

831 replies to this topic
#571
Gửi vào 28/10/2012 - 09:55
VÌ SAO TIN PHẬT
Học thuyết tái sanh trong Phật giáo khác biệt giáo lý về chuyển kiếp và đầu thai của các tôn giáo khác. Đạo Phật bác bỏ sự hiện hữu trường cửu của một linh hồn do thánh thần tạo nên hay một thực thể không thay đổi được chuyển từ kiếp này đến kiếp khác.Tương tự như một cá nhân có thể đưọc tạo ra do nhân duyên chứ không do một bản ngã hay linh hồn, thì tái sanh có thể bắt nguồn từ cái chết mà không cần có một linh hồn chuyển tiếp.
Suốt một kiếp sống, cứ mỗi một chập tư tưởng lóe lên rồi tắt đi, nó tạo sự sanh khởi cho một chập tư tưởng kế tiếp bằng chính sự hoại diệt của nó. Nói một cách chính xác sự trỗi lên và mất đi của một tư tưỏng là sanh và tử. Cho nên trong một kiếp người, chúng ta có hằng hà sa số sanh và tử trong mỗi giây. Nhưng vì tiến trình tâm ý tiếp tục với sự hỗ trợ của một thân xác vật lý nên chúng ta coi luồng tiếp nối của thân tâm như sự hình thành một kiếp sống.
Cái mà chúng ta thường hiểu về cái chết là sự ngưng hoạt động của các chức năng sống còn của thân xác. Khi xác thân mất sinh lực, nó không còn có thể hỗ trợ được dòng tâm thức là mặt tinh thần của tiến trình. Nhưng chừng nào nó còn có một sự bám níu vào đời sống, còn lòng ham muốn được sống còn thì dòng tâm thức sẽ không ngừng với xác thân đã chết.
Khi cái chết đến, khi xác thân hoại diệt, dòng tâm thức khao khát muốn sống còn lại gá vào một xác thân mới xuất hiện qua sự gặp gỡ của tinh trùng và trứng. Cho nên, tái sanh xuất hiện ngay sau khi chết. Dòng suối ký ức có thể bị gián đoạn và nhân dạng được chuyển hóa sang tình trạng mới, nhưng tất cả những tích lữy về kinh nghiệm và tính khí được truyền trao sang cho thai nhi, và chu kỳ của sự tái sanh lại bắt đầu quay một vòng khác.
Với Phật Giáo, chết không có nghĩa là đi vào cuộc sống trường cửu hay một sự đoạn diệt hoàn toàn. Đúng hơn chết là cửa ngõ của tái sanh mới tiếp nối lớn lên, suy tàn rồi chết.
Vào giây phút cuối cùng, chức năng tái tạo của thể xác không còn hoạt động được trong tâm của một người đang chết. Giống như người tài xế nhả ga trước khi ngưng, cho nên động lực không còn chuyển đến máy. Tuơng tự như vậy, những đạc tính về vật chất của Nghiệp không còn sanh khởi nữa.
Người Phật tử không xác nhận kiếp sống hiện tại là kiếp sống duy nhất giữa hai cái vô tận của thống khổ và hạnh phúc và cũng chẳng tin là các thiên thần sẽ mang họ đến thiên đường để họ sống bất diệt tại đó. Người Phật tử tin rằng kiếp hiện tại chỉ là một trong nhiều vô số kiếp, và một kiếp sống trên cõi nhân gian này chỉ là một giai đoạn của nhiều đoạn khác mà thôi.
Họ tin rằng tất cả chúng sanh sẽ tái sanh đâu đó trong một thời gian khi mà ác nghiệp hay thiện nghiệp vẫn còn trong tiềm thức, trong dạng thức của năng lượng tâm linh. Sự giải thích về tiềm thức trong phạm vi Phật Giáo không phải là loại tiềm thức giải thích bởi các nhà tâm lý học hiện đại vì các ý niệm trên không đồng nghĩa hoàn toàn.
Học thuyết tái sanh trong Phật giáo khác biệt giáo lý về chuyển kiếp và đầu thai của các tôn giáo khác. Đạo Phật bác bỏ sự hiện hữu trường cửu của một linh hồn do thánh thần tạo nên hay một thực thể không thay đổi được chuyển từ kiếp này đến kiếp khác.Tương tự như một cá nhân có thể đưọc tạo ra do nhân duyên chứ không do một bản ngã hay linh hồn, thì tái sanh có thể bắt nguồn từ cái chết mà không cần có một linh hồn chuyển tiếp.
Suốt một kiếp sống, cứ mỗi một chập tư tưởng lóe lên rồi tắt đi, nó tạo sự sanh khởi cho một chập tư tưởng kế tiếp bằng chính sự hoại diệt của nó. Nói một cách chính xác sự trỗi lên và mất đi của một tư tưỏng là sanh và tử. Cho nên trong một kiếp người, chúng ta có hằng hà sa số sanh và tử trong mỗi giây. Nhưng vì tiến trình tâm ý tiếp tục với sự hỗ trợ của một thân xác vật lý nên chúng ta coi luồng tiếp nối của thân tâm như sự hình thành một kiếp sống.
Cái mà chúng ta thường hiểu về cái chết là sự ngưng hoạt động của các chức năng sống còn của thân xác. Khi xác thân mất sinh lực, nó không còn có thể hỗ trợ được dòng tâm thức là mặt tinh thần của tiến trình. Nhưng chừng nào nó còn có một sự bám níu vào đời sống, còn lòng ham muốn được sống còn thì dòng tâm thức sẽ không ngừng với xác thân đã chết.
Khi cái chết đến, khi xác thân hoại diệt, dòng tâm thức khao khát muốn sống còn lại gá vào một xác thân mới xuất hiện qua sự gặp gỡ của tinh trùng và trứng. Cho nên, tái sanh xuất hiện ngay sau khi chết. Dòng suối ký ức có thể bị gián đoạn và nhân dạng được chuyển hóa sang tình trạng mới, nhưng tất cả những tích lữy về kinh nghiệm và tính khí được truyền trao sang cho thai nhi, và chu kỳ của sự tái sanh lại bắt đầu quay một vòng khác.
Với Phật Giáo, chết không có nghĩa là đi vào cuộc sống trường cửu hay một sự đoạn diệt hoàn toàn. Đúng hơn chết là cửa ngõ của tái sanh mới tiếp nối lớn lên, suy tàn rồi chết.
Vào giây phút cuối cùng, chức năng tái tạo của thể xác không còn hoạt động được trong tâm của một người đang chết. Giống như người tài xế nhả ga trước khi ngưng, cho nên động lực không còn chuyển đến máy. Tuơng tự như vậy, những đạc tính về vật chất của Nghiệp không còn sanh khởi nữa.
Người Phật tử không xác nhận kiếp sống hiện tại là kiếp sống duy nhất giữa hai cái vô tận của thống khổ và hạnh phúc và cũng chẳng tin là các thiên thần sẽ mang họ đến thiên đường để họ sống bất diệt tại đó. Người Phật tử tin rằng kiếp hiện tại chỉ là một trong nhiều vô số kiếp, và một kiếp sống trên cõi nhân gian này chỉ là một giai đoạn của nhiều đoạn khác mà thôi.
Họ tin rằng tất cả chúng sanh sẽ tái sanh đâu đó trong một thời gian khi mà ác nghiệp hay thiện nghiệp vẫn còn trong tiềm thức, trong dạng thức của năng lượng tâm linh. Sự giải thích về tiềm thức trong phạm vi Phật Giáo không phải là loại tiềm thức giải thích bởi các nhà tâm lý học hiện đại vì các ý niệm trên không đồng nghĩa hoàn toàn.
Thanked by 1 Member:
|
|
#572
Gửi vào 28/10/2012 - 09:57
VÌ SAO TIN PHẬT
Cái gì là nguyên nhân của tái sanh? Đức Phật dạy rằng vô minh sanh tham dục. Tham dục không được toại nguyện là nguyên nhân của tái sanh. Khi tất cả tham dục bất-toại-nguyện bị dập tắt, tái sanh không còn phát sanh. Muốn dập tắt tham dục, cần thiết phải phá vỡ vô minh.
Khi vô minh bị phá vỡ, ta sẽ nhận ra được sự vô ích của mỗi lần tái sanh, như thế đồng thời cũng tự ý thức được sự tối cần thiết phải áp dụng một nếp sống như thế nào để có thể triệt tiêu được hẳn lòng ham muốn tái sanh kia.
Vô minh cũng mang ý tưởng viển vông và phi lý là mỗi người chỉ có một kiếp sống mà thôi và còn có ảo tưởng khác nữa là kiếp sống này của con người sẽ được theo sau bằng những cảnh giới của lạc thú bất diệt hoặc cảnh giới đọa đầy vĩnh viễn.
Đức Phật dạy rằng vô minh sẽ bị xua tan và đau khổ sẽ chấm dứt khi ta hiểu rõ Tứ Diệu Đế, và không bằng bất cứ con đường nào khác. Muốn diệt vô minh, ta phải kiên trì thực hành hạnh vị tha đến mọi loài, phát triển thông minh và trí tuệ. Ta phải tận trừ dục lạc cá nhân thấp hèn và ham muốn vị kỷ.
Tái sanh diễn ra như thế nào? Khi xác thân vật chất không còn đủ sức để hoạt động, các năng lực không chết theo với nó nhưng tiếp tục dưới hình thức nào đó mà ta gọi là kiếp khác. Nghiệp lực tự nó biểu hiện trong hình thái một con người hay trong hình thái một con vật.
Trường hợp sau có thể xảy ra nếu một người không có duyên để phát triển những nghiệp-lực tích lữy của mình. Lực đó gọi là chấp thủ, ái dục, tác ý, tham sống, chưa chấm dứt cùng với cái xác thân không còn hoạt động, nhưng vẫn tiếp tục biểu hiện dưới một hình thái khác, tạo ra một sự sống mới gọi là tái sanh.
Ngày nay ở nhiều nước khác nhau, có nhiều người tự nhiên nhớ được tiền kiếp của họ. Những kinh nghiệm của những người này được nghiên cứu cẩn thận trong các tài liệu, báo chí, tập san. Một số trong những người này trước đây không bao giờ chấp nhận tái sanh cho đến khi họ nhớ rải rác được kiếp trước của họ, họ mới công nhận. Nhiều những tin tức về kiếp trước của họ được điều tra và công nhận là đúng.
Bằng thôi miên, một số người đi đến kết quả biết tin tức về những kiếp trước. Một số trạng thái thôi miên đi sâu vào tiềm thức khiến có thể nhớ lại tiền kiếp.
Chuỗi dài của tái sanh trở thành một diễn tiến tự nhiên, không phải được tạo ra bởi một tôn giáo đặc biệt nào hay bởi một thánh thần nào. Tin hay không tin tái sanh cũng không làm sai biệt gì đến tiến trình hay tránh được tái sanh. Tái sanh phát sanh chừng nào mà con người còn tham sống, ái dục, và luyến chấp còn hiện hữu trong tâm.
Năng lực tâm linh mạnh mẽ đó chiếm ưu thế nơi mỗi chúng sanh trong vũ trụ. Những ai hy vọng và cầu nguyện khỏi tái sanh, phải hiểu là lời mong mỏi không thể thực hiện được cho đến khi nào họ nỗ lực nhổ tất cả gốc rễ của tham ái và luyến chấp. Nhìn thấy và chứng nghiệm sự bấp bênh và bất toại nguyện của đời sống trong thân phận nhân gian, người trí tự mình tìm cách tránh khỏi vòng sanh tử, tử sanh bằng cách thực hành chánh đạo.
Những ai không chịu giảm thiểu tham ái, và luyến chấp, nhất định phải đương đầu với tất cả tình trạng bất-toại-nguyện và bấp bênh gắn liền với tái sanh và tái sanh cứ tiếp diễn.
Cái gì là nguyên nhân của tái sanh? Đức Phật dạy rằng vô minh sanh tham dục. Tham dục không được toại nguyện là nguyên nhân của tái sanh. Khi tất cả tham dục bất-toại-nguyện bị dập tắt, tái sanh không còn phát sanh. Muốn dập tắt tham dục, cần thiết phải phá vỡ vô minh.
Khi vô minh bị phá vỡ, ta sẽ nhận ra được sự vô ích của mỗi lần tái sanh, như thế đồng thời cũng tự ý thức được sự tối cần thiết phải áp dụng một nếp sống như thế nào để có thể triệt tiêu được hẳn lòng ham muốn tái sanh kia.
Vô minh cũng mang ý tưởng viển vông và phi lý là mỗi người chỉ có một kiếp sống mà thôi và còn có ảo tưởng khác nữa là kiếp sống này của con người sẽ được theo sau bằng những cảnh giới của lạc thú bất diệt hoặc cảnh giới đọa đầy vĩnh viễn.
Đức Phật dạy rằng vô minh sẽ bị xua tan và đau khổ sẽ chấm dứt khi ta hiểu rõ Tứ Diệu Đế, và không bằng bất cứ con đường nào khác. Muốn diệt vô minh, ta phải kiên trì thực hành hạnh vị tha đến mọi loài, phát triển thông minh và trí tuệ. Ta phải tận trừ dục lạc cá nhân thấp hèn và ham muốn vị kỷ.
Tái sanh diễn ra như thế nào? Khi xác thân vật chất không còn đủ sức để hoạt động, các năng lực không chết theo với nó nhưng tiếp tục dưới hình thức nào đó mà ta gọi là kiếp khác. Nghiệp lực tự nó biểu hiện trong hình thái một con người hay trong hình thái một con vật.
Trường hợp sau có thể xảy ra nếu một người không có duyên để phát triển những nghiệp-lực tích lữy của mình. Lực đó gọi là chấp thủ, ái dục, tác ý, tham sống, chưa chấm dứt cùng với cái xác thân không còn hoạt động, nhưng vẫn tiếp tục biểu hiện dưới một hình thái khác, tạo ra một sự sống mới gọi là tái sanh.
Ngày nay ở nhiều nước khác nhau, có nhiều người tự nhiên nhớ được tiền kiếp của họ. Những kinh nghiệm của những người này được nghiên cứu cẩn thận trong các tài liệu, báo chí, tập san. Một số trong những người này trước đây không bao giờ chấp nhận tái sanh cho đến khi họ nhớ rải rác được kiếp trước của họ, họ mới công nhận. Nhiều những tin tức về kiếp trước của họ được điều tra và công nhận là đúng.
Bằng thôi miên, một số người đi đến kết quả biết tin tức về những kiếp trước. Một số trạng thái thôi miên đi sâu vào tiềm thức khiến có thể nhớ lại tiền kiếp.
Chuỗi dài của tái sanh trở thành một diễn tiến tự nhiên, không phải được tạo ra bởi một tôn giáo đặc biệt nào hay bởi một thánh thần nào. Tin hay không tin tái sanh cũng không làm sai biệt gì đến tiến trình hay tránh được tái sanh. Tái sanh phát sanh chừng nào mà con người còn tham sống, ái dục, và luyến chấp còn hiện hữu trong tâm.
Năng lực tâm linh mạnh mẽ đó chiếm ưu thế nơi mỗi chúng sanh trong vũ trụ. Những ai hy vọng và cầu nguyện khỏi tái sanh, phải hiểu là lời mong mỏi không thể thực hiện được cho đến khi nào họ nỗ lực nhổ tất cả gốc rễ của tham ái và luyến chấp. Nhìn thấy và chứng nghiệm sự bấp bênh và bất toại nguyện của đời sống trong thân phận nhân gian, người trí tự mình tìm cách tránh khỏi vòng sanh tử, tử sanh bằng cách thực hành chánh đạo.
Những ai không chịu giảm thiểu tham ái, và luyến chấp, nhất định phải đương đầu với tất cả tình trạng bất-toại-nguyện và bấp bênh gắn liền với tái sanh và tái sanh cứ tiếp diễn.
Thanked by 1 Member:
|
|
#573
Gửi vào 28/10/2012 - 09:59
VÌ SAO TIN PHẬT
TÁI SANH CÓ ĐỒNG THỜI KHÔNG?
Một điều khó hiểu về tái sanh là sự phát xuất tái sanh có tức khắc đồng thời hay không. Đó là một vấn đề gây nhiều tranh luận cả đến các nhà học giả Phật Tử ưu tú. Theo Vi Diệu Pháp, tái sanh (sự thụ thai) phát xuất liền ngay sau cái chết của một chúng sanh không có giai đoạn chuyển tiếp. Một số người lại tin tưởng rằng sau khi chết thần thức còn ở lại một số ngày trước khi tái sanh.
Một cách lý giải khác về tín ngưỡng này không phải thần thức mà là tâm thức hay năng lực tinh thần của người chết của tham ái và luyến chấp còn ở lại trong không gian hỗ trợ bởi năng lượng tham ái và luyến chấp của người đó. Tuy nhiên sớm hay muộn gì thì tái sanh cũng vẫn phát xuất. Những hồn ma tức các chúng sanh sinh trong hình tướng ma quỷ là những chúng sanh vô phước, và kiếp sống của họ dưới hình thái này cũng không vĩnh viễn. Đó cũng chỉ là một dạng thức tái sanh tạm thời.
Một quan niệm khác mà nhiều người không hiểu là trong tiến trình tái sanh, con người có thể tái sanh thành con vật và con vật có thể tái sanh thành con người. Thú tính trong tâm của một người, và lối sống như con vật áp của người đó có thể khiến người đó tái sanh thành con vật. Hoàn cảnh và hạnh kiểm tinh thần là yếu tố trách nhiệm cho kiếp sau.
Mặt khác, một người thác sanh thành thú do những bất thiện tâm ở kiếp trước, có thể tái sanh trở lại thành người, nếu con vật ấy không phạm tội ác nghiêm trọng nào. Dữ kiện cho thấy một số con vật rất thông minh và hiểu biết. Đó là bằng chứng rõ ràng con vật này có khả năng tái sanh thành người. Một người sanh thành con vật vẫn có thể trở lại kiếp người, khi bất thiện nghiệp khiến người đó sanh thành con vật đã cạn và thiện nghiệp tích lữy chiếm ưu thế.
TÁI SANH CÓ ĐỒNG THỜI KHÔNG?
Một điều khó hiểu về tái sanh là sự phát xuất tái sanh có tức khắc đồng thời hay không. Đó là một vấn đề gây nhiều tranh luận cả đến các nhà học giả Phật Tử ưu tú. Theo Vi Diệu Pháp, tái sanh (sự thụ thai) phát xuất liền ngay sau cái chết của một chúng sanh không có giai đoạn chuyển tiếp. Một số người lại tin tưởng rằng sau khi chết thần thức còn ở lại một số ngày trước khi tái sanh.
Một cách lý giải khác về tín ngưỡng này không phải thần thức mà là tâm thức hay năng lực tinh thần của người chết của tham ái và luyến chấp còn ở lại trong không gian hỗ trợ bởi năng lượng tham ái và luyến chấp của người đó. Tuy nhiên sớm hay muộn gì thì tái sanh cũng vẫn phát xuất. Những hồn ma tức các chúng sanh sinh trong hình tướng ma quỷ là những chúng sanh vô phước, và kiếp sống của họ dưới hình thái này cũng không vĩnh viễn. Đó cũng chỉ là một dạng thức tái sanh tạm thời.
Một quan niệm khác mà nhiều người không hiểu là trong tiến trình tái sanh, con người có thể tái sanh thành con vật và con vật có thể tái sanh thành con người. Thú tính trong tâm của một người, và lối sống như con vật áp của người đó có thể khiến người đó tái sanh thành con vật. Hoàn cảnh và hạnh kiểm tinh thần là yếu tố trách nhiệm cho kiếp sau.
Mặt khác, một người thác sanh thành thú do những bất thiện tâm ở kiếp trước, có thể tái sanh trở lại thành người, nếu con vật ấy không phạm tội ác nghiêm trọng nào. Dữ kiện cho thấy một số con vật rất thông minh và hiểu biết. Đó là bằng chứng rõ ràng con vật này có khả năng tái sanh thành người. Một người sanh thành con vật vẫn có thể trở lại kiếp người, khi bất thiện nghiệp khiến người đó sanh thành con vật đã cạn và thiện nghiệp tích lữy chiếm ưu thế.
Thanked by 1 Member:
|
|
#574
Gửi vào 28/10/2012 - 10:11
VÌ SAO TIN PHẬT
LÚC SẮP CHẾT
Trong tâm thức của người sắp chết, có ba dạng dòng thức hoạt động: dòng thức liên-hệ-tái-sanh, dòng thức thụ động hay dòng thức liên tục của sự sống tiếp diễn (dòng hộ kiếp), và dòng tử thức (thức gián đoạn với kiếp sống hiện tại). Trong giây phút cuối cùng của kiếp sống hiện tại của một con người, dòng thức liên-hệ-tái-sanh trỗi lên với ba dấu hiệu làm đối tượng.
Thúc tái sanh lưu lại ở tâm nhận thức chỉ trong năm chập tư tưởng mờ nhạt và rồi lại chìm vào dòng hộ kiếp. Đến lúc cuối cùng của dòng hộ kiếp thì tử thức trỗi lên, cắt đứt liên hệ với sự sống hiện tại và lại chìm vào dòng hộ kiếp. Ngay đây là lúc cuộc đời hiện tại chấm dứt.
Vào giây phút cuối cùng của dòng hộ kiếp, thức tái sanh trỗi lên cho đời sống kế tiếp và ngay lúc này đây kiếp sống mới bắt đầu. Trên đây là tiến trình của tử và tái sanh theo Phật Giáo và chỉ trong Phật Giáo mới có sự giải thích cặn kẽ về những hiện tượng thiên nhiên ấy.
Đối đầu với cái chết, người Phật Tử không sợ chết mà chỉ coi chết như một biến cố bình thường vì hiểu rằng bất cứ ai sanh ra cũng phải chịu khổ đau, "suy tàn", và cuối cùng phải chết. Hay như người nào đó nói một cách thích hơn rằng: "Mỗi người sanh ra là đã mang ngay giấy khai tử khi lọt lòng". Nếu tất cả chúng ta nhìn cái chết với đuờng lối trí tuệ và hữu lý như vậy chúng ta không nên bám chặt vào đời sống như trước nữa.
"Đây là lần sanh cuối cùng của ta và ta sẽ không còn tái sanh nữa"
(Kinh Chuyển Pháp Luân)
LÚC SẮP CHẾT
Trong tâm thức của người sắp chết, có ba dạng dòng thức hoạt động: dòng thức liên-hệ-tái-sanh, dòng thức thụ động hay dòng thức liên tục của sự sống tiếp diễn (dòng hộ kiếp), và dòng tử thức (thức gián đoạn với kiếp sống hiện tại). Trong giây phút cuối cùng của kiếp sống hiện tại của một con người, dòng thức liên-hệ-tái-sanh trỗi lên với ba dấu hiệu làm đối tượng.
Thúc tái sanh lưu lại ở tâm nhận thức chỉ trong năm chập tư tưởng mờ nhạt và rồi lại chìm vào dòng hộ kiếp. Đến lúc cuối cùng của dòng hộ kiếp thì tử thức trỗi lên, cắt đứt liên hệ với sự sống hiện tại và lại chìm vào dòng hộ kiếp. Ngay đây là lúc cuộc đời hiện tại chấm dứt.
Vào giây phút cuối cùng của dòng hộ kiếp, thức tái sanh trỗi lên cho đời sống kế tiếp và ngay lúc này đây kiếp sống mới bắt đầu. Trên đây là tiến trình của tử và tái sanh theo Phật Giáo và chỉ trong Phật Giáo mới có sự giải thích cặn kẽ về những hiện tượng thiên nhiên ấy.
Đối đầu với cái chết, người Phật Tử không sợ chết mà chỉ coi chết như một biến cố bình thường vì hiểu rằng bất cứ ai sanh ra cũng phải chịu khổ đau, "suy tàn", và cuối cùng phải chết. Hay như người nào đó nói một cách thích hơn rằng: "Mỗi người sanh ra là đã mang ngay giấy khai tử khi lọt lòng". Nếu tất cả chúng ta nhìn cái chết với đuờng lối trí tuệ và hữu lý như vậy chúng ta không nên bám chặt vào đời sống như trước nữa.
"Đây là lần sanh cuối cùng của ta và ta sẽ không còn tái sanh nữa"
(Kinh Chuyển Pháp Luân)
Thanked by 1 Member:
|
|
#575
Gửi vào 28/10/2012 - 10:13
VÌ SAO TIN PHẬT
NIẾT BÀN
Niết Bàn là hạnh phúc tối thượng, một trạng thái siêu thế của hạnh phúc bất diệt. Hạnh Phúc Niết Bàn không thể chứng nghiệm được bằng cách thỏa mãn các giác quan mà là làm cho chúng lắng xuống.
Niết Bàn là mục tiêu cuối cùng của Phật Giáo. Vậy Niết Bàn là gì? Biết thực sự Niết Bàn là gì thì khó; còn biết cái gì không phải là Niết Bàn thì tương đối dễ hơn.
Niết Bàn không phải là hư vô hay sự dập tắt. Phải chăng Đức Phật bỏ gia đình, vương quốc và hoằng pháp trong 45 năm - tất cả là cho hư vô?
Niết Bản không phải là thiên đường. Một vài thế kỷ sau khi Đức Phật nhập diệt, một số giáo phái Phật Giáo bắt đầu trình bày Niết Bàn như một thiên đường. Mục đích xem Niết Bàn ngang với một cảnh giới thần tiên là mong thuyết phục những đầu óc kém hiểu biết và để lôi cuốn những người này vào giáo phái của họ.
Phấn đấu đến Niết Bàn thành ra có nghĩa là tìm một nơi thích thú mà mọi thứ đều đẹp đẽ, và mọi người đều hạnh phúc đời đời. Đây có thể là một mẩu truyện dân gian bình dị mà thôi chứ không phải là Niết Bàn mà Đức Phật chứng nghiệm và tiến dẫn.
Lúc Đức Phật còn tại thế, Ngài không phủ nhận ý kiến về thiên đuờng như các tôn giáo sơ khai Ấn trình bày. Nhưng Ngài biết rằng thiên đuờng này vẫn nằm trong vòng luân hồi và sự giải thoát cuối cùng phải vượt qua phạm vi luân hồi. Đức Phật có thể nhìn thấy là Con Đường dẫn đến Niết Bàn vượt trên mọi thiên đàng.
Nếu Niết Bàn không phải là một nơi chốn, vậy Niết Bàn ở đâu? Niết Bàn hiện hữu cũng giống như lửa hiện hữu. Không có chốn nào chứa sẵn lửa, hoặc chứa sẵn Niết Bàn. Nhưng khi bạn cọ sát hai miếng đá vào nhau, sự cọ sát tạo điều kiện cho lửa phát sanh. Cũng giống như vậy, khi bản chất trong tâm con người thoát khỏi mọi ô nhiễm thì hạnh phúc Niết Bàn xuất hiện.
Bạn có thể chứng nghiệm Niết Bàn. Chỉ cho đến khi bạn chứng nghiệm trạng thái hạnh phúc Niết Bàn tối thượng, bạn mới có thể thực sự biết Niết Bàn ra sao. Với những ai đặt nặng vấn đề lý thuyết, kinh điển có thể giúp phần nào. Kinh điển gợi ý Niết Bàn là trạng thái siêu thế của hạnh phúc thuần khiết.
Niết Bàn, tự nó hoàn toàn không thể giải thích được và không thể định nghĩa được. Như bóng tối chỉ có thể giải nghĩa bằng đối đãi của nó là ánh sáng, cũng như tĩnh lặng chỉ có thể giải thích bằng đối đãi của nó là động, cũng vậy Niết Bàn, trạng thái dập tắt hết khổ đau có thể giải thích bằng đối đãi của nó là đau khổ triền miên trong vòng luân hồi. Bóng tối lan tràn khi không có ánh sáng, tĩnh lặng lan tràn khi không có động, cũng giống như vậy, Niết Bàn hiện hữu mọi nơi khi đau khổ, thay đổi và bất tịnh không có mặt.
Kẻ bị đau gãi vết thương có thể thấy đỡ đau. Sự giảm đau tạm thời này làm vết thương trầm trọng thêm và khiến bệnh càng ngày càng nặng. Niềm vui được chữa lành bệnh khó có thể so sánh với cảm giác giảm đau ngắn ngủi nhờ gãi vết thương. Giống như vậy, thỏa mãn tham ái về dục lạc chỉ mang lại thỏa thích hoặc vui thú tạm bợ khiến phải chịu ở dài lâu thêm trong cõi luân hồi.
Chữa khỏi bệnh luân hồi là Niết Bàn. Niết Bàn chấm dứt những bám níu gây ra mọi khổ đau của sanh, già, bệnh chết, phiền não, oán than và thất vọng. Niềm vui được lành bệnh của Niết Bàn khó có thể so sánh với lạc thú tạm bợ qua thỏa mãn dục lạc của cõi luân hồi.
Rất nguy hiểm nếu phiếm bàn về Niết Bàn; điều tốt hơn là làm sao sửa soạn các điều kiện c?n thiết cho Niết Bàn, làm sao đạt được an lạc nội tâm, và có một cái nhìn sáng suốt dẫn đến Niết Bàn. Hãy theo lời khuyên của Đức Phật: đem giáo lý của Ngài vào sự thực hành.
Hãy nhổ bỏ tất cả những ô nhiễm mọc rễ từ tham, sân si. Hãy tự thanh lọc hết các tham ái và thực thi lòng vị tha tuyệt đối (vô ngã). Sống một cuộc đời đạo hạnh và thuờng xuyên tu tập thiền định. Tinh tấn tu hành sẽ giải thoát khỏi tất cả vị kỷ và ảo tưởng. Rồi Niết Bàn sẽ được đạt và được chứng.
NIẾT BÀN
Niết Bàn là hạnh phúc tối thượng, một trạng thái siêu thế của hạnh phúc bất diệt. Hạnh Phúc Niết Bàn không thể chứng nghiệm được bằng cách thỏa mãn các giác quan mà là làm cho chúng lắng xuống.
Niết Bàn là mục tiêu cuối cùng của Phật Giáo. Vậy Niết Bàn là gì? Biết thực sự Niết Bàn là gì thì khó; còn biết cái gì không phải là Niết Bàn thì tương đối dễ hơn.
Niết Bàn không phải là hư vô hay sự dập tắt. Phải chăng Đức Phật bỏ gia đình, vương quốc và hoằng pháp trong 45 năm - tất cả là cho hư vô?
Niết Bản không phải là thiên đường. Một vài thế kỷ sau khi Đức Phật nhập diệt, một số giáo phái Phật Giáo bắt đầu trình bày Niết Bàn như một thiên đường. Mục đích xem Niết Bàn ngang với một cảnh giới thần tiên là mong thuyết phục những đầu óc kém hiểu biết và để lôi cuốn những người này vào giáo phái của họ.
Phấn đấu đến Niết Bàn thành ra có nghĩa là tìm một nơi thích thú mà mọi thứ đều đẹp đẽ, và mọi người đều hạnh phúc đời đời. Đây có thể là một mẩu truyện dân gian bình dị mà thôi chứ không phải là Niết Bàn mà Đức Phật chứng nghiệm và tiến dẫn.
Lúc Đức Phật còn tại thế, Ngài không phủ nhận ý kiến về thiên đuờng như các tôn giáo sơ khai Ấn trình bày. Nhưng Ngài biết rằng thiên đuờng này vẫn nằm trong vòng luân hồi và sự giải thoát cuối cùng phải vượt qua phạm vi luân hồi. Đức Phật có thể nhìn thấy là Con Đường dẫn đến Niết Bàn vượt trên mọi thiên đàng.
Nếu Niết Bàn không phải là một nơi chốn, vậy Niết Bàn ở đâu? Niết Bàn hiện hữu cũng giống như lửa hiện hữu. Không có chốn nào chứa sẵn lửa, hoặc chứa sẵn Niết Bàn. Nhưng khi bạn cọ sát hai miếng đá vào nhau, sự cọ sát tạo điều kiện cho lửa phát sanh. Cũng giống như vậy, khi bản chất trong tâm con người thoát khỏi mọi ô nhiễm thì hạnh phúc Niết Bàn xuất hiện.
Bạn có thể chứng nghiệm Niết Bàn. Chỉ cho đến khi bạn chứng nghiệm trạng thái hạnh phúc Niết Bàn tối thượng, bạn mới có thể thực sự biết Niết Bàn ra sao. Với những ai đặt nặng vấn đề lý thuyết, kinh điển có thể giúp phần nào. Kinh điển gợi ý Niết Bàn là trạng thái siêu thế của hạnh phúc thuần khiết.
Niết Bàn, tự nó hoàn toàn không thể giải thích được và không thể định nghĩa được. Như bóng tối chỉ có thể giải nghĩa bằng đối đãi của nó là ánh sáng, cũng như tĩnh lặng chỉ có thể giải thích bằng đối đãi của nó là động, cũng vậy Niết Bàn, trạng thái dập tắt hết khổ đau có thể giải thích bằng đối đãi của nó là đau khổ triền miên trong vòng luân hồi. Bóng tối lan tràn khi không có ánh sáng, tĩnh lặng lan tràn khi không có động, cũng giống như vậy, Niết Bàn hiện hữu mọi nơi khi đau khổ, thay đổi và bất tịnh không có mặt.
Kẻ bị đau gãi vết thương có thể thấy đỡ đau. Sự giảm đau tạm thời này làm vết thương trầm trọng thêm và khiến bệnh càng ngày càng nặng. Niềm vui được chữa lành bệnh khó có thể so sánh với cảm giác giảm đau ngắn ngủi nhờ gãi vết thương. Giống như vậy, thỏa mãn tham ái về dục lạc chỉ mang lại thỏa thích hoặc vui thú tạm bợ khiến phải chịu ở dài lâu thêm trong cõi luân hồi.
Chữa khỏi bệnh luân hồi là Niết Bàn. Niết Bàn chấm dứt những bám níu gây ra mọi khổ đau của sanh, già, bệnh chết, phiền não, oán than và thất vọng. Niềm vui được lành bệnh của Niết Bàn khó có thể so sánh với lạc thú tạm bợ qua thỏa mãn dục lạc của cõi luân hồi.
Rất nguy hiểm nếu phiếm bàn về Niết Bàn; điều tốt hơn là làm sao sửa soạn các điều kiện c?n thiết cho Niết Bàn, làm sao đạt được an lạc nội tâm, và có một cái nhìn sáng suốt dẫn đến Niết Bàn. Hãy theo lời khuyên của Đức Phật: đem giáo lý của Ngài vào sự thực hành.
Hãy nhổ bỏ tất cả những ô nhiễm mọc rễ từ tham, sân si. Hãy tự thanh lọc hết các tham ái và thực thi lòng vị tha tuyệt đối (vô ngã). Sống một cuộc đời đạo hạnh và thuờng xuyên tu tập thiền định. Tinh tấn tu hành sẽ giải thoát khỏi tất cả vị kỷ và ảo tưởng. Rồi Niết Bàn sẽ được đạt và được chứng.
Thanked by 1 Member:
|
|
#576
Gửi vào 28/10/2012 - 10:15
VÌ SAO TIN PHẬT
NIẾT BÀN VÀ LUÂN HỒI
Một luận sư Đại Thừa nổi tiếng là Ngài Long Thọ cho rằng Luân Hồi và Niết Bàn là một. Sự giải thích này có thể làm cho một số người hiểu nhầm. Tuy nhiên cho rằng quan điểm về Luân Hồi và Niết Bàn giống nhau có nghĩa là không có gì khác biệt giữa tánh không của các sự vật duyên hợp và trạng thái vô điều kiện của Niết Bàn.
Theo Kinh Điển bằng tiếng Pali, Luân Hồi được miêu tả là một sự tiếp nối không ngừng của năm uẩn, bốn thành phần (đất nước gió lửa) và 12 nguồn gốc căn bản của tiến trình tâm linh (Thập Nhị Nhân Duyên) trong khi Niết Bàn được miêu tả là sự dập tắt của tất cả những dòng tương quan về vật chất và tâm linh trên.
Tuy nhiên người ta đã thừa nhận rằng những ai đã đạt hạnh phúc Niết Bàn, có thể kinh nghiệm lại trạng thái này thấy trong suốt cuộc sống của họ ở cõi Luân Hồi. Trong bất cứ trường hợp nào, sau khi chết sự liên hệ với các thành phần trên đều bị loại hẳn, đơn giản vì Niết Bàn vô điều kiện, không liên hệ hay phụ thuộc lẫn nhau. Nếu còn có một điều gì sau Niết Bàn thì điều đó phải là "Chân Lý Tối Thượng".
Bạn phải tập tách rời khỏi tất cả sự vật phàm trần. Nếu còn luyến chấp vào một ai hay một một việc gì, hay nếu còn một ác cảm với ai hay một việc gì, thì bạn không bao giờ có thể đạt được Niết Bàn, với Niết Bàn là phải vượt qua tất cả những đối đãi của luyến chấp và ác cảm, giữa ưa và ghét.
Khi đạt được trạng thái rốt ráo đó, Bạn sẽ thông suốt tường tận đời sống trần thế mà giờ đây bạn đang bám níu vào. Thế gian này không còn là đối tượng cho sự tham đắm của bạn nữa. Bạn sẽ nhận ra tính phiền não, vô thường và vô ngã của tất cả tất cả chúng sanh đang sống và không đang sống. Chỉ dựa vào các vị thầy và các kinh sách mà không tự mình cố gắng trong chánh pháp thì rất khó mà đạt được Niết Bàn.
Những mộng mơ của bạn sẽ tan biến và chẳng còn xây lâu đài trong không khí nữa. Giông tố chấm dứt. Sẽ không còn tranh đấu cho cuộc sống nữa. Tiến trình thiên nhiên sẽ ngừng lại. Tất cả những phiền não, đau khổ, trách nhiệm, rối rắm, gánh nặng, những khó chịu về vật chất và tinh thần, và tất cả những cảm xúc đều tiêu tan sau khi đạt hạnh phúc tối thượng Niết Bàn.
Nói Niết Bàn là hư vô chỉ vì ta không cảm nhận được nó bằng năm giác quan, thì cũng phi lý như nói rằng ánh sáng không hiện hữu chỉ vì người mù không thấy được nó.
Niết Bàn có thể đạt được ngay trong kiếp sống hiện tại này. Phật Giáo không nói là mục đích tối thượng này chỉ đạt được sau khi qua đời. Khi Niết Bàn đạt được trong hiện tại với xác thân còn sống được gọi là Sopadisesa Niết Bàn (Hữu-dư Niết Bàn). Khi một Vị A La Hán đạt Pari Niết Bàn, sau khi xác thân không còn nữa, không còn phần nào còn lại của sự hiện hữu vật chất, được gọi là Anupadisesa Niết Bàn (Vô dư Niết Bàn).
NIẾT BÀN VÀ LUÂN HỒI
Một luận sư Đại Thừa nổi tiếng là Ngài Long Thọ cho rằng Luân Hồi và Niết Bàn là một. Sự giải thích này có thể làm cho một số người hiểu nhầm. Tuy nhiên cho rằng quan điểm về Luân Hồi và Niết Bàn giống nhau có nghĩa là không có gì khác biệt giữa tánh không của các sự vật duyên hợp và trạng thái vô điều kiện của Niết Bàn.
Theo Kinh Điển bằng tiếng Pali, Luân Hồi được miêu tả là một sự tiếp nối không ngừng của năm uẩn, bốn thành phần (đất nước gió lửa) và 12 nguồn gốc căn bản của tiến trình tâm linh (Thập Nhị Nhân Duyên) trong khi Niết Bàn được miêu tả là sự dập tắt của tất cả những dòng tương quan về vật chất và tâm linh trên.
Tuy nhiên người ta đã thừa nhận rằng những ai đã đạt hạnh phúc Niết Bàn, có thể kinh nghiệm lại trạng thái này thấy trong suốt cuộc sống của họ ở cõi Luân Hồi. Trong bất cứ trường hợp nào, sau khi chết sự liên hệ với các thành phần trên đều bị loại hẳn, đơn giản vì Niết Bàn vô điều kiện, không liên hệ hay phụ thuộc lẫn nhau. Nếu còn có một điều gì sau Niết Bàn thì điều đó phải là "Chân Lý Tối Thượng".
Bạn phải tập tách rời khỏi tất cả sự vật phàm trần. Nếu còn luyến chấp vào một ai hay một một việc gì, hay nếu còn một ác cảm với ai hay một việc gì, thì bạn không bao giờ có thể đạt được Niết Bàn, với Niết Bàn là phải vượt qua tất cả những đối đãi của luyến chấp và ác cảm, giữa ưa và ghét.
Khi đạt được trạng thái rốt ráo đó, Bạn sẽ thông suốt tường tận đời sống trần thế mà giờ đây bạn đang bám níu vào. Thế gian này không còn là đối tượng cho sự tham đắm của bạn nữa. Bạn sẽ nhận ra tính phiền não, vô thường và vô ngã của tất cả tất cả chúng sanh đang sống và không đang sống. Chỉ dựa vào các vị thầy và các kinh sách mà không tự mình cố gắng trong chánh pháp thì rất khó mà đạt được Niết Bàn.
Những mộng mơ của bạn sẽ tan biến và chẳng còn xây lâu đài trong không khí nữa. Giông tố chấm dứt. Sẽ không còn tranh đấu cho cuộc sống nữa. Tiến trình thiên nhiên sẽ ngừng lại. Tất cả những phiền não, đau khổ, trách nhiệm, rối rắm, gánh nặng, những khó chịu về vật chất và tinh thần, và tất cả những cảm xúc đều tiêu tan sau khi đạt hạnh phúc tối thượng Niết Bàn.
Nói Niết Bàn là hư vô chỉ vì ta không cảm nhận được nó bằng năm giác quan, thì cũng phi lý như nói rằng ánh sáng không hiện hữu chỉ vì người mù không thấy được nó.
Niết Bàn có thể đạt được ngay trong kiếp sống hiện tại này. Phật Giáo không nói là mục đích tối thượng này chỉ đạt được sau khi qua đời. Khi Niết Bàn đạt được trong hiện tại với xác thân còn sống được gọi là Sopadisesa Niết Bàn (Hữu-dư Niết Bàn). Khi một Vị A La Hán đạt Pari Niết Bàn, sau khi xác thân không còn nữa, không còn phần nào còn lại của sự hiện hữu vật chất, được gọi là Anupadisesa Niết Bàn (Vô dư Niết Bàn).
Thanked by 1 Member:
|
|
#577
Gửi vào 28/10/2012 - 10:22
VÌ SAO TIN PHẬT
LÝ NHÂN DUYÊN
"Không có Thượng đế, hay Phạm Thiên nào
Không có gì trong bánh xe của sự sống này
Mà chỉ là những hiện tượng vần xoay
Tùy thuộc vào điều kiện tất cả". (Thanh Tịnh Đạo)
Định luật về Lý Nhân Duyên là một trong những giáo lý quan trọng nhất và rất thâm sâu của Đức Phật. Đức Phật thưòng diễn tả kinh nghiệm về sự giác ngộ của Ngài là bằng một trong hai cách, hoặc thấu hiểu Tứ Diệu Đ? hoặc thấu hiểu Lý Nhân Duyên. Tuy nhiên đa số thường đưọc nghe về Tứ Diệu Đế và có thể luận bàn về Tứ Diệu Đế hơn Lý Nhân Duyên mà sự quan trọng cũng không kém.
Dù tuệ giác xuyên được Lý Nhân Duyên sanh khởi cùng với sự viên mãn về trí tuệ, nhưng chúng ta cũng vẫn có thể hiểu nguyên tắc của nó. Căn bản của Lý Nhân Duyên là đời sống hay thế giới này tạo thành là do một chuỗi tương quan liên hệ, trong đó sự sanh khởi và hoại diệt của các yếu tố tùy thuộc một số yếu tố khác làm điều kiện cho chúng. Nguyên tắc này có thể tóm tắt trong một công thức ngắn bốn dòng:
Khi cái này hiện hữu cái kia hiện hữu
Cái này đang sanh, cái kia cũng sanh,
Khi cái này không có, cái kia không có
Cái này đang ngưng, cái kia cũng ngưng
Sự sanh, trụ và diệt của mọi hiện hữu đều dựa trên nguyên tắc của sự phụ thuộc và tương quan lẫn nhau. Nguyên tắc này được gọi là Lý Nhân Duyên hay Paticcasamuppada tiếng Pali. Luật này nhấn mạnh một nguyên tắc quan trọng là tất cả hiện tượng trong vũ trụ này đều ở trạng thái liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau không sanh khởi, độc lập với những điều kiện hỗ trợ.
Một hiện tượng sanh khởi vì hội đủ những điều kiện để hỗ trợ sự sanh khởi ấy. Và một hiện tượng chấm dứt khi các điều kiện và thành phần cấu tạo hỗ trợ sự sanh khởi của nó đã thay đổi và không hỗ trợ nó nữa. Sự có mặt của các điều kiện hỗ trợ này cũng lại tùy thuộc vào các yếu tố khác để sanh khởi, trụ dưỡng và hoại diệt.
Lý Nhân Duyên là cách hiểu biết thực tiễn về vũ trụ và lý thuyết này tương đồng với Thuyết Tương Đối của Bác Học Einstein. Sự kiện là mọi vật chẳng qua là một tập hợp của những tương quan rất phù hợp với quan điểm khoa học tiên tiến của thế giới vật chất. Vì mọi vật đều do điều kiện, tương quan, và phụ thuộc lẫn nhau nên không có một cái gì trong thế giới này được coi như một thực thể trường cửu, khác nhau được xem là một Ngã hay một linh hồn bất diệt mà nhiều người tin tưởng.
LÝ NHÂN DUYÊN
"Không có Thượng đế, hay Phạm Thiên nào
Không có gì trong bánh xe của sự sống này
Mà chỉ là những hiện tượng vần xoay
Tùy thuộc vào điều kiện tất cả". (Thanh Tịnh Đạo)
Định luật về Lý Nhân Duyên là một trong những giáo lý quan trọng nhất và rất thâm sâu của Đức Phật. Đức Phật thưòng diễn tả kinh nghiệm về sự giác ngộ của Ngài là bằng một trong hai cách, hoặc thấu hiểu Tứ Diệu Đ? hoặc thấu hiểu Lý Nhân Duyên. Tuy nhiên đa số thường đưọc nghe về Tứ Diệu Đế và có thể luận bàn về Tứ Diệu Đế hơn Lý Nhân Duyên mà sự quan trọng cũng không kém.
Dù tuệ giác xuyên được Lý Nhân Duyên sanh khởi cùng với sự viên mãn về trí tuệ, nhưng chúng ta cũng vẫn có thể hiểu nguyên tắc của nó. Căn bản của Lý Nhân Duyên là đời sống hay thế giới này tạo thành là do một chuỗi tương quan liên hệ, trong đó sự sanh khởi và hoại diệt của các yếu tố tùy thuộc một số yếu tố khác làm điều kiện cho chúng. Nguyên tắc này có thể tóm tắt trong một công thức ngắn bốn dòng:
Khi cái này hiện hữu cái kia hiện hữu
Cái này đang sanh, cái kia cũng sanh,
Khi cái này không có, cái kia không có
Cái này đang ngưng, cái kia cũng ngưng
Sự sanh, trụ và diệt của mọi hiện hữu đều dựa trên nguyên tắc của sự phụ thuộc và tương quan lẫn nhau. Nguyên tắc này được gọi là Lý Nhân Duyên hay Paticcasamuppada tiếng Pali. Luật này nhấn mạnh một nguyên tắc quan trọng là tất cả hiện tượng trong vũ trụ này đều ở trạng thái liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau không sanh khởi, độc lập với những điều kiện hỗ trợ.
Một hiện tượng sanh khởi vì hội đủ những điều kiện để hỗ trợ sự sanh khởi ấy. Và một hiện tượng chấm dứt khi các điều kiện và thành phần cấu tạo hỗ trợ sự sanh khởi của nó đã thay đổi và không hỗ trợ nó nữa. Sự có mặt của các điều kiện hỗ trợ này cũng lại tùy thuộc vào các yếu tố khác để sanh khởi, trụ dưỡng và hoại diệt.
Lý Nhân Duyên là cách hiểu biết thực tiễn về vũ trụ và lý thuyết này tương đồng với Thuyết Tương Đối của Bác Học Einstein. Sự kiện là mọi vật chẳng qua là một tập hợp của những tương quan rất phù hợp với quan điểm khoa học tiên tiến của thế giới vật chất. Vì mọi vật đều do điều kiện, tương quan, và phụ thuộc lẫn nhau nên không có một cái gì trong thế giới này được coi như một thực thể trường cửu, khác nhau được xem là một Ngã hay một linh hồn bất diệt mà nhiều người tin tưởng.
Thanked by 1 Member:
|
|
#578
Gửi vào 28/10/2012 - 10:32
VÌ SAO TIN PHẬT
Thế giới hiện tượng được tạo thành do một chuỗi tương quan, nhưng có phải đó là cách chúng ta thường hiểu thế giới là như vậy không? Vì tham ái chúng ta tạo những giả tưởng về sự thường còn trong tâm. Hầu như rất là bình thường cho con người bám níu vào cái mà họ cho là đẹp đẽ hay đáng ưa, và vất bỏ đi cái gì xấu xa hay không ưa thích.
Bị chi phối bởi sức mạnh của lòng tham và sân hận, họ bị lạc hướng bởi si mê, mờ mịt, bởi ảo tưởng về sự thường còn của những cái mà họ bám níu hay vất bỏ. Cho nên, chúng ta khó có thể hiểu rằng thế giới chỉ là bóng nước hay ảo ảnh và không phải là một loại thực thể mà ta hằng tin như vậy. Chúng ta không hiểu thế giới thật ra là không thật. Nó giống như một trái cầu lửa khi được xoay tít chung quanh, trong một thời gian có thể tạo ra một ảo ảnh của một vòng tròn.
Nguyên tắc căn bản trong Lý Duyên Khởi là nguyên tắc về nhân và kết quả. Trong Lý Nhân Duyên, cái gì diễn ra trong tiến trình nhân quả được miêu tả cặn kẽ. Để sáng tỏ bản chất nhân duyên của mọi sự vật chung quanh chúng ta, chúng ta lấy thí dụ một đèn dầu. Ngọn lửa của đèn dầu cháy do dầu và tim (bấc) đèn. Khi dầu và tim đèn hiện hữu, đèn cháy.
Nếu một trong những thứ đó không có, đèn tắt. Thí dụ trên đây cho thấy rõ nguyên tắc của Lý Nhân Duyên giống như ngọn lửa của cây đèn dầu. Một thí dụ khác về một cái cây, cây mọc lên tùy thuộc vào hạt giống, đất, nước ẩm đọng, không khí và ánh sáng mặt trời. Tất cả những hiện tượng ấy phát sanh tùy thuộc một số yếu tố nhân quả, không tự tác. Đó là nguyên tắc của Lý Nhân Duyên.
Trong Giáo Pháp, chúng ta muốn biết Lý Nhân Duyên áp dụng ra sao trong vấn đề khổ đau và tái sanh. Bằng đường lối nào Lý Nhân Duyên có thể giải thích tại sao chúng ta cứ luân hồi, khổ đau và làm sao chúng ta thoát khỏi khổ đau.
Không có nghĩa là ta phải miêu tả nguồn gốc hay sự tiến hóa của vũ trụ. Cho nên ta không nên nhầm lẫn cho rằng vô minh, yếu tố thứ nhất nêu trong Lý Nhân Duyên là nguyên nhân đầu tiên. Vì mọi sự vật phát sanh do những nguyên nhân đã có từ trước nên không thể có nguyên nhân đầu tiên.
Thế giới hiện tượng được tạo thành do một chuỗi tương quan, nhưng có phải đó là cách chúng ta thường hiểu thế giới là như vậy không? Vì tham ái chúng ta tạo những giả tưởng về sự thường còn trong tâm. Hầu như rất là bình thường cho con người bám níu vào cái mà họ cho là đẹp đẽ hay đáng ưa, và vất bỏ đi cái gì xấu xa hay không ưa thích.
Bị chi phối bởi sức mạnh của lòng tham và sân hận, họ bị lạc hướng bởi si mê, mờ mịt, bởi ảo tưởng về sự thường còn của những cái mà họ bám níu hay vất bỏ. Cho nên, chúng ta khó có thể hiểu rằng thế giới chỉ là bóng nước hay ảo ảnh và không phải là một loại thực thể mà ta hằng tin như vậy. Chúng ta không hiểu thế giới thật ra là không thật. Nó giống như một trái cầu lửa khi được xoay tít chung quanh, trong một thời gian có thể tạo ra một ảo ảnh của một vòng tròn.
Nguyên tắc căn bản trong Lý Duyên Khởi là nguyên tắc về nhân và kết quả. Trong Lý Nhân Duyên, cái gì diễn ra trong tiến trình nhân quả được miêu tả cặn kẽ. Để sáng tỏ bản chất nhân duyên của mọi sự vật chung quanh chúng ta, chúng ta lấy thí dụ một đèn dầu. Ngọn lửa của đèn dầu cháy do dầu và tim (bấc) đèn. Khi dầu và tim đèn hiện hữu, đèn cháy.
Nếu một trong những thứ đó không có, đèn tắt. Thí dụ trên đây cho thấy rõ nguyên tắc của Lý Nhân Duyên giống như ngọn lửa của cây đèn dầu. Một thí dụ khác về một cái cây, cây mọc lên tùy thuộc vào hạt giống, đất, nước ẩm đọng, không khí và ánh sáng mặt trời. Tất cả những hiện tượng ấy phát sanh tùy thuộc một số yếu tố nhân quả, không tự tác. Đó là nguyên tắc của Lý Nhân Duyên.
Trong Giáo Pháp, chúng ta muốn biết Lý Nhân Duyên áp dụng ra sao trong vấn đề khổ đau và tái sanh. Bằng đường lối nào Lý Nhân Duyên có thể giải thích tại sao chúng ta cứ luân hồi, khổ đau và làm sao chúng ta thoát khỏi khổ đau.
Không có nghĩa là ta phải miêu tả nguồn gốc hay sự tiến hóa của vũ trụ. Cho nên ta không nên nhầm lẫn cho rằng vô minh, yếu tố thứ nhất nêu trong Lý Nhân Duyên là nguyên nhân đầu tiên. Vì mọi sự vật phát sanh do những nguyên nhân đã có từ trước nên không thể có nguyên nhân đầu tiên.
Thanked by 1 Member:
|
|
#579
Gửi vào 11/11/2012 - 10:04
VÌ SAO TIN PHẬT
Theo định Luật của Lý Nhân Duyên, có mười hai yếu tố giải thích cho sự liên tục hiện hữu, hết sanh này đến sanh khác. Những yếu tố đó là:
1. Do Vô minh duyên sinh Hành (những hành động thuộc ý chí hay Nghiệp)
2. Do Hành duyên sinh Thức
3. Do Thức duyên sinh Danh Sắc (hiện tượng tâm linh và vật chất)
4. Do Danh Sắc duyên sinh Lục Nhập (năm giác quan và tâm ý)
5. Do Lục Nhập duyên sinh Xúc
6. Do Xúc duyên sinh Thọ
7. Do Thọ duyên sinh Ái
8. Do Ái duyên sinh Thủ
9. Do Thủ duyên sinh Hữu
10.Do tiến trình của Hữu duyên sinh Sanh
11. Do Sanh có Lão, Tử, Não, Bi, Khổ, Ưu và Thất Vọng.
Trên đây cho thấy sự sống phát sanh, hiện hữu và tiếp nối ra sao, và khổ đau sanh khởi như thế nào. Có thế hiểu rằng các nhân tố đó nối tiếp trải dài trong quãng thời gian của ba kiếp sống: quá khứ, hiện tại và vị lai. Trong Lý Nhân Duyên, Vô minh và Hành thuộc quá khứ, và tượng trưng những điều kiện chịu trách nhiệm việc sẩy ra cho kiếp hiện tại. Những yếu tố theo sau là Thức, Danh Sắc, Lục Căn, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu là những yếu tố thuộc kiếp sống hiện tại. Hai yếu tố còn lại là Sanh, và Lão Tử thuộc kiếp vị lai.
Trong định luật này, yếu tố thứ nhất Vô minh duyên sinh Hành (hay Nghiệp). Vô minh có nghĩa là không biết hay không hiểu bản chất thực sự sự hiện hữu của chúng ta. Do Vô minh, hành động thiện hay ác được tạo tác đưa con người đến tái sanh. Tái sanh có thể diễn ra trong nhiều cảnh giới khác nhau: nhân giới, thiên giới hay cõi cao hơn (phạm thiên), hoặc trong những khổ cảnh tùy theo nghiệp quả của từng người. Khi lâm chung, hành nghiệp của một người tạo điều kiện sanh khởi cho Thức, trong trường hợp này Thức tái sanh được phát xuất như tia sáng đầu tiên của kiếp sống mới trong tiến trình của sự trở thành.
Một khi kiếp sanh Thức có mặt, sự sống lại bắt đầu. Tùy thuộc vào Thức, Danh (Tâm) và Sắc (Vật) sanh khởi, một chúng sinh mới ra đời. Vì có Tâm và Vật, sáu giác quan phát sanh (giác quan thứ sáu là tâm). Sáu giác quan sinh Xúc. Xúc với cái gì? Xúc với sắc, âm thanh, mùi, vị, những vật rờ đụng được, và những đối tượng của tâm.
Theo định Luật của Lý Nhân Duyên, có mười hai yếu tố giải thích cho sự liên tục hiện hữu, hết sanh này đến sanh khác. Những yếu tố đó là:
1. Do Vô minh duyên sinh Hành (những hành động thuộc ý chí hay Nghiệp)
2. Do Hành duyên sinh Thức
3. Do Thức duyên sinh Danh Sắc (hiện tượng tâm linh và vật chất)
4. Do Danh Sắc duyên sinh Lục Nhập (năm giác quan và tâm ý)
5. Do Lục Nhập duyên sinh Xúc
6. Do Xúc duyên sinh Thọ
7. Do Thọ duyên sinh Ái
8. Do Ái duyên sinh Thủ
9. Do Thủ duyên sinh Hữu
10.Do tiến trình của Hữu duyên sinh Sanh
11. Do Sanh có Lão, Tử, Não, Bi, Khổ, Ưu và Thất Vọng.
Trên đây cho thấy sự sống phát sanh, hiện hữu và tiếp nối ra sao, và khổ đau sanh khởi như thế nào. Có thế hiểu rằng các nhân tố đó nối tiếp trải dài trong quãng thời gian của ba kiếp sống: quá khứ, hiện tại và vị lai. Trong Lý Nhân Duyên, Vô minh và Hành thuộc quá khứ, và tượng trưng những điều kiện chịu trách nhiệm việc sẩy ra cho kiếp hiện tại. Những yếu tố theo sau là Thức, Danh Sắc, Lục Căn, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu là những yếu tố thuộc kiếp sống hiện tại. Hai yếu tố còn lại là Sanh, và Lão Tử thuộc kiếp vị lai.
Trong định luật này, yếu tố thứ nhất Vô minh duyên sinh Hành (hay Nghiệp). Vô minh có nghĩa là không biết hay không hiểu bản chất thực sự sự hiện hữu của chúng ta. Do Vô minh, hành động thiện hay ác được tạo tác đưa con người đến tái sanh. Tái sanh có thể diễn ra trong nhiều cảnh giới khác nhau: nhân giới, thiên giới hay cõi cao hơn (phạm thiên), hoặc trong những khổ cảnh tùy theo nghiệp quả của từng người. Khi lâm chung, hành nghiệp của một người tạo điều kiện sanh khởi cho Thức, trong trường hợp này Thức tái sanh được phát xuất như tia sáng đầu tiên của kiếp sống mới trong tiến trình của sự trở thành.
Một khi kiếp sanh Thức có mặt, sự sống lại bắt đầu. Tùy thuộc vào Thức, Danh (Tâm) và Sắc (Vật) sanh khởi, một chúng sinh mới ra đời. Vì có Tâm và Vật, sáu giác quan phát sanh (giác quan thứ sáu là tâm). Sáu giác quan sinh Xúc. Xúc với cái gì? Xúc với sắc, âm thanh, mùi, vị, những vật rờ đụng được, và những đối tượng của tâm.
Thanked by 1 Member:
|
|
#580
Gửi vào 11/11/2012 - 10:07
VÌ SAO TIN PHẬT
Sắc, âm thanh, mùi, vị, vật rờ đụng được, và đối tượng của tâm có thể đẹp đẽ, thích thú và hấp dẫn. Mặt khác, chúng cũng có thể xấu xa và không vừa ý. Cho nên tùy thuộc vào Xúc, cảm giác phát sanh: cảm thọ thích thú hay không thích thú, hay dửng dưng. Do những cảm thọ này mà quy luật của tham và sân bắt đầu hoạt động.
Chúng sanh theo tự nhiên bị thu hút bởi những gì thích thú và ghét bỏ những gì không thích thú. Do kết quả của Thọ, Ái Dục phát sanh. Kẻ tham dục và khao khát các hình thức đẹp đẽ và hấp dẫn, âm thanh hay và quyến rữ, mùi, vị, va chạm, và các vật mà tâm cho là mỹ miều và lôi cuốn.
Từ những Ái Dục này, kẻ đó phát triển mạnh mẽ lòng ham thích những gì thích thú và chán ghét những gì cho là không thích thú. Bây giờ vì sự bám níu và luyến chấp này tạo điều kiện cho kiếp sống kế tiếp và Hữu phát sanh. Nói một cách khác, tiến trình củaTrở Thành được điều động bởi sự Bám Níu.
Mắt xích kế tiếp trong chuỗi Lý Nhân Duyên là Hữu tạo điều kiện cho Sanh phát xuất. Và cuối cùng, tùy thuộc vào Sanh mà có Lão và Tử cùng với phiền muộn, than van, đau đớn, ưu sầu, và thất vọng.
Tiến trình này sẽ ngưng nếu công thức đổi chiều ngược lại: Do Vô minh bị tận diệt (qua huân tập của tuệ giác), Hành hay nghiệp kết thúc; do Hành kết thúc thì Thức kết thúc, ... do Sanh chấm dúứ thì các yếu tố khác như già, bệnh chết, phiền não vân vân.. cũng chấm dứt. Cho nên, ta có thể thoát khỏi vòng tái sanh bằng cách tận diệt Vô minh.
Xin nhắc lại điều đã nêu trên, thuyết Thập Nhị nhân Duyên chỉ giải thích tiến trình của Sanh và Tử, và không là một thuyết tiến hóa của thế giới. Thuyết chỉ đề cập về Nguyên Nhân của Tái sanh và Khổ đau, và không nhằm trình bầy Nguồn Gốc tuyệt đối của đời sống.
Trong Lý Nhân Duyên, Vô minh là sự không thấu hiểu Tứ Diệu Đế. Rất là quan trọng cho chúng ta thấu hiểu Tứ Diệu Đế vì chính là sự không hiểu (vô minh) những chân lý ấy mà chúng ta đã phải trôi lăn mãi trong vòng sanh tử.
Trong lúc giảng cho Ngài A Nan, Đức Phật dạy: Cũng chỉ vì không nhận thức được Lý Nhân Duyên, cho nên chúng sanh giống như bị vương mắc vào một cuộn bông sợi không thể nhìn thấy chân lý, và lúc nào cũng đau đớn bởi phiền não - thường sanh vào hoàn cảnh buồn thảm, thê lương, bối rối và đau khổ triền miên. Họ cũng không làm sao tự tháo gỡ để thoát ra ngoài được.
Sắc, âm thanh, mùi, vị, vật rờ đụng được, và đối tượng của tâm có thể đẹp đẽ, thích thú và hấp dẫn. Mặt khác, chúng cũng có thể xấu xa và không vừa ý. Cho nên tùy thuộc vào Xúc, cảm giác phát sanh: cảm thọ thích thú hay không thích thú, hay dửng dưng. Do những cảm thọ này mà quy luật của tham và sân bắt đầu hoạt động.
Chúng sanh theo tự nhiên bị thu hút bởi những gì thích thú và ghét bỏ những gì không thích thú. Do kết quả của Thọ, Ái Dục phát sanh. Kẻ tham dục và khao khát các hình thức đẹp đẽ và hấp dẫn, âm thanh hay và quyến rữ, mùi, vị, va chạm, và các vật mà tâm cho là mỹ miều và lôi cuốn.
Từ những Ái Dục này, kẻ đó phát triển mạnh mẽ lòng ham thích những gì thích thú và chán ghét những gì cho là không thích thú. Bây giờ vì sự bám níu và luyến chấp này tạo điều kiện cho kiếp sống kế tiếp và Hữu phát sanh. Nói một cách khác, tiến trình củaTrở Thành được điều động bởi sự Bám Níu.
Mắt xích kế tiếp trong chuỗi Lý Nhân Duyên là Hữu tạo điều kiện cho Sanh phát xuất. Và cuối cùng, tùy thuộc vào Sanh mà có Lão và Tử cùng với phiền muộn, than van, đau đớn, ưu sầu, và thất vọng.
Tiến trình này sẽ ngưng nếu công thức đổi chiều ngược lại: Do Vô minh bị tận diệt (qua huân tập của tuệ giác), Hành hay nghiệp kết thúc; do Hành kết thúc thì Thức kết thúc, ... do Sanh chấm dúứ thì các yếu tố khác như già, bệnh chết, phiền não vân vân.. cũng chấm dứt. Cho nên, ta có thể thoát khỏi vòng tái sanh bằng cách tận diệt Vô minh.
Xin nhắc lại điều đã nêu trên, thuyết Thập Nhị nhân Duyên chỉ giải thích tiến trình của Sanh và Tử, và không là một thuyết tiến hóa của thế giới. Thuyết chỉ đề cập về Nguyên Nhân của Tái sanh và Khổ đau, và không nhằm trình bầy Nguồn Gốc tuyệt đối của đời sống.
Trong Lý Nhân Duyên, Vô minh là sự không thấu hiểu Tứ Diệu Đế. Rất là quan trọng cho chúng ta thấu hiểu Tứ Diệu Đế vì chính là sự không hiểu (vô minh) những chân lý ấy mà chúng ta đã phải trôi lăn mãi trong vòng sanh tử.
Trong lúc giảng cho Ngài A Nan, Đức Phật dạy: Cũng chỉ vì không nhận thức được Lý Nhân Duyên, cho nên chúng sanh giống như bị vương mắc vào một cuộn bông sợi không thể nhìn thấy chân lý, và lúc nào cũng đau đớn bởi phiền não - thường sanh vào hoàn cảnh buồn thảm, thê lương, bối rối và đau khổ triền miên. Họ cũng không làm sao tự tháo gỡ để thoát ra ngoài được.
Thanked by 1 Member:
|
|
#581
Gửi vào 11/11/2012 - 10:10
VÌ SAO TIN PHẬT
THƯỜNG KIẾN VÀ ĐOẠN KIẾN
Đức Phật bác bỏ cả hai cực đoan của thuyết bất diệt (thường kiến) và hư vô (đoạn kiến).
Để trau dồi Chánh Kiến hay sự hiểu biết toàn bích, trước nhất chúng ta phải để ý đến hai quan điểm được coi là khiếm khuyết hay sai lầm.
Quan điểm đầu tiên là thuyết bất diệt, thuyết này liên quan với niềm tin về đời sống bất diệt hay sự vật bất diệt. Trước thời Đức Phật, dân chúng thường được dạy rằng có một thực thể tồn tại trường cửu, và con người có thể sống mãi mãi, bằng cách gìn giữ linh hồn bất diệt để có thể nhập với Đức Tối Thượng.
Trong Đạo Phật, giáo lý này được gọi là sassara ditthi, quan điểm của những người chủ trương có sự bất diệt. Những quan đi?m này vẫn hiện hữu trong thế giới tiên tiến ngày nay do lòng bám níu của con người vào sự bất diệt.
Tại sao Đức Phật chối bỏ không dạy giáo lý về bất diệt? Vì khi chúng ta hiểu được sự vật trên cõi đời này thực sự ra sao, chúng ta không thể tìm thấy một thứ gì thường còn hay hiện hữu mãi mãi. Mọi sự đều thay đổi và tiếp tục thay đổi theo những điều kiện thay đổi mà chúng tùy thuộc vào.
Khi chúng ta phân tích sự vật ra từng thành phần hay cho ra từng thực thể, chúng ta không thể tìm thấy một thực thể nào tồn tại vĩnh viễn, không có một vật gì hiện hữu trường cửu. Do đó tại sao quan điểm về bất diệt được coi như sai lầm hay giả dối.
Quan điểm sai lầm thứ hai là thuyết đoạn kiến, quan điểm của những người theo chủ thuyết hư vô cho rằng không có đời sống sau khi chết. Quan điểm này thuộc triết lý duy vật chổi bỏ kiến thức về điều kiện tâm linh. Triết lý duy vật chỉ hiểu một phần của đời sống. Hư vô chủ nghĩa không chú ý đến về mặt tâm linh của đời sống. Nếu cho rằng khi chết, đời sống chấm dứt và không còn trở lại nữa, thì người đó bác bỏ sự liên tục của những điều kiện tâm linh.
Khi chúng ta hiểu điều kiện tinh thần và vật chất, chúng ta không thể nói rằng không có đời sống sau khi chết và không còn gì nữa sau khi chết. Thuyết hư vô về cuộc sống được coi như sai vì nó căn cứ vào sự thiếu hiểu biết về sự thật. Bởi vậy Đức Phật đã bác bỏ thuyết hư vô. Giáo lý về Nghiệp thừa đủ để chứng tỏ Đức Phật không dạy thuyết hư vô sau khi chết; Đạo Phật chấp nhận "thần thức" không có nghĩa là một linh hồn bất diệt, nhưng trong ý nghĩa sự tái sanh .
Suốt trong thời gian hoằng pháp dài cho các đệ tử, Đức Phật cực lực không tán đồng các lập luận có tính cách ức đoán. Vào thế kỷ thứ 5 trước Tây Nguyên Ấn là nơi hoạt động trí thức cực thịnh, những nhà học giả, du dà, triết học, vua chúa và cả đến những người bình thưòng cũng tham gia vào các cuộc tranh luận triết lý về cuộc sống của con người.
Một số những người đó có những lý luận nực cưòi vô giá trị và hoàn toàn không thích đáng. Một số người đã lãng phí thời gian để tranh luận về mọi vấn đề. Họ chú trọng nhiều đến sức mạnh của môn thể thao tinh thần hơn là tìm giải pháp thực tế cho những vấn đề của nhân loại.
(Ở thế kỷ thứ 18 Jonathan Swift châm biếm thời gian sẩy ra tương tự tại Anh khi ông trình bày những người Lilliputians (Tý hon Li Li Bút) trong tập "Gulliver's Travels" (Du Ký của Gullivers), gây chiến tranh để quyết định nên đập vỡ một trái trứng bằng đầu nào, đầu nhọn trứng hay đầu lớn trứng).
Đức Phật cũng từ chối tham dự vào các phiếm luận về vũ trụ. Ngài tuyên bố minh bạch vấn đề nhân loại phải đương đầu không phải trong quá khứ hay vị lai mà ngay tức khắc bây giờ. Kiến thức về Chủ Nghĩa Bất Diệt hay Hư Vô không giúp ích gì cho con người phá vỡ gông cùm khiến con người bị mù quáng trong cuộc sống và là nguyên nhân của tất cả các cảm nghĩ bất mãn phát xuất từ những bất lực không thỏa mãn được các tham vọng.
Ngài nói rằng trước khi một người muốn tiến vào con đường dẫn đến Niết Bàn, người đó phải có Chánh Kiến. Chỉ khi nào biết rõ ràng cái gì mình đang tìm mới mong đạt được nó.
THƯỜNG KIẾN VÀ ĐOẠN KIẾN
Đức Phật bác bỏ cả hai cực đoan của thuyết bất diệt (thường kiến) và hư vô (đoạn kiến).
Để trau dồi Chánh Kiến hay sự hiểu biết toàn bích, trước nhất chúng ta phải để ý đến hai quan điểm được coi là khiếm khuyết hay sai lầm.
Quan điểm đầu tiên là thuyết bất diệt, thuyết này liên quan với niềm tin về đời sống bất diệt hay sự vật bất diệt. Trước thời Đức Phật, dân chúng thường được dạy rằng có một thực thể tồn tại trường cửu, và con người có thể sống mãi mãi, bằng cách gìn giữ linh hồn bất diệt để có thể nhập với Đức Tối Thượng.
Trong Đạo Phật, giáo lý này được gọi là sassara ditthi, quan điểm của những người chủ trương có sự bất diệt. Những quan đi?m này vẫn hiện hữu trong thế giới tiên tiến ngày nay do lòng bám níu của con người vào sự bất diệt.
Tại sao Đức Phật chối bỏ không dạy giáo lý về bất diệt? Vì khi chúng ta hiểu được sự vật trên cõi đời này thực sự ra sao, chúng ta không thể tìm thấy một thứ gì thường còn hay hiện hữu mãi mãi. Mọi sự đều thay đổi và tiếp tục thay đổi theo những điều kiện thay đổi mà chúng tùy thuộc vào.
Khi chúng ta phân tích sự vật ra từng thành phần hay cho ra từng thực thể, chúng ta không thể tìm thấy một thực thể nào tồn tại vĩnh viễn, không có một vật gì hiện hữu trường cửu. Do đó tại sao quan điểm về bất diệt được coi như sai lầm hay giả dối.
Quan điểm sai lầm thứ hai là thuyết đoạn kiến, quan điểm của những người theo chủ thuyết hư vô cho rằng không có đời sống sau khi chết. Quan điểm này thuộc triết lý duy vật chổi bỏ kiến thức về điều kiện tâm linh. Triết lý duy vật chỉ hiểu một phần của đời sống. Hư vô chủ nghĩa không chú ý đến về mặt tâm linh của đời sống. Nếu cho rằng khi chết, đời sống chấm dứt và không còn trở lại nữa, thì người đó bác bỏ sự liên tục của những điều kiện tâm linh.
Khi chúng ta hiểu điều kiện tinh thần và vật chất, chúng ta không thể nói rằng không có đời sống sau khi chết và không còn gì nữa sau khi chết. Thuyết hư vô về cuộc sống được coi như sai vì nó căn cứ vào sự thiếu hiểu biết về sự thật. Bởi vậy Đức Phật đã bác bỏ thuyết hư vô. Giáo lý về Nghiệp thừa đủ để chứng tỏ Đức Phật không dạy thuyết hư vô sau khi chết; Đạo Phật chấp nhận "thần thức" không có nghĩa là một linh hồn bất diệt, nhưng trong ý nghĩa sự tái sanh .
Suốt trong thời gian hoằng pháp dài cho các đệ tử, Đức Phật cực lực không tán đồng các lập luận có tính cách ức đoán. Vào thế kỷ thứ 5 trước Tây Nguyên Ấn là nơi hoạt động trí thức cực thịnh, những nhà học giả, du dà, triết học, vua chúa và cả đến những người bình thưòng cũng tham gia vào các cuộc tranh luận triết lý về cuộc sống của con người.
Một số những người đó có những lý luận nực cưòi vô giá trị và hoàn toàn không thích đáng. Một số người đã lãng phí thời gian để tranh luận về mọi vấn đề. Họ chú trọng nhiều đến sức mạnh của môn thể thao tinh thần hơn là tìm giải pháp thực tế cho những vấn đề của nhân loại.
(Ở thế kỷ thứ 18 Jonathan Swift châm biếm thời gian sẩy ra tương tự tại Anh khi ông trình bày những người Lilliputians (Tý hon Li Li Bút) trong tập "Gulliver's Travels" (Du Ký của Gullivers), gây chiến tranh để quyết định nên đập vỡ một trái trứng bằng đầu nào, đầu nhọn trứng hay đầu lớn trứng).
Đức Phật cũng từ chối tham dự vào các phiếm luận về vũ trụ. Ngài tuyên bố minh bạch vấn đề nhân loại phải đương đầu không phải trong quá khứ hay vị lai mà ngay tức khắc bây giờ. Kiến thức về Chủ Nghĩa Bất Diệt hay Hư Vô không giúp ích gì cho con người phá vỡ gông cùm khiến con người bị mù quáng trong cuộc sống và là nguyên nhân của tất cả các cảm nghĩ bất mãn phát xuất từ những bất lực không thỏa mãn được các tham vọng.
Ngài nói rằng trước khi một người muốn tiến vào con đường dẫn đến Niết Bàn, người đó phải có Chánh Kiến. Chỉ khi nào biết rõ ràng cái gì mình đang tìm mới mong đạt được nó.
Thanked by 1 Member:
|
|
#582
Gửi vào 11/11/2012 - 10:13
VÌ SAO TIN PHẬT
LINH HỒN CÓ BẤT DIỆT KHÔNG?
Tin linh hồn bất diệt là một quan niệm sai lầm về tâm thúc con người.
THUYẾT VỀ LINH HỒN
Dạy về lý thuyết linh hồn, có ba hạng đạo sư trên thế giới:
Hạng thứ nhất dạy sự hiện hữu của một cái Ngã thực thể bất diệt trưòng tồn mãi mãi: Vị đạo sư này theo thuyết bất diệt (thường kiến).
Hạng thứ nhì dạy cái Ngã thực thể chỉ tạm thời sẽ bị hủy diệt khi chết: Vị đạo sư này là các nhà duy vật chủ nghĩa.
Hạng thứ ba dạy không có cái Ngã bất diệt hay tạm thời: Vị đạo sư này là Đức Phật.
Đức Phật dạy cái mà ta gọi ngã, bản thân, linh hồn, cá nhân vân vân.. chỉ là các từ ngữ có tính cách quy ước (chế định), các từ ngữ này không liên quan đến một cái gì đích thật, một thực thể hoàn toàn độc lập. Theo Phật Giáo không có lý do nào có thể tin tưởng là có một linh hồn bất diệt xuống từ thiên đường, hoặc tự tạo thành và sau khi chết sẽ lên thiên đưòng, hay xuống địa ngục.
Người Phật Tử không thể chấp nhận bất cứ điều gì bất diệt, không thay đổi trên thế giới này hay thế giới khác. Chúng ta chỉ chấp chặt vào mình để mong tìm một cái gì bất tử.
Chúng ta chẳng khác gì các trẻ thơ, chúng muốn nắm bắt lấy cầu vồng. Với trẻ thơ, cầu vồng là cái có thật sống động, nhưng mgười lớn biết rằng cầu vồng chỉ là ảo ảnh tạo ra bởi một số tia sáng và những giọt nước. Ánh sáng chỉ là một loạt sóng nhấp nhô không thực, chẳng hơn gì cầu vồng.
Con người thành công mà không cần phải khám phá linh hồn. Con người không hề biểu lộ dấu hiệu gì mệt mỏi hay thoái hóa do không tìm gập linh hồn nào. Chưa có người nào sản xuất được thứ gì để làm thăng tiến nhân loại bằng cách mặc nhận một linh hồn và khả năng tưởng tượng của nó.
Tìm kiếm linh hồn trong con người chẳng khác gì tìm một vật trong phòng trống rỗng tối tăm. Nhưng con người bất hạnh kia chằng bao giờ nhận thức được rằng vật muốn tìm đó không có trong phòng. Thật là khó khăn để làm cho kẻ đó hiểu được sự vô ích của việc tìm kiếm này.
Những kẻ tin tưởng vào sự hiện hữu của linh hồn không cách chi có thể giải thích được linh hồn là gì và ở đâu. Lời khuyên của Đức Phật là đừng lãng phí thì giờ vào những chuyện không đâu không cần thiết mà hãy nỗ lực trong việc tranh đấu để tự cứu. Khi chúng ta đã đạt được mức toàn hảo, chúng ta sẽ có thể nhận thức được có hay không có linh hồn. Vị du tăng tên Vacchagotta hỏi Đức Phật có hay không có cái "Ta". Câu chuyện như sau:
Vachagotta tìm đến Đức Phật và hỏi Ngài:
"Thưa Ngài Cồ Đàm, có cái Ta không?
Đức Phật im lặng.
"Vậy Thưa Ngài Cồ Đàm, phải chăng không có cái "Ta"?
Đức Phật vẫn im lặng. Vacchagotta đứng dạy và bỏ đi .
Sau khi du tăng này đi khỏi, Ngài A Nan hỏi Đức Phật tại sao Ngài không trả lời câu hỏi của Vacchagotta. Đức Phật giải thích như sau:
"Này A Nan, khi đạo sĩ Vacchagotta hỏi "Có cái Ta không?", nếu ta trả lời " Có Cái Ta", câu trả lời như vậy chứng tỏ là ta tán đồng ý kiến của của các nhà tu ẩn dật và các Bà là môn chủ trương thuyết bất diệt (sassata-vada) (thường kiến).
"Này A Nan, khi du tăng hỏi: "Phải chăng không có cái Ta? Nếu ta trả lời "Không có cái Ta" câu trả lời như vậy ta đứng về phía những nhà tu ẩn dật và Bà la môn chủ trương thuyết tịch diệt (đoạn kiến).
"Lại nữa này A Nan, khi Vacchagotta hỏi ta: "Có cái Ta không?" Nếu ta trả lời có cái Ta thì có phù hợp với sự hiểu biết của ta là tất cả các Pháp đều vô ngã không? .
"Chắc chắn là không, Bạch Đức Thé Tôn ", Ngài An Nan nói.
"Lại nữa này A Nan, nhà tu khổ hạnh hỏi ta: "Không có cái Ta phải không? Nếu ta trả lời 'Không có cái Ta' câu trả lời sẽ làm cho Vacchagotta hết sức bối rối vì chính Vacchagotta đã đang băn khoăn về vấn đề này . Nhà tu này sẽ nghĩ: 'Trước đây ta cứ tưởng có cái Ta, mà nay cái Ta lại không có' ". (Samyutta Nikaya).
Đức Phật cho những suy đoán về linh hồn là hoàn toàn vô ích và ảo tưởng. Có lần Ngài nói rằng do vô minh và ảo tưởng mà con người say mê trong mộng là linh hồn của họ riêng rẽ và có cái ngã thực thể hiện hữu. Tâm họ vẫn bám níu vào cái Ta.
Họ lo nghĩ về thiên đường và tìm kiếm lạc thú của cái Ta trên thiên đường. Như vậy, họ không thể thấy được hạnh phúc của chánh đạo và sự bất tử của chân lý. "Tư tưởng vị-kỷ xuất hiện trong tâm con người do quan niệm về cái Ta và lòng bám níu vào sự sống còn của họ".
LINH HỒN CÓ BẤT DIỆT KHÔNG?
Tin linh hồn bất diệt là một quan niệm sai lầm về tâm thúc con người.
THUYẾT VỀ LINH HỒN
Dạy về lý thuyết linh hồn, có ba hạng đạo sư trên thế giới:
Hạng thứ nhất dạy sự hiện hữu của một cái Ngã thực thể bất diệt trưòng tồn mãi mãi: Vị đạo sư này theo thuyết bất diệt (thường kiến).
Hạng thứ nhì dạy cái Ngã thực thể chỉ tạm thời sẽ bị hủy diệt khi chết: Vị đạo sư này là các nhà duy vật chủ nghĩa.
Hạng thứ ba dạy không có cái Ngã bất diệt hay tạm thời: Vị đạo sư này là Đức Phật.
Đức Phật dạy cái mà ta gọi ngã, bản thân, linh hồn, cá nhân vân vân.. chỉ là các từ ngữ có tính cách quy ước (chế định), các từ ngữ này không liên quan đến một cái gì đích thật, một thực thể hoàn toàn độc lập. Theo Phật Giáo không có lý do nào có thể tin tưởng là có một linh hồn bất diệt xuống từ thiên đường, hoặc tự tạo thành và sau khi chết sẽ lên thiên đưòng, hay xuống địa ngục.
Người Phật Tử không thể chấp nhận bất cứ điều gì bất diệt, không thay đổi trên thế giới này hay thế giới khác. Chúng ta chỉ chấp chặt vào mình để mong tìm một cái gì bất tử.
Chúng ta chẳng khác gì các trẻ thơ, chúng muốn nắm bắt lấy cầu vồng. Với trẻ thơ, cầu vồng là cái có thật sống động, nhưng mgười lớn biết rằng cầu vồng chỉ là ảo ảnh tạo ra bởi một số tia sáng và những giọt nước. Ánh sáng chỉ là một loạt sóng nhấp nhô không thực, chẳng hơn gì cầu vồng.
Con người thành công mà không cần phải khám phá linh hồn. Con người không hề biểu lộ dấu hiệu gì mệt mỏi hay thoái hóa do không tìm gập linh hồn nào. Chưa có người nào sản xuất được thứ gì để làm thăng tiến nhân loại bằng cách mặc nhận một linh hồn và khả năng tưởng tượng của nó.
Tìm kiếm linh hồn trong con người chẳng khác gì tìm một vật trong phòng trống rỗng tối tăm. Nhưng con người bất hạnh kia chằng bao giờ nhận thức được rằng vật muốn tìm đó không có trong phòng. Thật là khó khăn để làm cho kẻ đó hiểu được sự vô ích của việc tìm kiếm này.
Những kẻ tin tưởng vào sự hiện hữu của linh hồn không cách chi có thể giải thích được linh hồn là gì và ở đâu. Lời khuyên của Đức Phật là đừng lãng phí thì giờ vào những chuyện không đâu không cần thiết mà hãy nỗ lực trong việc tranh đấu để tự cứu. Khi chúng ta đã đạt được mức toàn hảo, chúng ta sẽ có thể nhận thức được có hay không có linh hồn. Vị du tăng tên Vacchagotta hỏi Đức Phật có hay không có cái "Ta". Câu chuyện như sau:
Vachagotta tìm đến Đức Phật và hỏi Ngài:
"Thưa Ngài Cồ Đàm, có cái Ta không?
Đức Phật im lặng.
"Vậy Thưa Ngài Cồ Đàm, phải chăng không có cái "Ta"?
Đức Phật vẫn im lặng. Vacchagotta đứng dạy và bỏ đi .
Sau khi du tăng này đi khỏi, Ngài A Nan hỏi Đức Phật tại sao Ngài không trả lời câu hỏi của Vacchagotta. Đức Phật giải thích như sau:
"Này A Nan, khi đạo sĩ Vacchagotta hỏi "Có cái Ta không?", nếu ta trả lời " Có Cái Ta", câu trả lời như vậy chứng tỏ là ta tán đồng ý kiến của của các nhà tu ẩn dật và các Bà là môn chủ trương thuyết bất diệt (sassata-vada) (thường kiến).
"Này A Nan, khi du tăng hỏi: "Phải chăng không có cái Ta? Nếu ta trả lời "Không có cái Ta" câu trả lời như vậy ta đứng về phía những nhà tu ẩn dật và Bà la môn chủ trương thuyết tịch diệt (đoạn kiến).
"Lại nữa này A Nan, khi Vacchagotta hỏi ta: "Có cái Ta không?" Nếu ta trả lời có cái Ta thì có phù hợp với sự hiểu biết của ta là tất cả các Pháp đều vô ngã không? .
"Chắc chắn là không, Bạch Đức Thé Tôn ", Ngài An Nan nói.
"Lại nữa này A Nan, nhà tu khổ hạnh hỏi ta: "Không có cái Ta phải không? Nếu ta trả lời 'Không có cái Ta' câu trả lời sẽ làm cho Vacchagotta hết sức bối rối vì chính Vacchagotta đã đang băn khoăn về vấn đề này . Nhà tu này sẽ nghĩ: 'Trước đây ta cứ tưởng có cái Ta, mà nay cái Ta lại không có' ". (Samyutta Nikaya).
Đức Phật cho những suy đoán về linh hồn là hoàn toàn vô ích và ảo tưởng. Có lần Ngài nói rằng do vô minh và ảo tưởng mà con người say mê trong mộng là linh hồn của họ riêng rẽ và có cái ngã thực thể hiện hữu. Tâm họ vẫn bám níu vào cái Ta.
Họ lo nghĩ về thiên đường và tìm kiếm lạc thú của cái Ta trên thiên đường. Như vậy, họ không thể thấy được hạnh phúc của chánh đạo và sự bất tử của chân lý. "Tư tưởng vị-kỷ xuất hiện trong tâm con người do quan niệm về cái Ta và lòng bám níu vào sự sống còn của họ".
Thanked by 1 Member:
|
|
#583
Gửi vào 11/11/2012 - 10:22
VÌ SAO TIN PHẬT
Chương 6
ĐẠO PHẬT ĐỐI CHIẾU VỚI CÁC PHƯƠNG TIỆN KHÁC
-ooOoo-
ĐẠO PHẬT CÓ GIỐNG NHỮNG GIÁO LÝ ĐƯƠNG THỜI KHÁC TẠI ẤN KHÔNG?
Giáo Pháp chứng ngộ bởi Đức Phật chưa bao giờ được nghe thấy trước đây.
Trong bài thuyết pháp đầu tiên trong Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakka), Đức Phật dạy rằng từ trước đến nay chưa ai từng được nghe Pháp mà Ngài giảng dạy. Kiến thức về Pháp được khơi dậy rất sáng tỏ về quan điểm, về sự hiểu biết, trí tuệ, sự thâm nhập, và giác ngộ của Ngài.
Nhiều người cho rằng Đức Phật không thuyết giảng một học thuyết mới mà Ngài chỉ canh tân giáo lý cổ truyền đang hiện hữu tại Ấn. Tuy nhiên, Đức Phật không chỉ là nhà cải cách Ấn Độ Giáo như một số lãnh đạo của tín ngưỡng cổ xưa này khẳng định. Cách sống và giáo lý của Ngài khác biệt hẳn cách sống và những đức tin tôn giáo của người dân Ấn Độ đã có.
Ngài sống, giảng dạy, và chết không phải như một Vị Thầy Vệ Đà hay Bà La Môn Giáo. Đức Phật không xác nhận đã mang ơn nơi nào về đức tin cũng như cách tu tập. Đức Phật coi tự mình khai sáng một phương pháp đạo giáo hữu lý, mở ra một con đường mới. Tóm lại Ngài đã cách mạng lối sống đạo lý một cách cao thượng.
Đó là lý do chính tại sao nhiều nhóm tôn giáo khác không đồng ý với Ngài. Ngài bị buộc tội, công kích, và thóa mạ bởi những vị thầy tên tuổi và của giáo phái Vệ Đà - truyền thống Bà La Môn. Do ý đồ muốn phá Đức Phật hay muốn sát nhập Đức Phật và Giáo Lý của Ngài vào tôn giáo của họ nên người Bà La Môn trước thời đại trước Tây Nguyên đã đi quá xa chấp nhận Đức Phật như Đấng Vô Thượng hay một hóa thân của Thượng Đế của họ.
Những nhóm khác lại khinh miệt Ngài như một vasalaka, mundaka, samanaka, nastika, và sudra. (Những danh từ này được sử dụng trong thời Phật tại thế để lăng mạ nhà tu hành).
Đương nhiên là Đức Phật đã cải cách một số các tập tục, nghĩa vụ trong đạo giáo, nghi lễ, đạo lý, và lối sống. Phẩm cách cao cả của Ngài tựa như đầu đinh nhọn chọc vào những trái bóng bóng của các tín ngưỡng tu tập sai lầm làm chúng nổ tung và phô bày sự rỗng tuếch.
Những liên hệ rộng lớn về giáo lý căn bản, triết lý và tâm lý, cho rằng Đức Phật đã cóp nhặt những ý kiến của những tôn giáo hiện hữu thời bấy giờ là hoàn toàn vô căn cứ. Chẳng hạn trước thời Đức Phật chưa hề có ý niệm về Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo và Niết Bàn. Mặc dù sự tin tưởng về Nghiệp và tái sanh rất phổ biến lúc bấy giờ, Đức Phật đã đưa ra những giải thích hợp lý và rốt ráo về sự đức tin này và trình bày nó như một định luật nhân quả tự nhiên.
Mặc dù vậy, Ngài không hề châm biếm đức tin hay cách hành trì chân thành của bất cứ đạo giáo nào cả. Ngài tán thán giá trị của Chân Lý mà Ngài thấy được ở nhiều tôn giáo khác và Ngài lại còn cho thêm cách thuyết minh tốt đẹp hơn về đức tin của họ. Cho nên Ngài đã từng nói Chân Lý phải được tôn trọng dù bất cứ ở đâu. Tuy nhiên Ngài chẳng bao giờ sợ sệt mà không dám nói thẳng về những hành vi đạo đức giả hiệu và dối trá.
Chương 6
ĐẠO PHẬT ĐỐI CHIẾU VỚI CÁC PHƯƠNG TIỆN KHÁC
-ooOoo-
ĐẠO PHẬT CÓ GIỐNG NHỮNG GIÁO LÝ ĐƯƠNG THỜI KHÁC TẠI ẤN KHÔNG?
Giáo Pháp chứng ngộ bởi Đức Phật chưa bao giờ được nghe thấy trước đây.
Trong bài thuyết pháp đầu tiên trong Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakka), Đức Phật dạy rằng từ trước đến nay chưa ai từng được nghe Pháp mà Ngài giảng dạy. Kiến thức về Pháp được khơi dậy rất sáng tỏ về quan điểm, về sự hiểu biết, trí tuệ, sự thâm nhập, và giác ngộ của Ngài.
Nhiều người cho rằng Đức Phật không thuyết giảng một học thuyết mới mà Ngài chỉ canh tân giáo lý cổ truyền đang hiện hữu tại Ấn. Tuy nhiên, Đức Phật không chỉ là nhà cải cách Ấn Độ Giáo như một số lãnh đạo của tín ngưỡng cổ xưa này khẳng định. Cách sống và giáo lý của Ngài khác biệt hẳn cách sống và những đức tin tôn giáo của người dân Ấn Độ đã có.
Ngài sống, giảng dạy, và chết không phải như một Vị Thầy Vệ Đà hay Bà La Môn Giáo. Đức Phật không xác nhận đã mang ơn nơi nào về đức tin cũng như cách tu tập. Đức Phật coi tự mình khai sáng một phương pháp đạo giáo hữu lý, mở ra một con đường mới. Tóm lại Ngài đã cách mạng lối sống đạo lý một cách cao thượng.
Đó là lý do chính tại sao nhiều nhóm tôn giáo khác không đồng ý với Ngài. Ngài bị buộc tội, công kích, và thóa mạ bởi những vị thầy tên tuổi và của giáo phái Vệ Đà - truyền thống Bà La Môn. Do ý đồ muốn phá Đức Phật hay muốn sát nhập Đức Phật và Giáo Lý của Ngài vào tôn giáo của họ nên người Bà La Môn trước thời đại trước Tây Nguyên đã đi quá xa chấp nhận Đức Phật như Đấng Vô Thượng hay một hóa thân của Thượng Đế của họ.
Những nhóm khác lại khinh miệt Ngài như một vasalaka, mundaka, samanaka, nastika, và sudra. (Những danh từ này được sử dụng trong thời Phật tại thế để lăng mạ nhà tu hành).
Đương nhiên là Đức Phật đã cải cách một số các tập tục, nghĩa vụ trong đạo giáo, nghi lễ, đạo lý, và lối sống. Phẩm cách cao cả của Ngài tựa như đầu đinh nhọn chọc vào những trái bóng bóng của các tín ngưỡng tu tập sai lầm làm chúng nổ tung và phô bày sự rỗng tuếch.
Những liên hệ rộng lớn về giáo lý căn bản, triết lý và tâm lý, cho rằng Đức Phật đã cóp nhặt những ý kiến của những tôn giáo hiện hữu thời bấy giờ là hoàn toàn vô căn cứ. Chẳng hạn trước thời Đức Phật chưa hề có ý niệm về Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo và Niết Bàn. Mặc dù sự tin tưởng về Nghiệp và tái sanh rất phổ biến lúc bấy giờ, Đức Phật đã đưa ra những giải thích hợp lý và rốt ráo về sự đức tin này và trình bày nó như một định luật nhân quả tự nhiên.
Mặc dù vậy, Ngài không hề châm biếm đức tin hay cách hành trì chân thành của bất cứ đạo giáo nào cả. Ngài tán thán giá trị của Chân Lý mà Ngài thấy được ở nhiều tôn giáo khác và Ngài lại còn cho thêm cách thuyết minh tốt đẹp hơn về đức tin của họ. Cho nên Ngài đã từng nói Chân Lý phải được tôn trọng dù bất cứ ở đâu. Tuy nhiên Ngài chẳng bao giờ sợ sệt mà không dám nói thẳng về những hành vi đạo đức giả hiệu và dối trá.
Thanked by 1 Member:
|
|
#584
Gửi vào 11/11/2012 - 10:24
VÌ SAO TIN PHẬT
ĐẠO PHẬT LÀ MỘT LÝ THUYẾT HAY MỘT TRIẾT LÝ?
Sự giác ngộ của Đức Phật không phải là một sản phẩm của trí năng đơn thuần.
Trong thời Đức Phật tại Ấn, có rất nhiều học giả theo đuổi kiến thức chỉ để nhằm lợi ích cho bản thân. Những người này đầy ắp hiểu biết về lý thuyết. Thật vậy, một số đi từ tỉnh, thành thị này đến phố thị khác để tranh luận so tài và nỗi vui mừng rộn ràng của họ là đánh bại được địch thủ trong các trận khẩu chiến này.
Đức Phật nói những người như vậy chưa gần được sự chứng ngộ chân lý vì mặc dù tài giỏi và kiến thức cao, nhưng họ vẫn chưa có trí tuệ thực sự để vượt khỏi tham, sân, si. Quả vậy, những người như thế thường tự đắc và khoa trương. Quan niệm ích kỷ của họ làm xáo động bầu không khí đạo giáo.
Theo Đức Phật, trước nhất ta phải tìm hiểu chính tâm ta. Phải làm công việc này bằng cách tập trung tâm định để đạt được trí tuệ thâm sâu hay sự thấu suốt. Tuệ giác này đạt được không phải bằng lý luận triết lý hay kiến thức thế gian nhưng bởi sự âm thầm quán chiếu cái "ta" ảo tưởng.
Phật giáo là lối sống đứng đắn đem bình an và hạnh phúc cho mỗi chúng sanh. Phật Giáo là một phương pháp loại bỏ lầm than tìm cầu giải thoát. Giáo lý của Đức Phật không giới hạn cho một quốc gia hay một chủng tộc nào. Giáo lý đó cũng chẳng phải là tín điều hay đức tin suông. Đó là giáo lý cho cả vũ trụ. Đó là giáo lý muôn thuở. Mục tiêu của giáo lý ấy là phục vụ bất vụ lợi, thiện chí, hòa bình, giải thoát và loại bỏ khổ đau.
Giải thoát trong Phật Giáo là một vấn đề cá nhân. Bạn phải tự cứu bạn cũng như bạn phải ăn, uống, ngủ nghỉ. Lời khuyên dạy của Đức Phật nhắm vào đường lối giải thoát, nhưng Ngài không bao giờ muốn những lời khuyên dạy ấy được tiếp nhận như một lý thuyết hay một triết lý. Khi người ta hỏi Ngài là Ngài chủ trương lý thuyết gì,
Ngài trả lời Ngài không thuyết giảng lý thuyết nào, và những gì Ngài thuyết giảng đều là kết quả của chính kinh nghiệm bản thân Ngài. Cho nên giáo lý của Ngài không cống hiến một lý thuyết nào. Lý thuyết không thể mang con người đến mức toàn hảo về tâm linh. Lý thuyết chính là cùm xích trói buộc tâm thức, cản trở bức tiến của tinh thần. Đức Phật dạy: "Người trí không đặt niềm tin vào những lý thuyết suông. Họ khó tin vào những gì họ chỉ thấy và nghe".
Lý thuyết là sản phẩm của trí năng, và Đức Phật hiểu rằng trí thức của con người có giới hạn. Ngài dạy rằng giác ngộ không chỉ do trí năng mà đạt được. Ta không thể hoàn tất được cuộc giải phóng bằng một lớp đào tạo trí năng. Câu trên đây có vẻ như không hợp lý nhưng đó là sự thật.
Những nhà trí thức dành quá nhiều thì giờ quý báu vào việc nghiên cứu, phân tích để phê phán và tranh luận. Họ thường bỏ rất ít thì giờ hay không có thì giờ cho việc tu tập.
Một tư tưởng gia uyên bác (nhà triết lý, khoa học, siêu hình học vân vân...) cũng có thể biến thành một nhà trí thức điên khùng. ông ta có thể là một nhà trí thức siêu việt với thiên phú lãnh hội ý kiến rất nhanh và có thể diễn tả tư tưởng rất rõ ràng.
Nhưng ông ta không chú ý đến hành động của chính ông ta và những hậu quả của nó, và nếu ông cứ miệt mài hoàn thành ước vọng và sở thích của mình bằng mọi giá, theo Đức Phật, ông là nhà trí thúc điên khùng, một người trí thức hạ đẳng. Một người như vậy sẽ tự ngăn chặn mức tiến bộ tâm linh của mình.
Giáo lý của Đức Phật chứa đựng việc thực hành trí tuệ không bị giới hạn vào lý thuyết hay triết lý vì triết lý chỉ đề cập đến kiến thức mà không chú trọng đến việc áp dụng kiến thức vào việc tu tập hàng ngày.
Phật Giáo đặt trọng tâm vào việc tu tập và chứng ngộ. Triết lý gia thấy những lầm than và thất vọng của đời sống, nhưng không giống như Đức Phật, họ không đưa ra giải pháp thực tiễn để vượt qua những khủng hoảng là một phần bản chất bất-toại-nguyện của đời sống.
Nhà triết lý chỉ đẩy tư tưởng của họ vào đường cùng. Triết lý hữu ích vì làm phong phú tinh thần và giảm thiểu những tín điều không cho mở mang tâm trí. Về mặt trên đây, Phật Giáo công nhận giá trị của triết lý, nhưng triết lý không thỏa mãn được sự khao khát về tâm linh.
Xin hãy nhớ mục tiêu chủ yếu của người Phật Tử là đạt thanh tịnh và giác ngộ. Giác ngộ đánh bại vô minh là gốc rễ của sanh tử. Tuy nhiên sự đánh bại vô minh đó không thể hoàn tất ngoại trừ bằng sự huân tập, lòng tin tưởng vào chính mình. Tất cả những nỗ lực khác - nhất là chỉ có tính cách học thức suông đều không hữu hiệu.
Vì thế Đức Phật kết luận: "Những câu hỏi siêu hình không đem lợi ích, không liên quan gì đến Pháp, không đưa đến giới hạnh, đến buông bỏ, đến chuyển hóa tham dục, hay đưa đến trầm lặng, an lạc, đến hiểu biết thực sự hay tuệ giác cao thâm hay đến Niết Bàn. (Kinh Malunkyaputta Sutta - Majjhima Nikaya). Thay vào việc luận đoán siêu hình, Đức Phật chú tâm chỉ dạy một hiểu biết thực tiễn về Tứ Diệu Đế mà Ngài khám phá ra:
Cái Gì là Khổ, Cái Gì là Nguyên nhân của Khổ, Cái Gì là Dứt Khổ, và Làm Sao Diệt Khổ để giác ngộ được sự giải thoát cuối cùng. Tất cả những Chân lý ấy toàn là những vấn đề mà bất cứ ai cũng có thể thực hành được, chứng nghiệm được và nhận định được nếu người đó thực sự muốn giải thoát.
Giác ngộ xua tan vô minh, đó là lý tưởng của đời sống người Phật Tử. Bây giờ chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng giác ngộ không phải là một hành động của trí thức. Luận đoán suông sẽ đi ngược lại giác ngộ và không đi đến sự tiếp xúc gắn bó với cuộc sống.
Cho nên tại sao Đức Phật đặt trọng tâm vào kinh nghiệm bản thân. Thiền định là một hệ thống khoa học thực tiễn để kiểm soát Chân Lý đến từ kinh nghiệm bản thân. Qua thiền định, ý chí cố gắng vượt lên khỏi điều kiện mà chính ý chí đã đặt lên chính nó, đó là sự tỉnh thức của tâm thức. Siêu hình học chỉ cột chúng ta xuống một khối tư tưởng và lời nói rối ren, mờ mịt.
ĐẠO PHẬT LÀ MỘT LÝ THUYẾT HAY MỘT TRIẾT LÝ?
Sự giác ngộ của Đức Phật không phải là một sản phẩm của trí năng đơn thuần.
Trong thời Đức Phật tại Ấn, có rất nhiều học giả theo đuổi kiến thức chỉ để nhằm lợi ích cho bản thân. Những người này đầy ắp hiểu biết về lý thuyết. Thật vậy, một số đi từ tỉnh, thành thị này đến phố thị khác để tranh luận so tài và nỗi vui mừng rộn ràng của họ là đánh bại được địch thủ trong các trận khẩu chiến này.
Đức Phật nói những người như vậy chưa gần được sự chứng ngộ chân lý vì mặc dù tài giỏi và kiến thức cao, nhưng họ vẫn chưa có trí tuệ thực sự để vượt khỏi tham, sân, si. Quả vậy, những người như thế thường tự đắc và khoa trương. Quan niệm ích kỷ của họ làm xáo động bầu không khí đạo giáo.
Theo Đức Phật, trước nhất ta phải tìm hiểu chính tâm ta. Phải làm công việc này bằng cách tập trung tâm định để đạt được trí tuệ thâm sâu hay sự thấu suốt. Tuệ giác này đạt được không phải bằng lý luận triết lý hay kiến thức thế gian nhưng bởi sự âm thầm quán chiếu cái "ta" ảo tưởng.
Phật giáo là lối sống đứng đắn đem bình an và hạnh phúc cho mỗi chúng sanh. Phật Giáo là một phương pháp loại bỏ lầm than tìm cầu giải thoát. Giáo lý của Đức Phật không giới hạn cho một quốc gia hay một chủng tộc nào. Giáo lý đó cũng chẳng phải là tín điều hay đức tin suông. Đó là giáo lý cho cả vũ trụ. Đó là giáo lý muôn thuở. Mục tiêu của giáo lý ấy là phục vụ bất vụ lợi, thiện chí, hòa bình, giải thoát và loại bỏ khổ đau.
Giải thoát trong Phật Giáo là một vấn đề cá nhân. Bạn phải tự cứu bạn cũng như bạn phải ăn, uống, ngủ nghỉ. Lời khuyên dạy của Đức Phật nhắm vào đường lối giải thoát, nhưng Ngài không bao giờ muốn những lời khuyên dạy ấy được tiếp nhận như một lý thuyết hay một triết lý. Khi người ta hỏi Ngài là Ngài chủ trương lý thuyết gì,
Ngài trả lời Ngài không thuyết giảng lý thuyết nào, và những gì Ngài thuyết giảng đều là kết quả của chính kinh nghiệm bản thân Ngài. Cho nên giáo lý của Ngài không cống hiến một lý thuyết nào. Lý thuyết không thể mang con người đến mức toàn hảo về tâm linh. Lý thuyết chính là cùm xích trói buộc tâm thức, cản trở bức tiến của tinh thần. Đức Phật dạy: "Người trí không đặt niềm tin vào những lý thuyết suông. Họ khó tin vào những gì họ chỉ thấy và nghe".
Lý thuyết là sản phẩm của trí năng, và Đức Phật hiểu rằng trí thức của con người có giới hạn. Ngài dạy rằng giác ngộ không chỉ do trí năng mà đạt được. Ta không thể hoàn tất được cuộc giải phóng bằng một lớp đào tạo trí năng. Câu trên đây có vẻ như không hợp lý nhưng đó là sự thật.
Những nhà trí thức dành quá nhiều thì giờ quý báu vào việc nghiên cứu, phân tích để phê phán và tranh luận. Họ thường bỏ rất ít thì giờ hay không có thì giờ cho việc tu tập.
Một tư tưởng gia uyên bác (nhà triết lý, khoa học, siêu hình học vân vân...) cũng có thể biến thành một nhà trí thức điên khùng. ông ta có thể là một nhà trí thức siêu việt với thiên phú lãnh hội ý kiến rất nhanh và có thể diễn tả tư tưởng rất rõ ràng.
Nhưng ông ta không chú ý đến hành động của chính ông ta và những hậu quả của nó, và nếu ông cứ miệt mài hoàn thành ước vọng và sở thích của mình bằng mọi giá, theo Đức Phật, ông là nhà trí thúc điên khùng, một người trí thức hạ đẳng. Một người như vậy sẽ tự ngăn chặn mức tiến bộ tâm linh của mình.
Giáo lý của Đức Phật chứa đựng việc thực hành trí tuệ không bị giới hạn vào lý thuyết hay triết lý vì triết lý chỉ đề cập đến kiến thức mà không chú trọng đến việc áp dụng kiến thức vào việc tu tập hàng ngày.
Phật Giáo đặt trọng tâm vào việc tu tập và chứng ngộ. Triết lý gia thấy những lầm than và thất vọng của đời sống, nhưng không giống như Đức Phật, họ không đưa ra giải pháp thực tiễn để vượt qua những khủng hoảng là một phần bản chất bất-toại-nguyện của đời sống.
Nhà triết lý chỉ đẩy tư tưởng của họ vào đường cùng. Triết lý hữu ích vì làm phong phú tinh thần và giảm thiểu những tín điều không cho mở mang tâm trí. Về mặt trên đây, Phật Giáo công nhận giá trị của triết lý, nhưng triết lý không thỏa mãn được sự khao khát về tâm linh.
Xin hãy nhớ mục tiêu chủ yếu của người Phật Tử là đạt thanh tịnh và giác ngộ. Giác ngộ đánh bại vô minh là gốc rễ của sanh tử. Tuy nhiên sự đánh bại vô minh đó không thể hoàn tất ngoại trừ bằng sự huân tập, lòng tin tưởng vào chính mình. Tất cả những nỗ lực khác - nhất là chỉ có tính cách học thức suông đều không hữu hiệu.
Vì thế Đức Phật kết luận: "Những câu hỏi siêu hình không đem lợi ích, không liên quan gì đến Pháp, không đưa đến giới hạnh, đến buông bỏ, đến chuyển hóa tham dục, hay đưa đến trầm lặng, an lạc, đến hiểu biết thực sự hay tuệ giác cao thâm hay đến Niết Bàn. (Kinh Malunkyaputta Sutta - Majjhima Nikaya). Thay vào việc luận đoán siêu hình, Đức Phật chú tâm chỉ dạy một hiểu biết thực tiễn về Tứ Diệu Đế mà Ngài khám phá ra:
Cái Gì là Khổ, Cái Gì là Nguyên nhân của Khổ, Cái Gì là Dứt Khổ, và Làm Sao Diệt Khổ để giác ngộ được sự giải thoát cuối cùng. Tất cả những Chân lý ấy toàn là những vấn đề mà bất cứ ai cũng có thể thực hành được, chứng nghiệm được và nhận định được nếu người đó thực sự muốn giải thoát.
Giác ngộ xua tan vô minh, đó là lý tưởng của đời sống người Phật Tử. Bây giờ chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng giác ngộ không phải là một hành động của trí thức. Luận đoán suông sẽ đi ngược lại giác ngộ và không đi đến sự tiếp xúc gắn bó với cuộc sống.
Cho nên tại sao Đức Phật đặt trọng tâm vào kinh nghiệm bản thân. Thiền định là một hệ thống khoa học thực tiễn để kiểm soát Chân Lý đến từ kinh nghiệm bản thân. Qua thiền định, ý chí cố gắng vượt lên khỏi điều kiện mà chính ý chí đã đặt lên chính nó, đó là sự tỉnh thức của tâm thức. Siêu hình học chỉ cột chúng ta xuống một khối tư tưởng và lời nói rối ren, mờ mịt.
Thanked by 1 Member:
|
|
#585
Gửi vào 11/11/2012 - 10:28
VÌ SAO TIN PHẬT
PHẬT GIÁO CÓ BI QUAN KHÔNG?
Phật giáo không bi quan mà cũng không lạc quan. nhưng là một tôn giáo thực tiễn.
Vài nhà phê bình cho Phật Giáo là bệnh hoạn, yếm thế, lẩn quẩn bên khía cạnh đen tối, u ám của cuộc sống, là kẻ thù của các lạc thú vô hại, dửng dưng chà đạp lên các thú vui hồn nhiên của cuộc đời. Họ coi Phật Giáo như bi quan, nuôi dưỡng thái độ vô vọng về cuộc đời, khuyến khích một cảm giác mơ hồ chung chung cho rằng đau khổ và tội lỗi chiếm ưu thế trong mọi công việc của con người.
Những lời chỉ trích này căn cứ vào cái nhìn của họ về Tứ Diệu Đế là mọi sự vật do duyên sinh đều trong trạng thái đau khổ. Hình như những người này quên rằng không những Đức Phật dạy nguyên nhân và sự chấm dứt khổ đau, mà Ngài còn dạy con đường để chấm dứt khổ đau. Trong bất cứ tôn giáo nào, thử hỏi có một đạo sư nào ca tụng cuộc đời trần tục và khuyên ta bám níu vào nó không?
Nếu Đức Phật, người khai sáng ra tôn giáo này là một người bi quan thì ắt hẳn họ muốn cá tính này phải được vẽ đậm nét hơn là trong chân dung đã có của Ngài. Hình ảnh của Đức Phật là hiện thân của Hòa Bình, Tịch Tịnh, Hy Vọng và Thiện Chí. Nụ cười rạng rỡ và lôi cuốn của Đức Phật mà có người cho là bí hiểm và khó hiểu, chính là cái toát yếu của giáo lý của Ngài.
Với những ai lo lắng và thất vọng, nụ cười giác ngộ và hy vọng của Ngài là liều thuốc bổ hiệu nghiệm và là niềm an ủi vô song.
Tình thương, lòng từ bi của Ngài tỏa khắp bốn phương. Một con người như vậy khó có thể là một kẻ bi quan. Khi các vua và hoàng tử chiến thắng bằng gươm đao, tưởng mình là hạnh phúc, được nghe lời giảng của Ngài, đã thức tỉnh và nhận thức được người chiến thắng thực sự chính là kẻ tự thắng lấy mình và con đường đắc nhân tâm là làm sao dạy cho người dân biết quý Phật Pháp - Chân Lý.
Đức Phật vận dụng tinh thần hài hước cao độ khiến những người chống đối gay gắt Ngài cũng phải bó giáo một cách hết sức là thoải mái. Đôi khi họ không nhịn được cười chính họ. Đức Phật có một loại thuốc bổ tuyệt diệu:
Ngài tẩy sạch hệ thống độc tố nguy hiểm của họ và họ trở nên vui vẻ, hứng thú theo gót chân Ngài. Trong những thời giảng Pháp, đối thoại hay bàn luận, Ngài luôn luôn giữ được tư thế đĩnh đạc và uy nghi khiến mọi người đều kính trọng và cảm mến Ngài. Làm sao một người như vậy là một kẻ bi quan được?
Đức Phật chẳng bao giờ muốn các đệ tử của Ngài phải băn khoăn lo lắng về cái đau khổ của cuộc đời và sống cuộc đời nghèo khổ bất hạnh. Ngài dạy sự thật của khổ đau và chỉ cách thức thoát khỏi khổ đau để tiến tới hạnh phúc. Muốn trở thành người giác ngộ, ta phải hoan hỷ, một trong những yếu tố cần thiết mà Đức Phật khuyên nhủ phải trau dồi. Hoan hỷ thì khó mà bi quan.
Có hai cuốn Kinh Phật Giáo, Theragatha và Therigatha (Trưởng lão tăng kệ và Trưởng lão ni kệ), chứa đầy những lời thật hoan hỷ của đệ tử Phật, phía nam cũng như phía nữ, tìm thấy an lạc và hạnh phúc trong cuộc sống nhờ giáo lý của Ngài. Vua Kosola có lần thưa với Đức Phật:
"Không giống như tín đồ của các hệ thống tôn giáo khác, trông họ hốc hác, thô lỗ, xanh xao, èo uột không gây thiện cảm, đệ tử của Đức Phật vui vẻ, phấn chấn, hớn hở, cởi mở, vui sống cuộc đời đạo lý, thanh thoát, an lạc, tâm trí linh hoạt, thư thái".
Vị Vua này còn thêm là ông tin rằng tính tình lành mạnh đó là do sự kiện, các vị tăng khả kính này chắc chắn đã chứng nghiệm được ý nghĩa cao cả và trọn vẹn Giáo Pháp của Đấng Thiên Thệ (Majjhima Nikaya - Trung Bộ Kinh).
Khi đưọc hỏi tại sao những môn đồ của Ngài sống một đời đạm bạc và trầm lặng, ngày chỉ ăn một bữa, mà sắc diện lại tươi sáng như thế. Đức Phật trả lời:
"Họ không nuối tiếc dĩ vãng, và cũng không lo lắng cho tương lai. Họ sống trong hiện tại. Vì thế họ rạng rỡ sáng tươi. Băn khoăn về tương lai, tiếc nuối quá khứ, kẻ thiểu trí sẽ khô héo như đám lau xanh bị phát ngang dưới ánh nắng mặt trời". (Samyutta Nikaya - Tương Ưng Bộ Kinh)
Là một tôn giáo, Đạo Phật dạy bản chất về bất-toại-nguyện của mọi sự vật trên thế giới. Tuy vậy chúng ta không thể đơn giản xếp loại Đạo Phật là một tôn giáo bi quan, vì Đạo Phật cũng dạy ta làm sao loại bỏ được bất hạnh này. Theo Đức Phật, ngay đến kẻ tội lỗi nhất, sau khi đền tội đã làm cũng có thể đạt giải thoát.
Đạo Phật hiến cho mọi người niềm hy vọng đạt được giải thoát một ngày nào đó. Tuy nhiên các tôn giáo khác cho rằng đương nhiên những người xấu thì sẽ xấu mãi mãi và địa ngục vô gián đang chờ đợi họ. Về mặt này, những tôn giáo như vậy mới thật là bi quan. Người Phật Tử không chấp nhận cách tin tưởng như vậy.
Đạo Phật không lạc quan mà cũng chẳng bi quan. Đạo Phật không khuyến khích con người nhìn đời qua cảm nghĩ luôn thay đổi lạc quan rồi bi quan của họ. Đúng hơn Đạo Phật khuyến khích chúng ta phải thực tế: Chúng ta phải tập nhìn sự vật đúng chúng là như vậy.
PHẬT GIÁO CÓ BI QUAN KHÔNG?
Phật giáo không bi quan mà cũng không lạc quan. nhưng là một tôn giáo thực tiễn.
Vài nhà phê bình cho Phật Giáo là bệnh hoạn, yếm thế, lẩn quẩn bên khía cạnh đen tối, u ám của cuộc sống, là kẻ thù của các lạc thú vô hại, dửng dưng chà đạp lên các thú vui hồn nhiên của cuộc đời. Họ coi Phật Giáo như bi quan, nuôi dưỡng thái độ vô vọng về cuộc đời, khuyến khích một cảm giác mơ hồ chung chung cho rằng đau khổ và tội lỗi chiếm ưu thế trong mọi công việc của con người.
Những lời chỉ trích này căn cứ vào cái nhìn của họ về Tứ Diệu Đế là mọi sự vật do duyên sinh đều trong trạng thái đau khổ. Hình như những người này quên rằng không những Đức Phật dạy nguyên nhân và sự chấm dứt khổ đau, mà Ngài còn dạy con đường để chấm dứt khổ đau. Trong bất cứ tôn giáo nào, thử hỏi có một đạo sư nào ca tụng cuộc đời trần tục và khuyên ta bám níu vào nó không?
Nếu Đức Phật, người khai sáng ra tôn giáo này là một người bi quan thì ắt hẳn họ muốn cá tính này phải được vẽ đậm nét hơn là trong chân dung đã có của Ngài. Hình ảnh của Đức Phật là hiện thân của Hòa Bình, Tịch Tịnh, Hy Vọng và Thiện Chí. Nụ cười rạng rỡ và lôi cuốn của Đức Phật mà có người cho là bí hiểm và khó hiểu, chính là cái toát yếu của giáo lý của Ngài.
Với những ai lo lắng và thất vọng, nụ cười giác ngộ và hy vọng của Ngài là liều thuốc bổ hiệu nghiệm và là niềm an ủi vô song.
Tình thương, lòng từ bi của Ngài tỏa khắp bốn phương. Một con người như vậy khó có thể là một kẻ bi quan. Khi các vua và hoàng tử chiến thắng bằng gươm đao, tưởng mình là hạnh phúc, được nghe lời giảng của Ngài, đã thức tỉnh và nhận thức được người chiến thắng thực sự chính là kẻ tự thắng lấy mình và con đường đắc nhân tâm là làm sao dạy cho người dân biết quý Phật Pháp - Chân Lý.
Đức Phật vận dụng tinh thần hài hước cao độ khiến những người chống đối gay gắt Ngài cũng phải bó giáo một cách hết sức là thoải mái. Đôi khi họ không nhịn được cười chính họ. Đức Phật có một loại thuốc bổ tuyệt diệu:
Ngài tẩy sạch hệ thống độc tố nguy hiểm của họ và họ trở nên vui vẻ, hứng thú theo gót chân Ngài. Trong những thời giảng Pháp, đối thoại hay bàn luận, Ngài luôn luôn giữ được tư thế đĩnh đạc và uy nghi khiến mọi người đều kính trọng và cảm mến Ngài. Làm sao một người như vậy là một kẻ bi quan được?
Đức Phật chẳng bao giờ muốn các đệ tử của Ngài phải băn khoăn lo lắng về cái đau khổ của cuộc đời và sống cuộc đời nghèo khổ bất hạnh. Ngài dạy sự thật của khổ đau và chỉ cách thức thoát khỏi khổ đau để tiến tới hạnh phúc. Muốn trở thành người giác ngộ, ta phải hoan hỷ, một trong những yếu tố cần thiết mà Đức Phật khuyên nhủ phải trau dồi. Hoan hỷ thì khó mà bi quan.
Có hai cuốn Kinh Phật Giáo, Theragatha và Therigatha (Trưởng lão tăng kệ và Trưởng lão ni kệ), chứa đầy những lời thật hoan hỷ của đệ tử Phật, phía nam cũng như phía nữ, tìm thấy an lạc và hạnh phúc trong cuộc sống nhờ giáo lý của Ngài. Vua Kosola có lần thưa với Đức Phật:
"Không giống như tín đồ của các hệ thống tôn giáo khác, trông họ hốc hác, thô lỗ, xanh xao, èo uột không gây thiện cảm, đệ tử của Đức Phật vui vẻ, phấn chấn, hớn hở, cởi mở, vui sống cuộc đời đạo lý, thanh thoát, an lạc, tâm trí linh hoạt, thư thái".
Vị Vua này còn thêm là ông tin rằng tính tình lành mạnh đó là do sự kiện, các vị tăng khả kính này chắc chắn đã chứng nghiệm được ý nghĩa cao cả và trọn vẹn Giáo Pháp của Đấng Thiên Thệ (Majjhima Nikaya - Trung Bộ Kinh).
Khi đưọc hỏi tại sao những môn đồ của Ngài sống một đời đạm bạc và trầm lặng, ngày chỉ ăn một bữa, mà sắc diện lại tươi sáng như thế. Đức Phật trả lời:
"Họ không nuối tiếc dĩ vãng, và cũng không lo lắng cho tương lai. Họ sống trong hiện tại. Vì thế họ rạng rỡ sáng tươi. Băn khoăn về tương lai, tiếc nuối quá khứ, kẻ thiểu trí sẽ khô héo như đám lau xanh bị phát ngang dưới ánh nắng mặt trời". (Samyutta Nikaya - Tương Ưng Bộ Kinh)
Là một tôn giáo, Đạo Phật dạy bản chất về bất-toại-nguyện của mọi sự vật trên thế giới. Tuy vậy chúng ta không thể đơn giản xếp loại Đạo Phật là một tôn giáo bi quan, vì Đạo Phật cũng dạy ta làm sao loại bỏ được bất hạnh này. Theo Đức Phật, ngay đến kẻ tội lỗi nhất, sau khi đền tội đã làm cũng có thể đạt giải thoát.
Đạo Phật hiến cho mọi người niềm hy vọng đạt được giải thoát một ngày nào đó. Tuy nhiên các tôn giáo khác cho rằng đương nhiên những người xấu thì sẽ xấu mãi mãi và địa ngục vô gián đang chờ đợi họ. Về mặt này, những tôn giáo như vậy mới thật là bi quan. Người Phật Tử không chấp nhận cách tin tưởng như vậy.
Đạo Phật không lạc quan mà cũng chẳng bi quan. Đạo Phật không khuyến khích con người nhìn đời qua cảm nghĩ luôn thay đổi lạc quan rồi bi quan của họ. Đúng hơn Đạo Phật khuyến khích chúng ta phải thực tế: Chúng ta phải tập nhìn sự vật đúng chúng là như vậy.
Thanked by 1 Member:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
![]() Câu truyện tử vi nhà Trần |
Tử Vi | maxmin |
|
![]() |
|
![]() tìm sách dịch học văn hóa cổ truyền |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | trongtri |
|
![]() |
|
![]() ![]() Văn khấn cổ truyền Việt Nam |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | danhkiem |
|
![]() |
|
![]() Truyện thần tiên- Cát Hồng |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | danhkiem |
|
![]() |
|
![]() Túc Kê Linh Quái (Phương pháp coi giò gà bí truyền) - Hồ Quang |
Tủ Sách | administrator |
|
![]() |
|
![]() Michelle Obama BẢO VỆ Gus Walz sau Khoảnh khắc DNC lan truyền với Bố Tim Walz |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
![]() |
1 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:
An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |
Quỷ Cốc Toán Mệnh |
Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |
Quẻ Mai Hoa Dịch Số |
Bát Tự Hà Lạc |
Thái Ât Thần Số |
Căn Duyên Tiền Định |
Cao Ly Đầu Hình |
Âm Lịch |
Xem Ngày |
Lịch Vạn Niên |
So Tuổi Vợ Chồng |
Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












