Jump to content

Advertisements




Truyện tâm linh - hiendde



831 replies to this topic

#691 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 20/01/2013 - 13:57

VI. SỰ BẤT ĐỊNH CỦA CÁC TÌNH HUỐNG ĐƯA ĐẾN CÁI CHẾT

Một khi đã sinh ra, chắc chắn mọi người trong thế giới này đều phải chết. Nhưng việc chúng ta sắp chết như thế nào, tại sao, vào lúc nào, và ở đâu thì ta không thể nào tiên đoán được. Không ai trong chúng ta có thể đoan chắc được rằng cái chết của mình sẽ xảy ra vào thời điểm nào hay ở tại nơi chốn đặc biệt nào, trong cách thức nào, hoặc biết chắc được rằng cái chết là kết quả của nguyên nhân này hay nguyên nhân nọ.

Những nguyên nhân của cái chết thì nhiều

Những nguyên nhân của đời sống thì ít

Và ngay cả những nguyên nhân của đời sống cũng có thể

trở thành những nguyên nhân của cái chết.

Lửa, nước, các chất độc, vách đứng, những kẻ man rợ, những dã thú – có rất nhiều kiểu nguy hiểm chết người, nhưng những gì có thể kéo dài đời sống thì thật ít ỏi. Ngay cả thực phẩm, quần áo và các sự vật khác thường được xem như để duy trì đời sống thì đôi khi có thể biến thành các nguyên nhân của cái chết. Nhiều rủi ro xảy ra là hậu quả của việc ăn uống – thực phẩm có thể bị ô nhiễm; hoặc có thể một vài thực phẩm được dùng vì các thực phẩm ấy có mang một số các tính chất lợi lạc, nhưng trong một vài trường hợp lại có thể trở thành độc hại; hoặc có thể thực phẩm ấy lại không tốt đối với một cá nhân đặc biệt nào đó.

Nhất là ngày nay, hầu hết mọi người tham ăn thịt và dùng thịt và máu mà không suy xét, hoàn toàn không biết gì về mọi bênh tật gây nên bởi thịt ôi hoặc các tinh linh ác hại trong thịt. Các chế độ ăn uống và cách sống thiếu lành mạnh cũng có thể gây ra những khối u, gây ra sự rối loạn của đàm, bệnh phù và các bệnh tật khác, đưa đến vô số cái chết. Tương tự, việc tìm kiếm tiền của, danh vọng và các bã vinh quang khác có thể kích động người ta chiến đấu, phải đương đầu với các thú hoang, hoặc phải vượt sông một cách táo bạo và liều lĩnh, và đây chỉ là một trong vô số các tình huống khác có thể đem lại cái chết cho họ.

Hơn nữa, hoàn toàn chẳng thể nào tiên đoán được lúc nào là lúc mà bất kỳ nguyên nhân nào trong số các nguyên nhân khác nhau đưa đến cái chết có thể xảy đến. Một số người chết trong bụng mẹ, một số chết khi sinh ra đời, một số trước khi học bò. Một số người chết trẻ; những người khác chết khi già và yếu lụ khụ. Một số chết trước khi có thể dùng được thuốc men hay có được sự trợ giúp.

Những người khác có thể lây lất, dán chặt thân mình trên giường bệnh nhiều năm, nhìn cuộc đời bằng đôi mắt của người đã chết; khi họ chết, họ chỉ còn da bọc xương. Nhiều người chết bất đắc kỳ tử hoặc do tai nạn, chết trong khi ăn, khi nói chuyện hay làm việc. Thậm chí một số người còn tự tử.

Bị vây khốn bởi nhiều nguyên nhân của cái chết nên giống như một ngọn lửa của cây nến trong gió, cuộc đời bạn thật khó có cơ hội kéo dài. Không có gì bảo đảm rằng cái chết sẽ không bất thần tấn công ngay bây giờ, và ngày mai bạn sẽ không bị đoạ sinh vào làm một con thú với cặp sừng trên đầu và răng nanh trong miệng. Bạn nên tin chắc rằng sẽ không thể nào tiên đoán khi nào bạn chết và thật không tài nào biết được bạn sẽ sinh ra ở đâu trong đời sau.


#692 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 20/01/2013 - 14:47

VII. SỰ TỈNH GIÁC MÃNH LIỆT VỀ LẼ VÔ THƯỜNG

Hãy nhất tâm thiền định về cái chết, trong mọi lúc và mọi tình huống. Khi đứng lên, khi ngồi hoặc nằm xuống, hãy tự nhủ:

“Đây là hành động cuối cùng của tôi trong thế giới này.”

và hãy thiền định về điều đó với lòng xác tín mãnh liệt nhất. Trên đường đi tới bất kỳ nơi đâu, hãy tự nói:

“Có thể tôi sẽ chết ở đây. Không có gì chắc chắn là tôi sẽ trở về.”

Khi bạn sắp đặt cho một cuộc hành trình và tạm dừng chân để nghỉ ngơi, hãy tự hỏi:

“Tôi sẽ chết ở đây chăng?”

Bất kỳ bạn ở đâu, bạn nên tự hỏi phải chăng bạn sẽ chết tại nơi đây. Ban đêm, khi nằm xuống, hãy tự hỏi liệu bạn có thể chết trong giường đêm nay hay có thể quả quyết được rằng sáng mai bạn sẽ thức dậy hay không. Khi nhỏm dậy, hãy tự hỏi liệu bạn có thể chết vào lúc nào đó trong ngày, hoặc quán chiếu rằng chẳng có gì chắc chắn là bạn sẽ còn sống để đi ngủ vào buổi tối.

Hãy chỉ thiền định về cái chết một cách nhiệt thành và tận sâu thẳm trái tim của bạn. Hãy thực hành giống như các Geshe phái Kadampa ngày xưa; các ngài đã luôn luôn nghĩ tưởng về cái chết trong từng giây phút. Ban đêm, các Ngài lật úp cái tô của mình xuống và khi quán chiếu rằng biết đâu ngày mai có thể không cần đốt lửa, các Ngài đã không bao giờ vùi than hồng ban đêm. Đối với người Tây Tạng, lật úp cái tô của ai xuống là một dấu hiệu người đó đã chết.

Tuy nhiên, chỉ thiền định về cái chết không thôi thì sẽ không đủ. Điều ích lợi duy nhất vào lúc chết là Pháp, vì thế bạn cũng cần tự khuyến khích mình phải nên thực hành Giáo Pháp một cách chân thực, không bao giờ để cho mình lẻn trốn vào sự quên lãng hay mất cảnh giác, và phải luôn luôn ghi nhớ rằng các hoạt động của sinh tử đều chỉ thoáng qua và không có chút ý nghĩa nào.

Tự bản chất, sự nối kết của thân và tâm này thì vô thường, vì thế đừng trông cậy vào sự nối kết ấy như là cái gì của riêng bạn; đây chỉ hoàn toàn là một sự vay mượn. Mọi con đường và lối đi đều vô thường, vì thế dù bạn đang đi đâu, hãy hướng bước chân của bạn về Pháp.

Như có nói trong Bát Nhã Tập Kệ: Nếu bạn vừa đi vừa nhìn phía trước trong chánh niệm với một khoảng cách bằng bề dài của một cái ách, tâm bạn sẽ không bị mê mờ.

Bất kỳ bạn ở đâu, mọi nơi chốn đều vô thường, vì thế hãy giữ các cõi Phật thanh tịnh trong tâm. Đồ ăn, thức uống và bất cứ sự gì bạn vui hưởng đều vô thường, vì thế hãy nuôi sống bạn bằng công phu thiền định thâm diệu. Giấc ngủ thì vô thường, vì thế khi bạn ngủ, hãy tịnh hóa các mê lầm của giấc ngủ thành tịnh quang. Tài sản, nếu bạn có, thì cũng vô thường, vì thế hãy tinh tấn để sở hữu bảy món tài sản cao quý.

Những người thân yêu, bạn hữu và gia đình thì vô thường, vì thế ở một nơi cô tịch, hãy khơi dậy lòng khát khao muốn giải thoát. Địa vị cao và danh tiếng thì vô thường, vì thế luôn luôn giữ một vị trí thấp. Ngôn ngữ thì vô thường, vì thế hãy tự hưng phấn để trì tụng các thần chú và những bài cầu nguyện.

Lòng tín tâm và ước muốn giải thoát cũng vô thường, vì thế hãy cố gắng Đức tin, giới luật, sự học hỏi, sự rộng lượng (bố thí), sự tận tâm, khiêm tốn và trí huệm giúp cho những thệ nguyện của bạn trở nên vô ngại, không gì lay chuyển được. Những ý niệm và tư tưởng thì vô thường, vì thế hãy tiếp tục phát triển một bản tánh tốt đẹp. Các kinh nghiệm tu tập và chứng ngộ thiền định thì vô thường, vì thế hãy tiếp tục tinh tấn cho tới khi bạn đạt tới một nơi mà mọi sự đều tan lẫn vào trong bản tánh của thực tại.

Khi ấy, sự nối kết giữa cái chết và tái sinh rơi biến mất, và bạn đạt được sự xác tín rằng bạn hoàn toàn chuẩn bị sẵn sàng đối với cái chết. Bạn đã đoạt được thành trì bất tử; bạn giống như con chim đại bàng tự tại vút lên đỉnh cao của những cõi trời. Sau đó, không còn cần đến bất kỳ pháp thiền định buồn thảm nào về cái chết đang tới gần của bạn.

Như Ngài Jetsun Mila đã hát:

Sợ hãi tử thần, ta bỏ vào núi cao.

Ngày đêm ta thiền định về sự bất định của cái chết

Và nắm giữ thành lũy của chân tánh bất tử bất biến.

Giờ đây ta không còn sợ hãi và đã vượt qua mọi kinh sợ về cái chết!

Và Đức Dagpo Rinpoche vô song cũng đã nói:

Lúc đầu, bạn phải để cho nỗi sợ hãi sinh tử rượt đuổi như một con hươu đực trốn thoát cái bẫy. Vào lúc giữa, bạn cần làm sao để không còn gì phải hối tiếc cho dù bạn phải chết, như một nông gia đã thận trọng canh tác những cánh đồng của mình. Vào lúc cuối, bạn nên thấy an ổn và sung sướng, như một người vừa hoàn tất một công việc tuyệt vời.

Lúc đầu, bạn phải biết rằng không có thời giờ để phí phạm, giống như người bị một vết thương chí mạng vì trúng tên độc. Vào lúc giữa, bạn phải thiền định về cái chết mà không nghĩ tưởng về điều gì khác, giống như người mẹ có đứa con duy nhất vừa qua đời. Vào lúc cuối, bạn phải hiểu rằng chẳng còn gì để làm, giống như một người chăn cừu mà đàn thú của anh ta đã bị kẻ thù lùa đi mất.

Hãy nhất tâm thiền định về cái chết và sự vô thường cho tới khi bạn đạt tới mức độ đó.

Đức Phật đã có dạy:

Thiền định bền bỉ về vô thường là cúng dường tất cả chư Phật.

Thiền định bền bỉ về vô thường là được tất cả chư Phật cứu thoát khỏi đau khổ.

Thiền định bền bỉ về vô thường là được tất cả chư Phật dẫn dắt.

Thiền định bền bỉ về vô thường là được tất cả chư Phật gia hộ.

Trong tất cả các dấu chân, dấu chân voi thì to lớn nhất; cũng thế, trong các đề mục thiền định đối với một Phật tử, sự suy niệm về vô thường thì không gì sánh được.

Và Đức Phật đã nói trong Luật Tạng:

Nhớ tưởng trong giây lát về lẽ vô thường của mọi sự duyên hợp thì còn vĩ đại hơn việc hiến tặng thực phẩm và vật cúng dường cho cả trăm đệ tử của ta là những chiếc bình chứa toàn hảo, như các tỳ khưu Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên.

Một đệ tử cư sĩ hỏi Geshe Potowa rằng nếu phải chọn một pháp hành trì duy nhất thì pháp nào là quan trọng nhất. Vị Geshe đã trả lời:

Nếu con muốn sử dụng một pháp môn hành trì duy nhất, thì thiền định về vô thường là thiền định quan trọng nhất.

Lúc đầu, thiền định về cái chết và vô thường khiến con nắm giữ lấy Pháp; vào lúc giữa, thiền định về cái chết và vô thường dẫn đến việc hành trì tích cực; vào lúc cuối, thiền định về cái chết và vô thường giúp con chứng ngộ tánh nhất như của mọi hiện tượng.

Lúc đầu, thiền định về vô thường khiến con cắt đứt những ràng buộc với mọi việc ở đời; vào lúc giữa, thiền định về vô thường dẫn đến sự từ bỏ mọi bám luyến sinh tử; vào lúc cuối, thiền định về vô thường giúp con bước lên con đường đi tới Niết Bàn.

Lúc đầu, thiền định về vô thường khiến con phát triển tín tâm; vào lúc giữa, thiền định về vô thường dẫn đến sự tinh tấn trong thực hành; vào lúc cuối, thiền định về vô thường giúp con phát sinh trí huệ.

Lúc đầu, cho tới khi con hoàn toàn xác quyết, thiền định về vô thường khiến con tìm cầu Pháp; vào lúc giữa, thiền định về vô thường dẫn con đến với thực hành; vào lúc cuối, thiền định về vô thườngï giúp con đạt tới mục đích tối hậu. Nghĩa là hoàn toàn có khả năng thọ nhận giáo lý một cách đúng đắn và vận dụng những giáo lý ấy.

Lúc đầu, cho tới khi con hoàn toàn xác quyết, thiền định về vô thường khiến con thực hành với một sự tinh tấn, như chiếc áo giáp che chở con; vào lúc giữa, thiền định về vô thường dẫn dắt cho con thực hành với một sự tinh tấn trong hành động; vào lúc cuối, thiền định về vô thường giúp con thực hành với một sự tinh tấn vô bờ.

Và ngài Padampa Sangye nói:

Lúc đầu, lòng xác quyết về lẽ vô thường sẽ khiến bạn nắm lấy Pháp; vào lúc giữa, lòng xác quyết về vô thường sẽ thúc giục bạn tinh tấn; và vào lúc cuối, lòng xác quyết về vô thường sẽ đem lại cho bạn Pháp Thân chói lọi.

Trừ phi bạn cảm nhận được sự xác quyết chân thành này về các nguyên lý vô thường, thì bất kỳ giáo lý nào bạn có thể cho rằng mình đã thọ nhận và đưa vào thực hành sẽ chỉ khiến bạn càng thêm trơ lì đối với Pháp. Ngài Padampa Sangye cũng có nói:

Tôi chưa bao giờ thấy một hành giả Tây Tạng duy nhất nào nghĩ tưởng về sự chết. Cũng chưa bao giờ thấy ai sống mãi! Nhìn họ thích thú góp nhặt của cải một khi đã khoác chiếc y vàng, tôi tự hỏi – Phải chăng họ sắp hối lộ Thần Chết bằng thực phẩm và tiền bạc? Nhìn cách họ tích lũy những vật dụng giá trị nhất, tôi tự hỏi? Phải chăng họ sắp lo đút lót trong địa ngục? Ha, ha! Nhìn thấy các hành giả Tây Tạng đó khiến tôi phải bật cười!

Người thông thái nhất là kẻ tự phụ nhất. Những thiền giả xuất sắc nhất chất đống thực phẩm và của cải, Các ẩn sĩ cô tịch mê mải giữa những theo đuổi tầm thường, Những kẻ từ bỏ nhà cửa và quê hương không biết xấu hổ, Những người đó miễn nhiễm đối với Pháp! Họ miệt mài trong tà hạnh. Họ có thể thấy người khác chết nhưng không hiểu rằng bản thân họ cũng sẽ chết. Đó là lỗi lầm đầu tiên của họ.

Như vậy thì thiền định về vô thường là một khúc dạo mở đầu để khai mở con đường cho tất cả các pháp thực hành của Phật Pháp. Khi được thỉnh cầu ban giáo huấn về cách giải trừ nghịch cảnh, Geshe Potowa đã trả lời bằng những lời sau đây:

Hãy suy tưởng dài lâu về cái chết và lẽ vô thường. Một khi bạn quyết chắc rằng bạn sẽ chết, bạn sẽ không còn thấy khó khăn để gạt các tà hạnh sang một bên, và cũng không khó khăn để làm những điều đúng đắn.

Sau đó, hãy thiền định lâu dài về lòng từ và bi. Một khi lòng bi tràn ngập trái tim bạn, bạn sẽ không thấy khó khăn để hành động vì lợi lạc của người khác.

Rồi hãy thiền định lâu dài về tánh Không, trạng thái tự nhiên của mọi hiện tượng. Một khi bạn hoàn toàn thấu suốt tánh Không, bạn sẽ không còn thấy khó khăn để loại trừ các mê lầm của bạn.

Một khi chúng ta có được sự xác quyết như thế về lẽ vô thường thì mọi hoạt động tầm thường của đời này dường như trở nên cực kỳ ghê tởm, như một miếng thịt mỡ làm một người đang khốn khổ vì ói mửa phải gớm ghiếc. Đạo Sư tôn kính của tôi thường nói:

Bất kỳ thứ quyền cao chức trọng, của cải hay sắc đẹp nào ta thấy trong thế giới này cũng không khơi dậy được lòng tham muốn trong ta. Đó là bởi vì khi ta nhìn thấy các bậc tôn quý khi xưa đã sống cuộc đời của các ngài như thế nào thì ta có được chỉ một chút hiểu biết ít ỏi về lẽ vô thường. Ta không còn giáo huấn nào sâu sắc hơn điều này để ban cho con.

Thật ra thì bạn đã có thể thấm nhuần được ý niệm về lẽ vô thường một cách sâu sắc như thế nào? Bạn nên trở thành giống như Geshe Kharak Gomchung; Ngài đi vào những vùng núi non cô tịch ở Jomo Kharak trong tỉnh Tsang để thiền định. Trước hang của Ngài có một bụi gai, nó vướng vào quần áo Ngài.

Lúc đầu Ngài nghĩ: “Có lẽ ta nên chặt nó đi,” nhưng rồi ngài tự bảo: “Nhưng xét cho cùng, ta có thể chết trong cái hang này. Ta thực sự không nói trước được là liệu mình còn sống sót để trở ra nữa không. Hiển nhiên, điều quan trọng hơn là ta phải tiếp tục lo việc hành trì.”

Khi ra ngoài, Ngài lại bị những chiếc gai móc vào quần áo. Lúc này Ngài nghĩ: “Ta không dám chắc là sẽ còn trở vào lại hang nữa hay không,” và sự việc này tiếp diễn như thế trong nhiều năm cho tới khi Ngài trở thành một Đạo Sư thành tựu. Khi Ngài rời hang, bụi gai vẫn chưa được chặt.

Vào mùa thu, trong thời gian chòm sao Risi xuất hiện, Ngài Rigdzin Jigme Lingpa luôn luôn ở tại một con suối nóng nào đó. Các sườn vực không có bậc thang khiến việc Ngài xuống tới mặt nước và ngồi trong suối rất khó khăn. Các đệ tử của Ngài tỏ ý muốn làm vài bậc thang, nhưng Ngài trả lời: “Tại sao phải quá bận tâm khi chúng ta không biết sẽ còn ở đây năm tới hay không?” Đạo Sư của tôi đã kể cho tôi rằng Ngài luôn luôn nói về sự vô thường như thế.

Chúng ta cũng thế, chừng nào mà ta chưa hoàn toàn thâm nhập được một thái độ hiểu biết về lẽ vô thường như thế, thì hãy nên thiền định về lẽ vô thường. Hãy bắt đầu bằng việc phát khởi Bồ Đề Tâm, và trong phần thực hành chính yếu, hãy rèn luyện tâm bạn bằng tất cả những phương tiện khác nhau cho tới khi vô thường thực sự thấm nhập vào từng tư tưởng của bạn. Cuối cùng, hãy kết thúc thời công phu bằng cách hồi hướng công đức. Hãy thực hành theo cách này, và với tất cả khả năng tốt lành nhất, hãy nỗ lực noi gương các bậc thánh giả vĩ đại trong quá khứ.

Vô thường thì có mặt khắp nơi, tuy thế con vẫn cho rằng mọi thứ sẽ tồn tại.

Con đã đi tới cánh cổng của tuổi già, tuy thế con vẫn giả đò như mình còn son trẻ.

Xin từ bi gia hộ cho con và những chúng sinh lạc lối như con

Để chúng con có thể thực sự thấu hiểu lẽ vô thường.



Thanked by 1 Member:

#693 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 20/01/2013 - 22:59

CHƯƠNG BA

NHỮNG KHỔ ĐAU CỦA CÕI LUÂN HỒI

Thấu hiểu rằng những hoạt động thế gian đều vô nghĩa

Với lòng đại bi

Ngài nỗ lực chỉ vì lợi lạc của chúng sinh

Không đắm nhiễm sinh tử hay niết bàn

Ngài hoằng hoá theo con đường Đại Thừa

Bậc Thầy Vô Song, con đảnh lễ dưới chân Ngài.

Hãy lắng nghe chương này với thái độ (động lực) tương tự như ở những chương trước. Chương này bao gồm phần quán chiếu tổng quát về những nỗi khổ nói chung trong sinh tử luân hồi và quán chiếu về những nỗi thống khổ đặc biệt của từng cõi trong sáu nẻo luân hồi.

I. NHỮNG ĐAU KHỔ NÓI CHUNG CỦA SINH TỬ LUÂN HỒI

Như ta đã chỉ ra từ trước, hiện giờ chúng ta có thể có một đời người được phú bẩm với những điều kiện tự do và những thuận duyên rất khó tìm, nhưng cuộc đời này sẽ không kéo dài. Chẳng bao lâu nữa, chúng ta sẽ phải chịu sức mạnh chi phối của vô thường và cái chết. Nếu sau đó, chúng ta biến mất đi như ngọn lửa tàn lụi hay như nước bốc hơi, thì mọi sự thế là xong hết. Nhưng sau khi chết, chúng ta sẽ không tan biến thành không có gì cả. Chúng ta bị buộc phải tái sinh, và điều đó có nghĩa là ta sẽ vẫn phải ở trong vòng sinh tử, không có chỗ nào khác ngoài nơi đó.

Thuật ngữ samsara, tức bánh xe hay vòng quay của sự hiện hữu, được dùng ở đây để ngụ ý một sự xoay vòng từ nơi này sang nơi khác trong một vòng tròn, giống như một bánh xe bằng gốm, hay bánh xe của một cái máy xay nước vậy. Khi một con ruồi bị bẫy trong một cái chai đóng kín thì dù có bay chỗ nào chăng nữa nó cũng không thể thoát ra được.

Tương tự như vậy, cho dù được sinh trong cõi cao hay cõi thấp, ta cũng chẳng hề nằm ngoài vòng luân hồi sinh tử. Phần trên cái chai giống như những cõi cao của thiên giới hay con người, và phần dưới giống như ba cõi bất hạnh. Vòng luân hồi giống như một vòng tròn, vì ta cứ mãi xoay vòng, tái sinh hết nơi này đến nơi khác trong sáu cõi do bởi hậu quả của hành nghiệp của chính mình, và những hành nghiệp, cho dù là thiện hay ác, đều bị ô nhiễm bởi sự bám chấp.

Từ vô thủy nhẫn cho đến ngày nay, chúng ta đã từng lang thang trong thế giới luân hồi. Mỗi một chúng sinh trong đó, không loại trừ ai, đều có những ràng buộc về luyến ái, hận thù và lãnh đạm đối với những chúng sinh khác. Ai cũng đã từng là cha mẹ của các chúng sinh khác.

Trong Kinh điển có nói rằng nếu ta tính lùi lại những thế hệ các bà mẹ trong gia đình mình rồi nói rằng: “Người ấy là mẹ của mẹ tôi; mẹ của mẹ của mẹ tôi là người này và người này...” và cứ tiếp tục tính theo cách thức như vậy, dùng những viên đất nhỏ bằng hột cây bách xù để đếm số người thì toàn thể số đất được dùng sẽ hết sạch trước khi bạn đếm xong số lượng các bà mẹ.

Như Ngài Long Thọ (Nagarjuna) đã nói:

Chúng ta sẽ dùng hết đất khi cố gắng tính đếm những bà mẹ của mình

Bằng những viên đất sét nhỏ bằng hột bách xù.

Trải qua suốt vòng luân hồi từ vô thủy cho tới ngày nay, không có một sinh thái (life form) nào mà ta đã chưa từng sinh ra trong đó. Đã bao lần những dục vọng của ta khiến đầu và tứ chi ta đứt rời. Nếu có thể chất đống ở tại một nơi tất cả những tứ chi mà ta đã mất khi làm thân kiến và làm những côn trùng khác thì đống tứ chi ấy còn cao hơn Núi Tu Di.

Những giọt nước mắt mà ta đã khóc bởi cái lạnh, cái đói và cái khát khi không có cái ăn, cái mặc, những giọt nước mắt ấy có thể tạo thành một đại dương còn lớn hơn tất cả những đại dương bao quanh trái đất này. Ngay cả tất cả số đồng đỏ mà ta từng nuốt trong các cõi địa ngục thì còn lớn hơn cả bốn đại dương.

Thế nhưng tất cả những chúng sinh bị cột chặt vào các cõi sinh tử bởi dục vọng và bám chấp sẽ còn phải chịu đựng thêm nữa những đau khổ trong vòng luân hồi vô tận này, trong tâm họ chẳng hề có chút hối hận dù chỉ trong chốc lát.

Ngay cả nếu nhờ kết quả may mắn của một vài thiện hạnh, chúng ta có thể được trường thọ, có được thân thể hoàn hảo, của cải và vinh quang của vua cõi Trời Đế Thích (Indra) hay Phạm Thiên (Brahma), thì cuối cùng chúng ta vẫn không thể trì hoãn được cái chết; và sau cái chết chúng ta lại phải chịu đựng những đau khổ của các cõi thấp hơn.

Trong đời này, những điều kiện thuận lợi nhỏ bé của quyền lực, của cải, sức khoẻ và những thứ khác mà ta vui hưởng có thể lừa phỉnh ta trong một ít năm, ít tháng hay ít ngày. Nhưng một khi kết quả của bất kỳ thiện hạnh nào ta đã tạo được trong những trạng thái hạnh phúc này bị cạn kiệt, thì dù có muốn hay không, ta sẽ phải trải qua sự bần cùng và khốn khó, hay trải qua những đau khổ không thể chịu đựng nổi trong những cõi thấp.

Có ý nghĩa gì không trong loại hạnh phúc đó? Nó như một giấc mộng chỉ ngừng lại giữa chừng khi bạn tỉnh giấc. Những ai có vẻ sung sướng và thoải mái vào lúc này nhờ vào kết quả của một vài thiện hạnh không đáng kể, họ cũng sẽ không thể kéo dài được tình trạng thoải mái và sung sướng đó hơn một khắc nào một khi kết quả của thiện hạnh đó đầu cạn kiệt.

Có những vị vua Trời, ngồi cao ngất trên những chiếc ngai bằng châu báu, dàn trải với những thứ lụa là đẹp tuyệt trần, vui hưởng mọi lạc thú của năm giác quan. Nhưng, một khi thọ mạng của họ cạn kiệt thì trong nháy mắt, họ bị đắm chìm trong đau khổ và đâm đầu xuống nền kim khí nóng như thiêu như đốt của địa ngục. Ngay cả những vị thần mặt trời và thần mặt trăng, là những vị đã chiếu sáng bốn đại lục, cuối cùng cũng có thể bị tái sinh ở một nơi nào đó ngay giữa những đại lục kia, trong bóng tối sâu dày tới nỗi họ không thể thấy tứ chi của chính họ duỗi ra hay gập lại.

Vì thế chớ nên đặt sự kỳ vọng của mình vào những niềm vui trước mắt của cõi luân hồi. Hãy mang quyết tâm rằng, ngay trong đời này, ta sẽ giải thoát chính mình khỏi biển khổ và đạt được chân hạnh phúc, một hạnh phúc thường hằng của Phật Quả viên mãn. Hãy đưa tâm niệm này vào công phu hành trì của bạn, áp dụng những phương pháp đúng đắn khi bắt đầu thời công phu, khi hành trì phần chính yếu của công phu và lúc kết thúc công phu.


Thanked by 1 Member:

#694 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 20/01/2013 - 23:35

II. NHỮNG NỖI THỐNG KHỔ ĐẶC BIỆT MÀ CHÚNG SINH TRONG SÁU CÕI PHẢI KINH QUA

Thập Bát Địa Ngục (Mười tám cõi địa ngục)

1. BÁT HỎA ĐỊA NGỤC (Tám hỏa ngục hay địa ngục nóng)

Bát hỏa địa ngục nằm chồng chất lên nhau như các tầng lầu của một toà nhà, từ Đẳng Hoạt địa ngục nằm cao nhất xuống tới Vô Gián địa ngục (A Tì địa ngục) ở dưới cùng. Trong mỗi tầng điạ ngục, mặt nền và vành đai đều nóng bỏng như sắt nung chảy ở lò rèn không thể có chỗ nào có thể đặt chân an toàn lên được. Mọi thứ chìm trong sự thiêu hủy rừng rực của ngọn lửa bùng cháy dữ dội.

Đẳng Hoạt Địa Ngục (Địa ngục chết đi sống lại)

Ở tầng địa ngục này, than hồng bao phủ mặt nền kim khí nóng chảy, vô lượng chúng sinh nhiều như tuyết rơi trong một trận bão tuyết do nghiệp cảm của họ mà gom tụ lại. Hành nghiệp dẫn họ tới địa ngục này được thúc đẩy bởi tâm hận thù, nên hậu quả cũng tương tự như căn nguyên đã đưa họ đến đó; họ nhìn nhau như những kẻ tử thù, và xông vào đánh nhau dữ dội. Họ vung lên những vũ khí kỳ lạ, một kho vũ khí ma quái tạo ra bởi nghiệp lực của họ, họ đánh nhau cho tới khi tất cả ngã gục. Khi ấy, một giọng nói từ trên cao bỗng cất lên: “Hãy sống lại!” và lập tức họ tỉnh dậy và lại bắt đầu đánh nhau y hệt như trước. Và họ bị hành hạ như vậy, liên tục chết đi rồi sống lại.

Thọ mạng ở đó là bao lâu? Năm mươi năm trong đời sống con người tương đương với một ngày trong Cung Trời của Tứ Thiên Vương. Ba mươi ngày ở đó thành một tháng, và mười hai tháng làm thành một năm; năm trăm năm như thế tương đương một ngày trong Đẳng Hoạt Địa Ngục. Trong địa ngục này, mỗi tháng có ba mươi ngày, mười hai tháng làm thành một năm. Những chúng sinh này chịu đau khổ ở đó trong năm trăm năm như thế.

Hắc Thằng Địa Ngục (Điạ ngục dây sắt đen buộc kéo tội nhân)

Ở đây những thuộc hạ của Diêm Vương (Yama) đặt các tội nhân trên nền kim khí nóng chảy như những khúc củi cháy dở và gạch lên thân họ những đường vạch đen, bốn, tám, mười sáu, ba mươi hai...mà các thuộc hạ của Diêm Vương dùng làm những đường mẫu để xẻ cắt các nạn nhân ra bằng những chiếc cưa nóng đỏ. Vừa bị cắt thành từng mảnh xong, họ lập tức nguyên vẹn trở lại, chỉ để rồi lại bị chặt ra thành từng phần và bị băm đi băm lại.

Đối với tuổi thọ của những chúng sinh ở đây, một trăm năm làm người tương ứng với một ngày của các vị Trời trong Cõi Trời thứ Ba Mươi Ba (Đao Lợi Thiên), và một ngàn năm trong Cõi Trời thứ Ba Mươi Ba tương đương với một ngày trong địa ngục này. Dựa theo phỏng ước đó thì các chúng sinh này phải thọ mạng ở địa ngục này một ngàn năm.

Chúng Hợp Địa Ngục (Điạ ngục đè ép tội nhân tới nát nhừ)

Trong địa ngục này, triệu triệu chúng sinh bị ném vào những cối giã khổng lồ bằng sắt có kích thước bằng cả những cái thung lũng. Những thuộc hạ của Diêm Vương xoay tít những chiếc búa khổng lồ bằng kim loại nóng đỏ lớn như Núi Tu Di quanh đầu họ, và giã nát các nạn nhân ra. Những chúng sinh này bị nghiền nát cho tới chết, kêu khóc trong nỗi thống khổ và kinh hoàng không thể tưởng tượng nổi. Khi những chiếc búa được nhấc lên, thì họ lại sống lại, chỉ để phải tiếp tục chịu đi chịu lại những cực hình như vậy.

Đôi khi, núi non ở cả hai bờ thung lũng biến thành đầu hươu, nai, dê, cừu và những súc vật khác mà những chúng sinh trong địa ngục đã từng giết hại trong các kiếp quá khứ. Những con vật húc đầu vào nhau bằng những đầu sừng phun lửa của chúng, và vô số chúng sinh trong địa ngục bị lôi kéo tới đó bởi nghiệp lực của mình, và đều bị nghiến nát cho tới chết. Rồi, thêm một lần nữa, khi những rặng núi tách ra, họ lại sống lại chỉ để lại bị nghiền nát.

Hai trăm năm làm người tương đương với một ngày của những vị Trời trong Cung Trời Vô Chiến (Dạ Ma Thiên). Hai ngàn năm trong cõi đó tương đương với một ngày trong Chúng Hợp địa ngục, và chúng sinh trong địa ngục này có thọ mạng hai ngàn năm.

Hào Kiếu Địa Ngục (Điạ ngục gào khóc)

Ở đây, chúng sinh đau khổ vì bị quay nướng trong những toà nhà bằng kim loại nóng đỏ không có lối thoát. Họ la thét và gào khóc, có cảm giác sẽ không bao giờ thoát được.

Bốn trăm năm làm người tương đương một ngày trong Cung Trời Đâu Suất (Đâu Suất Thiên). Bốn ngàn năm trong cõi trời đó tương đương với một ngày trong Hào Kiếu Địa Ngục, ở đó thọ mạng kéo dài bốn ngàn năm.

Đại Kiếu Địa Ngục (Địa ngục gào khóc to lớn thống thiết)

Một đám đông thuộc hạ của Diêm Vương, trang bị vũ khí và trông kinh khiếp, xô đẩy hằng triệu nạn nhân vào những nhà kho bằng kim khí với những bức tường đôi đang cháy rừng rực, và đánh đập họ bằng búa và những vũ khí khác. Những cánh cửa bên trong lẫn bên ngoài đều bị niêm phong bằng kim loại nóng chảy và chúng sinh địa ngục kêu rú trong đau đớn khi nghĩ rằng, cho dù họ có thể vượt qua cánh cửa đầu tiên, họ cũng sẽ không bao giờ có thể đi qua cánh cửa thứ hai.

Tám trăm năm làm người thì bằng một ngày trong Cung Trời Hoá Lạc (Hoá Lạc Thiên). Tám ngàn năm ở đó tương đương với một ngày trong Đại Kiếu Địa ngục. Chúng sinh ở địa ngục này có thọ mạng tám ngàn năm.

Viêm Hỏa Địa Ngục (Địa ngục thiêu cháy)

Ở đây, vô lượng chúng sinh đau khổ vì bị nấu sôi trong chất đồng nóng chảy trong những vạc sắt khổng lồ có kích thước lớn bằng cả tam thiên đại thiên thế giới. Dù có trồi lên được ở chỗ nào thì họ cũng bị những thuộc hạ của Diêm Vương tóm lại bằng những cái móc kim khí và dùng búa đánh vào đầu, đôi khi cho đến bất tỉnh; ý niệm về hạnh phúc của họ là những giây lát bất tỉnh hiếm hoi này khi họ không cảm thấy đau đớn. Ngoại trừ những giây phút này, họ luôn phải chịu đựng những đau khổ cùng cực.

Một ngàn sáu trăm năm làm người tương đương một ngày giữa những vị trời trong Cung Trời Tha Hóa (Tha Hoá Thiên). Mười sáu ngàn năm của những vị Trời tương đương một ngày trong Viêm Hoả Địa ngục. Chúng sinh ở địa ngục này có thọ mạng mười sáu ngàn năm như thế.

Đại Viêm Hoả Địa Ngục (Địa ngục thiêu cháy cực nóng)

Chúng sinh trong địa ngục này bị giam cầm trong những ngôi nhà bằng kim khí nóng rực, và những thuộc hạ của Diêm Vương dùng các chĩa ba bằng sắt nóng đỏ đâm họ qua gót chân và qua hậu môn cho tới khi các nạnh chĩa được đẩy sâu vào tận vai và đỉnh đầu. Trong khi đó thân họ bị trói bọc trong những miếng kim loại nóng đỏ. Họ phải chịu đau đớn biết bao! Những đau đớn này kéo dài liên tục trong nửa trung kiếp, là một thời gian vô tận tính theo năm tháng của con người.

Vô Gián Địa Ngục (Địa ngục A Tì dành cho ngũ nghịch trọng tội)

Địa ngục này là một dinh thự bao la bằng kim loại nóng hực, bao quanh là mười sáu Cận Biên Địa ngục. Trong đó các thuộc hạ của Diêm Vương ném vô lượng chúng sinh vào giữa một núi sắt nung đỏ rực than hồng. Chúng còn làm cho lửa cháy bùng lên bằng những ống thổi làm bằng da cọp da beo cho tới khi thân các nạn nhân và ngọn lửa trở nên không còn phân biệt được nữa. Nỗi khổ của các nạn nhân là vô cùng tận. Ngoài những tiếng kêu khóc tuyệt vọng thì không còn dấu hiệu nào về sự hiện diện của những thân xác thực sự nữa.

Các chúng sinh không ngớt mong mỏi được trốn thoát, nhưng điều ấy không xảy ra. Thỉnh thoảng có một lỗ hổng nhỏ trong ngọn lửa và họ nghĩ rằng mình có thể thoát ra, nhưng các thuộc hạ lại đánh họ bằng giáo, dùi cui, búa và những vũ khí khác. Chúng sinh ở đây cũng phải chịu mọi đau đớn hành hà của bảy tầng địa ngục ở trên, chẳng hạn như bị đổ chất đồng nóng chảy vào miệng.

Thọ mạng ở đây kéo dài cả một trung kiếp. Điạ ngục này được gọi là Vô Gián, bởi vì không đâu có thể có nỗi khổ khủng khiếp đến như vậy. Đây là địa ngục mà những kẻ phạm năm trọng tội bị quả báo tức thì, và những hành giả Kim Cương Thừa nào phát khởi những quan điểm đối nghịch lại với Vị Thầy Kim Cương, cũng bị tái sinh vào đó. Ngoài ra không có hành nghiệp nào có thể có đủ nghiệp lực để dẫn đến tái sinh ở địa ngục này.

Cận Biên Địa Ngục

Ở bốn hướng chung quanh Vô Gián Địa Ngục đều bao phủ hào sâu đầy than hồng cháy bỏng, đầm lầy đầy những xác chết thối rửa, cánh đồng vũ khí tua tủa và rừng cây có lá sắc như dao. Ở các phương bắc, nam, đông và tây đều có các điạ ngục này, tất cả hợp lại thành mười sáu địa ngục. Ở các hướng trung gian, đông nam, tây nam, tây bắc và đông bắc, là những đồi cây salmali bằng sắt.

Hố than nóng đỏ. Khi chúng sinh đã trả xong hầu hết các nghiệp tội ở Vô Gián Địa Ngục và thoát được khỏi địa ngục này, họ sẽ thấy ở đằng xa một cái gì giống như một cái mương rợp mát. Thế là họ vui mừng lao xuống đó, để rồi chỉ thấy mình chìm nghỉm xuống một hố than nóng đỏ thiêu đốt thịt xương họ.

Đầm lầy đầy tử thi thối rữa. Tiếp theo đó họ sẽ thấy một con sông. Bị quay nướng trong một lò than cả một đại kiếp, họ khát tới nỗi chỉ nhìn thấy nước là họ đã tràn ngập sung sướng và họ vội vã lao tới đó để làm nguôi cơn khát. Nhưng dĩ nhiên là không có nước. Không có gì ngoài những xác chết, xác người, xác ngựa, xác chó, tất cả đang thối rữa và lúc nhúc giòi bọ, bốc ra những mùi hôi thối khủng khiếp. Họ lún sâu vào bãi lầy này cho tới khi đầu bị chìm nghỉm, và những con sâu có mỏ sắt cấu xé, ngấu nghiến họ.

Cánh đồng dao cạo. Khi thoát khỏi đầm lầy tử thi, họ sung sướng khi nhìn thấy một cánh đồng xanh tươi . Nhưng khi tới đó họ nhận ra rằng nó lởm chởm đầy những vũ khí. Toàn mặt đất bị bao phủ bởi những lưỡi dao sắt nóng đỏ, nhiều như cỏ, chúng đâm xuyên thủng chân họ mỗi khi họ cất bước. Khi họ nhấc chân lên thì bàn chân lại lành lặn, chỉ để lại bị đâm nát thật đau đớn ngay khi họ đặt chân xuống.

Rừng gươm. Được tự do một lần nữa, họ sung sướng khi được nhìn thấy một cánh rừng đẹp đẽ và vội vã tới đó. Nhưng khi tới nơi thì chẳâng có cánh rừng xinh đẹp nào cả. Nó hoá thành một bụi cây mà trên những cành cây kim loại mọc đầy gươm đao thay cho lá. Khi cây lay động trong gió, những lưỡi gươm cắt thân họ thành từng miếng nhỏ. Thân họ sau đó trở lại như cũ và lại liên tục bị băm nhỏ như vậy.

Đồi cây salmali bằng sắt. Đây là nơi tái sinh của những vị tăng, ni vi phạm giới nguyện giữ thân trong sạch và của những kẻ phạm tà dâm. Hậu quả của những ác nghiệp này đã khiến họ phải đến chân đồi cây salmali bằng sắt khủng khiếp. Họ có thể thấy trên đỉnh đồi những người tình cũ đang kêu gọi họ. Khi họ hăm hở leo lên để gặp những người ấy thì tất cả những nhánh lá của cây sắt chĩa xuống và đâm thủng da thịt họ.

Khi lên tới đỉnh, họ chỉ thấy những con quạ, kên kên, và những con cùng loại, chúng móc mắt họ để hút lấy mỡ. Lúc này họ lại thấy những người bạn tình đang gọi họ từ dưới đồi. Họ leo xuống và những lá cây lại chỉa ngược lên liên tục đâm vào ngực họ. Khi xuống tới mặt đất, những người đàn ông và đàn bà bằng sắt hình thù gớm ghiếc ôm chầm lấy họ, cắn đứt đầu họ và nhai cho tới khi óc chảy ròng ròng ở khóe miệng. Những đau khổ phải trải qua ở địa ngục này là như vậy.

Hãy thấm nhuần mọi chi tiết của những đau khổ ở bát hỏa địa ngục, mười sáu địa ngục cận biên và phụ cận, và những đồi cây salmali bằng sắt. Hãy lui về một nơi yên tĩnh, nhắm mắt lại và tưởng tượng rằng mình đang ở trong những địa ngục này. Khi đã cảm nhận được nỗi kinh hoàng và đau khổ nhiều tới độ như thể mình đang thực sự sống ở đó, thì hãy khởi lên trong tâm những suy nghĩ như sau:

“Khi quán tưởng về những nỗi thống khổ đó, tôi cảm nhận được sự khiếp sợ và đau khổ khủng khiếp như vậy, mặc dù tôi không thực sự ở đó. Ngay giờ phút này, có vô số chúng sinh đang sống trong địa ngục, và tất cả họ đã từng là cha mẹ của tôi trong những đời quá khứ. Chẳng biết cha mẹ, những người thân yêu và bằng hữu của tôi có bị tái sinh vào đó sau khi chết hay không. Sự tái sinh vào những cõi này chủ yếu là do những hành vi phát xuất từ thù hận, và bản thân tôi cũng đã tích lũy vô lượng hành nghiệp ấy trong đời này cũng như trong tất cả những đời quá khứ của tôi. Tôi biết chắc rằng không sớm thì muộn chính tôi cũng sẽ phải tái sinh vào những cõi địa ngục đó.

“Vào lúc này, tôi có được thân người với đầy đủ mọi điều kiện tự do và thuận lợi. Tôi đã gặp được một vị Thầy chân chính và thọ nhận được những lời chỉ dạy thâm sâu để có thể đạt được Phật quả. Vậy, tôi phải gắng hết sức mình để hành trì các pháp tu để có thể cứu thoát tôi không bao giờ để cho tôi còn bị tái sinh nữa vào những cõi thấp đó.”

Hãy quán chiếu nhiều lần như vậy về nỗi khổ ở địa ngục. Hãy sám hối những ác hạnh trong quá khứ với lòng ân hận sâu xa và hãy lập quyết tâm bất thối chuyển rằng, cho dù phải bỏ thân mạng này thì cũng sẽ không bao giờ vi phạm những hành nghiệp dẫn đến tái sinh vào địa ngục. Với lòng bi mẫn to lớn đối với những chúng sinh giờ đây đang ở đó, hãy cầu nguyện rằng ngay giây phút này, xin cho tất cả họ có thể được giải thoát khỏi những cõi thấp. Hãy đem những lời chỉ dạy vào công phu hành trì, hãy hoàn tất pháp tu này ở phần đầu của thời công phu, ở phần thực hành chính yếu cũng như vào lúc kết thúc thời công phu.

2. BÁT HÀN ĐỊA NGỤC (Tám địa ngục lạnh)

Trong các địa ngục này, toàn thể khung cảnh được tạo bằng núi tuyết và băng hà, thường xuyên bị bao phủ trong bão tuyết. Chúng sinh ở đây, hoàn toàn phải chịu trần truồng và bị hành hạ bởi giá lạnh.

Trong Địa ngục Án Phù Đà (Điạ Ngục Phồng Giộp), cái lạnh buốt giá làm cho thân họ phồng giộp lên.

Trong Địa Ngục Ni La Phù Đà, (Địa Ngục Phồng Giộp Nứt Nẻ), những mảng phồng giộp trên thân họ bị nứt bật ra.

Trong Địa Ngục A Tra Tra (Địa Ngục Nghiến Răng), cái lạnh nhức buốt đến mức không thể chịu nổi và hàm răng họ phải nghiến chặt lại.

Trong Địa Ngục Hoắc Hoắc Ba (Điạ Ngục Than Khóc), tiếng than khóc của họ chẳng bao giờ dứt.

Trong Địa Ngục Hô Hô Ba (Địa Ngục Rên Xiết), giọng họ bị vỡ ra và chỉ có những tiếng rên dài nghe được từ miệng họ.

Trong Địa Ngục Ưu Bát La (Địa Ngục Nứt Nẻ Như Hoa Ưu Bát La), da của họ trở nên xám xanh và thân họ nứt ra thành bốn mảnh như cánh hoa ưu bát la.

Trong Địa Ngục Liên Hoa (Địa Ngục Nứt Nẻ Như Hoa Sen), có thể nhìn thấy máu thịt đỏ dưới da họ, và cái giá lạnh làm thân họ phải bị nứt thành tám mảnh như hoa sen.

Cuối cùng, trong Địa Ngục Đại Liên Hoa, máu thịt họ trở nên đỏ sậm và nứt ra thành mười sáu, ba mươi hai mảnh và sau đó thành vô số mảnh. Sâu bọ đục thủng những mảng thịt vỡ nứt và ngấu nghiến chúng bằng những cái mỏ kim khí. Tên của tám địa ngục này bắt nguồn từ những đau khổ khác nhau mà chúng sinh phải chịu đựng ở đó.

Còn về thọ mạng trong những địa ngục lạnh này, hãy hình dung một cái thùng có thể chứa được hai trăm thước bộ Câu Tát La (Kosala) (Một đơn vị đo lường thời xưa được đặt tên theo thành phố Kosala của Ấn Độ, hiện nay gần Ayodhya). Đựng đầy hột mè. Nếu cứ một trăm năm lại lấy một hột mè ra thì thọ mạng của các tội nhân trong Địa Ngục Án Phù Đà (Điạ Ngục Phồng Giộp) kéo dài chừng nào tất cả các hột mè được lấy ra khỏi cái thùng đó.

Đối với những địa ngục lạnh khác, thọ mạng và các nỗi khổ mỗi thứ tăng gấp hai mươi lần. Do đó thọ mạng trong Địa Ngục Ni La Phù Đà (Địa Ngục Phồng Giộp Nứt Nẻ) dài gấp hai mươi lần đời sống trong Địa Ngục Án Phù Đà; thọ mạng trong Địa Ngục A Tra Tra (Địa Ngục Nghiến Răng) thì dài gấp hai mươi lần đời sống trong Địa Ngục Ni La Phù Đà và tương tự như vậy đối với các địa ngục khác…

Hãy hứng chịu những nỗi đau khổ (của các tội nhân) này trong tâm thức, và hãy thiền quán về những nỗi thống khổ này theo cách thức thiền quán đối với bát hoải địa ngục. Hãy nghĩ rằng trong thế giới con người hiện tại này, sẽ lạnh lẽo khủng khiếp biết bao khi ta không có được một mảnh vải che thân dù chỉ trong chốc lát giữa gió bão mùa đông lạnh giá. Làm sao có thể chịu đựng được nếu bị tái sinh vào bát hàn địa ngục?

Hãy phát lồ sám hối những lỗi lầm của mình và nguyện không bao giờ tái phạm. Sau đó hãy phát khởi lòng bi mẫn đối với chúng sinh đang sống trong những thế giới đó. Hãy công phu hành trì như trong những thời công phu trước, áp dụng các phương pháp hành trì vào lúc khởi đầu, trong phần công phu chính yếu cũng như khi kết thúc thời công phu.

3. CÔ ĐỘC ĐỊA NGỤC

Các Cô Độc Địa Ngục hiện hữu ở nhiều tầng khác nhau và những nỗi khổ phải kinh qua ở mỗi nơi cũng biến đổi rất nhiều. Chúng sinh có thể bị nghiền nát giữa các tảng đá, hoặc bị giam cầm trong một hòn đá, bị cóng lạnh giữa băng tuyết, bị nấu chín trong nước sôi hay thiêu đốt trong lửa đỏ. Có những chúng sinh cảm thấy rằng khi có người đang đốn cây, thì mình là cái cây đang bị chặt cành. Một số đau khổ bởi thấy thân thể họ là những dụng cụ bị liên tục sử dụng như cối giã, chổi, xoong chảo, cánh cửa, kèo cột, đinh đầu lớn và dây thừng...

Minh chứng về các Cô Độc Địa Ngục có thể kể đến các câu chuyện về con cá mà Ngài Lingje Repa nhìn thấy trong Hồ Yamdrok và con ếch mà thành tựu giả Tangtong Gyalpo tìm thấy bên trong một hòn đá. Yutso Ngonmo, Hồ Lam Ngọc xuất hiện trong lúc thánh nữ Yeshe Tsogyal đang thiền định ở Yamdrok, khi một miếng vàng ròng do một người tu theo đạo Bonpo ném xuống đã biến thành hồ nước. Nó là một trong bốn cái hồ nổi tiếng ở Tây Tạng, và dài đến nỗi từ đầu hồ tại Lung Kangchen tới cuối hồ ở Zemaguru phải đi bộ mất vài ngày.

Một ngày nọ, khi đại thành tựu giả Lingje Repa đang quan sát cái hồ này thì Ngài bắt đầu bật khóc và than rằng: “Con vật đáng thương! Chớ lạm dụng những vật cúng dường! Chớ lạm dụng những vật cúng dường!” Khi những người đang ở cùng với Ngài xin Ngài giải thích, Ngài nói “Thần thức của một Lạt Ma lạm dụng của cúng dường đã bị tái sinh trong một điạ ngục Cô Độc trong cái hồ này, và đang phải hứng chịu cực kỳ đau khổ.”

Những người này muốn được nhìn thấy, và vì thế mà vị thành tựu giả đã làm khô cạn nước hồ trong chốc lát một cách kỳ diệu, phơi bày một con cá khổng lồ, lớn tới nỗi chiếm trọn bề rộng và bề dài của cái hồ. Nó đang quằn quại trong đau đớn vì toàn thân bị phủ kín bởi những sinh vật nhỏ đang ăn sống nó. Những thị giả của Ngài Lingje Repa hỏi Ngài người có nghiệp xấu như vậy là ai, và Ngài trả lời đó là Tsangla Tanakchen, một lạt ma của phái Hắc Mã (Ngựa Đen) ở tỉnh Tsang.

Ông là một Lạt Ma mà lời nói, ngôn từø có mãnh lực to lớn và có thể đem đến nhiều sự gia hộ. Chỉ một cái nhìn của ông là đủ để chữa lành cho một người bị tinh linh quấy nhiễu. Vì lý do này ông rất được kính trọng trong bốn tỉnh của U và Tsang. Nhưng khi ông thực hiện pháp chuyển di tâm thức trong những buổi tang lễ, mỗi lần phát ra tiếng “P’et” là ông đòi phải được trả công bằng một số lượng lớn gồm ngựa và trâu bò của người chết.

Một ngày nọ, khi thành tựu giả Tangtong Gyalpo đang hành trì những bài pháp du già (yoga) về kinh mạch và khí lực trên một tảng đá lớn, làm tảng đá bể ra làm hai. Bên trong đó là một con cóc lớn, có vô số những sinh vật bé nhỏ đang bám vào và ăn sống nó, làm nó há mở rồi lại ngậm cái miệng đen của nó lại vì đau đớn khôn tả. Khi những người đồng hành hỏi Ngài tại sao lại xảy ra điều này, Tangtong Gyalpo giải thích rằng người bị tái sinh trong hình thể đó là một thầy tu đã dùng những con vật để cúng tế.

Hãy nhìn những Lạt Ma ngày nay! Mỗi lần một tín chủ giết một con cừu béo tốt và bày ra thịt cổ, những trái cật và những bộ phận khác cùng với thịt và máu, chất đống nó cùng những miếng thịt sườn trâu yak còn run rẩy, những Lạt Ma của chúng ta kéo áo choàng ra khỏi đầu và mút bộ lòng như trẻ em bú mẹ. Sau đó, họ dùng dao lạng miếng thịt và ung dung nhai nuốt chúng một cách ngon lành. Khi ăn xong, cái đầu của họ mới ngẩng lên, nóng hổi và bốc hơi. Miệng họ loáng mỡ và râu họ thoảng một màu đỏ nhạt. Nhưng họ sẽ gặp hậu quả nặng nề trong đời sau, ở các cô độc địa ngục, khi họ phải trả giá lại bằng chính thân thể của họ tất cả những gì họ đã ăn quá nhiều lần trong kiếp sống này.

Có lần, Ngài Palden Chokyong, Tu Viện Trưởng Tối Cao của xứ Ngor, có mặt ở Derge. Ngài bố trí nhiều tu sĩ dọc theo bờ Sông Ngulda, ra lệnh cho họ không được để bất kỳ thứ gì trôi qua. Tới chiều, họ thấy một thân cây lớn trôi trên mặt nước nên lôi vào bờ và đem lại cho vị Tu Viện Trưởng, nói rằng ngoài khúc cây này họ không thấy vật gì khác.

“Chắc hẳn là nó,” Ngài nói. “Hãy chẻ nó ra.”

Ở bên trong thân cây họ thấy một con cóc lớn đang bị vô số côn trùng ăn sống. Sau khi thực hiện nghi lễ tịnh hóa, vị Tu Viện Trưởng nói rằng con cóc trước đây là một người quản thủ tên là Pogye ở vùng Derge. Ngày nay những người quản thủ như vậy có vẻ có mọi quyền lực, nhưng tất cả những người lãnh đạo và những kẻ quyền cao chức trọng đang thâm lạm của công nên suy nghĩ về Cô Độc Địa Ngục và phải vô cùng cẩn trọng.

Vào thời Đức Phật, có một người đồ tể của làng lập một lời nguyện không giết súc vật vào ban đêm. Ông ta bị tái sinh vào một địa ngục Cô Độc. Vào ban đêm ông ta được trải qua sự hỷ lạc vô hạn. Ông sống trong một lâu đài tuyệt đẹp với bốn phụ nữ quyến rũ và họ ra sức phục vụ các thức ăn đồ uống và những thú vui khác cho ông. Tuy nhiên, vào ban ngày những bức tường của toà nhà biến thành kim khí nóng đỏ và bốn người phụ nữ thành bốn con chó nâu thật khủng khiếp ngấu nghiến ăn thịt ông ta.

Ngày xưa, Ngài Srona thấy một người đàn ông ngoại tình thề giữ giới không tà dâm vào ban ngày. Ngược với người đồ tể, ông ta chỉ bị đau khổ vào ban đêm.

Trước đây có một tu viện rất an vui có khoảng năm trăm tăng sĩ. Khi chuông đổ vào giữa trưa, những nhà sư vân tập để thọ trai, dùng bữa trưa thì tu viện biến thành một căn nhà bằng kim khí cháy nóng. Những bình bát, ly tách và... biến thành các vũ khí và những vị tu sĩ đánh đập nhau. Khi hết giờ ăn trưa, họ tách ra và lại trở về vị trí cũ. Vào thời Đức Phật Ca Diếp, nhiều vị tăng đã tranh cãi vào giờ ăn trưa, và đây là sự trổ quả việc tranh cãi đó.

Tám địa ngục nóng (hỏa ngục), tám điạ ngục lạnh (hàn ngục), cùng với cận biên địa ngục và cô độc địa ngục tạo thành mười tám cõi địa ngục. Hãy nghiên cứu kỹ càng số lượng của những địa ngục này, thời gian trải qua ở đây, những đau khổ phải chịu đựng và nguyên nhân gây ra việc phải bị đọa sinh vào đó. Hãy thiền quán với lòng bi mẫn về những chúng sinh bị đọa sinh ở đó. Hãy cố gắng để bảo đảm rằng sẽ không một ai, kể cả bản thân mình lẫn bất kỳ chúng sinh nào khác, còn bị sinh vào những cõi đó.

Nếu chỉ hoàn toàn bằng lòng với việc lắng nghe và hiểu biết về những địa ngục này về mặt kiến thức mà không biến những hiểu biết ấy thành một kinh nghiệm sống thực, thì ta sẽ chỉ trở thành một người trong đám những hành giả ngoan cố và kiêu ngạo, sẽ bị các bậc siêu phàm phê phán và các bậc thiện tri thức chỉ trích.

Ngày xưa có một tu sĩ có đức hạnh gương mẫu nhưng lại hết sức kiêu ngạo. Ông ta đến thăm Ngài Shang Rinpoche, Ngài hỏi ông ta hiểu biết Giáo Pháp gì.

“Tôi đã được nghe nhiều giáo lý,” vị tăng sĩ trả lời.

“Vậy hãy kể cho ta tên của mười tám địa ngục,” Shang Rinpoche nói.

“Tám địa ngục nóng, tám địa ngục lạnh... tổng cộng là mười sáu... và nếu Ngài thêm vào Mũ Đen và Đỏ của các vị Karmapa thì là mười tám.” (Điều này được giải thích trong chương theo sau.)

Không phải vì sự thiếu tôn kính đã khiến cho ông ta gộp chung các đạo sư Karmapa với các địa ngục. Đơn giản là chỉ vì ông ta quên tên của các Cô Độc Điạ Ngục và Cận Biên Địa Ngục, và bởi vào lúc đó những vị đạo sư Karmapa Mũ Đen và Đỏ rất nổi tiếng, nên ông ta đã hấp tấp kể thêm các Ngài vào.

Bây giờ bạn có thực hành những giáo lý đã nhận được hay không là một chuyện, nhưng nếu ngay cả những ngôn từ và thuật ngữ có liên quan đến những giáo lý ấy mà cũng không biết tới thì thật đáng xấu hổ.



Thanked by 1 Member:

#695 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 21/01/2013 - 00:09

2. Ngạ Quỷ

Có hai loài ngạ quỷ: ngạ quỷ sống tụ tập và ngạ quỷ du hành khắp không gian.

LOÀI NGẠ QUỶ SỐNG TỤ TẬP

Những ngạ quỷ này bị hành hạ đau khổ bởi ba loại chướng ngại: chướng ngại bên ngoài (ngoại chướng), chướng ngại bên trong (nội chướng), hay chướng ngại đặc biệt (không chướng).

Ngạ quỷ bị hành hạ bởi chướng ngại bên ngoài

Những ngạ quỷ này bị hành hạ bởi cái đói và khát cực độ. Nhiều thế kỷ đã trôi qua mà ngay cả một từ “nước” cũng chẳng được nhắc tới. Thường xuyên bị ám ảnh bởi thực phẩm và nước uống, họ không ngừng tìm kiếm thức ăn và nước uống, nhưng không tìm thấy ngay cả một dấu vết nhỏ nhất. Thỉnh thoảng họ thấy ở xa một dòng nước trong trẻo, thanh tịnh. Nhưng những khớp xương của họ yếu tới nỗi không đỡ nổi cái bụng nặng nề. Họ khổ sở lắm mới tới được đó, và khi tới nơi thì hoàn toàn kiệt lực, chỉ để càng khốn khổ hơn khi thấy nước đã khô cạn hết, không còn gì ngoài đáy sông đầy sỏi đá.

Đôi khi họ thấy xa xa có một vườn trái cây. Cũng như trước, họ tiến lại gần, nhưng khi đến nơi họ lại thấy rằng những cây lớn đã hoàn toàn khô héo. Đôi lúc họ nhìn thấy nhiều thức ăn và nước uống cùng những thứ vừa ý khác, nhưng khi tới gần thì họ thấy những thứ này được bảo vệ bởi vô số người trang bị vũ khí, những người này săn đuổi và đánh đập họ bằng các vũ khí khiến họ phải bị vô cùng đau đớn.

Vào mùa hè, ngay cả ánh trăng dường như cũng nóng bỏng và thiêu đốt họ; vào mùa đông thì họ có cảm tưởng mặt trời cũng lạnh giá. Những cảm giác này hành hạ họ khủng khiếp.

Có lần, khi Ngài Srona ở trong một xứ ngạ quỷ, Ngài thấy sự tham lam của họ độc hại tới nỗi làm Ngài phát sốt và miệng Ngài trở nên hoàn toàn khô đắng. Ngài đi qua một lâu đài bằng sắt mà đứng ở cửa là một hình dạng ảm đạm khủng khiếp với đôi mắt đỏ ngầu.

”Xin hỏi ở đâu có nước?” Ngài Srona nói.

Nghe được lời này, tất cả một đám ngạ quỷ trông giống như những mẩu gỗ đang cháy xúm lại quanh Ngài, van nài:

“Đấng viên mãn vĩ đại, xin hãy cho chúng tôi nước uống!”

“Chính ta cũng chẳng tìm ra,” Ngài trả lời.

“Các ngươi hãy cho ta một ít.”

“Ngài nói gì vậy?” những ngạ quỷ trả lời.

“Chúng tôi sinh ở vùng này đã mười hai năm mà tới nay chưa từng được nghe nhắc tới nước.”

Ngạ quỷ bị hành hạ bởi chướng ngại bên trong

Những ngạ quỷ này có cửa miệng không lớn hơn một lỗ kim. Thậm chí nếu họ uống hết nước trong các đại dương, thì lúc nước trôi xuống cái cổ họng nhỏ như một sợi lông ngựa, sức nóng của hơi thở họ sẽ làm nước bốc hơi hết. Ngay cả nếu bằng cách nào đó họ nuốt được một chút ít, thì cũng chẳng bao giờ làm đầy nổi cái bao tử có kích cỡ bằng cả một quốc gia. Thậm chí, cho dù nước vào được bao tử đủ để làm họ thoả mãn, thì vào ban đêm, nó cũng biến thành lửa và thiêu cháy tim, phổi, và nội tạng của họ. Khi muốn bước đi, với chân tay chỉ như cọng cỏ, họ không thể nâng nổi cái bụng khổng lồ, và sau đó, cũng làm cho họ đau khổ vô hạn.

Ngạ quỷ bị hành hạ bởi chướng ngại đặc biệt

Những ngạ quỷ này phải chịu tất cả những loại đau khổ khác nhau và ở mức độ khác nhau. Chẳng hạn, một số ngạ quỷ có nhiều sinh vật sống trong thân thể và ăn thịt chúng.

Có lần khi đang du hành trong xứ sở của ngạ quỷ, Ngài Srona tới một lâu đài và gặp một phụ nữ tuyệt đẹp. Nhờ vóc dáng thanh tú và được trang điểm bằng châu báu nên trông bà thật quyến rũ. Ở mỗi chân chiếc ngai bà ngồi có một ngạ quỷ bị trói. Bà cúng dường Ngài Srona thức ăn, và báo trước rằng Ngài không nên cho các ngạ quỷ này một miếng ăn nhỏ nhất cho dù họ van xin.

Khi Ngài Srona bắt đầu ăn thì họ bắt đầu van xin. Ngài đưa một ít thức ăn cho một ngạ quỷ thì miếng thức ăn đó biến thành vỏ trấu; những gì Ngài cho ngạ quỷ thứ hai biến thành cục sắt; ngạ quỷ [thứ ba] bắt đầu ăn thịt của chính mình, và những gì Ngài cho ngạ quỷ thứ tư thì biến thành máu và mủ.

Khi người phụ nữ trở lại, bà la lên, “Tôi đã nói là Ngài không nên cho họ bất cứ thứ gì! Ngài nghĩ rằng ngài có nhiều lòng bi hơn tôi ư?”

“Bà có liên hệ như thế nào với bốn ngạ quỷ này?” Ngài Srona hỏi bà ta.

“Đây là chồng tôi; kia là con trai, đó là con dâu, và người thứ tư là người hầu của tôi.”

“Hành nghiệp nào trong quá khứ đã đưa họ tới đây?”

“Dân chúng ở cõi Diêm Phù Đề (cõi Ta Bà) rất đa nghi,” người phụ nữ trả lời.

“Ngài sẽ không bao giờ tin tôi đâu.”

“Làm sao tôi lại không tin bà khi mà chính mắt tôi đang chứng kiến cảnh tượng ngạ quỷ?”

Thế là người phụ nữ kể cho Ngài Srona câu chuyện của bà.

“Tôi là một phụ nữ Bà la môn trong một ngôi làng nọ. Một chiều kia, tôi nấu một số thức ăn ngon vì hôm đó là một ngày tốt lành. Tình cờ Ngài Katyayana vĩ đại và siêu phàm đi khất thực qua đó. Tôi phát khởi niềm tin nơi Ngài và cúng dường Ngài thực phẩm. Rồi tôi tự nghĩ có lẽ chồng tôi muốn chia sẻ công đức, nên tôi nói với ông rằng:

“Hãy hoan hỷ với tôi vì tôi đã cúng dường Ngài Katyayana vĩ đại và siêu phàm, bậc thừa kế của Đức Phật.”

Nhưng ông ta nổi cơn thịnh nộ.

“Bà chưa cúng dường thực phẩm cho những người Ba la môn, mà lại dâng phần thức ăn đầu tiên cho tu sĩ trọc đầu này! Tại sao ông ta không thể tọng vỏ trấu vào miệng?”

Tôi cũng kể chuyện tương tự cho con trai mình, nhưng nóù cũng nổi giận và la lên rằng:

“Tại sao cái ông đầu trọc của má không ăn những mẩu sắt?”

“Tối hôm đó, cha mẹ tôi gởi cho tôi một số thức ăn ngon, nhưng đứa con dâu đã ăn mất và chỉ chừa lại cho tôi những miếng dở nhất. Khi tôi hỏi :

"Có phải con đã ăn những miếng ngon và chỉ chừa lại cho mẹ những miếng tệ nhất?" thì nó đã nói dối tôi:

"Thà con ăn thịt mình còn hơn là chạm vào đĩa thức ăn của mẹ!"

“Tương tự như vậy, khi người hầu đã ăn những thức ăn mà cô ta phải mang lại cho gia đình tôi, cô ta nói với tôi rằng cô thà uống máu và mủ còn hơn là ăn cắp thực phẩm của tôi.

“Bản thân tôi trở thành một ngạ quỷ đầy quyền lực vì tôi ước nguyện được tái sinh vào nơi mà tôi có thể thấy những gì xảy ra cho họ do nghiệp lực của họ chiêu cảm. Tôi đã không ước nguyện được sinh vào Cung Trời thứ Ba Mươi Ba (Đao Lợi) sau khi đã cúng dường cho một bậc siêu phàm.

“Nếu có bao giờ Ngài tới làng tôi, xin nói với con gái tôi, mà bây giờ là một con điếm, rằng Ngài đã gặp cha mẹ nó, và Ngài được giao phó để bảo với nó rằng những gì nó đang làm sẽ có hậu quả xấu, đó là một cách sống sai lầm và nó nên từ bỏ những cách sống xấu xa đó.

“Nếu nó không tin Ngài, xin nói với nó rằng trong căn nhà cũ của cha nó có bốn bình sắt chứa đầy vàng, một cây gậy bằng vàng và một bình tẩy tịnh cho tu sĩ. Xin nói với nó đem những thứ này thỉnh thoảng cúng dường cho Ngài Katyayana vĩ đại và siêu phàm, và hãy hồi hướng công đức nhân danh chúng tôi. Điều đó sẽ giảm bớt nghiệp tội của chúng tôi cho tới khi cuối cùng nghiệp tội ấy được trả kỳ hết.”

Có lần, khi Đạo Sư Jetari đang du hành, Ngài gặp một nữ ngạ quỷ có thân hình gớm guốc, là mẹ của năm trăm đứa con.

“Chồng tôi đi Bodh Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng) đã mười hai năm để tìm kiếm thực phẩm và vẫn chưa về. Nếu Ngài đến đó, xin nói với ông ấy rằng nếu không về sớm, những đứa con của chúng tôi sẽ chết đói hết.”

“Chồng của ngươi ra sao?” Đạo sư hỏi. “Mọi ngạ quỷ đều giống nhau, làm sao ta có thể nhận ra ông ta?”

“Ngài không thể quên ông ấy được,” bà ta nói.

“Ông ta có một miệng lớn, mũi bẹp dí, mù một mắt và có tất cả chín tướng xấu.”

Khi Ngài Jetari đến Bodh Gaya, Ngài thấy một sa di ném thực phẩm và nước dùng trong những lễ cúng dường bánh cúng (torma) ra ngoài. Khi vị sa di bỏ đi, một đám ngạ quỷ xô lấn nhau để tranh dành đồ cúng. Trong đám đó có kẻ mà Ngài đang tìm kiếm, vì thế Ngài nói với ngạ quỷ này lời nhắn của người vợ của hắn.

Ngạ quỷ này trả lời:

“Tôi đã lang thang mười hai năm nhưng chưa từng tìm được vật gì ngoại trừ một lần, khi một tu sĩ thanh tịnh làm nhỏ một ít nước mũi, nhưng thậm chí tôi cũng không lấy được nhiều vì cả đám chúng tôi đánh nhau để tranh dành nó.” Và Đạo sư nói thêm vào khi Ngài thuật lại câu chuyện là trong lúc đánh nhau vì một ít nước mũi đó, ngạ quỷ đã bị thương rất nặng.

Trong tâm thức, hãy hứng chịu những nỗi khổ khác nhau mà các ngạ quỷ phải trải qua do nghiệp lức chiêu cảm, nhất là sự hành hạ của cái đói và khát. Hãy nghĩ xem ta sẽ đau khổ như thế nào nếu không ăn hay uống chỉ trong một buổi sáng. Ta sẽ cảm thấy thế nào nếu bị tái sinh ở một nơi mà trong nhiều năm thậm chí chữ nước uống cũng không được nhắc tới?

Hãy quán chiếu rằng những nguyên nhân chính yếu gây nên sự tái sinh làm ngạ quỷ là tính keo kiệt bủn xỉn và sự phản đối lòng rộng lượng (tâm bố thí) của những người khác. Chúng ta cũng đã mắc phạm những hành vi như thế vô số lần, vì thế chúng ta phải làm bất kỳ những gì có thể để tránh bị đọa sinh vào nơi đó. Hãy thiền quán như vậy tận đáy lòng mình với ba phương pháp dành cho lúc khởi đầu thời công phu, trong khi thực hành phần chính yếu của thời công phu và lúc kết thúc thời công phu.

LOÀI NGẠ QUỶ DI CHUYỂN TRONG KHÔNG GIAN

Cảnh giới này bao gồm tsen, gyalpo, shindre, jungpo, mamo, theurang. Tất cả những chúng sinh này luôn sống trong sợ hãi và ảo giác. Không suy nghĩ điều gì ngoài cái xấu, họ luôn làm bất kỳ những gì có thể làm được để gây tổn hại cho những chúng sinh khác.

Và nhiều trong số những ngại quỷ này thậm chí còn bị đoạ vào những cõi thấp hơn như như địa ngục ngay những loại tinh linh khác nhau sau khi thọ mạng ở cõi ngạ quỷ chấm dứt. Đặc biệt, mỗi tuần, họ lại phải trải qua tất cả những đau đớn của cái chết trước đây do bệnh tật, vũ khí, những thế lực xấu, hay bất kỳ những gì khác gây ra.

Bởi điều duy nhất mà họ muốn làm là trút bỏ nỗi khổ của mình sang người khác, nên dù đi bất cứ nơi đâu họ cũng không làm gì khác ngoài sự ác hại. Nhưng dù như vậy, họ vẫn không thể gặt hái được bất kỳ điều tốt đẹp nào cho bản thân họ. Thậm chí khi vui sướng được thăm viếng những bạn bè cũ và những người thân yêu, những ngại quỷ này chỉ đem lại cho những người đó bệnh tật, điên khùng và những đau khổ bất ngờ khác.

Những ngạ quỷ này phải trải qua những đau khổ liên tục. Các pháp sư đầy năng lực đã chôn vùi, thiêu đốt họ và cử hành những nghi lễ mà trong đó các pháp sư ném mọi loại vũ khí tưởng tượng vào họ. Các pháp sư nhốt họ trong bóng tối dưới trái đất trong nhiều kiếp, thiêu đốt họ trong các ngọn lửa cúng dường, nghiền giã họ với những hột mù tạt, bột đá hoặc những thứ tương tự. Các pháp sư chẻ đầu họ ra thành trăm mảnh và thân họ thành một ngàn khúc.

Giống như tất cả các ngạ quỷ khác, họ cũng có những tri kiến lệch lạc: vào mùa đông, mặt trời thì lạnh lẽ vào mùa hè, mặt trăng lại nóng bỏng. Một số ngạ quỷ mang hình tướng chim, chó hay động vật khác, trông vô cùng gớm ghiếc. Tóm những đau khổ của các loài ngạ quỷ này thì không thể tưởng tượng được.

Hãy hành trì như đã được chỉ dạy ở phần trước, thiền quán với những phương pháp đã được dạy khi bắt đầu thời công phu, trong lúc thực hành phần hành trì chính yếu và vào lúc kết thúc thời công phu. Qua dòng tâm thức, hãy hứng chịu những đau khổ của những chúng sinh này và hãy nuôi dưỡng lòng từ và bi đối với họ.


Thanked by 1 Member:

#696 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 25/01/2013 - 12:45

3. Súc Sinh

Có hai loài súc sinh: những sinh vật sống ở các độ sâu và những súc vật sống rải rác ở những nơi khác nhau.

SINH VẬT SỐNG Ở CÁC ĐỘ SÂU

Các đại dương chứa đầy cá, các loài bò sát, rùa, cua tôm, sâu bọ và những sinh vật khác, nhiều như những hạt mạch nha dưới đáy một thùng bia. Có cả những con rắn và quái vật lớn tới nỗi thân chúng có thể quấn nhiều vòng quanh Núi Tu Di. Lại có những sinh vật khác nhỏ như những hạt bụi hay đầu mũi kim.

Tất cả những sinh vật này phải chịu đựng những đau khổ vô hạn. Những con lớn nuốt những con bé. Ngược lại cũng có những con bé đục khoét những con lớn và ăn sống chúng. Những con vật lớn cũng phải bị có nhiều con nhỏ xíu sống bên trong chúng và ăn thịt chúng. Một số những sinh vật này sinh ra ở giữa những châu lục, nơi mặt trời không chiếu sáng và nơi thậm chí chúng không thể thấy tứ chi của chúng co hay duỗi. Đần độn và ngu dốt, chúng không biết những gì nên làm và không nên làm. Chúng bị tái sinh vào những nơi mà khổ đau là vô hạn.

SÚC VẬT SỐNG RẢI RÁC Ở NHỮNG NƠI KHÁC NHAU

Những súc vật sống trong các cõi trời và cõi người chịu đau khổ liên tục bởi sự ngu xuẩn của chúng và bởi chúng bị bóc lột. Trong khi đó chúng long thần phải trải cuộc đời trong sự hành hạ cùng cực bởi những con chim kim xí điểu (garuda) và những trận mưa cát nóng. Thêm vào đó, những chúng sinh này ngu đần, hung hăng và hiểm độc.

Đặc biệt, những dã thú sống cùng với thế giới con người chúng ta thường xuyên phải sống trong sự sợ hãi. Chúng không thể ăn một miếng ăn mà không phải đề phòng cảnh giác. Chúng có nhiều tử thù, vì các loài dã thú đều săn mồi lẫn nhau, và do vậy, luôn có những đe dọa của kẻ săn mồi, kẻ bị săn, và những sự đe dọa mạng sống khác. Diều hâu giết những con chim nhỏ, chim nhỏ giết các côn trùng... liên tục chồng chất những hành động xấu ác trong một vòng tròn vô tận của sự giết và bị giết.

Thợ săn thì lão luyện trong mọi phương pháp hành hạ và giết hại những thú vật này. Họ đe dọa mạng sống của chúng bằng mọi mưu kế xấu xa, bẫy, lưới và súng. Một số muông thú bị giết để lấy sừng, da, bộ lông và những sản vật khác của thân thể chúng. Những con trai (sò) bị giết để lấy ngọc; voi bị giết để lấy ngà và xương; cọp, beo, rái cá và cáo để lấy bộ lông; bò xạ để lấy xạ; con lừa và trâu yak để lấy máu và thịt. Thật là một nỗi đau khổ khủng khiếp khi chính thân chúng được sinh ra chỉ để bị giết hại.

Đối với những thú vật được con người thuần hoá, chúng ngu đần đến nỗi khi những kẻ giết hại chúng tới gần, cầm dao trong tay, chúng chỉ biết giương đôi mắt mở lớn mà thậm chí còn không nghĩ tới việc chạy trốn. Chúng bị vắt sữa, chở nặng, bị thiến, xỏ mũi và bị thắng vào cái cày. Chẳng có con nào trong chúng trốn thoát khỏi vòng tròn nô lệ liên tục này. Ngựa và trâu yak tiếp tục bị chở nặng và bị cưỡi ngay cả khi lưng chúng vô cùng đau đớn. Khi không thể đi xa hơn được nữa, chúng bị đánh roi và bị ném đá. Trong đầu những chủ nhân, họ chẳng bao giờ nghĩ được rằng chúng có thể bị bệnh tật hay kiệt sức.

Trâu bò và cừu bị bóc lột cho đến chết. Một khi chúng quá già, chúng bị chính những người chủ của mình đem bán hay giết thịt. Bất kỳ trường hợp nào, số mệnh của chúng đều bị định đoạt bởi người đồ tể, và chúng không bao giờ biết đến cái chết một cách tự nhiên.

Vì thế, loài vật trải qua những đau khổ không thể tưởng tượng được. Bất cứ khi nào thấy những thú vật bị hành hạ như vậy, hãy đặt mình vào vị trí của chúng và hình dung thật chi tiết tất cả những gì chúng phải trải qua. Hãy thiền định với lòng bi mẫn mãnh liệt về tất cả những chúng sinh bị tái sinh làm kiếp súc vật.

Đặc biệt, nếu có nuôi súc vật, hãy đối xử tử tế và thương yêu chúng. Bởi lẽ tất cả các súc vật, ngay cả những côn trùng nhỏ bé nhất, đều có cảm giác sung sướng và đau khổ, và vì tất cả chúng đã từng là cha mẹ của chúng ta, hãy phát khởi lòng từ bi đối với chúng, và hãy kết hợp công phu hành trì của bạn với những phương pháp đã được chỉ dạy vào lúc khởi đầu thời công phu, lúc thực hành phần công phu chính yếu và vào lúc kết thúc thời công phu.

Dù chúng sinh có thể bị tái sinh bất cứ nơi đâu trong ba cõi thấp này, họ phải chịu đựng tất cả những sự hành hạ lâu dài và khủng khiếp. Chúng sinh tái sinh vào những cõi này thì ngu đần, khờ dại và không có bất kỳ ý niệm nào về Giáo Pháp, và càng tạo ra thêm nhiều nhân để ̣bị đoa nhiều lần hơn nữa vào trong những cõi thấp.

Vì thế một khi bị sinh vào những cõi này thì thật khó mà thoát ra được. Trong cuộc sống hiện nay của chúng ta, và trong những kiếp quá khứ khác, chúng ta đã tích lũy vô số hành nghiệp chắc chắn sẽ dẫn chúng ta tới tái sinh vào những cõi này. Do đó chúng ta phải thật lòng hối tiếc những hành nghiệp sai lầm của mình trong quá khứ, sám hối và thệ nguyện là sẽ không bao giờ tái phạm.

Với lòng đại bi, hãy suy nghĩ về những chúng sinh phải sống trong những cõi đó, hồi hướng cho họ công đức của mọi thiện hạnh mà ta đã tích lũy khắp ba thời. Hãy cầu nguyện cho họ có thể được giải thoát khỏi những cõi ác đạo đó: “Giờ đây là lúc tôi đã gặp được Giáo Pháp của Đại Thừa, và có cơ hội thực hành con đường đem lại lợi ích thật sự cho cả tôi lẫn những người khác, tôi sẽ thực hành Giáo Pháp đó với lòng dũng cảm, coi thường mọi khó khăn, và đưa dẫn tất cả chúng sinh trong ba cõi thấp tới những cõi Phật.”

Sau khi nuôi dưỡng Bồ Đề Tâm với những suy nghĩ như vậy, hãy cầu nguyện Bổn Sư và chư Phật, khẩn nguyện các Ngài cứu giúp và gia hộ: “Cầu xin Bổn Sư và Tam Bảo gia trì cho con để con có thể đạt được mục đích này!” Hãy hồi hướng công đức cho lợi ích của chúng sinh, và thực hành ba phương pháp tối thượng đã được dạy ở phần trước.

Mặc dù tái sinh vào ba cõi thấp đưa đến đau khổ tất yếu, và vì vậy có thể có người hy vọng rằng ở ba cõi cao sẽ hạnh phúc và sung sướng, nhưng thực sự, ngay cả những cõi cao cũng không có hạnh phúc.


Thanked by 1 Member:

#697 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 04/02/2013 - 13:36

NHỮNG ĐAU KHỔ CỦA CON NGƯỜI

1. Nỗi sợ hãi gặp kẻ thù địch.

Chúng ta tiêu phí tất cả thời gian của mình để tìm kiếm giàu sang và thịnh vượng, và canh chừng sự giàu sang thịnh vượng đó cả ngày lẫn đêm. Nhưng cuối cùng thì ngay cả điều đó cũng không giúp cho ta khỏi phải chia xẻ tài sản của chúng ta với kẻ thù.

Những kẻ cướp ngày, trộm đêm, chó hoang, chó sói, và những thú dữ khác hoàn toàn có thể bất ngờ tấn công ta mà không báo trước. Rõ ràng là càng có nhiều của cải và tài sản thì ta lại càng thêm phiền não, để thâu đạt được những thứ ấy, để bảo vệ và cố gắng làm cho những thứ ấy tăng trưởng.

Ngài Long Thọ đã viết:

Việc tích lũy, canh chừng và làm cho của cải tăng trưởng sẽ làm bạn kiệt sức. Hãy hiểu rằng của cải trù phú chỉ đem lại sự suy tàn và hủy hoại.

Ngài Jetsun Milarepa có nói:

Lúc bắt đầu, của cải làm bạn hạnh phúc và thèm thuồng.

Nhưng dù có nhiều đến đâu, dường như chẳng bao giờ bạn thấy đủ.

Trong khi đó, tâm bủn xỉn cột những nút thắt quanh bạn.

Bạn không thể chịu đựng được khi phải dùng của cải vào việc cúng dường hay từ thiện.

Sự giàu có của bạn hấp dẫn kẻ thù và những thế lực xấu .

Và tất cả những gì bạn tích góp lại bị người khác tận dụng.

Vào lúc cuối, con quỷ giàu có đặt cuộc đời bạn vào nỗi hiểm nghèo.

Nản lòng biết bao khi đấy chỉ là việc trông nom tài sản cho kẻ thù.

Ta (Milarepa) đã vứt bỏ khối nặng này là kẻ kéo lôi ta vào luân hồi sinh tử.

Ta chẳng còn mong muốn nữa thứ yêu tinh cám dỗ này.

Những đau khổ của chúng ta có mối tương quan trực tiếp tương ứng với số lượng những gì ta sở hữu. Chẳng hạn, nếu ta sở hữu một con ngựa, ta sẽ lo nghĩ nó có thể bị kẻ thù chiếm đoạt hay bị ăn trộm; ta sẽ lo rằng liệu nó có đủ cỏ khô để dùng hay không. Chỉ một con ngựa thôi cũng đủ mang lại bao nhiêu phiền toái. Nếu ta có một con cừu ta sẽ có nỗi phiền toái tương xứng với một con cừu. Nếu ta có một túi trà, chắc chắn ta sẽ có nỗi phiền não đáng giá một túi trà.

Vì vậy hãy quán chiếu và thiền quán để hiểu rằng được sống trong an bình là điều quan trọng như thế nào, như câu ngạn ngữ cổ xưa có nói, “Không của cải, thì không kẻ thù.” Hãy tạo hứng khởi cho mình bằng những câu chuyện của chư Phật trong quá khứ và hãy nhổ bật gốc tất cả những tham luyến tiền bạc và của cải. Hãy sống bằng những gì mình nhận được như những con chim, và cống hiến hoàn toàn bản thân mình vào việc thực hành Phật Pháp.

2. Nỗi sợ hãi mất người thân yêu.

Chúng ta sống trong thế giới luân hồi này và cảm thấy ràng buộc với những người mà ta đồng cảm và thù địch đối với những người khác. Vì lợi ích của gia đình, đệ tử, đồng bào, bạn bè và những người thân yêu của ta, chúng ta sẵn sàng trải qua mọi thứ đau khổ.

Dù là họ hàng hay bằng hữu, thì không một ai trong số những người mà chúng ta có những sự ràng buộc này, có thể sống mãi mãi, và không sớm thì muộn, chúng ta cũng buộc phải xa lìa họ.

Họ có thể chết hay bôn ba ở những xứ khác, hoặc bị kẻ thù hoặc nguy hiểm đe dọa, và những nỗi khổ họ phải trải qua sẽ ảnh hưởng đến chúng ta, còn sâu xa hơn cả nỗi khổ của chính chúng ta. Đặc biệt là các bậc cha mẹ, quan tâm quá nhiều tới con cái và thường xuyên lo lắng chúng có thể bị lạnh, đói hay khát, hoặc chúng có thể bị đau ốm hay chết. Trong thực tế, họ thương con tới nỗi thà họ chết, còn hơn là để chúng phải đau khổ, và vì lợi ích của chúng, họ phải trải qua rất nhiều khổ não.

Nhưng dù chúng ta đau khổ quá nhiều vì nỗi lo sợ, phải bị chia cách với bạn bè và người thân yêu, thì chúng ta nên suy nghĩ về những điều này thật cẩn thận. Liệu ta có thể quả quyết rằng, những người thân yêu của ta thì đáng yêu như ta nghĩ không?

Chẳng hạn cha mẹ ta nói thương chúng ta như con cái họ, nhưng cách họ thương yêu ta là một cách thức thương yêu lầm lạc và có hậu quả vô cùng tai hại. Bằng cách cố gắng cho chúng ta của cải, tài sản và lập gia đình cho ta, cha mẹ ta đang cột chặt chúng ta vào với luân hồi.

Cha mẹ dạy cho ta mọi thứ chúng ta cần, để ta biết cách đối xử tốt hơn với các đối thủ của ta, cách quan tâm tới bạn bè, cách làm giàu, và dạy cho ta tất cả các kế hoạch tai hại khác, [nhưng làm như vậy], thật sự là chỉ để cầm chắc một điều, là chúng ta sẽ bị mắc bẫy không thoát ra được khỏi những cõi thấp.

Các bậc làm cha mẹ chẳng thể làm được điều gì tệ hại hơn thế nữa. Về phần con cái chúng ta, cả trai lẫn gái, lúc đầu chúng uống tinh chất từ thân ta, lúc lớn lên, chúng lấy thực phẩm khỏi miệng ta, và vào lúc cuối chúng lấy tài sản khỏi tay ta. Để đáp lại tình thương của ta, chúng nổi loạn chống lại chúng ta.

Chúng ta [trong khi làm cha mẹ] đã cho những đứa con trai tất cả tài sản, mà chúng ta kiếm được suốt đời mình, không tính toán giá trị và chẳng quan tâm gì đến tất cả những hoạt động bất thiện, những nỗi khổ và sự phê bình chỉ trích mà ta đã phải nếm chịu, nhưng chúng vẫn không có lòng biết ơn tối thiểu.

Cho dù ta cho chúng nhiều đồng tiền Trung Hoa bằng bạc, chúng cũng chắng biết ơn gì hơn bất kỳ người bình thường nào, nhận được từ ta một nhúm lá trà. Chúng chỉ nghĩ rằng bất kỳ những gì của cha mẹ, đều tự động thuộc về chúng.

Những kẻ chị em và con gái chúng ta cũng thế, họ ngốn nuốt tài sản của ta mà không một chút biết ơn. Chúng ta càng cho họ, thì họ càng muốn thêm. Nếu chúng ta chỉ có được chút ít, như một miếng lam ngọc giả dùng làm vật để đếm khi lần tràng hạt, thì chị em và con gái ta cũng sẽ đến nịnh bợ, khiến ta cũng phải buông nó ra để cho họ.

Trong hoàn cảnh tốt đẹp nhất thì họ góp phần vào sự thịnh vượng của người khác, nhưng chẳng mang lại điều gì cho ta. Nhưng nếu giả dụ hoàn cảnh trở nên tệ hại, thì chúng lại trở về nhà, mang theo sự ô danh và buồn tủi cho gia đình mình.

Trong các nền văn hoá truyền thống Á Châu, cô dâu về nhà chồng cùng với của hồi môn của mình, nối kết với gia đình chồng. Nếu cuộc hôn nhân đổ vỡ, cô sẽ trở về nhà cha mẹ mình. Về phần những thân quyến và bạn bè khác của ta, họ đối xử với ta như đối với những vị Trời, đó là chừng nào mà chúng ta vẫn còn giàu có, hạnh phúc và mọi việc đang tiến triển hết sức tốt đẹp.

Họ làm bất kỳ những gì có thể làm để giúp ta, và cho ta tất cả những thứ mà ta không cần. Nhưng nếu ta rơi vào hoàn cảnh khó khăn, thì mặc dù ta chẳng làm điều gì tổn hại tới họ, họ sẽ đối xử với chúng ta như kẻ thù, và đáp trả lại lòng tốt của ta bằng ác ý.

Tất cả điều này cho thấy rằng con trai, con gái, gia đình và bằng hữu, chẳng có chút giá trị nào, như Ngài Jetsun Milarepa đã diễn tả trong bài đạo ca của Ngài:

Lúc ban đầu, con trai của bạn là một thiên thần nhỏ, duyên dáng.

Bạn thương nó nhiều đến mức không thể chịu nổi.

Khi lớn lên, nó đòi hỏi quyền lợi thật hung tợn.

Bạn cho nó mọi thứ, nhưng chẳng bao giờ nó thỏa mãn.

Nó đem về nhà con gái của người khác.

Xô đẩy cha mẹ nhân từ của nó ra ngoài.

Khi cha gọi, nó chẳng thèm trả lời.

Khi mẹ gọi, thậm chí nó chẳng buồn nghe.

Cuối cùng, nó giống như một người hàng xóm ở xa.

Bạn tự hủy hoại chính mình khi nuôi dưỡng một tên lừa đảo như thế.

Nản lòng biết bao khi sinh ra kẻ thù của chính bạn.

Ta (Milarepa) đã ném đi bộ yên cương này là thứ trói buộc ta vào luân hồi.

Ta không cần bất kỳ ai trong những đứa con trai thế tục ấy.

Rồi Ngài tiếp tục:

Vào lúc đầu đứa con gái là một thiên nữ bé nhỏ xinh tươi.

Hống hách độc chiếm mọi tài sản tốt lành nhất của bạn.

Lớn lên, nó không ngừng đòi hỏi quyền lợi.

Công khai yêu sách cha đủ mọi điều.

Và kín đáo lấy trộm của mẹ.

Không bao giờ thỏa mãn với những gì được cho.

Nó là nguồn thất vọng của bậc cha mẹ nhân từ.

Cuối cùng, nó là con yêu tinh mặt đỏ.

Khi mọi việc tốt đẹp, nó là báu vật cho người khác.

Khi mọi việc tệ hại, nó sẽ đem tai hoạ tới cho bạn.

Nản lòng biết bao, con quỷ phá hoại này.

Ta (Milarepa) đã ném đi nỗi buồn khôn nguôi này.

Ta không muốn một đứa con gái sẽ dẫn ta tới chỗ hủy diệt.

Cuối cùng:

Vào lúc đầu, bạn bè tươi cười khi gặp bạn.

Và cả thung lũng âm vang Hãy vào đây và Mời ngồi.

Trung cuộc, họ đáp lại lòng hiếu khách của bạn bằng thịt và bia.

Món đổi món, đáp trả chính xác từng cái một.

Cuối cùng, họ gây tranh chấp trên sự thù ghét hay tham luyến.

Nản lòng biết bao, những người bạn xấu ác này với tất cả những tranh cãi của họ.

Ta (Milarepa) đã từ bỏ những bạn bè ăn nhậu lúc thảnh thơi.

Ta không muốn bất kỳ bằng hữu thế tục nào.

3. Nỗi khổ của ham muốn không đạt được.

Trong thế gian này, không ai trong chúng ta không muốn được hạnh phúc và được cảm thấy sung sướng; nhưng chẳng ai trong chúng ta đạt được những gì mình mong muốn.

Ví dụ, có gia đình cố gắng xây nhà để được sống cho tiện nghi, nhưng ngôi nhà sụp đổ và đè chết họ. Có người muốn ăn để thoả mãn cơn đói, nhưng thực phẩm làm họ bị bệnh và gây nguy hại cho mạng sống của họ. Có những người lính chiến đấu, hy vọng sẽ chiến thắng, và lập tức bị giết. Có đoàn thương nhân tiến hành những chuyến đi buôn viễn du, với hy vọng chắc chắn sẽ kiếm được lợi nhuận, nhưng bị tấn công và trở nên nghèo khổ.

Dù chúng ta có hao tốn bao công sức để kiếm tìm hạnh phúc và của cải trong cuộc đời này, nhưng chúng ta sẽ không thể đạt được những điều ta mong muốn, ngay cả việc thoả mãn cơn đói trước mặt, trừ phi nào những hành nghiệp trong quá khứ của chúng ta có thể tạo đủ duyên lành để những việc đó trổ quả.

Những gì chúng ta làm đều gây nên phiền não cho mình và người khác. Chỉ duy một điều chúng ta có thể chắc chắn là ta sẽ không thể thoát khỏi đáy sâu của các tầng địa ngục. Đó là lý do tại sao một tia lửa nhỏ công đức cũng đáng giá là hơn một trái núi nỗ lực.

Những hoạt động luân hồi tiếp nối, không bao giờ chấm dứt, liệu chúng có ích lợi gì không? Tất cả mọi nỗ lực của chúng ta trong vòng quay luân hồi từ vô thủy chỉ nhằm đạt được những gì ta mong muốn, song chúng lại không đem lại cho ta điều gì ngoài sự đau khổ.

Nếu như những năng lực mà ta đã dành trong quá khứ cho những mục đích thế gian, hoặc trong những năm đầu, hoặc trong những năm cuối của chỉ duy nhất một cuộc đời, nếu ta hiến dâng những năng lực này cho Phật Pháp thì giờ đây chắc chắn chúng ta đã chứng thành Phật quả. Và cho dù không đạt được như vậy, có một điều chắc chắn là ít nhất, chúng ta sẽ không bao giờ phải hứng chịu đau khổ trong những cõi thấp nữa.

Chúng ta nên thiền quán như sau:

Giờ đây là lúc ta hiểu rõ sự khác biệt giữa những gì ta nên làm và không nên làm, hãy ngưng việc đặt hy vọng lớn lao nơi những công trình của luân hồi, vì chúng là những thứ mà ta sẽ chẳng bao giờ hoàn tất được, thay vào đó, hãy thực hành Giáo Pháp chân chính, bởi vì chắc chắn chỉ có nương vào đó mà mới có được sự thành tựu.

4. Nỗi khổ vì gặp điều không mong muốn

Không ai trên thế gian này ước muốn bất kỳ loại đau khổ nào đã được mô tả ở đây, tuy nhiên chúng ta luôn phải trải qua đau khổ dù có muốn hay không. Chẳng hạn, có những người, do những hành nghiệp trong quá khứ, phải làm bộ hạ của một kẻ thống trị hay làm nô lệ của kẻ giàu có.

Trái với ước muốn của họ, họ hoàn toàn phải phụ thuộc vào ý muốn của chủ, không có được một giây phút tự do nào. Họ có thể bị trừng phạt thật nặng nề vì một lỗi lầm rất nhỏ mà chẳng thể làm được gì về việc đó cả. Cho dù họ bị dẫn đến nơi hành hình, họ biết rằng họ cũng không thể trốn thoát. Chúng ta luôn luôn phải gặp những gì mình không mong muốn. Như Đấng Toàn Giác Longchenpa có nói:

Bạn thích sống với gia đình và những người thương yêu.

Mãi mãi, nhưng chắc chắn là bạn phải bỏ lại họ.

Bạn thích được giữ căn nhà xinh đẹp của mình.

Mãi mãi, nhưng chắc chắn là bạn phải để lại phía sau.

Bạn thích được hưởng thụ hạnh phúc, giàu sang và an nhàn.

Mãi mãi, nhưng chắc chắn là bạn phải đánh mất chúng.

Bạn thích giữ đời người tuyệt hảo này với những tự do và thuận lợi.

Mãi mãi, nhưng chắc chắn là bạn phải chết.

Bạn thích được học Giáo Pháp với vị Thầy phi thường của bạn.

Mãi mãi, nhưng chắc chắn rằng bạn sẽ phải chia ly.

Bạn thích được ở bên những thiện tri thức tốt lành.

Mãi mãi, nhưng chắc chắn là bạn sẽ phải rời xa.

Ô những người bạn của ta những người đã vỡ mộng về cõi luân hồi.

Ta kẻ ăn mày vô Pháp(*) thúc đẩy các bạn.

Từ hôm nay hãy mặc áo giáp tinh tấn bởi đã tới lúc.

Phải băng qua sinh tử để đến xứ sở của đại lạc là nơi không có sự cách ngăn.

Của cải, tài sản, sức khỏe, hạnh phúc và được nhiều người mến mộ.

Tất cả đều là kết quả của thiện hạnh trong quá khứ.

(*) Các tác giả Tây Tạng thường tự ám chỉ mình với sự cực kỳ khiêm tốn trong cách nói này.

Nếu ta tích lũy thiện hạnh trong quá khứ, thì kết quả là tất cả những điều này sẽ đến với ta một cách tự nhiên, cho dù có muốn hay không. Nhưng nếu không có thiện hạnh thì dù nỗ lực đến đâu chăng nữa, ta cũng không đạt được những gì mong muốn. Tất cả những gì ta sẽ thâu hoạch được là những thứ ta ít mong muốn nhất. Vì thế, khi thực hành Pháp, ta phải dựa vào kho tài sản vô tận là sự hài lòng với bất kỳ những gì sẽ xảy đến. Nếu không, một khi bắt đầu tu tập, chắc chắn là những tham vọng thế gian của ta trong đời này, sẽ làm cho ta phiền não và khiến cho các bậc linh thánh phải phật lòng.

Ngài Jetsun Mila có hát rằng:

Những gì mà đức Thế Tôn, Đấng Chiến Thắng.

Đã giảng dạy, chủ yếu là Làm thế nào thoát khỏi tám mối quan tâm tầm thường.

Nhưng hỡi những kẻ tự cho là uyên bác thời nay.

Không phải là những mối quan tâm thế tục ấy còn nảy nở lớn hơn trước nữa hay sao.

Đấng Chiến Thắng đã giảng dạy những giới luật để tuân theo.

Nhờ đó người ta có thể rút lui khỏi tất cả mọi việc đời.

Nhưng các vị tu sĩ thời nay những kẻ tuân theo giới luật này.

Không phải là những công việc thế gian của họ lại còn nhiều gấp bội lần hơn trước hay sao.

Ngài dạy làm thế nào để sống như những bậc hiền thánh ngày xưa.

Nhờ đó người ta có thể cắt đứt những ràng buộc với bạn bè và thân quyến.

Nhưng những kẻ sống như những bậc thánh thời nay.

Chẳng quan tâm là người ta tới thăm họ thậm chí còn nhiều hơn trước hay sao.

Tóm lại tu tập mà không nhớ tới cái chết.

Thì bất cứ Giáo Pháp nào cũng vô ích.

Nhân loại sống trong thời buổi suy thoái ở bốn trung châu, đặc biệt là tại đây ở cõi Diêm Phù Đề (Jambudvipa – cõi người) này, bị tước đi ngay cả những cơ hội hạnh phúc nhỏ bé nhất.

Cuộc sống của họ tràn ngập đau khổ. Ngày nay, sự suy thoái ngày càng tăng tốc độ với mỗi một năm qua, với mỗi tháng, mỗi ngày, mỗi bữa ăn, mỗi buổi sáng và mỗi buổi tối.

Đại kiếp đang đi từ chỗ xấu tới tệ hại hơn. Giáo lý của Đức Phật và hạnh phúc của chúng sinh đang suy tàn mỗi lúc càng nhiều hơn. Hãy suy ngẫm về tất cả những điều này và hãy phát khởi một tâm cảm chán ngán luân hồi.

Đặc biệt, châu Diêm Phù Đề này có thể cho ta thấy rất rõ cái mãnh lực đặc biệt của sự trổ quả của nghiệp

Là điều làm cho mọi sự khó có thể lường trước được.

Cho dù là tốt hay xấu, dễ chịu hay khó chịu, cao hay thấp, Pháp hay phi Pháp. Ta cần tự mình thấu hiểu sự vật ra sao.

Hãy giữ cho tâm thức được hoàn toàn minh bạch về những gì nên làm và những gì nên tránh.

Hãy đưa lời khuyên của Đấng Toàn Giác Longchenpa vào thực hành:

Đôi khi hãy nhìn vào những gì bạn thấy là thuận lợi; Nếu bạn biết đó chỉ là tri kiến, mọi sự bạn kinh qua sẽ trở nên lợi lạc.

Đôi khi hãy nhìn vào những gì bạn thấy là bất lợi và tai hại; Điều này thì tối yếu, sẽ khiến bạn kinh sợ cách bạn nhìn sự việc một cách mê lầm.

Đôi khi hãy nhìn vào bạn bè của mình và các bậc Thầy của những người khác; Việc phân biệt người tốt với người xấu sẽ khiến bạn hứng khởi trong tu tập.

Đôi khi hãy nhìn vào sự phô diễn kỳ diệu của tứ đại trong không gian; Bạn sẽ thấy làm thế nào mọi tạo tác lắng xuống trong chân tánh của tâm.

Đôi khi hãy nhìn vào xứ sở, nhà cửa và tài sản của bạn; Khi thấu hiểu chúng là mộng huyễn, bạn sẽ cảm thấy ghê sợ trước cách nhìn lầm lạc của bạn.

Đôi khi hãy nhìn vào của cải và tài sản của người khác; Khi thấy họ đáng thương ra sao, bạn sẽ bỏ đi tham vọng của cõi luân hồi.

Tóm lại, khi quán chiếu bản tánh của mọi việc trong tất cả những nét vẻ đa dạng, Bạn sẽ tiêu diệt được mê lầm của sự bám chấp vào mọi thứ như là thật.


Thanked by 1 Member:

#698 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 04/02/2013 - 13:49

A Tu La (Phạn: Asuras)

Các A Tu La hay các bán thiên (semi gods), vốn là địch thủ của chư Thiên, được hưởng thụ nhiều khoái lạc và thừa thãi về vật chất. Tuy nhiên, họ có một khuynh hướng ganh tị thù hận mạnh mẽ, hay gây hấn và tranh chấp từ những kiếp trước. Kết cục của những ác hạnh này là ngay sau khi mang thân tướng của A Tu La trong kiếp hiện tại, họ bắt đầu mang những cảm giác thù hận dữ dội.

Thậm chí ngay trong cõi giới của họ, cũng có những cuộc tranh cãi (để chiếm giữ) các lãnh thổ và địa phận, và họ tiêu phí toàn bộ thời gian của mình để đánh nhau và gây hấn với nhau về những bất đồng như vậy.

Nhưng tệ hại hơn nữa, khi nhìn lên cõi Trời, họ có thể thấy chư Thiên giàu có tột bậc. Họ cũng thấy rằng mọi ước muốn và nhu cầu của chư Thiên được cung cấp bởi một cây như ý, tuy nhiên rễ cây ấy lại nằm trong cõi của họ. Khi nhìn thấy như vậy, tâm họ tràn ngập một mối oán giận không thể nào chịu nổi. Khoác áo giáp và chộp lấy các vũ khí, họ lên đường gây chiến với chư Thiên.

Khi các vị Trời nhìn thấy những gì xảy ra, họ đi tới Khu Rừng Hiếu Chiến, mặc vào áo giáp và cấm lấy vũ khí. Chư Thiên giữ một con voi ba mươi ba đầu gọi là Kiên Định Siêu Phàm. Vua Trời Đế Thích (Indra) của họ ngự trên đầu voi ở giữa, cùng với tất cả các đại thần bao quanh trên ba mươi hai đầu kia. Xung quanh là vô số chư Thiên đầy hào quang ánh sáng, cất cao tiếng hô xung trận.

Khi trận chiến bắt đầu, chư thiên thả xuống một trận mưa vũ khí, chày, giáo, bánh xe, những mũi tên khổng lồ.. Năng lực huyền diệu của họ khiến họ có sức mạnh lôi những ngọn núi lớn vào lòng và ném chúng xuống như hỏa tiễn. Do nghiệp lực trong quá khứ, chư thiên cao lớn hơn con người bảy lần, nhưng các bán thiên a tu la thì nhỏ hơn chư thiên nhiều.

Chư Thiên chỉ có thể bị giết khi bị đứt đầu; song nhờ chất cam lồ linh thiêng của họ mà bất kỳ vết thương nào khác trên thân họ cũng sẽ lập tức lành lặn. Nhưng các bán thiên A Tu La lại chết y hệt như con người khi bị đánh trúng vào một bộ phận quan trọng nào đó trên thân thể. Do đó họ bị thua trận rất nhiều.

Nhiều khi, chư thiên phái một con voi được gọi là Hộ Vệ Của Tất Cả, điên cuồng vì hơi men, với một bánh xe có các lưỡi kiếm được cột vào vòi của nó, khiến hàng trăm ngàn a tu la phải bỏ mạng. Thi thể họ đổ lăn xuống sườn núi Tu Di và rơi xuống những Hồ Đại Hoa Mỹ phía dưới làm nước hồ loang đầy màu máu.

Trong cõi A Tu La này, cùng những cuộc chiến đấu và gây hấn thường xuyên, họ cũng không thoát khỏi đau khổ. Hãy thiền quán về số phận của họ từ tận đáy lòng bạn.


Thanked by 1 Member:

#699 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 11/02/2013 - 13:42

Chư Thiên

Chư Thiên vui hưởng sức khoẻ, tiện nghi, của cải và hạnh phúc toàn hảo suốt cuộc đời họ. Tuy nhiên, họ tiêu phí thời gian trong việc tiêu khiển. Ý tưởng thực hành Phật Pháp không bao giờ hiện đến với họ. Suốt trong cả cuộc đời có thể kéo dài một đại kiếp, chẳng bao giờ niệm tưởng thực hành Pháp khởi lên trong tâm họ dù chỉ trong giây lát. Rồi thì khi đã lãng phí cả cuộc đời trong sự phóng dật, đột nhiên họ phải đối mặt với cái chết. Tất cả các chư Thiên trong sáu cõi trời Dục Giới, từ cõi Trời của Tứ Thiên Vương cho tới cõi được gọi là Hoá Lạc, đều phải chịu đựng nỗi khổ của cái chết và luân hồi.

Có năm dấu hiệu báo trước cái chết của một vị Trời. Thân họ vốn chói sáng, có thể nhìn thấy cách một lý (khoảng 4,8km) hay vài dặm, bỗng mờ dần đi. Chiếc ngai mà trước đây họ vẫn ngự trên đó và không bao giờ cảm thấy mỏi mệt, thì giờ đây không còn làm họ hài lòng; họ cảm thấy thiếu tiện nghi và không còn thoải mái. Vòng hoa trên đầu của họ, trước đây dù lâu đến đâu cũng chẳng bao giờ tàn, nhưng giờ đây đã khô héo. Y phục của họ luôn sạch sẽ tinh tươm dù có mặc bao lâu thì nay trở nên cũ, bẩn và bắt đầu bốc mùi. Thân họ bắt đầu đổ mồ hôi dù trước đây không bao giờ như vậy.

Khi năm dấu hiệu đưa họ gần tới cái chết bắt đầu xuất hiện, họ rất đau khổ vì biết chẳng bao lâu nữa mình cũng sẽ chết. Bằng hữu và những người thân yêu của họ cũng biết những gì sắp xảy ra với họ; nhưng họ không thể tới gần nữa, mà chỉ đứng ở xa ném hoa và nói những lời chúc tốt lành: “Khi Ngài chết và từ giã nơi đây, cầu xin ngài được tái sinh vào cõi người. Cầu mong Ngài làm nhiều việc thiện và lại được tái sinh vào cõi Trời.” Với những lời đó, họ từ bỏ chư thiên đang hấp hối. Hoàn toàn cô độc, chư thiên đang hấp hối phải chìm đắm trong nỗi buồn sầu. Bằng thiên nhãn, họ biết nơi mình sắp.

Nếu phải tái sinh ở một cõi đau khổ, thì những đau đớn của sự đày đọa này xâm chiếm tâm họ và làm cho họ càng đau khổ trong khi, mệnh của họ ở cõi trời vẫn chưa kết thúc. Những đau khổ này trở nên mãnh liệt gấp hai rồi gấp ba lần, khiến họ tuyệt vọng và than khóc trong bảy ngày liền trên cõi trời. Bảy ngày trên cung Trời thứ Ba Mươi Ba (cung Đao Lợi hay Đế Thích Thiên) thì bằng bảy trăm năm ở cõi người.

Trong thời gian đó, khi nhìn lại và hồi tưởng lại tất cả những phúc lạc và sung sướng mà họ đã từng vui hưởng, họ nhận ra là mình không thể nán ở lại được nữa và họ phải trải qua nỗi khổ của sự chuyển kiếp; rồi nhìn về phía trước, khi đã bị dày vò bởi thị kiến có được về nơi tái sinh trong tương lai, họ trải qua nỗi đau khổ của việc bị đọa vào cõi thấp hơn. Nỗi đau đớn của cả hai tâm trạng này còn khổ sở hơn cả nỗi khổ trong địa ngục.

Trong hai cõi trời cao nhất, không có những đau khổ rõ ràng của cái chết và sự chuyển kiếp. Tuy nhiên, khi nghiệp quả đã đưa họ đến đây bị cạn kiệt thì những vị Trời này rơi vào những cõi thấp như thể thức dậy sau giấc ngủ. Sự đau khổ của họ là như vậy. Như Ngài Long Thọ có nói:

Hãy biết rằng ngay cả chính Phạm Thiên

Sau khi có được hạnh phúc nhờ thoát khỏi vướng mắc

Đến lượt ông ta phải chịu đau khổ không ngừng dứt

Như dầu đốt lửa của Điạ Ngục Vô Gián.

Do đó, dù chúng ta sinh ra bất cứ nơi đâu trong sáu cõi, tất cả đều có một bản chất là đau khổ, tất cả đều là sự chồng chất đau khổ, tất cả đều là một cỗ máy động cơ của đau khổ và không là gì khác hơn ngoài đau khổ. Tất cả giống như một cái hố sâu bằng lửa, một hòn đảo đầy quỷ cái ăn thịt người, một vực sâu trong đại dương, đầu lưỡi dao hay một hầm phân. Ta không thể tìm ra chút an lạc.

Trong Tịnh Ức Diệu Pháp Kinh có nói:

Chúng sinh trong địa ngục đau khổ vì lửa địa ngục.

Ngạ quỷ đau khổ vì đói và khát.

Súc sinh đau khổ bởi việc ăn thịt lẫn nhau.

Loài người đau khổ vì cuộc đời ngắn ngủi.

A Tu La đau khổ vì chiến tranh và tranh chấp.

Và chư Thiên đau khổ vì thiếu tỉnh giác.

Chẳng bao giờ có hạnh phúc trong sinh tử luân hồi.

Dù chỉ nhỏ bằng đầu đinh ghim.

Và Đức Di Lặc có nói:

Cũng như không có mùi thơm trong một hố phân.

Không có hạnh phúc trong năm loại chúng sinh.

Đạo Sư Vĩ đại xứ Oddiyana cũng nói:

Người ta nói rằng trong vòng luân hồi này.

Sẽ không tìm ra được hạnh phúc dù nhỏ như đầu mũi kim.

Nhưng nếu ngẫu nhiên ta tìm được chỉ một ít.

Thì hạnh phúc ấy sẽ chứa đựng nỗi khổ của sự biến đổi.

Càng quán chiếu về những điều này và những đoạn tương tự khác, ta sẽ càng nhận ra rằng cho dù sinh ra ở đâu; từ đỉnh cao của sự sống xuống tới địa ngục sâu thẳm nhất, tất cả đều không có ngay cả một giây phút hạnh phúc thực sự. Mọi sự đều vô nghĩa. Hãy suy ngẫm về luân hồi sinh tử và những đau khổ của sinh tử cho đến khi không còn tham muốn gì về cõi luân hồi này nữa, giống như người đau gan được mời ăn một món thức ăn có nhiều mỡ béo vậy.

Đừng nên hài lòng với việc chỉ đơn thuần nghe nói về những đau khổ này và có được những hiểu biết theo tri kiến. Hãy thấu hiểu những điều đó qua dòng tâm thức và kinh nghiệm những đau khổ ấy với toàn bộ trí tưởng tượng cho tới khi nào ta có thể thực sự có niềm tin vào những điều đó. Khi có được sự xác quyết này thì việc tránh không phạm ác hạnh và việc phải tích lũy thiện hạnh sẽ đến với ta một cách tự nhiên không cần ép buộc.

Nanda, người anh em họ với Đức Phật, rất luyến ái người vợ và không muốn từ bỏ thế gian. Mặc dù Đức Phật, bằng phương tiện thiện xảo, đã thuyết phục ông hãy bước chân trên con đường Đạo Pháp và trở thành một tăng sĩ, ông ta đã không tuân theo giới luật. Ông sắp bỏ trốn thì Đức Phật dùng thần lực đem ông lên một đỉnh núi tuyết và cho ông ta thấy một con khỉ cái một mắt.

Đức Phật hỏi Nanda: “Ông thấy Pundarika vợ của ông và con khỉ này ai đẹp hơn?”

Nanda trả lời: “Vợ con, nàng đẹp hơn gấp trăm, gấp ngàn lần!”

“Được rồi,” Đức Phật trả lời. “Bây giờ chúng ta hãy lên cõi Trời.”

Khi đến nơi, Đức Phật ngồi xuống và bảo Nanda đi một vòng xem xét. Mỗi vị trời sống trong cung điện riêng, chung quanh có nhiều thiên nữ trẻ, và hưởng thụ những hạnh phúc và sự dư dật không thể nghĩ bàn. Tuy nhiên, có một cung điện có nhiều thiên nữ nhưng không có vị trời nào. Nanda hỏi tại sao, và được trả lời: “Trong cõi người, có một người đàn ông tên Nanda, là người anh em họ của Đức Phật, đang tuân giữ giới luật tu viện. Hành động này sẽ dẫn ông ta tái sinh vào cõi thiên, và khi đó cung điện này sẽ là của ông ta.”

Nanda vui mừng khôn xiết. Khi trở lại với Đức Phật, Phật hỏi, “Ông có thấy cõi trời chưa?”

“Tất nhiên là con thấy rồi!”

“Tốt. Ông thấy vợ ông hay những thiên nữ trẻ ai đẹp hơn?”

“Những người con gái của các chư thiên đẹp hơn nhiều,” Nanda trả lời; “Quả thực, sắc đẹp của họ vượt xa sắc đẹp của Pundarika cũng như sắc đẹp của Pundarika vượt xa con khỉ một mắt mà chúng ta thấy trước đó.”

Khi trở về thế gian, Nanda giữ gìn giới luật tu viện thật hoàn hảo.

Sau đó Đức Phật nói với những tu sĩ: “Nanda đã từ bỏ cuộc sống thế gian để được sinh vào những cõi trời,” Ngài nói, “Nhưng tất cả các ông trở thành tu sĩ để vượt thoát đau khổ. Các ông và ông ta không cùng một con đường. Đừng nói chuyện với ông ta nữa. Không nên thân mật với ông ta. Thậm chí không nên ngồi cùng chỗ với ông ta!”

Tất cả tu sĩ vâng lời, và Nanda rất bối rối. Ông nghĩ: “Ananda là em trai ta; tối thiểu nó vẫn còn chút tình cảm với ta.” Nhưng khi ông ta đi gặp em, Ananda đứng dậy và bỏ đi. Nanda hỏi tại sao, và Ananda thuật lại những điều Đức Phật đã nói. Nanda rất đau khổ.

Cuối cùng Đức Phật đến với ông và nói, “Nanda, ông có muốn đi thăm các địa ngục không?” Nanda đồng ý, và Đức Phật đưa cả hai xuống đó bằng thần lực. “Hãy đi và quan sát chung quanh,” Ngài nói.

Vì vậy, Nanda bắt đầu thám hiểm, tìm thăm tất cả cảnh giới của địa ngục, cho tới khi ở một nơi kia, ông bắt gặp một vạc trống không, trong đó có một ngọn lửa cháy kêu tanh tách và rất đông thuộc hạ của Diêm Vương đang vây quanh. Ông hỏi họ tại sao trong cái vạc không có ai.

“Có một người em họ trẻ tuổi của Đức Phật tên là Nanda,” họ trả lời, “anh ta đang thực hành giới luật tu viện với ý định được tái sinh làm một vị trời. Sau khi hưởng thụ hạnh phúc của cõi trời, khi công đức của anh ta cạn kiệt, anh ta sẽ tái sinh vào đây.”

Nanda hoảng sợ. Khi trở về ông ta suy nghĩ kỹ về các sự việc. Trong tương lai được sinh vào cõi trời và sau đó kết thúc ở các cõi địa ngục thì chẳng có ý nghĩa gì hết, vì thế ông nuôi dưỡng một quyết tâm chân thực để tìm cách giải thoát khỏi luân hồi. Khi đã được nhìn tận mắt các cõi địa ngục, ông không bao giờ làm bất kỳ điều gì vi phạm giới luật dù nhỏ nhặt nhất, và Đức Phật tán thán ông là đệ tử tuyệt hảo nhất trong việc thu thúc các căn.

Chúng ta không cần phải đi quá xa để tận mắt thấy các cảnh địa ngục. Một hình ảnh đơn giản cũng đủ làm chúng ta kinh sợ và củng cố ý muốn được giải thoát của mình. Chính vì lý do này mà Đức Phật yêu cầu bánh xe năm nhánh tượng trưng cho vòng luân hồi được vẽ tại cửa thiền đường của Tăng đoàn. Như Đức Long Thọ đã nói:

Thu thúc các căn có nghĩa là không cho phép mình bị cám dỗ bởi những đối tượng của các giác quan. Hoặc đọc và suy nghĩ về địa ngục đã khiến bạn kinh sợ như vậy. Thì bạn sẽ làm gì khi trải nghiệm ở đó. Toàn bộ nghiệp quả sẽ trổ ra từ những hành vi của bạn mà không sao ngăn cản được?

Vì thế, hãy quán chiếu về những loại đau khổ khác nhau trong luân hồi. Từ tận đáy lòng, hãy vất bỏ mọi mục đích tầm thường của cuộc đời này. Trừ phi hoàn toàn từ bỏ những hoạt động thế gian, bất kỳ Giáo Pháp nào mà bạn nói là đang thực hành sẽ không thể dẫn đến thành tựu.

Khi Ngài Atisa sắp viên tịch, một hành giả du già đến hỏi Ngài: “Sau khi Ngài viên tịch, con có nên thiền định không?”

“Cho dù ông thiền định, nó có sẽ thực sự là Giáo Pháp không?” Ngài Atisa hỏi ông ta.

“Vậy thì, con có nên giảng dạy hay không?”

Vị đạo sư trả lời như trước.

“Vậy, con nên làm gì?”

“Tất cả những gì ông nên làm là hoàn toàn nương tựa vào Tonpa và chí tâm từ bỏ [sự tham luyến vào] cuộc đời này,” Ngài Atisa trả lời.

Một câu truyện khác kể về một vị sư đang đi nhiễu quanh Tu Viện Radreng thì gặp Geshe Tonpa. Vị Geshe nói: “Tu sĩ đáng kính, đi nhiễu là một việc tốt, nhưng việc thực hành Giáo Pháp đích thực không tốt hơn hay sao?”

Vị tăng tự nghĩ: “Có lẽ việc đọc kinh điển Đại Thừa thì cần thiết hơn là đi nhiễu.” Vì thế ông ta đọc kinh điển trên ban công nhìn ra sân giảng ngoài trờiø.

Sau một lát, Ngài Geshe Tonpa nói với ông ta: “Đọc giáo lý cũng là một việc tốt, nhưng thực hành Giáo Pháp đích thực lại không tốt hơn hay sao?”

Một lần nữa, nhà sư suy nghĩ kỹ về điều đó: “ Điều này hẳn có nghĩa là thực hành thiền định thì tốt hơn đọc kinh điển.” Do đó ông ta hỗn việc đọc kinh và bắt đầu dùng thời giờ để ngồi trên giường với đôi mắt nhắm hờ.

Một lần nữa, Ngài Tonpa nói với ông ta: “Thiền định là một việc tốt, nhưng thực hành Giáo Pháp đích thực không tốt hơn hay sao?”

Bị bí lối, nhà sư kêu lên: “Ngài Geshe tôn kính, vậy con nên làm gì để thực hành Giáo Pháp?”

“Tu sĩ đáng kính,” Ngài Geshe trả lời, “hãy [phát tâm] từ bỏ đời này! Hãy [phát tâm] từ bỏ đời này!”

Chính tất cả những hoạt động tầm thường và những ràng buộc hạn chế trong những lo toan của cuộc đời này, bây giờ và mãi mãi về sau, sẽ luôn ngăn trở không cho chúng ta thoát được khỏi những cảnh giới đau khổ của luân hồi. Ngoài vị chân sư thì không ai có thể thực sự chỉ dạy cho ta phải làm gì, để chặt đứt sợi dây neo cột chặt chúng ta vào cuộc đời này, để chúng ta đạt được giác ngộ trong những kiếp sống tương lai.

- Hãy bỏ lại đằng sau tất cả những mối bận tâm của cuộc đời này, thân quyến và bạn bè, bằng hữu và những người thân yêu, thực phẩm, của cải và tài sản, giống như nhổ nước bọt vậy.

- Hãy bằng lòng với bất kỳ thực phẩm và quần áo nào ta có thể có, và hoàn toàn hiến mình cho Giáo Pháp.

Ngài Padampa Sangye có nói:

- Điều muốn nói ở đây (được nói rõ trong những chương khác) không phải là một sự chối bỏ trách nhiệm của ta đối với cha mẹ, con cái... nhưng là sự chuyển hoá tâm tham luyến và chuyển hoá định kiến giới hạn đặt nền tảng trên “cái tôi” thành một lòng từ ái chân thực trải rộng đồng đều cho mọi chúng sinh.

Vật chất giống như mây mù; đừng bao giờ nghĩ rằng chúng có thể trường tồn. Được mến mộ ưa chuộng giống như tiếng vang; chớ đeo đuổi sự kính trọng, hãy tìm theo tánh thật của nó. Quần áo đẹp giống như những màu sắc trong một cầu vồng; hãy ăn mặc đơn giản và chuyên tâm thực hành. Thân thể này là một cái bao chứa máu; mủ và dịch chất; đừng yêu quý nó. Ngay cả những bữa ăn ngon lành cũng biến thành chất phẩn; đừng quá coi trọng miếng ăn.

Hiện tượng xuất hiện như kẻ thù.

Hãy sống trong ẩn thất hay núi non.

Ảo tưởng nhận thức như cây gai xé rách tâm thức.

Hãy xem ảo tưởng thảy có cùng một tánh (tánh không).

Mọi tham dục và mong cầu đều phát xuất từ chính bản thân.

Hãy hướng về chân tánh của tâm.

Đứng về mặt tuyệt đối thì mọi tri giác
.
Đều có cùng một bản tánh.

Đó là tánh Không.

Viên ngọc quý báu nhất ở ngay trong ta.

Đừng mong mỏi thực phẩm và của cải.

Nói nhiều chỉ đem lại tranh cãi.

Hãy hành động như thể bị câm.

Tâm có năng lực tự nhiên.

Đừng chạy theo tiếng gọi của bao tử

Sự gia hộ xuất hiện từ tâm.

Hãy thỉnh nguyện lạt ma và bổn tôn của mình.

Nếu ở một nơi nào quá lâu rồi.

Cũng sẽ thấy ngay cả Đức Phật cũng có lỗi.

Vậy chớ ở lâu bất kỳ nơi đâu.

Hãy hành động khiêm tốn.

Hãy từ bỏ tính kiêu căng.

Cuộc đời không kéo dài lâu

Hãy thực hành ngay đừng chậm trễ.

Bạn giống như một lữ khách trong cuộc đời này.

Đừng xây một toà lâu đài ở nơi bạn chỉ lưu lại một lát.

Chẳng hành động nào đem lại ích lợi.

Hãy đặt thành tựu nơi công phu hành trì.

Chẳng thể nào biết được khi nào thân bạn trở thành mồi cho dòi bọ hay hoàn toàn biến mất; chớ bị phân tâm bởi những hiện tượng của cuộc đời này. Bạn bè và thân quyến giống như những con chim nhỏ trên cành; đừng vướng mắc với họ.

Lòng tín tâm vững chắc giống như một nền tảng hoàn hảo; đừng quăng bỏ lòng tin ấy vào đống rác cảm xúc bất thiện. Thân người như viên ngọc như ý quý giá, chớ trao nó cho kẻ thù, sự thù hận.

Mật nguyện (samaya) thì giống như tháp canh; đừng làm ô nhiễm với những lỗi lầm. Trong lúc vị Đạo Sư Kim Cương vẫn còn (hiện diện) ở giữa các bạn; đừng để Giáo Pháp bị cuốn trôi vào sự biếng lười.

Để thực sự tu tập và kinh nghiệm được Phật Pháp, điều thiết yếu là ta phải nhận ra rằng mọi sự trong luân hồi đều là vô nghĩa. Cách duy nhất để phát triển được nhận thức đó là phải thiền quán về những nỗi thống khổ và tai hoạ của luân hồi. Hãy quán chiếu cho đến khi đạt được sự hiểu biết và niềm tin tưởng sâu xa rằng toàn bộ cõi luân hồi ngập tràn đau khổ.

Khi công phu thiền quán đã thật sự bén rễ trong ta, ta sẽ có dấu hiệu như Geshe Langri Thangpa. Một ngày nọ, một trong những vị thị giả thân cận nói với Ngài: “Người ta gọi Ngài là Langri Thangpa Mặt Sầu Não” (Langri Thangpa Tang-diện).

“Làm sao mặt ta có thể tươi sáng và vui vẻ khi ta nghĩ về tất cả các nỗi khổ trong tam giới của luân hồi được?” vị Geshe trả lời.

Người ta nói rằng Ngài Langri Thangpa chỉ từng cười có một lần. Ngài thấy một con chuột đang cố di chuyển một viên ngọc lam trên mạn đà la của Ngài. Nhưng một mình nó không thể nhấc nổi viên ngọc, nên nó gọi: “Tsik! tsik!” và con chuột khác chạy đến. Một con đẩy viên ngọc trong khi con kia kéo. Điều đó khiến Ngài Langri Thangpa mỉm cười.

Công phu thiền quán về những nỗi đau khổ của luân hồi là nền tảng và là sự hỗ trợ giúp cho tất cả những phẩm tính tốt đẹp trên con đường tu tập Đạo Pháp. Công phu thiền quán này sẽ xoay chuyển tâm ta hướng về Pháp. Sẽ cho ta niềm tin vào luật nhân quả trong tất cả những việc ta làm. Sẽ khiến ta quay lưng lại với những mục đích của cuộc đời này. Và sẽ khiến ta cảm nhận lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh.

Chính Đức Phật, trong ba lần chuyển Pháp luân, đã bắt đầu bằng những lời dạy: “Hỡi chư tỷ kheo, cuộc đời này là đau khổ.” Điều đó cho thấy việc ta nhận thức ra được những đau khổ trong cõi luân hồi này thật sự quan trọng đến ngần nào.

Vì vậy, hãy hành trì tu tập cho tới khi có được hoàn toàn niềm tin tưởng và sự xác quyết rằng luân hồi là đau khổ.

Nhìn thấy luân hồi là đau khổ.

Nhưng con vẫn khao khát vòng sinh tử.

Sợ hãi vực thẳm của cõi thấp.

Nhưng con tiếp tục làm điều sai trái.

Xin hãy từ bi gia hộ cho con.

Và những kẻ lạc lối như con.

Để chúng con có thể thật lòng từ bỏ.

Những đa đoan của cuộc đời này.



Thanked by 1 Member:

#700 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 11/02/2013 - 14:03

CHƯƠNG BỐN

NGHIỆP: LUẬT NHÂN QUẢ

Ngài từ bỏ việc xấu, làm việc thiện, như giáo lý về nhân quả.
Công hạnh của Ngài noi theo tiến trình của các Thừa.
Nhờ cái Thấy viên mãn, Ngài thoát khỏi mọi bám chấp.
Bậc Thầy Vô Song, con đảnh lễ dưới chân Ngài.

Chương này cần phải được giảng giải và học hỏi [với thái độ] tương tự như đối với những chương khác. Chủ đề trong chương này sẽ được giải thích dưới ba đề mục: hành động tiêu cực (ác hạnh) là những gì nên từ bỏ, hành động tích cực (thiện hạnh) là những điều nên tuân theo; và tính chất hoàn toàn quyết định của các hành động tạo nghiệp.

NHỮNG ÁC HẠNH PHẢI TỪ BỎ

Điều khiến cho chúng ta phải tái sinh trong những cõi cao hay bị đọa trong cõi thấp của vòng luân hồi, chính là những hành vi thiện hay ác mà bản thân chúng ta đã tích lũy. Chính vòng luân hồi được tạo ra bởi các hành vi này, và bao gồm tất cả những kết quả của các hành vi ấy, chứ không có bất cứ điều gì khác đưa dẫn chúng ta vào những cảnh giới cao hay thấp. Đây cũng chẳng phải chỉ là sự ngẫu nhiên. Vì thế, vào mọi lúc, chúng ta nên luôn luôn quán sát hậu quả của các hành động tích cực và tiêu cực, cố tránh tất cả những điều xấu và làm những điều tốt.

Mười hành vi bất thiện nên tránh (Thập Ác)

Ba hành vi trong số mười hành vi bất thiện là những hành vi thuộc về thân: sát sinh, lấy những gì không được cho, tà dâm, bốn hành vi thuộc về khẩu: nói dối, gieo mối bất hòa, nói lời cay nghiệt, và nói chuyện phiếm vô ích; ba hành vi thuộc về ý: tham muốn, muốn làm tổn hại người khác, và quan điểm sai lạc (tà kiến).

SÁT SINH

Sát sinh có nghĩa là cố ý làm bất cứ điều gì để kết thúc sinh mạng của một chúng sinh khác, dù là người, súc vật hoặc bất kỳ sinh linh nào khác.

Người lính giết kẻ địch trong chiến trận là một ví dụ của việc sát sinh vì thù hận. Việc giết một con thú hoang để ăn thịt hay lấy da của chúng làm y phục, là sát sinh bởi lòng tham. Giết mà không biết hậu quả là đúng hay sai hay như những kẻ ngoại đạo, tin rằng đó là một việc đức hạnh, là sát sinh bởi sự vô minh.

Có ba trường hợp sát sinh được gọi là những hành vi có quả báo tức thời, vì những hành vi này dẫn đến sự tái sinh ngay lập tức trong Địa Ngục Vô Gián mà không kinh qua trạng thái trung ấm, đó là: giết cha, giết mẹ, và giết một vị A La Hán.

Một số người trong chúng ta nghĩ rằng chỉ phạm tội sát sinh khi có hành vi giết hại cụ thể bằng chính đôi bàn tay của mình; và rất có thể là chúng ta tưởng tượng là chúng ta vô tội vì chưa hề bao giờ phạm tội sát sinh. Nhưng ngay từ đầu thì không một ai trong chúng ta, dù cao hay thấp, mạnh mẽ hay yếu đuối lại chưa từng phạm lỗi đạp chết vô số côn trùng dưới chân khi dạo bước.

Đặc biệt hơn, những Lạt Ma và tu sĩ khi tới nhà thăm các tín chủ, được dâng cúng máu và thịt của thú vật bị giết và được nấu thành thức ăn; mùi vị của thịt hấp dẫn họ tới nỗi họ ngấu nghiến món ăn với sự khoái trá mà không có chút xíu ân hận hay thương xót nào đối với những con vật bị giết. Trong những trường hợp như vậy, hậu quả ác nghiệp của người sát sinh sẽ ập xuống cho cả chủ lẫn khách không hề có sự khác biệt.

Khi những nhân vật quan trọng và viên chức chính quyền đi du hành, dù họ đi tới đâu thì cũng có vô số súc vật bị giết để dùng vào việc tổ chức những buổi tiệc trà và tiệc chiêu đãi của họ. Những người giàu có theo thói quen sát hại vô số súc vật. Trong số tất cả các gia súc của họ, ngoại trừ một vài con vật già nua ở đây đó, thì họ không để bất cứ con vật nào chết tự nhiên mà đều giết thịt từng con một khi các con vật ấy lớn dần.

Hơn nữa, trong mùa hè, chính những con trâu bò và những con cừu này, khi chúng ăn cỏ thì chúng lại giết hại vô số côn trùng, ruồi, kiến và thậm chí cả cá con và ếch nhái; trong khi chúng đang nuốt cỏ, chúng nghiền nát những con côn trùng này dưới bộ móng của chúng, hay làm những con côn trùng bị ngập lún trong phân. Hậu quả của ác nghiệp của tất cả các hành động này sẽ xảy tới với chủ nhân cũng như cho các con vật.

Nếu đem so sánh với ngựa, trâu bò và những loại gia súc khác thì con cừu là một nguồn đặc biệt gây nhiều tổn hại. Khi chúng ăn cỏ, chúng nuốt tất cả các sinh vật bé nhỏ, ếch, rắn, chim con... Khi bị xén lông vào mùa hè, hàng trăm ngàn sinh vật sống trên mỗi bộ lông cừu đều bị giết chết. Lúc sinh đẻ vào mùa đông, không tới phân nửa cừu con được giữ lại, còn bao nhiêu đều bị giết thịt khi vừa sinh ra.

Cừu mẹ được dùng để lấy sữa và sinh sản cho tới khi chúng quá già và suy kiệt; lúc đó chúng bị giết để lấy thịt và da. Và không một con cừu đực nào, dù có bị thiến hay không, tới lúc trưởng thành mà không bị giết ngay lập tức. Nếu cừu có rận thì hàng triệu chấy rận trên mỗi con cừu sẽ bị chết đồng loạt. Bất cứ ai sở hữu một bầy cừu một trăm con hay nhiều hơn nữa, bảo đảm sẽ tái sinh ít nhất một lần trong địa ngục.

Trong mỗi một đám cưới, vô số cừu bị giết khi của hồi môn được gởi đi, lúc tiễn cô dâu về nhà chồng, và khi cô dâu được cha mẹ chồng đón nhận. Sau đó mỗi khi cô dâu trẻ về thăm gia đình, chắc chắn những súc vật khác sẽ bị đem giết. Nếu bạn bè và thân quyến mời cô ra và phục vụ cô bất cứ thứ gì trừ món thịt thì cô sẽ làm ra vẻ lúng túng ăn không ngon miệng và ăn với vẻ khinh khỉnh như thể cô đã quên cách nhai.

Nhưng nếu giết một con cừu mập mạp và đặt phần bộ lòng trước mặt cô, thì cô sẽ ngồi xuống thật trịnh trọng như một con tiểu quỷ mặt đỏ, lôi con dao nhỏ ra, rồi cô nuốt chửng cả miếng thịt kèm theo những cái chắp môi. Ngày hôm sau cô lên đường, và trở về nhà buông phịch một xác thú đầy máu me xuống đất, y như thể một tên thợ săn, nhưng còn tệ hơn thế nữa, mỗi khi cô đi đâu ra ngoài, chắc chắn chẳng khi nào cô về tay không.

Trẻ con cũng vậy, chúng gây ra vô số cái chết cho súc vật trong lúc chơi đùa, dù chúng có biết điều đó hay không. Chẳng hạn trong mùa hè, chúng giết chết nhiều con côn trùng chỉ bằng cách dùng một cành liễu hay một cái roi da đập xuống mặt đất khi chúng đi bộ dọc theo con đường. Như vậy nên trong thực tế, tất cả loài người chúng ta dùng toàn bộ thời gian của mình để sát sinh, chẳng khác nào loài yêu quái.

Thực thế hãy xem bằng cách nào chúng ta giết chết trâu bò của mình để thưởng thức thịt và máu của chúng trong khi chúng đã dành toàn bộ cuộc đời để phục vụ và nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa của chúng, như thể chúng là mẹ của chúng ta chúng ta còn tệ hơn bất kỳ thứ yêu tinh nào.

Hành vi cướp đi mạng sống được hoàn tất khi bao gồm đầy đủ bốn yếu tố của một ác hạnh. Hãy lấy ví dụ về một người thợ săn giết một con dã thú. Trước hết, ông ta thấy một con nai thực sự, hay một con hươu xạ, hoặc bất kể con vật nào, và nhận thấy rõ rằng đây chính là con vật, không chút nghi ngờ: việc nhận biết đó là một sinh vật chính là căn bản cho sự hành động.

Kế đó, ước muốn giết con thú phát khởi: ý tưởng giết con thú là động cơ để thực hiện hành vi giết hại. Sau đó ông ta bắn vào điểm nhược của con vật bằng một khẩu súng, bằng cung tên hay bất kỳ vũ khí nào khác: hành động giết hại của thân là việc thực hiện hành vi ấy. Ngay sau đó, chức năng sinh tồn của con vật ngừng dứt, sự nối kết giữa thân và tâm của nó bị tách lìa: đó là sự hoàn tất cuối cùng của hành động sát sinh.

Còn một ví dụ khác: theo yêu cầu của gia chủ, người đồ tể giết một con cừu được nuôi để lấy thịt. Trước tiên, chủ nhà bảo người hầu hay người hàng thịt giết một con cừu. Điều căn bản là ông ta biết rằng có một sinh vật có liên quan đến ác hạnh naỳ đó là một con cừu. Động lực (ý định) hay ý tưởng giết con vật, sẽ hiện diện ngay khi ông ta quyết định con cừu này hay con cừu kia sẽ bị giết. Việc thực hiện hành động sát sinh thực sự xảy ra khi người đồ tể sắp sửa giết con cừu, vật nó ngã ngửa, cột bốn chân nó lại với nhau bằng những sợi dây da và buộc một sợi thừng quanh mõm cho tới khi nó chết ngạt.

Con vật ngừng thở trong sự đau đớn dữ dội của sự dãy chết, đôi mắt trợn trừng của nó ngả màu hơi xanh, kéo mây và trào lệ. Xác nó bị kéo ra khỏi nhà và giai đoạn cuối cùng, sự chấm dứt đời sống của nó, đưa tới sự hoàn tất ác hạnh. Không để phí chút thời gian nào, con vật bị lột da bằng một con dao, da thịt nó vẫn còn đang rung động vì “năng lực tỏa khắp” chưa đủ thời gian để lìa khỏi xác; như thể con vật vẫn còn sống.

Ngay lập tức, nó được nướng trên một ngọn lửa và nấu trên bếp lò, rồi được mang ra ăn. Khi bạn nghĩ về nó, về những con vật như vậy bị ăn thịt, trong thực tế nó đang bị ăn tươi nuốt sống, và loài người chúng ta thì không khác gì những con thú săn mồi.

Giả sử hôm nay bạn có ý định giết một con vật, hoặc bạn nói rằng sẽ giết, nhưng không thực sự làm điều đó. Như thế là đã có căn bản, có sự hiểu biết rằng đó là một chúng sinh, và có ý định hay ý tưởng giết hại con vật. Do đó, hai trong số các yếu tố của ác hạnh đã có mặt đầy đủ, và mặc dù sự tác hại ít nặng nề hơn so với việc bạn hoàn thành hành vi sát sinh trong thực tế, nhưng giống như sự phản chiếu trong một tấm gương, dấu vết của một hành động tiêu cực (ác hạnh) vẫn tồn tại.

Một số người tưởng rằng chỉ có những ai sử dụng thân thể để thực hiện việc sát sinh, mới tạo ra hậu quả của ác nghiệp, còn người chỉ ra lệnh thì không hay nếu có tạo, thì cũng chỉ tạo một ít hậu quả mà thôi. Nhưng bạn nên biết rằng nghiệp quả xảy đến với tất cả những người có liên quan đến hành vi xấu ác, đều đồng đều như nhau, ngay cả với những người chỉ cảm thấy vui thích về điều đó, đừng nói chi tới người thực sự ra lệnh cho việc sát sinh được thực hiện. Mỗi người nhận toàn bộ nghiệp quả của việc giết hại một con vật. Không làm gì có việc một hành động sát sinh lại có thể được chia ra cho nhiều người.



Thanked by 1 Member:

#701 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 14/02/2013 - 12:10

LẤY NHỮNG GÌ KHÔNG ĐƯỢC CHO

Việc lấy những gì không được cho gồm có ba loại: lấy bằng bạo lực, lấy bằng cách ăn trộm lén lút và lấy bằng thủ đoạn gian trá.

Lấy bằng bạo lực. Cũng gọi là lấy bằng sự áp chế, có nghĩa là cưỡng chiếm của cải hay tài sản của người khác; và người làm công việc cưỡng chiếm này là một cá nhân có quyền lực chẳng hạn như một ông vua, là một người không có chủ quyền hợp pháp đối với những tài sản kia. Điều này cũng bao gồm sự cưỡng đoạt bởi một số đông người, ví dụ như là một quân đội.

Lấy bằng trộm cắp. Điều này có nghĩa lấy mất của cải vật chất một cách bí mật, giống như một kẻ trộm ban đêm không bị chủ nhân bắt gặp.

Lấy bằng thủ đoạn gian trá. Nghĩa là lấy tài sản của người khác, ví dụ như trong giao dịch mua bán, bằng cách nói dối người khác, hoặc dùng cân và những dụng cụ đo lường sai lạc hoặc dùng các thủ đoạn lừa bịp khác.

Ngày nay, chúng ta nghĩ rằng trong lãnh vực kinh doanh và những phạm vi khác, việc lừa lọc hay dùng thủ đoạn để lấy đi những thứ gì đó của người khác thì không có gì là sai trái miễn là chúng ta không công khai trộm cắp. Nhưng trong thực tế, bất kỳ lợi nhuận nào chúng ta có thể tạo ra bằng cách lừa gạt người khác thì đều không khác với sự ăn cắp công khai.

Đặc biệt là ngày nay, các vị lạt ma và tu sĩ thấy rằng không có tổn hại hay sai lầm nào trong việc làm kinh doanh; quả thực họ tiêu phí toàn bộ cuộc đời vào công việc đó, và cảm thấy hơi tự hào về sự thành thạo của họ. Tuy nhiên, không có gì làm suy yếu tâm lực của một lạt ma hay tu sĩ hơn là việc làm kinh doanh.

Bị choáng ngợp trong công việc giao dịch, ông ta ít cảm thấy có khuynh hướng theo đuổi việc nghiên cứu hay tu tập để tịnh hóa những che chướng của mình – và dù sao chăng nữa thì cũng chẳng còn sót lại chút thời giờ nào để dành cho công việc tu tập như vậy. Tất cả thời giờ, từ lúc thức cho đến khi đi ngủ, đều bị hao phí mải mê với những trương mục kế toán. Bất cứ ý niệm nào về lòng quy ngưỡng, tâm chán ghét luân hồi, hay lòng bi mẫn thì những ý niệm đó cũng đều bị tiệt trừ và sự mê lầm thường xuyên chế ngự ông ta.

Một đêm kia, Ngài Jetsun Milarepa đến một tu viện và ngủ qua đêm trước cửa một căn phòng. Vị tu sĩ sống trong phòng đang nằm trên giừơng suy nghĩ về việc làm thế nào bán xác của con bò mà ông ta dự định sẽ làm thịt vào ngày mai: “Ta sẽ được ngần đó tiền cho cái đầu, xương vai đáng giá ngần ấy, và thịt vai được chừng ấy, chừng ấy cho giò và cẳng chân.”

Ông ta tiếp tục tính toán giá trị của từng món và từng phần của con bò, bên trong và bên ngoài. Tới rạng sáng, ông ta không chợp mắt được chút nào nhưng đã tính toán được xong xuôi mọi thứ ngoại trừ việc phải hỏi giá cái đuôi. Ông lập tức ngồi dậy, hoàn tất công phu quy ngưỡng và thực hành phần cúng dường bánh cúng (torma).

Khi đi ra đến ngoài, ông ta bước ngang qua chỗ Ngài Jetsun vẫn còn đang say ngủ, và mắng nhiếc Ngài một cách khinh bỉ: “Ông xưng là hành giả của Giáo Pháp, mà cho tới giờ này vẫn còn ngủ ở đây! Ông không công phu hành trì hay tụng niệm chút nào hay sao?”

“Tôi luôn mất ngủ như vầy,” Ngài Jetsun Mila trả lời. “Tôi vừa thức suốt đêm để nghĩ về cách bán con bò mà tôi sắp giết. Tôi chỉ mới chợp mắt được một chút…” Và như thế Ngài phơi bày những khuyết điểm che dấu của vị tăng, rồi bỏ đi.

Giống như vị tu sĩ trong truyện này, ngày nay những người mà cả đời chỉ chí thú việc kinh doanh đã dùng cả ngày lẫn đêm hoàn toàn mê đắm trong việc tính toán. Họ bị choán ngợp trong ảo tưởng, ngay cả khi cái chết đến, họ cũng sẽ chết mà vẫn mê lầm như thế. Hơn thế nữa, thương mại có liên quan đến tất cả những loại hành vi tiêu cực (ác hạnh).

Người ta có hàng hóa để bán, dù trong thực tế là loại kém tệ, nhưng họ lại đề cao chất lượng của nó bằng bất kỳ cách nào họ có thể nghĩ ra. Họ nói dối công khai, chẳng hạn như khách hàng này người mua nọ đã trả tới giá nào ra sao, nhưng họ đã từ chối không bán; hoặc lúc ban đầu họ đã mua vào với số tiền lớn như thế nào. Khi cố gắng mua cho bằng được những món hàng đang được hai người khác thương lượng, thì họ dùng đến sự vu khống nhằm kích động sự bất hoà giữa hai bên. Họ dùng những lời lẽ nặng nề để nói xấu hàng hoá của đối thủ cạnh tranh, nhằm việc tranh nợ hoặc các thứ tương tự khác.

Họ say mê trong những cuộc trò chuyện vô nghĩa bằng cách đòi hỏi giá cả kỳ cục hoặc mặc cả những thứ mà họ chẳng có ý định mua. Họ ghen tỵ và thèm muốn những thứ thuộc sở hữu của người khác, nỗ lực hết mình để được người kia cho những món đó. Họ luôn mong đối thủ của mình bị tổn hại, luôn mong muốn dành được phần tốt hơn của đối thủ. Nếu họ buôn bán gia súc, họ bị dính mắc trong việc sát sinh. Vì thế trong thực tế, việc kinh doanh bao gồm tất cả mười hành động bất thiện (thập ác), may ra thì có thể không phải kể đến tà kiến và tà dâm.

Sau đó, khi việc thương lượng của họ tiến hành không tốt đẹp thì cả hai bên đều hao phí tài sản, mọi người đều khốn khổ, các thương nhân có thể trở thành đói khát, đem lại tổn thất cho bản thân họ và cho cả những kẻ đối tác. Nhưng nếu họ gặt hái chút ít thành công, thì dù có kiếm lời nhiều đến đâu chăng nữa họ chẳng bao giờ thấy đủ.

Ngay cả những người giàu có như Đa Văn Thiên (Vaisravana) vẫn cảm thấy thích thú trong những việc kinh doanh bất chính. Cuối cùng khi cái chết tới gần, họ sẽ đấm ngực trong đau khổ, bởi toàn bộ đời người của họ đã bị tiêu phí trong những sự mê ám như vậy, là những thứ giờ đây đang trở thành gánh nặng lôi họ xuống các cõi thấp.

Để tích lũy những ác hạnh vô tận và hoàn toàn làm cho bạn trở nên đồi bại, hư hỏng thì không có gì hữu hiệu hơn là làm việc buôn bán và thương mại. Bạn sẽ thấy bản thân mình luôn luôn nghĩ đến các phương thức đánh lừa người khác như thể bạn đang xem xét một bộ sưu tập gồm các loại dao, dùi và kim xem dụng cụ nào sắc bén nhất.

Khi nghiền ngẫm không ngừng về những tư tưởng ác hại, bạn quay lưng lại với lý tưởng Bồ Đề tâm là tư tưởng cứu giúp những chúng sinh khác, và những hành động nguy hại của bạn sinh sôi nảy nở vô tận.

Việc lấy đi những gì không được cho cũng bao gồm bốn yếu tố làm cho ác hạnh được hoàn tất; những điều này cũng đã được giảng rõ rồi. Tuy nhiên, bất cứ sự tham dự nào vào trong các hành vi bất thiện đó, dù chỉ là biếu tặng những kẻ đi săn hoặc những tên trộm cắp chút ít thực phẩm giúp cho cuộc hành trình của chúng thì việc này cũng đủ để đem lại cho bạn một phần hậu quả tương đương với hậu quả của hành vi bất thiện gây ra bởi tội sát sinh và trộm cướp của chúng.


Thanked by 1 Member:

#702 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 23/02/2013 - 22:43

MUỐN LÀM TỔN HẠI NGƯỜI KHÁC

Điều này ám chỉ tất cả những tư tưởng hiểm độc mà ta có thể có về những người khác. Ví dụ như suy nghĩ với lòng oán ghét hay giận dữ để xem bằng cách nào chúng ta có thể làm hại được họ; cảm thấy thất vọng khi họ thành công hay phát đạt; mong muốn họ bớt sung túc, bớt hạnh phúc hay bớt tài giỏi; hoặc cảm thấy vui mừng khi những điều khó chịu xảy ra cho họ.

TÀ KIẾN

Tà kiến bao gồm quan điểm cho rằng hành động không tạo nghiệp quả, và quan điểm của thuyết vĩnh cửu và thuyết hư vô.

Theo quan điểm hành động không tạo nghiệp quả thì thiện hạnh không đem lợi ích và ác hạnh không gây tổn hại. Quan điểm của thuyết vĩnh cửu và hư vô bao gồm tất cả những quan điểm khác nhau của những kẻ ngoaiï đạo. Mặc dù những tà kiến loại này có thể được chia ra thành ba trăm sáu mươi quan điểm sai lầm, hay sáu mươi hai tà kiến, nhưng tất cả có thể được tóm tắt thành hai phân loại bao gồm chủ nghĩa vĩnh cửu và chủ nghĩa hư vô.

Những người theo chủ nghĩa vĩnh cửu tin là có một cái ngã thường hằng và một đấng tạo hoá (tạo lập thế giới) hiện hữu vĩnh cửu bên ngoài ta, chẳng hạn như các vị thần Isvara hay Vishnu. Những người theo thuyết hư vô tin rằng tất cả sự vật hoàn toàn tự phát, không có đời quá khứ hay đời vị lai, không có nghiệp quả, không có tự do và giải thoát. Như có nói trong học thuyết của thần Isvara Sắc Đen:

Mặt trời mọc, nước chảy xuống
Hạt đậu xoe tròn, chiều dài đâm tủa và cái bén nhọn của cây gai
Vẻ đẹp của con mắt ngũ sắc của đuôi công
Chẳng do ai tạo, tất cả đều tự phát một cách tự nhiên.

Họ biện luận rằng khi mặt trời mọc ở phương Đông, không ai ở đó làm cho nó mọc. Khi một dòng sông chảy xuống thấp, không ai lèo lái cho nước chảy xuống. Không ai lăn những hạt đậu để làm tất cả những hạt đậu tròn xoe, hay làm cho tất cả các mũi gai thành dài, sắc nhọn, và dựng đứng. Không ai vẽ những con mắt đẹp đẽ nhiều màu trên một đuôi công... Tất cả những sự việc này chỉ là thuần túy như thế, được sinh do những đặc tánh riêng của chúng.

Và vì thế mọi sự trong thế gian này dù thoải mái hay khó chịu, xấu hay tốt, mọi hiện tượng đều tự phát một cách hoàn toàn tự nhiên. Không có nghiệp từ quá khứ, không có những đời trước, không có những đời sau.

Nếu cho rằng văn bản của những học thuyết như vậy là chân chính và thuận theo những bản văn ấy, hoặc ngay cả không noi theo nhưng lại suy gẫm cho rằng lời của Đức Phật, cũng như những giáo huấn của vị Thầy của bạn, hay những trước tác của những nhà luận giảng uyên bác là những lời sai lạc, rồi đâm ra hoài nghi, chỉ trích những lời này, thì tất cả đều được bao gồm trong điều được gọi là tà kiến.

Điều tệ hại nhất trong mười hành động bất thiện là sát sinh và tà kiến. Như đã có câu nói rằng:

Không hành vi nào tệ hại hơn việc cướp đi mạng sống của một chúng sinh khác; Trong mười hành vi bất thiện, tà kiến là nặng nề nhất.

Ngoại trừ chúng sinh trong các địa ngục, không ai không chùn bước trước cái chết hay không ai không coi trọng cuộc đời mình hơn bất kỳ điều gì khác. Thế nên, huỷ diệt một cuộc đời là một hành động cực kỳ bất thiện. Trong Tịnh Ức Diệu Pháp Kinh có nói rằng ta sẽ phải trả lại bất kỳ mạng sống nào ta đã cướp đi bằng năm trăm kiếp sống của riêng ta, và nếu ta giết chết dù chỉ một chúng sinh thì ta sẽ phải trải qua một đại kiếp trong thân trung ấm ở các cõi địa ngục.

Còn tệ hại hơn nữa là trong khi đang thực hiện một việc công đức, chẳng hạn như xây dựng một biểu tượng của Tam Bảo, mà bạn lại làm việc đó như thể đây là một lý do bào chữa để qua đó mà bạn phạm những ác hạnh như sát sinh. Ngài Padampa Sangye đã nói:

Xây dựng pháp bảo hộ trì cho Tam Bảo trong khi gây ra tổn hại và đau khổ
Là ném đời sau của bạn vào trong gió.

Cũng là điều sai lầm quấy quá nếu bạn nghĩ rằng bạn đang làm điều đáng ca ngợi khi giết súc vật và dâng cúng thịt và máu của chúng cho các lạt ma được mời tới nhà bạn, hay dâng cúng những món này cho một hội chúng các tu sĩ. Hậu quả của ác nghiệp sẽ xảy tới cho cả người cho lẫn người nhận. Người cho, mặc dù làm việc cung cấp thực phẩm, nhưng đang tạo ra một món cúng dường bất tịnh; và người nhận đang chấp thuận thực phẩm không thích hợp. Bất kỳ kết quả tốt lành nào cũng đều sẽ bị hậu quả tiêu cực lấn át (lợi bất cập hại).

Quả thực, trừ khi bạn có khả năng làm hồi sinh các nạn nhân của bạn ngay tại chỗ, còn thì không có tình huống nào mà hành vi sát sinh lại không làm ô uế bạn như là một hành vi bất thiện. Bạn cũng có thể đoan chắc rằng việc ấy sẽ làm tổn hại cuộc đời và công hạnh của vị Thầy. Nếu bạn không có khả năng chuyển di tâm thức chúng sinh đến trạng thái cực lạc, thì bạn nên thực hiện mọi nỗ lực để tránh việc cướp đi mạng sống của các chúng sinh ấy.

Nếu bạn có tà kiến, cho dù chỉ trong một khoảnh khắc, điều ấy sẽ phá vỡ tất cả các giới nguyện của bạn và bạn tự loại mình ra khỏi cộng đồng Phật tử. Tà kiến cũng sẽ không cho bạn có được sự tự do khi đang có được thân người trong đời này để thực hành Giáo Pháp. Từ giây phút tâm thức bạn bị những tà kiến làm nhiễm ô, thì ngay cả những việc tốt lành mà bạn làm cũng không dẫn tới được giải thoát và những việc xấu ác bạn đã phạm cũng chẳng thể sám hối được nữa.


Thanked by 1 Member:

#703 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 26/02/2013 - 08:15

CHƯƠNG NĂM

LỢI ÍCH CỦA GIẢI THOÁT

Được chư thiện tri thức và thành tựu giả siêu phàm dẫn dắt.

Ngài đã tu tập và trực nghiệm giáo huấn của chư Bổn Sư.

Ngài chỉ ra con đường cao cả không sai trật cho kẻ khác.

Bậc Thầy Vô Song, con đảnh lễ dưới chân Ngài.

Cách thức lắng nghe giáo lý về sự lợi lạc của giải thoát trong chương này, và về cách thức theo chân một vị Thầy tâm linh trong chương sau, thì cũng giống như cách thức đã được giải thích trước đây.

Giải thoát là gì? Đó là tìm được tự do thoát khỏi đại dương đau khổ, được gọi là luân hồi này, và đạt được quả vị của một Thanh Văn (Sravaka), một vị Độc Giác Phật (Pratyekabuddha), hay một vị Phật Toàn Giác.

I. NHỮNG NHÂN TỐ ĐƯA ĐẾN GIẢI THOÁT

Những nhân tố đưa bạn đến được với giải thoát gồm có như sau:

1. Trước tiên, hãy làm cho tâm bạn nhu nhuyễn nương vào bốn pháp chuyển tâm, để bạn có thể xoay lưng lại với luân hồi, bắt đầu bằng những hiểu biết về sự khó khăn, để tìm được những điều kiện tự do và những thuận duyên (của đời người hiếm quý)

2. Thực hành tất cả những pháp tu, bắt đầu bằng pháp quy y, vì đây là nền tảng của mọi con đường tu, cho đến khi nào hoàn tất trọn vẹn pháp môn chính yếu. Lợi lạc của mỗi một pháp tu đã được giải thích trong những chương có liên quan đến những pháp tu này.

II. KẾT QUẢ: BA QUẢ VỊ GIÁC NGỘ

Dù bạn sẽ chứng đắc trong quả vị của một Thanh Văn, một vị Phật Độc Giác, hay một vị Phật Toàn Giác, thì kết quả sẽ là một sự an lạc, khinh an, thoát khỏi những nẻo đường tràn đầy nguy hiểm và đau khổ của cõi luân hồi. Thật là sung sướng xiết bao!

Trong số tất cả những con đường tu khác nhau, thì mục đích duy nhất của con đường tu theo Đại Thừa mà bây giờ bạn đang dấn bước ,là làm sao đạt được Phật Quả viên mãn.

Trên con đường tu theo Đại Thừa này, nhất nhất các pháp tu phải đều lấy Phật Quả viên mãn làm mục đích duy nhất, từ thập thiện, cho đến bốn tâm vô lượng, cho đến sáu pháp toàn thiện siêu việt (lục độ ba la mật), bốn trạng thái định (chỉ), bốn trạng thái của vô sắc giới, an trụ, và của tuệ minh sát (quán).

Ngoài những pháp kể trên thì còn có ba pháp tu tối thượng:

1. Phát khởi Bồ Đề Tâm như là một pháp tu dự bị.

2. Giữ tâm không tạo tác trong thời gian hành trì pháp môn tu tập chính yếu.

3. Kết thúc bằng những lời nguyện hồi hướng.

Tất cả các pháp này, đều phải lấy Phật Quả viên mãn làm mục đích duy nhất.

Milarepa 1040 – 1123.

Hành giả du già (yogi) nổi tiếng nhất của Tây Tạng, lừng danh qua lối sống khổ hạnh trong những rặng núi ở miền Nam Tây Tạng, qua sự kiên trì trong thiền định, và qua những bài đạo ca được Ngài hát lên một cách tự nhiên, để giảng dạy cho những người thợ săn cũng như dân làng.


Thanked by 1 Member:

#704 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 26/02/2013 - 08:44

CHƯƠNG SÁU

LÀM THẾ NÀO ĐỂ THEO CHÂN MỘT VỊ THẦY TÂM LINH

Không có Kinh điển (Sutra), Mật điển (Tantra), hay Luận (Sastra) nào nói rằng, đã từng có người đạt được Phật quả viên mãn, mà không cần phải theo chân một vị Thầy tâm linh.

Chúng ta có thể tự mình nhận ra rằng, chưa từng có ai đạt được thành tựu của hai giai đoạn tu tập, bằng phương tiện thiện xảo và lòng can đảm của riêng họ.

Thực vậy, tất cả chúng sinh bao gồm chúng ta, đã phô bày rất nhiều tài năng đặc biệt, trong việc khám phá ra những con đường sai lạc để noi theo, còn trong khi đi trên con đường dẫn đến giải thoát và toàn giácm thì chúng ta lại bối rối như một người mù, cô độc lang thang giữa bãi hoang.

Không ai có thể đem được châu báu về từ một kho tàng trên hải đảo, mà không nhờ vào một hoa tiêu lão luyện (ám chỉ những nhà thám hiểm thời xưa khi đi tìm châu báu nơi những hòn đảo xa xôi).

Tương tự như thế, một vị Thầy tâm linh, hay bạn đồng hành, là người hướng đạo đích thực có thể đưa chúng ta đạt đến giải thoát và toàn giác, và chúng ta phải đi theo Ngài với lòng tôn kính.

Điều này có thể được noi theo trong ba giai đoạn: trước tiên, hãy quán sát vị Thầy, sau đó hãy theo chân Ngài, và cuối cùng, hãy noi gương những chứng ngộ và công hạnh của Ngài.


Thanked by 1 Member:

#705 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 26/02/2013 - 09:13

QUÁN SÁT THẦY

Phần lớn người bình thường như chúng ta, dễ dàng bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh và những người quanh ta. Đó là lý do tại sao chúng ta phải luôn theo chân một vị Thầy, một thiện hữu tri thức. Nơi khu rừng đàn hương trong rặng Malaya, khi một thân cây bình thường đổ xuống, gỗ của nó được thấm đẫm dần dần mùi hương dịu dàng của cây đàn hương. Sau vài năm, thân gỗ tầm thường đó có mùi thơm dịu như những cây đàn hương quanh nó. Cũng tương tự như thế, nếu bạn sống và học tập với một vị Thầy toàn hảo, có đầy đủ những phẩm hạnh tốt lành, bạn sẽ được thấm nhuần hương thơm của những phẩm tính đó, và tất cả những gì bạn làm cũng sẽ trở nên giống như Ngài.

Giống như một thân cây tầm thường
Trong rừng núi Malaya
Thấm đượm mùi đàn hương từ những cành lá ẩm
Cũng thế, bạn tương ưng được với bất kỳ ai bạn theo chân.

Trong thời đại suy đồi này, ta khó có thể tìm được một vị Thầy có tất cả mọi phẩm hạnh được mô tả trong những Mật điển quý báu. Dù thế nào chăng nữa thì vị Thầy mà chúng ta đi theo phải có ít nhất những thiện đức sau đây: Ngài phải thanh tịnh, chưa từng phạm những giới cấm liên quan đến ba loại giới nguyện, giới nguyện bên ngoài của Biệt Giải Thoát, giới nguyện bên trong của Bồ Tát, và giới nguyện bí mật của Kim Cương Thừa. Ngài phải uyên bác, thấu suốt Mật điển, Kinh điển và Luận, không hề sai sót. Đối với chúng sinh vô biên, trái tim Ngài phải tràn đầy lòng bi mẫn khiến Ngài thương yêu mỗi người trong số đó như yêu thương đứa con duy nhất của Ngài.

Ngài phải thông thạo cách thực hành các nghi lễ, Tam Tạng kinh điển, và nội điển là bốn cấp độ của Mật điển. Bằng cách đưa yếu nghĩa của giáo lý vào thực hành, Ngài phải tự thể nhập những thành tựu phi thường của sự giải thoát và chứng ngộ. Ngài phải rộng lượng, ngôn từ dễ nghe, dạy dỗ mỗi người theo căn cơ của họ, và phải hành động phù hợp với những gì đã giảng dạy. Bốn cách quy phục chúng sinh này có thể giúp vị Thầy tập hợp được những đệ tử may mắn chung quanh Ngài.

Tất cả những phẩm hạnh toàn hảo noi theo Giáo Pháp thuần tịnh nhất
Khó tìm thấy được trong thời buổi suy đồi này
Nhưng hãy tin tưởng vào vị Thầy, là vị tuyệt đối tuân giữ ba giới nguyện
Với sở học uyên bác, lòng đại bi sâu thẳm
Ngài thiện xảo trong nghi thức của vô lượng Tạng Kinh và Mật điển
Trí tuệ bát nhã của Ngài đến từ những xả bỏ
Và chứng ngộ, như quả ngọt trổ sanh
Bốn phẩm hạnh rực rỡ của Ngài, như đoá hoa quyến rũ
Những đệ tử may mắn sẽ tụ hội quanh Ngài như những đàn ong.

Đặc biệt hơn nữa, đối với giáo lý tinh tuý thâm diệu, của những giáo huấn cốt lõi của Kim Cương Thừa, thì vị Đạo Sư mà chúng ta nên nương tựa phải giống như sau. Như đã trình bày trong những Mật điển quý báu, Ngài phải đạt được thành tựu nương vào những pháp quán đảnh, đã được truyền xuống đến Ngài từ một dòng truyền thừa liên tục không gián đoạn. Ngài không vi phạm giới nguyện hoặc mật nguyện đã thọ nhận lúc nhận quán đảnh. Không bị những cảm xúc và tư tưởng bất thiện quấy rối, Ngài phải giữ tâm an định và tuân giữ giới luật. Ngài phải thấu suốt toàn bộ ý nghĩa của các Mật điển thuộc nền tảng, đạo và quả của Kim Cương Thừa. Ngài phải đạt được của các pháp môn hành trì, như thấy được linh kiến của các Bổn Tôn.

Bản thân Ngài đã phải chứng nghiệm được chân như, bản tánh của thực tại, và chính Ngài đã có thể đạt được giải thoát. Sự an vui của người khác phải là mối quan tâm duy nhất của Ngài, trái tim Ngài tràn đầy lòng bi mẫn. Ngài phải ít ưu tư lo lắng, bởi Ngài đã từ bỏ được tất cả mọi bám chấp vào những sự việc tầm thường của cuộc đời này. Mối quan tâm duy nhất của Ngài đối với những đời vị lai thì không là gì khác hơn ngoài cái tâm kiên định hướng về Pháp. Nhìn thấy cõi sinh tử luân hồi chỉ là khổ đau, Ngài phải cảm nhận được một nỗi buồn vô hạn, và phải khuyến khích những người khác cũng cảm nhận như thế. Ngài phải thiện xảo trong việc chăm sóc các đệ tử và phải sử dụng những phương pháp thích hợp phù hợp với căn cơ của từng người. Sau khi đã hoàn tất các huấn lệnh bổn sư của Ngài, Ngài phải trì giữ những năng lực gia trì của dòng truyền thừa.

Bậc Thầy phi thường – trao truyền những giáo huấn cốt tủy
Đã thọ quán đảnh, gìn giữ mật nguyện, và luôn an bình
Thấu suốt ý nghĩa của các Mật điển nền tảng, đạo và quả;
Có mọi dấu hiệu của phát triển và thành tựu, và đạt được
giải thoát nương vào chứng ngộ;
Có lòng bi mẫn vô hạn và chỉ quan tâm đến người khác
Ít các hoạt động thế tục và chỉ kiên quyết nghĩ tưởng về Pháp
Lão luyện trong phương tiện và nhận được những gia hộ của dòng truyền thừa.
Hãy đi theo một vị Thầy như thế, và đạo quả thành tựu sẽ đến thật chóng vánh.

Mặt khác, có vài loại Thầy mà ta nên tránh. Những đặc tính của họ như sau.

Vị Thầy như cối xay bằng gỗ. Những vị Thầy này không có dấu hiệu của những phẩm hạnh phát khởi từ sự học hỏi, quán chiếu, và thiền định. Cho rằng mình là con hay cháu tôn quý của một lạt ma nào đó nên họ và con cháu họ phải siêu việt hơn bất kỳ ai khác, và họ bảo vệ giai cấp của họ như những người bà la môn. Ngay cả nếu họ đã học hỏi, quán chiếu và thiền định chút ít, họ không làm những điều đó với bất kỳ ý hướng thanh tịnh nào để đem lại lợi lạc cho những đời tương lai mà làm vì những lý do thế tục nhiều hơn. Riêng khả năng của họ đối với việc đào tạo đệ tử thì họ cũng gần giống như một chiếc cối xay bằng gỗ.

Vị Thầy giống như ếch ngồi đáy giếng. Những vị Thầy thuộc loại này không có bất kỳ phẩm hạnh đặc biệt nào để có thể phân biệt với người thường. Nhưng người khác lại sùng bái họ với lòng tin mù quáng, hoàn toàn không quán sát họ. Dương dương tự đắc bởi thanh danh và lợi dưỡng nhận được, bản thân họ hoàn toàn không biết tới những phẩm tính thực sự của một vị Thầy vĩ đại. Họ như con ếch sống trong một cái giếng.

Một ngày nọ, một con ếch sống trên bờ một đại dương tới thăm con ếch già luôn luôn sống trong một cái giếng.

“Bạn từ đâu đến?” con ếch sống trong giếng hỏi.
“Tôi từ đại dương tới,” ếch khách trả lời.
“Đại dương của bạn lớn như thế nào?” con ếch dưới giếng hỏi.
“Thật vĩ đại,” con ếch kia trả lời.
“Có bằng một phần tư cái giếng của tôi không?” ếch dưới giếng hỏi.
“Ồ! Lớn hơn nhiều!” con ếch ở đại dương kêu lên.
“Bằng phân nửa không?”
“Không, lớn hơn vậy,”
“Vậy bằng cái giếng này không?”
“Không, không, lớn hơn nhiều, hơn nhiều lắm!”
“Không thể được!” con ếch sống dưới giếng nói. “Tôi phải thấy tận mắt.”

Vì thế, hai con ếch cùng đi, và câu chuyện tiếp tục rằng khi con ếch ở giếng nhìn thấy đại dương, nó ngất đi, bể đầu ra mà chết.

Những người dẫn đường điên rồ. Đó là những vị Thầy có rất ít kiến thức, chưa bao giờ nỗ lực theo chân một vị Thầy uyên bác nào và chưa tu tập các pháp môn theo Kinh điển và Mật điển. Những cảm xúc bất thiện cùng với chánh niệm và tỉnh giác rất yếu ớt của họ khiến họ lơ là trong việc gìn giữ giới nguyện. Mặc dù trí lực thấp kém hơn người thường, họ bắt chước những vị thành tựu giả và cư xử như thể hành động của họ còn cao hơn bầu trời. Tràn ngập sân hận và ghen tị, họ phá vỡ huyết mạch của lòng từ bi. Những thiện hữu tri thức tâm linh như thế được gọi là những người hướng dẫn điên rồ, và đưa dẫn bất kỳ ai theo họ rơi xuống con đường lầm lạc.

Những người hướng dẫn mù quáng. Đặc biệt, một vị Thầy mà phẩm hạnh không hơn được bạn và thiếu lòng từ bi của Bồ Đề Tâm thì sẽ không bao giờ có thể khai mở cho bạn về những gì nên làm và không nên làm. Các vị Thầy như vậy được gọi là những người hướng dẫn mù quáng.

Giống như người Bà la môn, một số bảo vệ giai cấp của họ
Hoặc trong vực thẳm lo âu cho sự sống còn của danh vọng
Họ tự đắm mình trong cái học và cái quán chiếu hư ngụy
Những người dẫn đường như vậy giống cái cối xay bằng gỗ
Một số người, dù chẳng khác gì những kẻ bình thường
Sống dựa trên niềm tin ngu dại của người khác
Kiêu căng vì lợi lộc, phẩm vật cúng dường và danh tiếng
Những người bạn như vậy giống như ếch ngồi đáy giếng.

Một số người, có rất ít hiểu biết, lại bỏ bê những mật nguyện và giới nguyện của họ
Trí lực thấp kém mà hành xử lại cao hơn trái đất
Họ phá vỡ huyết mạch của lòng từ và bi
Những người dẫn đường điên rồ như vậy chỉ có thể truyền bá cái ác nhiều hơn
Đặc biệt nếu đi theo những người chẳng hơn gì chính bạn
Những kẻ không có Bồ Đề Tâm, bị thu hút chỉ bởi danh vọng
Sẽ là một lỗi lầm to lớn; nhận những kẻ gian manh như vậy
Làm những người dẫn đường mù quáng, bạn sẽ lang thang vào sâu hơn trong vũng lầy bóng tối.

Bậc Đạo Sư vĩ đại xứ Oddiyana đã răn dạy rằng:

Không quán sát vị Thầy
Thì giống như uống thuốc độc
Không quán sát đệ tử
Thì giống như lao xuống từ vách đá.

Bạn đặt niềm tin vào vị Thầy tâm linh cho tất cả những đời sau của bạn. Chính Ngài là người sẽ dạy cho bạn những gì nên làm và không nên làm. Nếu bạn gặp một vị Thầy giả mạo mà không quán sát đúng đắn, bạn sẽ ném đi cơ hội của một người có khả năng tích lũy công đức trong suốt cả đời, và những điêàu kiện tự do và thuận duyên của đời người mà bạn đang có sẽ bị phí hoại. Điều đó cũng giống như chỉ vì lầm tưởng là cái bóng cây nên bạn bị một con rắn độc cuộn tròn dưới một thân cây giết chết khi bạn tới gần.

Bởi không quán sát vị Thầy một cách cẩn trọng
Những kẻ sùng kính đã lãng phí công đức tích lũy
Giống như nhận lầm rắn độc là bóng cây
Bị lừa gạt, họ đánh mất tự do mà cuối cùng họ đã tìm thấy.

Sau khi quán sát vị Thầy cẩn thận và có được những đánh giá không sai lạc, từ lúc bạn nhận ra rằng Thầy có tất cả những phẩm hạnh tốt lành như đã được đề cập tới thì bạn phải luôn luôn không ngừng nghỉ xem Ngài như là một vị Phật trong thân tướng con người. Tất cả những phẩm hạnh trong Thầy đều toàn thiện. Ngài là hiện thân của trí tuệ bi mẫn của thập phương chư Phật, xuất hiện trong thân tướng của một con người bình thường chỉ để làm lợi lạc cho chúng sinh.

Vị Thầy với trọn vẹn những phẩm hạnh vô lượng
Chính là trí tuệ và lòng đại bi của tất cả chư Phật
Xuất hiện trong thân người để phổ độ chúng sinh
Ngài là suối nguồn vô song của thành tựu.

Vì vậy, một vị Thầy chân chính như thế có thể khéo léo hướng dẫn những người bình thường cần Ngài giúp đỡ, cách hành xử hàng ngày của Ngài thích ứng với hành xử của những người bình thường. Nhưng trong thực tế, tuệ giác của Ngài là trí tuệ của một vị Phật, vì thế Ngài hoàn toàn khác biệt với mọi người. Mỗi hành động của Ngài đơn thuần là công hạnh của một bậc giác ngộ thuận theo những người mà Ngài muốn đem lại lợi lạc cho họ. Do đó, Ngài là đấng tôn quý độc nhất vô nhị.

Khéo léo chặt đứt những do dự và nghi ngờ, Ngài kiên nhẫn chịu đựng tất cả sự bội ơn và ngã lòng của đệ tử, giống như một người mẹ xử sự với đứa con duy nhất của mình.

Để dẫn dắt chúng sinh, Ngài hành xử linh hoạt hoàn toàn
giống tất cả chúng ta
Nhưng thực ra Ngài hoàn toàn khác biệt
Sự Giác Ngộ của Ngài khiến Ngài là bậc tôn quý nhất
Khéo léo chặt đứt những hoài nghi của chúng ta
Ngài chịu đựng với sự nhẫn nại
Mọi sự ngã lòng và vô ơn của chúng ta.

Vị Thầy với tất cả những phẩm hạnh này cũng giống như một chiếc thuyền lớn vượt qua đại dương luân hồi mênh mông. Giống như một hoa tiêu lão luyện, Ngài luôn luôn vạch ra con đường dẫn tới giải thoát và toàn giác cho chúng ta. Như một giọt cam lồ, Ngài dập tắt ngọn lửa dữ của ác nghiệp và của cảm xúc bất thiện. Giống như mặt trời và mặt trăng, Ngài chiếu rọi ánh sáng của Giáo Pháp và xua tan bóng tối dầy đặc của vô minh. Giống như đất, Ngài kiên nhẫn chịu đựng sự vô ơn, ngã lòng, và năng lực của Kiến và Hành của Ngài thì hết sức bao la. Như một cây như ý, Ngài là suối nguồn của tất cả những sự giúp đỡ trong đời này và tất cả hạnh phúc trong những đời sau.

Giống như một chiếc bình toàn hảo, Ngài là một kho tàng của tất cả các Thừa và các giáo lý mà người ta từng mong ước. Giống như ngọc như ý, Ngài hiển lộ những khía cạnh không thể nghĩ bàn của bốn công hạnh phù hợp với căn cơ của chúng sinh. Giống như người mẹ hay cha, Ngài yêu thương mỗi một chúng sinh trong vô lượng chúng sinh một cách bình đẳng, không có bất kỳ tham luyến nào với những người thân cận Ngài và ghét bỏ những người khác. Giống như một con sông lớn, lòng đại bi của Ngài bao la tới nỗi dung chứa được tất cả chúng sinh vô tận như không gian, và nhanh chóng tới nỗi cứu giúp được tất cả những chúng sinh đang đau khổ và không người che chở.

Như sơn vương, tâm hoan hỷ của Ngài trước hạnh phúc của người khác thì kiên cố tới nỗi không thể chuyển dời bởi tâm ghen tị, hay bị dao động bởi những ngọn gió của hiện tượng. Giống như trận mưa đổ xuống từ một đám mây, tâm vô phân biệt của Ngài không bao giờ bị xáo trộn bởi sự bám chấp hay ganh ghét.

Ngài là con thuyền lớn chở chúng ta vượt qua biển luân hồi
Là vị hoa tiêu lão luyện, không chút sai lạc vạch ra con đường vi diệu
Là trận mưa cam lồ làm mát dịu bao phiền não của những
xúc cảm và hành động bất thiện,
Là mặt trời, mặt trăng xua tan bóng tối vô minh
Ngài là mặt đất, nhẫn nại vô biên
Là cây như ý, suối nguồn của mọi ơn gia trì và hạnh phúc
Là chiếc bình toàn hảo chứa đựng kho tàng Giáo Pháp
Ngài ban cho tất cả, còn hơn cả một viên ngọc như ý
Ngài là cha và mẹ, yêu thương tất cả ngang bằng
Lòng đại bi của Ngài bao la và thần tốc như con sông lớn
Tâm hoan hỷ thì bất biến như vị sơn vương
Không gì có thể nhiễu loạn tâm vô phân biệt của Ngài
giống như trận mưa đổ xuống từ một đám mây.

Một vị Thầy như thế ngang bằng với tất cả chư Phật nhờ bởi lòng bi mẫn và năng lực gia hộ của Ngài. Những người có mối liên hệ tốt lành với Ngài sẽ đạt được Phật Quả chỉ trong một đời. Ngay cả những người đã tạo một mối liên hệ bất thiện với Ngài cuối cùng cũng sẽ được dẫn dắt ra khỏi luân hồi sinh tử.

Một vị Thầy như vậy ngang bằng với tất cả chư Phật
Nếu ngay cả những kẻ gây tổn hại cho Ngài vẫn được
dẫn dắt trên con đường hạnh phúc
Thì đối với những người chân thành tin tưởng nơi Ngài
Sẽ có những cõi tịnh độ và giải thoát ban rải như mưa.


Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |