Jump to content

Advertisements




Liễu Phàm Tứ Huấn


18 replies to this topic

#16 doremi

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 146 Bài viết:
  • 500 thanks

Gửi vào 16/05/2013 - 14:25

KHIÊM ĐỨC

I– Mãn (tự mãn) có hại, khiêm có lợi

Kinh Dịch nói thiên đạo và địa đạo không ưu doanh (doanh mãn) mà làm lợi cho khiêm (khiêm hư) là muốn biến cải con người để tự biết sửa mình, bởi thế nên phàm làm việc gì mà kiêu ngạo tự mãn (doanh) thì sẽ chuốc lấy tổn thất, còn nhún nhường (khiêm) coi mình như không thì lại được lợi ích, như trái núi quá cao thì dễ bị lở, chỗ trũng thường được nước chảy tới làm đầy; quỷ thần cũng thường gây hại cho người tự kiêu, và làm lợi ích cho người khiêm tốn nhũn nhặn. Khiêm hư là điều mà trời đất, quỷ thần và người đều trọng. Trong Kinh Dịch có quẻ khiêm là một quẻ đại cát vì lục nào cũng đều tốt cả. Kinh Thư nói tự mãn chuốc lấy tổn hại, tự khiêm được lợi ích. Theo Kinh Dịch và Kinh Thư thì khiêm là điều tốt nhất.
Ta nhiều lần cùng các sĩ tử đi thi, cứ mỗi lần thấy một hàn sĩ nào mà diện mạo, dung quang biểu lộ lòng tự khiêm của họ một cách rõ ràng như tỏa ra một ánh hào quang có thể nắm bắt được thì biết ngay người ấy sẽ đỗ đạt.
Năm Tân Mùi, mở khoa thi hội ở kinh thành, bọn chúng ta gồm có 10 người đồng hương thuộc huyện Gia Thiện cùng đi, duy chỉ có Đinh Kính Vũ, tên Tân, tuổi trẻ nhất bọn mà cực kì khiêm tốn. Ta nói với Phi Cẩm Pha, một người bạn đồng hành, là anh bạn họ Đinh này năm nay tất nhiên trúng cử. Họ Phi hỏi thấy sao mà biết được, thì ta bảo rằng chỉ có khiêm hư là được phúc. Huynh coi xem trong bọn 10 người chúng ta không ai thành tín chất phác, thực thà, nhường nhịn người, không làm mất lòng người như Kính Vũ cả; không ai cung kính, thuận hòa cẩn thận để ý khiêm nhường như Kính Vũ cả, không ai bị chế nhạo, cười chê, chỉ trích mà chẳng hề đối đáp, tranh cãi, lại cứ thản nhiên chịu đựng như Kính Vũ cả. Con người được như thế thì thiên địa quỷ thần đều trợ giúp cho, há chẳng phát đạt hay sao! Kịp đến khi yết bảng quả nhiên họ Đinh được trúng cử.
Năm Đinh Sửu, ta ở kinh cùng với Phùng Khai Chi, thấy con người của họ Phùng cực kì khiêm hư, nghiêm chỉnh, cung kính, là do thói quen tập từ thời thơ ấu biến thành. Phùng Khai Chi có người bạn tốt tên Lý Tệ Nham thực thà, trực tính, hễ gặp điều gì mà Khai Chi làm trái là nói thẳng ngay, chê trách ngay tận mặt mà Khai Chi vẫn bình tâm an hòa, thuận chịu không một lời phản đối, không để bụng giận. Ta có bảo cho biết là họa phúc đều có triệu chứng, người được hưởng phúc nhất định là do đã có sẵn căn nguyên của phúc rồi, có họa cũng do triệu chứng báo trước mà có; chỉ cần tâm thực khiêm hư thì trời đất ắt sẽ tương trợ. Huynh năm nay nhất định cập đệ. Sau thực quả nhiên đúng như vậy.

Triệu Dụ Phong, tên Quang Viễn, người huyện Quán, tỉnh Sơn Đông, lúc trẻ thi hương mãi không đậu. Thân phụ của Dụ Phong được bổ làm Tam Doãn ở huyện Gia Thiện nên y tháp tùng. Ở huyện có Tiền Kính Ngô là người có văn tài, học thức rộng. Dụ Phong ngưỡng mộ đem văn bài của mình tới nhờ chỉ giáo. Kính Ngô xem và gạch xóa, sửa bỏ nhiều chỗ. Dụ Phong không những không buồn lòng mà còn bội phục, để ý đổi cách hành văn ngay nên năm sau đi thi được trúng cử. Đó cũng là do biết khiêm tốn, nhũn nhặn, sửa mình mà đạt thành quả.
Năm Nhâm Thìn, nhân dịp vào kinh yết kiến hoàng đế, ta gặp Hạ Kiến Sở, thấy người này cực kì cung kính, nhún nhường, lòng khiêm hư biểu lộ rõ ràng khiến ai cũng phải nể; khi về ta nói cùng các bạn hữu là phàm người nào được trời giúp thì khi chưa được phát phúc, trước hết trí tuệ sẽ được khai mở; khi trí tuệ đã mở mang thì người phù phiếm trôi nổi, bất định sẽ tự nhiên biến thành thiết thực, sự phóng túng tự nhiên giảm thiểu. Kiến Sở là người ôn hòa, hiền lương như vậy nhất định sẽ được trời cho phát phúc. Đến khi yết bảng quả nhiên trúng tuyển.
Trương Úy Nham, người huyện Giang Âm, tỉnh Giang Tô, là người học rộng, đọc nhiều, văn hay nổi tiếng, năm Giáp Ngọ đi thi hương ở Nam Kinh ngụ tại một ngôi chùa nọ; khi yết bảng không có tên nên lớn tiếng nhục mạ khảo quan là mắt không tròng, không biết người. Lúc đó có một đạo sĩ ở bên cạnh nghe được bèn cười. Úy Nham liền trút cơn giận ngay sang vị đạo sĩ nọ thì đạo sĩ nói: Chắc văn bài của ông nhất định không được hay.
Lời nói này lại càng làm cho Úy Nham thêm giận mắng lớn: Ngươi có đọc văn của ta đâu mà biết là không hay? Đạo sĩ nói: Ta nghe nói hành văn quý nhất ở chỗ tâm bình, khí hòa, nay thấy ông hết lời mạ lỵ khảo quan, lòng bất bình cao ngạo thật quá đáng thì văn làm sao mà hay được? Úy Nham nghe lời bất giác phục thiện, nhân đấy xin thỉnh giáo đạo sĩ nọ.
Đạo sĩ nói: Trúng cử hay có công danh hoàn toàn do số mệnh định, số chưa được đỗ thì dù văn có hay cũng vô ích thôi, nên tự mình sửa đổi biến cải. Úy Nham nói: Đã do số mệnh như vậy thì làm sao sửa đổi? Đạo sĩ nói: Sáng tạo ra mệnh là do trời, lập mệnh là do ta, gắng sức hành thiện, tích âm đức cho thật sâu rộng thì phúc nào mà chẳng cầu được. Úy Nham lại hỏi: Tại hạ là học trò nghèo thì làm sao làm được?
Đạo sĩ bảo: Làm việc thiện, tích âm đức đều do tâm tạo ra, thường phải giữ vững tấm lòng hành thiện này thì công đức vô lượng, chẳng hạn như chỉ một việc khiêm tốn nhũn nhặn thì không phải phí tiền gì cả, sao ngươi không tự phản tỉnh, tự trách lấy mình, mà lại mạ lỵ khảo quan ư?
Do đó, Úy Nham tự hạ mình giữ gìn tu sửa, gia công hành thiện ngày một nhiều, gắng sức tu đức ngày một dày; đến năm Đinh Dậu mộng thấy đi tới một tòa nhà phòng ốc cao, được một quyển sổ ghi danh sách các thí sinh được trúng tuyển trong kỳ thi, thấy nhiều hàng bỏ trống mới hỏi người ở kế bên: Xin hỏi danh sách khóa thi này, sao lại có nhiều hàng tên bỏ trống vậy? Thì người đó đáp rằng: Ở cõi âm đối với danh sách thí sinh của khóa thi thì cứ mỗi ba năm lại cứu xét một lần, người nào tu hành, tích đức không tội lỗi gì thì có tên trong sổ, còn những hàng bỏ trống đều có liên quan tới việc trước đây thí sinh đáng lẽ đã được ghi tên vào sổ nhưng sau vì phúc bạc, phạm lỗi lầm nên bị loại bỏ ra; sau đó lại chỉ một hàng mà bảo: Nhà ngươi trong ba năm tới nên giữ thân tu tỉnh cẩn thận, họa may có thể được điền tên vào đấy, mong rằng nhà ngươi nên lưu tâm đừng phạm lỗi lầm. Khóa thi năm đó, Úy Nham trúng cử vào danh sách một trăm lẻ năm người.

Thanked by 2 Members:

#17 doremi

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 146 Bài viết:
  • 500 thanks

Gửi vào 16/05/2013 - 14:25

II– Lòng khiêm tốn, nhún nhường, nguồn gốc của phúc

Theo đấy mà xét , chỉ ngửng đầu cao ba thước ắt đã có thần minh soi xét, muốn tránh hung hiểm họa tai, hay muốn mong được sự việc tốt lành, hẳn nhiên đều do tự ở nơi ta biết giữ lấy thiện tâm, một mực làm lành tránh ác, không một chút nào đắc tội với thiên địa quỷ thần, lại biết khiêm tốn nhũn nhặn, không tự cao, tự đại, khiến thiên địa quỷ thần thường có lòng thương mới mong có được hưởng phúc. Người mà đầy lòng kiêu ngạo, tự mãn, nhất định khí lượng hẹp hòi, dù cho có phát đạt cũng chỉ một thời mà thôi, chẳng được lâu bền và cũng chẳng được phúc. Người đã có chút kiến thức ắt phải có độ lượng rộng rãi, bụng dạ không hẹp hòi mới không tự mình bỏ lỡ cơ hội được hưởng phúc, huống chi người khiêm tốn tự hạ mình thường hay được người đời vui lòng chỉ đường hay lẽ phải cho, lợi ích thực vô cùng tận. Đây là điều mà những người tu học không thể không hiểu biết và không thể thiếu được vậy.
Lời người xưa có nói: người có chí hướng cũng như cây có gốc rễ thì mới sinh trưởng ra hoa, ra trái. Người có chí muốn lập công danh thì nhất định sẽ được công danh, muốn được phú quý ắt hẳn sẽ được phú quý. Đã lập chí thì nên thường tự nhắc nhở lấy mình cần phải khiêm hư nhún nhường dù có chuyện thật nhỏ nhặt, đối với mọi người cũng phải để ý cư xử nhũn nhặn thì mới cảm ứng được với trời đất, và cũng nên hiểu rằng việc tạo phúc là do tự mình thành tâm mà tạo nên, chẳng hạn như muốn cầu được đỗ đạt ắt phải giữ vững ý chí chân thành buổi ban đầu, chứ không phải chỉ nay hứng chí thì cầu, mai không hứng thì lại thôi.
Mạnh phu tử nói về Tề Tuyên Vương: Nhà vua rất ưa nghe nhạc mà vui thích, đại để có thể làm cho nước Tề được thịnh vượng. Đó là câu trích dẫn trong sách Mạnh Tử, Thiên Lương Huệ Vương, chương cú hạ, đại ý nói nhà vua ưu thích nhạc mà lấy làm vui, đó là niềm vui cho riêng mình, sao bằng biết đem cái lòng vui thích nhạc đó chuyển đổi sang làm cho bách tính cũng được hoan hỷ cùng với nhà vua, thì dân ắt sẽ vì vua tận lực phụng sự, nước Tề ắt phải thịnh.
Ta đối với việc khoa cử đề danh cũng tựa như vậy, nghĩa là cũng đem lòng chân thành cầu danh đó với ý định thiết thực tận tâm, tận lực làm việc thiện và giúp đỡ mọi người ngõ hầu mới biến đổi được số đã định để được hưởng phúc bởi một vận mệnh do mình tự tạo ra.

Thanked by 3 Members:

#18 laotruong

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 59 Bài viết:
  • 54 thanks

Gửi vào 16/05/2013 - 15:02

Khiêm tốn được hưởng phúc, cái này tôi đã chiêm nghiệm trên đời cực kỳ chính xác. Tuy nhiên phải bổ sung thêm 1 tý, đó là chuyện khiêm tốn thực sự hay giả vờ khiêm tốn. Có câu lửa thử vàng gian nan thử sức, quỷ thần rất hay thử lòng người để biết đâu là chân tiểu nhân, đâu là nguỵ quân tử. Con người mà thật sự khiêm tốn thì cũng gần với thánh nhân rồi!

Thanked by 2 Members:

#19 doremi

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 146 Bài viết:
  • 500 thanks

Gửi vào 17/05/2013 - 09:40

Nhìn nhận một con người có chân chính hay không, có trải rèn luyện từ gốc-tâm hồn hay không, có thể căn cứ một điểm, người đó có đức khiêm tốn hay không. Nó tựa như một trong các tiêu chí đầu tiên vậy. Nghe vậy có người không đồng ý hoặc trong lòng giật mình thon thót. Vì sao?

Thói thường con người ta rất dễ đánh giá sai thành tích và thành công của bản thân mình. Người được ca ngợi nhiều thành tích, nhiều tác phẩm, xét ra thành công đích thực cũng chỉ là một góc nhỏ nhoi, nếu thao thao khoe khoang bất tuyệt thì tránh sao khỏi lố bịch. Không những lố bịch mà còn mắc cái thông bệnh Chủ Quan, trầm trọng bậc nhất về góc độ ngộ nhận: tự cho mình là cần thiết nhất, không thể gì thay thế được! Trong khi ở đời, đến như các bậc vĩ nhân cũng chỉ dám nghĩ mình ‘có thể có ích’ cho người mà thôi, chẳng phải là ‘nhu thiết’ - cần thiết đến không thể ai thay thế! Câu vừa rồi, chúng ta nghe thấy quá đúng và đương nhiên nữa, nhưng là câu từ 4 thế ki trước CN - của Trang Tử (-370 đến -298) tóm lược cả một quan điểm triết học trong phần nói về cái đạo trị nước, ở thiên ‘ứng đế vương’(Nam Hoa Kinh, Nội thiên). Càng thông thái, thì càng hiểu sâu hơn về tầm vóc của nhân dân, xã hội và lịch sử.

Dễ chịu thay khi sống chung, làm việc, giao tiếp với người khiêm từ, nhã nhặn thực lòng. Người sống khiêm tốn có sức cuốn hút, thật dễ gần. Dễ gần, dễ chia sẻ, dễ mến, từ đó dễ cộng tác.

Đẹp thay những con người nhượng từ, tự khiêm. Ở họ có cái gì thật cao sang do sự tường tận lẽ đời, đạt tới đức khiêm tốn, đạo khiêm cung (cung kính, tôn trọng).

Tất nhiên không thể lộn sòng vào chỗ này những kiểu cách khách sáo đầu lưỡi và bề ngoài, những cung cách lễ nghi nhún nhường giả dối trong khi bụng dạ tự kiêu ngất trời [một ‘khiêm tốn’ (giả vờ ấy) - bằng bốn tự kiêu”].

Khiêm tốn là chân thành tự đáy lòng với sự lượng giá trung thực, đặc biệt nghiêm túc đối với bản thân, mắt không bị loá bởi màn hoả mù tự huyễn hoặc, mình tự lừa dối mình, theo hướng huyễn ngã thói thường. Như vậy họ có thể tự hào có lẽ sống của bề sâu tâm hồn. Có thể bị nhiều thiệt thòi, họ có sá chi. Nhưng đời rất công bằng, tuy có thể công bằng đến muộn, ‘hữu xạ tự nhiên hương’, thực tài người hiền rồi người đời đều sẽ thấy và trân trọng:

“Để mình ra sau, mình lại đứng trước.
“Bỏ mình ra ngoài, mình lại vẫn còn”
(Lão Tử)

Còn người kiêu căng, thật khó chịu thay khi phải sống chung, làm việc, giao tiếp với họ. Người đời, ai cũng chê cười những kẻ sống tự cao tự đại thành hợm hĩnh, hãnh tiến. Mà đâu có kéo dài mãi thế được. Cũng là kiểu sống ‘ăn xổi ở thì’ mà thôi. Tâm hồn nếu như thế thì quả là nông cạn hời hợt, và đáng thương nữa vì cái lõi bên trong méo mó-rúm ró, vô sắc-‘tối thui’ và cô độc. Còn đáng thương vì thường xuyên tự trách than và hối tiếc quá nhiều: những người tự mãn dương dương tự đắc, huênh hoang ấy hẳn phải tự mình xấu hổ với mình lắm khi dám thầm liếc nhìn vào bên trong bản thân mình đã nhận rõ thực chất còn yếu kém về các mặt chính trực, công bằng, thành tín, kiên tâm, cần cù, dũng khí, kiến thức và cả về mặt chất phác dễ mến nữa mà họ chẳng tài nào có nổi.

Kiêu ngạo là cố tật nguy hiểm nhất trong các cố tật của con người, làm cho tâm hồn không còn cơ hội triển nở. Bạch Vân Cư Sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm răn :

“Làm người chớ thấy tài mà cậy
“Có nhọn bao nhiêu lại có tù”
(Bạch Vân Quốc Ngữ thi tập, bài số 11)

“Có thuở được thời mèo đuổi chuột,
“Đến khi thất thế kiến tha bò”
(Bạch Vân Quốc Ngữ thi tập, bài số 81)

Sách cổ Ấn Độ Panchatantra viết:

“Ai vì kiêu ngạo không tôn trọng mọi người,
kể từ người lớn, kẻ vừa và bé,
thì dù có được vua yêu, cũng sẽ thất bại”

Có thể lẫn lộn chăng, một bên là đức khiêm tốn-đạo khiêm cung, với bên khác là tự ti, tự hạ, vô bản sắc, vô cá tính, dựa dẫm, ba phải? Không thể. Chúng ta đương nhiên phân biệt rành mạch được, khác nào phân biệt giữa nước trong và nước đục. Sự thiếu cá tính, thiếu bản lãnh, tầm thường, kém cỏi, nhạt nhẽo mờ nhạt ấy đều phần nào do ít rèn luyện học tập, không tiến bộ được. Ngày nay, để phát huy hết tài năng, ‘con người MỚI’ chống tự ti, rất cần tự tin, tự tôn-tự trọng, điều này không hề trái ngược với đức khiêm tốn. Ngược lại, càng tự trọng với bản thân thì càng hiểu lẽ khiêm cung với người khác, luôn xử sự thật biết điều.

Cũng không thể lẫn lộn về một dạng mất khiêm tốn gốc từ ‘tự ti mà lại hiếu danh’. Có một số ít ‘kẻ sĩ’, nhà văn nhà thơ nhà cải cách thời hiện đại lại luôn sống trong tâm lí sợ người ta không thấy giá trị của mình, lo không ai biết tác phẩm, tài vượt trội và công phu cách tân của mình, luôn đụng chạm thậm chí hồ đồ xúc phạm bằng nỏ mồm gọi tất cả là ‘đồ hèn’ rồi xung đột với người xung quanh bằng cái tự phụ của mình, đòi hỏi những phong tặng cao hơn sự đóng góp thực, xúc tiến ‘đời’ viết sớm cho mình những bài ‘chân dung’ – nghe tựa hồ thể loại văn tế sống –, hoặc đúc tượng ‘sớm’ cho mình – nom mượng tượng ngôi sinh từ xây cho ‘đại gia’!

Bởi vậy cho nên khiêm nhường không những được coi là một phẩm đức lớn mà còn là nền tảng của đạo đức, là cả một đạo lí. Với Lão Tử, khiêm tốn được khái quát lên thành cái ĐẠO của con người thông minh, cái đạo không thể thiếu trong xử thế. Chính bản thân Khổng Tử khi trẻ, một lần gặp Lão Tử xin lời ‘chỉ giaó’, đã cảm động tiếp thu sâu sắc cái đạo khiêm tốn trong Lão học.

Theo Lão Tử,
“Kiêu Ngạo, ham muốn, nộ khí, ý nghĩ lệch lạc quá nhiều, chỉ có hại mà thôi”;
“Người càng mạnh càng cần khiêm nhường,
càng cần ‘lòng trống như vực sâu’”.

Từ đạo khiêm tốn ngẫm tự thuở ấy, Khổng Phu Tử đã đạt tới nhân cách hoàn mỹ với ôn hoà, cung kính, nhân nhượng, thẳng thắn … Người nhận định: “Bệnh lớn nhất của cuộc đời là kiêu ngạo- kẻ cầm đầu của ‘chúng ác’, trong khi khiêm tốn là cái nền của ‘chúng thiện’ ”. Những lời bình sau đây từ thuở đó là ‘xưa’ nhưng không hề ‘cổ’, nghe sao mà hợp ‘thời sự ’ hiện nay đến vậy: “Thích khoe khoang; dù hiểu biết nửa vời cũng ham hố đàm luận; tất cả đều thuộc về tính kiêu ngạo, thật khó tiến bộ”.

Được hiểu khiêm tốn thuộc cả một phạm trù đạo làm người như trên, nên chi những năm 1970, lúc chúng tôi công tác ở Âu châu, nghe sự thuyết giảng chính thống rằng “khiêm tốn là tính xấu của hạng thấp hèn” thì mặc dù chúng tôi hiểu rất rõ và thông cảm do nguồn gốc nào mà hình thành một tà thuyết như thế, nhưng quả thực nền văn hoá sâu sắc lâu đời của phương Đông không khỏi thương hại cho sự bất cập tư duy này.

Khiêm tốn là tự đáy tâm hồn. Cho nên trong nội dung tu luyện từ bên trong, “luyện từ gốc-tâm hồn” ắt là không được bỏ sót ‘luyện khiêm tốn’. Có luyện khiêm tốn, một đức khiêm tốn thực sự chân thành từ gốc tâm hồn, thì mới mong đạt tâm hồn cao đẹp để làm Người. Còn các kiểu ‘dạy’ kỹ xảo bề ngoài ví dụ dạy rằng “lúc nào cũng như lúc nào, … trên khuôn mặt phải như có cái mặt nạ” (Ramond de Saint Laurent, sách ‘Học cách…thành công’, NXB Trẻ, 10/2000 tr 63) thì thử hỏi làm sao bén tới khiêm tốn đích thực của lẽ làm Người đặng!
Huy Dung

Thanked by 2 Members:





Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |