Jump to content

Advertisements




HUYỀN CƠ


1 reply to this topic

#1 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 11/06/2013 - 03:53

Huyền cơ là Cơ Bút rất mầu nhiệm, do Đấng Thiêng liêng dùng điển lực trực tiếp viết ra trên giấy, không qua trung gian hai tay của đồng tử.

Tại Chi Minh Lý, ông Âu Minh Chánh biết dùng Huyền cơ, nhưng ông ta nhận thấy dùng Huyền cơ rất khó khăn và nguy hiểm, nên ông sử dụng cách Cầu Cơ hay Chấp Bút theo lối phổ thông để thỉnh Kinh, đặc biệt thỉnh được các bài Kinh: Niệm Hương, Khai Kinh, Kinh Sám Hối, Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối, Bài Tặng Thiên Đế, Bài Xưng Tụng Công Đức Thánh Thần Tiên Phật...

Sau đây là cách thực hiện Huyền Cơ tại Chi Minh Lý (Tam Tông Miếu) do ông Âu Minh Chánh, Chủ trưởng Chi Minh Lý, tổ chức đạt kết quả tốt đẹp. Ông Âu Minh Chánh có viết thư, nhờ một vị Giáo sư người Pháp ở Nancy, truyền dạy cho ông phương pháp áp dụng Huyền Cơ (Pneumatographie). Sau ông cũng có nhờ một vị Pháp sư người Tàu, truyền dạy thêm cho ông về cách cầu thỉnh Thần linh bằng Huyền Cơ, nhờ đó ông thu thập khá nhiều kiến thức để lập ra phương pháp cầu bằng Huyền Cơ, mô tả sau đây:

Huyền Cơ là một việc rất khó làm. Muốn thành công thì phải bền chí và cố công, lại cần phải ăn chay, tịnh tâm để cầu nguyện. Trước hết nên đặt một cái bàn có đủ lễ phẩm: hương, đăng, hoa, trà, tửu, quả. Người Chủ đàn phải day mặt về hướng Bắc, là nơi Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế ngự, lạy và vái như vầy:

Cung thỉnh cúi đầu đốt nén hương

Khói bay nghi ngút thấu Thiên thương

Kỉnh thành tấc dạ xin bày tỏ

Nguyện thỉnh Tiên Ông đến bửu đường.

Vái rồi niệm như vầy:

Hương hoa thỉnh, hương hoa nghinh

Tiên giá lâm, chí tâm qui mạng lễ.

Rồi cứ định trí và nguyện việc mình muốn, cho đủ ba mươi sáu giờ. Một ngày phânra làm bốn lần cầu nguyện, mỗi lần một giờ. Trong lúc cầu nguyện, phải rán kiềmtâm trí đừng cho nó tưởng qua nhiều việc khác thì hết linh. Làm như vậy đúng ba mươi sáu giờ mới nên khai đàn.

Lời chỉ bảo của vị Giáo sư người Pháp, dĩ nhiên bằng tiếng Pháp, được ông Trần Văn Quế dịch ra như sau:

Nancy, ngày 13 tháng 6 năm 1916.

Kính ông,

Để phúc đáp câu hỏi của ông, tôi xin gởi thơ nầy cho ông rõ: Các đồng tử Huyền Cơ (Médiums pneumatographiques) thâu hoạch nhiều kết quả đặc biệt, mà người ta không thể hy vọng thực hiện dễ dàng. Họ được các Đấng Thiêng liêng dạy bằng văn tự trực tiếp. Người ta gọi như thế là những Thánh giáo, do tay các Đấng Thiêng liêng tự động viết ra, không phải có bàn tay của đồng tử xen vào đó phần nào cả.

Mặc dầu khỏi cần bàn tay của đồng tử viết, nhưng mỗi lần cầu, cần phải có ngườiđồng tử có khiếu riêng biệt, đứng ra chủ trương để cầu Thần linh. Trước hết, đồng tử đem để sẵn một tờ giấy trắng cho Thần linh sử dụng. Muốn tránh sự lừa dối, phải đặt tờ giấy trắng ấy vào hộc tủ ghế bàn, cách xa đồng tử, hay là bất luận chỗ nào mà đồng tử không thể với tay rờ mó tới được.

Sau đó một thời gian ngắn, trên tờ giấy trắng hiện ra dấu gạch, hoặc chữ một, hay là dòng chữ viết bằng một chất màu xám. Cách hiện tượng nầy là một triệu chứng hơn nhiều bằng cớ khác, minh xác có các vị thiêng liêng thị hiện hoàn toàn ởngoài người đồng tử.

Lối cầu nầy không thể đem ra thí nghiệm giữa đám đông người, vì nó không hạp với ý tọc mạch của phần đông công chúng. Phải có những điều kiện: Tịnh tâm, nâng cao tinh thần, lại chỉ nên họp một số ít người cùng một tín ngưỡng, và cùng đọc Kinh cầu nguyện mới mong đặng kết quả.

Đây là những món đồ dùng để thiết đàn:

1. Một cái đèn và một cặp đèn cầy.

2. Một cái bình chưng bông.

3. Một tờ giấy trắng.

4. Một chiếc đũa bằng đá nam châm hay bằng sắt có quet đá nam châm.

5. Một cái bàn và một tấm trải bàn trắng.

6. Hãy đặt bàn đèn ấy trong phòng thật kín, có xông trầm hương thơm.

Muốn tiếp xúc với một Thần linh nào chủ về vận mạng cõi đời nầy, thì phải thỉnh cầu vị ấy theo các điều kiện đặc biệt về tinh thần như sau:

- Trong mười lăm ngày, đồng tử phải ở chỗ vắng vẻ, lặng lẽ, tịnh tâm, ăn ròng chay lạt và đem hết tư tưởng hướng về sự thỉnh cầu đó.

- Khi lập đàn, phải mặc lễ phục nghiêm trang. Muốn cầu Thần linh giúp đỡ mình thì phải cầu Kinh mới thấu các Đấng ấy. Kinh cầu, khỏi phải lựa thứ kinh của Đạo nầy hay Đạo khác, miễn là thứ kinh đó có phần cao thượng và đặng hạp với việc mình đương cầu.

Chúng tôi tưởng cách cầu mà đặng ứng nghiệm hơn hết, nhơn danh Thượng Đế cao cả, nguyện với Hộ Mạng Thần Quan, ta thấy rõ các vị Thần linh ở xung quanh chúng ta. Tôi khuyên nên đọc câu nầy:

- Thành khẩn Thượng Đế Chí Tôn ban pháp cho một vị Thiên Thần đến chỉ giáo cho chúng tôi.

Rồi hãy chờ vị của mình mong mỏi đến. Một việc quan trọng nhứt là cần giữ im lặng và tịnh tâm, với một lòng mong muốn thiết tha và một ý chí cương quyết thànhcông. Tôi nói ý chí, chớ không phải dục vọng ít nhiều, thường bị gián đoạn bởi tánh lo nhiều việc.

Ý chí phải nghiêm chỉnh, bền dai, vững chắc mà không vội vàng hấp tấp. Sự tịnh tâm phải nhờ có vắng vẻ, yên lặng, xa nơi phiền hà náo nhiệt, có thể làm xao lãng tâm trí. Lắm khi, tuy là lập đàn đúng theo điều kiện, mà ta thường không tiếp được chi cả, cả ngày đầu luôn nhiều ngày kế tiếp đó. Đừng hy vọng hễ lập đàn là đặng ban ơn ngay. Có nhiều đàn, cả năm và lâu hơn nữa không chừng, mới có Thần linh giáng.

Ký tên.

Sự thành tựu về Huyền Cơ được hai lần, và đến lần thứ ba một tai nạn xảy ra, làm chấm dứt sự thỉnh cầu bằng Huyền Cơ, để thay thế bằng Cơ Bút phổ thông.

Ông Âu Minh Chánh nhận được bức thơ của vị Giáo Sư người Pháp nói trên vào năm 1916. Đến sau, nhờ một vị Pháp Sư người Tàu chỉ dẫn thêm, nên ông mới quyết định tập luyện Huyền Cơ theo lời hướng dẫn của vị Giáo Sư Pháp.

Công lao khó nhọc lắm mới được thành tựu. Kỳ thành tựu lần đầu tiên, có nhiều vị trí thức Tây học ít tín ngưỡng đến dự đàn. Đây là nói kỳ thành tựu thứ nhứt, là vì trước khi đặng kết quả, không biết bao nhiêu lần đã hỏng, mặt dầu người chủ đàn làm đủ các phép nói trên.

Khi lập đàn, có nhiều người dự đàn đứng chung quanh cầu nguyện, còn giữa đàn thì treo một cái bao thơ trên xà nhà thiệt cao, không ai có thể mó tay tới được, trong bao thơ đó có để sẳn một tờ giấy trắng, trên có dán hai đạo phù màu đỏ và mỗi người dự đàn ký tên vào đó, để chứng chắc tờ giấy ấy không ai lén thay đổi được.

Ai muốn hỏi điều chi thì phải thành tâm, tập trung tư tưởng vào câu mình muốn hỏi chớ không nói ra lời. Mỗi người chỉ đặng hỏi một câu, không nên tưởng nhiều việc để tránh khỏi sự lộn xộn.

Chừng mười hay mười lăm phút sau, ông Âu Minh Chánh mới bắc ghế lên lấy cái bao thơ xuống. Khi ông mở bao thơ ra thì thấy trên giấy đầy chữ viết, trước ghi câu hỏi, rồi sau đó có bài thơ của Thần Tiên trả lời cho mỗi câu hỏi ấy. Nét chữ rất sắc bén, tinh xảo, viết bằng một chất xám, tựa như than hay thứ viết chì đậm.

Ai ai cũng lấy làm ngạc nhiên cho đó là một việc lạ thường mầu nhiệm, xưa nay chưa từng có, nên lên những bằng chứng cụ thể rằng có Thần Tiên trong cõi vô hình và Thần Tiên biểu hiện phép mầu, để đáp ứng thiện nguyện của nhơn sanh, không còn ngờ vực gì nữa. Mỗi người tiếp nhận lời Thần Tiên dạy bảo đều phấn khởi vui mừng, lòng thêm tín ngưỡng bội phần.

Đàn thứ nhứt...Đàn thứ nhì...đều kết quả mỹ mãn. Đến đàn thứ ba thì xảy ra tai nạn sau đây:

Khi ông Âu Minh Chánh bắt ghế lên vói lấy bao thơ treo trên cao, vừa mó tay tớithì bị điện giựt kinh hồn. Ông xuống nghỉ một lát để đọc thêm kinh cầu nguyện, rồi ông cũng cố gắng đứng lên lấy bao thơ, mở ra thì thấy có một câu đầu, và một chữ ở đầu câu thứ hai, kế đó là một đường gạch kéo dài xuống để chấm dứt.

Có người phỏng đoán rằng: Đó là Thần Tiên viết chưa xong, điển đang còn mà ông Âu Minh Chánh vội lấy gấp bao thơ, nên bị điển giựt mạnh và Thần Tiên chưa cho trọn bài.

Sau kỳ đàn đó, ông Âu Minh Chánh lập đàn cầu với Cơ Bút phổ thông, thì được Ơn Trên khuyên: Không nên thường dùng Huyền Cơ, vì theo phương thức nầy điển Thần linh giáng rất mạnh, nếu sau nầy ai phạm phải như thế thì có thể mất mạng. Cho nên từ đó về sau, Thần Tiên dạy phải dùng Đồng tử và Ngọc cơ mà tiếp điển theo lối phổ thông.

Một lối Huyền Cơ khác được gọi là Huyền Bút: Theo phương pháp nầy, người ta dùng một sợi chỉ buộc vào cây bút, treo lên đầu một cần trúc, mà gốc cần trúc được buộc vào một nơi cố định, điều chỉnh cần trúc thế nào cho đầu cây bút vừa chấm vào mặt cát, chứa trong một cái khay lớn. Phải sắp bày lễ phẩm đầy đủ như khi cầu Huyền Cơ, phải chọn nơi tinh khiết, thanh vắng và thành tâm cầu nguyện.

Khi có Tiên giáng vào bút, cây bút chuyển động viết chữ lên mặt cát, độc giả quì kế bên khay cát đọc chữ ấy cho người điển ký ghi chép, rồi khỏa bằng mặt cát trở lại để Tiên viết cho chữ khác. Chính điển của Thần Tiên trực tiếp viết ra chớ không qua trung gian của đồng tử, nên cầu theo lối Huyền Bút cũng rất huyền diệu như Huyền Cơ.

dangvo

Thanked by 2 Members:

#2 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 12/06/2013 - 06:47

HUYỀN DIỆU CƠ BÚT

Đức Hộ Pháp mở Đạo tại Kim Biên, truyền giáo Thượng tuần tháng Tư năm Đinh Mão 1927, ở đậu nhà Ông Cao Đức Trọng, sau là Tiếp Đạo Hiệp Thiên Đài, trong dãy Phố tám căn, gọi là Phố Lang Cô thuộc về đường hẻm, phía trước là đường Ohier.

Nhà ông Cao Đức Trọng ở căn bìa, ở phía ngoài đường cái đi vào, còn nhà của ôngTrần Quang Vinh tức là Hiển Trung, thì ở cách đó hai căn, qua căn thứ năm là nhà ông Đặng Trung Chữ tức là Ngạn Sơn, kế toán viên hãng buôn, sau nầy ông thăng phẩm Phối Sư, đắc lịnh thuyên chuyển về Tòa Thánh hành Đạo, trách nhậm Thượng Chánh Phối Sư.

Trong lúc đó, anh em thân thuộc ở gần toàn là công tư chức, hằng đêm tụ họp trước sân nhà ông Cao Đức Trọng chuyện trò, và nhơn dịp ấy tiếp xúc với Đức Hộ Pháp là người bạn mới ở Sài Gòn đổi lên. Trong những câu chuyện thường, Đức Hộ Pháp hằng đàm luận về thi phú văn chương, nhất là nhắc nhở các bài thi học hỏi nơi Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng.

Tường thuật bao nhiêu huyền diệu, trong việc xây bàn và cầu cơ lúc ở Sài Gòn, lặp đi lặp lại những thi văn, hướng dẫn về con đường đạo đức, những bài tiên tri nói về Đạo Cao Đài và tương lai nước Việt. Câu chuyện rất hấp dẫn, thâu phục được các bạn trí thức, mới kéo tới việc xây bàn thử để xem các Đấng dạy thế nào.

Lúc mới khởi việc xây bàn, thì chỉ có Đức Hộ Pháp và Ông Cao Đức trọng để tay lên bàn tròn ba chơn, nhưng bàn nhịp hơi yếu, thêm một người ngoài để tay vào thì bàn nhịp mạnh, cách đếm và ráp chữ, giống y như hồi Đức Hộ Pháp hiệp với các bạn ở Sài Gòn xây bàn vậy. Việc xây bàn phần đông đều hiểu biết, khỏi cần nhắc lại dài dòng.

Trong những bạn bè đến chơi, có người xin hỏi về gia đạo, về tương lai, về việc người...thì tức khắc được thưởng một bài thi, hoặc tứ cú hoặc bát cú, để thỏa mãn lòng hiếu kỳ. Những vị được bài thi đọc đi đọc lại tự biết mình, khen cơ nói trúng phóc nên khen lấy khen để, gọi là linh thiêng, tỏ vẽ kính trọng hơn trước.

Rồi tiếng đồn lan rộng, nhiều người khác đến mỗi đêm. Càng ngày khách càng đông, xây bàn thì chậm chạp, mỗi đêm chỉ được năm ba bài thi, nên Đức Hộ Pháp nảy ra ý kiến tuyệt diệu:

- Một là tạo ra Tiểu Ngọc Cơ, hình thức như Ngọc Cơ tại Toà thánh, cũng có cần cơ, mỏ cơ và một cái giỏ đương bằng mây, phất giấy vàng, ngang miệng giỏ có một cây ngang, dẹp, giữa cây có xoi một lổ cho vừa đút xuống cái cốt bàn cơ. Bàn cơ thì hình vuông như bàn cờ tướng, trên mặt có vẽ chữ A Ă Â... tới chữ Z, theo hình rẽ quạt. Khi đặt Ngọc Cơ vào cốt, hai vị phò loan nắm miệng giỏ mỗi người một bên. Khi điển quang vào tay thì Ngọc Cơ chuyển động, quay qua quay lại trên trụ cốt, xoay vòng theo chữ vẽ hình rẽ quạt, khi đến chữ nào mỏ cơ ngừng thì có người hầu kế bên đọc, một người khác viết lại từ chữ. Cách thức nầy tuy chậm hơn Ngọc Cơ ở Toà Thánh, nhưng mau hơn xậy bàn gấp mười lần.

- Hai là buộc ai muốn cầu điều gì thì phải dâng sớ, phải viết một tờ sớ kể lể việc mình, cầu khẩn đội trên đầu mỗi khi hầu đàn, cơ giáng thì tuần tự kêu tên từng người. Huyền diệu thay, mỗi lần có một hai chục người dâng sớ, hai vị phò loan là Đức Hộ Pháp và ông Cao Đức Trọng, làm sao biết tên họ mà trong mỗi bài thi tặng cho mỗi người, đều mang tên người ấy đầu bài thi. Trong lá sớ của mỗi người dâng lên, là họ hỏi việc riêng của họ, mà trong bài cơ tiếp được trả lời đúng theo sở cầu của họ, họ hết sức bái phục.

Một đêm nọ, có bà goá phụ tên Trần Kim Phụng, là một người đàn bà sang trọng, có tên tuổi, lại là một bậc thi sĩ ở Nam Vang mà ai ai cũng đều kính nể, đến hầu đàn mà có tư ý là muốn thử cho biết thiệt hư, bà cũng vào trước đàn cơ, quỳ lạy như mọi người, dâng sớ xin thi. Trong đàn thì đông đảo, mỗi người đội một lá sớ, lòng thành cầu khẩn.

Lúc mới vào đàn còn đương lộn xộn, kẻ đứng người quỳ, bỗng nhiên có ông bạn quen tên Trần Đình Thới, kế toán viên hãng buôn, có ý đến thử sự linh thiêng của đàn cơ. Ông lòn ra phía sau, chỗ bà Trần Kim Phụng đã quỳ và đội lá sớ trên đầu. Ông lén tráo lá sớ của ông để thế vào lá sớ của bà, mà bà không hay, cũng không ai để ý, rồi ông quỳ xuống, có đội lá sớ của bà Trần Kim Phụng.

Khi cơ giáng ban một bài thi bát cú cho bà Trần Kim Phụng, mà lá sớ do ông Huỳnh Đình Thới đội dâng, chữ đầu của bài thi là “PHỤNG” – “PHỤNG đến bờ đương trổi tiếng kêu” (tác giả chỉ nhớ câu đầu của bài thi) mà trọn ý tứ của bài thơ thì toàn là việc của bà Trần Kim Phụng.

Rồi đến lượt ông Huỳnh Đình Thới, mà lá sớ lại do bà Trần Kim Phụng đội dâng, cơ giáng cho một bài thi bát cú có tên THỚI đứng đầu, mà ý tứ và việc đều đúng theo sở cầu của ông Thới đã viết trong lá sớ.

Khi bãi đàn, đem thi ra đọc lại, ông Thới mới thú thật là ông tráo lá sớ của ông cho bà Trần Kim Phụng, đặng thử xem cơ thiệt hay giả. Chừng ấy, ông mới bái phục sự linh hiển thiêng liêng.

Hồi Ký Của Ngài Trần Quang Vinh

Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |