MẬT PHÁP LẬP MỆNH
Viên Liễu Phàm tiên sinh đã đem kinh nghiệm bản thân, cùng nhiều nghiệm chứng trong việc cải đổi vận mệnh để dạy cho con trai. Ông muốn con trai mình là Viên Thiên Khải không nên bó tay trước vận mệnh, mà phải gắng hết sức cải đổi vận mệnh, bằng cách hành thiện, đoạn ác, như người xưa nói: Đừng khinh điều ác nhỏ mà làm, Đừng chê điều thiện nhỏ mà không làm. Nếu làm được như vậy, nhất định sẽ cải đổi vận mệnh, như người xưa từng nói: Đoạn ác tu thiện, dứt trừ tai ương, phước thọ miên trường. Đây chính là nguyên lý sữa đổi vận mệnh.
Cha thuở nhỏ mất cha sớm. Bà nội bảo cha bỏ học, không nên đi thi đeo đuổi công danh, mà đổi học ngành y làm thầy trị bệnh. Bà nội bảo: “Học nghề thuốc vừa có thể kiếm tiền nuôi thân, vừa có thể cứu giúp người khác. Nếu y thuật đến mức cao minh, cũng có thể trở thành y sư danh tiếng. Đây chính là tâm nguyện của cha con khi còn sinh tiền”.
Về sau cha ở chùa Từ Vân tình cờ gặp được một ông lão tướng mạo phi phàm, râu dài phất phới, có vẻ tiên phong đạo cốt. Cha do đó cung kính vái chào. Ông lão bảo: “Ngươi là người trong chốn quan trường năm sau có thể đi thi, bước vào hàng trí thức cao, thế tại sao không chịu đi học?” Cha trả lời vì ý của bà nội muốn cha bỏ học để đeo đuổi ngành y. Kế đó cha lại hỏi tính danh, nơi cư trú, ông đáp: “Ta họ Khổng, người Vân Nam, được sự chân truyền của Thiệu Khang Tiết tiên sinh, người tinh thông về Mai Hoa Dịch Số. Tính theo số định, ta phải truyền môn dịch số này lại cho ngươi”.
Do đó, cha đưa vị tiên sinh này về nhà, thưa lại mọi việc với bà nội. Bà nội bảo cha phải tiếp đãi cụ chu đáo. Lại còn dạy rằng: “Vi tiên sinh này tinh thông dịch số vận mệnh. Vậy con thử nhờ cụ tính cho một quẻ xem sao. Thử coi có linh nghiệm hay không”.
Kết quả thật không ngờ, Khổng tiên sinh đoán số mệnh cha, dù là việc nhỏ cũng vô cùng chính xác. Cha nghe theo lời ông, có ý định đi học lại, nên bàn với người anh họ tên là Thẩm Xưng. Anh họ bảo: “Tôi có một người bạn thân tên là Úc Hải Cốc mở lớp dạy học ở nhà. Tôi đưa cậu đến đó ở trọ theo học, rất tiện”.
Từ đó cha bắt đầu theo tiên sinh Úc Hải Cốc học tập. Một lần Khổng tiên sinh tính số cho cha bảo: “Lúc ngươi chưa có công danh, còn là học sinh, thi Huyện đứng hạng mười bốn, thi Phủ đứng hạng bảy mươi mốt, thi Đề Học đứng hạng chín”. Đến năm sau, cha đi thi ba nơi, thứ hạng quả nhiên đúng như lời Khổng tiên sinh nói.
Khổng tiên sinh lại tính cho cha một quẻ kiết hung họa phúc suốt đời. Ông bảo: “Ngươi vào năm nào đó sẽ thi đậu hạng mấy, vào năm nào đó sẽ bổ chức Lẫm sinh, vào năm nào đó lên chức Cống sinh, và năm nào đó được chọn làm Huyện truởng một huyện thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Làm chức Huyện truởng được ba năm rưỡi, bèn từ quan về quê. Vào giờ sửu ngày mười bốn tháng năm năm mươi ba tuổi, ngươi sẽ từ trần tại nhà. Tiếc rằng số của ngươi không có con trai”. Những lời này cha đều ghi lại, và nhớ kỹ trong lòng. Từ đó về sau mỗi khi thi cử, thứ hạng đều đúng như lời Khổng tiên sinh đã đoán. Chỉ có điều ông đoán số thóc mà cha lãnh khi làm chức Lẫm sinh là chín mươi mốt thạch năm đấu, sau đó mới thăng chức. Không ngờ khi mới nhận được bảy mươi mốt thạch thóc, quan học đài là Đồ Tông Sư phê chuẩn cha được bổ chức Cống sinh. Cha nghĩ thầm trong bụng: Khổng tiên sinh đoán số cũng có chỗ không linh nghiệm. Không ngờ sau đó giấy phê chuẩn thăng chức của cha bị quan học đài thay thế là Dương Tông Sư bác bỏ, không cho làm chức Cống sinh. Mãi đến năm Đinh Mão, Ân Thu Minh Tông Sư xem thấy bài dự thi tuyển của cha, thấy không được chấm đậu, nên lấy làm tiếc. Do đó ông dặn quan huyện đưa hồ sơ của cha lên chỗ ông, phê chuẩn cha bổ chức Cống sinh.
Trải qua sự trắc trở này, cha huởng thêm một số thóc của chức Lẫm sinh, cộng với bảy mươi mốt thạch thóc đã ăn khi trước, vừa đúng chín mươi mốt thạch năm đấu. Sau khi xảy ra sự việc này, cha càng tin tuởng: Công danh tiến thoái thăng trầm của một đời người đều do số mạng định sẵn. Sự thành đạt đến sớm hay muộn, đều có thời gian nhất định. Do đó cha xem mọi thứ bình thường, không còn có lòng tranh cầu gì nữa.
Khi được tuyển làm chức Cống sinh, theo quy định phải đến trường Quốc Tử Giám ở Bắc Kinh để học, tranh thủ thời gian trước khi nhập học, cha đến núi Thê Hà Sơn bái kiến thiền sư Vân Cốc. Ngài là một vị cao tăng đắc đạo.
Cha ngồi đối diện với thiền sư trong thiền đường suốt ba ngày ba đêm, không hề chợp mắt. Vân Cốc thiền sư hỏi: “Người ta sở dĩ không thể trở nên thánh nhân chỉ vì vọng niệm trong tâm khởi lên không ngừng. Ngươi tĩnh tọa ba ngày, ta chưa từng thấy ngươi khởi lên một niệm vọng tuởng, đó là vì sao?”
Cha đáp: “Số mệnh của tôi đã được Khổng tiên sinh xem rõ rồi. Lúc nào sinh, lúc nào chết, lúc nào đắc ý, lúc nào thất ý đều có số định sẵn, không cách gì thay đổi được. Vậy cho dù có nghĩ tưởng mong ước cái gì đi nữa cũng vô ích. Cho nên tôi chẳng thèm nghĩ tưởng, do đó trong tâm cũng không có vọng niệm.” Vân Cốc thiền sư cười lớn, bảo: “Ta vốn cho rằng ông là bậc trượng phu xuất chúng, nào ngờ chỉ là kẻ phàm tu tầm thường!”
Cha nghe xong không hiểu, bèn thỉnh giáo tại sao lại như thế. Vân Cốc thiền sử bảo: “Một người bình thường không sao tránh khỏi tâm ý thức vọng tuởng xáo trộn. Đã có tâm vọng tuởng không dừng, thì phải bị âm dương khí số trói buộc. Đã bị âm dương khí số trói buộc, sao có thể bảo là không có số mệnh được? Tuy nói rằng có số mệnh, song chỉ người bình thường mới bị số mệnh trói buộc.
Nếu là một người cực thiện, thì số mệnh không sao ảnh huởng được đến anh ta. Bởi vì người cực thiện, cho dù số mệnh vốn có chủ định phải chịu khổ sở, nhưng nhờ làm được điều thiện cực lớn, sức mạnh của việc thiện lớn này, có thể chuyển khổ thành vui, nghèo hèn đoản mệnh thành phú quý trường thọ.
Còn người cực ác, số cũng không ảnh huởng được họ. Vì cho dù số mệnh họ chủ định được huởng phước, song vì họ gây tạo việc ác lớn, chính sức mạnh của việc ác này khiến phước trở thành họa, giàu sang trường thọ trở nên nghèo hèn đoản mạng.
Số mệnh của ông trong hai mươi năm nay được Khổng tiên sinh đoán trước, không từng biết cải đổi một chút, trái lại còn bị số mệnh buộc chặt. Một người bị số mệnh buộc chặt chính là phàm phu tục tử. Vậy ông không phải là kẻ phàm phu tục tử thì là gi?”
Cha hỏi Vân Cốc thiền sừ rằng: “Theo như thiền sư nói, thì số mệnh có thể cải đổi được chăng?”
Thiền sư trả lời: “Mệnh do tự mình tạo, phước do chính mình tìm. Ta làm ác tự nhiên bị tổn phước; Ta tu thiện tự nhiên được phước báo. Sách vở mà cổ nhân để lại xưa nay, đã chứng minh tính chính xác của đạo lý này. Trong kinh Phật nói: Muốn cầu phú quý được phú quý, muốn cầu con trai con gái được con trai con gái, muốn cầu trường thọ được trường thọ. Nói vọng ngữ là đại giới của nhà Phật, chẳng lẽ Phật lại lừa dối chúng ta sao?”
Cha nghe xong trong lòng vẫn chưa hoàn toàn minh bạch, mới hỏi thêm rằng: “Mạnh tử từng nói: Bảo rằng cầu mà có thể được, là chỉ những gì ở trong lòng ta. Nếu không phải là những gì ở trong lòng, thì làm sao có thể nhất định cầu được? Ví như nói đạo đức nhân nghĩa, toàn là những thứ ở trong lòng chúng ta, ta lập chí làm một người nhân nghĩa đạo đức, thì tự nhiên trở thành người nhân nghĩa đạo đức. Đây là cái mà ta có thể tận lực để cầu. Còn như công danh phú quý, là cái không ở trong ta, vốn ngoài thân chúng ta, nếu người khác chịu cho, ta mới có thể được. Còn như người ta không chịu cho, ta không cách nào có được, vậy ta làm sao có thể cầu?”
Vân Cốc thiền sư bảo: “Lời nói của Mạnh tử không sai, song ông giải thích lại sai! Ông không thấy Lục Tổ Huệ Năng nói sao: Tất cả các loại phước điền đều quyết định trong tâm chúng ta. Phước không lìa tâm, ngoài tâm không có phước để cầu. Cho nên trồng phước hay gieo họa, đều do nơi tâm chúng ta. Chỉ cần từ tâm mình đi cầu phước, không có gì mà không cảm ứng ra.
Nếu biết từ tâm mình mà cầu, thì không những cầu được nhân nghĩa đạo đức trong lòng, mà công danh phú quý bên ngoài cũng cầu được. Đó gọi là trong ngoài đều được. Nói cách khác, dùng cách gieo trồng ruộng phước để cầu, thì nhân nghĩa, phước lộc chắc chắn sẽ được.
Phải biết rằng, cho dù chúng ta mong cầu mà được, thì đó cũng là phước báo sẵn có của chính chúng ta, mà không phải chỉ do mong cầu mà có hiệu nghiệm! Cho nên cái gì đáng cầu mới cầu, mà không nên cầu một cách không có đạo lý!
Nếu như phước báo không có mà khăng khăng muốn cầu, thì không những công danh phú quý cầu không được, mà còn do vì tâm tham cầu quá đáng, không có mức độ, bất chấp thủ đoạn, nên đánh mất cả nhân nghĩa đạo đức trong tâm. Như vậy chẳng phải trong ngoài đều mất cả sao? Vì vậy cầu mà không có đạo lý là vô ích.”
Vân Cốc thiền sư tiếp đó hỏi: “Khổng tiên sinh đoán số mệnh cả đời của ông như thế nào?” Cha thuật lại tường tận những gì Khổng tiên sinh đã tính, vào năm nào thi đậu hạng mấy, năm nào làm quan, bao nhiêu tuổi mất v.v...
Vân Cốc thiền sư bảo: “Ông như vậy không những không có được công danh, mà nhiều thứ khác cũng không có được. Ông nên biết có phước hay không phước, đều do tâm ta tạo. Người có trí tuệ biết rằng đó là tự mình làm, tự mình nhận lấy kết quả. Người không hiểu biết, lại đổ thừa cho vận mệnh.
Ví dụ như trên thế gian có người giàu sang, sản nghiệp ngàn lượng vàng, đó là họ có phước báo ngàn lạng vàng. Người có sản nghiệp trăm lạng vàng, đó là họ có phước báo trăm lạng vàng. Còn người nghèo cùng chết đói, là họ có quả báo chết đói. Ví dụ như người lành tích đức, Trời sẽ cho họ huởng phần phước báo tương ứng; kẻ ác tạo tội, Trời sẽ bắt họ chịu tai họa tương ứng. Nói Trời, là chỉ Thiên lý, tức luật nhân quả vận hành một cách tự nhiên và tất nhiên, mà không phải có ai ban phước hay giáng họa.
Hãy coi tất cả những việc trước kia như hôm qua đã chết đi; còn những việc về sau như hôm nay mới sinh ra. Biết sống trong hiện tại. Làm được việc này là ông đã có một sinh mệnh mới. Đó là sinh mệnh nhân nghĩa đạo đức. Sinh mệnh nhân nghĩa đạo đức này không bị số mệnh trói buộc, có thể cảm đến Thiên lý.
Khổng tiên sinh tính số cho ông bảo không có công danh, lại thêm không con thừa tự. Tuy là bảo số trời định sẵn, song vẫn có thể cải đổi. Ông chỉ cần mở rộng lòng đạo đức nhân nghĩa sẵn có, gắng sức làm lành, tích chứa âm đức. Đó là ông tự mình tạo ra phước báo cho mình, người khác muốn cướp giật cũng không được, làm sao mà không huởng được phước?”
Cha tin lời Vân Cốc thiền sư, đảnh lễ tạ ơn và theo lời chỉ giáo. Cha đồng thời đem những việc sai lầm tội lỗi lúc trước, không luận là lớn nhỏ nặng nhẹ, ra trước Đức Phật phát lộ sám hối. Cha cũng làm một bài văn, trước hết tỏ lòng nguyện cầu có được công danh, kế đó phát thệ nguyện làm ba ngàn việc thiện, để đền đáp đại ân, đại đức của trời đất tổ tiên cha mẹ đã sinh thành ra cha. Vân Cốc thiền sư nghe cha lập thệ làm ba ngàn việc thiện, liền đưa cho xem quyển sổ ghi lại việc tội hay phước của Ngài. Ngài dạy phải làm theo những lời dặn trong đó. Phàm những việc làm của mình, không luận là thiện hay ác, mỗi ngày đều phải ghi vào quyển sổ đó. Việc thiện thì ghi vào phần phước, còn việc ác ghi vào phần tội. Song việc ác phải xem là lớn hay nhỏ, có thể dùng phần việc thiện đã ghi để giảm trừ. Ngài còn dạy phải trì chú Chuẩn Đề, nhờ sức gia trì của chư Phật để giúp nguyện ước sớm thành tựu.
Do đó vận mệnh là tự mình tạo lấy. Nếu phân tách một cách tỉ mỉ để giảng, thì dù giàu hay nghèo cũng không khác, đều phải làm theo đạo lý lập mệnh này. Khi giàu không thể cậy tiền cậy thế hống hách, hiếp đáp người khác; mà phải khiêm cung, chia sẻ giúp đở mọi người. Như vậy vận mệnh phú quý càng thêm phú quý và có thể bảo tồn lâu dài. Khi nghèo vẫn giữ khí tiết, không làm việc trái với lương tâm. Dù nghèo vẫn an phận thủ thường, làm một người lương thiện. Như vậy mới có thể chuyển đổi vận mệnh bần cùng thành vận mệnh phú quý. Cho nên, dù giàu hay nghèo đều phải bỏ ác làm lành, gieo trồng ruộng phước.
Đoản mệnh hay trường thọ cũng vậy. Không nên cho rằng mình vắn số, sống chẳng bao lâu mà tranh thủ huởng thụ, mặc tình làm ác, vào đường đọa lạc. Nên biết, vì nghiệp báo mình phải đoản mệnh, nên gắng sức làm lành, hy vọng đời sau sẽ được trường thọ. Như vậy có thể đời này được sống lâu thêm. Còn người trường thọ cũng không nên ỷ lại mà mặc sức tạo ác, gian dối phạm pháp, đắm mê tửu sắc. Nên biết trường thọ có được không dễ, nên biết phải trân trọng, làm thêm điều lành để giữ gìn phước báo trường thọ này. Hiểu được đạo lý này, mới có thể cải đổi đoản mệnh thành trường thọ.
Vân Cốc thiền sư lại bảo: “Mạnh Tử có câu “Tu thân để dành đó”, là bảo: Tự mình phải luôn luôn tu dưỡng đức hạnh, không nên làm ác gây tội dù là mảy may. Còn như vận mệnh có cải đổi được hay không, đó là tùy thuộc việc tích đức nhiều ít. Nói đến chữ “tu thân”, là bảo sửa đổi những sai lầm, tội ác của chúng ta, như uống thuốc trị bệnh. Còn bảo “để dành”, là chỉ phải đợi đến công phu tu thân sâu dày, phước báo vun đắp đầy đủ, tội nghiệp tương ứng tiêu trừ, thì vận mệnh sẽ tự nhiên chuyển đổi, trở nên tốt đẹp.
Không nên có tư tuởng mong muốn những gì vượt quá phận mình, để cho vọng tâm, dục tuởng làm mờ ám tâm trí, mà phải giữ tâm bình thường, buông xuống mọi vọng niệm sinh diệt. Đến trình độ này, đã đạt đến cảnh giới tâm như như bất động. Công phu này là cái học chân chánh mà thế gian nên thọ dụng”.
Vân Cốc thiền sư nói tiếp: “Hành vi của một người bình thường tùy thuộc vào ý niệm. Phàm việc gì còn khởi tâm phân biệt để làm thì không phải là tự nhiên, còn có dấu vết. Ông hiện nay chưa thể đạt đến trình độ không động tâm. Khi ông trì chú Chuẩn Đề không cần dụng tâm ghi nhớ, hay đếm bao nhiêu biến, cứ niệm liên tục, không cho gián đoạn. Niệm đến lúc cực kỳ thuần thục, tự nhiên miệng niệm mà tâm không cảm thấy niệm. Đó gọi là niệm mà không niệm. Khi không niệm, trong tâm vẫn tự nhiên niệm. Đó gọi là không niệm mà niệm. Niệm chú đạt đến trình độ đó, thì cả ba: người, chú và niệm đều hợp thành một khối, không còn tạp niệm xen vào, như vậy không chú nào mà không linh nghiệm. Song công phu này, phải kinh qua thực hành, mới lãnh hội được.”
Cha ban đầu tên hiệu là Học Hải nghĩa là sự học rộng như biển, song từ ngày đó trở đi đổi hiệu là Liễu Phàm. Bởi vì sau khi hiểu rõ đạo lý lập mệnh, cha không muốn sống như kẻ phàm phu, mà phát nguyện quét sạch kiến giải phàm phu, nên gọi là Liễu Phàm. Từ đó về sau, cả ngày cha đều chánh niệm tỉnh giác, cẩn thận từ lời nói, việc làm cho đến ý nghĩ. Cha cảm thấy mình như thay đổi hẳn, trở thành con người khác.
Lúc trước cha sống tùy tiện, hồ đồ, không có kiềm thúc; đến nay trở nên cẩn thận, cung kính, cảnh giác những điều bất thiện. Cho dù trong nhà, buổi tối không có ai đi nữa, cha cũng không dám tùy tiện, vì biết có trời đất quỷ thần soi xét. Gặp người ganh ghét, hủy báng, cha vẫn an nhiên, không chấp nhất, tranh luận với họ.
Năm thứ hai sau khi tham kiến Vân Cốc thiền sư, cha đến bộ Lễ thi cử. Khổng tiên sinh đoán số cha sẽ đậu hạng ba, không ngờ lại đậu được hạng nhất. Lời của Khổng tiên sinh bắt đầu hết linh nghiệm. Khổng tiên sinh không nói cha sẽ đậu cử nhân, song trong kỳ thi Hương mùa thu, cha lại thi đậu cử nhân. Đây là do làm phước tích đức khiến số mệnh thay đổi. Vân Cốc thiền sư bảo: “Vận mệnh có thể thay đổi”. Lời nói này đến nay đã được chứng nghiệm, khiến cha càng thêm tin tuởng.
Cha tuy sửa đổi lỗi lầm khá nhiều, song khi gặp việc nên làm, vẫn không thể chuyên tâm nhất ý làm. Cho dù làm, vẫn còn miễn cưỡng, không được tự nhiên. Cha phản tỉnh kiểm điểm, thấy lỗi lầm vẫn còn rất nhiều. Ví dụ như thấy việc thiện, tuy chịu làm, song không mạnh dạn nổ lực làm. Việc thiện tuy có thể miễn cưỡng làm được, song lại hay nói những lời lầm lỗi. Khi tỉnh táo còn có thể tự chủ, song khi say rượu lại phóng túng, làm càn. Cho nên cha tuy làm lành có tích chứa chút công đức, song lỗi lầm vẫn còn rất nhiễu. Nếu lấy công đức để trừ đi lỗi lầm e còn chưa đủ. Thời giờ chỉ luống uổng trôi qua.
Từ năm Kỷ Tỵ nghe lời khai thị của Vân Cốc thiền sư, cha phát nguyện làm ba ngàn việc thiện, đến năm Kỷ Mão, đã hơn mười mấy năm mới hoàn thành ba ngàn việc thiện này. Cha trở về phương Nam, mới thỉnh hai vị đại lão Hòa thượng đức độ là ngài Tánh Không và Tuệ Không, mượn thiền đường Đông Tháp để hoàn thành tâm nguyện hồi hướng này. Lúc đó, cha lại khởi lên tâm nguyện cầu sinh con trai, và phát đại nguyện làm ba ngàn việc lành lớn. Đến năm Canh Tỵ sinh ra con, đặt tên là Thiên Khải.
Cha mỗi khi làm được một điều thiện đều ghi lại. Mẹ con không biết viết chữ, mỗi khi làm được một việc lành, như cho người nghèo cơm ăn, hay phóng sinh v.v... đều lấy bút lông ngỗng, in một khuyên tròn màu đỏ lên lịch. Có lúc một ngày in cả mười mấy dấu đỏ lên lịch, đại biểu cho ngày đó làm được mười mấy việc thiện. Như thế mãi đến tháng tám năm Quý Mùi, mới hoàn thành ba ngàn điều thiện đúng như nguyện. Cha lại thỉnh các vị như Hòa thượng Tánh Không v.v... về nhà làm lễ hồi hướng. Đến tháng chín năm đó, cha lại khởi lên lời nguyện thi đậu Tiến sĩ, và phát nguyện làm một vạn điều thiện để hồi hướng. Đến năm Bính Tuất, lại thi đậu Tiến sĩ. Bộ Lại bổ cho cha làm chức Huyện truởng huyện Bảo Để đương khuyết.
Lúc cha làm huyện truởng huyện Bảo Để, có chuẩn bị một quyển sổ kẻ ô để trống. Quyển sổ này cha gọi nó là Sổ Tay Trị Tâm. Nói trị tâm là e tâm mình khởi lên tà niệm hay ác niệm, dùng phương tiện này để đối trị. Mỗi ngày thức dậy vào lúc sáng sớm, lúc thăng đường xét xử, cha đều cho người để quyển sổ Trị Tâm này trên bàn làm việc. Mỗi ngày, việc lành hay việc ác dù là rất nhỏ cũng ghi vào đó. Mẹ con thấy cha làm việc thiện không nhiều, thường chau mày bảo: “Tôi lúc trước ở nhà giúp ông làm việc thiện, cho nên lời nguyện ba ngàn việc thiện có thể hoàn thành. Nay ông phát nguyện làm mười ngàn việc thiện, trong nha môn thực khó mà thực hiện được, biết đến bao giờ mới làm xong đây?”
Sau đó, vào một đêm cha bỗng nằm mơ thấy một vị thiên thần xuất hiện. Cha bèn đem việc khó mà hoàn tất mười ngàn việc thiện này thưa lại với thiên thần.
Thiên thần bảo: “Chỉ một việc ông làm Huyện truởng giảm thuế ruộng đất cho dân là đủ để bù vào mười ngàn việc thiện”.
Thì ra lúc trước, ruộng của huyện Bảo Để mỗi mẫu đáng lẽ phải thu thuế là: Hai đồng, ba hào, bảy xu. Cha cảm thấy nhân dân chịu thuế quá nặng, nên thanh lý hết tất cả số ruộng trong huyện, mỗi mẫu chỉ đóng thuế: Một đồng, bốn hào, sáu xu. Cha cảm thấy thật là lạ, tại sao việc này thiên thần lại biết được. Vả lại cũng nghi ngờ, sao việc này có thể đủ bù vào mười ngàn việc thiện?
Đúng lúc đó có thiền sư Huyễn Dư từ núi Ngũ Đài Sơn đến huyện Bảo Để. Cha thưa lại chuyện trong mộng với thiền sư, và hỏi có tin được chuyện này không? Huyễn Dư thiền sư đáp: “Làm việc thiện phải có tâm chân thành khẩn thiết, không thể giả dối qua loa, không thể có tâm cầu báo đáp. Như vậy cho dù một việc thiện cũng có thể bằng mười ngàn việc thiện. Huống chi ông giảm thuế cho toàn huyện, nông dân toàn huyện đều hưởng được ân huệ này. Cả ngàn vạn người nhờ đó mà giảm đi nỗi khổ vì thuế má nặng nề, đó thực là phước báo to lớn”.
Cha nghe xong lời dạy của thiền sư, liền đem tiền bạc bổng lộc của mình ra, nhờ thiền sư cúng trai tăng mười ngàn vị trên núi Ngũ Đài Sơn và hồi hướng công đức.
Khổng tiên sinh tính số mạng cho cha bảo năm năm mươi ba tuổi là hết số. Cha tuy không có cầu trời cho sống thọ, song năm năm mươi ba tuổi lại không có chút đau bịnh gì. Năm nay cha đã sáu mươi chín tuổi rồi. Kinh Thư nói: Thiên đạo là điều người ta khó mà tin được, mệnh của con người không có nhất định. Lại nói: Mệnh con người không có nhất định, đều do tự mình tạo. Những lời này không sai chút nào. Cha do đó mới biết, phàm nói đến họa phúc, đều do tự mình tạo ra.
Vận mệnh của con, con không biết rồi sẽ như thế nào. Song cho dù là vinh hoa phú quý, con cũng phải giữ tâm như lúc thất chí nghèo hèn. Cho dù gặp may mắn tốt đẹp, con cũng phải giữ lòng như lúc trắc trở khó khăn. Cho dù trước mắt có dư ăn dư mặc, con cũng phải cần kiệm như lúc thiếu thốn nghèo hèn. Cho dù được người ta yêu thích, kính trọng, con cũng phải luôn khiêm tốn, cẩn trọng. Cho dù gia thế có danh vọng đến đâu, con cũng phải thấy mình thấp kém. Cho dù học vấn có cao thâm bao nhiêu, con cũng phải thấy mình còn thô thiển.
Sáu cách suy tuởng này, là từ phản diện để nhìn vấn đề. Nếu biết khiêm cung như vậy, đạo đức dần dần nâng cao, phước báo cũng tự nhiên tăng truởng.
Xa thì con nên truyền nối và mở rộng đức khí của tổ tiên; còn gần thì phải biết hiếu kính cha mẹ. Trên thì con nên báo đáp ân huệ của đất nước; còn dưới thì phải tạo dựng hạnh phúc cho gia đình. Ngoài thì con nên cứu tế cấp nạn cho người khác; trong thì con phải luôn đề phòng niệm tuởng tà ác.
Sáu cách trên là từ chánh diện để khẳng định vấn đề. Nếu con thường phản tỉnh, suy xét như vậy, nhất định sẽ trở thành bậc chánh nhân quân tử. Người ta mỗi ngày cần phải biết được lỗi lầm của mình, mới có thể sửa đổi mỗi ngày. Bằng không, cứ ngỡ là mình không có lỗi lầm, không chịu tu sửa, không làm sao tiến bộ được. Người xinh đẹp thông minh trên thế gian không ít, song phần lớn lại không biết dụng công tu dưỡng đạo đức, không biết dụng công xây dựng sự nghiệp, đều chỉ vì tâm dễ duôi, lần lữa qua ngày mới làm lỡ cả một đời của họ.
Phải biết nếu muốn sửa đổi lỗi lầm nhất định phải lập chí kiên quyết, lập tức cải đổi, quyết không nên chần chừ, do dự. Không nên ngày nay lại hẹn đến mai, mai lại hẹn đến mốt, cứ thế kéo dài, lần lữa đến chết. Lỗi lầm nhỏ hãy xem như gai đâm vào xương thịt, để lâu một ngày là nhức nhối một ngày, nên phải gấp rút nhổ ra. Lỗi lầm lớn hãy xem như rắn độc cắn phải, để chậm một phút môt giây là nguy hiểm đến tánh mạng một phút một giây. Giống như quẻ Phong Lôi Ích trong Dịch nói: Gió thổi sấm nổ, vạn vật sinh trưởng, lợi ích lớn lao như vậy. Đây là quẻ áp dụng cho người đổi ác làm lành, được ích lợi lớn như vạn vật nhờ mưa thuận gió hòa mà sinh truởng tốt tươi.
Những lời Vân Cốc thiền sư dạy về đạo lý lập mệnh, thật là tinh thâm nhất, chân chánh nhất. Cha mong con đọc và suy nghĩ kỹ, lại phải tận tâm tận lực thực hành, quyết không để ngày tháng quý báu luống qua vô ích !
Nguồn :hocthuatdongphuong.vn