sĩ) đã làm tăng thêm giá trị của nữ giới đặc biệt là các phụ nữ độc thân.
Tư tưởng Phật giáo nói rằng, không có sự phân biệt về giới tính trong mức độ chứng quả hay mức độ phát triển tinh thần. Những lời tán dương này của đức Phật có giá trị như là một bằng chứng chứng tỏ sự xem trọng khả năng của nữ giới ngang bằng với nam giới.
Trong xã hội thời đức Phật, những phụ nữ góa phụ có số phận rất đáng thương. Vì vậy, Đức Phật dạy không nên đưa ra bất kỳ lý do nào để lăng mạ hay sỉ nhục những người góa phụ. Thậm chí cũng không được gán cho họ biểu tượng như là phụ nữ vận đen. Họ có quyền tái hôn và nếu muốn, họ có thể xuất gia.
Tinh thần cơ bản của Phật giáo là từ bi. Trong Phật giáo Đại thừa, người có bi nguyện lớn nhất, sâu xa nhất chính là đức Quán Thế Âm Bồ-tát. Đức Quán Thế Âm phần lớn là xuất hiện với hình tướng thân nữ nhu hòa, hiền hậu. Trong các tự viện thường có các tượng Quan Âm như Tiêu hải Quan Âm, Tống tử Quan Âm, Bạch y Quan Âm, v.v… Bồ-tát Quan Âm hiện ngàn tay ngàn mắt trên thân, theo nhu cầu khác nhau của chúng sanh hóa hiện hình tướng khác nhau để độ họ, cho nên có câu, người đáng dùng thân gì để độ thì hiện thân đó để thuyết pháp cho họ. Hình tướng thị hiện của Bồ-tát Quan Âm đã chứng minh địa vị nữ giới trong Phật giáo, cũng là sự khích lệ to lớn đối với nữ giới.
Đại sư Ấn Quang, cao tăng thời kỳ cận đại cho rằng, giáo dục gia đình là nền tảng của hòa bình thế giới, trong đó giáo dục phụ nữ là quan trọng. Ngài nói: “Nếu không có người phụ nữ tài đức, làm sao có được người mẹ tài đức; và nếu không có người mẹ tài đức, làm sao mà có được con ngoan giỏi?” Điều này xem có vẻ thường tình, nhưng thực ra nó hàm chứa lý nhân quả sâu sắc, càng nói rõ trách nhiệm và vị trí quan trọng của nữ giới trong gia đình và xã hội.
Ngày nay, thế giới đang hướng tới đa văn hóa, toàn cầu hóa kinh tế, xã hội dân chủ, tự do và công khai. Thời đại mới đòi hỏi phụ nữ có phẩm chất cao; phụ nữ là lực lượng quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Người nữ không chỉ làm tốt trách nhiệm của một người vợ hiền mẹ tốt, mà còn là lực lượng trung kiên của xã hội. Thời đại đang kêu gọi phụ nữ tự cường, tự tôn tự lập, phát huy đầy đủ đức tính từ ái, hiền hậu và kham nhẫn vốn có của phụ nữ; khắc phục nhược điểm tự ty, yếu đuối, đa nghi, v.v… thường hay có ở phụ nữ; tăng cường học tập, không ngừng nâng cao phẩm chất và trình độ.
Cầu mong tất cả phụ nữ trên thế giới đều thấm nhuần hồng ân chư Phật, cống hiến hết mình vì sự văn minh tiến bộ của nhân loại và hòa bình thế giới.
(voluongcongduc.com)
Thanked by 2 Members:
|
|
#17
Gửi vào 07/02/2014 - 20:58
1- Khai thuỷ là đàn bà.
Đây là chùm bài mổ xẻ tích cách của dân tộc Việt dựa trên những nguyên mẫu tính cách dân gian của giáo sư Đỗ Lai Thúy. Bài đầu tiên, ông nói đến đặc tính nữ – đặc tính nguyên thủy của người Việt – đặc tính của vùng đất của những dòng sông lớn nhỏ đan xen chằng chịt để đổ ra biển. Thấu hiểu đặc tính ấy, ông khẳng định chính quyền lực mềm của những người phụ nữ Việt Nam, những người thực sự giữ rường cột của nước nhà, thật sự là yếu tố quyết định đến tồn vong của dân tộc.
Có người cho văn hóa Việt Nam (tức người Việt) không có huyền thoại. Tôi không nghĩ vậy. Dân tộc nào mà chẳng trải qua một “thời đại lớn” (chữ của M.Eliade”). Thưở ấy, người ta sống bằng huyền thoại, “suy nghĩ” và cảm nhận thế giới bằng huyền thoại, lưu giữ và truyền gửi thông điệp cho nhau và cho hậu thế cũng bằng huyền thoại. Có điều, không hiểu vì sao, khi từ tiền sử bước vào hữu sử, tổ tiên người Việt đã đánh vỡ hệ thống huyền thoại của mình. Bằng chứng là những mảnh vỡ của kim âu đó văng đi và còn găm vào những truyền thuyết, cổ tích.
Người ta cũng thường nói đến yếu tố nữ tính, thậm chí nguyên tắc nữ, trong văn hóa Việt Nam qua lễ nghi, phong tục và văn chương nghệ thuật. Nguyên lý này, nếu có, hẳn phải ảnh xạ vào huyền thoại, khởi điểm của mọi khởi điểm? Tôi thử lần tìm điều đó bằng việc lấy ba người đàn bà đầu tiên mà những mảnh vỡ của huyền thoại còn lưu giữ được. Dĩ nhiên, khái niệm “đầu tiên” chỉ là tương đối, Mỵ Nương trong “Sơn Tinh- Thủy Tinh”, Mỵ Châu trong “Mỵ Châu – Trọng Thủy” và Mỵ Nương trong “Trương Chi”
Mỗi thời đại đều “đọc” huyền thoại theo một cách riêng, và tìm thấy ở đó có những gì mà nó cần. Bởi lẽ, xét đến cùng, mỗi thời đều có cách sử dụng huyền thoại của nó và cho nó. Điều này vừa làm phong phú cho huyền thoại, bồi thêm sức sống cho nó, đồng thời cũng đẩy xa thông điệp ban đầu, thậm chí còn gây nhiễu. Chuyện kể về “tam Mỵ” nói trên, tôi nghĩ hẳn cũng không tránh khỏi số phận đó. Sự giải mã huyền thoại hiện nay chính là quá trình bóc tách những vỏ bọc đó để đi đến cái nhân đích thực, ban đàu.
Truyện “Sơn Tinh – Thủy Tinh” trước đây thường được hiểu như là một câu chuyện tình, “năm năm báo oán, đời đời đánh ghen” (Tản Đà), sau đó lại được hiểu như là cuộc đấu tranh của nhân dân chống lại thiên tai lũ lụt… Có lẽ, đó là những ý nghĩa được gia ban về sau, hậu nghiệm. Thực ra người ta có thể tìm thấy ở đây mảnh vỡ của huyền thoại về Đại Hồng Thủy, ký ức xa xôi của nhân loại về thời kỳ tan băng hà. Cũng cảnh nước ngập mênh mông, gieo rắc ta họa, tưởng như ngày tận thế; cũng một đôi trai gái (Sơn Tinh và Mỵ Nương) còn sống sau nạn nước (hoặc chiến thằng nó), trở thành vợ chồng, thành tổ của một tộc người; ngọn núi Ba Vì nơi họ đến trú ngụ chơ vơ giữa biển nước như một con thuyền (Noé trong Kinh Thánh hay Vỏ trấu trong Sự tích hồ Ba Bể). Đồng thời, qua việc Thủy Tinh đánh đuổi Sơn Tinh để cướp lại Mỵ Nương cũng còn lưu lại ảnh xạ của tục cướp dâu, hiện tượng đọng lại trong phong tục của người Mông.
Mỵ Châu- Trọng Thủy không chỉ là câu chuyện cảnh giác, “trái tim lầm chỗ để trên đầu” (Tố Hữu), câu chuyện chiến tranh gián điệp…, mà thông qua câu chuyện tình bi thảm này, người ta thấy vai trò của người phụ nữ trong gia đình cũng như trong xã hội. Mỵ Châu được cha giao cho giữ nỏ thần – vật thiêng liêng và quan trọng nhất trong cả nước. Nàng đã sống nặng vì mình, vì tình yêu của mình, còn Trọng Thủy thì nặng vì cha, vì đất nước của anh ta. Bi kịch của những người không xử lý được hài hòa mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa tình và lý.
Cũng vậy, bi kịch Mỵ Nương- Trương Chi không phải là bi kịch của sự giàu nghèo, của giai cấp, giữa một anh dân chài và một cô tiểu thư con quan thừa tướng mà là bi kịch của kẻ cầu toàn, kẻ đi tìm cái tuyệt đối. Mỵ Nương mê tiếng hát của Trương Chi nhưng lại không chấp nhận khuôn mặt xấu xí của anh ta. Cô muốn một sự hoàn thiện hoàn mỹ, cả cái này lẫn cái kia, mà cuộc đời lại chỉ cho phép chọn một.
Lược qua câu chuyện Tam Mỵ trên, tôi muốn gảy ra đây một vài thông điệp mà người xưa nhắn gửi trong huyền thoại Việt Nam.
Trước hết, ba người đàn bà đều có tên bắt đầu bằng chữ Mỵ. Mỵ có nghãi là đẹp. Mỵ còn được đọc là “mế”, “mệ”, chỉ người đàn bà trong tiếng tiền Việt – Mường, hoặc Việt cổ. Hơn nữa, Mỵ Nương, Mỵ Châu vốn không phải tên riêng, mà là tên chung chỉ đàn bà. Bởi vậy có thể đi đến hai kết luận: người đàn bà là đẹp. Người đàn bà là đẹp, đã đành, nhưng còn giữ vai trò quan trọng nữa. Mỵ Châu được giao giữ nỏ thần, một vật thiêng. Truyền thống “nội tướng”, “lệnh ông không bằng cồng bà”, “đội quân tóc dài” của người phụ nữ Việt Nam, có lẽ bắt đầu từ đây.
Nếu đặt ba truyện theo thứ tự Sơn Tinh – Thủy Tinh, Mỵ Châu- Trọng Thủy, Trương Chi, chúng ta thấy diện mạo bên ngoài và diện mạo nội tâm của người phụ nữ ngày một rõ rệt hơn. Ở Sơn Tinh – Thủy Tinh, mặc dù là đối tượng của sự tranh chấp giữa thần núi và thần nước, nhưng người ta khong thấy rõ phản ứng, cũng như tâm lý của Mỵ Nương. Ở Mỵ Châu – Trọng Thủy, sự cá nhân hóa của người phụ nữ đã tiến lên một bước, bởi vì nhân vật phải đối diện với quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng. Và ở chuyện Trương Chi thì sự cá nhân hóa ở người phụ nữ đã phát triển đầy đủ. Câu chuyện giữa Mỵ Nương và Trương Chi là câu chuyện cá nhân với cá nhân. Trong cuộc đấu tranh với chính mình, thế giới nội tâm của Mỵ Nương đã bộc lộ đầy đủ, sâu sắc.
Người ta thường nói đến “cảm giác mức độ” của người Việt Nam, đến sự nhận thức về “ngưỡng” của văn hóa Việt nam. Những câu chuyện trên truyền đạt thông điệp đó một cách rõ ràng, sinh động và đầy sức thuyết phục. Mỵ Châu thì sống vì cá nhân mình (tức là tình yêu với Trọng Thủy) nên đã mất nỏ thân, dẫn đến mất nước, chết hàm oan dưới lưỡi gươm của cha. Trọng Thủy sống vì cộng đồng của anh ta, theo lời cha phản bội tình yêu của Mỵ Châu, cuối cùng cũng hối hận đâm đầu xuống giếng tự vẫn. Con đường sống của ncon người là đi tìm hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, điều mà Mỵ Châu, Trọng Thủy chỉ đạt được sau khi chết qua hình tượng lấy ngọc trai rửa nước giếng thì ngọc sáng ra. Trong Trương Chi, Mỵ Nương say mê tiếng hát, yêu vẻ đẹp tâm hồn của anh chàng dân chài nhưng lại không yêu nổi vẻ mặt xấu xí của anh ta. Nàng muốn sự hoàn thiện, đẹp cả người lẫn nết. Điều này đã gây ra cái chết của Trương Chi và sự đau khổ của nàng. Sự tận thiện tận mỹ, có lẽ chỉ có trong lý tưởng, trong ý niệm. Thực tế là trần tục, đầy sự khiếm khuyết. Nếu không chấp nhận, cầu toàn, ảo tưởng cũng dẫn đến sự hủy diệt ở hương diện này hay phương diện khác.
Sống hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa lý tưởng và thực tế không phải là thứ “triết lý để tồn tại” mà là một minh triết, một túi khôn dân gian. Thông điệp quan trọng này được tổ tiên nhắn gửi qua huyền thoại, truyền thuyết và cổ tích, qua số phận của những người đàn bà, của phụ nữ Việt nam, từ khởi thủy.
(Giáo sư Đỗ Lai Thúy-Trích “Phân tâm học và Tính cách dân tộc)
Thanked by 2 Members:
|
|
#18
Gửi vào 07/02/2014 - 21:10
Cơ cấu sản sinh hiện tượng Chí Phèo
Khởi đầu thực sự của truyện Chí Phèo là hình ảnh – biểu tượng chiếc lò gạch cũ và kết thúc cũng bằng hình ảnh – biểu tượng đó, hiện thoái trong tâm trí Thị Nở. Chí Phèo bởi thế có kết cấu đóng. Tính chất đóng kín là một hằng số nghệ thuật của truyện ngắn này. Nó chẳng những đổ bóng vào không gian và thời gian truyện, hằn dấu trên số phận của các nhân vật mà còn khớp đúng với thực tiễn của làng xã Việt Nam, nhất là ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Câu chuyện Chí Phèo xảy ra trên mảnh đất chật, khép kín sau lũy tre xanh của làng Vũ Đại. Nhưng chặt chẽ hơn, ràng buộc hơn cả và cũng ít hữu hình hơn là sự đóng kín của bản thân cấu trúc làng xã. Ở đay mỗi dân làng không tồn tại như một cá thể, mà chỉ như một yếu tố vừa phụ thuộc vào cộng đồng, vừa phụ thuộc lẫn nhau, và bị phân cấp theo hệ thống thang bậc xã hội. Chiếm giữ vị trí hàng đầu trong bảng giá trị đó là các vị tiên chỉ, thứ chỉ – một dạng tha hóa của chế độ già làng; sau đó là lý trưởng và các hào lý khác, cuối cùng là thứ dân các hạng. Như vậy, giá trị của người dân không chỉ ở phẩm cách đích thực của cá nhân anh ta, mà ở chỗ anh ta ở ngôi thứ nào, chức vị gì, tài sản ra sao, họ hàng với ai… Điều đó đã mặc nhiên được luật lệ hóa bởi cách xưng hô không gọi tên trần trụi, mà phải kèm theo những từ nêu rõ danh phận: Lý Cường, Bá kiến, Đội Tảo, anh cu, chi đĩ… Đó là thân phận xã hội của người nông dân. Chính sự khép kín của cấu trúc này đã đóng vai trò “cơ chế” để chuyển những giới hạn của không gian địa lý lũy tre, con đê, dòng sông… thành giới hạn của không gian tâm thức của các nhân vật trong làng. Với họ, làng là vũ trụ, là đơn vị đo giới hạn (hách nhất làng, giàu nhất làng) làng đóng dấu lên mọi vật “cổng làng, ruộng làng, giếng làng…) tạo ra khuôn mẫu sống, khuôn mẫu tư tưởng… Như một chiếc bào nang, làng xã do tính chất khép kín của nó không vận động trong thời gian. Những “lớp sóng phép hưng” của lịch sử chỉ bấm móng lên bề mặt của nó, chứ không thay đổi gì được nội bộ cấu trúc. Làng xã vẫn cứ tồn tại và vận động theo những quy luật của riêng bản thân nó và trong bản thân nó.
Cái ước mơ được “lột xác” như con rắn trong cổ tích được hóa kiếp để chuyển kiếp trong vòng luân hồi của thứ đạo phật được dân gian hóa là sự khúc xạ của ước vọng day dứt hàng ngày được thay thân đổi phận của đa số những người dân ở chót bảng giá trị, ở vành ngoài cấu trúc. Họ tiết kiệm để làm giàu, tìm mọi cách gắn được mình vào bộ máy làng xã; thậm chí bán cả mành vườn sào ruộng do ông cha để lại cốt mua lấy một cái danh vị hão để thoát khỏi chân bạch đinh, hạng người mà ai cũng có quyền bạt tai đá đít, và được ăn một miếng giữa làng. Cuộc đua tranh này đã làm họ ghen ghét, tị hiềm và kiện tụng lẫn nhau. Bọn cường hào trong làng thường khuyến khích tâm lý đó, để thừa cơ “đục nước béo cò”. Thế là mỗi lần người nông dân muốn ngoi lên thì họ lại tụt xuống thêm một bậc nữa. Kinh nghiệm đó làm nảy sinh ở họ tâm lý an phận, đèn ai nấy rạng. “chỉ nghĩ đến sự yên ổn của mình”, và đối với bọn hào lý, thì mang một cái sợ cố hữu trong lòng. Đó là cái sợ bị hất ra khỏi cộng đồng làng xã, bị lột hết các lớp “áo xiêm” giá trị, phơi ra cái cá nhân trần trụi vô giá trị của mình. Cảnh sống vất vưởng của những kẻ ngụ cư, của những Chí Phèo ở nơi ngoài đê, ngoài bãi với họ là một ám ảnh, một “địa ngục miền nhân gian”
Một kẻ có lý lịch “bốn đời làm tổng lý” có con đang làm lý trưởng, bản thân ăn tiên chỉ làng như Bá Kiến đã nhận ra và lợi dụng quy luật đó. “Một người khôn ngoan chỉ bóp đến nửa chừng… Đè nén con em đến nỗi nó không chịu đựng được phải bỏ làng đi là dại…”, bởi lẽ thoát khỏi sự kiềm chế của tư tưởng công xã, người nông dân lưu tán được suy nghĩ tự do hơn. Thời loạn, họ dễ theo các toán ướp. Thời yên ổn, nếu không sống nổi ở thành thị hay kiếp sống ngụ cư ở làng khác, họ buộc phải quay đầu trở về làng, nhưng “với cái vẻ hung đồ, cái tính ương ngạnh học được ở phương xa” và cái đầu quen được tự do suy nghĩ.
Tuy nhiên, Bá Kiến cũng chỉ là một con người bằng xương bằng thịt. hắn cũng có những cái ghen, cái tức, cái hống hách thường tình, cho nên nhận ra quy luật mà vẫn cứ phạm như thường. Do đó mới có những Năm Thọ, Binh Chức và Chí Phèo. Nhưng Bá Kiến hơn người ở chỗ “không cần thở than” và biết cười “cái cười Tào Tháo” để xoay đảo tình thế. Lấy độc trị độc, hắn dùng ngay bọn họ để trị lại những phe nghịch như đội Tảo, tư Đạm, bát Tùng…
Trong số những đồng loại sống ngoài cấu trúc làng xã, nếu Binh Chức còn có vợ con thì Chí Phèo “trắng tay” hơn, trần trụi hơn cả với con người cá thể vô giá trị của hắn. Nhưng, thật là nghịch lý, đúng lúc hắn mất tất cả ấy, hắn lại được giải phóng khỏi sự trói buộc của những giá trị làng xã. Không còn gì để mất nữa, hắn trở thành không biết sợ. Hắn trở thành kẻ mạnh, cái mạnh của kẻ cố cùng liều thân. Trong chế độ cũ còn một loại người nữa cũng thoát khỏi bảng giá trị làng xã nhưng thoát ra ở đầu trên: đó là kẻ anh hùng. Anh hùng cá nhân bao giờ cũng đứng trên xã hội: “Thứ nhất sợ kẻ anh hùng/ Thứ nhìn sợ kẻ cố cùng liều thân”. Ngạn ngữ của phương Tây có nói: điểm đầu và điểm cuối thì gặp nhau. Chí Phòe là anh hùng của làng Vũ Đại. Sau khi ở nhà đội Tảo về, hắn vỗ ngực: “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Đó là cái oai của hắn, cái triết lý tồn tại của kẻ khốn cùng. Bá Kiến đã biết hướng sự nổi loạn chính đáng và cái mãnh lực tối tăm ở con người Chí Phèo vào những mục đích tối tăm. Thế là từ đó cuộc đời hắn trượt dài trên những cơn say. “Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài mênh mông, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, dập đầu rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống trong lúc say để rồi say nữa, say vô tận… hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đập đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Nhưng Chí Phèo không phải là câu chuyện về kẻ say, kẻ khùng, của những con thú người. Là một nhà nhân đạo lớn, Nam Cao thích đi sâu vào những nhân vật tưởng như đã mất hết tính người như Trương Rự (“Nửa đêm”) để chứng minh cho được nhân tính con người, dù bị tha hóa đến đâu, vẫn còn là một cái gì đó khá bền chặt, bởi lẽ nó cũng có nguồn gốc khá sâu xa, từ lúc con người nguyên thủy đứng được trên hai chân mình để ngẩng mặt lên nhìn thấy cái đẹp của bầu trời. Nhưng ở truyện ngắn này cũng không hẳn nguyên tắc. Trên kia chúng ta đã thực sự bắt đầu từ chỗ “một anh đi thả ống lươn” vậy thì đoạn “hắn vừa đi vừa chửi..” chỉ là một thủ pháp tiểu thuyết quen thuộc gẩy từ giữa truyện ra và để lên đầu một đoạn gây ấn tượng nhất để câu sự chú ý của độc giả. Nhưng ở truyện ngắn này không chỉ đơn giản có vậy. Trong những lời chửi của Chí Phèo, Nam Cao có cất giấu chìa khóa – mã để giúp bạn đọc tìm ra ẩn số về nhân vật của mình.
Trong dân gian những lời chửi rủa, nguyền rủa cũng là một loại hình folklore, nghĩa là chúng cũng có những sắp xếp nghệ thuật phù hợp với nội dung triết lý xã hội mà chúng chuyển tải. Lời chửi của Chí Phèo cũng vậy, nó được xếp đặt theo một logic chặt chẽ: từ cái khái quát nhất đến cái cụ thể nhất, từ cái rộng nhất đến cái hẹp nhất, từ chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi những kẻ không chửi nhau với hắn đến chửi cái đứa đẻ ra hắn, tức chửi cha hắn. Theo tập quán kiêng kỵ của người Việt, chửi cha là một tội đáng nguyền rủa, bởi vì nó xúc phạm nặng đến tục thờ tổ tiên của mỗi người và của cả cộng đồng. Người cha còn là người trực tiếp cho ra đời một người con – con người không chỉ với tính cách là một sinh vật, mà quan trọng hơn là một thân phận xã hội bị chế định bởi những tài sản, chức tước, địa vị và cả quan hệ họ hàng mà hắn được kế thừa. Chí Phèo chửi cha nghĩa là chửi vào chính bản thân hắn, bởi sự không cha không mẹ không họ hàng thân thích đã đẻ ra cái số phận khốn nạn của hắn. Rõ ràng, ngôn ngữ của Chí Phèo ở đây không phải là thứ ngôn ngữ lộn xộn, chuyện nọ xọ chuyện kia, của kẻ say hoặc điên. Đó là ngôn ngữ tỉnh lạnh của kẻ đang tự nguyền rả mình, đang tự đối thoại với chính mình.
Người nông dân trong làng xã vốn chưa từng quen sống với cái tôi của mình, thậm chí có khi cũng không ý thức được sự tồn tại của nó, cho đến khi bị đẩy ra ngoài cộng đồng. Khi có ý thức về mình như một cá nhân, Chí Phèo cũng ý thức được toàn bộ sự bế tắc của mình. Hắn muốn lảng tránh bản thân bằng rượu, bằng triết lý anh hùng của kẻ liều, thậm chí bằng cả hành động tội ác. Đó là bi kịch của sự tự ý được cái bế tắc của thân phận xã hội của một kẻ bị đẩy ra ngoài hệ thống gái trị. Nhưng chính sự cảm nhận bi kịch đó đã ngăn giữ Chí Phèo ở lại bên này ranh giới con người – con vật và luôn luôn chờ cơ hội để tỉnh thức
Cơ hội đó là một ánh sáng. Đây là ánh sáng duy nhất trong cái làng Vũ Đại tối tăm. (“Mấy cái ngõ tối xung quanh đùn ra biết bao nhiêu người”.) ở Nam Cao, ánh trăng bao giờ cũng đi liền với một sự thức nhận một điều gì đó (“Trăng sáng”). Soi vào “ánh trăng chảy trên tường trắng tinh”, Chí Phèo nhận ra được cái “vật đen, xệch xọc, cứ quần quật dưới chân hắn” chính là cái bóng của hắn, chính là diện mạo của bản thân hắn. Hắn “đứng lại và nhìn nó và ngả nghiêng cười”. Đối mặt với mình, cái ý thức về mình sống dậy.
Sau đó, trong cuộc đối ẩm với Tự Lãng, Chí Phèo hoàn toàn tỉnh táo, mặc dù hắn uống rất hăng, thậm chí “càng uống càng tỉnh”, “tỉnh ra, chao ôi buồn”. Y lẳng lặng nghe Tự triết lý về cuộc đời, vật ngửa lao Tự đang say bò lê bò càng rồi bỏ đi, cảm giác về bản thân liên tiếp trỗi xuống bờ sông, Chí Phèo “tò mò nhìn những tàu lá chuối… nằm ngửa, ưỡn cong lên hứng lấy trăng xanh rời rợi như ướt nước, thỉnh thoảng lại bị gió lay lại giãy lên đành đạch như hứng tình”. Bút pháp phân tích nội tâm sâu sắc, tinh tế của Nam Cao đã mô tả được quá trình thức tỉnh ý thức về bản thân của Chí Phèo, mà cuộc giao tình với Thị Nở là đỉnh điểm.
Được nếm trải cuộc sống “vợ chồng” bình thường nhỏ mọn với Thị Nở, Chí Phèo khát khao được trở lại cộng đồng, làm một người bình thường “chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải (…) một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng”. Và Thị Nở chính là cái phao đưa kẻ chết đuối như Chí Phèo cập mình vào cái bến của mọi người. Nhưng hóa ra muốn được làm một người “lương thiện” cũng rất khó. Không ai chấp nhận cho hắn được làm người lương thiện, thậm chí cả một kẻ cùng khổ như bà cô Thị Nở, phải sống ở rìa làng, cũng cậy mình là kẻ trong đê không chịu để cho cô cháu gái dở hơi quá lứa lấy một kẻ ngoài đê như Chí Phèo.
Không được cộng đồng chấp nhận, Chí Phèo lại sa vào một sự chấn động lớn. Lần này thì có lẽ không một thứ rượu nào có thể làm hắn say được, không có thứ gì có thể làm hắn ngủ quên trong dòng đời được. Chí Phèo giết Bá Kiến, kẻ trực tiếp tạo ra số phận hắn. Giết Bá Kiến rồi sau đó tự sát là một hành động nổi loạn một cách tuyệt vọng, bởi vì hành động đó không phá vỡ được cấu trúc làng xã – nguyên nhân của những nguyên nhân tạo ra những bi kịch Chí Phèo. Nam Cao đã chỉ ra điều đó rất sinh động, sáng rõ qua lời bàn tán của dân làng. Có người nói: “Thằng mọt già ấy chết, anh em mình nên ăn mừng”. Những người biết điều thì hay ngờ vực, họ chép miệng nói: “Tre già thì măng mọc”, thằng ấy chết còn thằng khác, chúng mình cũng chẳng lợi tí gì đâu…”
Nam Cao kết thúc truyện ngắn của mình bằng cái chết của Chí Phèo và sự lặp lại hình ảnh chiếc lò gạch cũ. Nhưng không vì thế mà Chí Phèo của ông gây ấn tượng là câu chuyện của một con người cụ thể ở một làng cụ thể. Bởi lẽ Chí Phèo tuy chết nhưng đã kịp để lại một Chí Phèo con, một sự “tre già măng mọc” theo nghĩa trực tiếp, mặt khác, quan trọng hơn là hiện diện phổ biến của chiếc lò gạch ở một làng quê – một yếu tố tượng trưng cho sự lặp lại của cấu trúc làng xã. Hơn nữa, Việt Nam xưa là đất nước của những người nông dân bởi sự áp đảo tuyệt đối của họ về dân số và diện tích địa bàn cư trú đối với các thành thị phương Đông tiền tư bản chủ nghĩa, thường chỉ là nơi đầu não hành chính, cho nên cơ sở kinh tế của nó là kinh tế tiểu nông, cấu trúc xã hội của nó là cấu trúc làng xã. Và chính cái cấu trúc của làng xã tiểu nông này là cơ chế đẻ ra Chí Phèo, đẻ ra hiện tượng Chí Phèo.
Được chiếu rọi bởi ánh sáng của cái nhìn đó, hình tượng Chí Phèo bỗng vụt lớn lên, bước ra khỏi mảnh đất chật hẹp của một làng nói chung nào đó, để rồi lấy vóc dáng tạo nên xã hội. Đồng thời và ngược hướng với sự phát triển theo chiều kích vĩ mô trên, hình tượng Chí Phèo còn phát triển theo chiều kích vi mô. Nó thu nhỏ lại từ diện mạo cụ thể đến vô diện mạo, từ hữu hình đến vô hình. Nó tạo thành một cái gọi là chất chí phèo, gia nhập họ hàng với những chất AQ, chất Oblomob, chất Đông Ky Sốt… lẩn quẩn đâu đó trong mỗi con người, mà đôi khi trong những điều kiện nhất định, người ta thoáng nhìn thấy, thoáng nghe thấy một hình dáng, một hành vi, một sự ăn nói kiểu Chí Phèo… Chí Phèo sống với chúng ta, sống giữa chúng ta, sống trong chúng ta vậy.
Giáo sư Đỗ Lai Thúy
Thanked by 2 Members:
|
|
#19
Gửi vào 07/02/2014 - 21:16
Trong phần 3, cũng là phần cuối của chùm bài, Giáo sư Đỗ Lai Thúy đã đưa ra một thái cực khác với cái Chửi của Chí Phèo, đấy là cái Cười trong truyện Trạng. Cùng với đặc tính nữ uyển chuyển đã phân tích ở bài 1 về thái độ “mềm mỏng”, cam chịu và chấp nhận số phận; ta có thể thấy rằng trạng thái Cười và Chửi là hai loại phản ứng tất yếu của người Việt để có thể đạt được sự nín nhịn. Tuy nhiên, liệu rằng vì thái độ ấy mà chúng ta cứ mãi là một quốc gia tiểu nhược?
Cười hở mười cái răng – Tục ngữ
Nếu con người, như Aristote nói, là một động vật biết cười, thì người Việt mình, có lẽ, người hơn cả. Bởi lẽ, người Việt rất hay cười. Giải thích về cái tính hay cười của người Việt, nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng từ thế hệ này sang thế hệ khác lúc nào cũng phải đấu tranh với thiên tai địch họa, nên người Việt “CẦN CƯỜI” (tham luận trong Đại hội Hội nhà văn lần II – 1963) để giải tỏa sự nặng nhọc, làm vệ sinh tâm hồn, để vui mà sống. Học giả Nguyễn Văn Vĩnh thì coi tính hay cười đó là vô duyên, thậm chí vô nghĩa: “An Nam ta có cái lạ thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, dở cũng hì; phải cũng hì, quấy cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng mọi việc hết nghiêm trang” (“Gì cũng cười” – Đông Dương tạp chí số 22-1907). Bình luận về cái cười của người Việt, nhà văn Phan Khôi còn trách cứ nặng nề hơn: “Chúng ta cứ mở miệng là xưng mình là con rồng cháu tiên, cứ tưởng mình là văn minh lắm, ngờ đâu chỉ một cái cười cũng không nên dáng” (“Cái cười của con rồng cháu tiên” – Phụ nữ Tân văn số 84 – 28/5/1953). Những nhận xét trên về người Việt cười, khoan hãy nói đến sự đúng sai, đều thể hiện rõ một điều là cái cười làm bộc lộ một nét nào đó trong tính cách người Việt, đôi khi là một nét sâu sắc và khá bất ngờ. Có lẽ, khi cười, cái vô thức không bị canh giữ, con người dễ để lộ tướng tinh.
Cùng với các truyện tiếu lâm, các câu đố tục giảng thanh hay đố thanh giảng tục, các bài ca dao nói ngược, các chú Bờm, Hề, Tễu… người Việt còn cười dài trong các truyện “Trạng Quỳnh”, “Trạng Lợn”, “Trạng Vật”, “Trạng Cờ”, “Trạng Ăn”. Xuất phát từ những giai thoại về các ông “Trạng nguyên” (có thật), dân gian đã xây dựng nên những ông “Trạng dở” (hư cấu) để gửi gắm vào đấy những ao ước, thèm muốn của mình. Tại sao dân chúng chỉ mơ đến ngôi Trạng mà không ước đến ngôi Vua – ngôi vị chúa tể của xã hội Việt Nam cổ truyền? Tưởng đã mơ thì ước luôn một lèo, chuyện mơ ước ấy mà, có mất gì đâu? Có thể ngưỡng văn hóa đã làm cho người Việt chừng mực ngay cả trong giấc mơ? Hoặc cũng có thể, thân phận kép của ông Trạng gần gũi với dân chúng, nên họ dễ hóa thân hơn?
Như đã biết, vua là con trời, nên ngôi vua chỉ dành cho những người dòng dõi con nhà trời theo chế độ truyền tử. Hoặc giả dân có nổi can qua, thì con sãi nào ở chùa nay không phải quét lá đa nữa thì cũng phải là người có thiên mệnh (hoặc chí ít thì sau khi làm vua rồi cũng phải vẽ cho được lá bùa thiên mệnh đó) Cho nên, xét cho cùng, chuyên đâu đóng đó. Ngôi vua chỉ dành cho những kẻ đặc tuyển. Còn ngôi trạng thì khác. Chế độ thi tuyển quan chức không nhiều thì ít đã mở ra cho tất cả mọi người thuộc các thành phần xã hội (trừ xướng ca vô loài, dĩ nhiên) một cơ hội như nhau. Người có khả năng ăn học (tức có ăn để học), có trí thông minh trung bình, có sự cần cù, nhất là có đầu óc khuôn phép, đều có thể thi đỗ làm quan. Cũng có thể phải thêm một chút may mắn nữa, bởi học tài thi phận cơ mà). Trạng nguyên là đỉnh của những người hay chữ. Mà hay chữ thì “trăm nghề đều kém mẽ, chỉ đọc sách là cao”, vì “trong sách có nhà vàng, trong sách có người ngọc”. Bởi vậy, đỗ trạng là một sự thay thân đổi phận ghê gớm, từ người dân một bước lên thành dân chi phụ mẫu, hay nói theo thuật ngữ phê bình văn học hiện đại là “sự chuyển đôi không gian xã hội”. Bởi vậy, cái cảnh võng anh đi trước, võng nàng theo sau là mơ ước của bao chàng đọc sách và bao nàng quay tơ.
Trong số các truyện trạng thì Trạng Quỳnh, Trạng Lợn đứng đầu bảng của khẩu vị cười người Việt. Không hẳn vì đó là những câu chuyện có cốt, có nhân vật trung tâm xâu chuỗi các biến cố, có tính hoàn chỉnh. Không hẳn vì đó là những giai thoại đặc sắc nhất, thú vị nhất, có tính tư tưởng cao nhất. Có lẽ, Trạng Quỳnh, Trạng Lơn, hơn đâu hết, bằng tiếng cười đã phá tung những xiềng xích để cho những xung năng vô thức bị kìm nén bấy lâu trong mỗi con người nổ tung ra, tạo sự hả hê, sự khoái trá. Và, cũng vì thế mà tiếng cười Trạng Quỳnh, Trạng Lợn bộc lộ chiều sâu tâm lý người Việt.
Trạng Quỳnh gồm 48 mẩu chuyện. Mỗi mẩu là một giai thoại trong đời nhân vật nhằm đả kích, châm biếm một ai đó. Có thể là bọn trẻ đồng trang lứa trong làng (Đầu to bằng bồ), kẻ trên (Trời sinh ông Tú Cát), kẻ sang (Miệng người sang có gang có thép), quan thị (Lỡm quan thị), Vua (Tiên sư thằng Bảo Thái), Chúa (Đá bèo, Đại phong, Món ăn mầm đá), Thành Hoàng, Bà Banh, Chúa Liễu… Tóm lại, các nhân vật trên đều thuộc tầng lớp thống trị, cả thế quyền lẫn thần quyền, tức theo khẩu ngữ ngày nay, bọn phong kiến sống và bọn phong kiến chết. Bởi vậy, các nhà nghiên cứu đều chúng khẩu đồng từ coi Trạng Quỳnh là tác phẩm có tính tư tưởng và tính chiến đấu cao. Chỉ xin lấy một ví dụ tiêu biểu: “Trạng Quỳnh là đạo đức, trí tuệ, kinh nghiệm thực tiễn của nhân dân, là tính chất duy vật tự phát của nhân dân đối lập với sự ngu dốt, phi lí, vênh váo, độc đoán, hư vô, đốn mạt, dâm đãng, tàn bạo của bọn phong kiến. Ở Trạng Quỳnh, nhân dân và phong kiến không dung thứ nhau được. Mâu thuẫn giai cấp lên đến tột độ… Rõ ràng là cuộc cách mạng đã chín muồi” (Cao Huy Đỉnh – “Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt nam” NXB Khoa học Xã Hội -1974)
Bây giờ xin sang một phương diện khác ấy là tìm hiểu xem thứ vũ khí tiếng cười nào mà Quỳnh dùng để đả kích bọn thống trị. Trước hết đó là trí thông minh, óc thực tiễn của Trạng Quỳnh (Đầu to bằng bồ, Dê đực chửa) nhưng chú yếu là chơi xỏ (Đá bèo, Ông nọ bà kia, Chúa ngủ ngày, Trạng chết chúa cũng băng hà), bẫy (khốn nạn thân gà thiến, Tạ ơn Chúa Liễu), lỡm (Lỡm quan thị, Lại lỡm quan thị, Sứ Tầu mắc lỡm) chửi bới (Thừa giấy vẽ voi, Thay lời giáo Thụ)… Tóm lại, cách mà Trạng Quỳnh hay dùng nhất để chống lại bọn phong kiến thống trị là “chơi xỏ và chửi bới”. Ở đây xin lưu ý một điều là nội dung chống đối là quan trọng, nhưng dưới cái nhìn tâm lý – văn hóa thì cái cách chống đối còn quan trọng hơn. Bởi lẽ, cái cách đó là sự ngưng kết lâu dài trong thời gian, là lối ứng xử, là chìa khóa để mở vào cõi vô thức cá nhân và vô thức tập thể của một con người, một tộc người.
Trạng Quỳnh cười, cười bằng sự chơi xỏ và chửi bới, rõ ràng phản ánh tâm lý của người bị trị chống lại kẻ thống trị mình, của kẻ yếu chống lại kẻ mạnh. Cách chống đối này, rõ ràng không thể hiện rõ thế thượng phong, mà phần nào chứa đựng cả sự bất lực.
Cũng dễ hiểu, dân ta sống lâu năm trong chế độ nông nghiệp quân chủ Nho giáo, là thân phận một thần dân, chịu nhiều tầng áp bức, nên đã hình thành lối ứng xử chống đối trong chịu đựng, chịu đựng nhiều tầng áp bức, nên đã hình thành lối ứng xử chống đối trong chịu đựng, chịu đựng mà vẫn chống đối. Lại cũng dễ hiểu dân ta cư trú sát nách ông bạn láng giềng khổng lồ, có tư tưởng bành trướng luôn luôn sẵn sàng gây sự, nên lúc nào cũng phải nín nhịn. Khi nào nhịn, phải trải thảm đỏ cho về nước và tiếp tục cống người vàng, hoặc tự trói mình lên sát biên giới để nhận sắc phong. Nói là mềm dẻo sách lược thì cũng đúng, thần phục giả vờ, độc lập thật sự lại càng đúng. Nhưng dẫu sao lối ứng xử ấy không thể không để lại vết hằn trong tâm lý tộc người.
Trạng Lợn gồm 19 mẩu, có tích có chuyện, có mở đầu bằng mô tip kết thai thần kỳ (ông sao sa vào thùng nước tắm của bà mẹ) và có kết thúc bằng cảnh thoát trần một gót thiên tiên. Con đường thành Trạng của Trạng hoàn toàn do gặp may. Văn chương thế giới đã có những nhân vật chuyên gặp xúi quẩy , nhưng cũng có những người chuyên gặp may mắn. Trạng Lợn là một người như vậy. Trạng có vận may cũng dễ hiểu vì Trạng, xét cho cùng không phải là người trần, mà là người xuống trần, nên Trạng luôn được một ông già hoặc một lực lượng siêu nhiên, nhưng tình cờ. Đáng chú ý hơn là cái cách Trạng gặp may, cái cách thành công của Trạng. Trạng vốn dốt lại lười học (phải chăng chữ lợn, Trạng Lợn, không đơn giản chỉ nghề đồ tể của bố Trạng?), điếc không sợ súng, nhưng nhỡ sa vào tình huống khó xử, Trạng đều nói bừa hoặc nói phét. Nhưng ác thay những lời nói bừa, nói phét ấy đều trúng cả. Thật là dốt chữ… thành thần. Sự đối lập giữa hai cực đó càng làm nổi bật cái may của Trạng.
Không như Trạng Quỳnh, đánh giá Trạng Lợn ý kiến của các nhà phê bình không đồng nhất. Người này cho rằng “Trạng Lợn là một nhân vật tiêu cực”, khoác lác, “đúng nghĩa đen của nó”… “thứ Trạng ấy lại phục vụ cho chế độ phong kiến thối nát, mà chính Lợn cố ý xin cho được” (Cao Huy Đỉnh). Người khác: “Truyện Trạng Lợn đã đem vua chúa, quan lại, nho sĩ ra làm trò đùa” (Đinh Gia Khánh – “Văn học dân gian Việt nam”). Còn người thứ ba: “Truyện Trạng Lợn đả kích bọn quan lại, bọn nho sĩ phong kiến ngu dốt, bọn chúng chỉ là một lũ hư danh, cơ hội, chực leo lên đoạt vị trí thống trị chẳng qua vì gặp may, vì bạo loạn” (Kiều Thu Hoạch – “Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội” – Sở VHTT 1991)
Những nhận định trên đều xuất phát từ cái nhìn xã hội học, lấy sự phản ánh xã hội, đặc biệt là cuộc đấu tranh giai cấp, làm tiêu chí đánh giá tác phẩm, nên không khỏi có lúc phiến diện, gượng ép. Thực ra, đọc truyện “Trạng Lợn”, người ta thấy đó là cái cười vô cùng sảng khoái. Người ta không thấy ghét Trạng Lợn, ghét sự tiến thân bằng những tình cờ may mắn của anh ta, mà chỉ thấy đó là trường hợp thú vị, kỳ lạ vốn cũng là một mặt của đời sống, cái mặt làm cho cuộc sống đỡ tẻ nhạt, trần trụi, dung tục. Đó là giấc mơ, mà qua đó dân được và muốn thay thân đổi phận, đây là chỗ mọi người đồng lòng yêu mến Trạng Lợn, bởi ai cũng muốn tình cờ gặp một vận may như Trạng Lợn.
Người Việt là một dân tộc nông dân. Thiểu số những người hiện nay tuy không làm ruộng nữa, không sống ở nông thôn nữa, nhưng vẫn bảo lưu một căn tính nông dân. Người nông dân Việt vốn là một tiểu nông, sống với nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc sống trong làng xã có tôn ti, trật tự, nên không dễ gì thay đổi thân phận được, ngoại trừ trong mơ ước. Và trong cái không gian làng xã, tiểu nông ngưng đọng và bức bối về tinh thần đó,mơ ước dễ chuyển thành huyễn tưởng, một hư tưởng sinh tồn. Người ta chỉ tin vào sự thần kỳ, tin vào những đổi thay bỗng nhiên, bỗng chốc, bất ngờ, đại nhảy vọt… Người ta tin vào chủ nghĩa cứu thế, đặt kỳ vọng vào sự dẫn dắt của một cá nhân thần thánh nào đó.
Trạng Quỳnh và Trạng Lợn là hai nét tâm lý cơ bản của người Việt cười. Đó là hai vế của một câu đối, một cỗ xe ngựa song hành suốt dòng thời gian như một hằng số. Trạng Quỳnh là vế trắc, thông minh, tài trí, ghét kẻ trên, hay xỏ xiên đả kích, chửi đổng. Đó là tâm lý kẻ bị trị, kẻ yếu muốn thắng lại kẻ trị mình, thắng kẻ mạnh hơn mình bằng lối đánh tập hậu. Còn Trạng Lợn là vế bằng, dốt nát và lười biếng nhưng gặp may. Đó là một chút huyễn tưởng thường thấy của các cư dân tiền công nghiệp.
Những di sản tinh thần trên ngày nay không phải đã hết. Nó có thể tồn tại ở dạng nguyên baản hay dạng biến tướng. Xin lấy một ví dụ, tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng, ngoài những mặt tích cực của nó, cũng mang nhiều tính chất huyễn tưởng của con người nông dân trong thời đại đô thị hóa, dù là đô thị thuộc địa. Một mặt đó là phản ứng chống lại mọi sự cách tân của đô thị, mà bước đầu khó tránh khỏi sự lố lăng, mặt khác là tham vọng chinh phục cái thế giới đô thị xa lạ đó bằng những tình cờ may mắn, bằng số đỏ.
Còn trong đời sống người nhật hiện nay, phản ứng trước những thế lực bảo thủ nào đó, vẫn thường là những câu chuyện vui, những tiếu lâm hiện đại, những lời chửi đổng. Từ nói vỉa hè, quán nước, trên xe, trên tàu đến các phòng khách sang trọng, hành lang hội nghị người ta đều kể truyện cười. Người kể như được tháo khoán sự ấm ức của lòng mình, người nghe như được ai nói hộ cũng sự ấm ức của lòng mình. Người nghe và người kể cùng hể hả. Cười. Ấm ức được giải tỏa. Người ta thấy lòng mình được yên ổn hơn. Thế rồi ai lại vào việc ấy.
Cuộc sống cứ thế trôi đi. Mọi việc đều chấp nhận một cuộc sống như vậy. Chấp nhận do nhận thức được tất yếu, dù chỉ là cái tất yếu của tư duy. Mà một khi nhận thức được tất yếu thì con người được tự do. Một thứ tự do trong chấp nhận. Điều này thể hiện rõ nhất trong chuyện viết lách. Viết thì phải lách, lách để mà viết.
Nhưng đáng nói hơn là đằng sau lối ứng xử này là tâm lý phò chính thống. Tôi chửi xỏ họ ngoài mặt mà trong thâm tâm tôi vẫn muốn được trở thành như họ, hoặc chí ít cũng được họ đóng dấu xác nhận vào diện mạo của mình. Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp. Áo gấm về làng ban đêm thì ăn thua gì!
Đến đây ta cũng thấy rõ hơn Trạng Quỳnh và Trạng Lợn tưởng khác nhau một mực một trời mà hóa ra lại là một thứ nhị vị nhất thể của tâm lý dân tộc. Như hai quả núi nếu nhìn ở bề mặt hữu thức thì một nở nơi này, một ở nơi kia, nhưng nhìn vào những tầng sâu địa chất vô thức, ta mới ngớ ra là chúng cùng một sơn hệ.
Những di sản tâm lí đó sẽ níu chân người Việt bước vào hiện đại hóa đất nước. Sự thức nhận hiện nay là, chỉ khi sòng phẳng với quá khứ, tức thẳng thắn vạch ra để mà khắc phục những hạn chế tâm lý dân tộc, những chiếc cùm lim (chân có đế), những vòng xích sắt (vẫn còn vương) thì mới có thể nhẹ gót tương lai.
(Giáo sư Đỗ Lai Thúy-Phân tâm học và tính cách dân tộc)
Thanked by 3 Members:
|
|
#20
Gửi vào 08/02/2014 - 21:50
Ngày nay, cứ mỗi độ xuân về, người ta mới sực nhớ đến câu đối Tết, vì câu đối là một trong sáu thứ tiêu biểu nhất của ngày Tết theo phong tục cổ truyền của dân ta:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Nêu cao, tràng pháo, bánh chưng xanh.
Hình ảnh của ông đồ già ngồi bên hè phố đông đúc của nhà thơ Vũ Đình Liên cũng vẫn còn thấp thoáng trên đường phố Lê Lợi trong mấy năm gần đây vào những ngày giáp Tết. Không biết, năm nay, ông đồ già mặc chiếc áo the tàng, ngồi bên những cuộn giấy đỏ và nghiên mực đen ấy có còn ngồi đó để mang lại một chút dư âm của ngày Tết cổ truyền nữa hay không? Dẫu sao thì ý nghĩa của việc dùng câu đối cũng đã gần như mất hẳn cùng với sự suy tàn của chữ Hán, Nôm trong nền văn học của ta.
Nhưng trong xã hội ta thời xưa, câu đối không chỉ dùng cho mấy ngày Tết mà được sử dụng trong mọi hoàn cảnh, mọi trường hợp: vui mừng, tang ma, cổ động, châm biếm v.v… Nó là một nghệ thuật chơi chữ, biểu hiện tài năng, trí tuệ, khí phách, tình cảm của con người. Vì vậy, xưa kia, ông cha ta vẫn dùng câu đối làm một phương tiện trắc nghiệm khả năng trí tuệ, khuynh hướng nghề nghiệp, tâm trạng, tư tưởng của người đi học. Câu đối loại này không chỉ được dùng cho trẻ em mà cả người lớn. Giá trị của các câu đối đáp được đánh giá căn cứ trên hình thức, nội dung và cả tốc độ của câu trả lời. Vì vậy, các nhà giáo thời xưa vẫn thường ra những câu đối để chẩn đoán khả năng theo đuổi sự học của học sinh trước khi thâu nhận họ vào trường, đồng thời cũng để tiên đoán sự thành công của họ trong tương lai. Trong sự giao thiệp với các nước xưa, các viên chức Trung Hoa cũng hay dùng câu đối để trắc nghiệm trí thông minh của người dân nước ta trước khi họ quyết định nên đối xử với ta như thế nào.
Nói chung, điều mà các nhà giáo dục thời xưa của ta quan tâm đến trước tiên là khả năng trí tuệ (mental ability) của con người, vì sự thành công trên đường đời, trong nghề nghiệp, không tùy thuộc vào sự học nhiều, nhớ nhiều, mà ở khả năng ứng xử trong mọi hoàn cảnh mới, giải quyết những vấn đề mới thường không có sẵn trong sách vở hay trong kinh nghiệm cũ. Trí thông minh tác động qua sự học tập, sự thích ứng (adaptation) các kinh nghiệm học tập cũ với hoàn cảnh mới, và qua tư duy trừu tượng. Nó bao gồm một tập hợp các khả năng khác nhau, mà quan trọng nhất là các khả năng liên quan đến suy luận trừu tượng (abstract reasoning), suy luận ngôn từ (verbal reasoning) để tìm ra các mối liên hệ giữa các khái niệm, và rút ra các nguyên tắc, các quy luật của sự vật. Đó là một tập hợp một số khả năng trí tuệ mà các nhà trắc nghiệm tâm lý ngày nay gọi là “yếu tố G” (G factor), tức là một khía cạnh của trí thông minh tổng quát cần cho việc học tập trong nhiều lĩnh vực, cũng như cho sự thành công trong các nghề nghiệp khi khôn lớn. Tập hợp các khả năng được bao gồm trong cái mà ngày nay gọi là “yếu tố G” ấy chính là điều mà các nhà giáo dục thời xưa của ta muốn khảo sát nhiều nhất ở người học qua các câu đối.
Phần dưới đây sẽ đề cập đến chức năng của các câu đối trong việc trắc nghiệm trí tuệ của các nhà giáo dục ta thời xưa, qua một số giai đoạn thường được kể lại trong các tài liệu văn học.
Trước hết, ta cần phải biết thế nào là một câu đối. Một câu đối gồm có hai vế đi song song với nhau: vế trên và vế dưới. Mỗi vế có thể gồm bốn chữ trở xuống, gọi là “tiểu đối”, hay năm chữ trở lên, gọi là “câu đối phú”. Ông thầy (hay người ra câu đối) đưa ra một vế (vế trên), và người học trò (hay người đối lại) phải tìm ra vế thứ hai (vế dưới) để đáp lại, càng nhanh càng tốt, đúng theo phép đối về cả nội dung (đối ý) lẫn hình thức (đối chữ theo quy luật âm thanh và loại từ).
Về mặt hình thức, câu đối là một phương tiện khảo sát ở người học khả năng vận dụng các phép đối căn bản để có thể làm văn vần (thơ, phú), biền văn (câu đối, tứ lục, kinh nghĩa) và văn xuôi, tức là các thể văn thông dụng trong chương trình học và thi cử, cũng như trong việc soạn thảo các loại văn thư, chiếu biểu khi ra làm việc nước. Học sinh nào nắm vững được phép đối và biết tận dụng nhanh chóng phép ấy, thì mới được xét là có khả năng tiến xa trên đường học vấn. Theo phép đối này, điều kiện trước tiên là người học sinh phải đối về thanh, nghĩa là “trắc” đối với “bằng” ( b ), “bằng” đối với “trắc” ( t ), và về loại từ, nghĩa là hai chữ được đối với nhau phải cùng một loại từ.
Các cụ ta ngày xưa chia các chữ ra làm “thực tự” (hay chữ nặng), như: trời, đất, cỏ, cây, v.v… và “hư tự” (hay chữ nhẹ), như: thế, mà, vậy, ru v.v… Thực tự phải đối với thực tự, hư tự phải đối với hư tự. Nói theo lối ngày nay, thì một danh từ đối với một danh từ, một động từ đối với một động từ, một tính từ đối với một tính từ v.v… Đây là một loại khảo sát mà ngày nay người ta thường gọi là trắc nghiệm về văn phạm, một trong những hình thức trắc nghiệm thông dụng về khả năng trí tuệ.
Thí dụ:
Vế trên
1....................2...................3................4................5
con..............ruồi...............đậu...........mâm..........xôi
( b )..............( b )................(t)..............( b )............( b )
Vế dưới
1....................2...................3................4................5
cái..............kiến................bò.............đĩa.............thịt
(t).................(t)..................( b ).............(t)...............(t)
Mạo từ.....danh từ.........động từ.......danh từ.....danh từ
Những người đối không chỉ làm công việc đối về thanh, mà chủ yếu là đối ý, tức là phải tìm ra ý tưởng tương ứng với vế đã ra, hoặc để trả lời, hoặc để đối chọi lại, sao cho thành hai câu song song. Đây là điều kiện quan trọng của lối trắc nghiệm trí tuệ này. Việc đối ý đòi hỏi người đối phải:
(a) hiểu rõ cả nghĩa đen và nghĩa bóng của toàn vế đã ra, rồi tìm ra một câu đáp lại cũng có đủ nghĩa đen và nghĩa bóng tương ứng,
( b ) hiểu rõ nghĩa của từng từ, nhiều khi phải hiểu cả các chữ đồng âm nhưng khác nghĩa, hay đồng nghĩa khác âm, được dùng trong cùng một vế,
( c ) tìm mối liên hệ giữa các khái niệm ấy và rút ra một nguyên lý nào đó, nếu có, mà người đối cũng phải áp dụng trong câu đối đáp của mình.
Đó là một lối khảo sát gần giống như những trắc nghiệm về thông hiểu (comprehension), phát triển ngôn từ (language development), suy luận trừu tượng (abstract reasoning) và hình thành khái niệm (concept formation) trong các bộ trắc nghiệm về trí tuệ được thông dụng ngày nay. Tất nhiên tất cả đều phải làm đúng theo phép đối nói trên, và phải làm cho thật nhanh. Tốc độ của câu trả lời cũng là một yếu tố quan trọng để khảo sát trí thông minh của người đối.
Nhà văn Chu Thiên trong cuốn “Bút nghiên” kể chuyện trò “Nguyễn Đức Tâm” đang ngồi học với thầy đồ Mỹ Lý thì một ông khách ghé thăm trường và ra một câu đối để trắc nghiệm trình độ học tập của các học sinh trường này. Ông ra câu đối
“Cây xương rồng, giồng đất rắn, long lại hoàn long”,
và ra điều kiện là khi ông nhai dập bã trầu thì học sinh phải đối lại ngay. Câu này thật là hóc búa vì không những ngụ ý chê bai học sinh dốt, thầy dở mà về từ thì chữ “rồng” (Việt) và chữ “long” (Hán) là hai chữ đồng nghĩa mà khác âm. Cậu Tâm hiểu ngay thâm ý của ông khách, và khi ông này đã bỏm bẻm nhai nát miếng trầu, giơ hai đầu ngón tay cầm lấy bã trầu ném tót ra sân thì cậu Tâm liền xin đối:
“Quả dưa chuột, tuột mồm mèo, thử gì mà thử?”.
Ông khách thẹn đỏ mặt, nhưng cũng đành phải lên tiếng: “Hơi được, nhưng không chỉnh, mà lại xược. À thảo nào! Bé mà hay chữ tất dễ khinh mạn”. Quả thật, trò Tâm đã đáp lại cả về ý lẫn từ, vừa ngụ ý phản đối trắc nghiệm của ông khách vừa dùng hai chữ đồng nghĩa nhưng khác âm là “chuột” (Việt) và “thử” (Hán).
Nhưng không phải lúc nào câu đối cũng dài, gồm nhiều đoạn như trên, mà có khi chỉ có hai chữ nhưng rất khó vì đòi hỏi người đáp phải suy luận về mối liên hệ giữa các từ để tìm ra một nguyên lý, và áp dụng nguyên lý ấy trong lời đáp.
Cuốn “Giai thoại văn học Việt Nam” kể rằng ông Lê Quý Đôn từ thuở nhỏ đã nổi tiếng là thần đồng. Năm mới lên bảy tuổi, một hôm có ông khách của cha mình đến chơi, muốn thử trí thông minh của ông, bèn trỏ vào con sông chảy quanh vườn nhà, ở đó sông chia ra làm ba nhánh, rồi đưa một vế đối chỉ có hai chữ
“tam xuyên”
" 三 川 "
(ba con sông).
Câu này có vẻ dễ đối vì chỉ gồm có “tam” (số ba) và một danh từ là “xuyên” (sông). Theo phép đối thông thường, về thanh và loại từ, thì người ta có thể đối lại là “lục phủ” hay “ngũ tạng” gì cũng được, nhưng không phải thế! Câu đối này hóc búa là ở cái nguyên lý có thể rút ra được từ hai chữ ấy, và người đối phải nắm nguyên lý ấy thì mới đối được chữ “tam” và chữ “xuyên” đều có ba nét, hơn nữa chữ “xuyên” cũng là chữ “tam” quay ngang lại một phần tư vòng tròn, 900 mà thôi. Lê Quý Đôn đã tìm ngay ra nguyên lý ấy nên khi trông thấy ông khách đeo đôi mục kỉnh thì ông mừng quá, bèn đối ngay là
“tứ mục”
" 四 目 "
Cái tài tình trong vế đối này là ở chỗ hai chữ “tứ”, nghĩa là bốn, và “mục” nghĩa là mắt, đều có bốn nét cả, mà chữ “mục” cũng là chữ “tứ” quay ngang một vòng 900 mà thành.
Câu đối không những dùng để chẩn đoán khả năng học tập hay để khảo sát trí thông minh của người học, như nói ở trên, mà chủ yếu là để nhận xét về chí hướng, tâm trạng của người học nhằm mục đích tiên đoán (prediction) sự thành công hay thất bại của người ấy trong tương lai.
Sách “Đặng Khoa lục sưu giảng” kể rằng xưa kia, ông Nguyễn Tự Cường, người làng Xuân Lôi, tuy đã lớn tuổi, có vợ con rồi mà vẫn bị mang tiếng là người dốt nát. Lúc ông 30 tuổi, vợ ông cố năn nỉ một vị đại khoa để xin cho ông được phép khai tâm. Vị đại khoa nhận lời, nhưng ông Cường học tối dạ, ba ngày không thuộc một bài. Thầy không muốn dạy nữa, ngỏ ý trả ông về với vợ, nhưng bà vợ năn nỉ quá, ông bèn thương tình ra cho một câu đối, nếu đối được thì ông dạy, bằng không thì thôi. Nhân tên làng của thầy là làng Hạ Vũ và gặp lúc đang mưa, thầy liền ra câu đối
“Làng Hạ Vũ mưa bay phất phới.”
Ông Cường liền ứng khẩu đối luôn là
“Đất Xuân Lôi sấm động ù ù”.
Thầy liền cả kinh mà nói rằng: “Coi câu đối của anh thì cái khí tượng đại khoa đã biểu lộ. Thực là ít có, thế nào anh cũng thành đạt được. Như thế thì, dù anh không muốn học, tôi cũng khuyên cho đi học”. Quả đúng như lời thầy tiên đoán, ông Nguyễn Tự Cường về sau đỗ Hoàng Giáp, khoa niên hiệu Hồng Thuận thứ 16 triều vua Tương Dực nhà Lê.
Một câu chuyện khác liên quan đến việc tiên đoán sự nghiệp tương lai qua câu đối đáp vẫn được nhắc đến nhiều là câu đối của ông Đàm Thuận Huy ra cho các học trò của ông trong lúc trời đang mưa, họ không về nhà được:
“Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách”
(Mưa không có then khóa mà giữ được khách).
Cậu học trò Nguyễn Giản Thanh đối ngay rằng:
“Sắc bất ba đào dị nịch nhân”
(Sắc đẹp chẳng phải sóng gió mà làm đắm đuối người ta).
Thầy Huy xem xong khen rằng: “Câu đối này hay, giọng văn này có thể đỗ Trạng được, nhưng sau tất mê đắm vào vòng sắc dục làm hại lây đến sự nghiệp”.
Tiếp đó, một trò khác đối:
“Nguyệt hữu loan cung bất xạ nhân”
(Mặt trăng giống cái cung mà chẳng bắn ai).
Thầy Huy phê: “Câu này kém sắc sảo, nhưng tỏ ra khí chất hiền hòa, sau này sẽ làm nên, cuộc sống sẽ chu toàn”.
Sau đó, một trò nữa đối rằng:
“Phân bất uy quyền dị sử nhân”
(phân c… chẳng uy quyền mà dễ sai khiến người).
Về câu này thì thầy phê: “Sau này giàu sang nhưng là hạng bỉ lậu!”.
Tóm lại, câu đối là một phương tiện trắc nghiệm rất thông dụng, và nhiều khi rất hữu hiệu của các nhà giáo xưa, nhằm chẩn đoán khả năng trí tuệ của người học, và tiên đoán sự thành công trong việc học tập và trong nghề nghiệp tương lai. So với khoa trắc nghiệm trí tuệ trên thế giới, đã phát triển trong vòng 100 năm nay, bắt đầu từ Âu châu, sau đó được cải tiến tại Mỹ châu, và ngày nay được sử dụng trên khắp thế giới trong các lĩnh vực hướng học và hướng nghiệp, thì các nhà giáo của ta thời xưa đã ý thức được tầm quan trọng của việc chẩn đoán và tiên đoán khả năng trí tuệ và tâm lý của con người rất sớm, trước các nhà trắc nghiệm trên thế giới nhiều trăm năm. Nhưng dân ta vẫn có thói quen “đi trước về sau” cho nên mãi đến ngày nay nhiều nhà giáo dục của ta vẫn đang còn xa lạ với khoa trắc nghiệm, và các trường học của ta vẫn chưa có một dụng cụ hay phương tiện khoa học nào hữu hiệu để chẩn đoán và tiên đoán các khả năng của học sinh nói chung, nhất là trong các lĩnh vực hướng học và hướng nghiệp.
Tất nhiên, so với các kỹ thuật tiên tiến về trắc nghiệm ngày nay thì phương pháp trắc nghiệm bằng câu hỏi của các cụ ta xưa kia còn thô sơ lắm, nhưng điều đáng khen là họ không sợ trắc nghiệm như phần đông các nhà giáo dục của ta hiện nay và ít nhất họ cũng đã cố gắng dùng một phương tiện nào đó để tìm hiểu khả năng trí tuệ và tâm lý học sinh, mà điều này là một yếu tố cần thiết cho việc giáo dục có hiệu quả, tránh được sự lãng phí năng lực con người và tài nguyên đất nước.
Dương Thiệu Tống ( Suy nghĩ về văn hoá giáo dục Việt Nam)
Thanked by 3 Members:
|
|
#21
Gửi vào 10/02/2014 - 03:35
1- Hạnh phúc không phải là thứ có sẵn. Hạnh phúc đến từ hành động của chính ta.
2- Nếu có thể, hãy giúp người khác. Nếu không có thể thì ít nhất không nên hại ai
3- Nếu bạn muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.
4- Tôn giáo của tôi rất đơn giản. Tôn giáo của tôi là sự tử tế
5- Hãy nhớ rằng khi không đạt được những gì bạn muốn, đôi lúc, lại là sự may mắn tuyệt vời
6- Thẩm quyền tuyệt đối luôn dựa vào lý trí và sự phân tích nghiêm túc
7- Chúng ta có thể sống thiếu tôn giáo và thiền định, nhưng chúng ta không thể tồn tại nếu không có tình người
8- Chúng ta không bao giờ đạt được hòa bình trên thế giới, ngoại trừ chúng ta phải thực sự có hòa bình trong chính mình
9- Hãy trở nên tử tế bất cứ khi nào có thể. Trên thực tế, ai cũng có thể trở nên tử tế
10- Nếu bạn có sợ hãi về nỗi khổ niềm đau, bạn nên quan sát xem bạn có thể làm được gì với nó. Nếu bạn có thể, không có gì phải lo lắng về nó. Nếu bạn không thể làm được, lại càng không nên lo lắng về nó
11- Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác
12- Tiềm năng con người vốn bằng nhau ở mỗi người. Cảm giác: “tôi không có giá trị” là sai lầm. Hoàn toàn sai lầm. Bạn đang lừa dối chính mình. Chúng ta có năng lực tư duy, do vậy, thử hỏi ta thiếu cái gì đây? Nếu ta có năng lực ý chí, bạn có thể thay đổi mọi thứ. Bạn có thể nói rằng: “Bạn là chủ nhân của chính bạn.”
13- Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.
14- Bằng bạo lực, bạn có thể giải quyết được một vấn đề, nhưng đồng thời, bạn đang gieo các hạt giống bạo lực khác.
15- Khi con người còn sống, chúng ta phải nghĩ đến các thế hệ tương lai: Một môi trường sạch được xem là nhân quyền giống như bao quyền khác. Vì vậy, một phần trách nhiệm của chúng ta về người khác là đảm bảo rằng thế giới mà ta đang sống là khỏe mạnh, nếu không nói là khỏe mạnh hơn cái ta đã thấy
16- Danh ngôn Tây Tạng có câu: “Bi kịch nên được sử dụng như nguồn sức mạnh”. Bất luận là khó khăn nào, kinh nghiệm đau khổ ra sao, nếu chúng ta đánh mất hy vọng thì đó là thảm họa đích thực
17- Các sinh vật đang sống trên địa cầu này, dù là con người hay con vật, là để cống hiến, theo cách riêng của mình, cho cái đẹp và sự thịnh vượng của thế giới
18- Cái muỗng không thể nếm được vị của thức ăn mà nó chứa đựng. Tương tự, người ngu không thể hiểu được trí tuệ của người khôn, dù cho có thân cận bậc thánh
19. Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực ra là biểu hiện của sức mạnh
20. Mỗi ngày, khi thức dậy, bạn hãy nghĩ rằng hôm nay tôi may mắn còn sống, tôi có cuộc sống con người quý giá, tôi sẽ không phí phạm cuộc sống này
21. Hãy nhớ rằng im lặng, thỉnh thoảng, là câu trả lời tốt nhất
22. Hạnh phúc đích thực có được từ sự biết hài lòng và hòa bình nội tại. Sự hài lòng và hòa bình nội tại chỉ có thể đạt được thông qua sự phát triển tinh thần vị tha về tình thương, từ bi và sự diệt trừ vô minh, ích kỷ và tham lam.
23. Tôn giáo không có nghĩa là giới điều, đền miếu, tu viện hay các dấu hiệu bên ngoài, vì chúng chỉ là các yếu tố hỗ trợ trong việc điều trị tâm. Khi tâm trở thành sự thực tập, mỗi người mới thực sự là một hành giả tôn giáo
24. Đây là tôn giáo đơn giản của tôi. Không cần tu viện; không cần triết học phức tạp. Bộ não và trái tim của chúng ta là chùa chiền của chúng ta; triết học là lòng tử tế.
(Theo PHẬT GIÁO VIỆT NAM)
Thanked by 4 Members:
|
|
#22
Gửi vào 10/02/2014 - 08:42
Tác giả: Huy Dung
Trên 1 tờ lịch trong mấy ngày đầu năm này vô tình đọc được câu “Kiêu căng là đặc quyền của kẻ khờ dại (ngạn ngữ Cổ Hy Lạp)”. Bỗng nhớ lại trước Tết này, trên VCV, tôi đọc được trong bài của Thái Doãn Hiểu, nhà lý luận phê bình thơ, có nhận xét sắc sảo mà đại ý là người thật sự giỏi thơ thì rất khiêm tốn, người có chút tiếng tăm về thơ thì hay vỗ ngực hoặc xem trời bằng vung, thậm chí lục bát tạm sạch lỗi chỉ mới dăm bài đã, như ai nói, liền gọi Nguyễn Du bằng anh ngay!
Tôi thích thú hai chuyện trên và rất nhiều câu chuyện tương tự, vì vấn đề này rất quan trọng, Bởi vậy xin được trích mấy ý chính từ bài tiểu luận ‘Đức Khiêm Tốn’ tôi đăng từ 5-12-1997 (NXB Tp.H-C-M):
Nhìn nhận một con người có chân chính hay không, có trải rèn luyện từ gốc-tâm hồn hay không, có thể căn cứ một điểm, người đó có đức khiêm tốn hay không. Nó tựa như một trong các tiêu chí đầu tiên vậy. Nghe vậy có người không đồng ý hoặc trong lòng giật mình thon thót. Vì sao?
Thói thường con người ta rất dễ đánh giá sai thành tích và thành công của bản thân mình. Người được ca ngợi nhiều thành tích, nhiều tác phẩm, xét ra thành công đích thực cũng chỉ là một góc nhỏ nhoi, nếu thao thao khoe khoang bất tuyệt thì tránh sao khỏi lố bịch. Không những lố bịch mà còn mắc cái thông bệnh Chủ Quan, trầm trọng bậc nhất về góc độ ngộ nhận: tự cho mình là cần thiết nhất, không thể gì thay thế được! Trong khi ở đời, đến như các bậc vĩ nhân cũng chỉ dám nghĩ mình ‘có thể có ích’ cho người mà thôi, chẳng phải là ‘nhu thiết’ - cần thiết đến không thể ai thay thế! Câu vừa rồi, chúng ta nghe thấy quá đúng và đương nhiên nữa, nhưng là câu từ 4 thế ki trước CN - của Trang Tử (-370 đến -298) tóm lược cả một quan điểm triết học trong phần nói về cái đạo trị nước, ở thiên ‘ứng đế vương’(Nam Hoa Kinh, Nội thiên). Càng thông thái, thì càng hiểu sâu hơn về tầm vóc của nhân dân, xã hội và lịch sử.
Dễ chịu thay khi sống chung, làm việc, giao tiếp với người khiêm từ, nhã nhặn thực lòng. Người sống khiêm tốn có sức cuốn hút, thật dễ gần. Dễ gần, dễ chia sẻ, dễ mến, từ đó dễ cộng tác.
Đẹp thay những con người nhượng từ, tự khiêm. Ở họ có cái gì thật cao sang do sự tường tận lẽ đời, đạt tới đức khiêm tốn, đạo khiêm cung (cung kính, tôn trọng).
Tất nhiên không thể lộn sòng vào chỗ này những kiểu cách khách sáo đầu lưỡi và bề ngoài, những cung cách lễ nghi nhún nhường giả dối trong khi bụng dạ tự kiêu ngất trời [một ‘khiêm tốn’ (giả vờ ấy) - bằng bốn tự kiêu”].
Khiêm tốn là chân thành tự đáy lòng với sự lượng giá trung thực, đặc biệt nghiêm túc đối với bản thân, mắt không bị loá bởi màn hoả mù tự huyễn hoặc, mình tự lừa dối mình, theo hướng huyễn ngã thói thường. Như vậy họ có thể tự hào có lẽ sống của bề sâu tâm hồn. Có thể bị nhiều thiệt thòi, họ có sá chi. Nhưng đời rất công bằng, tuy có thể công bằng đến muộn, ‘hữu xạ tự nhiên hương’, thực tài người hiền rồi người đời đều sẽ thấy và trân trọng:
“Để mình ra sau, mình lại đứng trước.
“Bỏ mình ra ngoài, mình lại vẫn còn”
(Lão Tử)
Còn người kiêu căng, thật khó chịu thay khi phải sống chung, làm việc, giao tiếp với họ. Người đời, ai cũng chê cười những kẻ sống tự cao tự đại thành hợm hĩnh, hãnh tiến. Mà đâu có kéo dài mãi thế được. Cũng là kiểu sống ‘ăn xổi ở thì’ mà thôi. Tâm hồn nếu như thế thì quả là nông cạn hời hợt, và đáng thương nữa vì cái lõi bên trong méo mó-rúm ró, vô sắc-‘tối thui’ và cô độc. Còn đáng thương vì thường xuyên tự trách than và hối tiếc quá nhiều: những người tự mãn dương dương tự đắc, huênh hoang ấy hẳn phải tự mình xấu hổ với mình lắm khi dám thầm liếc nhìn vào bên trong bản thân mình đã nhận rõ thực chất còn yếu kém về các mặt chính trực, công bằng, thành tín, kiên tâm, cần cù, dũng khí, kiến thức và cả về mặt chất phác dễ mến nữa mà họ chẳng tài nào có nổi.
Kiêu ngạo là cố tật nguy hiểm nhất trong các cố tật của con người, làm cho tâm hồn không còn cơ hội triển nở. Bạch Vân Cư Sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm răn :
“Làm người chớ thấy tài mà cậy
“Có nhọn bao nhiêu lại có tù”
(Bạch Vân Quốc Ngữ thi tập, bài số 11)
“Có thuở được thời mèo đuổi chuột,
“Đến khi thất thế kiến tha bò”
(Bạch Vân Quốc Ngữ thi tập, bài số 81)
Sách cổ Ấn Độ Panchatantra viết:
“Ai vì kiêu ngạo không tôn trọng mọi người,
kể từ người lớn, kẻ vừa và bé,
thì dù có được vua yêu, cũng sẽ thất bại”
Có thể lẫn lộn chăng, một bên là đức khiêm tốn-đạo khiêm cung, với bên khác là tự ti, tự hạ, vô bản sắc, vô cá tính, dựa dẫm, ba phải? Không thể. Chúng ta đương nhiên phân biệt rành mạch được, khác nào phân biệt giữa nước trong và nước đục. Sự thiếu cá tính, thiếu bản lãnh, tầm thường, kém cỏi, nhạt nhẽo mờ nhạt ấy đều phần nào do ít rèn luyện học tập, không tiến bộ được. Ngày nay, để phát huy hết tài năng, ‘con người MỚI’ chống tự ti, rất cần tự tin, tự tôn-tự trọng, điều này không hề trái ngược với đức khiêm tốn. Ngược lại, càng tự trọng với bản thân thì càng hiểu lẽ khiêm cung với người khác, luôn xử sự thật biết điều.
Cũng không thể lẫn lộn về một dạng mất khiêm tốn gốc từ ‘tự ti mà lại hiếu danh’. Có một số ít ‘kẻ sĩ’, nhà văn nhà thơ nhà cải cách thời hiện đại lại luôn sống trong tâm lí sợ người ta không thấy giá trị của mình, lo không ai biết tác phẩm, tài vượt trội và công phu cách tân của mình, luôn đụng chạm thậm chí hồ đồ xúc phạm bằng nỏ mồm gọi tất cả là ‘đồ hèn’ rồi xung đột với người xung quanh bằng cái tự phụ của mình, đòi hỏi những phong tặng cao hơn sự đóng góp thực, xúc tiến ‘đời’ viết sớm cho mình những bài ‘chân dung’ – nghe tựa hồ thể loại văn tế sống –, hoặc đúc tượng ‘sớm’ cho mình – nom mượng tượng ngôi sinh từ xây cho ‘đại gia’!
Bởi vậy cho nên khiêm nhường không những được coi là một phẩm đức lớn mà còn là nền tảng của đạo đức, là cả một đạo lí. Với Lão Tử, khiêm tốn được khái quát lên thành cái ĐẠO của con người thông minh, cái đạo không thể thiếu trong xử thế. Chính bản thân Khổng Tử khi trẻ, một lần gặp Lão Tử xin lời ‘chỉ giaó’, đã cảm động tiếp thu sâu sắc cái đạo khiêm tốn trong Lão học.
Theo Lão Tử,
“Kiêu Ngạo, ham muốn, nộ khí, ý nghĩ lệch lạc quá nhiều, chỉ có hại mà thôi”;
“Người càng mạnh càng cần khiêm nhường,
càng cần ‘lòng trống như vực sâu’”.
Từ đạo khiêm tốn ngẫm tự thuở ấy, Khổng Phu Tử đã đạt tới nhân cách hoàn mỹ với ôn hoà, cung kính, nhân nhượng, thẳng thắn … Người nhận định: “Bệnh lớn nhất của cuộc đời là kiêu ngạo- kẻ cầm đầu của ‘chúng ác’, trong khi khiêm tốn là cái nền của ‘chúng thiện’ ”. Những lời bình sau đây từ thuở đó là ‘xưa’ nhưng không hề ‘cổ’, nghe sao mà hợp ‘thời sự ’ hiện nay đến vậy: “Thích khoe khoang; dù hiểu biết nửa vời cũng ham hố đàm luận; tất cả đều thuộc về tính kiêu ngạo, thật khó tiến bộ”.
Được hiểu khiêm tốn thuộc cả một phạm trù đạo làm người như trên, nên chi những năm 1970, lúc chúng tôi công tác ở Âu châu, nghe sự thuyết giảng chính thống rằng “khiêm tốn là tính xấu của hạng thấp hèn” thì mặc dù chúng tôi hiểu rất rõ và thông cảm do nguồn gốc nào mà hình thành một tà thuyết như thế, nhưng quả thực nền văn hoá sâu sắc lâu đời của phương Đông không khỏi thương hại cho sự bất cập tư duy này.
Khiêm tốn là tự đáy tâm hồn. Cho nên trong nội dung tu luyện từ bên trong, “luyện từ gốc-tâm hồn” ắt là không được bỏ sót ‘luyện khiêm tốn’. Có luyện khiêm tốn, một đức khiêm tốn thực sự chân thành từ gốc tâm hồn, thì mới mong đạt tâm hồn cao đẹp để làm Người. Còn các kiểu ‘dạy’ kỹ xảo bề ngoài ví dụ dạy rằng “lúc nào cũng như lúc nào, … trên khuôn mặt phải như có cái mặt nạ” (Ramond de Saint Laurent, sách ‘Học cách…thành công’, NXB Trẻ, 10/2000 tr 63) thì thử hỏi làm sao bén tới khiêm tốn đích thực của lẽ làm Người đặng!
Thanked by 3 Members:
|
|
#23
Gửi vào 10/02/2014 - 09:07
Tác giả: Khổng Đức
Khoảng hậu bán thế kỷ 20, văn học Tây phương có một hiện tượng bộc phát là ra đời chủ nghĩa nữ tính. Cũng đúng thôi, bởi vì phái nữ chiếm một nữa dân số trên toàn cầu, văn học lâu nay ít nhắc đến họ là một thiếu sót lớn. Do đó từ hậu bán thế kỷ 20, bản thân phái nữ tự đúng lên đề xuất chủ nghĩa nữ tính và đã chiếm được một địa vị quan trọng .
Chủ nghĩa nữ tính (feminism) cũng gọi là chủ nghĩa nữ quyền, vốn là danh từ do Nhật văn dịch ra Trung văn. Thật ra từ thế kỷ 18 do phong trào tự do lớn mạnh, người ta đã đưa ra vấn đề nam nữ bình đẳng và chủ nghĩa nữ tính tự do (Liberal feminism). Nhưng mãi đến thế kỷ 20 chủ nghĩa nữ tính mới được tổ chức thành hai mặt trận qui mô: một là ở Âu châu đại lục mà nước thủ vai chính là nước Pháp, mặt trận thứ hai là Anh Mỹ, mà chủ yếu là ở Mỹ. Từ thập niên 60 trở đi, sau phong trào vận động giải phóng phự nữ ở Pháp, chủ nghĩa nữ tính được xã hội quan tâm đến một nhân vật nổi tiếng là Simone De Beauvoir (1908-1986) với tác phẩm “ Giới tính thứ hai” (The Second sex-1949); được coi như là thánh kinh của chủ nghĩa nữ tính. Tiếp theo là Helean Ciroux, Lucy Irigaray, Julia Kristeva là ba bình luận gia nổi tiếng gây thành ảnh hưởng lớn ở Âu Mỹ về chủ nghĩa nữ tính. Sau đó các nhà bình luận của giới nữ như tụ tập thành hội quần anh tung ra đủ sách báo thành một trận địa quốc tế bền vững. Giới tính thời hiện đại là tranh thủ quyền lực nữ tính như đặt nặng vấn đề khác tính trong chính trị, ca tụng bản chất nữ tính, hình tượng nữ tính, đề xướng văn hóa nữ tính, mô tả mỹ học nữ tính,, lý luận về cơ cấu giới tính , v…v….Tiến đến niên đại 80, chủ nghĩa nữ tính hướng về hậu hiện đại, nó kết hợp với chủ thuyết hậu hiện đại nhắm vào các hướng : xóa bỏ sự khác biệt giới tính,, lần theo dấu vết khác biệt của xã hội, tiến đến xu hướng bình diện và biên duyên, đưa cá nhân vào tự thân của giới tính, gấp rút đập tan các trung tâm chính, bải bỏ vai trò phu nhân cao quí mà hướng về đại chúng, coi trọng vấn đề tha hóa của phụ nữ, phê phán các trung tâm văn hóa Tây phương và mở rộng mối liên hệ với Đông phương và phụ nữ thế giới thứ ba. Chống đối trung tâm da trắng mà chú ý đến văn hóa văn học của phự nữ da đen. Trong tầng lớp mới lấy cái tâm bình thường làm người bình thường , phản đối hình nhi thượng học coi trọng giai cấp, tầng lớp, chủng tộc, dân tộc, địa lý, v..v…Coi sự khác biệt giới tính là tự nhiên và hướng về xã hội hậu hiện đại và nền văn hóa tương đối, dựa vào thuyết bản chất luận (essention) và giải cấu luận (de-construction) mà khai triển vượt qua bình luận văn học của thế kỷ.
Vì nữ tính từ xưa đến nay về chính trị bị áp bức, về xã hội bị chèn ép nhận chìm, về kinh tế thì cam chịu nghèo khổ, về văn hóa bị nam tính tước đoạt ( đàn bà con gái ít được đi học), tư tưởng tình cảm rơi vào trạng thái đè nén. Do đó nữ tính chủ nghĩa cần phải cố giữ các vai trò trong chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa. v..v…, tranh thủ quyền lực trong nhiều phương diện, phải có địa vị và ân huệ thực sự. Cho nên chủ nghĩa nữ tính phải đảm nhận sứ mệnh giải phóng phụ nữ, suy tư khảo sát tiền đồ và vận mệnh phụ nữ, phải có trách nhiệm và nhiệm vụ của vai trò một nửa dân số trên thế giới, cũng như trên mỗi quốc gia, nói năng phát biểu, tiến hành vai trò nữ tính đối với vấn đề phê bình, hoạt động trong địa hạt văn học, chính trị học, kinh tế, xã hội học….
Không kể bản thân vốn ở địa vị quí tộc như các bà Woolf, S.De Beauvoir, Kristeva vẫn vì văn học nữ tính da đen mà tranh thủ quyền lực cho các vị như Shoualter, Barbara Smith… Chủ nghĩa nữ tính kết hợp các chủ thuyết đang lưu hành như chủ nghĩa Marx, tinh thần phân tích, ngữ ngôn phân tích, chủ nghĩa tồn tại, thuyết giải cấu, v..v…đề xuất một hệ thống phong phú nhằm khai thác và kiến thiết nữ tính với chủ trương lý luận mang tính bao dung, hóa giải và sáng tạo. Tư tưởng truyền thống của chủ nghĩa nữ tính vốn bắt nguồn từ tư tưởng nhân quyền của tây phương. Quyền lợi của nữ tính là do thiên phú, nó vốn mang tính thiên nhiên và tính vũ trụ, đương nhiên phải được tôn trọng, và trao cho những quyền lợi địa vị, vinh dự thích đáng. Đến nổi Woolf phải tuyên bố :”Nếu một người nữ nghĩ đến chuyện viết tiểu thuyết thì cũng phải cần đến tiền, mà còn phải cần có một căn phòng làm việc riêng”. S. De Beauvoir thì nói thẳng: “ Nữ nhân không phải sinh ra là như vậy, mà chính là do sự biến đổi sau khi ra đời mà thôi.” Gần đây chủ nghĩa nữ tính có nhiều thay đổi lớn từ bình đẳng đến sự khác biệt giới tính, không chỉ là do kết quả tự thân phái nữ phát triển mà còn do trình độ tư tưởng đương đại của Tây phương xâm nhập vào, như chủ nghĩa hậu cơ cấu của Foucault, tâm lý phân tích của Lacan, chủ nghĩa giải cấu của Derrida và các thứ tân chủ nghĩa Marx.
Điểm hạch tâm của chủ nghĩa nữ tính là tính chính trị (sexual politics). Các nhà bình luận văn học chủ nghĩa nữ tính cho rằng tiêu chuẩn chính trị là cao nhất, vì rằng quan hệ giới tính (sex) không chỉ là một thứ quan hệ tự nhiên mà còn là một thứ quan trọng, vì nó có liên hệ đến lợi thế chính tri. Vấn đề tính giống (gender identity) là vấn đề chính trị, vấn đề chủng tộc; khác tính là vấn đề chính trị quốc tế, thế tất nó phải cần đến các phương diện quyền thế, địa vị, tinh thần phản kháng và tinh thần chủng tộc,v..v…, tiến đến đích chính trị, nhân loại học.
Nữ tính có đầy đủ ưu thế của thiên nhiên và đặc chất xã hội, có quyền phát biểu ý kiến đối với tính chính trị. Đó là tiền đề của phần bình luận liên quan đến việc phân tích tính chính trị của chủ nghĩa nữ tính. Theo Milton Kesslex va Hareld Bloom, Pagalya, trong tác phẩm “ Tính dụng cụ”(Sexual Personae) miêu tả các bộ phận thân thể của phái nữ với những đường cong, gần giống như cách tạo hình của thiên thể địa cầu, năng lượng thiên nhiên cũng có đầy đủ nơi thân hình người nữ thuận lợi lưu thông đi về.. So với nam nhân, nữ nhân có trực giác và ngộ tính, đối với hiện thực cũng mẫn nhuệ hơn; linh hồn và tinh thần cũng hoàn mỹ hơn, có khả năng tự kiềm chế (Self-containment), lại tự mình giữ quân bình và hòa hài Trái lại, cơ cấu sinh lý của nam nhân đầy khiếm khuyết, do đó cần phải đương đầu với thiên nhiên. Nam nhân không thể tự quân bình được mình, thân thể phải chịu những chướng ngại của thiên nhiên, nên phải hướng ngoại, đầu xạ phóng thích và phát tiết. Do đó nam nhân cần phải hướng ngoại phát triển, thành người kiến thiết nền văn minh nhân loại, hoặc giả cũng có thể là kẻ phá hoại táo tợn; nếu họ không làm như thế thì sẽ bị nữ nhân nuốt trửng . Đối diện trước thiên nhiên, nam nhân có tâm lý sợ hải, vì vậy mà cần phải vận dụng nhiều lý tính để thích ứng , chinh phục và cải tạo thiên nhiên. Cứ như sự nhận xét của chủ nghĩa nữ tính, so với nam nhân , nữ nhân có những ưu thế về thiên nhiên và nhân tính đặc biệt, thế nhưng tại sao lại cứ bị nam nhân áp bức chèn ép mà không nổi dậy chống lại ?
Trong trường kỳ lịch sử, nữ tính không chỉ bị lệ thuộc, địa vị thấp kém sống trong sự nương tựa, trong xã hội cũng như trong thiên nhiên không bao giờ được phát huy, điều kiện kinh tế lại nghèo khó khốn đốn, trình độ văn hóa yếu kém, không hề được học tập dạy dỗ, vấn đề nữ tính về lâu về dài thành bệnh tật. Tất cả những sự kiện đó là điểm chủ yếu để cho chủ nghĩa nữ tính phê bình và dẫn đến điểm xuất phát đồng lớn tiếng đòi hỏi và duy trì nữ tính. Nữ tác giả Woolf trong tác phẩm “ một căn nhà cho chính mình” đã ghi lại những trạng thái tồn tại của nữ tính và phê bình nam nhân như sau :
Trạng huống của phái nữ trong thời Trung cổ, được nam nhân sùng bái như thần; Quan niệm đạo đức của phụ nữ yếu đuối hơn nam nhân,
Phụ nữ có chủ nghĩa lý tưởng, có tâm tế nhị tỉ mỉ hơn nam,
…Phụ nữ tác động đến hành xử của con người; Trong việc cúng tế thần linh phụ nữ phải hi sinh. Phần óc não của phụ nữ nhỏ hơn nam. Phần hạ ý thức phụ nữ lại thâm sâu hơn nam. Phần trên thân thể của phụ nữ ít lông. Về phương diện trí lực, thể lực phụ nữ thấp hơn nam . Phụ nữ rất thương mến nhi đồng; Phụ nữ sống thọ hơn nam giới. Phần cơ bắp của phụ nữ mềm yếu hơn; trong khi sức lực ái tình phụ nữ lại mạnh hơn. Phụ nữ chuộng danh vọng, sự giáo dục phụ nữ đòi hỏi cấp cao….
Phần vừa nêu là quan niệm phụ nữ của Shakespeare. Nếu tự thân nữ tính đều không quan tâm đến vấn đề phụ nữ, những ưu thế, những sở trường của nữ tính không những không được ứng dụng , mà còn mãi mãi vẫn bị nam tính chèn ép, kỳ thị. Chủ nghĩa nữ tính cần phải được tu chỉnh lại các quan niệm và phân tích các vấn dề. Do đó chủ nghĩa nữ tính phải xem vấn đề giới tính khác biệt như là vấn đề chính trị và xã hội. Tại đại học Minezota, kế tiếp tân phê bình đại sư Allan Tate, trong tác phẩm “ Tính chính trị” Millett viết rằng : Nam nhân thường thường nắm được quyền thế, là vận dụng cái uy thế trên cơ thân của nữ nhân, nam tính xuyên qua tính chính trị chi phối nữ tính, cho nên văn hóa đương kim với giới tính khác biệt không có hình thái ý thức xử sự, nó đưa ra khái niệm quyền lực cơ bản, hạn chế nữ tính chỉ lẩn quẩn trong việc sinh đẻ và gia đình, qui định hành vi,tư thái, thái độ và tác phong của vai trò tính; đặc tính nữ tính bị khống chế, được coi như đó là thiên tính của nữ nhân. Nữ được an bần lạc đạo cùng tự duy trì giai cấp địa vị bị chi phối và đối xử; ca tụng cái đẹp của nữ nhân là kể như đưa nữ tính vào giai cấp bị chi phối cùng đặt nữ tính trong địa vị tôi tớ tốt hơn. Thậm chí Eva Figes cho rằng : cơ cấu quyền thế thể hiện ngay trong tư thế giao hợp của tính; bản thân quan niệm phục tùng xảy ra từ phương thức "nam ở trên và nữ ở dưới”. Còn Beauvoir thì viết: sự ưu thế của nam nhân là ở nơi “tính siêu việt”, là không hề bị ràng buộc gì cả, hưởng thụ tự do; trong khi nữ nhân bị đẩy vào “tính nội tại” nên phải chịu cấm đoán ràng buộc đủ thứ, cũng từ tính phục tùng công việc mà sức sáng tạo trở thành yếu đuối.
Căn cứ vào giả thiết truyền thống, nam tính phát huy tính dương cương; nữ tính biểu hiện qui phạm mỹ học thuộc đạo âm nhu. Các nhà phê bình nữ tính cho rằng phong cách lý luận mỹ học tiên nghiệm là một thứ mỹ học thuộc tính chính trị, thứ mỹ học ấy là mỹ học của nam tính. Tác gia nam tính tự mình phô trương cá tính và biểu dương tính phóng túng; đẩy nữ tính vào địa vị bị chi phối, hình thành một thứ lý luận nam tính dương tính là chủ và kể như nữ tính thuộc âm tính là thứ yếu, coi nữ tính như là trò chơi và bị ngược đãi.
Thế nhưng sự việc đã thay đổi từ thập niên 80 cho đến nay, chủ nghĩa nữ tính đã dần dần chiếm lại được ưu thế. Phụ nữ da đen cũng như phụ nữ Đông phương, nói chung là phụ nữ trên toàn thế giới, kể cả những phụ nữ thuộc các chủng tộc thiểu số đã tự tạo cho mình có một chỗ đứng vững vàng, tuy rằng vẫn chưa hết những điểm kỳ thị và chèn ép, phân biệt...
Dịch từ lich sử Tây phương hiện đại
Nguồn:
Sửa bởi hongtiem: 10/02/2014 - 09:09
Thanked by 1 Member:
|
|
#24
Gửi vào 12/02/2014 - 14:55
Cuộc đời là những mâu thuẫn, ở đây tôi không nói những gì cao siêu mà nói về những kinh nghiệm sống của người Phật tử. Chúng ta sống như thế nào để cuộc đời được an lành tự tại, không bị đau khổ làm ray rứt. Đó là chủ yếu.
Người phật tử tại gia cũng như hàng xuất gia luôn luôn có những buồn phiền. Gia đình không thống nhất ý chí với nhau, hoặc trong chùa không đồng tâm hiệp lực. Tập thể nào cũng có những chuyện như vậy hết. Lý do gì xảy ra những buồn phiền đó? Chúng ta thử kiểm tra lại bản thân từ thể xác cho đến tinh thần, đi xa hơn là quan niệm, tổ chức... làm sao thoát khỏi những mâu thuẫn.
Con người cứ ngỡ rằng có sự mâu thuẫn là do người này chống đối người kia, chớ không nghĩ cái mâu thuẫn ở sẵn nơi bản thân mình. Tôi nói theo Phật học, những quí vị trong y học có thể nghiên cứu ứng dụng điều này. Phật dạy thân này do tứ đại hòa hợp gồm: đất, nước, gió, lửa. Đất với gió không thuận, nước với lửa không thuận. Nơi nào có giông lớn thì đất bụi bay tứ tung. Trong thân người, khi lạnh chúng ta phải uống nước nóng cho ấm lại. Khi nóng phải uống nước mát cho dịu lại. Vì nóng là lửa nhiều nước ít, còn lạnh là nước nhiều lửa ít, cho nên phải dung hòa nó. Cái gì yếu nâng lên, cái gì mạnh kéo xuống. Đây là chuyện nghề nghiệp của các bác sĩ.
Trong sự sống, chúng ta phải làm sao trung hòa các yếu tố có tính chất trái ngược nhau. Quá bên nào cũng sanh bệnh hết. Cụ thể người nào trúng gió thì là đau rêm cả người, vì gió mạnh đất rung rinh, nên chúng ta phải đánh gió. Đánh một hồi bớt gió, người nghe khỏe nhẹ lại. Ở lỗ mũi, cổ họng đất nhiều nó mọc nhánh, phải đi cắt bỏ, nếu không sẽ bị nghẹt. Rõ ràng đất với gió luôn luôn đối chọi với nhau, cái này trội thì cái kia bị ngăn trở. Vì vậy chúng ta phải tìm cách điều hòa làm cho nó quân bình. Cho nên mang thân này là mang một tổ hợp mâu thuẫn.
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa, đừng để nó cắn mổ nhau. Nhưng điều hòa tới mức nào, kết quả ra sao? Cố gắng điều hòa tới mức tối đa, đến lúc nào cái giỏ lủng thì mạnh con nào con ấy chạy. Điều hòa giỏi như bác sĩ cũng có ngày cái giỏ sẽ thủng, mấy con rắn bỏ chạy hết. Nước chạy theo nước, gió theo gió, lửa theo lửa, đất về đất. Không ai có thể điều hòa được suốt năm này tháng kia cho tới năm bảy trăm năm được. Chỉ một giới hạn nào thôi.
Phần thân đã mâu thuẫn như thế, còn phần tâm có mâu thuẫn không? Theo Duy thức học, nội tâm chia ra các nhóm: nhóm thiện tâm sở và nhóm ác tâm sở. Thiện và ác lẫn trong tâm ta. Khi sự việc gì xảy ra chúng ta bực tức có những lời nói và hành động quá đáng. Lát sau, thiện tâm sở rầy, nó nói mình làm như vậy không đúng nên ta bị ray rứt. Tự mình thấy khó, tự mình thấy khổ, tức là tự mình trừng trị mình rồi. Cái thiện răn cái ác, nhưng cũng có khi cái ác thắng cái thiện. Như lẽ ra chúng ta không nói tiếng nặng với ai, không làm cho người đau khổ, đó là tâm niệm của người tu. Nhưng khi có điều gì làm mình nổi tức lên, ác tâm sở mạnh quá, nó lấn lướt làm cho tâm thiện trốn đâu mất. Chú ác la lối một hồi chú thiện mới trồi đầu ra thì chuyện đã rồi. Nội tâm chúng ta lúc nào cũng có hai thứ đó giằng co với nhau, khiến mình bất an hoài.
Thân chống đối, tâm chống đối đều là mâu thuẫn. Mâu thuẫn là gì? Thuẫn còn gọi là cây khiên, mâu còn gọi là cây giáo. Khiên đâm thì giáo đỡ, chỏi lại. Tâm chúng ta sẵn sàng mâu thuẫn, thân chúng ta cũng sẵn sàng mâu thuẫn. Tự mình đã mâu thuẫn thì sống với mọi người có mâu thuẫn không? Đó là điều không ai muốn, nhưng làm sao tránh khỏi được! Thân tâm mình mâu thuẫn thì người khác cũng vậy. Cho nên có hòa hợp là có chống đối, điều đó là chuyện hẳn nhiên thôi.
Nói rộng hơn, cả thế gian này có mâu thuẫn không? Người ta thường nhắc đến khí âm, khí dương. Âm với dương có chịu nhường nhau đâu. Dương nhiều thì nắng hạn khô, âm nhiều thì mưa dầm dề. Âm dương lúc nào cũng chống chọi nhau, cái nào tăng nhiều cũng nguy hiểm. Như vậy âm dương ở thế gian cũng luôn luôn chống đối, chớ không phải hoàn toàn hòa hết. Có sự bất thường tức là có sự chống đối. Vì khí ở thế gian đối chọi nhau, luôn thay đổi cho nên ảnh hưởng tới con người, ít bữa cảm, sổ mũi nhức đầu v.v ... Rõ ràng con người, không gian bên ngoài, sự sống trên mặt đất đều có sự chống đối, mâu thuẫn với nhau, chớ không phải lúc nào cũng hoàn toàn an ổn.
Cuộc sống ngoài thế gian làm cho chúng ta phải đau khổ, khi mưa dầm lúc nắng hạn do âm dương không điều hòa. Rồi tới con người với con người. Ở đây tôi nói giữa người nam với người nữ. Thường người ta bảo nam cương, nữ nhu. Cương là cang cường, nhu là nhu hòa nên cũng chỏi. Vì vậy khi lập gia đình có chồng, có vợ cũng là sự chống chỏi, bên cương bên nhu làm sao giống được. Cho nên vợ chồng thường hay cãi vã nhau cũng vì lý do đó. Những gì người nam đề nghị người nữ không chịu, người nữ đề nghị người nam không chịu. Vậy cuộc sống gia đình giữa nam nữ muốn được hạnh phúc dễ hay khó? Đã là hai tính chất không giống nhau thì làm sao dễ được. Quí vị mới thấy cuộc sống luôn mâu thuẫn, không có lĩnh vực nào không mâu thuẫn. Người muốn cuộc sống trong gia đình điều hòa thì phải hết sức khôn khéo. Đó là tôi nói chuyện cá nhân giữa nam nữ, bây giờ nói tới tập thể.
Tập thể nào cũng có một lập trường riêng, sinh hoạt riêng, chính kiến riêng không giống nhau. Không giống nhau tức là có chống nhau. Nhìn chung, từ bản thân con người, gia đình, xã hội ... tất cả đều mâu thuẫn. Như vậy con người sống trên thế gian không thể có an vui hạnh phúc tuyệt đối. Vậy mà người ta cứ đòi hạnh phúc. Nếu gia đình giống nhau thì phải là nam hết, chớ một bên cương, một bên nhu làm sao giống nhau được.
Vì vậy đối với cuộc sống này phải khéo léo, khôn ngoan, không thể tưởng tượng như ý mình. Ai nghĩ rằng những gì mình đề nghị ra mọi người đều nghe, đều tuân theo đó là ảo tưởng. Chỉ có mình đề nghị ra người ta phản đối nhiều hay ít thôi, chớ không bao giờ mọi người chấp thuận hết. Hiểu như vậy rồi, chúng ta phải sống sao cho ôn hòa, vui vẻ. Nói điều này, tôi nhớ những năm trước có người hỏi tôi: “Thưa thầy, nếu có hai tập thể thù địch nhau thì theo quan niệm của thầy, phải làm sao cho hai tập thể đó được hòa hợp?” Tôi trả lời: “Có nước, có lửa thì có cơm ăn”. Đơn giản vậy thôi.
Quý phật tử thử xét, thật ra người ta cứ sợ mâu thuẫn, nhưng không ngờ chính mâu thuẫn là điều kiện để con người trong vũ trụ này có sự sinh hóa. Nam không cũng không sanh được, nữ không cũng không sanh được. Muốn sự sanh hóa được liên tục tốt đẹp thì con người phải khéo điều hòa. Chúng ta có nước mà không có lửa, hay ngược lại có lửa mà không có nước thì có cơm ăn không? Không. Phải có nước, có lửa, người khéo dùng nước, dùng lửa để nấu có cơm ăn. Chớ dùng nước để dập tắt lửa, hay dùng lửa đun cho cạn nước thì không có cơm ăn. Cho nên cuộc sống phải khéo điều hòa, nặng bên nào cũng thất bại cả. Vợ chồng trái nhau, không giống nhau, nhưng đừng để bên nào thiệt thòi mà nên điều chỉnh có cuộc sống vừa phải, không nên vì được phần mình mà mất lòng người thì gia đình tan nát. Do đó chúng ta phải có cuộc sống hết sức khéo léo và đừng bao giờ chủ quan. Nhất là bên nam hay chủ quan ta là phái mạnh, cái gì cũng bắt phái yếu tuân theo, đó là điều không tốt, không khéo điều hòa. Đã không khéo điều hòa thì mầm đau khổ sẽ nảy sinh, nên đừng để bên nào bị thiệt thòi thì cuộc sống mới đi tới chỗ tốt đẹp, an vui hạnh phúc.
Tuy nhiên, hạnh phúc trong cuộc đời chỉ là hạnh phúc gượng gạo, chớ không phải hạnh phúc thật. Vì hạnh phúc ấy được kết hợp bởi hai thứ không giống nhau, làm sao trường cửu được. Chẳng qua gắng gượng điều hòa nên cuộc sống tạm an ổn, tạm vui, chớ không có hạnh phúc nào hoàn toàn như ý. Kể cả ông vua cũng không như ý, bởi vì vua cũng có người chống, người phản chớ đâu phải ai cũng nghe theo. Vì vậy chúng ta phải điều hòa để cuộc sống được tốt đẹp. Như vì nồi cơm chúng ta phải điều hòa lửa, nước. Nhờ có điều hòa nước, lửa nên chúng ta có cơm ăn ngon.
Cũng vậy, trong cuộc sống khéo điều hòa thì gia đình hạnh phúc, vợ chồng vui, con cái tốt. Đừng bao giờ nghĩ tưởng dùng thế mạnh đàn áp người ta phải theo mình. Bởi vì khi người bị đàn áp họ phải tuân theo, nhưng trong lòng không phục, thế nào có lúc cũng phản ứng lại. Khéo điều hòa quân bình mới tốt, mới là người khôn ngoan. Còn mình giỏi, mình khôn bắt người ta phải theo đó là chưa thật khôn ngoan. Đây là chuyện mâu thuẫn và điều hòa giữa con người, gia đình, xã hội.
Bây giờ phải điều hòa bằng cách nào? Phật dạy, muốn điều hòa phải tập hai đức tánh nhẫn nhục và hỷ xả. Thế gian nói nhẫn nhịn và tha thứ. Muốn nhẫn nhịn và tha thứ, trước tiên chúng ta phải có cái nhìn thật đạo lý. Có lần tôi được hỏi: - Thầy làm phật sự có gặp những trở ngại do người khác tạo ra không? Tôi đáp: Có! Hỏi: -Như vậy thầy nghĩ sao về người gây trở ngại cho thầy? Tôi đáp: -Trước mắt tôi không có kẻ thù, chỉ có những người bạn đã thông cảm và chưa thông cảm thôi.
Nhìn cuộc đời phải như vậy. Những người đã thông cảm thì tốt với mình, còn những người tuy chưa thông cảm nhưng họ cũng là bạn, chớ không có thù. Như vậy trong gia đình, vợ chồng chẳng lẽ coi nhau như kẻ thù. Nếu có chuyện vui buồn xảy ra thì cũng nghĩ rằng đây là người bạn chưa được thông cảm, rồi sẽ tìm cách thông cảm, đừng bao giờ coi như kẻ thù. Chẳng những trong gia đình mà kể cả mọi người bên ngoài, chúng ta phải có cái nhìn cởi mở, thương yêu. Có thế mới giải quyết được nổi khổ của con người.
Trên thế gian này tràn trề đau khổ bởi vì người mạnh cứ nghĩ mình hơn, rốt cuộc gây đau khổ hoài. Chúng ta tu hành nên sống đem lại an vui cho mình, cho người. Muốn được như vậy mình đừng xem ai là kẻ thù hết. Đó là chúng ta biết sống, biết tu. Làm sao trong cuộc sống gia đình chồng vợ biết nhịn nhau, đã là bạn đời nên hòa vui, đừng bao giờ thù hận. Nếu thấy là kẻ thù thì dễ đi đến đổ vỡ tan nát. Cuộc sống từ cá nhân, gia đình cho tới tập thể, không bao giờ hoàn toàn đúng theo ý mình, được chừng 60-70% là tốt lắm rồi, đừng đòi hỏi như ý 100%. Những người đòi hỏi như vậy là hiểu sai lầm, không đúng lẽ thật.
Bây giờ làm sao để chúng ta thấy mọi người xung quanh là bạn? Phải tập nhẫn nhịn. Bởi vì con người ai cũng có sẵn “ác tâm sở” là nóng giận, nam nữ chi cũng biết giận. Khi mình nổi giận nói lời không phải thì người khác cũng nổi giận nói lời không phải. Vậy làm sao? Cái phải về mình hết hay mỗi bên nhường một chút? Chúng ta có tật hay cãi lý. Cãi cho ra lý mà lý không có thật, thường thường lẽ phải ở kẻ mạnh chớ không có thật lý. Cho nên đừng đòi hỏi lẽ thật, chỉ có ai mạnh, ai được nhiều người bênh vực thì người đó phải. Còn ai yếu, ít người bênh vực thì không phải. Ở đời là như vậy thôi.
Thời nay người ta dùng lá thăm, dù người không hay lắm nhưng được lòng thiên hạ thì cũng được thăm, còn người dù cho hay mà thiên hạ không hiểu cũng không được thăm như thường. Đừng cho rằng những gì hay, những gì phải thì mọi người sẽ hưởng ứng. Chỉ khéo được nhiều người mến, được nhiều người ủng hộ hoặc đưa ra những gì đúng với sở nguyện của họ thì họ hưởng ứng, họ theo mình. Ngược lại dù có đưa ý kiến đúng mà họ không muốn thì cũng không theo như thường. Như vậy không hẳn nhiều người khen là lẽ phải. Lâu nay chúng ta cứ ngỡ rằng được nhiều người chấp nhận, đó là lẽ phải. Không phải như vậy.
Chỉ chúng ta tùy thuận, nhường nhịn nhau để mà sống. Đừng nói việc này phải, ai làm khác thì sát phạt họ, nghĩ như vậy là không được. Người chồng thấy mình phải, người vợ cũng thấy mình phải rồi đòi sát phạt nhau. Như vậy là có hai quan tài rồi. Trong cuộc sống, chúng ta phải một phần, người kia phải một phần, thôi thì nhường nhịn nhau cho tốt đẹp, đó là hạnh nhẫn nhục của đạo Phật.
Nhưng nếu nhịn nhau mà không tha thứ, cứ nhớ lỗi người ta hoài thì điều hòa được chưa? Bữa nay nhịn chớ mai mốt gặp việc cũng bùng nổ nữa. Đó là căn bệnh người ta hay chứa trong lòng. Ai làm phật lòng lần đầu ráng nhịn, mai mốt gặp nữa thì nói tôi nhịn lần thứ hai rồi nghen. Như vậy không phải điều hòa thật. Chúng ta nhịn thì phải bỏ qua luôn, đừng nhắc tới nhắc lui. Nhịn mà không chịu quên cứ nhắc hoài. Nhắc hoài người kia cũng sân lên, rốt cuộc không ai nhịn ai cả.
Vì vậy mong quý Phật tử khéo nhẫn nhịn với nhau. Qua sự nhẫn nhịn đó chúng ta còn phải hỷ xả, nghĩa là vui mà bỏ chớ đừng gượng bỏ. Bởi vì chẳng qua tất cả chúng ta đều do khờ dại mới cãi vã với nhau. Biết rồi thì bỏ hết đừng thèm giận hờn gì nữa. Chớ còn nghĩ mình phải, kia quấy rồi ôm ấp, mai mốt gặp việc cãi lại nữa, rốt cuộc không hết khổ đau.
Phương pháp nhẫn nhịn sẽ đưa chúng ta tới chỗ an ổn. Nhẫn nhịn là khéo léo điều hòa ngọn lửa, đừng để nước dập tắt lửa, cũng đừng để lửa đốt cạn nước. Ở gia đình, vì con cái nên vợ chồng nhường nhịn nhau. Ngoài xã hội, vì một lý tưởng nào đó mà người ta phải nhịn nhau. Trong đạo vì đạo đức cao thượng nên nhường nhịn nhau, tha thứ nhau. Nhờ thế mà gia đình, tập thể mới thật có an ổn, thật có vui tươi. Nếu không như vậy chẳng bao giờ chúng ta có niềm vui. Chồng với vợ gặp nhau gượng nới chuyện chớ trong bụng không ai ưa ai, thì đó là nỗi khổ lớn nhất trong gia đình. Ngoài xã hội cũng thể.
Do biết cuộc đời là mâu thuẫn nên chúng ta phải điều hòa bằng hai hạnh: hạnh nhẫn nhục, và hạnh hỷ xã. Muốn được nhẫn nhục, hỷ xã, trước phải có tâm từ bi, thấy tất cả là bạn, không có ai thù. Ba điều đó từ bi là trước, rồi nhịn sau, tha thứ nhau. Không có từ bi thì không thể nhẫn nhịn và tha thứ được. Cứ cho người làm trái ý mình là kẻ thù thì không bao giờ chúng ta nhường nhịn. Cho nên đừng thấy ai là kẻ thù cả, chỉ có bạn đã thông cảm và chưa thông cảm. Đó là tâm từ bi. Chính do tâm từ bi nên chúng ta mới nhường nhịn, tha thứ nhau được. Chúng ta ứng dụng giáo lý của Phật trong cuộc sống thì cuộc sống vừa có đạo đức, vừa được an vui.
Đó là ba điều kiện để chúng ta điều hòa sự mâu thuẫn. Tuy khó nhưng phải ráng ứng dụng trong cuộc sống, nếu không ắt sẽ chịu khổ thôi. Hiểu được vậy chúng ta mới biết sống và sống có hạnh phúc, còn tranh phải quấy hơn thua thì không bao giờ hạnh phúc. Đó là lẽ thật.
Tóm lại, muốn cho sự sống tốt đẹp bình yên phải hội đủ ba điều kiện; từ bi nhẫn nhục và hy. Nói theo thế gian là tình thương, nhẫn nhịn và tha thứ. Điều cấm kỵ nhất là đừng bao giờ ôm ấp ảo tưởng rằng ai cũng tùng phục ta, chìu theo ý muốn của ta hết. Đó là lầm to. Kinh nghiệm trong cuộc sống đã cho thấy, tôi sống chung quanh năm sáu trăm Tăng Ni, không bao giờ tôi dám ảo tưởng rằng ai cũng giống hệt tôi và tôi nói ai cũng nghe. Có những điều họ nói không vừa ý tôi, nhưng rồi tôi cũng bỏ qua, không buồn. Nếu mỗi chút mỗi buồn thì chắc tôi chết sớm rồi. Thôi thì việc gì cũng bỏ qua, miễn họ tu được là tốt.
Vì vậy quí Phật tử nhớ, vợ chồng có gì trái ý nhau nên bỏ qua, miễn gia đình bình yên, con cái học hành đàng hoàng, khôn lớn nên người là được rồi, những gì riêng tư bỏ qua hết. Vì việc chung nên bỏ cái riêng thì sẽ được an ổn. Ở trong gia đình chẳng những vợ chồng không giống nhau mà cha mẹ, con cái cũng không giống nhau. Muốn được bình yên vui vẻ thì trên dưới cũng phải điều hòa. Cái khổ là cha mẹ không bao giờ nhịn con. Con có chịu nhịn hay không chịu nhịn cha mẹ thôi chớ cha mẹ không bao giờ nhịn con; mà chắc gì cha mẹ đã trúng 100%. Bởi vì người ta cứ cho rằng cha mẹ sanh ra con cái nên cha mẹ là bề trên, con cái không có quyền cãi. Nhưng thật ra cha mẹ sanh là sanh thân thể thôi, chớ đâu có sanh được tâm hồn. Tâm hồn con cũng có cái hay riêng của con nên cha mẹ cũng phải nhịn. Như tôi là thầy, đâu thể nhịn trò, nhưng có khi thầy cũng bỏ qua. Bỏ qua tức là nhịn rồi. Nhờ vậy tôi điều hòa được mấy trăm người, nếu bắt như mình mà người ta không được như mình, rồi đuổi đi hết thì thôi, chắc tôi cũng sống một mình tôi. Hiểu được như vậy mới thấy nhờ chúng ta khéo điều hòa nên mọi việc được tốt đẹp.
Vì lâu nay Phật tử sống mà không biết sống làm sao, cho nên ai cũng nuôi cực đoan trong mình, rồi mang lấy đau khổ, kêu trời trách đất hoài. Nếu biết được lẽ sống như vậy cuộc sống rất bình an. Phật tử ứng dụng được đạo lý này trong cuộc sống thì thật là hay, bằng ngược lại thì học Phật bao nhiêu cũng chẳng có ích lợi gì cả. Quí vị hãy nhớ câu này: “Trước mặt không có kẻ thù” thì cuộc sống được nhiều an lạc. Đạo lý thật hay nhưng đôi khi tôi thấy rất buồn vì kể cả người tu cũng không thực hành nổi, cứ thù người này, giận người kia. Người tu mà nói giận người này, thù người kia thì chưa phải người tu. Người hiểu thấu đáo cuộc sống rồi thì chỉ cười thôi, không có gì quan trọng hết. Khi đặt vấn đề quan trọng, có người hưởng ứng với mình là bạn, không hưởng ứng trở thành thù, như vậy mãi thì phải chịu đau khổ thôi.
Có nhiều người hỏi tôi: “Thầy có thuật gì mà điều hòa mấy trăm Tăng Ni và nhất là bên Ni?” Tôi nói: “Ai đến thưa kiện người này sai, người kia trái, tôi đâu có xử. Tôi bảo: “Thấy người ta quấy thì mình cũng đã quấy rồi”. Nhờ vậy không ai dám đến thưa kiện nữa. Quí Phật tử thấy có phải thế không? Vì chưa bao giờ hai người cãi nhau mà có người chịu mình quấy, nhưng làm sao cả hai đều phải được, cho nên thấy người quấy là mình đã quấy trước. Không quấy thì không cãi, đã cãi thì có quấy. Từ kinh nghiệm sống cho đến việc tu tập Phật dạy rất nhiều, nhưng trọng tâm đều nằm ở những điểm đó.
Điểm ưu việt của Phật giáo đời Trần chính là chủ trương Tam giáo đồng nguyên. Thiền tông dung hợp chớ không thấy đây khác kia để rồi đi đến chống chọi nhau. Do đó người trong nước theo đạo Lão, đạo Khổng không chống với đạo Phật. Nhờ ba tôn giáo hòa nhau nên dân mạnh, đó là điểm rất hay.
Tóm lại, mục đích buổi nói chuyện hôm nay hết sức rõ ràng, tôi mong rằng quí Phật tử nghe rồi áp dụng những điều tôi nói vào cuộc sống cho khéo, cho đầy đủ ý nghĩa, mới thấy niềm vui hiện tại - sống là vui.
(HT. Thích Thanh Từ- Thiền Viện Chân Giác xuất bản 2010
Thanked by 3 Members:
|
|
#25
Gửi vào 13/02/2014 - 22:20
“Nhìn thế giới toàn màu hồng”, “người cứ lâng lâng như muốn rời khỏi mặt đất”, đấy là cảm giác của những người đang yêu. Điều đó không phải là ngẫu nhiên, vì tình yêu là cội nguồn của hạnh phúc. Khi tâm hồn và thể xác hòa quyện vào nhau đã giải phóng một năng lượng dồi dào khiến con người thực hiện được những khối lượng công việc to lớn. Nhưng rất tiếc quá trình này không thể duy trì vĩnh cửu, vì vậy trong não của chúng ta có một “nhà hóa sinh”, cứ sau 30 tháng trăng hoa lại điều chỉnh trạng thái tâm hồn ta sang một cung bậc trầm hơn.
Các nhà xã hội học và tâm lý học đã đi đến kết luận rằng đàn ông so với phụ nữ họ thường nhanh và hay bị tình yêu chinh phục; phụ nữ thận trọng hơn: họ cần nhiều thời gian để tìm người yêu nhưng cũng nhanh chóng hơn trong việc từ bỏ. Một khi người phụ nữ yêu thì cảm thấy mình hạnh phúc hơn rất nhiều và thể hiện rõ cảm xúc của mình ra ngoài hơn người đàn ông và cũng phạm nhiều lỗi lầm hơn trong việc thực hiện những vụ việc hàng ngày. Hôn nhân làm thay đổi hoàn toàn tình trạng này: người phụ nữ cố gắng duy trì những nét lãng mạn của mối quan hệ.
Một câu hỏi được đặt ra: cũng chính những tình cảm đó tại sao lại có những biểu hiện ra bên ngoài với những khác biệt to lớn đến như thế? Có thể là do tính cách, những kinh nghiệm có trước, những thành công và thất bại đã đóng vai trò chính trong việc này. Tuy nhiên, cũng không thể loại trừ vai trò của hàng trăm chất sinh học do bản thân con người sản sinh ra đã tham gia vào quá trình điều khiển hoạt động của não và hình thành cảm xúc của con người. Những kết quả mới nhất nghiên cứu với hormone chỉ ra rằng: những vùng trong bộ não của con người được kích hoạt hoàn toàn khác nhau khi một người nào đó đang yêu say đắm so với khi chỉ yêu bình thường đối tác của mình. Kết quả đáng kinh ngạc nhất là “hormone yêu” này thường chỉ sản sinh trong cơ thể chúng ta trong vòng 30 tháng. Helen Fisher, một nhà nghiên cứu tại Đại học New Jersey Rutgers, tác giả cuốn Vì sao chúng ta yêu? đã tiến hành quan sát bộ não của 40 sinh viên ngành Con người học. Những sinh viên này được lựa chọn từ những người đang yêu ở giai đoạn đầu. Bà cho họ xem ảnh của những người không quen biết và đôi khi xen giữa những tấm ảnh đó là ảnh người yêu và quan sát phần nào của bộ não được kích hoạt. Kết quả thu được thật bất ngờ.
- Hoạt chất tình yêu
Trong thí nghiệm, người ta nhận thấy một điều: đối với cả nam và nữ sinh viên khi nhìn thấy ảnh của người yêu của mình thì vùng não được kích hoạt là vùng chứa những điểm có khả năng nhận hormone dopamin cũng như những vùng sản sinh ra một lượng lớn hormone này. Từ lâu các bác sĩ đã xác nhận rằng dopamin chịu trách nhiệm về sự hình thành cảm xúc và trạng thái tinh thần của con người. Hormone này kích hoạt não sản sinh ra testosterone, chất điều khiển con người chỉ chú trọng vào một mục đích duy nhất là người họ đang yêu. Những hormone khác tham gia trong quy trình cung cấp thêm năng lượng cho cơ thể cũng được sản sinh ra trong máu (bên cạnh những loại khác được điều chỉnh giảm xuống).
Nhưng thường những hormone này chỉ được sản sinh ra một cách tích cực trong vòng 30 tháng. Sau thời gian khoảng gần 4 năm, việc tạo ra những chất có hoạt tính sinh học hoàn toàn khác sẽ được thúc đẩy. Các nhà khoa học rút ra kết luận rằng sở dĩ những điều này được lập trình sẵn như vậy vì thời gian 4 năm cần và đủ để sinh ra, cho bú và tạo được sự an bình cho đứa trẻ. Sau đó cơ thể con người lại mở rộng con đường dẫn đến việc tìm đối tượng để tạo ra một đứa trẻ khác. Các tài liệu thống kê chỉ ra rằng, các cuộc ly dị thường xảy ra vào năm thứ năm của cuộc hôn nhân.
Những người đàn ông được lập trình sẵn
Việc sinh ra một đứa trẻ đi kèm với những nguy hiểm tiềm ẩn. Việc mang bầu, nuôi dạy đứa trẻ đòi hỏi một sự hy sinh lớn từ người mẹ và quá trình này thường không diễn ra suôn sẻ nếu thiếu vai trò người cha. Điều kiện thiết yếu để việc sinh sản thành công là một phần do mối gắn kết giữa mẹ và con, phần khác là do người cha tham dự vào việc nuôi dạy đứa bé. Đây là kết quả không phải ngẫu nhiên của quá trình tiến hóa. Nền tảng sinh học của sự gắn kết và tình thương yêu là do hợp tác hoạt động của hai hormone oxitoxin và prolactin. Làm sao ta lại biết được điều đó? Thí nghiệm đã chứng minh rằng, khi tiêm các loại hormone này cho những con vật chưa sinh con lần nào thì chúng cũng chăm sóc và âu yếm ngay con thú nhỏ đầu tiên mà chúng gặp trên đường đi. Mặt khác, oxitoxin còn có khả năng làm giảm mạnh cảm giác lo lắng, sợ hãi và làm tăng sự phấn khích. Ngay lúc sinh, lượng hai loại hormone này lớn và vì vậy ngay từ giây phút đầu tiên đã tạo nên mối gắn kết chặt chẽ, cùng với việc hình thành tình thương yêu vô bờ giữa mẹ và con.
Cùng với việc tình yêu giảm đi sự mãnh liệt, “hormone tình yêu” dopamin được thay thế bởi “hormone tình thương” oxitoxin, tạo nên cơ sở sinh học cho việc tăng thêm sự gắn bó lẫn nhau, tinh thần trách nhiệm, cảm giác bình an. Cùng lúc đó, rất tiếc, thường là ở đàn ông, trong vùng trán của họ, nơi có những tế bào có khả năng chấp nhận hình ảnh, hay mùi hương khi nhìn thấy một phụ nữ đẹp hay nghe mùi nước hoa sẽ bị kích hoạt và khiến họ dễ bị hấp dẫn về mặt thể xác với người khác giới. Vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu xác định rằng con người được lập trình cho một kiểu sinh hoạt một vợ một chồng nhưng theo chu kỳ. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là mọi cuộc hôn nhân đều dẫn đến sự tan vỡ.
Có thể khi đọc bài này, chúng ta không thật sự vui khi biết rằng tình yêu không là vĩnh cửu và những cảm xúc bay bổng chín tầng mây mà chúng ta có khi yêu chỉ là kết quả hoạt động của các chất sinh học. Nhưng có thể biết chỉ là để biết vậy thôi, trong cuộc sống chúng ta vẫn thường nói sẽ nghe theo tiếng nói của con tim mình.
(ST)
Thanked by 2 Members:
|
|
#26
Gửi vào 15/02/2014 - 11:12
Thiền sư Huyền Quang là tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Trúc Lâm Đại Sĩ (vua Trần Nhân Tông) thành lập tại Việt Nam (thế kỷ XIV)
CHU TRUNG
Nhất diệp biển chu hồ hải khách
Tranh xuất vi hàng phong thích thích
Vi mang tứ cố vãn triều sinh
Giang thủy liên thiên nhất âu bạch
LÀM TRÊN THUYỀN
Một lá thuyền con khách hải hồ
Vượt bờ lau lách, gió vi vu
Triều dâng bốn mặt, hoàng hôn phủ
Trời nước mênh mông, một dáng cò.
DIÊN HỰU TỰ
Thượng phương thu dạ nhất chung lan
Nguyệt sắc như ba phong thụ đan
Xi vẫn đảo miên phương kính lãnh
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn
Vạn duyên bất nhiễu thành già tục
Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan
Tham thấu thị phi bình đẳng tướng
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan
CHÙA DIÊN HỰU
Đêm thu chùa vắng, tiếng chuông ngân
Sóng ánh mầu trăng, lá rụng hồng
Cánh đảo chim âu trời lạnh ngủ
Tháp vương đỉnh bạc sáng từng không
Thành ngăn tục lụy trần không vướng
Cửa ngỏ vô ưu mắt rộng tầm
Thấy được thị phi cùng một tướng
Ma cung Phật quốc cũng ngồi chung.
YÊN TỬ SƠN AM CƯ
Am bức thanh tiêu lãnh
Môn khai vân thượng tằng
Dĩ can Long động nhật,
Do xích Hổ khê băng.
Bão chuyết vô dư sách
Phù suy hữu sấu đằng
Trúc lâm đa túc điểu
Quá bán bạn nhàn tăng.
AM YÊN TỬ
Am cao trên đỉnh lạnh
Cửa mở mây từng không
Long Động trời đã tỏ
Hổ Khê nước còn băng
Văn chương không kế sách
Gậy chống thân gầy còm
Hầu hết chim rừng Trúc
Là bạn của nhàn tăng.
NGỌ THỤY
Vũ quá khê sơn tịnh
Phong lâm nhất mộng lương
Phản quan trần thế giới
Khai nhãn túy mang mang
NGỦ TRƯA
Mưa tạnh, khe núi tĩnh
Ngủ mát dưới rừng phong
Nhìn lại cõi nhân thế
Mắt mở vẫn say nồng.
THẠCH THẤT
Bán gian thạch thất hòa vân trụ
Nhất lĩnh xối y kinh tuế hàn
Tăng tại thiền sàng, kinh tại án,
Lô tàn cốt đột nhật tam can.
AM THẠCH THẤT
Nửa gian thạch thất cùng mây ngủ
Chống rét năm trường chiếc áo bông
Tăng tọa thiền sàng, kinh đặt án,
Mặt trời ba trượng, củi lò không.
THỨ BẢO KHÁNH TỰ BÍCH GIAN ĐỀ
Hoang thảo tàn yên dã tứ đa,
Nam lâu Bắc quán tịch dương tà.
Xuân vô chủ tích thi vô liệu,
Sầu tuyệt Đông phong kỷ thụ hoa.
GHÉ CHÙA BẢO KHÁNH
Tình quê man mác mầu sương cỏ
Quán Bắc lầu Nam nhuộm nắng tà
Thơ không tài liệu, xuân không chủ
Buồn nhớ đông phong, lũ cỏ hoa.
ĐỊA LÔ TỨC SỰ
Ổi dư cốt đột tuyệt phần hương,
Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương.
Thủ bả suy thương hòa thái thác,
Đồ giao nhân tiếu lão tăng mang
HỎA LÒ
Củi hết, lò còn vương khói nhẹ
Sơn đồng hỏi nghĩa một chương kinh,
Tay cầm dùi mõ, tay nâng sáo
Thiên hạ cười ta, cứ mặc tình.
NHÂN SỰ ĐỀ CỨU – LAN TỰ
Đức bạc thường tàm kế tổ đăng,
Không giao Hàn Thập khởi oan tăng.
Tranh như trục bạn quy sơn khứ,
Điệp chướng trùng san vạn vạn tằng.
ĐỀ CHÙA CỨU LAN
Đức bạc thẹn mình nối tổ đăng
Học theo Hàn, Thập dứt đa đoan
Hãy đi với bạn về non ở
Rừng núi bao quanh đến vạn từng.
MAI HOA
Dục hướng thương thương vấn sở tòng,
Lẫm nhiên cô trĩ tuyết sơn trung.
Chiết lai bất vị già thanh nhãn,
Nguyện tá xuân tư ủy bệnh ông.
HOA MAI
Ngửa mặt trời xanh hỏi lý do
Hiên ngang trong núi mọc mình hoa
Bẻ về, không để chưng vui mắt
Chỉ mượn mầu Xuân đỡ bệnh già.
TRÚ MIÊN
Tổ phụ điền viên nhậm tự sừ,
Thiên thanh bàn khuất nhiễu ngô lư.
Mộc tê song ngoại thiên cưu tịch,
Nhất chẩm thanh phong trú mộng dư.
NGỦ NGÀY
Vườn ruộng tổ tiên hãy tự cày
Nhà tranh non biếc khắp bao vây
Ngoài song, hương mộc, chim im tiếng
Gió mát vừa qua, giấc đã say.
SƠN VŨ
Thu phong ngọ dạ phất thiềm nha,
Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la.
Dĩ hĩ thành thiền tâm nhất phiến,
Cùng thanh tức tức vị thùy đa!
NHÀ NÚI
Gió thu xào xạc thổi qua hiên
Núi vắng lều tranh gối cỏ mềm
Nếu quả thiền tâm đà một khối
Tiếng trùng sao réo gọi thâu đêm?
AI PHÙ LỒ
Khóa huyết thư thành dục ký âm,
Cô phi hàn nhạn tái vân thâm.
Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt,
Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.
THƯƠNG TÙ NHÂN
Thư biên bằng máu nhắn tin nhau
Cô đơn chiếc nhạn vút mây sầu
Bao nhà nhìn nguyệt đêm nay nhỉ?
Hai chốn cùng chung một nỗi đau!
PHIẾM CHU
Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang,
Sơn thanh thủy lục hựu thu quang.
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.
ĐI THUYỀN
Mênh mông theo gió con thuyền nhỏ
Thu sáng ngời xanh nước với cây,
Tiếng sáo thôn chài lau lách vọng
Trăng lặn giòng sông sương trắng đầy.
ĐỀ ĐỘNG HIÊN ĐÀN VIỆT GIẢ SƠN
Hoa mộc di duyên chủng tác sơn,
Lung yên trạo nguyệt, lạc hoa hàn.
Tùng tư niệm lự đô vô tục,
Doanh đắc thanh phong nhất chẩm an.
NON BỘ CỦA ĐỘNG HIÊN
Núi dựng nên bằng đá với cây
Có lồng hoa rụng, tuyết, trăng, mây
Từ đây mọi niệm đà thanh thoát
Gió mát riêng mình giấc ngủ say.
TẢO THU
Dạ khí phân lương nhập họa bình,
Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh.
Trúc đường vong thích hương sơ tận,
Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh.
ĐẦU THU
Hương đêm mát dịu, bình phong lạnh
Xào xạc thu sang lá động cành
Trúc đường thong thả, hương vừa đốt
Cành cây chăng lưới lọt trăng thanh.
CÚC HOA
Tùng thanh Tưởng Hủ tiên sinh kính,
Mai cảnh Tây hồ xử sĩ gia.
Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp,
Cố viên tùy xứ thổ hoàng hoa.
Đại giang vô mộng cán khô tràng,
Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang.
Lão khứ sầu thu ngâm vị ổn,
Thi biểu thực vị cúc hoa mang.
Vương thân vương thế dĩ đô vương,
Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương.
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật,
Cúc hoa khai xứ tức trùng dương.
Niên niên hòa lộ hướng thu khai,
Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài.
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ,
Mãn đầu tùy đáo tháp quy lai.
Hoa tại trung đình nhân tại lâu,
Phần hương độc tọa tự vong ưu.
Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh,
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.
Xuân lai hoàng bạch các phương phi,
Ái diễm liên hương diệc tự thì.
Biến giới phồn hoa toàn trụy địa,
Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly.
HOA CÚC
Đường nhà Tưởng Hủ tre reo gió
Vườn cảnh Tây Hồ đẹp nét mai
Nghĩa khí chẳng đồng không ý hợp
Cúc hoa nở sáng khắp vườn ai.
Ngàn sông không đủ thấm lòng già
Bách Vịnh Mai Hoa vẫn kém xa
Đầu bạc ngâm hoài vần chửa ổn
Mỗi khi cúc nở rộn lòng ta.
Buông thân buông thế, thảy đều buông
Thiền tọa giờ lâu lạnh thấm giường
Trong núi năm tàn không có lịch
Thấy hoa cúc nở biết Trùng dương.
Năm năm nở đúng tiết Thu qua
Gió dịu trăng trong ý mặn mà
Cười kẻ không hay hoa huyền diệu
Khi về, mái tóc giắt đầy hoa!
Người ở trên lầu, hoa dưới sân
Vô ưu ngồi ngắm, khói trầm xông
Hồn nhiên người với hoa là một
Giữa vùng hương sắc lộ hình dung.
Phương phi Xuân sắc, trắng hay vàng
Thời tiết tùy loài hợp sắc hương
Khi mọi loài hoa rơi chật đất
Dậu Đông hoa cúc vẫn chưa tàn.
(Thích Nhất Hạnh dịch - langmai.org)
Thanked by 1 Member:
|
|
#27
Gửi vào 15/02/2014 - 11:25
Cũng như thế khổ đau và hạnh phúc nương vào nhau mà phát hiện.
Chạy trốn khổ đau để đi tìm hạnh phúc thì cũng như đi tìm hoa sen ở nơi không có bùn.
Sen và bùn cũng như trái và phải, hễ cái trái có đó là cái phải có đó cùng một lượt.
Nhờ tiếp xúc được với khổ đau, lắng nghe khổ đau thì ta mới làm phát hiện được cái hiểu biết và cái thương yêu. Hiểu biết và thương yêu là chất liệu làm nên hạnh phúc."
( ST - langmai.org)
Thanked by 2 Members:
|
|
#28
Gửi vào 16/02/2014 - 16:16
Trong đạo Phật, Tứ Vô Lượng Tâm, tức Từ Bi Hỷ Xả, là bốn tâm hạnh đặc thù cao thượng nhất, là yếu tố căn bản để cải thiện con người và cuộc đời, đưa đến một thế giới an lạc, giải thoát. Trong bốn tâm này tâm Từ Bi thường hay được nhắc đến nhiều nhất, tuy nhiên, tâm Hỷ và Xả cũng không kém quan trọng, nhất là Xả, bởi vì có thể nói là nếu không có Xả, thì cũng khó mà có Từ, Bi và Hỷ.
Thế nào là ý nghĩa chữ Xả?
Xả có nghĩa là buông bỏ, thường là buông bỏ một điều gì mình đã quen có xưa nay, ví dụ như một đồ vật, một sở thích, hay một thói quen, một lề lối suy nghĩ nào đó, ngay cả một mối quan hệ giữa người và người. Xả bỏ những gì không cần thiết đối với nhiều người đã là khó, huống chi là những gì quen thuộc và ưa thích xưa nay, thật không phải là điều dễ dàng.
Trong Phật giáo thường hay nói đến chữ Chấp, như trong danh từ “cố chấp”. Chấp đối nghĩa với xả, tức là nắm giữ. Cố chấp là cố nắm giữ lấy. Thường thường người ta hay cố chấp vào những quan niệm, những điều hay làm, những thói quen, sở thích v.v.. Nhưng sống trên đời rất ít khi gặp những người giống mình, mà phần lớn con người không ít thì nhiều đều có những khác biệt với nhau, nên dễ có những mâu thuẫn, xung đột với nhau. Muốn làm như ý của mình mà không được, nếu không biết xả mà cứ cố chấp theo ý mình thì sẽ chuốc lấy phiền não, đau khổ. Trong một bài nói về những lời giảng của một đại sư Thái Lan tên là Luangpor Teean, có người hỏi sư cái gì gây ra phiền não, sư lấy một vật nắm chặt vào tay rồi thả ra cho nó rơi xuống, rồi nói: “đó là phiền não!”. Ý nói phiền não có là do những gì chúng ta cố nắm chặt lấy trong tay, nếu chúng ta buông nó ra, thì phiền não cũng không còn. Như vậy để thấy muốn dứt đoạn phiền não thì phải tập Xả.
Như vậy, chúng ta cần phải xả những gì?
Trước hết đối với bản thân, vế phương diện thể chất: Xả những gì làm vướng bận, gây trở ngại hay thậm chí làm tổn hại đến bản thân. Ví dụ như những gì có thể làm tổn hại đến sức khỏe, như hút thuốc lá, uống rượu v.v.. , hoặc những thức ăn ngon miệng nhưng lại làm hại thân thì buông bỏ bớt đi.
Về tinh thần: xả bỏ những gì trong tâm có thể gây đau khổ cho mình, tạo nghiệp ác như tham sân si, mạn nghi ác kiến, tức là tham lam, giận dữ, si mê, kiêu mạn, đa nghi, ác ý v.v… Cho tâm rộng mở, xả bỏ những quan niệm, những thành kiến chủ quan. Thế giới này có rất nhiều phiền não chỉ vì con người ta chấp theo những thành kiến mà đối xử với nhau. Bao nhiêu chiến tranh giết hại hàng triệu sinh linh trong nhân loại đều cũng khởi từ những chấp thủ nơi quan niệm, thành kiến phân biệt mà ra.
Nói đến tham sân si, ba trạng thái tâm này còn được gọi là tam độc, tức là ba thứ làm đầu độc tâm, là nhân chính khiến tâm trở nên đau khổ, bất an, và làm cho con người tạo nên những nghiệp ác. Nhưng chúng cũng rất khó buông bỏ, bởi vì chúng khởi lên từ lòng Ái Ngã, tức là lòng tự thương yêu và chấp thủ vào con người của mình, xem những gì liên hệ và thuộc về cái Tôi của mình là quan trọng nhất trên đời . Muốn bỏ được sự chấp thủ vào cái Tôi ấy của mình phải đi vào tận gốc, tức là phải tập quán chiếu đến sự vô thường giả tạm trong sự hiện hữu của mình cũng như của mọi người mọi vật, thấy tất cả đều vốn là Không, không có thực thể thường hằng, lúc đó mới có được trí tuệ để buông bỏ.
Nhựng để có được trí tuệ buông bỏ không phải là điều dễ dàng. Hiểu biết về giáo lý Đức Phật không chưa đủ, còn phải thực hành để áp dụng vào cuộc sống. Trí tuệ của Pháp Phật không phải do những kiến thức từ bên ngoài, mà do sự hiểu biết bản thân mình trước hết, thấy rõ thực chất bản tánh con người của mình, và từ đó có cái nhìn bao quát và khách quan đối với những hiện tượng và hoàn cảnh xảy ra. Thực hành đạo Phật có nhiều pháp tu tùy theo căn cơ và trình độ mỗi người, nhưng hầu hết đều đặt trên căn bản Giới, Định, Tuệ. Giới Định Tuệ có nghĩa là: hành trì giới luật để tâm được an định, và tâm an định rồi thì phát sinh trí tuệ. Tất cả đều là những phương tiện để đối trị và điều ngự tâm. Tâm con người như con trâu hoang, nếu không kiểm soát và chế ngự sẽ dễ dàng bị những vọng động cảm xúc lôi cuốn vào những hành động tạo tác gây phiền não khổ đau. Nhưng những vọng tưởng tự chúng cũng vốn là vô thường, huyễn ảo, nên theo kinh, Tham Sân Si bản chất cũng vốn là Không. Vì vậy, khi tâm tam độc chuyển hóa từ u mê ám chướng thành trong sáng thanh tịnh, thì tham sân si sẽ trở thành giới định tuệ, và phiền não sẽ trở thành sự an lạc của Bồ Đề Tâm.
Trong cuôc sống đời thường, có rất nhiều liên hệ ràng buộc cũng như những hoạt động hàng ngày để đáp ứng nhu cầu của bản thân cũng như gia đình. Chúng ta phải tập xả bỏ những ý kiến chủ quan của mình, biết lắng nghe người khác để có một cái nhìn toàn diện hơn trong nhiều vấn đề. Xã hội càng văn minh, con người càng trở nên bận rộn hơn, nhiều khi cảm thấy không có được một giây phút nào nhàn hạ. Nhưng người xưa có câu: “Biết đủ tức là đủ, biết nhàn tức là nhàn”. Biết đủ, biết nhàn không có nghĩa là bỏ hết mọi việc, mà là có cái tâm “biết đủ, biết nhàn” ngay trong những công việc phải làm - điều đó có nghĩa là phải có một tâm buông xả ngay trong những hoạt động. Tâm buông xả ấy có được là do sự bồi dưỡng tâm linh. Xã hội ngày nay có quá nhiều nhu cầu vật chất, quá nhiều những hoạt động ngoại vi. Người ta bị cuốn hút theo những hoạt động không ngừng của công việc, để rồi lại chạy theo những hoạt động giải trí để làm cho tâm hồn bớt căng thẳng, nhưng những thú vui trong giây lát đó không làm dứt được phiền não trong tâm, và đôi khi lại càng làm cho thêm mệt mỏi. Thay vì cứ miên man chạy theo những hoạt động, nếu biết bỏ một ít thì giờ trong ngày để tịnh dưỡng tâm hồn, xả bỏ mọi toan tính, mọi âu lo để trở về với chính mình, thì chỉ một ít thời giờ trong ngày đó cũng đủ để cho có một nguồn năng lượng tích cực, và sẽ có sự sáng suốt để thấy những gì cần phải làm, cái gì cần phải xả bỏ đi. Ngay cả những quan hệ không cần thiết và có thể đem lại sự phiền toái cũng nên xả bỏ. Người Mỹ với tinh thần thực tế đã nghiên cứu đủ mọi vấn đề, gần đây có một quyển sách mới ra có tựa đề “Bỏ chúng đi” (Dump ‘em), chỉ cách buông bỏ những quan hệ có thể gây phiền não, dù chỉ là những quan hệ lặt vặt như là quan hệ với người làm tóc, với mẹ của bạn v.v…
Trong những quan hệ gần gũi như vợ chồng, như cha mẹ với con v.v.. lại cần phải tập xả rất nhiều, vì càng thân cận lại càng có những ý tưởng sở hữu, coi người kia là của mình và muốn người ấy phải theo như ý mình muốn. Nhưng con người đến với nhau vì duyên nghiệp, không có ai là thuộc về ai cả. Tất cả đều như những nguời đồng hành đi trên một chuyến tầu, và đến một lúc nào đó, mọi người sẽ lần lượt rời đi và chuyến tầu đó sẽ không còn lại ai. Những gì do duyên hợp đều sẽ do duyên tan, không có gì có thể nắm giữ được. Phật nói đến 12 nhân duyên đưa đến luân hồi sinh tử, trong đó khởi đầu là vô minh, rồi đến những yếu tố tạo thành con người như hành thức, danh sắc, cảm thọ v.v. và khi có Ái thì cũng có Thủ, cho nên càng luyến ái lại càng muốn nắm giữ, và càng nắm giữ lại càng là nhân cho phiền não. Thường người ta hay bám víu lấy hạnh phúc, hay niềm vui, vì thế khi niềm vui hay hạnh phúc ấy bay đi thì cảm thấy đau khổ vô cùng. Vì vậy phải biết buông xả sự chấp chặt vào niềm vui hay hạnh phúc trong hiện tại cũng như quá khứ. William Blake đã nói rất hay về sự buông xả những ràng buộc trong niềm vui và hạnh phúc như sau:
Kẻ đem niềm vui trói buộc
Sẽ gục ngã với đôi cánh đời
Hôn niềm vui, cho nó nhẹ bay xa
Đời sẽ là một bình minh vô tận
Nói về Ái , Ái có nghĩa là yêu, nhưng cũng có nghĩa là ghét, vì yêu và ghét thường đi đôi với nhau. Yêu và ghét đều ám ảnh, ràng buộc tâm mình với đối tượng. Cho nên khi yêu không nên nắm giữ, mà khi ghét lại càng phải xả sự ràng buộc trong tâm với những gì mình ghét hay không ưa thích, vì mọi phiền não đều phát xuất từ đó. Dù hoàn cảnh đến thế nào, cũng không nên ôm chặt lấy những nỗi buồn, nỗi đau mà phải biết xả bỏ chúng đi. Kinh Pháp Cú nói: “Không đau khổ giữa những người đang đau khổ”, tức là dù ở giữa hoàn cảnh đau khổ thế nào cũng phải có một tâm bất động, xa lìa sự đau khổ đó qua sự buông xả và gạt bỏ những tư tưởng bi quan, tiêu cực trong tâm. Cầu nguyện hay niệm Phật cũng là một cách để buông xả và thanh lọc tâm, do đó chuyển được nghiệp xấu. Một cách xả bỏ tích cực khác là làm những việc có ý nghĩa, quên mình đi để nghĩ đến người khác. Lúc đó lòng từ bi đóng một vai trò quan trọng để xả bỏ những hận thù, đem lại một sự chuyển hóa tích cực trong tâm. Ở Mỹ, có những người đã từng là nạn nhân hay có người thân là nạn nhân của những tội ác khủng khiếp đã tìm cách xả bỏ hận thù của mình qua việc tích cực hoạt động trong những hội tương trợ để giúp ngăn ngừa những tội ác đó tái phạm, đó là một thái độ đem ích lợi cho bản thân và cho người khác, tự lợi và lợi tha.
Đối với những người tu, Xả lại càng đóng vai trò quan trọng, có thể nói, Tu chính là tập buông xả.
Trong kinh Pháp Cú, câu đầu tiên là: “Trong tất cả mọi sự, tâm dẫn đầu, tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả. “ Hay nói đúng hơn, những ý tưởng khởi lên trong tâm là tác nhân chính cho mọi nghiệp thiện, nghiệp ác xẩy ra với chúng ta. Cho nên khi được hỏi về đại ý của Phật Pháp, tổ A Nan đã nói như sau:
Buông mọi niệm ác
Năng giữ niệm lành.
Giữ thân tâm thanh tịnh
Đó là lời Phật dạy.
Như thế, người tu phải luôn luôn quán sát những ý tưởng, khởi niệm trong tâm mà buông bỏ, đầu tiên là buông bỏ những niệm ác, tiêu cực, rồi lần lần buông hết mọi niệm, đi đến chỗ nhất niệm như khi niệm Phật, hoặc vô niệm như khi thiền định. Vô niệm không có nghĩa là trống không, mà là không trụ vào đâu cả, nên không bị vướng mắc, không còn thấy phiền não. Tâm đạt đến nhất niệm hay vô niệm sẽ trở nên thanh tịnh, có được sự an định và do đó trí tuệ sẽ phát sinh.
Trong kinh Phật có kể câu chuyện một vị thiên nhân muốn đi gặp Phật để hỏi về Phật Pháp, trên đường đi ông thấy không có gì đem cúng dường, bèn nhổ hai cây ngô đồng đang trổ hoa thật đẹp đem theo. Khi gặp Phật, Đức Phật bảo ông : « Bỏ xuống ! » Ông bèn bỏ một cây ngô đồng xuống. Phật lại nói : « Bỏ xuống ! », ông bỏ nốt cây ngô đồng còn lại. Phật vẫn nói : « Bỏ xuống ! » Vị thiên nhân ngạc nhiên hỏi : « Nhưng con đã bỏ hết hai cây ngô đồng xuống rồi ! » Phật bảo : « Tôi không bảo ông bỏ hai cây ngô đồng, mà bảo ông bỏ cái tâm chấp trước đi ! »
Có những người có ít nhiều kiến thức Phật Pháp thường hay bị một căn bệnh gọi là sở tri chướng, tức là bị chướng ngại bởi chính kiến thức của mình. Càng biết nhiều, học nhiều lại càng dễ lạc vào đám mây mù của kiến chấp, quên đi rằng sự đoạn trừ phiền não, thoát ly sinh tử, tức cứu cánh của Phật đạo, là không thể đạt được qua kiến thức, mà chỉ có thể đạt được qua sự giác ngộ chân tánh hay Phật tánh nơi bản thân. Phật tánh hay Bản Lai Diện Mục chỉ có thể hiển lộ nơi sự không rỗng, không lặng của một tâm buông xả. Có một câu chuyện Thiền được kể như sau :
Một học giả nghiên cứu về Phật Pháp nghe tiếng một vị thiền sư nọ, bèn đến yết kiến để xin học đạo. Thiền sư đưa chén trà, rồi rót trà vào đó cho đến đầy tràn, mà vẫn tiếp tục rót. Học giả kêu lên :
- Chén đã đầy, sao Thầy còn rót mãi làm gì ?
Thiền sư nói :
- Thì cũng như kiến thức đã đầy trong tâm ông, nếu không biết buông đi thì làm sao tiếp nhận được cái mới ?
Như Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói trong “Ngộ Tánh Luận” : “không biết buông xả trí tuệ là ngu si”, nếu còn chấp vào trí tuệ của mình, còn thấy mình thông thái, thì trí tuệ đạt được vẫn còn có sự chấp ngã, vẫn còn có tâm phân biệt. Cho nên khi buông xả không những là phải xả thân, tức là xả những chấp thủ, những nắm giữ vào thân vô thường huyễn ảo của mình, mà còn xả luôn cả tâm nữa, tức là xả bỏ mọi ý niệm, mọi ý thức phân biệt trong ngoài. Xả bỏ toàn diện được là có sự thấy biết không rỗng, vô tâm, vô tướng của hàng Bồ Tát. Cho nên theo như kinh Kim Cang, Bồ Tát bố thí mà không thấy có bố thí, độ ngưòi mà không thấy có độ người. Và từ sự buông xả toàn diện đó, mới khởi phát lòng Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Xả để cứu độ muôn loài.
Phải chăng, đó cũng là một lý do để Xả (Bố Thí) đứng đầu tiên trong Lục Độ Ba Ma Mật (Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ), sáu hạnh chính người tu phải hành trì để siêu vượt từ bờ mê qua bến giác ngộ giải thoát?
(ST)
Thanked by 3 Members:
|
|
#29
Gửi vào 17/02/2014 - 03:23
Nguyễn Tất Thịnh
Tôi cho rằng hai Định mệnh lớn của Con người trong hành trình Nhân loại là : Chiến tranh và Tình Yêu. Thật may mắn cho ai nếu không phải sống trong chiến tranh, nhưng Tình yêu lại là nhịp đập…thường xuyên….như nỗ lực của Trái Tim, đưa máu đến từng tế bào cơ thể vậy… Nếu có Tình yêu thì Chiến tranh dù tàn khốc, Con người vẫn vươn dậy, làm nảy nở nhiều điều tuyệt đẹp. Nhưng nếu xảy ra Chiến tranh mà thiếu vắng Tình yêu thì đó mới thực là bi kịch cuối cùng vậy .
Ba câu chuyện tôi viết dưới đây như một ngụ ý của tôi về Tình yêu
Chuyện Một : Trẻ mãi không già
Ngày xưa trên thảo nguyên bao la có một đôi vợ chồng trẻ, sinh ra được một cậu con trai rất kháu khỉnh, bụ bẫm.
Lạ thay khi vừa nhoẻn miệng chào đời là cậu khóc mãi không thôi, dỗ thế nào cũng không nín. Người cha đu đưa con trên cánh tay của mình mà nựng rằng: Nín đi, nín đi con trai yêu của cha. Nín đi rồi sau này cha cho con sức khoẻ và tài sản mà cha có. Cậu bé nín được một lúc rồi lại khóc to hơn nữa. Người mẹ thương quá đỡ con trên tay chồng mà ru rằng : Nín đi con trai yêu của mẹ. Nín đi sau này mẹ sẽ cho con một cuộc sống hạnh phúc trẻ mãi không già. Cậu bé thôi khóc, đôi môi tươi tắn đi vào giấc ngủ êm đềm trong lòng mẹ…
Năm tháng trôi qua, cậu bé bây giờ đã là một thân niên tuấn tú. Hàng ngày giúp cha chăn gia súc trên thảo nguyên. Đến một ngày kia chàng cưỡi trên mình ngựa phi băng băng về ngôi nhà của mình, gặp cha mẹ chàng nói: thưa cha mẹ hãy cho con điều mà cha mẹ hứa ngày xưa đi. Cha mẹ chàng bảo : cha mẹ hứa gì, lâu quá nay già cả có thể quên rồi. Chàng nhắc lại lời hứa năm xưa. Cha nói : con ạ, thì cha đã cho con tất cả rồi đấy thôi. Người mẹ ôn tồn nói : con ạ, hãy nhìn mái đầu cha mẹ đây, làm gì có cuộc sống hạnh phúc trẻ mãi không già, mẹ thương con nên nói thế thôi.
Nhưng chàng quyết chí lên đường tìm cho mình bằng được, giã từ cha mẹ khăn gói ra đi….
Đi mãi, một hôm trên đường chàng gặp một nhà thơ, chàng hỏi : Nhà thơ ơi, hãy chỉ cho tôi cuộc sống hạnh phúc trẻ mãi không già ở đâu ? Nhà thơ mỉm cười, chỉ tay vào đôi chim khách bay cuối chân trời xa mà nói với chàng : anh hãy đi tìm ở đó, nơi có những nguồn cảm hứng bất tận. Chàng cảm ơn, đi tiếp. Đến nơi khác, thấy một người lính cưỡi ngựa như bay trên đường, chàng dừng lại hỏi. Người lính vung gươm thét lớn: hãy đi tìm ở sự cứu nhân độ thế…. Chàng đi…. và đi mãi…. một hôm trên đường qua ngôi làng và những cánh đồng lúa mênh mông, gặp bác nông dân đang gánh lúa, chàng cũng dừng bác lại lễ phép hỏi: xin bác hãy chỉ cho cháu cuộc sống hạnh phúc trẻ mãi không già ở đâu ạ ? Bác nông dân nhìn chàng cười lớn và chỉ tay ra cánh đồng nơi đó rất nhiều nam nữ đang vừa làm việc bên nhau vừa hò hát thật vui vẻ : Con hãy ra cùng làm việc với họ, sẽ tìm thấy ở đó….. Chàng nghe và làm theo tất cả….Thế rồi chàng yêu một thôn nữ trong đó. Họ sống với nhau thật hạnh phúc, sinh con đẻ cái đông đúc….
Năm tháng trôi đi, bây giờ chàng trai năm xưa râu tóc đã bạc trắng. Ngồi chơi bên lũ cháu, chúng ríu rít xúm quanh ông : ông ơi kể chuyện cho chúng con nghe đi nào…. Ông bảo : ừ, ngồi xuống đi ông sẽ kể cho các con ông đi tìm cuộc sống hạnh phúc trẻ mãi không già như thế nào nhé. Bọn trẻ nhao nhao : không, ông nói dối, làm gì có chuyện đó… Nhưng ông đã bắt đầu kể, lũ trẻ trật tự lắng nghe…. Cuối cùng ông bảo : Các con ạ, ông đã tìm thấy cho mình rồi đấy. Rồi trâm ngâm ông như nói một mình : thời gian trôi về đâu ? thời gian trôi về tương lai ! Nhưng như chiếc xe, dường như đang chở về phía trước tất cả mọi điều của ta từ quá khứ đến hôm nay vậy… Ngồi ngẫm lại yên lòng mà thấy vui sống vì không còn sợ cái già nua của tuổi tác !
Chuyện Hai : Tình yêu đích thực
Ở một vùng rừng núi điệp trùng phía Bắc, từ rất xa người ta đã có thể nhìn thấy một ngọn núi dựng đứng cao ngất, trên ngọn núi phần lớn thời gian trong năm đều là màu trắng của tuyết phủ. Xưa nay chưa từng có ai đặt chân lên đó. Quanh dưới chân núi là vài ngôi làng nhỏ, mọi người sinh sống an bình và giản dị. Năm ấy ở đó có một cô gái đến tuổi dậy thì, xinh đẹp lắm. Vào Lễ hội Xuân, người người lại tập trung rất đông trên những tràng cỏ bằng phẳng rộng lớn, tham gia vào các trò chơi truyền thống. Đám thanh niên như không còn vô tư như mọi năm, ai ai cũng muốn được cô gái để ý và tìm cách lấy lòng cô. Cô gái đi đến đâu, sự quan tâm của đám thanh niên như đi về phía ấy. Rồi tự nhiên một vòng tròn lớn hình thành, cô gái ngồi giữa thảm cỏ, mọi người ngồi quây xung quanh. Vãn chuyện phiếm, cô gái đưa tay chỉ lên đỉnh núi cao chót vót nói: Ông nội em vẫn bảo trên đó có một thứ hoa rất đẹp, em rất tin là thế và muốn được cầm mà chiêm ngưỡng bông hoa ấy. Bọn con trai làng nhao nhao lên cười : em ơi, Cụ nói cho vui đấy trên đỉnh núi chỉ có tuyết thế kia thì làm gì có Hoa gì sống nổi. Nhiều người bọn anh còn đẹp hơn Hoa đây sao em không sở hữu đi….
Trong đám đông ấy chỉ có 3 thanh niên là ngồi yên lặng ngắm cô gái và ngẫm nghĩ về những gì cô gái nói. Họ lẳng lặng đi về nhà….làm theo cách của mình.
Người thứ Nhất kể lại chuyện đó với mẹ mình, anh vốn được yêu chiều từ nhỏ. Truyền thống từ trước đến nay dân bản ai ai cũng coi hoa Mai là đẹp nhất rồi và với sự khéo léo của mình bà mẹ đã làm những bông hoa mai thật tuyệt từ những miếng lụa hảo hạng đưa cho con trai.
Người thứ Hai đi sâu vào rừng. Mất rất lâu thời gian anh mới tìm được một loại hoa rừng tím biếc, hơi ánh hồng, trông mỏng manh nhưng tươi tắn rất lâu. Từ trước tới nay có lẽ chả ai thấy bao giờ. Anh rất ưng ý, bứng lấy mang về.
Người thứ Ba đi đến chân ngọn núi cao chất ngất đó và nhìn lên. Vách cao, trơn, lởm chờm đá tai mèo. Hít mạnh vào lồng ngực những luồng không khí trong lành và lạnh hơi nước…anh trèo lên với đôi chân và cánh tay vững chắc của mình….Anh lên đến đỉnh núi, gió buốt quất vào da thịt…không có một loài hoa nào cả….chỉ có mấy cây cỏ lất phất, băng tuyết đã phủ kín trên thân. Anh quì xuống rút con dao mang theo đánh lên một cây cỏ, dùng mũi dao chạm lên những mảng băng bám chặt trên đó tạo những đường nét mới ….anh đã có một bông Hoa Tuyết long lanh, kì diệu.
Ba chàng thanh niên đến nhà nàng cùng một lúc vào gần trưa hôm sau. Trong lòng đập rộn lên tình cảm lạ thường: chàng thứ Nhất tự tin, chàng thứ Hai hoan hỉ, chàng thứ Ba thấy hạnh phúc. Cô gái ra đón họ bên bục cửa, đối diện là ba chàng trai. Mắt cô ngời sáng lên, chạy đến bên người thứ Ba đón trên tay chàng bông Hoa Tuyết kì diệu….thốt lên những lời ngợi ca vẻ đẹp của bông Hoa và cảm phục chàng trai…..Bông Hoa Tuyết tan dần, nhỏ thành những giọt nước rơi xuống dần để lộ ra thân xơ xác của cây cỏ. Cô gái buông tay để cho cây cỏ rơi xuống đất và ôm lấy chàng trai của mình mà thốt lên rằng: Anh! Anh là người đàn ông tuyệt vời của em. Em yêu anh…. Họ không để ý hai chàng trai kia đã vứt lại bông hoa của mình trên đất, họ đã lầm bầm gì đó rồi bỏ về. Gió thổi làm bay đi những thứ mà cả ba người đã mang đến….chỉ còn hai người bên nhau.
Chuyện Ba : Viết lại sự tích ngày Valentine
Khát, đói…. lả người... giữa tháng Hai, sa mạc nam Xích đạo… thật khó tưởng tượng nổi lại có thể khắc nghiệt đến như vậy…
Vanlentine cùng đám người nhỏ nhoi của mình rũ héo đi thành một hành dọc… Họ đi đâu? Không cần biết nữa… chỉ mong trước mặt là một Ốc Đảo, sẽ phun lên dòng nước mát lành không bao giờ khô cạn… Cái ý nghĩ đó của tất cả đám người cùng kiệt ấy bây giờ là sự ám ảnh thậm chí là sự âm thầm oán thán về con đường khổ ải mà Valentin đã đưa họ sa vào… Càng ngày những sứ mệnh cứu rỗi reo tìm Tình Yêu Nhân Quần trở thành gần như là sự tuyệt vọng trong khổ nạn, lúc này trở nên xa xỉ hơn bao giờ hết. Nhưng điều may mắn là không ai còn sức để thể hiện điều đó bằng chút hành vi phẫn nộ hoặc thoán nghịch. Làm được gì được khi ngay cả điều ác cũng chỉ có thể thoi thóp mà dần khô quắt: Nước! đó là điều duy nhất để mỗi người thấy cần phải lê bước, để vượt qua nóng bỏng, vượt trên cả Niềm tin là giải khát… Bốn bề nắng lửa chói chang, không có ý niệm phương hướng… chỉ là phía trước và đi… ngã xuống là chết…
Họ đi yên lặng và khổ ải như thế. Trong đó có một cô gái trẻ duy nhất. Nàng 18 tuổi. Bản tính Nữ dịu dàng nhẫn nhịn dường như giúp nàng giữ còn giữ được nhiều sức lực hơn những người khác. Valentine dẫn đầu đoàn, như một sự gương mẫu kiên trì. Nàng đi cuối đoàn người như một sự nhắc nhở cho những kẻ đàn ông kia sự tự trọng mà giữ mình không tụt lại. Thỉnh thoảng một cơn gió nóng như rang bốc lên táp vào như muốn làm xói lở, đánh gục sự sống còn cố tranh đấu trên bước chân xiêu vẹo của đám người. Đến hôm nay kém mấy ngày là gần 1 năm kể từ khi Nàng gặp gỡ, đi theo sứ mệnh của Valentine mà lên đường. Gia đình Nàng chẳng còn ai, nhà cửa tiêu tán vì chiến tranh tương tàn… Nhưng chỉ con Tim Nàng biết rằng Nàng đi theo con đường cùng Valentine không phải vì mình đã tứ cố vô thân, vì mưu cầu một cuộc sống sung sướng ở một vương quốc thiên đường nào đó… Chính con người của Valentine là điều mà Nàng thấy thôi thúc muốn đi cùng… Nàng ý thức Valentine như người đàn ông cao cả mà Nàng đã yêu dấu vô cùng. “Hết mình” không phải là ý niệm hay ngôn ngữ trái tim thời đó, nhưng Nàng muốn còn điều gì quí giá, ý nghĩa nhất của bản thân sẽ dâng tặng cho Chàng trên con đường của mình.
Một năm trước, ở xứ sở đó, khi Vua Quan sa đọa, giặc cướp nổi lên khắp nơi… không thể tả hết được sự cơ cực lầm than và đau khổ của kiếp người. Valentine trong bộ quần áo vải bố tả tơi, lấm bụi xuất hiện giữa ngôi làng chỉ còn tro bụi và những đám khói khét lẹt âm ỉ từ đồ đạc và thịt người, thịt gia cầm bị thiêu cháy… Một đám cướp hung hãn và cóc cáy thô bạo lôi ra một Thiếu nữ đang chốn nấp trong bụi cỏ gai bên bờ ruộng khô… Chúng “hô hố” cười và hò hét kích động nhau định làm nhục Nàng. Cô gái đã bị thương và như tả tơi nhàu nhĩ một sự yếu đuối, pha lẫn căm thù và khiếp sợ. Valentine bước đến chỗ chúng, kiêu hãnh nhưng khiêm nhường, hai tay nâng cao tầm mắt cây gậy chống đường nâu bóng và lễ độ cúi đầu, mái tóc dài hung vàng rủ xuống vầng trán thanh cao, Chàng nói : Nếu các vị cần tiền thì tôi còn một chút Vàng, nếu các vị muốn đánh người thì tôi còn tấm thân, nếu các vị cần vui thú thì cuộc sống sẽ còn nhiều dịp ban tặng, và nếu thấy tôi cần phải chết vì làm mất hứng thì xin cứ tùy ý giết tôi đi. Trừ khi hôm nay, bây giờ không phải làm nhục cô gái này, thì với tất cả những gì đã làm các vị vẫn thấy mình còn là con người có Trái tim nhân ái vốn được Cha Mẹ sinh ra xin đừng giết chết nó. Cô ấy không đủ cho tất cả điều mà các vị muốn, sự quá đà chỉ làm các vị không còn có thể coi nhau là anh em được nữa mà thôi. Giọng nói và hình dáng của Chàng toát lên một vẻ đẹp và sức mạnh thánh thiện, như làm hé bừng lên chút ánh sáng lương tri trong cùng cực của tội ác, làm ấm lên sâu thẳm tâm hồn của kẻ tội đồ… Chúng sững lại dừng tay, những khuôn mặt kinh khủng như mềm lại, lặng lẽ thả cô gái ra. Trước khi lên ngựa bỏ đi, tên trùm cướp ngoảnh mặt để lại một câu nói: “Ngươi không sợ chết lẩn chốn mà mưu sống cho một người, thì chúng ta cũng không nỡ cướp đi thêm một mạng sống. Ngươi không hạ mình mà xin cho cô ta, thì chúng ta cũng có thể đứng thẳng mà không bắt cô ta phải đọa đày. Nhưng để xem sự Nhân ái của ngươi và lòng tốt hiếm hoi của bọn ta có làm cho các người còn sống được bao lâu nữa ở đời này hay không?".
Đưa Nàng ra khỏi ngôi làng chết chóc đó, nhập vào một đoàn người nhếch nhác đói khát chờ đợi từ trong bìa rừng, Valentine dẫn đầu họ lên đường, nhằm thẳng hướng Đông Bắc mà tiến. Từng kẻ trong đoàn người đó đã được Valentine gặp trong những hoàn cảnh khốc liệt khác nhau, Chàng cứu được họ duy nhất bằng Lòng Nhân ái trong bước đường hành trình đi về phía Tình yêu Nhân Quần... Họ được cứu vớt, được nghe về Nhân Ái như lần đầu bởi Chàng, được chứng kiến cứu khổ cứn nạn trong hành trình cùng Chàng – người có nghị lực và Niềm tin không gì lay chuyển được, và họ được cảm hóa về điều đó…Nàng là cô gái trẻ duy nhất trong đoàn, nhưng lại có Trái tim nhạy cảm nhất của Nữ tính, có tinh thần như bẩm sinh để thấu cảm được hơn những kẻ khác về tinh thần của Vanlentine… Đặc biệt Nàng cảm thấy rõ tính đàn ông mạnh mẽ, tình cảm đặc biệt mỗi khi Chàng giúp đỡ, chia sẻ, động viên, nhường nhịn cho Nàng, khiến Trái tim Nàng đâp lên những nhịp cảm xúc lạ kì khiến Nàng thấy đi về đâu cũng được miễn là cứ được bên Chàng…. Có lần một đêm dừng nghỉ giữa rừng thưa, dưới ánh trăng lạnh mở ảo, mọi người đã ngủ mê mệt, Valentine vẫn thức đưa củi vào duy trì cho đống lửa cháy bập bùng sưởi ấm cho mọi người. Nàng hé mở mắt, nhìn thấy thế, nhẹ nhàng bước đến ngồi bên Chàng…Họ cầm tay nhau, lặng lẽ hôn lên môi và đắm đuối vào nhau…Rồi Chàng nói : Sứ mệnh của Ta đưa mọi người tìm đến Tình yêu Nhân quần, nhưng mình gặp nhau Nàng là Tình yêu của Ta, ý nghĩa cuộc đời Ta là mỗi ngày đem đến và thổi vào Trái tim Nàng sự sống của nó. Đúng như vậy, trên con đường thiếu thốn, bệnh tật và gian khổ Vanlentine đưa mọi người đi , không đến nơi nào rõ ràng…Những con người không còn chút gì hi vọng và ý nghĩ về nhà cửa, tiền bạc, danh vọng…nhưng đi bên Chàng, không mong gì nơi đến mà là hành trình để reo rắc và gặp gỡ Tình yêu Nhân Quần….Cùng song hành như thế Tình yêu Valentine với Nàng nảy nở và thâm sâu để vượt qua tất cả…Mỗi ngày qua đi, Valentine luôn dẫn đầu đoàn người, và Tình yêu được đánh dấu bởi sự hi sinh nhận về mình những cơ cực hơn, nhường nhịn hơn chút thức ăn ít ỏi, những điều hay ho như men sống, những bông Hoa Chàng hái bên đường đi…giành cho Nàng, để tặng Nàng…
Đoàn người đã mệt lắm rồi! Ngôn ngữ không thể tả nổi sự khô kiệt trong tế bào của mỗi người họ… Đã có vài người gục xuống trên cát nóng cháy. Không ai còn sức để dìu đỡ được người khác khi chính mình có thể gục ngã bất kì lúc nào. Bỗng có một tiếng khàn đục cất lên, nhưng đủ nghe thấy: Ôi kia rồi! Có phải không? Mọi người cố nghển cổ khô khát háo hức nhìn về phía trước… Ôi Ốc Đảo! Họ mừng rỡ vô cùng, như có phép thần nâng đỡ bước chân của họ. Quãng đường như ngắn lại, ít chốc tất cả đã vào bên trong cái được gọi là Ốc Đảo, thực sự chỉ là một thành đất nện bên trong có một cây khá to rủ xuống, và may mắn là có một giếng cạn nho nhỏ. Tất cả đều quá đỗi vui mừng. Valentine với trách nhiệm và bản lĩnh của người dẫn đầu, cố gắng nhanh nhẹn bước tới quì xuống bên miệng giếng trước khi đám người kia có thể xô ào vào nhau tranh giành. Nhìn thấy bên trong có nước nhưng linh cảm mách bảo Chàng là còn rất rất ít. Cúi sâu người vào bên trong dùng tay thử thì than ôi….lượng nước có lẽ chỉ đủ cho đám người khỏi chết khô tạm thời mà thôi. Chàng đứng dậy gượng sức bình sinh nói cho mọi người biết rõ điều đó: Các Bạn, chúng ta ơn Trời đã tìm thấy sự sống, nhưng giếng nước mà chúng ta tìm thấy chỉ đủ cho mỗi người vài ngụm nhỏ trước khi đợi nó có thể tiếp tục cho chúng ta tin chắc rằng mình sẽ sống. Tôi sẽ phân phát cho các Bạn và tôi sẽ là người cuối cùng được phép thưởng thức nó khi tất cả các Bạn đã có phần của mình. Nhờ Chàng sự trật tự được duy trì để mỗi người có vài ngụm nước nhỏ nhoi. Đến lượt Cô gái, Nàng là người cuối cùng trong đoàn người đến nhận phần nước của mình. Nhưng đó cũng là những giọt nước cuối cùng vét được từ đáy giếng. Nàng đưa mắt nhìn và cảm nhận được hết tình cảnh. Nàng nhìn Valenitne, cố tươi cười bằng đôi môi đã khô nứt nẻ, cố nói bằng giọng chỉ có thể nghe được khi gió hoàn toàn lặng như sa mạc lúc ấy: “Valentine! Em hạnh phúc vì gặp Chàng, được Chàng yêu. Một năm đã trôi qua bên chàng, không ngày nào là Chàng không vì em… hôm nay hãy để cho em một lần vì Tình yêu, cảm tạ Chàng, vì sứ mệnh của Chàng. Hãy tin là em còn chịu được, còn sống được cho đến khi giếng nước nhỏ này lại cho ra thêm những giọt nước mới”… Chàng cảm động quì xuống đưa âu nước ít ỏi cho Nàng. Nàng nhận lấy mềm mại ngả đầu chàng ra sau hôn lên má lên môi Chàng nhưng mạnh mẽ và dứt khoát đưa âu nước đó lên môi cho Chàng uống…
Nàng gục xuống, không hồi phục được sức nữa, nhưng Linh hồn Nàng đã bay lên. Đoàn Người đã được uống chút ít, ngồi dưới bóng cây che bớt nắng, và chiều xuống dịu nhẹ hơn rất nhiều Họ đã qua được cơn nguy hiểm của cái chết. Những giọt nước mới từ mạch nhỏ đáy giếng lại từ từ chảy ra… Họ đã được cứu sống và tiếp tục Hành trình…
Valentine về sau được suy tôn là Thánh bởi Tình yêu và sứ mệnh cao cả của Chàng. Nhưng ngày hôm đó ở sa mạc, ngày 14 tháng 2 - ngày sau này được ghi nhận là Ngày Tình yêu, Một Cô gái đã cảm ơn người Yêu của mình mà dâng tặng cho Chàng những giọt nước, giọt sống cuối cùng của mình… Điều đó cũng khiến cho chúng ta hôm nay hiểu thêm rằng Người đàn ông đã 364 ngày vì sứ mệnh chung, vì người Phụ nữ yêu quí của mình, nhưng họ được an ủi là ngày thứ 365, còn lại trong một năm, rơi vào ngày 14 Tháng 2 là ngày họ được người yêu cảm tạ Tình yêu của họ và vì họ!!!
Sửa bởi pth77: 17/02/2014 - 03:23
Thanked by 2 Members:
|
|
#30
Gửi vào 21/02/2014 - 15:54
- Thêm lời ái ngữ, bớt giận hờn oán
Ai ngữ là nghệ thuật truyền thông giúp cho người đối diện khi nghe có cảm giác hài lòng. Càng giữ sự hài lòng này lâu dài thì mối quan hệ đó càng hạnh phúc. Phần lớn hạnh phúc của người tại gia thuộc về giác quan. Mắt thấy những điều ưa thích, tai nghe những ngữ điệu êm tai, mũi ngửi mùi thơm tho, lưỡi nếm những vị hợp khẩu, thân xúc chạm những thứ mình thích, và ý hình dung với những điều chúng ta quan tâm, hài lòng. Người phụ nữ thường thích được khen. Cho dù quý ông có thương nhớ, quan tâm chăm sóc vợ cỡ nào đi nữa nhưng nếu thiếu lời khen thì khó chứng tỏ sự thương yêu thực sự mà mình dành cho vợ. Hãy cố tìm điểm tích cực của vợ để khen, thậm chí cô ấy không đẹp. Đó là người biết sử dụng nghệ thuật ái ngữ trong truyền thông. Hạnh phúc nằm ở chỗ chúng ta biết hài lòng, hay còn gọi là sự biết đủ. Thái độ không biết đủ, luôn so sánh vợ mình với người khác thì sớm muộn sẽ xảy ra tình trạng ngoại tình. Do đó, phải tìm điểm tích cực để khen. Đừng chì chiết, nói tràng giang đại hải mà phải thực tập buông xả. Chuyện gì đã qua không nhắc lại nữa để lòng được nhẹ tênh.
Hãy xem những chuyện không vui của vợ chồng như gió thoảng mây bay. Chỉ cần cơn gió thoảng qua, mây sẽ bay không giữ lại, không ngăn cản mặt trời soi rọi vạn vật ở thế gian. Cũng vậy, xua tan mối hờn giận, oán trách thì mối quan hệ hôn nhân sẽ trở nên trong lành và tươi đẹp. Nói cách khác trong hôn nhân, cần phải sử dụng ngôn ngữ trái tim nhiều hơn ngôn ngữ lý trí. Tranh luận ăn thua đủ bằng ngôn ngữ lý trí với nhau sẽ không bao giờ được hạnh phúc dù thương vợ rất nhiều. Chúng ta phải biết dùng ngôn ngữ thương yêu và cảm thông. Tìm điểm tích cực nhất để làm cho sóng lặng gió yên. Tìm những ngôn ngữ khôi hài nhất để những căng thẳng bị phá vỡ.
Trong chuyến hành hương vừa qua, đoàn chúng tôi có tất cả tám mươi thành viên trong nước lẫn ngoài nước. Một cặp vợ chồng có địa chỉ email là “happy couple” tức lứa đôi hạnh phúc. Thế nhưng trong thời gian đi chung, chúng tôi thấy họ chỏi nhau như nước với lửa. Chồng nói A, vợ phát biểu B. Vợ nói C, chồng tìm cái phủ định D để thảo luận. Họ không hạnh phúc với nhau nhưng cũng không thể bỏ nhau, vì “Bỏ thì thương, vương thì khổ”. Ấy vậy mà họ đã sống với nhau trên bốn mươi lăm năm, có mấy mặt con, và nhiều cháu. Khi ngồi trò chuyện, người chồng mới kể: “Chúng tôi là cặp vợ chồng hạnh phúc nhất. Mỗi tuần chúng tôi đi ăn nhà hàng bốn lần”. Ai nghe cũng thèm vì ở hải ngoại, mỗi tuần vợ chồng được đi ăn nhà hàng với nhau một lần là đã hạnh phúc lắm rồi, huống chi cặp vợ chồng này đi bốn lần. Nhưng sau đó ông giải thích tiếp: “Vợ tôi đi ngày thứ ba và thứ năm. Còn tôi đi ngày thứ hai và thứ tư”. Như vậy có nghĩa hai người chỉ đi ăn một mình.
Dĩ nhiên ông chồng không nói rõ tại sao lại như thế, nhưng có lẽ họ thường xuyên tranh cãi bằng ngôn ngữ lý trí cho nên đi ra ngoài ăn nhằm giảm bớt cãi nhau. Giải pháp đó là trì hoãn phản ứng hay thay đổi cái đà. Tâm đang bị vướng vào câu nói gì, quan điểm nào khiến hai bên có khuynh hướng tấn công, phê bình lẫn nhau thì lúc đó chúng ta phải rời khỏi địa điểm để tự mình hít thở không khí trong lành và tươi dưỡng máu làm mới lại nơron thần kinh cho quá trình trao đổi chất được tốt đẹp, mọi căng thẳng, khó chịu được tan biến và người còn lại cũng không có cơ hội để đào sâu thêm sự rạn nứt của hai bên.
Người chồng phát biểu vô tư lự trong chuyến hành hương vừa qua. Đó cũng là một kinh nghiệm để chúng ta thấy, khi hai bên không ăn khớp với nhau, lời nói không còn là ái ngữ nữa thì quý ông chồng nên chủ động thực tập những lời khen. Khen vợ hay, đẹp, giỏi thì người vợ sẽ cảm thấy rất hạnh phúc về mặt tinh thần. Thỉnh thoảng, các bà vợ cũng phải khen chồng mình. Khen làm sao cho ông cảm thấy hãnh diện hơn. Như vậy, khích lệ hạnh phúc là sự hiểu biết và cảm thông của những người bạn đời trong cuộc sống hôn nhân gia đình.
- Thêm niềm thổ lộ, bớt thói để bụng
Người phụ nữ đôi lúc sống mâu thuẫn nội tại như là hai nhân cách đối lập nhau. Khi vui thì huyên thuyên bất tận. Khi buồn thì nạy răng cũng không thèm nói. Cứ ôm sự hờn dỗi trong tâm do đó nỗi đau có khuynh hướng trương sình giản nở, và trở thành trái bom nguyên tử đe dọa hạnh phúc gia đình. Còn người chồng khi giận có khuynh hướng nói cho sướng miệng, quát tháo, chửi bới rồi chuyện ra sao thì ra.
Hiểu được tâm lý giới tính này, khi gặp các ông chồng ăn nói thô bạo thì chị em phụ nữ cũng đừng bận tâm nhiều. Hãy thổ lộ ra để nhẹ lòng chứ đừng ghim nỗi đau trong tâm. Dồn nén những ưu tư sẽ khiến cho người phụ nữ mắc những chứng bệnh trầm cảm, lạnh nhạt, bớt năng động, bi quan, tiêu cực, dẫn đến tuyệt vọng. Khi tuyệt vọng thì dấu hiệu cầu cứu là cái gì đó tương phản đến tâm lý thường nhật. Chẳng hạn người vợ có thói quen nói nhiều thì khi tuyệt vọng, bà ta sẽ ít nói và hầu như không muốn nói. Ai là chồng trong gia cảnh đó thì phải thấy rõ nhu cầu bật đèn vàng đang thể hiện, cần phải thay đổi tính cách và quan tâm đến vợ nhiều hơn để vợ thổ lộ điều buồn giận của mình. Hãy lắng nghe bằng thái độ không phán xét, không quy trách nhiệm, và không phân định đúng sai. Nghe để người kia bớt đau, để người kia trút bỏ được sự hờn giận của mình, và hãy nghe bằng tai của đức Bồ tát Quan Thế Âm.
Nếu người kia đã bật đèn vàng cảnh báo, chúng ta vẫn không quan tâm, để mặc người đó phải bỏ đi thì vấn đề trở nên nghiêm trọng. Truyền thông là một cơ hội để phóng thích. Tuy nhiên chị em phụ nữ cũng nên tránh tình trạng nói dai nói dài như bà “tám” nói với ông “tám”. Như thế sẽ dẫn đến rắc rối nhiều hơn. Có những vấn đề thay vì chúng ta chỉ cần nói với chồng mình để hai bên cùng hiểu, cảm thông thì lại đi nói với người khác. Nói như vậy chẳng giải quyết được gì, ngược lại nó còn gây ra nhiều tác hại, chuyện xấu trong gia đình mình sẽ như là lửa được mồi bùng cháy.
Đức Phật nói, truyền lửa sân hận từ nhà mình sang nhà khác thì những người nghe nếu không có khả năng xử lý cũng bị vạ lây rồi sinh phiền não. Hoặc nếu họ không có kỹ năng tư vấn tâm lý thì họ có thể đổ thêm dầu vào lửa. Thay vì vấn đề mâu thuẫn rất nhỏ nhưng họ lại tư vấn những giải pháp hết sức tiêu cực. Cho nên hãy thổ lộ với người hiểu mình hoặc với các nhà tư vấn tâm lý tình yêu hôn nhân, vì họ đã được năm mười năm kinh nghiệm trong lĩnh vực với năm bảy trăm trường hợp khác nhau. Chỉ cần chúng ta thổ lộ vài ba câu, người ta có thể biết ngay bế tắc nằm ở chỗ nào để tháo gỡ nó. Còn nói với ông bà hàng xóm thường không giải quyết được gì.
Trong xã hội phương Tây, trạng thái căng thẳng trầm uất hầu như xuất phát từ nền văn hóa rất riêng tư. Làng xóm vài mươi năm bên cạnh nhưng không biết tên tuổi của nhau. Người ta tránh bị làm phiền bởi sự có mặt của người khác mà không xin phép trước bằng điện thoại. Họ có thể và được quyền thưa kiện về sự quấy nhiễu an ninh. Cho nên mỗi khi bị bế tắc, rất nhiều người phương Tây rơi vào khổ đau dẫn đến sự tuyệt vọng. Không bị bệnh thần kinh thì cũng tự tử mà chết. Thiết kế căn nhà ở phương Tây thường trên dưới 1.000 m2 nhưng đôi khi chỉ có hai người ở. Con cái khi đến tuổi trưởng thành hầu như có nhu cầu lập gia thất riêng. Do đó, khi có nỗi đau nếu không chịu đi tư vấn, thổ lộ để được người khác hiểu và cảm thông chia sẻ thì dễ dàng rơi vào bế tắc.
Chúng tôi đề nghị đừng làm theo câu “Oan ức không cần biện bạch” trong Luận Bảo Vương Tam Muội. Đức Phật chưa bao giờ dạy như thế. Không làm theo được hiểu một cách tích cực là chúng ta cần phải chia sẻ. Có nhiều điểm hiểu lầm mà chỉ cần nói với nhau vài ba câu sẽ liền tháo gỡ được. Giữ sự hiểu lầm với nhau suốt mấy mươi năm, có người chết mang theo nhằm mục đích gì? Chúng ta hãy cứ giãi bày, người kia không hiểu hoặc cố tình không hiểu cũng không sao. Ít ra bổn phận truyền thông chân lý và phân tích đúng sai với thái độ mong được cảm thông và hiểu biết để giải quyết vấn đề của mình đã được hoàn tất, còn người kia ôm gút mắc vào lòng là chuyện của họ. Đó là nghiệp mà họ đang mang, còn ta không còn gì ray rứt nữa.
Truyền thông giúp tháo gỡ bế tắc rất lớn. Trong kinh đức Phật đã từng bị phê bình, chỉ trích, rồi vu khống, nói xấu,.. Tuy nhiên chúng tôi dám cam đoan rằng trong toàn bộ kinh tạng Pali, chưa có tình huống nào đức Phật yên lặng từ đầu chí cuối. Ngài yên lặng cho người ta nói thỏa mãn cơn tức rồi sau đó mới giải thích bằng lòng từ ái, bằng sự hiểu biết để người ta hiểu rõ mình đang sai và không bao giờ tái phạm. Nói rất ngắn gọn và có chiều sâu chứ không nói để trả đũa. Trong kinh Trường Bộ, mỗi khi bị oan, đức Phật thường mở đầu bằng câu “Điều này không có trong chúng tôi”. Có nghĩa tôi không phải là tác giả của điều này. Châm ngôn chân lý trong tình huống đó không phải là cái gương yếu kém của việc thanh minh thanh nga mà để giảm bớt sự hiểu lầm không cần thiết giữa hai bên. Người còn lại khi nghe dữ liệu được giãi bày cũng phải ghi nhận lại và đừng phán quyết như một quan tòa.
Đa số các người vợ khi đã ghen thì không cần nghe lời giải thích. Họ bắt buộc người chồng phải thừa nhận dù trên thực tế có thể anh ta bị oan. Tòa án khi kết tội người nào đó còn cho phép quyền kháng cáo. Sơ thẩm không được thì lên phúc thẩm, sau nhiều lần mới dẫn đến tuyên án cụ thể. Nhiều người trong quan hệ vợ chồng vẫn không chịu làm như thế. Phán cái gì là bắt buộc người kia phải chấp nhận, cho nên cơ hội thổ lộ bị đóng đinh, khóa kín và dẫn đến bế tắc tâm lý.
Điều gì giúp dễ dàng thổ lộ? Đó là cách ứng xử để người kia cảm nhận rằng mình là bạn tri kỷ, tri âm. Chúng ta quá nghiêm khắc, quá khó chịu cũng khiến người ta không dám nói. Mới nói một câu đã bị nạt, bị quát ngay lập tức sẽ tạo ra nỗi ám ảnh, lãnh đạm, thờ ơ và không còn muốn nói điều gì nữa. Trong một số tình huống bà vợ khi bị ông chồng quát tháo liền bị khủng hoảng tâm lý. Hoặc khi bị ông chồng góp ý đừng nói nhiều, đừng chì chiết, đừng kể lể, thì lại tự ái. Đang thương yêu, quan tâm đến nhau, nhưng cách giải quyết vấn đề khác nhau đôi chút, bên nào cũng tự ái là hỏng việc. Quan tâm đến người chồng thì phải tìm hiểu tâm lý giới tính nam. Đàn ông không thích chi tiết mà chỉ thích chung chung. Chúng ta áp đặt cá tính nữ đòi hỏi chi tiết hóa sự yêu thương và buộc người kia phải tiếp nhận, khi bị từ chối liền quy kết rằng chồng không thương mình là điều không đúng.
-. Thêm lo cho người, bớt tính cho mình
Đây là tinh thần vô ngã vị tha. Quan tâm đến người khác là một ưu điểm của con người trong mối tương quan xã hội. Một số người chỉ biết chăm chút bản thân mình mà không quan tâm đến người khác. Nhiều người vợ chỉ quan trọng hóa phần trang sức, nghĩ rằng nó là phương tiện duy nhất để làm đẹp, nhưng lại không biết phát huy cái đẹp của tâm hồn, cái đẹp của đức hạnh, cái đẹp sâu sắc bên trong. Chẳng hạn cứ mỗi lần đi đâu phải để chồng chờ cả tiếng đồng hồ cho mình sửa soạn khiến người chồng mất hết hứng thú. Chăm chút bản thân nhiều quá làm cho người kia cảm thấy bị bỏ lơ.
Tuy nhiên, người chồng cũng nên để ý quan tâm đến vợ. Chẳng hạn, khi đi du lịch, phụ nữ có khuynh hướng mang rất nhiều hành lý gồm áo quần, lương khô, nữ trang, bàn ủi… mà có cảm giác vẫn chưa đủ nên va li luôn nặng gấp mấy lần so với hành lý của chồng. Trong tình huống này, người chồng cũng đừng nói lời nặng nhẹ mà hãy chịu khó mang vác dùm. Trước kia chúng ta ga lăng thì tại sao lúc này lại không chịu làm mà chỉ nghĩ đến bản thân. Mặc dù vậy, các bà vợ cũng đừng buộc chồng phải lo cho mình nhiều, khiến quý ông có cảm giác là chồng sai.
Quan tâm đến tha nhân là một ưu điểm của hạnh Bồ tát. Mỗi lần chăm sóc một người nào đó, chúng ta cảm thấy hạnh phúc hơn vì mình đã thực hiện được nghĩa cử cao thượng. Trong quan hệ vợ chồng, vợ thực tập hạnh Bồ tát, chồng cũng thực tập hạnh Bồ tát thì gia đình đó đảm bảo hạnh phúc nhất trên đời này. Mỗi khi chăm sóc cho người kia, đừng có nhu cầu buộc người kia phải chăm sóc lại. Như vậy là ta đang mặc cả trong các dịch vụ chăm sóc. Đón nhận sự chăm sóc thì đạo Phật dạy chúng ta phải biết ơn và đền ơn. Đừng tạo ra bất kỳ áp lực nào bắt buộc người kia phải đáp lại tương tự. Có như vậy, sự chăm sóc mới trở thành tinh thần vô ngã trong phụng sự.
Chúng tôi quen một cặp vợ chồng ở Houston - Texas - Hoa Kỳ, người vợ suốt ngày bán ở ngoài chợ, tối về lại lo tất cả việc bếp núc, con cái, và chuyện trong gia đình. Ông chồng hoàn toàn thờ ơ về chuyện đó. Bà vợ bèn tự an ủi rằng mình đã biết cúng dường Tam Bảo, thỉnh thoảng biết vào chùa làm công quả, thậm chí lau quét nhà vệ sinh vẫn cảm thấy hạnh phúc, cho nên ở nhà cũng cần phải hạnh phúc khi làm những công việc như thế cho chồng con. Chồng của bà là một nhà nghiên cứu Phật học. Suốt ngày ông cứ cắm cúi vào quyển kinh trên trang web. Vì vậy bà rất hạnh phúc khi lo được cho chồng. Vô chùa cúng dường, phụng sự cho quý thầy mà về nhà lại bắt chồng phụng sự cho mình thì sẽ không bao giờ gắn bó lâu bền với nhau.
Có lần chở chúng tôi đi thuyết giảng. Người chồng lái xe, người vợ mang theo trái cây, khăn ướt,… lo cho chúng tôi khiến chúng tôi cảm thấy áy náy. Anh chồng nói: “Thầy ơi! Ở nhà vợ con lo cho con được 1/10 giống như thầy thì con hạnh phúc nhất trần đời”. Câu nói nhẹ nhàng và khôi hài đó là điều mà các chị em phụ nữ nên quan tâm. Người phụ nữ có lòng thành kính lớn, khi phụng sự Tam Bảo thì có thể làm mọi thứ, không màng gì cả, cứ cặm cụi suốt ngày với tấm lòng hoan hỉ, đôi khi làm cho chồng có suy nghĩ rằng nhiệm vụ của mình là phải cắn răng chịu đựng, lo cho vợ nếu không muốn bị ly dị. Mức độ ly dị từ người nữ ở phương Tây rất lớn trong khi xã hội châu Á thì tình huống ly dị thường xuất phát từ người chồng. Học hạnh Bồ tát, chúng ta phải phát tâm và cảm thấy hạnh phúc trong việc được giúp đỡ người khác. Cả hai bên cùng làm việc đó chứ không phải một trong hai người làm.
- Thêm lòng độ lượng, bớt sự trách móc
Độ lượng là tâm hạnh Bồ tát khi thấy rõ các giới hạn của chúng sinh. Người vợ có cơ hội thấy rõ hơn những sở đoản của chồng và ngược lại chồng cũng thấy những điểm tích cực lẫn tiêu cực ở người vợ. Khi tạo những lỗi lầm nho nhỏ, thậm chí nghiêm trọng, nếu người đó biết hồi đầu thì chúng ta phải ứng xử với tính cách một vị Bồ tát để bỏ qua.
Phương pháp “hiện tại lạc trú” đức Phật dạy trong kinh nếu áp dụng trong tương quan vợ chồng sẽ cực kỳ hay. Phật tử tại gia có thể áp dụng lời dạy này trong kinh nhằm bảo vệ hạnh phúc gia đình mình, đừng áp dụng để đạt sự giải thoát giống như những vị tu sĩ. Không cần thiết. Chuyện giải thoát để dành cho các thầy tu, chuyện hạnh phúc là để dành cho người tại gia. Người tại gia sau khi đã hạnh phúc gia đình, muốn được giải thoát thì lúc đó hãy trở thành thầy tu.
Thực tập hiện tại lạc trú trong vợ chồng hay ở chỗ, nếu người vợ mắc một lỗi nào đó, chẳng hạn lén lút đến với người đàn ông khác. Khi bị phát hiện mối tình vụng trộm, người vợ quay về mái ấm hạnh phúc gia đình và mong được chồng tha thứ thì lúc đó, người chồng nên ứng xử phương pháp hiện tại lạc trú. Đứng trước người vợ đã biết nhận diện lỗi lầm và cam kết không tái phạm trong tương lai thì chúng ta hãy ứng xử như lời đức Phật đã nói với vua A Xà Thế, kẻ phạm tội ngũ nghịch giết cha, rằng là: Bậc thánh chưa từng tạo tội không bao giờ có trong cuộc đời. Người tạo tội nhưng nhận diện ra lỗi lầm và kiên quyết không tái phạm mới là bậc thánh đáng tôn quý hơn.
Qua lời nói này, đức Phật gián tiếp cho chúng ta thấy lỗi lầm là thuộc tính của người phàm để chúng ta dễ dàng cảm thông và bỏ qua bằng thái độ rộng lượng. Đừng lấy đó làm cớ biện hộ để tiếp tục vướng dính vào lỗi lầm và lún sâu trong tội nghiệp. Nhiều người chồng vụng trộm khi bị vợ phát hiện thì hứa hẹn đủ điều nhưng trên thực tế vẫn “ngựa quen đường cũ”. Tiếp nhận sự rộng lượng của người tha thứ là một cơ hội quí báu để chúng ta trở thành một con người hoàn toàn mới. Điều đó làm cho hạnh phúc tươi mát hơn. Quên quá khứ sai lầm là ta rũ bỏ được lăng kính hay kinh nghiệm như là một thành kiến.
Quá khứ là một lăng kính mà nếu mang vác nó trong nhận thức thì nhìn đâu chúng ta cũng thấy người còn lại sai quấy, cách nhìn nhận như thế đưa đến khổ đau. Hiện tại lạc thú là chặt đứt nỗi đau quá khứ của hai bên, sống một cách trọn vẹn ở hiện tại. Khi người lầm lỡ quay trở về với sự hồi đầu thật sự, chúng ta hãy mở rộng vòng tay đón nhận. Thái độ giận dai hoặc tâm lý ngang ngay sổ thẳng như cây tùng, cây bách hiên ngang, chính trực, đứng đắn đôi lúc lại khó sống hạnh phúc trong mối quan hệ vợ chồng.
Quan hệ nào cũng có những lựng khựng và rắc rối của nó. Cứ mỗi lần có sự trục trặc, chúng ta hờn dỗi, trách móc, so đo, tính toán thì không thể hạnh phúc với nhau. Hãy áp dụng nguyên tắc tâm lý của nhân dân Việt Nam là “Chín bỏ làm mười” để tìm điểm tích cực hơn. Thử quan sát hình ảnh hoa hồng trên thân hồng, số lượng gai sẽ nhiều hơn mấy chục lần so với hoa hồng có mặt chỉ sau vài tháng hoặc vài năm trồng, bởi vì nó được chăm sóc, bón phân, tưới nước giữ độ ẩm, và tạo ánh sáng thích hợp. Gai không chỉ mọc trên thân mà còn trên lá. Một động tác sơ suất sẽ làm cho tay chúng ta bị chảy máu khi tiếp xúc với hoa hồng. Tinh hoa của toàn thân cây hồng nằm ở đóa hoa. Nếu mắt chúng ta bị vướng dính vào gai hồng thì sẽ không thể nào thừa nhận được cái tích cực của hoa hồng vốn được xem là đẹp nhất, ấn tượng nhất trong các loài hoa. Nó tượng trưng cho tình yêu, tình thương, thậm chí lòng hiếu thảo, mặc dù ví tình mẹ như hoa hồng là không hợp lắm vì nó chóng tàn và hình ảnh người mẹ thì không hề có gai góc gây thương tích cho ai. Mẹ không gai góc, không chóng tàn. Con cái có thể bất hiếu từ bỏ mẹ nhưng mẹ không bao giờ từ bỏ con. Tuy nhiên ngày nay hoa hồng cũng đã trở thành một phần của văn hóa Phật giáo. Nhìn thấy hoa hồng, chúng ta quên đi những gai hồng và do đó “chín bỏ làm mười” sẽ là một giải pháp để chúng ta sống hiện tại lạc trú trong hạnh phúc hôn nhân.
Một hình ảnh khác chúng ta cần phải quán chiếu là “nước trong không có cá” mà nước đục mới gọi là nước phì nhiêu, phì nhiêu không chỉ cho ruộng đồng mà cho cả các loài thủy tộc. Người quá nghiêm khắc cũng khó giữ hạnh phúc vợ chồng. Hãy nghiêm khắc với bản thân nhưng hãy thông cảm cho người khác. Chúng ta không cho phép mình sai nhưng khi người khác sai, ta hoan hỷ tha thứ bỏ qua để hai bên bớt đi sự trách móc và cùng nhìn về phía tích cực. Hãy tán dương điều hay, điều tốt của người kia chứ đừng chỉ nhìn vào cái xấu.
Cách đây hai ngày, một phụ nữ tuổi trung tuần gốc Hoa đến than vãn với chúng tôi về sự bất hạnh trong gia đình bà. Gia đình bà rất giàu, kinh tế gia đình do một tay bà làm ra. Bản thân bà có kiến thức và văn bằng hơn chồng nên bà thành công hơn về kinh tế và được hai bên họ hàng quý hơn. Vì lẽ đó mà trong thâm tâm, việc kính chồng hầu như giảm đi phần nào. Bà cảm thấy mình đang sống trong địa ngục, khi hiện nay chỉ còn lại tình nghĩa, và sống vì hạnh phúc của những đứa con. Chồng bà rất thương các con nhưng lại không thương bà. Bà liệt kê ba lỗi lớn của chồng mà bà không thể bỏ qua. Đó là không biết ơn bà và gia đình bên vợ, không thương yêu bà, và thường xuyên nói dối trá từ chuyện nhỏ chuyện lớn trong nhà khiến bà rất khổ tâm.
Thông cảm nỗi đau của bà, chúng tôi hỏi: “Chồng bà có ngoại tình không?” bà trả lời một cách dứt khoát “Không. Chồng tôi rất chung thủy”. Đây là ưu điểm tốt nhất, tại sao bà không nhìn thấy để hạnh phúc. Chúng tôi khuyên bà hãy nhìn lại ưu điểm của ông và khen ngợi đôi ba câu. Hãy ứng xử như mình thấp hơn ông một cái đầu mặc dù thực tế bà có thể cao hơn ông mấy cái đầu: cái đầu tài chính, cái đầu quản lý, chăm sóc cho hai bên, cái đầu về vị thế kinh tế. Tuy nhiên bà vẫn phải giả vờ nhún xuống để ông có cảm giác mình là nơi nương tựa của bà. Đôi khi phải tỏ ra nũng nịu, nài nỉ và phải cảm thấy hạnh phúc khi được ông giúp. Người phụ nữ tự lực suốt cuộc đời, cho nên có thói quen ôm đồm công việc vì nghi ngờ khả năng giúp đỡ của người bạn đời. Những ông chồng trong tình huống này thường có cảm giác dư thừa trong chính ngôi nhà của mình. Khi ra ngoài xã hội, các ông được nhờ giúp đỡ và hạnh phúc khi được người ta tỏ lòng biết ơn trong khi về nhà lại không có cơ hội làm việc đó. Cho nên người vợ phải mềm mỏng hơn giống như hoa hồng để các ông chồng được hạnh phúc. Có như vậy các ông sẽ quan tâm nhiều đến vợ mình. Bằng chứng là ông rất quan tâm đến những đứa con. Tình thương dành cho con to lớn thì tại sao lại không thể dành cho bà. Bởi vì đôi lúc sự căng thẳng, nghiêm nghị, khắt khe của bà khiến tình yêu lâu dần bị giết chết. Đó là điều các bà vợ cần thay đổi.
Trường hợp nếu ông chồng hay quanh co nói dối thì bà vợ hãy thực tập điếc mà bỏ ngoài tai. Nói dối nhưng không ngoại tình là điều đáng mừng. Đôi khi do các bà vợ quá khó tính, chồng nói chuyện gì cũng bị bài bác, không hài lòng, ủng hộ thì ông chồng cũng phải lừa bà, miễn không hại ai. Trong khi đó, việc nói dối của chồng đối với tính cách nghiêm nghị của bà sẽ bị quy kết là không tôn trọng vợ dẫn đến lục đục trong gia đình. Nếu biết giả điếc, gia đình sẽ hạnh phúc vô cùng. Lâu dần, chúng ta còn phải thực tập hạnh mù để bớt dòm ngó chuyện của chồng. Đàn ông không thích được quan tâm đến từng chi tiết như thể bị nhốt trong chiếc lồng. Người nữ phải hiểu tâm lý người nam thì mới có những ứng xử phù hợp. Tuy nhiên người nam cũng phải thấy tâm lý các bà vợ thường rất chi tiết cho nên hãy quan tâm và độ lượng hơn. Đừng đổ lỗi, chì chiết, và chửi bới trước lỗi lầm của người phối ngẫu. Hãy tán thưởng cái hay, cái tích cực để cả hai cùng duy trì hạnh phúc gia đình.
Tóm lại, thêm bớt là một nghệ thuật trong ứng xử vợ chồng. Cả hai bên cần thấy rõ sở trường giới tính của mình để phát triển đồng thời giảm bớt những khiếm khuyết. Bên cạnh đó bổ sung những thiếu sót trong tương quan vợ chồng. Hãy cố gắng áp dụng con đường trung đạo trong tương quan vợ chồng. Đối với người xuất gia, trung đạo là con đường giải thoát, nhưng đối với người tại gia trung đạo là nghệ thuật hạnh phúc gia đình. Điều này đức Phật đã nói trong Bát Chánh Đạo, đặc biệt trong kinh Trung Bộ.
Sẽ là sai lầm nếu người tại gia trong quan hệ vợ chồng lại sử dụng con đường trung đạo của Bát chánh đạo làm con đường giải thoát. Trung đạo trong đời sống vợ chồng là gì? Là tránh thái cực hưởng thụ tính dục. Người chồng ham muốn trong khi người vợ sống như sư cô thì dần dà, chồng phải đi tìm chỗ khác. Cho nên người tại gia phải biết dung hòa. Đức Phật nói hưởng thụ khoái lạc giác quan đỉnh cao nhất là tính dục là một thái cực. Rất nhiều người phải bị đắm lụy. Thỏa mãn trong hôn nhân không đủ phải đi thỏa mãn với người khác. Vì vậy chúng ta phải thực tập “hài lòng biết đủ” để giảm bớt.
Trò nào cũng lắm công phu. Trong tương quan hưởng thụ cũng như thế. Người càng đòi hỏi nhiều thì sẽ càng mất hạnh phúc. Nói cách khác, đòi hỏi là bán đứng hạnh phúc nên những người trong cuộc phải học trung đạo. Xã hội phương Tây cho chúng ta thống kê rằng phần lớn các cuộc đổ vỡ hôn nhân xuất phát từ vấn đề dục, hoặc đòi hỏi quá nhiều mà cung ứng lại quá ít. Thiếu hoặc thừa đều dẫn đến sự khập khiễng trong mối quan hệ hôn nhân.
Thời xưa, phương pháp tu khổ hạnh ép xác nhằm đày đọa cơ thể vật lý, làm cho nó nhừ tử, mệt mỏi đến độ không còn ý niệm gì để hưởng thụ, được các nhà sa môn Bà la môn khổ hạnh thời đức Phật nghĩ ra và cho rằng đó là con đường giải thoát duy nhất. Đức Phật đã trả giá rất đắt, suýt nữa mất mạng nếu không có Suyata dâng bát cháo sữa, để rồi sau đó tìm ra con đường trung đạo. Áp dụng trong đời sống vợ chồng là gì: khe khắt, khô khan, gần như một thầy tu, khiến người còn lại cảm thấy mình thiếu thốn buộc phải đi tìm. Đừng khổ hạnh trong quan hệ vợ chồng. Hiểu và biết để hai bên cùng sống, cùng xây dựng hạnh phúc không phải chỉ cho hai người mà cho cả con cái. Tóm lại thêm và bớt theo con đường trung đạo thì hạnh phúc sẽ được thắt lại rất lâu dài.
(Tạp chí Đạo Phật ngày nay)
Thanked by 3 Members:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
![]() Vô thường của Vô thường |
Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | iamthat |
|
![]() |
|
![]() nghiệm lý những lá số bất thường kỳ dị nhất |
Linh Tinh | minhgiac |
|
![]() |
|
![]() Vẫn tìm sách thất ngươn toàn bộ |
Thiên Văn - Lịch Pháp - Coi Ngày Tốt Xấu | trongtri |
|
![]() |
|
![]() Thương quan sinh tài cách |
Tử Bình | lethanhnhi |
|
![]() |
|
![]() Luận về Thương Quan Cách![]() (bài cua maithon trong diễn đàn cũ) |
Tử Bình | toahuongqui |
|
![]() |
|
![]() Xin hỏi cuộc đời của người thương quan thương tận? |
Tử Bình | SonVuong |
|
![]() |
1 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












