Jump to content

Advertisements




Truyện tâm linh - hiendde



831 replies to this topic

#301 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/07/2011 - 05:11

DU HÀNH QUA CÁC VÙNG TÂM THỨC

Chương Bốn

Samantha và Max: Sự đồng cảm.

Vài ngày trước khi tôi bắt đầu chương này, chú vợ tôi mất ở bệnh viện Miami vì bệnh ung thư. Vợ tôi và ông rất thân thiết, điều này quả là một thử thách đối với nàng. Tôi cũng thân thiết với ông lắm, nhưng không bằng nàng, vì vậy khi ông nằm ở bệnh viện tôi có đến thăm nhưng tôi lại ít chú ý đến ông. Tôi quan tâm đến nàng và những đứa con của ông đang đứng chung quanh ông nhiều hơn, vợ ông đã chết cách đây vài năm. Tôi có thể cảm nhận được nỗi buồn, nỗi đau đớn của họ. Đây là sự đồng cảm nằm trong con người tôi, một xúc cảm lớn lên theo tuổi tác, đến cấp độ đồng cảm mà chúng ta bị ảnh hưởng do sự chịu đựng những tình huống tương tự xảy ra trong cuộc đời.

Tôi bị mất một đứa con và một người cha, do đó tôi hiểu được nỗi đau trước cái chết của người thân yêu. Tôi dễ dàng hiểu được cảm xúc của những người trong phòng. Tôi biết nỗi đau buồn như thế nào, tôi cảm thấy mối quan hệ thân thích với tất cả mọi người, thậm chí dù tôi chỉ găp họ vài lần trong nhiều năm qua. Tôi đến với họ, an ủi họ và biết họ cũng chân thành và đồng cảm với tôi.

Đồng cảm với khả năng đưa bạn vào trong tình huống của người khác, để cảm nhận những xúc cảm của họ, để hiểu được hoàn cảnh, để nhìn xuyên thấu tâm trạng họ. Nếu chúng ta có được năng lực đồng cảm, chúng ta có thể kết nối với những người đang đau khổ, vui vẻ trong tình yêu của người khác, cảm thấy hài lòng với chiến thắng của một người nào đó, thông cãm với sự giận dữ của bạn bè và nỗi đau buồn của người không quen.

Đó là một đặc điểm mà khi chúng ta thấu triệt và dùng đúng cách, có thể giúp chúng ta tiến bộ hơn trong tương lai. Những người thiếu sự đồng cảm khó tiến hóa trong tâm linh. Nguyên tắc cốt lõi tạo nên sự đồng cảm là cái mà chúng ta liên hệ với nhau. Tôi hiểu điều này trong thời kỳ đỉnh điểm của chiến tranh lạnh, khi tôi xem phim về một người lính Nga. Họ đưa ra những tình tiết để tôi ghét anh ta, như những quy tắc anh ta làm hàng ngày: cạo râu, ăn sáng, tập trận.

Tôi nghĩ “hẳn là hắn hơn tôi vài tuổi. Có lẽ hắn cũng có vợ con thương yêu hắn. Có lẽ hắn bị bắt buộc đi lính cho tư tưởng chính trị của nhà cầm quyền nhưng hắn không ưa lắm. Người ta cho rằng hắn là kẻ thù của tôi, nhưng nếu nhìn vào mắt hắn, có phải tôi nhìn thấy chính mình?” Người lính Nga hôm qua và người lính Ả Rập hôm nay cũng giống bạn thôi. Họ có linh hồn và bạn cũng có linh hồn và tất cả mọi linh hồn chỉ là một. Trong những kiếp trước, chúng ta đã thay đổi sắc tộc, giới tính, tình hình kinh tế, điều kiện sống và tôn giáo.

Chúng ta cũng sẻ thay đổi được tất cả điều này trong tương lai. Vì vậy, nếu chúng ta ghét bỏ, chiến đấu, giết hại thì chúng ta sẽ tự ghét bỏ mình, chiến đấu và giết hại chính mình. Đồng cảm dạy cho ta bài học này. Đó là một cảm giác mà chúng ta được đặt vào như thế nào để học hỏi, một khía cạnh chính cho việc chuẩn bị sự bất diệt của chúng ta. Đây thật sự là bài học khó vì chúng ta phải có kinh nghiệm tinh thần lẫn thể xác; một tinh thần và thể xác bị đau đớn, bị dằn vặt, có những mối quan hệ khó khăn, có kẻ thù, bị mất mát, đau thương.

Vì vậy, chúng ta mang khuynh hướng bỏ quên những người khác và chỉ chú tâm đến bản thân mình. Tuy nhiên chúng ta còn có tình yêu, nét đẹp, âm nhạc, nghệ thuật, khiêu vũ, thiên nhiên và bầu khí quyển là những gì chúng ta mong muốn chia sẻ với người khác. Chúng ta không thể chuyển đổi tiêu cực thành tích cực và thiếu sự đồng cảm, chúng ta không hiểu thấu đáo sự đồng cảm, nếu thiếu những kinh nghiệm trong tất cả cuộc đời ở hiện tại, quá khứ, và tương lai.

Samantha đã có những kinh nghiệm đó và nó hoàn toàn làm thay đổi cuộc đời cô. Samantha là một cô gái mảnh mai, cân nặng dưới 50 ký lô. Cô đến văn phòng tôi vào một buổi sáng tháng hai. Cô ngồi co ro, hai tay ôm chặt dạ dày như thể giữ chặt sự đau đớn. Cách ăn mặc của cô cũng rất đơn giản: quần jeans, áo len cổ chui. Cô không đeo nữ trang thậm chí cũng không đeo đồng hồ. Tôi nghĩ có lẽ cô vừa lên cấp 3, mặc dù qua vài câu hỏi đầu cô trả lời rất thờ ơ, vừa đủ nghe rằng cô đã 19 tuổi và đang là sinh viên năm thứ nhất. Cha mẹ đưa cô đến đây vì cô đang bị đau khổ bởi sự lo lắng kinh niên và thất vọng trầm trọng.

Cô nói với một giọng yếu ớt và tôi phải hết sức cố nghe.

- Tôi không ngủ được.

Thật tình mắt cô nhòa lệ và đỏ ngầu. Tôi hỏi:

- Cô biết tại sao không?

- Tôi lo là mình sẽ thi rớt các khóa học.

- Tất cả các khóa?

- Thưa không, chỉ môn toán và môn hóa.

- Tại sao không chọn môn khác?

Tôi cau mày. Thật là câu hỏi ngớ ngẩn. Đó là những khóa học cô đã chọn. Rõ ràng cô đang nổi giận.

- Các môn đó là điều kiện bắt buộc.

- Cho trường Y?

Lẽ ra tôi phải biết điều này. Đó là trọng tâm trong những năm đại học của tôi.

- Dạ đúng, tôi phải nghiền nát môn toán SAT.

- Vậy là cô muốn trở thành bác sĩ?

Tôi biết có vẻ nhàm chán nhưng tôi phải tìm kiếm một điểm đi nào, một điều gì đó có thể kích động cô gái trẻ đầy thất bại đang ngồi trước mặt tôi. Cuối cùng thì cô cũng ngẩng đầu lên và chạm vào mắt tôi:

- Hơn bất cứ điều gì, tôi phải trở thành bác sĩ.

- Cô không thể vào trường Y nếu cô không vượt qua môn toán và hóa.

Cô gật đầu. Đôi mắt cô đã nắm bắt được một mối liên hệ. Tôi nhận ra vấn đề khó khăn của cô, và đây chính là cái điểm cho cô một ít hy vọng.

- Hãy kể cho tôi nghe có phải cô gặp những khó khăn trong môn toán và các môn khoa học ở trường phổ thông?

- Một chút.

Cô ngừng giây lát.

- Không, rất nhiều, dù có thể ông không biết gì về SAT.

Tôi không biết cô có bị sức ép quá nặng của cha mẹ.

- Ba mẹ cô có muốn cô trở thành bác sĩ không?

- Cha mẹ chiều theo ý tôi. Ông bà rất tuyệt vời. Tôi không thể có người cha người mẹ nào tốt hơn. Ông bà mời cô giáo về nhà dạy kèm cho tôi. Nhưng cô không giỏi lắm. Tôi chỉ nhìn những con số và những công thức rồi tôi mụ người đi.

Cô nói, giọng đầy nhiệt tình, đam mê, đó là những gì mà lần đầu tôi thấy cô gái Samantha đặc biệt này biểu lộ. Sức ép dường như không phải nơi cha mẹ cô mà là bên trong tâm trí cô. Tôi chắc rằng cảm giác thất bại không quá thâm căn cố đế đến nỗi cô không thể vượt qua.

- Và bây giờ cô cảm thấy cô đang làm ba mẹ thất vọng?

- Dạ đúng. Điều này làm tôi khốn khổ. Tôi cũng làm em trai tôi thất vọng. Sean mới 11 tuổi bị yếu tim nên cần được chăm sóc cẩn thận. Thật sự chính bản thân tôi đang làm cho mọi người thất vọng. Bác sĩ có biết không, khi tôi vào phòng thi, thậm chí chỉ là cuộc thi đố rất đơn giản, trước khi ngồi xuống tôi bắt đầu run rẩy và toát mồ hôi. Tôi bổng hoảng sợ và muốn bỏ chạy ra ngoài. Đã có một lần tôi bỏ chạy khỏi phòng thi và về phòng nằm thổn thức.

- Rồi sao nữa?

- Tôi nói với họ là tôi bị bệnh, và họ sẽ cho tôi thi lại giữa học kỳ môn tôi thi rớt tháng trước, và tôi sẽ lại rớt nữa. Thi rớt, thi rớt và thi rớt.

Không thể kiềm chế, cô bật khóc trong đau khổ tột cùng do nén cơn tuyệt vọng từ nhiều tháng qua. Tôi để yên cho cô khóc, không có cách nào để ngăn được, nhưng rồi những giọt nước mắt này dừng đột ngột làm tôi sửng sờ. Cô cố tạo một nụ cười khả ái nhưng thiểu não:

- Tôi thật lộn xộn. Cả đời tôi cứ xuôi theo những ống tuýp. Xin hãy giúp tôi.

Tôi biết rằng, tôi và cô phải tìm ra nguyên nhân do trở ngại của cô. Có lẽ cô năm ở một kiếp sống khác. Tôi nghĩ là phải đưa cô về lại quá khứ để tìm kiếm, nhưng tôi muốn tìm hiểu kỹ trước khi bắt đầu.

- Trong những môn học khác thì điểm số của cô thế nào?

- Điểm A rất nhiều. Tôi đâu có dốt.

- Không, tôi không nghĩ vậy. Thôi được rồi chúng ta chỉ nói đến giả thiết thôi, nếu cô không thể vượt qua môn toán và hóa, cô phải chọn một tương lai khác. Điều đó có quá khủng khiếp không?

Cô bình tĩnh trả lời:

- Có lẽ không thể được.

- Không hẳn vậy. Cô hãy còn quá trẻ. Có hàng triệu con đường mở ra trước mặt cô.

Cô hỏi lại:

- Bác sĩ không hiểu? Duy chỉ có một.

- Tại sao?

- Vì tôi đã nhìn thấy tương lai tôi. Tôi nhìn thấy nó trong giấc mơ.

Tôi giật thót người:

- Cô đã nhìn thấy nó?

Giá mà cô chia sẻ sự phấn khích của cô, cô không biểu lộ gì.

- Vâng, nhưng tôi không biết nó sẽ xảy ra như thế nào hoặc là nếu tôi không thể vượt qua kỳ thi.

- Làm sao cô chắc là giấc mơ thật sự là tương lai của cô, chắc là những gì cô thấy sẽ xảy ra?

- Vì tôi đã từng thấy giấc mơ của mình xảy ra.

Nỗi buồn nhè nhẹ trong giọng cô:

- Duy chỉ lần này có thể nó không xảy ra. Một cái gì đó ngăn nó lại.

Cô đi quá nhanh. Tôi nói:

- Hãy quay lại một lát. Cho tôi ví dụ về giấc mơ đã xảy ra.

- Tôi mơ thấy bạn tôi, Diana bị thương vì đụng xe. Hai tuần sau nó bị tai nạn giống như tôi đã thấy trong giấc mơ. Một chiếc xe khác đụng vào xe nó khi nó ngừng ở giao lộ.

Cô run bắn người lên:

- Thật kỳ quái.

Cô miêu tả những giấc mơ được biết trước: một tai nạn leo núi, và một chuyến kinh doanh của cha cô, ông đã về nhà sớm hơn dự định. Rất nhiều người cũng có những giấc mơ được tiên liệu trước như vậy, nhìn thấy những sự kiện sắp xảy ra. Tôi đã đối mặt với những giấc mơ đó vài lần trước, nhưng giấc mơ về tương lai của Samantha rõ ràng hơn, sống động hơn, tỉ mỉ hơn. Cô không chỉ nhìn một việc xảy ra mà là cuộc đời sau này đầy đủ chi tiết.

Cô bắt đầu kể:

- Tôi đang học trường Y. Đó là một trường Đại học tuyệt vời, vì vậy có rất nhiều bãng điểm cho nhiều sinh viên khác. Đó là ngày tốt nghiệp. Tháng Sáu. Chúng tôi ngồi trên khán đài, còn ông Hiệu trưởng thì đang trao bằng tốt nghiệp. Rất đông người tham dự, phụ nữ mặc váy hoa xếp ly. Có lẽ trường Đại học này ở miền Nam. Cờ bay phấp phới trong cơn gió nóng nhè nhẹ. Ba mẹ tôi đứng ở hàng đầu, và tôi có thể nhìn thấy ba mẹ đang tươi cười với tôi, hãnh diện về tôi như chính bản thân tôi cũng đang rất hãnh diện. Ông Hiệu trưởng gọi tên tôi, ông tuyên bố tôi đã tốt nghiệp với một phần thưởng xuất sắc.

Tôi bước lên bục nơi ông đang đứng, ông trao cho tôi bằng tốt nghiệp được cuộn tròn và cột ruy băng. Những người tham dự reo hò chúc mừng, không chỉ có ba mẹ tôi mà tất cả. Các sinh viên khác cũng chúc mừng tôi. Tôi tràn đầy sung sướng hạnh phúc. Tôi trở về chổ ngồi và mở dây nơ xem bằng. Đó là điều tuyệt vời nhất tôi từng thấy, tên tôi được in chói lọi như đèn đỏ sáng và..

Cô bắt đầu khóc, nước mắt trào như dòng suối.

- Điều này sẽ không xảy ra. Có lẽ tôi nên xin phép nghĩ học, rời khỏi trường trước khi tôi thi rớt, như vậy nó sẽ không ghi lại trên hồ sơ của tôi. Có lẽ tôi nên kết hôn với một bác sĩ.

- Có thể cô sẽ không phải làm điều này. Có lẽ chúng ta nên tìm ra chổ nào mà sự trở ngại sẽ xảy ra.

- Còn giấc mơ nào khác.

- Vài năm sau, tôi đã là bác sĩ, tôi đang đi bộ trong hành lang bệnh viện, từ phòng bệnh này qua phòng bệnh kia. Bệnh nhân nhi. Tôi là bác sĩ khoa nhi. Đó là điều mà tôi luôn luôn ao ước. Tôi yêu trẻ con và rõ ràng là chúng cũng thích tôi, mỗi một đứa trẻ, từ đứa nhỏ nhất hoặc bệnh nặng nhất rất vui vẻ gặp tôi. Tôi thấy hài lòng vì chuyên môn mình rất giỏi để giúp chúng. Một đứa bé trai nắm lấy tay tôi, tôi ngồi bên nó cho đến lúc nó ngủ quên.

Giấc mơ có thể là mọi chuyện: kỳ thú, giấc mơ tiên đoán, giấc mơ của tương lai, hoặc là một ẩn dụ chứ không có gì với thuốc men cả. Nhưng chắc chắn là đúng với Samantha. Cô trở nên buồn hơn khi cô liên tưởng đến giấc mơ thứ hai, bởi cô cảm thấy một rào chắn giữa tương lai và hiện tại, có một trái núi sừng sững của môn toán và môn hóa chặn cô lại. Cô không thể tìm cách nào để vượt qua đó.

Chúng tôi lên kế hoạch cho vài đợt điều trị phụ thêm nhanh chóng bởi vì cô phải quyết định ở lại trường hay không. Nếu cô thi rớt, cô không thể ở lại trường. Tôi biết rằng các bác sĩ phải khách quan nhưng tôi cảm thấy có sự lôi cuốn đặc biệt với Samantha. Cô làm tôi nhớ đến con gái tôi, Amy, nó cũng có những giấc mơ riêng của nó, một tương lai tươi sáng.

Hai ngày sau Samantha quay trở lại. Lúc cô đã đi sâu vào trạng thái bị thôi miên, tôi hướng cô đi theo con đường tương lai tốt nhất. Rất chính xác, chuyện tốt nghiệp tại trường Y và cảnh tượng một bác sĩ nhi đầy hãnh diện xuất hiện trở lại, lần này các chi tiết thậm chí rõ ràng hơn, từ cái kẹp màu xanh đính vào áo đồng phục cho đến mùi nước khử trùng dọc theo hành lang bệnh viện.

- Đây là tương lai tôi.

Cô tự tin nhấn mạnh, tôi yêu cầu cô khai thác phần điều chỉnh trong đời sống hiện tại. Cô không được khuyên can, bất kể toán và hóa. Đợt thực hành này không thay đổi cảm giác thất vọng của cô, nhưng dường như nó khuyến khích cô ở lại trường và tiếp tục phép trị liệu. Dù sao cũng có chút hy vọng hơn, và cảm giác mạnh mẽ về giấc mơ tương lai của cô đã nhận ra. Sự cấp bách và sợ hãi vẫn còn hiện diện, nhưng giờ đây cô bắt đầu nhẫn nại hơn, có một sự kiên quyết sẽ tiến triển. Cô lập đi lập lại nhiều lần:

- Tôi sẽ làm được.

Nếu cô tin thì tôi cũng tin như vậy. Vào đợt thực nghiệm sau khi cô đã đi sâu vào trạng thái bị thôi miên, tôi đưa cô trở về một kiếp quá khứ. Samantha kể:

- Tôi nhìn thấy một người đàn ông. Anh ta không phải tôi, nhưng dĩ nhiên anh ta là tôi. Anh ta là một kiến trúc sư, chuyên thiết kế những tòa nhà công cộng và lâu đài cho vua. Anh ta là bậc thầy về mối tương quan trong không gian, và cách trang trí theo hình học. Nhưng những toà nhà này rất đặc biệt. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất mà anh đã từng nhận. Thiết kế của chúng rất phức tạp và anh lo lắng anh sẽ không làm đúng. Phần tính toán rất khó mà anh thì chưa tìm được bài giải.

Ồ, tôi thấy tội cho anh ta quá, không cho tôi. Anh ta còn là một nhạc sĩ rất khá, hàng đêm thường thổi sáo để làm dịu tâm hồn mình. Nhưng đêm nay âm nhạc không làm anh ta khá hơn. Anh ta căng thẳng và vật lộn với vấn đề, nhưng lời giải vẫn chưa ra. Tội nghiệp anh ta quá. Nếu anh ta không thể... Cô dừng giữa câu, gương mặt biểu lộ một sự hoang mang. Mắt cô vẫn nhắm.

- Chờ một chút. Tôi không còn ở Hy Lạp nữa mà ở Rome. Đó vào khoảng vài trăm năm sau. Có một người đàn ông khác. Một kỹ sư xây dựng. Lại là tôi, không phải tôi. Anh ta thiết kế những tòa nhà, những cây cầu, đường cao tốc, ống thoát nước. Anh ta rành về thành phố và chất lượng các vật liệu mà anh ta xài, biết rõ là phải như thế nào để đảm bảo những công trình anh ta xây dựng sẽ bền chắc mãi mãi. Anh ta cũng là một chuyên gia toán học. Anh ta được cho là người giỏi nhất. Anh ta thật sự là người giỏi nhất. Tôi có thể khóc vì rất sung sướng cho anh ta.

Trong lần trở về đầu tiên chẳng có gì bất thường khi một kiếp này cắt ngang kiếp khác, vì vậy tôi cũng chẳng ngạc nhiên khi Samantha nhảy từ một kiếp ở thời kỳ Hy Lạp rồi đến La Mã. Và những gì thấy được qua hai kiếp cũng không gì đáng kể lắm. Không có sự sáng suốt của năng lực tâm linh, không một chút gì là bi kịch, hoặc chấn thương về tinh thần, hoặc thảm họa, những sự kiện cho chúng ta hiểu được sự trở ngại của cô trong kiếp hiện tại. Nhưng dẫu sao hai lần trở về cũng hết sức quan trọng bởi vì Samantha đã có khả năng liên kết lại cảm xúc và bãn thân, giữa một kiến trúc sư Hy Lạp đầy hoang mang và một anh kỹ sư xây dựng giỏi giang.

Cô đã đồng cảm với họ. Cô thấu hiểu nỗi lo lắng của chàng kiến trúc, và vui sướng với anh kỹ sư do cô đã trải qua cảm giác sung sướng như vậy khi cô mơ thấy tương lai. Thực tế cô đã đồng cảm với chính bản thân cô. Cô biết cô đã là một anh chàng kiến trúc, một anh kỹ sư, và điều đó quá đủ để cô vượt qua triệu chứng trong hiện tại. Về một ý nghĩa nào đó, cô đã sẳn sàng nắm giữ một năng lực toán học và khả năng giải quyết vấn đề, cô đã học từ những kiếp trước.

Ngay lập tức tôi có thể nhìn thấy sự nhận thức mới về bản thân cô, được chuyển sang trang khác từ những kinh nghiệm của chuyến trở về quá khứ. Cô bắt đầu tự tin hơn trong lời nói và tác phong. Hình tượng riêng của cô đã hoán chuyển. Tôi suy tưởng sự trở ngại đã sớm biến mất trong cô, và đúng là sự thay đổi trong nhận thưc của cô, đã tự biểu hiện hầu như tức thì, với niềm hân hoan hiểu biết về những khái niệm của toán học và hóa học mà cô đã không thể nhớ ra.

Với sự giúp đỡ tiếp tục của gia sư, điểm toán và khoa học của Samantha đã từ từ nâng lên ngay ở đợt thi kế tiếp, và sự tăng cường tích cực từ những điểm số đã đưa niềm tự tin của cô cao hơn. Tôi vẫn thường xuyên gặp cô hầu như cả một năm, khi kết thúc trị liệu tôi cam đoan với cô rằng, cô sẽ đạt được triển vọng của những giấc mơ. Hết năm thứ nhất đại học, cô đến gặp tôi, hét toáng lên:

- Tôi đã làm được rồi!

Tôi biết rõ cô muốn nói gì nhưng lại để cô giải thích thêm:

- Làm được gì?

- Vào trường Y.

Hoàn toàn hài lòng, tôi nói:

- Tốt quá rồi. Học ở đâu?

Ánh mắt lấp lánh với nụ cười toe toét tinh quái, cô nói:

- Bác sĩ Weiss, giấc mơ về tương lai cũng không hoàn toàn chính xác. Tôi không học ở trường miền Nam. Tôi sẽ học ở Cornell.

Samantha, một bác sĩ đầy triển vọng, đã chia sẻ sự đồng cảm của bản thân mình trong những kiếp quá khứ và tương lai. Max, một bác sĩ có kinh nghiệm, chia sẻ sự đồng cảm với người khác trong kiếp quá khứ, vì vậy anh đã nhìn thấy kiếp sau, và đã chuyển đổi kiếp hiện tại. Lần đầu khi gặp hắn, tôi thấy hắn rất đáng ghét, nói thẳng ra là như vậy, thậm chí nhiều bác sĩ đưa ra những xét đoán vội vàng ngay lần gặp đầu tiên, và tôi cũng không phải là người duy nhất không thể chịu đựng được hắn.

Hắn là bác sĩ ở bệnh viện kế bên, nhiều bệnh nhân và bạn đồng nghiệp của hắn cũng có nhận xét giống như tôi. Thật ra là do một bạn đồng nghiệp, cô Besty Prager, nhà tâm lý học, đã đưa hắn đến gặp tôi để điều trị. Cô cho rằng điều trị ở chỗ tôi sẽ tốt hơn ỡ chổ cô. Cô nói rằng nhân viên trong bệnh viện đề nghị hắn rất nhiều, là nên theo phép trị liệu. Hắn đến giống như một cơn gió đột ngột của mùa hè, những cơn gió và sức nóng cao độ, tiến đến bàn tôi trong tình trạng băn khoăn và tuyên bố:

- Tôi không nên đến đây. Có cần thiết gì chứ. Đám lãnh đạo khốn kiếp nói tôi phải nhỏ nhẹ. Đáng ra chúng phải bị sa thải. Chúng không cho tôi làm công việc của tôi.

Dáng người hắn cao ráo, một người đàn ông ở tuổi ba mươi tám với khuôn mặt đỏ cằm rộng, tóc nâu lưa thưa rối bù và đôi mắt lóe sáng đầy giận dữ, mặc áo quần màu nâu nhạt rộng thùng thình và cái áo Hawaiian. Hắn nhìn tôi như thể tôi là anh chàng ở quầy rượu chứ không phải là thầy thuốc. Hắn tiếp tục càu nhàu:

- Chúa ơi, con mụ y tá trực đêm. Một mụ đàn bà điển hình. Bệnh nhân của tôi là một người có hạng thuộc gia đình anh hùng quý tộc, bị viêm màng não. Đêm đó tôi tạt qua chỗ mụ. Anh ta đang nôn ói. Mụ không chịu bỏ điện thoại. Tôi hét lên kêu mụ tắt máy. Mụ than van con mụ đang bệnh. Cơ hội béo bở. Khi mụ cúp máy, tôi cho mụ ngay cơ hội dó, tôi dọa đánh mụ nát óc.

- Xảy ra lúc nào?

- Tuần rồi. Con mụ đi thưa tôi. Tôi đoán đó là lý do bác sĩ Prager điện thoại cho ông.

Tôi hỏi nhẹ nhàng:

- Ông dọa cô ta lúc mấy giờ?

- Nửa đêm. Có thể khuya hơn.

- Anh còn làm gì ở bệnh viện khuya vậy?

- Công việc của tôi. Chăm sóc bệnh nhân.

- Bác sỉ Prager kể rằng anh thường thức khuya và mệt mỏi, anh đãm trách các ca trực mà bác sĩ nội trú hoặc bác sĩ thực tập nội trú có thể đãm nhận.

- Đúng vậy, nhưng bộ óc của họ ở mông chứ không phải ở trên đầu.

Hắn tựa cằm lên bàn nhìn tôi đầy tự tin:

- Ông biết như thế nào không? Ông không thể tin họ. Tôi bảo họ ghi chép những chi tiết nhỏ nhặt nhất nhưng họ dường như luôn luôn làm rất tệ. Họ bỏ mặc bệnh nhân, không chăm sóc họ. Khi tôi làm việc tại bệnh viện Mount Sinai, hầu hết các bác sĩ nội trú và thực tập nội trú đầu rất tận tâm và xuất sắc, nhiệt tình học hỏi và giúp đỡ. Tôi đã từng biết về họ, tôi tin tưởng họ vượt qua giới hạn hiểu biết. Làm sao bệnh viện của hắn có thể khác được? Tôi hỏi hắn:

- Anh bị đuối sức vì cường độ công việc?

- Đôi khi.

Hắn thú nhận và cuối cùng ngồi xuống. Hắn có vẻ rất thích cái ghế, nó tạo cho hắn cảm giác thư giãn mặc dù một chân của hắn chà qua chà lại trên sàn nhà. Rồi hắn lại bối rối:

- Dĩ nhiên tôi rất mệt mỏi. Ai mà không mệt chứ? Nếu ông biết mức độ kém cỏi mà tôi nhìn thấy hàng ngày, có lẽ ông rất khó chịu. Cho liều thuốc sai, chẩn đoán sai. Chế độ ăn kiêng sai. Bất lịch sự, hỗn xược, sàn nhà đầy vết bẩn kinh tởm, lập đồ thị sai bét..

Giọng hắn nhỏ dần rồi bối rối ngừng lại giống như động cơ bị tắt máy. Tôi khuyến khích:

- Gây nguy hiểm cho bệnh nhân?

Động cơ nổ lại:

- Ông biết chắc rồi đó, gây nguy hiểm cho họ! đôi khi..(hắn lại tựa cằm nhìn tôi, giọng hắn nhỏ dần như thì thầm)..họ chết.

Vâng, vài bệnh nhân chết. Có lẽ người đàn ông bị viêm màng não đã chết. Nhưng rất ít cái chết có thể đỗ lỗi vì điều trị sai tại bệnh viện, hoặc hành động phi pháp của ngành y. Ung thư gây chết. Vi khuẩn gây chết. Tai nạn giao thông gây chết. Tôi nói:

- Nhưng mà điều đó đâu thể tránh được.

- Không phải với bệnh nhân của tôi.

Giọng nói hết sức quả quyết và quá ngạo mạn làm tôi phải chùng lại.

- Chắc chắn là vài người trong số họ. Bệnh nhân ung thư. Bệnh già. Nạn nhân bị đột quỵ.

Điều lạ lùng bỗng nhiên xuất hiện, hắn khóc rưng rức.

- Đúng vậy. Mỗi lần nó xãy ra tôi muốn tự sát. Tôi yêu thương từng người bệnh. Khi họ chết tôi muốn chết theo họ. Điều đó xé nát lòng tôi.

- Anh không nên tự dày vò mình.

Tôi bắt đầu..nhưng rồi từ bỏ ý định phủ nhận hay an ủi hắn.

- Ông biết ai là người tôi tức giận nhất không?

Hắn nức nở:

- Chính tôi.

Chúng tôi tiếp tục trong tâm trạng này cho đến hết buổi gặp gỡ. Hóa ra hắn bị ám ảnh về từng chi tiết trong sự chăm sóc y tế cho bệnh nhân, dù là không nằm trong khía cạnh khác của cuộc đời hắn. Tôi đoán rằng đầu tiên bệnh nhân thích sự quan tâm của hắn, nhưng rồi vài người trong số họ tỏ ra phẫn nộ vì sự quan tâm đó, bởi chắc hẳn họ bị cảm giác lo âu gắn chặt vào sự ám ảnh của hắn. Hắn cũng dể xúc động để dính líu quá mức vào bệnh nhân. Như vậy, sự quan tâm này có lẽ được chào đón ngay lúc ban đầu, trước khi hắn lảng vảng gây hồi hộp cho họ.

Max đau khổ bên cạnh bệnh nhân. Sự lo lắng của hắn đối với bệnh nhân trở thành nỗi tuyệt vọng và hối hận nếu họ không hồi phục được. Mỗi trở ngại là lỗi của hắn, và mỗi cái chết là điều không thể tha thứ được. Khi chúng tôi đã hiểu nhau, hắn kể cho tôi nghe hắn đã tự kê đơn thuốc chống giãm hoạt động thần kinh, khi nỗi đau tình cảm trở nên quá lớn. Hắn bắt đầu đau ngực và hoảng sợ, chạy đến bác sĩ tim mạch. Vị bác sĩ này không tìm thấy gì cả, dù ông đã kiểm tra một loạt xét nghiệm. Cơn đau vẫn dai dẳng, đôi lúc có giảm đi chút ít.

Không thể giao nhiệm vụ cho người nào cả, đặc biệt là qua điện thoại, Max đến bệnh viện thường xuyên hơn mức cần thiết, hắn cho rằng để bảo đảm mọi người an toàn. Với cách làm như vậy, hắn còn thời gian dành cho gia đình. Ngay khi ở bên cạnh họ hắn cũng phá tan niềm vui của họ, bởi tâm trạng bất thường và những trận tam bành đột ngột của hắn. Lúc này tôi cảm thấy tội nghiệp cho hắn.

Max nói hững hờ:

- Tôi mong là bệnh nhân của tôi sẽ khỏe hơn.

Tuy vậy, hắn cũng không hài lòng khi họ khỏe lại. Niềm vui của người bệnh không hòa nhập với hắn. Trường hợp của Max hầu như không phải trường hợp của người thầy thuốc cảm thấy có quyền hạn và bằng cách nào đó mong đợi sự hoàn hảo với các bệnh nhân của mình. Mỗi lần bệnh tình của họ xấu đi hắn không còn tự tin ở chính mình, hắn nghĩ mình không xứng đáng với hai chữ “bác sĩ”. Tất cả sự hung hăng hão, lời chửi mắng, hoặc những cơn thịnh nộ của hắn chỉ là để che dấu một sự thật nằm sâu trong lòng: hắn rất sợ hãi.

Triệu chứng về tâm lý của Max rất nguy hiểm, thậm chí đe dọa tính mạng. Sau khi thăm dò cẩn thận cả hai phía chúng tôi, nguyên nhân sự cùng quẫn của hắn có vẻ như không nằm ỡ hiện tại hoặc ở thời thơ ấu. Tôi giải thích về phép trị liệu trong kiếp quá khứ, bất kể là thật hay chỉ là một ẩn dụ, một biểu tượng, hoặc sự tưởng tượng, điều đó không phải là điểm chính, mà việc trị lành bệnh mới là chủ yếu, và nhiều bệnh nhân của tôi cũng đã khỏi bệnh. Tôi đề nghị hắn:

- Anh có muốn thử không?

- Có mà điên, không! Tôi sẽ thấy mình từng là kẻ giết người bằng búa tạ.

Không hẳn là vậy, nhưng tôi cũng không thích lý sự với hắn:

- Vậy anh có thích đi đến tương lai không?

Hắn sáng rỡ:

- Được đó, chắc chắn sẽ tốt hơn bây giờ.

Theo lôgic, óc bên trái của bệnh nhân, ví dụ như của bác sĩ hay luật sư, thì đưa đến tương lai dễ hơn là trở về quá khứ. Dẫu sao họ cũng hiểu đó chỉ là sự tưởng tượng. Tuy nhiên trong việc thực hiện cũa tôi, nhiều hơn sự tưỡng tượng thường tuôn chảy về phía trước. Thân thể của Max nhanh chóng thư giãn, và anh ra đi vào một mức độ sâu hơn, khoảng thời gian nghỉ ngơi thoải mái, tránh đi công việc hằng ngày. Nó không kéo dài lâu để cho hình ảnh rõ ràng xuất hiện. Anh thấy mình là thầy của nhiều bác sĩ, một thầy thuốc trong tương lai gần, bao quanh là sinh viên ỡ trong một loại giảng đường vòng cung. Anh ta kể:

- Công việc rất tốt. Hầu hết họ là bác sĩ giỏi hơn tôi, nhưng tôi có khả năng vượt qua thân thể để đến sự xúc cảm. Tôi hướng dẫn cho họ làm cách nào để tách ý thức ra khỏi thể xác, vì vậy chúng tôi hiểu được kết cấu của việc điều trị bằng tâm linh. Ông biết không, ý thức đi từng chặng. Đầu tiên nó lởn vởn trên thân thể vật lý, nhớ lại cuộc sống xúc cảm của nó và chuẩn bị bước đi cao hơn. Rồi nó cũng rời bỏ thân thể vật lý đó lại phía sau, suốt thời gian đó càng lúc càng trở nên sáng hơn.

Trong giai đoạn này tôi gọi là “thể xác trí tuệ”. Cuối cùng nó chia tay cõi này và tự do chỉnh sửa sự dao động tự nhiên của nó đến nhiều hoạt dộng, do đó nó có thể đi đến những giai đoạn thậm chí cao hơn. Anh ta quay đầu về phía tôi rất nghiêm nghị dạy tôi như là học trò của anh ta trong tương lai, tuy nhiên trong tình trạng bị thôi miên anh ta không nhận ra sự hiện diện thật sự của tôi.

Khi chúng tôi hiểu bốn giai đoạn dó ảnh hưởng qua lại với nhau như thế nào, những manh mối điều trị tâm sinh lý trên bình diện vật chất dễ dàng khám phá, phân tích và áp dụng. Đây là lãnh vực nghiên cứu của tôi, và nó sẽ mãi mãi thay đổi y học. Tôi gọi tên khóa học là điều trị đa phương pháp của tất cả năng lực thân thể. Anh ta miêu tả quá rõ ràng và chứng minh rất nhiều những cảnh tượng của bệnh nhân khác làm tôi cảm thấy kích động vì sự công nhận. Lãnh vực nghiên cứu của anh ta cũng là của tôi. Anh ta nói rằng: “Nó sẽ mãi mãi thay đổi y học”.

Đây là niềm tin của riêng tôi, tuy nhiên điều này thường xuyên chỉ nằm trong tư tưởng của tôi mà thôi. Qua những đợt điều trị của chúng tôi, tôi biết rằng Max chưa hề đọc cuốn New Age hoặc kinh sách, anh ta cho rằng cả một lãnh vực vô dụng, do đó anh ta không thể lượm lặt những tư tưởng từ những cuốn sách đó. Là một người thầy thuốc, anh ta đón nhận một sự trải nghiệm tiêu chuẩn về tôn giáo, nhưng nó không có mảy may nào dính đến những chủ đề hay khái niệm mà anh ta dạy ở kiếp sau. Anh ta không có niềm tin vào siêu hình học. Có lẽ rằng trong cuộc đời anh ra chưa hề dùng cụm từ “điều trị tâm linh” và “thể xác trí tuệ”.

- Quỷ tha ma bắt chuyện này là thế nào?

Anh ta hỏi tôi khi quay trở lại hiện tại. Sự trải nghiệm làm anh ta có vẻ kinh ngạc hơn là kính sợ. Tôi trả lời:

- Ai mà biết được?

Rồi tôi kể đơn giản với anh ta rằng mẫu người thầy thuốc, thầy giáo, hay là nhà điều trị thì cũng không có gì ngạc nhiên. Vấn đề này có nghĩa là cho thấy chuyên môn của anh ta trong hiện tại, và dù tôi không có kinh nghiệm đi nữa, nhưng những điều anh quan sát dường như tương tự khái niệm chính xác về siêu hình học mà tôi nghe kể nhiều năm nay. Tuy nhiên tư tưởng của tôi đi xa hơn.

Những gì anh ta thấy không phải là ảo tưởng, tôi tin chắc như vậy, những yếu tố ý thức được xây dựng nguyên mẫu dựa trên những điều mà anh ao ước cho kiếp sau. Sự việc mà anh nhìn thấy được cột vào cuộc trải nghiệm gần với cái chết của người khác, nhưng anh lại đi xa hơn, đến một nơi mà anh có thể nói về ý thức con người và nhìn nó tiến đến mức độ giác ngộ. Vẫn còn háo hức bởi cuộc hành trình, vào đợt điều trị kế tiếp anh thúc giục tôi:

- Bây giờ tôi muốn trở về quá khứ.

- Đi về những kiếp quá khứ?

- Thì ông biết rồi đó, tương lai quá tuyệt vời. Tôi muốn biết quá khứ tệ như thế nào, với lại tôi cũng tò mò.

Tôi nhắc nhở anh ta phải có sự kiểm soát trong quá trình và luôn luôn giữ khả năng dừng lại hoặc điều chỉnh cuộc trải nghiệm hoặc thậm chí di chuyển đến một đời sống khác nếu anh ta muốn. Một lần nữa anh ta lại dễ dàng rơi vào trạng thái thôi miên, và tôi đưa anh ta về quá khứ. Thật là ngạc nhiên, anh là là phụ nữ, cứ nghĩ anh ta là đàn ông của chủ nghĩa Sô-vanh.

- Tôi còn trẻ và rất đẹp, kết hôn với một người đàn ông rất tốt. Đó là gì nhỉ? Thế kỷ mười hai hay mười ba? Tôi sống trong một cộng đồng nhỏ tại Châu Âu hay Đông Âu. Tôi bị bệnh quanh năm, có lẽ đó là lý do tôi trở thành bác sĩ, tuy vậy tôi rất vui sướng với thú vật và hoa lá. Khi tôi có thai tôi bị sốt ban và bị hư thai. Tôi không thể có con được nữa. Điều này làm chồng tôi rất buồn. Khi dân làng bị bệnh họ đều nhờ tôi, vì họ biết nếu tôi chạm vào họ hoặc điều trị cho họ bằng thảo dược thì họ sẽ khỏe lại.

Đôi khi điều này có vẻ kỳ diệu. Nhiều người chấp nhận và rất tốt với vợ chồng tôi, nhưng phần đông, tôi nghĩ, họ sợ tôi. Họ nghĩ tôi là phù thủy hay người có năng lực siêu nhiên, họ cho là tôi kỳ quặc hay bị điên. Nhưng không phải vậy. Tôi thích sống với muôn thú và cỏ cây hơn là với họ. Có một người đàn ông sống ở ngôi làng bên luôn quát tháo đuổi tôi đi và cảnh báo trẻ con hàng xóm đừng đến gần tôi.

Nhưng giờ đây gã cần tôi, và đến tìm tôi. Vợ gã bị sinh non và đứa bé gái đã chết giống như con tôi. Cô ta đang mê sảng và sốt cao. Tôi chạy vội theo gã đến nhà. Tôi đặt tay lên bụng và dạ con của cô. Tôi cảm thấy như có một nguồn điện quen thuộc từ bàn tay tôi, một sự bùng lên của nguồn năng lượng trị bệnh từ truyền vào người cô ta. Tôi dùng thảo dược để trị cơn sốt. Nhưng nó không trị dược, nó không linh nghiệm.

Max trở nên bối rối ở văn phòng tôi. Anh ta thở rất nhanh, ẩn chứa niềm đau khổ trong cử chỉ. Anh ta không bị nguy hiểm trong tình trạng bị thôi miên, từ trước đến giờ không người nào bị cả, nhưng rõ ràng anh ra đang đồng cảm với cô gái trẻ và với chính bản thân mình như được gợi nhớ lại những sự kiện tai nạn. Vẫn còn trong tình trạng thôi miên, Max nói:

- Tôi đoán đúng, đã quá trễ. Bệnh nhiễm trùng đã tràn lấp sự kháng thể của bà mẹ tội nghiệp. Cô ta chết ngay khi luồng điện của tôi thổi vào cô ta. Không ai có thể cứu cô ta. Đó là sự thất bại lớn nhất trong đời tôi.

Sự bối rối của Max tăng thêm:

- Người chồng tức tối, uống rượu suốt buổi, hầu như tôi chỉ để ý đến gã, bây giờ gã đang quẫn trí vì con vừa chết lại mất vợ. Gã hét toáng lên “mày giết vợ tao, mày là ác quỷ! Mày là phù thủy!” Trước khi tôi có thể tự vệ thì gã đã cầm dao đâm vào ngực tôi. Có một cơn đau nhói trong ngực tôi, như thể con dao đang ghim vào tim tôi.

Thậm chí Max còn đau gấp bội, nhưng nhanh chóng thư giãn.

- Bây giờ tôi đang bay lơ lửng và nhìn xuống thấy thân thể mình đang nằm trong túp lều của gã đàn ông đó. Nó bình thản. Có ánh sáng vàng kim trên bầu trời và chạm vào tôi. Một luồng ánh sáng chữa lành bệnh.

Tôi đưa anh ta trở về hiện tại. Max đã trải qua rất nhiều trong từng giai đoạn. Bây giờ anh ta không còn kinh ngạc nhưng cũng không thất vọng. Anh ta trầm ngâm và nghiêm nghị, ngẫm nghĩ những sự kiện đã qua trong kiếp sống của thế kỷ xa xưa. Hẳn là anh biết mình đã là thầy thuốc trong kiếp sống đó. Chúng tôi thảo luận nhiều lần về những cảm xúc của anh, cơn đau thể xác, sự lo lắng, sự đồng cảm anh dành cho bà mẹ bị chết lúc đó và bây giờ sự đồng cảm của anh dành cho người thấy thuốc trẻ. Sự trải nghiệm này có quá nhiều xúc cảm hơn là sự trải nghiệm của nhà nghiên cứu ở tương lai về hệ ý thức.

Nhưng tôi nhấn mạnh rằng nhà nghiên cứu đã đưa cho Max cái chìa khóa để mở ra kiếp quá khứ. Bây giờ anh ta có khả năng dùng cái quá khứ đó, đặc biệt là sự đồng cảm dành cho bà mẹ và người thầy thuốc, để hướng dẫn anh trong kiếp sống hiện tại. Qua nhiều tuần, những thay đổi trong Max đã biểu hiện rõ ràng đối với gia đình, bạn bè đồng nghiệp, bệnh nhân và cả tôi. Cơn đau ngực đã biến mất vì anh đã biết được nguyên căn. Anh đã hiểu rằng anh bị giết vì không chữa lành cho người bệnh trong kiếp trước, cũng như anh đã muốn tự sát khi anh không chữa lành cho bệnh nhân trong kiếp này, như vậy những cái chết của bệnh nhân không phải lỗi của anh.

Anh nhận ra rằng anh có thể dùng sự hiểu biết và kiến thức về y học của mình để điều trị tốt nhất cho bệnh nhân, dù không phải lúc nào anh cũng có thể kiểm soát được hậu quả. Phần đông bệnh nhân được chữa khỏi, vài người thì không hết bệnh do nhiều nguyên nhân vượt khỏi kỹ năng của anh. Sự lo lắng cho bệnh nhân hiện nay đã dần dần tan biến và cuối cùng thì mất hẳn, cơn thịnh nộ cũng biết mất trong anh. Anh không còn hão huyền về phong cách của riêng mình hay của đồng nghiệp và trở nên gần gũi với gia đình hơn.

Anh cũng không đau khổ vì tội lỗi hay hối hận, hoặc trầm cảm, những xúc cảm mà đã từng gây phiền muộn cho cuộc đời anh, trước khi anh thực hiện những chuyến du hành về quá khứ và tương lai. Max vẫn giữ liên lạc. Anh kể với tôi về kỹ năng chẩn đoán và điều trị cua anh đã vững chắc hơn sau đợt trị liệu. Lần cuối cùng trò chuyện, anh thú nhận rằng khi nhân viên y tế không có mặt, anh sẽ đặt tay mình lên chỗ đau của bệnh nhân để cảm nhận nguồn năng lượng dâng trào mà anh nhớ lại từ nhiều thế kỷ qua.

Khả năng để đồng cảm với sự tường thuật quá khứ và tương lai của bản thân họ đã giải thoát cả Samantha và Max khỏi sự áp chế cũa nỗi sợ hãi ở kiếp hiện tại. Với họ và với cả chúng ta, mối đồng cảm là bí quyết để được tha thứ. Khi ta cảm thấy một dạng xúc cảm sâu sắc với những lời giải thích ban đầu, thậm chí những biểu hiện trong kiếp quá khứ của riêng bản thân, chúng ta có thể cảm kích những tình huống đã dẫn đến nhiều triệu chứng và nhiều phán xét tiêu cực trong hiện tại.

Ta sẽ dễ từ bỏ những hành động bốc đồng có tính tiêu cực nếu ta biết được nguyên nhân cũa chúng từ đâu trong bản thân. Khi ta tư bỏ, lòng tự trọng sẽ tăng trưởng, và ta có thể tự nhìn thấy mình thiện cảm hơn. Một cách bình đẳng, mối đồng cảm là chìa khóa để thông cảm và tha thứ cho người khác. Thông qua sự đồng cảm, chúng ta thấu hiểu những nỗi sợ hãi của họ, niềm tin của họ, và những điều họ cần giúp đỡ. Chắc rằng chúng ta cũng sẽ nhận lại những điều tốt đẹp như vậy.

Thậm chí ngay cả khi chúng ta không thể hoàn toàn chia sẽ niềm tin với họ chúng ta vẫn có thể hiểu họ. Chúng ta nhận thức được mức độ cảm xúc sâu sắc đến từ nơi nào trong tâm hồn chúng ta. Ghét chúng là tự ghét chính mình. Yêu chúng là tự yêu chính mình. Cách xữ lý lành mạnh duy nhất là hãy để lòng ghen ghét ra đi. Sự đồng cảm chữa lành cho từng cá nhân vào đúng thời gian nó chữa lành cho cả thế giới. Nó là chị em với lòng thương cảm, và là đứa con của tình yêu thương vô điều kiện..

#302 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/07/2011 - 05:46

DU HÀNH QUA CÁC VÙNG TÂM THỨC

Chương Năm

Hugh và Chitra: Lòng thương cảm..

Đồng cảm và thương cảm thường được dùng như từ đồng nghĩa, thật ra hai thành tố này khác nhau trong tâm trí con người. Một cách chính xác, khi bạn hiểu được những tâm tư tình cảm của người khác như cuả chính bạn và bạn có thể tự đặt mình vào hoàn cảnh của họ, thì như vậy, rõ ràng bạn có lòng thương cảm với người đó. Tuy nhiên bạn có thể thương cảm mà không hề đồng cảm. Bạn cũng có thể thương cảm một người nào đó hoặc kể cả những sinh vật, thú vật ngay khi bạn không cảm nhận được những xúc cảm của họ.

Trong triết lý Phật Giáo thường chỉ dẫn chúng ta lòng từ bi đối với vạn vật bởi vì tất cả chúng sinh đều có linh hồn. Quả đúng như vậy, muôn thú có thể đã từng là con người trong những kiếp quá khứ và cũng có thể sẽ lại làm người trong những kiếp tương lai. Mặc dù điều này không tìm thấy trong sách của tôi, nhưng nó không có nghĩa là khái niệm này không đúng. Có thể rằng con người không hề nhớ được những kiếp sống của họ như một loài giống khác. Vì vậy, bạn dễ thương cảm một con bọ cánh hay một con gấu mà không cần phải đồng cảm với chúng, không cần bạn đặt vào tình huống của chúng.

Lòng thương cảm toát ra từ trái tim, và nó được biểu thị bằng cử chỉ ân cần và tấm lòng nhân ái đối với muôn loài chúng sinh. Chúa Giê-su có một tấm lòng từ bi cao ngất và chúng ta cũng biết là Thánh Gandi cũng vậy. Nếu trái tim của bạn hướng đến người khác thì bạn là người có lòng thương cảm. Hành động ngẫu nhiên của lòng tốt như nhường cho người khác bước lên xếp hàng trước bạn, nhường ghế cho phụ nữ mang thai, cứu trợ cho những người vô gia cư, là phẩm chất của cách cư xữ có lòng thương cảm. Tuy nhiên, chỉ khi nào hành động tốt đó xuất phát từ sự bất giác đích thực chứ không phải vì bạn có chủ ý để làm một việc tốt, hoặc bạn làm vì mục đích để nhận lại những phước báu trên thiên đường.

Lòng thương cảm thuộc về bản năng nhiều hơn, còn sự đồng cảm thì lại dựa trên trí tuệ, xuất phát từ hai điểm khác nhau. Nếu cha bạn là người thô bạo, bạn đâu cần thiết phải thương cảm với ông. Có lẽ bạn nhận ra rằng: “Ồ, ông nội đã từng đối xữ với cha như vậy và cha đã bị thấm những hành động xấu xa đó. Giờ đây ông lại muốn truyền những hành động đó cho mình. Mình đồng cảm với những gì cha đã bị xúc phạm vì mình hiểu những cảm xúc của ông, nhưng mình sẽ không lập lại cách cư xử thô bạo như vậy vì mình đã thấm nhuần bài học tốt đẹp hơn.”

Đó là bài thực hành trí tuệ. Tuy nhiên nói một cách lý tưởng hơn, ngay khi trong trường hợp cực đoan như người cha thô bạo, khi bạn có thể đồng cảm với cha bạn cũng sẽ bắt đầu thương cảm cho ông. Có lẽ điều này cũng rất khó. Có thể ông lại vẫn cứ thô bạo với bạn như trước. Nhưng ông cũng chỉ là một con người bị tổn thương như chính bạn mà thôi, và khi bạn hiểu thấu đáo thì trái tim và cả trí tuệ bạn sẽ có câu trả lời cho nhau. Nếu bạn trả lời, nếu bạn có khả năng vượt khỏi những tổn thương của bạn, bạn sẽ thấy rõ sự đồng cảm và thương cảm hòa nhập với nhau.

Cả hai sẽ đưa bạn đến một điểm cuối dùng của tất cả những bài học trên một quãng đường đi đến sự bất diệt: tình yêu tinh thần, tình yêu không điều kiện, tình yêu đó rất trong sáng và vĩnh cửu.

- Tôi biết ông rất nổi tiếng về điều trị bệnh nhân bằng cách đưa họ trở về quá khứ, có đúng không?

Người đàn ông điện thoại đến cho tôi là Hugh, và nếu tôi nổi tiếng trong lãnh vực của tôi thì ông cũng nổi tiếng trong lãnh vực của ông. Ông là một người có năng lực siêu nhiên, chương trình của ông trên truyền hình địa phương thu hút hàng ngàn khán giả, phần lớn họ muốn liên lạc với những người thân đã chết. Bản thân tôi không phải là một nhà ngoại cảm, không kể đến phạm vi siêu nhiên mà tất cả chúng ta đôi khi cũng có. “Linh cảm” dẫn đến một kế hoạch kinh doanh chính xác. “Vật bảo đảm” khiến chúng ta chọn con đường đời này trước con đường khác.

Nhưng tôi biết điều này có thực. Tôi khâm phục những người giống như John Edward và James Van Praagh, họ dường như sở hữu nó và dùng nó để chữa lành bệnh, và tôi đã có kinh nghiệm từ lâu là không gièm pha những điều mà tôi không hiểu. Tôi xác nhận với ông ta:

- Vâng, đã có vài thành công với bệnh nhân. Có phải cuộc điện thoại này liên quan đến phép trị liệu?

Ông ta cười với một âm vực cao, đầy hồi hộp:

- Vâng. Của tôi đó. Năng lực siêu linh, chữa lành cho chính ông? Dường như tôi không thể chữa cho riêng mình.

Chúng tôi hẹn gặp vào tuần tới và tôi rất hồ hởi chờ đợi. Tôi đã từng chữa trị cho nhiều bệnh nhân có năng lực ngoại cảm và thấy họ đều thích thú. Độ nhạy cảm của họ rất cao và sự thẳng thắng của họ đặt biệt thích hợp với phép trị liệu theo cách quay về quá khứ. Hugh là người đàn ông mảnh khảnh, hơi thấp và ốm nhom không còn vẻ oai vệ như khi tôi đã nhìn thấy ông một lần trong chương trình truyền hình đầy sức hút. Gương mặt ông ta hơi hồng vì còn phấn trang điểm, quần áo có vẻ hơi quá khổ.

Rõ ràng là ông ta đang hồi hộp bởi con mắt liếc đảo nhanh khắp phòng như con đom đóm, và phải thường xuyên hắng giọng trước khi nói, tuy vậy, khi bắt đầu ông ta rất hùng hồn.

Tôi hỏi:

- Chuyện gì vậy?

- Tôi quá đuối sức. Xương cốt rã rời. Không phải về thể chất, mặc dù tôi ít tập thể dục, mà về tinh thần. Tôi có cảm giác như thể mọi người trên thế giới đeo bám tôi, muốn tôi đưa họ gặp người thân đã chết. Vì họ cần quá, năn nỉ quá, xứng đáng quá, thèm khát chính đáng quá nên khi tôi từ chối tôi cảm thấy có tội, một cái tội to lớn cân nặng hàng triệu pound mà tôi không thể vứt bỏ. Bất kể người nào đang ở trong phố hay trên đường đều muốn nhờ ông ký giải hoặc thông báo hoặc phán truyền dùm họ từ một cảnh giới xa xăm, nhưng đâu phải lúc nào cũng làm được như vậy.

Ông không thể gọi một người bà con của ai đó, nhảy xổ vào cõi xa xăm, và cung cấp một lời nhắn gởi như họ mong đợi. Công việc của ông mất rất nhiều năng lượng, sức mạnh và thời gian và ông đã mất hết sinh khí. Tôi đồng cảm với ông. Trong phạm vi nào đó tôi đã từng bị tấn công một dạng giống như vậy. Tôi cũng bị chặn lại trong nhà hàng hoặc ngay buổi nghỉ giải lao trong những cuộc hội thảo. Nếu như người ta hết việc quay về là một quá trìnhh tốn nhiều thời gian, nhưng hiểu biết mà thiếu sự cay đắng thì tôi không thể giúp đỡ cho họ. Người ta dường như nghĩ rằng Hugh có thể lấy thông tin cho họ trong lúc ông đang ăn tối.

Ông muốn giúp họ. Ồ, ông ao ước làm sao mà ông có thể giúp tất cả mọi người! Giá mà ông không tự cảm thấy vô dụng, và mỗi khi từ chối một lời thỉnh cầu nỗi lo lắng của ông lại tăng lên. Ông kể cho tôi nghe rằng ông có khả năng nhìn thấy những sự kiện sẽ xảy ra ở một thời điểm tương lai, hoặc những tồn tại mà mắt thường không thể nhìn thấy, và ông cũng có thể nghe những lời nhắn nhủ chỉ nói với riêng ông. Hầu hết những nhà ngoại cảm tự biểu hiện khả năng này rất sớm, ví dụ như nhiều đứa trẻ có bạn bè trong trí tưởng tượng, đơn giản chỉ vì chúng rất cô đơn và khao khát tình bạn.

Tuy nhiên trong nhiều trường hợp bạn bè cũng không phải trong trí tưởng tượng. Trong môt cuốn sách khác tôi có kể về một cô bé mà mẹ của bé không thể hiểu tại sao cô bé không hề tỏ ra đau khổ trước cái chết của bà ngoại. Cô bé nói với mẹ rằng.

- Tại sao con phải buồn chứ? Con vừa nói chuyện với bà đây mà. Bà ngồi trong phòng con đó mẹ.

Bà ngoại đã kể cho cô bé nghe về những bí mật trong thời thơ ấu của mẹ cô, những bí mật mà một mình cô không thể khám ra được, điều đó đã tạo một giá trị vững chắc cho câu chuyện. Những đứa trẻ khác thì có thể nhìn thấy trước tai nạn hoặc nghe được những thông điệp và những sự việc đó đều thật sự xảy ra, đây là bằng chứng của hiện tượng siêu nhiên. Thường thường, năng lực siêu nhiên của đứa trẻ biến mất trước khi nó lên 6 tuổi. Tuy vậy, thỉnh thoảng năng lực siêu nhiên này không chỉ vẫn tồn tại trong con người mà còn phát triển mạnh hơn nữa. Đây là trường hợp của Hugh. Ông ta nói:

- Hồi còn nhỏ, mấy đứa trẻ khác nói tôi là phù thủy. Gia đình chúng cấm chúng chơi với tôi. Họ khiến tôi cảm thấy mình bị điên. Nhưng điều đó không ngăn được những cảnh tượng và những thông điệp. Vì vậy tôi giữ những điều đó cho riêng mình, không ai biết. Hồi đó tôi rất khác lạ.

Ông dừng lại một chút để tằng hắng:

- Và bây giờ tôi vẫn cứ khác lạ.

Lúc nhỏ ông phát huy lòng tự trọng rất ít cho đến lớn vẫn như vậy. Chúng ta đã có nhiều buổi làm việc và thấy rằng vấn đề đó và những cái khác liên kết với nhau. Nhưng tôi đã biết rằng chúng tôi phải đi sâu hơn chứ không chỉ ở tính nhạy cảm thời thơ ấu. Tôi đề nghị một chuyến đi về quá khứ. Ông cười, nói:

- Đó là lý do tôi có mặt ở đây.

Hugh rất dễ dàng đi vào trạng thái thôi miên. Vì hồi nhỏ ông ta đã thực hành theo một cách nào đó. Ông bắt đầu:

- Tôi nhìn thấy nhiều chiếc xe đang bay. Không giống máy bay lắm, giống xe hơi hơn, ồ xe hơi có thể bay, vận hành bằng năng lượng sạch. Chúng lượn lòng vòng trên những tòa nhà chọc trời sang trọng làm bằng kính. Bên trong tòa nhà nhân viên đang làm việc với công nghệ tiên tiến. Tôi là người trong số họ, một trong những nhà khoa học quan trọng và giỏi nhất ở đó.

Mục đích là tạo ra mọi thứ có tác động mạnh hơn đễ chúng tôi có thể thay thế tất cả các hình thái vật chất, tất cả vật chất trên trái đất, và điều khiển nó, điều khiển hoạt động của những cái khác, điều khiển thiên nhiên. Nhưng không phải làm vì điều tốt đẹp mà cho mục đích thống trị. Những nhà khoa học chúng tôi đang làm việc đễ thống trị thế giới.

- Thích thật. Ông vừa đi đến thời gian của tương lai.

Tôi bắt đầu liệu pháp tâm lý với Hugh cũng như tôi thường bắt đầu tiến hành với các bệnh nhân, và dường như ông đã vượt trước một tương lai của nhiều thiên niên kỷ tới mà không hề có sự thúc đẩy nào. Ông trả lời làm tôi ngạc nhiên:

- Đó không phải là tương lai gì cả mà là Atlantis.

Atlantis! Một thế giới huyền thoại được hàng tá nhà văn miêu tả, mà câu chuyện nổi tiếng nhất là của nhà văn Edgar Cayce. Nó tồn tại ba mươi hay bốn mươi ngàn năm trước rồi biến mất. Atlantis là nơi mà dân cư đã thống trị một phần của thế giới bởi vì chỉ có họ giữ những điều bí mật của tất cả vật chất và mọi sinh vật. Hugh không hề đi đến tương lai, ông đã ở trong một thế giới đã biến mất từ lâu trước khi lịch sử ghi lại.

- Công việc của tôi là thay đổi mức độ ý thức của mình và học hỏi những kỷ thuật điều khiển năng lương đễ chuyễn hóa vật chất.

Ông thở rất gấp và rõ ràng là đang bị kích động vì vai trò của mình trong một xã hội lạ lùng. Tìm kiếm một sự sáng tỏ, tôi hỏi tiếp:

- Chuyễn hóa vật chất bằng năng lực siêu nhiên?

- Đúng vậy. Thông qua năng lực của trí óc.

Ông do dự giây lát:

- Hoặc có lẽ chúng tôi dùng các tinh thể. Năng lượng xuyên qua các tinh thể. Tôi không chắc lắm. Nó không phải là năng lượng của dòng điện, nó là cái gì đó tiên tiến hơn nhiều.

- Và ông là một nhà khoa học có tầm quan trọng?

- Chính xác là vậy. Đó là những gì mà tôi đã được đào tạo đễ làm việc.

Ông trở nên buồn bã:

- Tôi muốn đạt được một sức mạnh cá nhân. Có nghĩa là phải giữ kín lại phần tâm linh, nhưng đó là cái giá tôi phải trả. Có lẽ tôi có thể thay đổi mức độ ý thức riêng đễ đến một cường độ giao động cao hơn. Theo cách này tôi sẽ làm tiến triển về mặt tâm linh đễ đến một nơi vượt khỏi vật chất, vượt khỏi thời gian. Nhưng tôi không bận tâm về điều đó. Những điều mà tôi và các bạn đồng nghiệp đang làm là rất tồi tệ. Mục đích của chúng tôi là điều khiển các nền văn minh chung quanh, chúng tôi đã thành công. Chúng tôi đã đạt được mục đích.

Tôi có thể đoán trước việc ông sẽ kiểm nghiệm lại cuộc đời mình. Ông hối tiếc những hành động và nhận ra ông đã chọn lầm đường. Giá như ông dùng năng lực của trí óc để làm việc tốt và thực hiện những mục đích cao thượng, chứ không phải vì sức mạnh hay vì nâng cao địa vị bản thân, thì có lẽ ông đã có một cuộc sống tốt hơn, hạnh phúc hơn. Ông đã phí đi sự thông thái, phí đi sức mạnh, và phí cả cuộc đời.

Sau khi ông về, tôi ghi lại hai đoạn:

“Thứ nhất, chuyện mà Hugh trở về kiếp trước tại Atlantis không chứng minh được gì về sự tồn tại của Atlantis hoặc chuyện mà tôi tin là có. Đây chỉ là sự trải nghiệm của ông, xét cho cùng, có lẽ ông đã nhìn thấy tương lai. Đó có thể là viễn tưởng, cũng có thể là sự thật. Điều quan trọng là ông đã biết hối tiếc, ông đã không đem cái sức mạnh siêu nhiên cho những mục đích cao cả. Có vẻ như đó là niềm hối tiếc của ngày nay.

Thứ hai là dường như trong thời gian đó có một mức độ công nghệ cao hơn những cái mà chúng ta đang sở hữu. Có lẽ nhiều người lúc đó đã đầu thai lại kiếp này bởi vì, một lần nữa, công nghệ của chúng ta đang tiến đến mức độ đã tồn tại từ thời xa xưa. Như vậy chúng ta nên nhìn lại những gì chúng ta đã học hỏi. Đó là sự xung đột giữa thói quen yêu thương và thói quen ích kỷ của chúng ta với năng lực tiên tiến. Lần trước chúng ta gần như phá hủy cả hành tinh. Và giờ đây chúng ta sẽ lựa chọn điều gì?” Không biết ông có thích đi đến tương lai và cho tôi đi theo? Hầu như ông không thể đợi được nữa.

****

Có lẽ Hugh đã đi quá sâu. Dường như ông đang trải nghiệm hai cuộc hành trình cùng một lúc, một đi đến tương lai, và một đi đến mức độ ý thức càng lúc càng cao hơn, đến những thế giới khác, những cảnh giới khác ở trên và vượt qua thế giới này.

Ông kể lại giọng đầy kính sợ:

- Một cấp độ kế tiếp vượt qua cấp độ của chúng ta, không dày đặt như chúng ta biết. Có một vấn đề rắc rối ở đó. Dù con đường gian nan đầy hiểm nguy, nhưng khi chúng ta đến thì trí tuệ có nhiều hơn, thể chất giảm bớt. Mọi người đều có khả năng ngoại cảm. Có một dao động cao hơn. Thân thể chúng tôi nhẹ nhàng, di chuyễn dễ dàng hơn. Trong một phạm vi nào đó nó giống như Atlantis mà ông đã mô tả trong lần đầu tiên trở về quá khứ. Nhưng ở đây còn hơn nữa.

Tôi đang đi lên, lên mãi. Tại những cấp độ khác nhau có sự thay đổi về chất lượng ánh sáng. Tôi không thể miêu tả được. Nó sáng hơn, mềm mại hơn, không màu sắc hoặc có tất cả các màu. Nó đưa đến nhiều cõi ngoài ánh sáng và vượt qua nơi mà tư tưởng có thể chạm đến. Đây là cấp độ mà trí tuệ con người không thể hiểu được. Tôi vẫn tiếp tục đi. Không có điểm kết thúc. Tôi vượt qua không gian vô tận và nếu có thể, thậm chí qua khỏi cả nơi đó.

Cả hai chúng tôi đều có cảm giác rằng đây là những nơi đích thực rất bình yên và tuyệt đẹp, tuy vậy từ tuyệt đẹp thì quá đơn điệu. Hugh miêu tả bằng dáng điệu nhiều hơn là lời nói. Sự kiện mà ông vẽ ra nằm ngoài ngôn từ mà ông có. Đó là nét đẹp thanh thản trên gương mặt ông, gương mặt dùng để hùng biện giờ đây đã không còn nhăn nhúm nữa. Ông diễn tả một đời sống tương lai không phải của riêng ông mà là một tương lai chung. (Sau này khi tôi bắt đầu đưa những người trong cuộc hội thảo hay trong buổi họp nhóm đến tương lai thì thường cũng có trường hợp đó, tôi sẽ nói đến vào chương cuối.)

Hugh nói:

- Chuyến đi này giống như máy bay đang cất cánh trong cơn bão sấm sét. Khi chúng tôi lên đến tầng mây thì trời tối dần. Có nhiều hỗn loạn, sợ hãi, lo lắng. Nhưng rồi chúng tôi cũng xuyên qua lớp mây và vượt ra một phía khác đi vào bầu trời sáng chói, vầng thái dương vượt sáng chiếu qua nhiều bóng râm. Phải mất nhiều năm, nhiều thế kỷ để vượt qua những đám mây đó, thời gian trôi qua những đám mây đó càng ngày càng đáng sợ. Những đám mây của nghịch cảnh và tai ương sẽ đe dọa nền văn minh của chúng ta. Nhưng rồi khoảng tám trăm hoặc một ngàn năm, có thể hơn nữa, những đám mây đó sẽ biến mất, sự hỗn loạn sẽ biết mất và sẽ có cảm giác bình yên, kính sợ và an toàn.

Ông cúi về phía trước, giải bày với tôi trong tình trạng bị thôi miên.

- Con người ở bên phía khác của cơn bão có khả năng tinh thần và khả năng siêu nhiên mạnh hơn là tôi đang có.

Giọng nói ông hầu như thầm thì:

- Họ có thể thâu tóm mọi hiểu biết. Họ có quyền năng tuyệt đối về tinh thần.

Rõ ràng là Hugh đang miêu tả khái niệm của Carl Jung về hệ vô thức chung, một khái niệm mà tôn giáo phương Đông gọi là Tạng Thức. Tạng thức giống như một bộ hồ sơ; mỗi hành động dù là nhỏ nhất, mỗi ý niệm dù là không đáng kể của nhân loại từ thời mới sơ khai đều được lưu giữ. Tôi cho rằng có lẽ các nhà nghiên cứu về vấn đề này đã sao chép lại từ đó để tìm hiểu những ý niệm, những giấc mơ của người khác. Tôi nghĩ rằng cuộc truy lùng của Hugh là một ẩn dụ để thay đổi bản thân chúng ta từ phần vật chất đến phần tâm linh, và có vẻ như ông đã đạt được kết quả này trong một thời tương lai xa hơn nữa.

Có lẽ tất cả chúng ta, những người bỏ lại những nghịch cảnh và tai ương, đều sẽ đạt được như vậy. Những điều mà ông đem về từ tương lai có thể hiểu rằng: Trong lúc ông đang dự kiến thì thân thể vật chất có thể đã thay đổi. Con người có thể tùy ý đi ra đi vào thể xác. Họ có thể lìa khỏi xác bất cứ lúc nào họ muốn. Kể cả người chết cũng vậy. Không còn bệnh tật nữa, bệnh tật về tâm thần và thể xác đều biến mất bởi vì con người đã biết làm thế nào để hiệu chỉnh lại sự hỗn loạn năng lực mà gây ra bệnh tật cho thể chất.

Tôi đã hiểu ra tại sao những chuyến du hành đến tương lai ông đều đi đường kép. Có lúc bị dày vò đau khổ, có lúc lại là thiên đường. Cuối cùng thì tương lai đó hình thành đường cong càng lúc càng cao hơn, trở nên siêu phàm hơn cho đến khi nó liên kết với quá trình tiến triển đến mức độ cao hơn của ý thức, những cảnh giới hay thế giới cao hơn mà Hugh đã nhìn thấy trong cuộc hành trình đi tới.

Nói một cách khác, cho dù ông đang đi hai hướng, thì đích đến cũng giống nhau. Trong cuộc hành trình đầu tiên ông đi thẳng đến các độ cao hơn của ý thức. Lần thứ hai ông đến những kiếp tương lai ở đây trên hành tinh này. Cả hai kiếp đều đạt đến cảnh giới cao nhất, và có lúc gặp tại một điểm nào đó trên đường. Hugh nói về tương lai cũa chúng ta giống như những nhánh đường sắt, luôn luôn dẫn đến một sân ga chính. Bất kể con đường nào chúng ta đi đều đưa chúng ta đến cùng một nơi, và nơi đó có một niềm hân hoan vượt qua tất cả những cảnh giới và tất cả sự hiểu biết của con người.

Bây giờ sống trong kiếp hiện tại Hugh không còn cảm giác khác biệt vì ông biết được tài năng của ông bị chi phối bởi tất cả chúng ta, cho dù những tài năng đó hầu như đang tiềm ẩn. Ông cảm thấy mình tốt hơn và có đặc ân được phép lướt qua những cảnh giới cao hơn. Ông nhận thức công việc mình rõ ràng hơn, và giờ đây dường như ông nhận được thông tin từ những cấp độ cao hơn. Ông không còn cho rằng sự thông thái của mình là những linh hồn bên ngoài riêng rẽ do nỗi sợ hãi mang theo từ thời Trung Cổ. Ông biết sức mạnh nằm bên trong con người ông.

Ông hạnh phúc hơn và đó là phương tiện tốt nhất của chuyến du hành. Sự rõ ràng trong cách lý giải của ông làm sáng tỏ ý định ông giúp đỡ người khác, làm sáng tỏ ý chí thay đổi nỗi tuyệt vọng thành niềm hy vọng, làm sáng tỏ cuộc đời ông. Ông trở thành nhà chế kim mà ông đã tự dịnh từ nhiều thiên niên kỹ trước. Tôi đưa câu chuyện của ông vào cuộc thảo luận về lòng thương cảm không phải vì ông cần học hỏi điều dó trên con đường ông đi đến sự bất diệt, mà bởi vì điều ông có được quá mức thừa thải.

Ông cảm thấy đau khổ và thương yêu cho tất cả những người đến với ông, trong cách làm như vậy ông đã từ bỏ bản thân quá nhiều. Không có lòng thương cảm, con người không thể đạt đến trình độ phát triển cao hơn trong những kiếp tới. Cũng như những đức hạnh đã thảo luận trong cuốn sách này, lòng thương cảm là một phần của toàn Con người nên biết thương cảm cho người khác và cho cả chính mình.

****

Chitra, ba mươi lăm tuổi, cũng là người ban phát lòng thương cảm mà không cần báo ơn. Một nhà sinh vật học chuyên nghiên cứu về phân tử. Cô dành cả ban ngày trong phòng thí nghiệm, và ban đêm cô dành thời gian chăm sóc người mẹ hay ốm đau và khắt khe. Cô đã chăm sóc bà mười năm rồi. Cô không có thời gian để giao tiếp với xã hội, thật ra, không còn một chút gì cho riêng cô.

Cô là con gái út trong gia đình người Ấn Độ di cư qua Mỹ. Lúc qua Mỹ cô vẫn còn nhỏ và luôn được giáo dục theo truyền thống đạo Hindu. Cô được giao phó chăm sóc bà mẹ. Vợ chồng người anh trai thì không muốn lo và cả người chị gái đã có chồng và hai con cũng vậy. Chitra đã lập gia đình với một người chồng già hơn cô rất nhiều, một cuộc hôn nhân do gia đình lựa chọn, chồng cô giờ đã chết mà cô chưa có con. Do đó cô phải gánh vác việc chăm sóc mẹ.

Khi đến chỗ tôi, cô than phiền rằng mẹ cô dựa dẫm và bảo hộ quá đáng làm cô nghẹt thở. Thật sự cô thở rất nặng nhọc và khi nói cũng khó thành lời. Tiếng Hindu là tiếng mẹ đẻ nhưng cô nói tiếng anh rất lưu loát và mẹ cô cũng vậy. Cô chỉ mặc xari, ngoại trừ khi đi làm cô mặc quần jeans áo thun và khoác áo đồng phục trong phòng thí nghiệm. Cô là sự pha trộn vừa khác lạ vừa thích thú của hai nền văn hóa, tuy vậy tôi không tin rằng cô đang hạnh phúc. Chính nền văn hóa cũ đã kiềm hãm thú vui của cô ở tuổi thanh xuân.

Người Hindu thường tin vào sự đầu thai, nhưng họ tin vì đó là niềm tin tín ngưỡng. Để sử dụng như một công cụ trị liệu thì họ hoàn toàn không biết. Chitra có thể hoặc không thế tin vào những kiếp quá khứ. Cô trầm lặng khi tôi bắt đầu thảo luận về vấn đề đó. Tuy nhiên cô sẵn sàng đồng ý một cuộc trở về quá khứ. Sau hai tuần thực hành thư giãn và phương pháp thôi miên, cô có thể bước vào một tình trạng bị thôi miên vừa phải. Những biểu hiện của cô khá mơ hồ và lời nói thì ngập ngừng.

- Tôi sống tại Ấn Độ...tôi đi khắp nơi cùng quân đội đang chiến đấu với kẻ thù..tôi không biết năm nào..không xưa lắm..người ta nói tôi cần thiết cho những người lính..họ rất quan trọng..họ là quân đội của tôi, là dân của tôi.. họ phải được chăm sóc..tôi cung cấp cho họ thỏa mãn..tôi ghét những việc tôi phải làm..tôi có thể nhìn thấy mình đang chết..tôi vẫn còn rất trẻ..vâng tôi đang chết..chết vì sinh con.

Thì ra là thế. Trong hồi ức về kiếp trước cô nhận ra cô không muốn sống lây lất ở một nơi như vậy. Giúp những người lính Ấn Độ chống lại kẻ thù không có gì cao đẹp cả. Đó là một tục lệ được quy ước bởi lòng ích kỷ và bởi những tên đàn ông dã man, vì là phụ nữ cô bị mắc kẹt và chịu thua.

Lần trở về kế tiếp cũng rất ngắn.

- Tôi là phụ nữ..áo choàng làm lễ hiến tế..Tôi phải chết để bảo đãm trúng mùa gặt hái…Có lẽ cái chết của tôi sẽ bảo vệ người dân thoát khỏi kẻ thù..từ tai họa của thiên nhiên..Người ta nói tôi rất danh dự được chết..Tôi và gia đình sẽ được ân sủng ở kiếp sau..Một thanh gươm trên đầu tôi..nó giáng xuống.

Trong hai lần cô đều khó thở và lần nào tôi cũng nhanh chóng đưa cô trở về. Chitra cần học hỏi từ những đời sống đó, nhưng không được đầy đủ chi tiết lắm. Cô đã trải qua những nổi bất hạnh và khi chúng tôi nói về điều đó, cô nhận ra sự bạo động đối nghịch với những khái niệm tâm linh. Những hứa hẹn hão huyền cho những ân huệ về sau, là những lời dối trá có tính tư lợi nhân danh những tay tướng lãnh,hoặc những trưởng lão mà quyền lực của họ dựa trên sự ngu dốt lừa gạt và sợ hãi.

Chúng tôi khám phá ra một mắt xích trong hai kiếp và mối liên quan của chúng với tình thế của Chitra hiện tại. Cả hai lần trở về cô đều bị bắt buộc hy sinh mạng sống của mình, hy sinh những mục đích riêng và cả hạnh phúc riêng tư để phục vụ cho sự cao cả. Và thực tế sự hy sinh đã giết cô lúc đó như nó đang giết cô trong lúc này. Mẹ của Chitra cũng có một hồi ức về kiếp sống trước, dù bà chưa hề đến văn phòng tôi. Thích thú vì công việc chúng tôi đang làm, Chitra đem những đĩa CD của tôi về nhà để thực hành, giống như tôi thường khuyến khích bệnh nhân.

Mẹ cô lắng nghe và nhìn thấy cách đây khoảng ba thế kỷ là người vợ Ấn Độ còn trẻ. Lúc đó Chitra là người chồng mà bà rất mực yêu thương, mối quan tâm chính trong cuộc sống của bà. Nhưng ông ta chết sớm có lẽ do nọc độc rắn cắn. Khi bà quay về hiện tại, bà hiểu rằng bà đã quá bám chặt Chitra, con gái bà và giải thích với Chitra rằng đó là sự phản ứng bởi sự mất mát cách đây nhiều thế kỷ. Giờ đây Chitra nhận ra sự dựa dẫm và bảo hộ quá đáng của mẹ mình là do nguyên nhân từ kiếp trước, không phải ở kiếp này và cô dễ dàng tha thứ hơn.

Mẹ cô bắt đầu thay đổi. Bà khắc phục những hủ tục từ từ, bớt bám chặt, bớt bảo hộ. Bà trở nên thoải mái hơn khi dành thời gian cho những đứa con khác và thậm chí bà còn vui vẻ để Chitra giao du ngoài xã hội, bất kể có khả năng Chitra sẽ đi đến một mối quan hệ khác đụng chạm đến sự dựa dẫm của bà. Sự nối tiếp này giúp Chitra cải thiện quan điểm riêng. Lần đầu tiên cô nhìn xa hơn mà không sợ hãi, và đồng ý để tôi đưa cô đi đến tương lai. Chitra trải qua ba kiếp tương lai chỉ trong một chuyến du hành. Trong chuyến đầu tiên cô thấy mình là hộ lý quan trọng cho một đứa trẻ bị teo cơ, gầy trơ xương và thiếu thần kinh.

Động cơ gia đình đòi hỏi Citra dành hết thời gian và sức lực cho cô con gái nhỏ đó với tiền công ít ỏi. Chồng cô trong kiếp đó là người ít xúc cảm và thường hơi thô bạo; đơn giản chỉ vì anh ta không thể đối đầu với nghịch cảnh. Với tôi nguồn thương cảm, tình yêu thương và năng lực dường như chỉ có duy nhất một hướng ra bên ngoài, còn với Chitra thì cho đi mà không bao giờ nhận lại. Trong chuyến đi thứ hai, thể xác Chitra bị đau đớn vô cùng vì bị thương trong một tai nạn xe cộ. Cô nói rằng:

- Không thể gọi đó là xe hơi. Nó giống như một hình trụ có cửa sổ khổng lồ đang bay. Dù sao thì chương trình của nó cũng đang bị trục trặc, ồ! Rầm, nó đâm vào ngọn cây.

Chitra đờ người và cần được phục hồi tâm lý và co giãn thân thể. Cô nói với giọng hài lòng:

- Mức độ kỹ thuật y học rất tiến bộ. Nhưng tôi phải mất hơn một năm trời để hồi phục hệ mô thần kinh của cả bộ não và dây cột sống.

Chitra mỉm cười:

- Nhân viên bệnh viện bệnh viện rất tuyệt vời, nhưng việc hồi phục rất khó. Nếu không có tình yêu của gia đình và bạn bè tôi không chắc là mình có thể phục hồi. Chồng tôi rất đáng yêu, và các con tôi, hai gái một trai. Ồ! Phòng tôi đầy hoa. Người ta gọi phòng bệnh của tôi là vườn Địa Đàng.

Tôi nghĩ đây là điều trái ngược của kiếp trước. Một lần nữa, thương cảm, yêu thương, và năng lực chỉ có duy nhất một hướng đi ra, nhưng lần này chúng tuôn chảy thành dòng. Trong chuyến đi thứ ba, Chitra là một bác sĩ phẫu thuật, chuyên về thuật chỉnh hình và hệ thần kinh. Khi tôi chỉ ra điều này quá khác thường, vì một người mà có hai lĩnh vực tinh thông khác nhau như vậy, thì cô giải thích:

- Tôi làm việc bằng gậy hoặc thạch anh, chúng phát ra ánh sáng, năng lượng để điều trị rất hiệu quả, bất kể là xương hay não. Chúng cũng có năng lượng âm thanh giúp cho việc hồi phục cơ bắp, tứ chi và dây chằng.

Chitra tìm được niềm vui lớn từ những kết quả của sự thông thái và những kỹ năng. Sự phản hồi tích cực này không phải do bệnh nhân của cô hay gia đình họ, mà do bạn đồng nghiệp của cô có trình độ chuyên môn. Cuộc sống gia đình của cô cũng rất hạnh phúc và khỏe mạnh. Trong kiếp sống đó dường như cô đã đạt được sư cân bằng đích thực của dòng chảy ra vào đều đặn. Cô dễ dàng yêu thương người khác và cả chính bản thân cô. Chitra kể với tôi rằng cô đã kiểm tra lại kiếp sống tương lai thứ ba từ một triển vọng cao hơn, nghĩa là cô đã phát triển đến cấp độ mới. Cô vẫn còn trong trạng thái bị thôi miên khi cô kể chuyện này, nhưng rồi cô bỗng nhiên ngừng lại..

- Tôi không biết kiếp sống này sẽ kết thúc như thế nào. Rất hoang mang. Bây giờ tôi phải rời bỏ thôi.

Như thường kệ, cô không phải người nấn ná lại trong kiếp quá khứ cũng như kiếp tương lai. Hào hứng và náo nhiệt bởi cuộc hành trình cô chợt quay về hiện tại. Cô giải thích:

- Tất cả các kiếp sống từ quá khứ đến hiện tại đều liên hệ nhau, như kiếp này và kiếp trước mà mẹ tôi đã mô tả. Những gì tôi phải làm là cân bằng lòng thương cảm cũng như tình yêu thương, để được nhận và cho đi.

Quyết tâm của cô quá rõ ràng. Cô nói:

- Những mục đích của đời tôi không bao giờ còn là vật hy sinh nữa, không vì những giá trị văn hóa, hoàn cảnh cá nhân hay tội lỗi.

Cô có thể biểu hiện sự giận dữ, lòng oán hờn đối với mẹ cô hay anh chị cô đã đẩy cô vào vai trò người chăm sóc, bất kể điều cấm kỵ về văn hóa ngăn chặn sự nổi loạn như vậy và theo cách đó bản thân cô sống tự do. Chúng tôi quay lại kiếp sống tương lai thứ ba và lần này cô có thể nhìn thấy đoạn cuối: cô chết lúc tuổi già và do nguyên nhân tự nhiên. Khi kiểm nghiệm lại kiếp sống của cô, những ý nghĩa đã né tránh tôi lại hiện lên rành rành trước mắt cô. Cô giải thích:

- Trong ba kiếp tương lai không hề liên tiếp hay đều đặn. Chúng là những biểu thị có thể xảy ra cho những kiếp tới dựa vào những gì tôi làm cho kiếp này.

Về một ý nghĩa nào đó, chúng là những kiếp tương lai song song tuôn chảy cùng một lúc. Một kiếp mà cô đã đi đến đoạn cuối có thể xuất phát từ nội dung của phần còn lại trong kiếp hiện tại. Cô kể rằng:

- Thật ra có vô số kiếp tương lai có thể xảy ra, tôi đã chứng kiến tất cả sự thay đổi của ba kiếp. Điều đó không chỉ là ý thức của tôi mà còn là tư tưởng và hành động chung của toàn bộ nhân loại, con người sẽ có một vai trò trong việc nặn hình một người trở thành người thật. Nếu chúng ta ý thức giữ lấy lòng thương cảm, sự đồng cảm, tình yêu thương, sự kiên nhẫn và lòng tha thứ, thì thế giới này sẽ trở nên kỳ diệu hơn là nếu chúng ta không nắm giữ.

Ngôn ngữ của cô thay đổi rõ rệt. Cô không nói từng câu ngắn đứt đoạn. Tư tưởng và từ ngữ của cô sành điệu hơn cho thấy rằng một mối liên quan đến mức độ cao hơn của ý thức. Người phụ nữ trẻ thông minh nay đã dạy tôi rất nhiều điều.

Khi cô ra về tôi ghi lại:

“Chúng ta có rất nhiều năng lực ảnh hưởng tích cực đến những kiếp sống tương lai riêng lẻ cũng như tương lai còn lại của kiếp hiện tại, hơn là chúng ta làm ảnh hưởng đến cả hành tinh này hoặc tương lai chung của nhân loại. Tuy nhiên, những tương lai riêng lẻ biểu lộ bản thân chúng vào tương lai chung, và hành động của mỗi người sẽ quyết định vào một tương lai nào trong số mà chúng ta sẽ trở về.

Nếu Chitra cứ bị kẹt vào một mẫu gia đình như vậy, rồi cô sẽ phải trải qua một tương lai như một nạn nhân tê liệt bị bắt buộc nhận tình yêu. Nếu cô chợt từ bỏ, đột ngột kết thúc mối quan hệ với mẹ cô, rời bỏ bà mà không có cách giải quyết thỏa đáng, thì cô có thể phải trở lại làm một người hộ lý của đứa trẻ bị bệnh nghiêm trọng. Vì đó là cách mà chúng ta phải làm như thế nào. Chúng ta thường xuyên đối mặt với những tình huống tương tự như chúng ta đang tìm kiếm để học hỏi sư cân bằng hợp lý giữa cho và nhận, giữa hy sinh và thương cảm cho bản thân, cho đến khi chúng ta đạt được tình trạng hài hòa.

Cho đi những gì cô đã học hỏi và nhận rõ sự cân bằng đó, Chitra đã trở lại thành một nhà phẫu thuật chỉnh hình và hệ thần kinh, nhưng cô có thể sinh vào một thế giới nhiều hoặc ít bạo động, nhiều hoặc ít lòng thương cảm và tình yêu, lệ thuộc vào sự hòa nhịp mà người khác đạt được. Nếu có đủ những người trong số chúng ta bằng cách nào đó nâng cao ý thức con người, nếu chúng ta chấp thuận thay đổi một tương lai chung bằng cách nâng cao tương lai riêng lẻ của mỗi chúng ta, chúng ta thật sự có thể thay đổi tương lai của cả thế giới và cả nhân loại.”

****

Như chúng ta đã thấy, lòng thương cảm liên quan đến sự đồng cảm và cả tình yêu, những cảm xúc dó đều xuất phát từ trái tim..

#303 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/07/2011 - 08:41

DU HÀNH QUA CÁC VÙNG TÂM THỨC

Chương Sáu

Paul: Kiên nhẫn và cảm thông

Đạo Phật có một câu châm ngôn: “Đừng thúc đẩy dòng sông. Dù thế nào đi chăng nữa nó cũng sẽ chảy theo tốc độ của riêng nó.” Vì những mục đích tiến hóa của tâm linh điều này giúp ta phác họa ra dòng thời gian, như chúng ta đang làm, mà theo những bài học chúng ta đã trải qua trên con đường đi đến sự bất diệt. Do đó, bạn không nên thúc đẩy dòng sông thời gian. Bạn chỉ có thể làm nước bắn tung tóe khắp chung quanh một cách bất lực.

Và như vậy bạn đang quẫy đạp sự bình yên bình cả dòng nước hoặc dòng triều mà thôi. Sự thiếu kiên nhẫn cướp đi của ta niềm hân hoan, thanh bình và hạnh phúc. Chúng ta muốn cái mà chúng ta muốn và muốn ngay bây giờ. Không nơi nào rõ nét hơn một nước Mỹ trong thế kỷ 21 này. Nhưng đó không phải là chuyện mà vũ trụ được sắp đặt như thế nào.

Vạn vật đến với chúng ta khi nào chúng ta đã sẳn sàng. Có thể trước khi ra đời, chúng ta xem xét khung cảnh của cuộc đời mà chúng ta sẽ đến, sau khi được sinh ra thì chúng ta đã quên hết. Chúng ta vội vã trong hiện tại, chỉ lo lắng về việc hòa nhập thực tại, nhưng với tư cách là người đã trưởng thành trong kiếp sống này chúng ta nên nhận ra rằng có một thời gian đúng và thời gian sai.

Thí du như tại sao Chatherine đến với tôi vào năm đó mà không sớm hơn hai năm hoặc muộn hơn? Và tại sao khi tôi hỏi cô về tương lai thì cô nói rằng “không phải bây giờ”? Sau khi cuốn sách tôi viết về những người bạn tâm giao được xuất bản, tôi nhận được lá thư của một người phụ nữ viết rằng: “Tôi đã gặp người bạn tâm giao, nhưng giờ đây tôi đã kết hôn. Tôi có ba đứa con và anh ấy cũng có hai đứa. Tại sao chúng tôi không gặp nhau khi còn trẻ?”

Bởi vì số phận đã an bài. Họ đã được sắp xếp để chỉ gặp sau đó. Con người đi vào đời sống chúng ta ngay thời điểm chắc chắn vì nhiều lý do khác nhau, phải học hỏi để hiểu biết. Không phải ngẫu nhiên mà họ không gặp nhau lúc trẻ, lúc mà họ không có những lời cam kết khác. Tôi nghĩ lý do họ gặp nhau muộn màng như vậy là để họ học hỏi về tình yêu trong nhiều cách khác nhau, và học về cách cân bằng trách nhiệm và lời cam kết. Họ sẽ gặp lại nhau trong một đời sống khác, nhưng họ phải kiên nhẫn.

Một bệnh nhân nữ của tôi đã tự tử ở kiếp trước bởi vì chồng cô là một trung sĩ trong Thế Chiến thứ nhất, được đưa vào danh sách mất tích khi làm nhiệm vụ và cô tin chắc rằng anh đã chết. Thật ra anh ta bị bắt giam và chỉ khi quay về Mỹ sau chiến tranh thì anh mới biết được số phận của vợ mình. Trong cuộc đời cô hoặc những kiếp sau, người phụ nữ này đã học cách kiên nhẫn khi cô nhớ ra bài học cay đắng ở kiếp trước.

Những người bạn của tôi, một đôi tình nhân ở thời trung học, họ đã chia tay nhau và mỗi người đều có một cuộc hôn nhân bất hạnh. Bốn mươi năm sau khi gặp lại, họ kết lại mối tình xưa và cùng ly dị để cưới nhau. Như thể thời gian ngừng lại. Họ có cùng một cảm xúc mãnh liệt. Tôi đã đưa cả hai về kiếp quá khứ và họ đã ở cùng nhau trong nhiều kiếp quá khứ. Con người đến với nhau muộn màng trong cuộc đời, thì trong những kiếp quá khứ của họ, điều này cũng xảy ra nhiều lần.

Kiên nhẫn về mặt tâm lý thay vì về mặt thể chất là điều chủ yếu. Thời gian mà chúng ta đo đếm có thể nó sẽ đi nhanh hoặc chậm. Tom Brady, tiền vệ của đội bóng New England Patriots lại cho rằng một phút là quá đủ để anh sắp xếp tỷ số bàn thắng. Khi tôi bị kẹt xe dường như thời gian dài vô tận. Nhưng nếu chúng ta xem thời gian như dòng sông vô tận, mà đúng nó là như vậy, thì sự thiếu kiên nhẫn sẽ biến mất. Một bệnh nhân nói với tôi: “Tôi chưa muốn chết. Còn quá nhiều việc mà tôi cần phải làm.”

Vâng, ông ta sẽ còn có một thời gian vô tận mà trong đó ông ta sẽ thực hiện. Kiên nhẫn liên quan đến sự cảm thông, bởi vì nếu bạn càng hiểu một người hoặc một tình huống hoặc một kinh nghiệm, hoặc bản thân bạn, thì bạn càng ít có khả năng tự phản ứng làm tổn thương chính bản thân hoặc người khác. Ví dụ như khi vợ hoặc chồng bạn về đến nhà la hét bạn chỉ vì chuyện nhỏ nhặt, như bạn quên dắt chó ra ngoài hay quên mua sữa, thì sự thiếu kiên nhẫn là sẽ la hét lại.

Nhưng hãy kiên nhẫn! Hãy cảm thông! Có lẽ cơn giận dữ trút xuống chẳng làm gì bạn nhưng là kết quả của một ngày tồi tệ ở văn phòng, sắp bị cảm lạnh, một cơn đau giữa đầu, bị dị ứng, hoặc thậm chí một tâm trạng khó chịu. Với người bạn đời bạn là người an toàn. Họ có thể trút lên bạn vì biết rằng chẳng có gì nghiêm trọng sẽ xảy ra ngay cả khi bạn nổi cáu đáp trả lại.

Nhưng nếu bạn kiên nhẫn, bạn sẽ thấy nguyên nhân của cơn giận dữ và rồi bạn sẽ làm nó tan biến. Nếu bạn là người kiên nhẫn, bạn sẽ hiểu rằng có một lý do ẩn nấp phía sau sự bùng nổ đó, cũng chẳng cần một thủ thuật lớn lao gì để lấy lại hòa khí. Khi bạn phát huy khả năng trầm lắng, nội tâm, lắng nghe, thì lòng kiên nhẫn sẽ luôn luôn phát triển.

Nếu các quốc gia trên thế giới có sự kiên nhẫn nhiều hơn thì chiến tranh chắc chắn sẽ giảm bớt, bởi vì họ có nhiều thời gian hơn để ngoại giao, để đàm phán và để cảm thông. Quốc gia rất khó cố gắng để giữ kiên nhẫn nhưng con người thì có. Nếu bạn tập cho mình được kiên nhẫn, bạn sẽ nhận ra sự quan trọng của nó khi bạn đạt được và bạn sẽ tạo ra sự tiến bộ trên con đường tâm linh đi đến bất diệt. Tuy nhiên thỉnh thoảng bạn phải chờ dợi cho đến khi bạn thấy tương lai, để hiểu rõ sức mạnh của nó.

Paul rất giàu, rõ ràng là vậy. Ông tạo dựng tài sản nhờ làm máng xối với đồng đỏ cho những biệt thự ở bờ biển và ông đầu tư rất khôn ngoan. Trong đợt đầu tiên chúng tôi thực nghiệm, ông nói với tôi rằng tiền bạc đang làm ông xấu đi và ông thấy mình là kẻ thất bại. Alison, đứa con gái 21 tuổi của ông mắc chứng bệnh bạch cầu và không có cơ may hồi phục. Tiền của ông có thể trả cho bác sĩ giỏi nhất, thuốc men tốt nhất và những lời khuyên tốt nhất..nhưng không thể trả cho điều kỳ diệu. Ông thường xuyên cảm thấy thất vọng và nhìn cuộc đời mình như vô dụng bất kể sự thành công về tiền bạc.

Thường thì tôi có thể lấy tiểu sử của bệnh nhân trong một đợt hoặc ít hơn. Với Paul thì mất hai lần, không chỉ vì tiểu sử quá phức tạp mà còn bởi vì Paul quá miễn cưỡng trình bày. Ông ta 50 tuổi, cao to, cường tráng, tóc bạc, giọng nói hùng hồn. Đôi mắt xanh lơ nhìn tôi thẳng thắn, sự thẳng thắn đó được nhìn thấy trong con người không có gì giấu giếm hoặc là của kẻ lừa đảo. Trường hợp của Paul tôi cho là kẻ thứ hai. Rõ ràng là ông ta đang lừa đảo chính mình chứ không phải lừa đảo tôi.

Nụ cười của ông rộng rãi, hàm răng trắng trên khuôn mặt hoàn hảo bị rám nắng, móng tay cắt tỉa gọn gàng. Ông mặc chiếc áo thể thao màu trắng hiệu Ralph Lauren, quần màu nâu đường li thẳng nếp với đôi sandal bằng da rất đáng ghen tị.

- Tôi không chắc là mình có nên đến đây không.

Ông nói với tôi khi bắt tay và tôi có cú chạm đầu tiên với đôi mắt đó.

- Nhiều người nghĩ như vậy. Tâm thần học có thể như bị cấm. Ai lại muốn thổ lộ tâm hồn mình với người lạ chứ? Hơn nữa, người ta không nghĩ rằng có một sự tiếp xúc với điều huyền bí trong những điều mà tôi sẽ làm. Huyền bí. Chính xác. Và, xin lỗi nếu tôi thô bạo, việc này đưa người ta về lại kiếp quá khứ...

Tôi mỉm cười đồng ý:

- Kỳ lạ. Tôi đã mất nhiều năm mới tin rằng vài bệnh nhân bằng cách này hay cách khác đã không tạo nên câu chuyện của họ, bất kể mọi chứng cứ đều đi ngược lại. Nhưng tôi bảo đảm với ông là tôi không có năng lực huyền bí nào cả và thậm chí nếu vài bệnh nhân của tôi mơ tưởng hão huyền thì họ vẫn bớt bệnh.

Ông có vẻ đồng ý với điều này vì ông gật đầu, ngồi xuống đối diện với tôi và nói về Alison.

- Tôi lo ngại vợ tôi, một đứa con gái khác và một dứa con trai, cả ba cùng nhau phá hỏng việc điều trị của con bé.

Ông nói với vẻ quẫn trí nhiều hơn là giận dữ.

- Bằng cách nào?

- Alison ăn chay, nhưng con bé cần chất thịt để bồi bổ cơ thể. Thay vì gia đình tôi khuyến khích nó ăn những chất siêu vitamin bổ dưỡng, chất khoáng, nhưng, Chúa ơi! cà chua và mầm lúa mì. Nó cũng đi tập Yoga và tập thiền. Tôi cho là như vậy cũng được, không thể làm tổn thương con bé, nhưng họ muốn tôi theo họ.

Tôi nói nhẹ nhàng:

- Đơn giản là họ đang theo một phương pháp điều trị cả thân thể lẫn tinh thần.

- Nhưng tôi muốn họ theo tôi.

- Cách nào?

- Thuốc mạnh, xạ trị, hóa trị. Mọi thứ.

- Con bé có làm theo không?

- Có, chắc chắn. Tôi năn nỉ mà. Tôi sẽ kiểm soát mọi việc. Thật phí thời gian của con bé với những thứ vớ vẩn đó, họ nghĩ là nó sẽ trị bệnh con bé, có mà điên. Tôi kêu nó bỏ đi mà nó không chịu.

Ông cúi đầu thấp xuống và lấy tay xoa đôi mắt:

- Nó chẳng nghe lời tôi từ khi còn bé.

- Mấy đứa khác thì sao? Chúng cũng không nghe lời ông à?

- À không. Rất có giáo dục. Luôn là vậy. Vợ tôi cũng vậy. Sẽ luôn như vậy.

Tôi hoàn toàn khâm phục Alison. Tôi cho là sự “bất tuân lệnh” nghe giống như lòng can đảm. Có lẽ cô chỉ là một người duy nhất trong gia đình dám chống lại ông. Có lẽ ông quá thất vọng vì những người khác đứng về phía cô, dù chỉ một lần. Tôi nói với ông:

- Có một cuộc tranh luận rất lớn về y học điều trị song song thân thể và tinh thần. Những xã hội lớn, như người Trung Quốc đặt niềm tin của họ vào đó, họ tin tin rằng...

Ông hầu như hét lên:

- Thuật châm cứu! Nó cũng thử rồi, mấy đứa kia nữa, cả vợ tôi cũng để cho nó đi châm cứu.

Tôi tin rằng nhiều hình thức của cách điều trị này có hiệu quả, đặc biệt khi được dùng cùng với việc điều trị theo y học chính thống. Tôi nói:

- Tại sao phải lo lắng về chuyện đó? Miễn là con bé gặp được phương pháp điều trị thích hợp. Ông biết hy vọng là yếu tố của sự hồi phục. Nếu nó cho rằng châm cứu sẽ khỏi thì có lẽ điều đó đủ giá trị.

Ông càu nhàu:

- Tôi cũng nghĩ vậy.

Ông ra về, hoàn toàn không thỏa mãn. Tôi không chắc ông có trở lại hay không. Nhưng rồi ba ngày sau đó ông đến đúng hẹn. Lần này thì có một than phiền mới: bạn trai của con bé.

- Và ông phản đối?

- Chắc chắn rồi!

- Tại sao?

- Nó không tốt với con bé nhiều. Không có đứa nào tốt hết. Nó sẽ không chịu ở lại với những khó khăn dai dẳng.

Tôi bắt đầu nhìn ra một hình mẫu.

- Con bé nghĩ gì về ông?

- Tôi cho là con bé yêu quý tôi.

- Chỉ cho là?

Ông ta suy nghĩ một lát trước khi trả lời.

- Thật là buồn cười. Tôi cảm thấy lúng túng quanh con bé. Tôi không thể trêu chọc nó theo cái kiểu mà tôi trêu chọc mấy đứa kia. Khi tôi ôm nó, hay là quành tay qua nó dường như tôi bị đông cứng.

- Nhưng ông thương nó.

- Chúa ơi, dĩ nhiên!

- Ông có nói với con bé?

Ông cúi đầu.

- Dường như tôi không thể tìm ra cách nào. Cha con tôi thường xuyên cãi vã. Nó nói tôi trù dập nó, nhưng những gì tôi cố làm là để bảo đảm cho nó yên tâm. Giữ con bé dưới sự kiểm soát đối với tôi là một cách tệ hại nhất để biểu lộ tình yêu thương.

Tôi hỏi:

- Còn những đứa con trai khách của nó thì sao?

- Vô vọng.

- Như thế nào?

- Không đủ khôn ngoan. Thật là những thằng đần độn. Cái thứ được bơm hooc-môn nam, cái loại xe tải tiến. Bần cố nông quá gian manh, không có cái đầu. Thật ra, Phil thì tốt nhất. Lần trước nó ở lại bệnh viện với con bé. Mấy đứa khác thì không chịu ở lại đâu. Vừa rồi nó ghé thăm, tôi nói với nó đừng đến nữa.

- Có phải lần đầu tiên ông nói như vậy?

- Nói tận mặt. Nhưng tôi đã nói trước với Alison không thể gặp nó nữa.

Tôi mỉm cười:

- Nhưng con bé không nghe lời.

Ông nhún vai. Câu trả lời quá rõ ràng.

- Sao ông không nghĩ là cứ cho con bé thoải mái tiếp tục gặp nó? Xét cho cùng, nếu con bé không khỏe lại.

Ông cắt ngang với một tiếng rống:

- Thôi dẹp chuyện đó đi! Quỷ tha ma bắt, tôi sẽ bảo đảm con bé khỏe hơn thậm chí nếu tôi phải chết thay nó.

Sau hai đợt tìm hiểu tiểu sử và thảo luận, tôi rất háo hức nhìn sâu hơn về mối quan hệ của Paul và Alison. Một nguyên nhân nào đó sẽ là lời giải thích về việc bảo vệ quá đáng cho cô bé và cả cho ông. Có lẽ câu trả lời nằm ở kiếp quá khứ. Lúc đầu ông chống đối, nhưng rồi với sự khuyến khích của gia đình và bởi vì bệnh của Alison quá nặng, ông đồng ý. Thời gian để đưa ông vào trạng thái thôi miên lâu hơn bình thường, vì hoạt động của bộ não bên trái và vì ông cần ở lâu trong sự điều khiển, nhưng cuối cùng ông cũng đạt đến mức độ sâu. Ông kể:

- Đó là năm 1918. Tôi đang ở một thành phố phía Bắc, New York hoặc Boston. Tôi đã 23 tuổi. Tôi đúng là một thanh niên đích thực, theo nghề của cha tôi làm chủ ngân hàng và tôi đang yêu, yêu điên cuồng một cô gái không đàng hoàng một phụ nữ hấp dẫn. Tôi thường xuyên nói chuyện với cô sau buổi diễn, nhưng chưa bao giờ thổ lộ tình yêu dành cho cô. Tôi biết cô ta là...

Ông ngừng, một cái nhìn lướt qua khuôn mặt ông.

- ..đó là Alison, con gái tôi.

Ông ngồi yên lặng một lát, hồi tưởng. Rồi ông nói:

- Tôi tỏ tình với cô ta, một ngày may mắn và cô cũng nói yêu tôi. Ông có thể tin được không? Cô ta cũng yêu tôi! Tôi biết ba mẹ tôi sẽ không đồng ý nhưng không quan trọng. Tôi bất chấp. Cô ta là tất cả đối với tôi.

Một lần nữa biểu hiện của ông lại thay đổi. Ông trở nên buồn bã. Ông thì thầm:

- Cô ấy chết. Chết vì bệnh dịch, giấc mơ của chúng tôi cũng chết theo cô. Tôi mất tất cả niềm hân hoan, hy vọng, vui thú. Sẽ không bao giờ có một tình yêu như tình yêu của chúng tôi.

Tôi yêu cầu ông đi xa hơn chút nữa ở trong kiếp đó. Ông nhìn thấy mình là một người đàn ông hung hăng, khắc khổ vào tuổi 40, say bí tỉ và lái xe đâm ra đường chết. Tôi đưa ông trở về và chúng tôi thảo luận về mối liên quan của kiếp trước và kiếp hiện tại. Hai hình tượng nổi bật. Một cái liên quan đến tư tưởng ma lực. Trong kiếp này, nếu ông không nói với Alison rằng ông yêu thương cô bé thì có thể cô bé sẽ an toàn, cô không thể chết như đã chết vào năm 1918.

Cái thứ hai là quy trình chống lại sự sợ hãi, một sự bốc đồng giống nhau mà khiến người khác bỏ khi họ nghĩ mình sắp bị đuổi. Trong trường hợp của Paul có nghĩa nếu ông giữ một khoảng cách tình cảm với Alison, ông sẽ tránh khỏi nỗi đau, lòng sầu muộn và sự tuyệt vọng khi ông bị mất cô bé. Vì vậy ông lùi lại xa cách cô bé, cố ý gây ra những cuộc tranh cãi, thường xuyên chỉ trích và ngăn cản bạn trai cô. Bệnh tình hiện tại của cô khiến ông sống lại nỗi đau mà ông đã từng trải qua gần một thế kỷ trước.

Ông biết rằng, ông nói khi ông rời khỏi văn phòng tôi, một phần là do việc điều trị của cô khiến ông phải đương đầu với nỗi sợ hải và thừa nhận tình yêu thương của mình. Một phần nào trong ông, ông hiểu được rằng mối tương quan của tinh thần và thể xác (được biết rất nhiều và người miễn dịch) đã có một giá trị đích thực. Nỗi sợ hãi của Paul rồi cũng vơi bởi vì ông biết rằng ông đã mất Alison từ kiếp trước và cũng rất đau khổ vì điều đó. Cả hai đều đã chết, rồi cùng trở lại trong kiếp này.

Ông vẫn còn quẫn trí về khả năng cô sẽ chết, nhưng giờ đây ông tự cho phép mình cảm thấy tình yêu dành cho cô. Ông không cần phải quá nghiêm khắc bảo vệ chính mình làm hại cả hai. Phản ứng đầu tiên về sự bốc đồng trong tình yêu vô điều kiện là ông gọi Phil lại và cho phép anh tự do thăm Alison trong bệnh viện, hoặc tại nhà bất cứ lúc nào anh thích. Alison rất cảm động, còn Phil thì khó mà tin ông đã thay đổi quan điểm. Khi mối tình của đôi trẻ sâu đậm, Paul càng trở nên vui vẻ hơn. Ông nhận ra rằng hạnh phúc của Alison quan trọng hơn là sự bảo hộ của ông đối với cô.

Điều gì đó kỳ lạ xảy ra. Tình yêu của Alison và Phil càng lớn mạnh thì Paul càng dễ dàng biểu lộ tình yêu của ông bằng hành động, và hệ thống miễn dịch của Alison đạt đến mức độ hiệu quả cao. Tình yêu trở thành liều thuốc bổ trong cô chống lại bệnh ung thư. Một tuần sau Paul trở lại cho chuyến đi thứ hai về quá khứ. Lần này Paul là một phụ nữ ở thế kỷ 19, vợ của một ngư dân, sống tại bờ biển New England. Một lần nữa, lo lắng và sợ hãi lấp đầy cuộc đời ông.

- Anh ấy không quay trở lại kiếp này.

- Ai không quay trở lại?

- Chồng tôi. Anh ấy tiếp tục những chuyến đi, thỉnh thoảng kéo dài mấy tháng trời và tôi chắc anh không quay lại.

- Trước đó anh ta cũng đi nhiều lần?

- Vâng.

- Trước đó có trở lại?

- Vâng.

- Thì tại sao lần này lại không?

- Bởi vì lần này anh ấy chết. Tôi có thể cảm thấy điều đó.

Ông cố thở thật sâu:

- Những người phụ nữ bạn tôi, cố gắng làm tôi vui nhưng không thể, họ cũng lấy chồng ngư dân, tôi sắp điên lên vì lo lắng.

Nỗi sợ hãi quá khủng khiếp đến nỗi tôi phải hỏi liệu ông có muốn quay về hiện tại. Ông khoát tay.

- Đợi đã. Có tin mới.

Ông bắt đầu than khóc.

- Chiếc thuyền đã bị lật úp. Cả đoàn bị mất tích. Tôi đoán đúng. Anh ấy đã chết. Người yêu dấu của tôi đã chết. Giờ đây tôi không còn gì đáng sống nữa.

Người phụ nữ New England quá sầu muộn rồi chìm sâu vào cơn tuyệt vọng. Nàng không ăn, không ngủ và chết vì quá đau buồn. Linh hồn nàng rời bỏ thể xác, nhưng nó vẫn ở lại quan sát rất lâu. Nàng chết một tuần trước khi người chồng trở về thị trấn. Anh và hai người bạn đồng hành được cứu sống. Họ phải mất thời gian rất lâu để hồi phục và trú tạm trong một ngôi nhà của một góa phụ, đến khi hoàn toàn khỏe mạnh họ mới quay về. Chồng của người phụ nữ (Paul) trong kiếp sống đó chính là Alison.

Kiểm nghiệm lại cuộc đời của người phụ nữ tại New England, một chủ đề mới được nổi lên: kiên nhẫn. Cô thấy rằng nếu cô chờ đợi, không tuyệt vọng, thực tế, không tự giết mình, cô có thể đoàn tụ với chồng và sống hạnh phúc. Khi tôi đưa Paul trở về, ông thấy rằng kiên nhẫn cũng là một yếu tố bị thiếu trong những kiếp khác của ông. Ông Paul đã chết trong tai nạn xe cộ đã thật sự tìm lại tình yêu của mình nơi đây, trong kiếp sống hiện tại, nơi con gái ông.

Thông hiểu về những kiếp sống tiếp nối có lẽ đã ngăn ông uống rượu, nguyên nhân đụng xe, còn ông có lẽ đã có một cuộc sống đầy đủ trong lúc chờ đợi người yêu dấu quay về. Trong kiếp này ông nhận thức được rằng nếu ông không lồng mình vào cuộc sống cả Alison, cách mà ông đã làm, nếu ông để yên cho cô và cho phép cô tự do yêu đương, thì bệnh ung thư của cô có lẽ không đến nỗi quá mức. Có lẽ cô đã có nhiều năng lực hơn, nhiều ý chí hơn để chiến đấu với nó. Ngay bây giờ, ông nghĩ có lẽ cũng chưa quá muộn.

Đợt điều trị trong tuần kế tiếp bắt đầu với một bài tường thuật tiến bộ. Alison đã cảm thấy khá hơn. Các bác sĩ đã được khích lệ. Tất cả các phương pháp khác, điều trị đúng tiêu chuẩn, phương pháp song hành thể xác và tinh thần, sự hiện diện của Phil và cách cư xữ thay đổi của Paul, dường như rất hiệu quả. Paul kể cho tôi nghe rằng đêm hôm trước ông đã ôm lấy Alison, hoàn toàn bằng cả trái tim, ông nói rằng ông yêu thương cô. Cô phản ứng lại bằng cách ôm chầm lấy ông và nói cô cũng rất yêu thương ông và mắt cô nhòa lệ.

Ông mỉm cười nói:

- Còn gì hơn nữa. Thậm chí tôi ôm cả Phil, nhưng không nói yêu thương Phil.

Đó là giây phút tuyệt vời của Paul và ông cho là nhờ vào những đợt quay về quá khứ. Ông yêu cầu tôi đưa ông trở về lần nữa. Cách đó vài thế kỷ trong nền văn hóa cổ xưa của Ấn Độ, ở kiếp sống đó Paul là cô gái trong tầng lớp thấp hèn. Alison là người bạn thân thiết của Paul. Họ không phải bà con ruột thịt nhưng Paul cảm thấy thân thiết với Alison hơn bất cứ chị em gái nào của mình. Hai người dựa vào nhau vì sự sống còn của tình cảm. Họ chia sẻ với nhau mọi suy nghĩ, mơ ước, niềm vui, nỗi buồn. Vì họ sống dưới đáy xã hội, cuộc sống của họ rất khổ cực, nên họ cố gắng giúp đỡ nhau hàng ngày.

Paul kể tiếp trong cay đắng, rồi Alison yêu một thanh niên ở tầng lớp cao hơn. Paul nhận ra chàng thanh niên đó là vợ ông trong kiếp hiện tại, mẹ của Alison. Bất chấp giai cấp họ vẫn hẹn hò. Paul đã cảnh giác với Alison về hậu quả của nổi đau khổ nếu cả hai bị phát hiện. Alison cho rằng “cô chị” chỉ là ghen tị và đi khoe khắp xóm làng về chàng trai đã dành tình yêu cho cô. Gia đình chàng trai phát giác và Alison bị cha của chàng trai giết chết vì đã xúc phạm đến giai cấp của họ. Sự mất mát tàn phá Paul. Ông vẫn còn cay đắng sầu khổ và giận dữ cho phần đời ngắn ngủi còn lại sau đó.

Trong kiếp sống đó linh hồn Paul bay lơ lửng trên thể xác, ông còn có thể liên kết kiếp đó với kiếp sống hiện nay và những kiếp mà ông nhớ lại trong những lần trở về ở hai đợt điều trị đầu tiên. Một mô hình tái diễn về sự mất mát đau thương của tình yêu qua cái chết, đã đưa ông đến nỗi sợ hãi và cơ cấu bảo vệ. Ông đã hiểu được giá trị của sự kiên nhẫn. Cũng trong kiếp làm người Ấn Độ, ông đã xa lánh sự vui vẻ, niềm hân hoan khi chúng có lẽ đang hiện hữu quanh ông, giá mà ông biết rằng Alison sẽ quay trở lại không chỉ một lần mà rất nhiều lần.

Cũng còn có nhiều bài học khác: sự nguy hiểm khi vội vã xét đoán, thiếu khôn ngoan khi trải qua những sự kiện không có triển vọng, sự rũi ro nguy đến tính mạng khi mất tự chủ. Ông đang học hỏi để thoát khỏi nỗi sợ hãi chết chóc và mất mát. Tích cực hơn, ông nắm được khái niệm giá trị cao cả của tình yêu và hiệu quả chữa trị của nó. Tình yêu là sự tuyệt đối, ông hiểu rõ giá trị của tình yêu luôn vượt qua khỏi không gian và thời gian. Tình yêu có thể bị che lấp bởi sợ hãi, nhưng sự sáng suốt của nó hoàn toàn không bao giờ bị giảm sút. Nỗi sợ làm mờ tâm trí, tình yêu mỡ ngỏ trái tim và tẩy xóa nổi sợ.

Tôi tự hỏi thành lời có nên đưa Paul đi đến tương lai, nhưng chúng tôi do dự rất lâu. Cả ông và tôi đều miễn cưỡng nhìn về phía trước từ một kiếp hiện tại của ông, trong ông, bởi vì ông khó mà chịu đựng ý nghĩ khi phát hiện ra rằng bệnh ung thư của Alison cuối cùng sẽ đánh bại cô và trong tôi, bởi vì tôi e ngại sự lo lắng của ông về bệnh tình Alison cùng chúng tôi quyết định nhìn một kiếp tương lai.

Cuối cùng chúng tôi quyết định nhìn một kiếp tương lai, chứ không phải nhìn phía trước của kiếp này, sẽ không có nguy cơ như vậy. Vì vậy. trong đợt điều trị cuối cùng, chúng tôi cùng nhau đi đến một kiếp tương lai. Chuyến du hành này quả là không bình thường vì Paul không nhìn thấy một câu chuyện tiếp diễn, mà một loạt ba bức ảnh chụp nhanh bằng máy ảnh cầm tay. Tuy nhiên nhìn thoát ra rất sống động và tràn ngập xúc cảm mạnh mẻ. Ông nhìn thấy mình già hơn kiếp này, thành công và hoàn toàn sung sướng nhờ vào việc mà con gái mình đả khỏi bệnh.

Ông nhìn thấy Alison vẫn còn sống và khỏe mảnh ở tuổi 67 trong tương lai của kiếp hiện tại. Ông cũng thấy mình đầu thai lại là cháu trai của Alison, được nhận đầy đủ tình yêu và vui sướng trong gia đình tương lai của Alison. Khi tôi hỏi ông bức ảnh đó cách bao xa trong tương lai thì ông nói là 45 năm. Tôi băn khoăn như vậy có nghĩa là cái chết của Paul sắp xảy ra trong kiếp hiện tại, nhưng ông không có vấn đề với những con số. Tôi quên rằng trong khoảnh khắc này thì quá khứ, hiện tại và tương lai là một. Sau đó chúng tôi thảo luận về cuộc hành trình của ông. Tôi hỏi:

- Những tình tiết đối với ông có vẻ không giống như sự mãn nguyện niềm mong ước?

- Không hề. Chúng có thể xảy ra. Vì bác sĩ nêu ra điều đó nên tôi có thể lấy lý do ông nghĩ vậy, nhưng những gì tôi nhìn thấy không phải là cách mà trí tưởng tượng của tôi nghĩ ra. Trước đây tôi chưa hề có những cảnh tượng đó. Chúng có vẻ rất thật.

Chuyện mà ông nhìn thấy ông trở thành cháu của Alison là ông tin vào những niềm tin của riêng ông nhưng trong tâm tôi, tôi cho rằng trí nhớ của ông hơi có một chút quá “hoàn hảo”. Ngay nơi mối quan hệ bà Alison, cháu có thể được giải thích bởi niềm khao khát mãnh liệt để chiếm được tình yêu của Alison trong hiện tại. Nhưng dù sao, ông đã tin những cảnh tượng là thật đó mới là vấn đề quan trọng.

Ông nói:

- Nếu Alison không được chữa khỏi thì kiếp sau của tôi không thể xảy ra.

Lời tuyên bố khiến tôi giật mình. Alison vẫn còn rất yếu, sự giảm bớt bệnh tật như trường hợp của cô bé có thể gây ấn tượng thoáng qua và tôi băn khoăn điều gì sẽ đến với Paul nếu cô bé chết. Tôi ngẫm nghĩ có lẽ Paul sẽ học được sự kiên nhẫn. Có lẽ nó đủ để biết rằng ông sẽ gặp lại cô bé trong một kiếp tới. Không có lý do gì để lay động trạng thái tình cảm thăng bằng trong ông. Ông trở nên người khác biệt với một người tự kỷ khéo miệng lần đầu đến văn phòng tôi. Hơn nữa, những gì ông thấy có lẽ là thật.

Tôi nói với ông:

- Nếu không có ông, chắc hẳn con bé sẽ không đỡ hơn.

Ông giật mình:

- Ý bác sĩ là sao?

- Điều thứ nhất là ông chấp nhận cho bạn trai của Alison đến thăm và để con bé tự do trong tình yêu. Thứ hai là ông từ bỏ sự kiềm chế và còn tự cho mình yêu thương con bé trọn vẹn đầy đủ. Trong những lợi ích khác bao gồm lợi ích với ông, phản ứng của hệ miễn dịch đối với tình yêu song phương đó có thể là phương tiện chống lại bệnh ung thư. Tôi tin là như vậy.

- Cùng với y học.

- Cùng với y học. Nhưng y học không có hiệu quả trước khi ông thay đổi.

- Và tôi thay đổi là nhờ bác sĩ.

Điều gì đó rất lạ khi nghe giọng ông quá khiêm tốn.

- Tôi chỉ đưa ra phương pháp. Quan trọng là ông đã nhận ra và thực hành điều cốt lõi nhất của cả thuộc tính con người: ông sử dụng ý chí tự nguyện.

Paul vẫn có thể chọn cách cứng đầu không lay chuyển. Có thể ông cũng chọn cách từ chối phép trị liệu trở về kiếp trước, và rồi ông đã không thể đạt đến sự cãm thông và sự sáng suốt. Nếu ông nhỏ nhen độc tài, hoặc thiếu kiên nhẫn thì Alison khó giảm bớt cơn đau. Thay vào đó ông đã chọn con đường can đãm, con đường của tình yêu. Nhiều tháng sau, sự cải thiện bệnh tình đã giúp Alison giảm bớt cơn đau nhiều, nhờ có Phil và Paul cùng với cả nhà lúc nào cũng ở bên cô. Bệnh ung thư của cô dường như đã khỏi, đúng như Paul đã nhìn thấy trong tương lai của ông. Kiếp sống đó làm ông yên tâm với kiếp hiện tại. Có lẽ sự lạc quan tin tưởng chắc chắn và tình yêu của ông đã giúp cô bé khỏe hơn.

Câu chuyện của Paul chứng minh vai trò thiết yếu mà sự kiên nhẫn nắm giữ trên hành tinh của chúng ta đến sự bất diệt. Thiếu lòng kiên nhẫn thì nội tâm khó mà yên ổn. Khôn ngoan cũng đòi hỏi kiên nhẫn. Sự kiên nhẫn cho phép định mệnh được bộc lộ để tiến hành với tốc độ không vội vã của riêng nó. Nếu thiếu kiên nhẫn, chúng ta sẽ tự tạo ra niềm đau cho mình và cho người khác. Chúng ta vội vã hấp tấp xét đoán và hành động thiếu cân nhắc sẽ dẫn đến hậu quả của việc mà ta làm. Những sự lựa chọn của chúng ta mà bị sức ép và thường không đúng đắn thì chúng ta sẽ phải chịu trả một cái giá rất cao.

Lẽ ra Paul đã tránh được nỗi đau xé ruột và cái chết tức tưởi trong kiếp quá khứ nếu ông có lòng kiên nhẫn hơn. Ông đã không nhận ra điều đó cho đến tận thế kỷ này, kiếp này, ông mới hiểu được rằng hiện tại và tất cả những kiếp sắp tới có thể sẽ hài hòa hơn, đầy đủ hơn nếu ông không cố thúc đẩy dòng sông thời gian.

#304 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/07/2011 - 09:15

DU HÀNH QUA CÁC VÙNG TÂM THỨC

Chương Bảy

Emily, Joyce, Roberta, và Anne: Bất bạo lực.

Một phụ nữ ba mươi lăm tuổi tên Emily, sống trong bộ lạc du mục ở vùng Trung Mỹ, chết trong một vụ lở bùn do cơn động đất năm 1634. Người chồng điên cuồng trong cơn tuyệt vọng cố gắng cứu cô, nhưng vô ích. Với cô, điều này đã kết thúc một kiếp sống cùng cực. Bộ lạc này hầu như dùng hết thời gian để tìm nguồn nước và khi tôi đưa Emily trở về thời gian đó trước khi cô chết, cô nhớ lại công việc cực nhọc bất tận của thể xác.

Sự khắc nghiệt của thiên nhiên là một sự thật cơ bản trong đời cô. Cả cuộc sống là nỗi sợ hãi không ngừng, không chỉ cho sự yên ổn của riêng cô mà cho cả bảy mươi người khác trong bộ lạc. Trong kiếp hiện tại Emily có nỗi sợ bị kẹt trong cơn động đất, bị kẹt trong bánh lái hay bị bỏ tù. Trong cuộc hội thảo cô kể cho tôi nghe rằng chồng, con gái, là chị em của cô trong kiếp trước. Chị gái cô hiện nay đã từng là người trong bộ lạc ở kiếp xưa.

Những người rất cần thiết cho chúng ta ở kiếp hiện tại, thường là đã xuất hiện ở những kiếp quá khứ. Và một lần nữa cô lo sợ cho họ cũng như cho chính cô. Sự kiện 11 tháng 9 làm cô chấn động tâm lý, cơn động đất nghiêm trọng không còn nữa đã có thể nhìn thấy lại. Cô trở bệnh, bệnh rất nặng không có khả năng ra khỏi nhà.

Một phụ nữ khác tại buổi hội thảo tên Joyce, lắng nghe câu chuyện của cô, bắt đầu thổn thức và tôi thắc mắc tại sao cô lại xúc động như vậy. Cô nói cô đã có những giấc mơ sống động và chi tiết của sự kiện 11 tháng 9, nhưng cô chỉ mơ thấy vào đêm 10 tháng 9. Từ lúc bước vào hội thảo cô đã chú ý đến Emily. Trước đó cô chưa hề gặp Emily, nhưng không hiểu tại sao cô cứ theo Emily hai ngày mà không nói một câu. Bây giờ thì cô đã biết lý do, và cô cũng biết tại sao cô cũng sợ rời khỏi nhà giống như Emily.

Cô là một phụ nữ thành đạt có một mạng lưới quan hệ cộng đồng khắp thế giới, nhưng từ khi sự kiện 11 tháng 9 cô không thể đến các văn phòng chi nhánh ngoài New York, và việc kinh doanh của cô trở nên khốn đốn. Hai người phụ nữ ôm chầm lấy nhau tìm kiếm niềm an ủi lẫn nhau. Trường hợp của Emily là do cơn bạo lực của thiên nhiên gây ra sự chấn thương và đã kéo dài qua nhiều thế kỷ. Sự bạo động trong trường hợp của Joyce là do con người tạo ra, và có thể cơn chấn động tâm lý sẽ theo cô trong nhiều kiếp tương lai, trừ phi liệu pháp tâm lý xóa đi nỗi sợ. Câu chuyện của họ vẫn đeo đuổi tôi vì tôi phản đối bạo lực.

Nếu bạo lực do thiên nhiên, cơn bão táp của núi lửa, chúng ta đành chấp nhận và hiểu rằng có lẽ nó xảy ra bởi một nguyên nhân. Nhưng bạo lực gây ra bởi chính bàn tay và sức mạnh của chúng ta, bất kể đối với nhân loại khác hoặc chống lại chính hành tinh này, là chúng ta tự đặt từng cá nhân riêng lẻ và cả tập thể lâm vào nguy cơ bị tổn hại. Kiểm soát cơn giận là một bước khởi đầu hướng đến để tránh khỏi nó. Như chúng ta thấy trong chương hai, không có những chuyến trở về quá khứ, có lẽ Geogre dễ dàng gây tổn thương cho một trong các đồng nghiệp hoặc một người trong gia đình, vì những ảnh hưởng xấu nhất của bạo lực có thể trừng phạt gia đình, bạn bè và đồng nghiệp của người bạo lực.

Tôi có hàng tá trường hợp tương tự của những người gây bạo lực rồi bản thân họ phải trải qua những hậu quả, kể cả những người khác cũng bị ảnh hưởng theo trong những kiếp sau đó, gồm có kiếp này. Roberta đến gặp tôi vì chồng cô năn nỉ. Tom, một anh chàng kế toán 38 tuổi, một người đang thành công trong việc phát triển công việc kế toán cho các doanh nghiệp nhỏ. Tôi gặp anh ta trong buổi quyên góp tài chính cho trung tâm y khoa Mount Sinai. Roberta, trẻ hơn 6 tuổi, cũng rất thành công, một phó giám đốc quan hệ cộng đồng của một hãng hàng không lớn. Cô đến văn phòng tôi vào một buổi sáng mùa đông quang đãng, Tom cũng có mặt bên cô.

Tóc cô màu vàng, quăn xoắn lấp lánh dưới ánh đèn văn phòng, vây quanh khuôn mặt trái xoan, trông cô giống như cô bé Annie trong truyện Little Orphan Annie. Cái ấn tượng của tuổi thanh xuân bù đắp lại đôi mắt xanh lơ thông minh sắc sảo, và cái miệng rộng gợi cảm thanh tú dưới lớp son hồng. Dáng cô thanh mảnh và đôi tay quá mềm mại khi bắt tay tôi. Tom đã nói trước với tôi rằng họ đang có vấn đề về thụ thai, và tôi đoán chừng những nhánh phức tạp thuộc tâm lý của vấn đề có là nguyên nhân họ đến với tôi. Nhưng tôi đã lầm.

- Tom sắp bỏ tôi.

Cô buột miệng nói ngay khi Tom vừa rời văn phòng, và tôi cũng vừa ghi chép xong phần chi tiết về tuổi tác, địa chỉ, nghề nghiệp, gia đình. Tuy nhiên lúc tôi gặp Tom tại cuộc quyên góp, Tom nói rằng Roberta là “lý do để anh còn tồn tại”, khó mà nghĩ rằng đó là lời nói của người đàn ông sắp bỏ vợ.

Tôi hỏi lại:

- Điều gì làm cô nghĩ vậy? Anh ra có nói gì không? Gián tiếp bằng cách này hay cách khác rằng anh ta...

Cô nói nhanh:

- À, không, không có như vậy.

Cô ngừng lại một chút, cắn móng tay và nhìn tôi e thẹn:

- Tôi chỉ “biết” vậy.

- Không có sự kiện khách quan? Đó là một cảm giác nội tâm?

Cô nhún vai:

- Bác sĩ có thể gọi đó là trí tưởng tượng, nhưng nó quá rõ, nó ám ảnh tôi. Tôi không thể ngủ được. Tôi luôn nghĩ đến điều này.

- Khi cô nói với Tom về điều này thì sao?

- Anh ấy nói tôi ngớ ngẩn. Tôi không hỏi nữa vì anh cho là tôi vẫn còn ngu xuẩn thậm chí hoang tưởng, và điều đó có thể khiến anh ấy bỏ tôi nhanh hơn.

Kiểu suy nghĩ vòng vo là thường thấy ở các bệnh nhân mà họ đã bị lạc mất chứng cứ với thực tế.

- Rồi cô đối xữ với anh ta như thế nào?

Cô hướng mặt nhìn sàn nhà:

- Hầu như tôi bám chặt vào Tom mặc dù tôi biết anh ấy không thích. Điều đó làm tôi nổi điên nên tôi gạt anh sang một bên. Cả hai chúng tôi đều ghét tính lệ thuộc quá mức của tôi. Anh nói tôi phải tin tưởng anh, phải tự tin vào anh vào chúng tôi. Tôi biết tôi nên tin nhưng tôi không thể.

- Tom nói gì khi cô nói với anh ấy cô không thể?

- Chẳng nói gì. Sự im lặng của anh ấy là tệ nhất.

Tôi có thể nhận thấy cô ta đang run dù là giọng nói vẫn khá mạnh mẽ. Rõ ràng là cô đang xúc động rất mạnh.

- Anh ấy là người tốt. Lúc tôi vui anh cũng vui, lúc tôi buồn anh cũng buồn.

- Vậy cô nổi giận khi nào rồi gạt anh ta sang một bên?

- Tôi nghĩ rằng anh ấy cũng nổi giận nhưng không biểu lộ. Hầu như anh cố gắng loại bỏ tâm tính của tôi, chọc tôi vui để khỏi buồn phiền, giống như tôi là cái loại tàn phế hay là khập khiễng về cảm xúc.

- Anh ta kể với tôi là cô có vấn đề với việc thụ thai.

Cô lộ vẻ buồn:

- Dạ, đúng.

- Cô đã đi bác sĩ chưa?

- Dạ có. Bác sĩ không tìm thấy vấn đề trục trặc nào của cả hai chúng tôi.

- Về việc thụ tinh nhân tạo thì sao?

Đây là một chủ đề an toàn. Giọng cô vững vàng hơn.

- Đó là một sự lựa chọn. Nhưng chúng tôi không muốn trừ phi bác sĩ cảm thấy đó lựa chọn duy nhất của chúng tôi. Tôi bị ảnh hưởng hooc-môn của tất cả các loại. Đặt tôi gần một con ong thì tôi sẽ bị khiếp sợ vì bị sốc dị ứng.

- Còn xin con nuôi thì sao?

- Lại nữa, một lựa chọn, một phương sách cuối. Tôi muốn con của anh ấy.

- Và anh ấy cũng muốn chính con của cô.

- Hoàn toàn đúng vậy.

Chúng tôi yên lặng một lát. Tôi buộc phải mỉm cười vì đôi mắt sắc sảo chạm vào mắt tôi và cô ta bổng nhiên nổi giận.

- Có gì mà cười?

- Cả hai người đang cố gắng có con. Anh ta không hề có dấu hiệu là muốn bỏ cô. Tôi biết một sự thật mà anh ta đã nói với tôi: cô là cuộc sống của anh ta. Tại sao không tin vào lời nói của anh ta?

Cô có vẻ nghiêm trọng:

- Vì nỗi sợ hãi.

- Sợ gì?

Cô bắt đầu khóc:

- Sợ bị bỏ rơi. Tôi không thể nghĩ đến điều gì khác tồi tệ hơn.

Đây là một lập luận điển hình cho phép trị liệu quay về quá khứ. Không có gì trong đời sống của Roberta mà chỉ ra chuyện cô bị người yêu bỏ rơi, nhưng nỗi sợ của cô quá lớn đến nỗi dường như cô đã từng ở thời điểm trước. Cô yêu Tom thắm thiết và Tom cũng biết điều đó. Cách cư xử và nỗi sợ của cô không tạo ra một ý nghĩa gì trong ngữ cảnh của những vấn đề mà tôi biết về mối quan hệ của họ. Tôi nói với cô có lẽ chúng tôi nên tìm ra cái gốc của nỗi sợ trong một đời sống khác. Cô bằng lòng:

- Ồ, thật kỳ diệu vậy sao!

Cô nhanh chóng đi sâu, và không mất nhiều thời gian để chúng tôi tìm ra một mối nối. Cô nói trong nỗi tiếc thương tràn ngập:

- Đây là năm 849, năm tôi chết. Tôi sống trong một căn nhà rất dễ thương, một trong những ngôi nhà đẹp nhất làng. Tôi rất yêu chồng, anh là cả cuộc đời tôi, tôi đang mang thai đứa con đầu lòng được bốn tháng. Quả là một lần mang thai quá khó. Tôi bệnh thường xuyên và không thể làm việc. Tôi chỉ thoải mái khi nằm nghỉ.

Một cái nhìn đau khổ thoáng qua mặt cô, và cô đưa tay lên bảo vệ đôi mắt:

- Chúng tôi đang trong tình trạng sắp xãy ra nguy hiểm bị tấn công. Quân xâm lăng đang ở ngoài thành. Tất cả dân trong thành, đàn ông đàn bà đều trang bị vũ khí để chống lại họ, chuẩn bị chiến đấu bảo vệ thành trì. (Những giọt nước mắt rơi đầm đìa). Tôi quá yếu không thể chiến đấu. Chồng tôi để tôi ở lại nhà và nói rằng nếu thấy trận chiến dữ dội, anh sẽ quay về và đưa tôi đến miền Nam, đến ngôi làng của tổ tiên anh. Tôi năn nỉ anh đưa tôi đi cùng, nhưng anh nói anh phải đánh trận. Đó là bổn phận của anh.

Tôi hỏi:

- Cô cảm thấy thế nào về điều đó?

- Buồn. Rất buồn. Ai sẽ chăm sóc tôi?

Nỗi đau khổ của cô lộ rõ trên khuôn mặt.

- Cô có muốn dừng cuộc thoái chuyển?

- Ồ không. Cứ tiếp tục.

Trong tình trạng bị thôi miên rất sâu, cô trở nên khó thở và thân thể căng ra trên chiếc ghế. Cô nói với tôi:

- Anh ấy đã đi. Tôi có thể nghe tiếng la hét của trận chiến. Tôi đi lui đi tới từng bước, chờ đợi. Tôi khiếp sợ, lo lắng về đứa con chưa sinh ra. Cánh cửa vụt mở. Chúa ơi! Không phải chồng tôi mà là những tên xâm lược. Một tên trong đó cầm gươm chén tôi. Chém nhiều nhát. Thanh gươm chọc thẳng vào bụng và đứa con tôi chết. Tôi ngã xuống. Máu tràn ngập khắp nơi. Một vết chém khác ngay cổ tôi. Tôi chết.

Cô nghẹn ngào khóc. Khi tôi đưa cô về hiện tại, cô nhìn tôi sửng sốt:

- Chồng tôi. Anh ấy là Tom. Tom của tôi. Tình yêu của tôi. Anh ấy bỏ rơi tôi đến chết.

Như thể có ánh mặt trời soi rọi khắp phòng. Như chúng ta đã thấy nhiều trường hợp khác, thân quyến trong kiếp hiện tại của người bệnh đã từng xuất hiện trong những kiếp quá khứ, nhưng mối quan hệ của họ thường thay đổi. Người con gái có thể trở thành bà ngoại, cha, chị em gái, anh em trai hoặc con cái. Chúng ta học hỏi từ những mối quan hệ của chúng ta. Con người quay trở lại với nhau nhiều lần để giải quyết nhửng vấn đề và để học hỏi về tình yêu trong mọi hình thức.

Thỉnh thoảng, như trường hợp của Roberta, những mối quan hệ giống nhau. Chồng cô, Tom, trong kiếp này cũng đã từng là chồng cô vào thế kỷ thứ 9, và anh đã bỏ rơi cô, có phải không? Tôi băn khoăn liệu tôi có thể đưa Tom về đúng thời gian đó, không gian đó để tìm hiểu điều gì đã xảy ra cho anh vào cái ngày đó. Tại sao anh lại bỏ rơi cô? Cuộc sống của anh như thế nào sau cái chết của vợ và đứa con chưa ra đời?

Trong hiện tại anh đã đi cùng Roberta trong nhiều đợt điều trị, chờ đợi cô ngoài cửa cho đến khi cô khám xong, và thường xuyên cả ba chúng tôi trò chuyện khi thời gian dành cho Roberta gần hết. Bây giờ tôi gọi anh ghé qua chỗ tôi và xin phép cả hai để tôi đưa Tom về quá khứ, tuy phải thừa nhận rằng anh ta không phải là bệnh nhân của tôi.

Tôi đã từng làm việc với những cặp vợ chồng mà họ đã chia sẻ những kiếp quá khứ. Và giờ đây tôi quả thật lo lắng để có được cơ hội lấy lời giải thích của Tom về những điều đó, nếu tôi có thể. Nếu như Roberta biết rằng cô không hề bị anh ta bỏ rơi lúc đó, có lẽ nỗi sợ bị bỏ rơi hiện nay sẽ tan đi. Tom có công việc phải rời thành phố, vì vậy cuộc hẹn phải dời lại vài tuần sau. Roberta quay lại vào tuần kế tiếp. Cô trở lại quá khứ mà không cần nhiều nỗ lực.

- Đó là Paris. Vào mùa hè. Tôi còn trẻ không quá 25 tuổi và rất đẹp. Tất cả điều mà tôi muốn làm là để hưởng thú vui, nhưng tôi không thể. Bà ngoại sống với tôi. Tôi nhận ra bà là Tom.

Cô kể mà không hề ngạc nhiên. Mặc dù những gì cô thấy rất chi tiết và sống động, Roberta lại không đến nỗi lo lắng như lần trước.

- Lúc cha mẹ chết tôi còn rất nhỏ, bà tôi đả nuôi nấng tôi từ đó, nhưng bây giờ tôi phải chăm sóc lại bà vì bà bị bệnh và rất yếu. Bà cũng hay vòi vĩnh, làm nũng. Chúng tôi rất nghèo nên tôi phải đi chợ, rửa dọn, nấu ăn và phải thường xuyên thay quần áo hôi cho bà vì bà luôn bốc mùi và cứ tự làm dơ. Thật là không công bằng! Tôi không nên cứ phải làm những việc đó suốt ngày này qua ngày khác. Một cô gái phải có điều gì vui thú trong cuộc đời chứ.

Trong câu cuối cô nói có vẻ rất quyết liệt. Cô chồm người về phía tôi với vẻ bí ẩn.

- Tôi bỏ trốn, trốn đến nhà bạn tôi, Alain. Anh ta chăm sóc tôi và sẽ cho tôi một thời gian vui vẻ.

Cô nhảy về phía trước đúng lúc, và không rõ có phải hồi ức kế tiếp của cô đi liền theo sự vắng mặt từ nơi ở của bà ngoại cô, hay hồi ức khác sau đó.

- Cái chết của bà tôi! Trong khi tôi đang ra ngoài quán rượu ăn chơi, nhảy nhót với bạn trai thì bà chết. Khi tôi trở về nhà thì mới thấy thi thể bà. Dường như bà bị chết đói vì bà ốm trơ xương. Không có người hàng xóm nào nghe bà kêu la vì vậy không ai biết bà chết lúc nào, nhưng chắc là không quá lâu. Vì thi thể bà chưa bốc mùi. Ít nhất củng không hơn gì cái mùi bà có. Dù sao đi nữa đó cũng là một tin xấu. Để lại tiếng xấu cho tôi. Tôi sắp có con mà tôi không có tiền, không một xu. Tôi cũng không biết ai là cha của đứa bé. Alain nói rằng anh sẽ cho tôi tiền nếu đứa bé là con anh, nhưng tôi phải chứng minh. Bây giờ làm sao tôi chứng minh cho đến lúc sinh con?

Cuối cùng thì chẳng thành vấn đề nữa. Roberta chết lúc sinh con. Linh hồn cô bay lơ lửng ngoài thể xác. Cô quan sát rất lâu để bảo đảm là con cô còn sống, dù cha đứa bé là ai củng không còn quan trọng. Trong sự kiểm nghiệm lại cuộc đời, cảm xúc trào dâng đầy tội lỗi. Cô nói:

- Tôi rất yêu bà, không phải vì bà nuôi tôi lớn mà vì bà là một người tốt, chỉ muốn những gì tốt đẹp nhất cho tôi. Nhưng tôi quá trẻ và quá ít kỷ. Tôi đặt nhu cầu tự do và tình yêu trai gái lên hàng đầu, hơn cả những điều cần thiết của bà. Ít nhất thì tôi cũng có thể làm cân bằng lại, nhưng tôi kết thúc tàn nhẫn bằng cách bỏ rơi bà và...

Cô ngừng đột ngột. Tôi nói với cô, không phải để khuyến khích cô, nhưng vì biết rằng cô thật sự có liên quan đến hai lần trở về.

- Cô đã nhìn thấy mối tương quan.

- Dạ có. Tôi bỏ rơi bà vì chồng tôi đã bỏ rơi tôi hàng ngàn năm trước. Tại Paris, bà chính là Tom, chồng tôi, người đã bỏ tôi chết một mình. Đó là hành động trả thù.

Một tuần sau đó, lần trở về thứ ba mới tiến hành. Lần này chỉ ra một khía cạnh khác của một đề tài bạo lực và bỏ rơi. Cô là một cô gái Pakistan, sống trong ngôi nhà nhỏ bằng gỗ cách đây 500 năm. Mẹ cô chết khi cô 11 tuổi, và như tại Paris gánh nặng của việc nấu nướng, dọn dẹp, và những việc vặt vãnh chán ngắt trút lên đầu cô, mặc dù ở kiếp sống đó cô có cha và anh trai mà lẽ ra họ phải giúp cô.

Cô nói:

- Họ đánh tôi. Bất cứ khi nào tôi làm sai, nếu tôi không giặt kịp quần áo cho họ hoặc nấu ăn không vừa miệng, họ la hét và đánh tôi, khi thì người này khi thì người kia, đôi lúc cả hai cùng đánh.

- Tại sao cô không bỏ họ, trốn đi.

- Tôi cần họ cho thức ăn và chỗ ở.

Cô run lên.

- Tệ hơn, tôi sợ những gì sẽ xảy ra co tôi khi tôi bỏ đi.

- Còn điều gì khác nữa?

- Tôi...tôi yêu họ.

Câu trả lời làm tôi ngạc nhiên.

- Thật sao? Tại sao?

- Bởi vì họ không thể chịu đựng việc mà họ đang làm. Rốt cuộc mẹ tôi chết bỏ rơi họ lại. Hai người chị cũng đã chết trước bà. Quả là một thời kỳ u ám tối tăm. Không có luật pháp. Họ là những người phải nuôi gia đình, điều này có nghĩa là mỗi ngày đều có khả năng bạo lực, nguy cơ họ bị giết chết. Căn bệnh đã giết mẹ tôi có thể cũng sẽ giết bất kỳ người nào trong chúng tôi. Họ không kiểm soát được cái gì sẽ xảy ra, không kiểm soát được thiên nhiên, con người, định mệnh.

Cô lắc đầu.

- Con người sống trong thời gian đó không tiền, không hy vọng, thật là quá khủng khiếp.

- Cho nên cô vì họ, chứ không phải bất chấp họ, mà cô chọn ở lại.

Đó là lời giải thích mà cô không nghĩ đến, nhưng tôi chắc cô sẽ tự hiểu.

- Đúng vậy.

- Chuyện gì xảy ra sau đó?

- Họ không đánh tôi nữa. Ngày nọ, đơn thuần họ dừng tay thôi không đánh nữa. Cha tôi chết ngay sau đó. Chỉ còn lại anh trai tôi. Khi lập gia đình, anh đưa tôi đi theo. Cuối cùng tôi cũng tìm được người đàn ông của đời mình, anh ấy yêu tôi và chúng tôi chuyển đi. Anh là người tốt, chúng tôi sống một đời sống bình thường trong thời gian đó, không gian đó.

- Cô chết trong hạnh phúc?

Cô thở dài.

- Tôi chết trong toại nguyện.

Khi kiểm nghiệm lại cuộc đời hiện tại cô nhận ra cả ba lần quay về quá khứ và đặc biệt là lần đầu, đã giải thích lý do tại sao cô quá sợ Tom bỏ rơi cô, nhưng cô hiểu điều này bằng trí óc chứ không bằng trái tim và cô vẫn còn khó chịu. Tôi nói:

- Tôi sẽ gặp Tom vào ngày mai. Có lẽ anh có thể giúp đỡ.

Anh đến, đầy lo lắng và nói:

- Tôi sẽ làm vì Roberta, để khám phá về nàng không phải về tôi.

Để tránh sự bóp méo, tôi không kể cho Tom việc tôi đã hướng dẫn Roberta thu thập những tình tiết trong kiếp quá khứ của cô. Tôi hứa với anh ta rằng chỉ cần trải qua một đợt duy nhất, trừ phi anh muốn trở lại.

- Không có cơ hội đâu.

Anh nói với vẻ cảnh giác đầy huyền bí, tâm lý cung của các kế toán, luật sư hay bác sĩ, người có tư duy phân tích, van nài một lời giải thích chính xác. Tôi hơi ngạc nhiên một chút, cho nên khi anh đạt đến mức độ thư giãn sâu trong khoảng một vài phút, tôi nói với anh ta:

- Tôi sẽ đưa anh đến kiếp quá khứ khi anh và Roberta sống với nhau.

Hầu như ngay lập tức sống lưng anh uốn cong như thể có người nào đó hoặc vật nào đó đánh vào anh. Anh nói thất vọng:

- Tôi vừa ra khỏi đây.

- Anh đang ở đâu.

- Trong trận chiến. Chúng tôi bị bao vây rất bất lợi. Ôi, người vợ tội nghiệp của tôi! Tôi đã bỏ nàng một mình, mà tôi đã hứa...

Mắt anh nhắm nghiền, nhưng anh đưa tay lên như thể đang nắm và sử dụng cái rìu hay thanh gươm.

- Tôi sẽ mở đường ra! Nàng đang cần tôi.

Anh hét lên và đưa tay xuống; Rồi độ căng thẳng cơ bắp biến mất và đôi tay nằm yếu ớt trong lòng. Anh thầm thì:

- Quá trễ, tôi không bao giờ gặp lại nàng, không bao giờ biết mặt con mình.

Cảm xúc cuối cùng là tội lỗi và buồn thảm. Khi tôi đưa anh trở về hiện tại, anh nói rằng không bao giờ anh rời xa Roberta nữa. Tôi biết có nhiều bệnh nhân của tôi đã từng chia sẻ với nhau trong kiếp quá khứ. Qua họ tôi khám phá ra chuyện của đôi bạn tri kỷ cùng đến với nhau qua rất nhiều thời gian và tôi thấy những hiện tượng xảy ra rất nhiều. Khi Roberta đến cho đợt điều trị kế tiếp, cô rất thư giãn và mỉm cười; Mặt trời lại soi sáng. Hiển nhiên cô và Tom đã từng sống với nhau vào thế kỷ thứ 9.

- Bây giờ tôi biết vì sao anh không quay lại cứu tôi. Đúng là anh bỏ rơi tôi, nhưng không phải vì anh muốn vậy, anh vẫn nghĩ đến tôi lúc sắp chết.

Cô cười:

- Bây giờ thì anh quá già để chiến đấu bảo vệ đất nước, cho nên tôi nghĩ là tôi nên yên tâm trong đời sống hiện tại. Với sự giúp đỡ của ông, bác sĩ Weiss, tôi đã hiểu rỏ tại sao tôi lại quá sợ anh rời bỏ tôi. Và rõ ràng là khi anh nói yêu tôi, thì đúng là như vậy. Con người yêu nhau không nên rời bỏ nhau, có phải không?

Roberta dễ dàng từ bỏ nỗi sợ bị bỏ rơi, nỗi bất ổn và nghi ngờ về Tom. Cô nhận ra rằng bạo lực là phần không cần thiết trong mỗi đời người, và cô nên lựa chọn tình yêu thay vì sợ hãi. Sự lựa chọn này là chủ đề cốt lõi hoặc mô hình trong nhiều lần liên tiếp quay về quá khứ của cô. Cô cũng thấy điều này trong cô gái Pakistan, người đã chọn tình yêu đối với cha và anh trai dù là bản chất họ có tính bạo lực, còn hơn là ghét hoặc sợ họ.

Vẫn còn một trở ngại cho Roberta và Tom là sự thụ thai. Sự mất mát đứa con vào thế kỷ thứ 9 có lẽ cũng giải thích được điều này, và luôn cả cái chết của cô hy sinh con vào thế kỷ 19 tại Pháp. Tuy nhiên những sự kiện này đều đã xảy ra, cô đã hiểu, giống như vấn đề bị bỏ rơi, có lẽ sẽ không bao giờ xảy ra nữa trong kiếp hiện tại và kể cả những kiếp tương lai. Tôi quyết định thử đưa Roberta đến tương lai gần để cô có thể hiểu toàn bộ khái niệm này. Như thường lệ, cô nhanh chóng đạt đến một tình trạng yên bình, và nhanh chóng quan sát quá trình của cuộc đời cô từ một viễn cảnh cao hơn.

- Tôi nhìn thấy hai con đường đời, một có con và một không có con.

- Hãy bắt đầu với con đường không có con.

- Con đường này thì hẹp, tối đen, cằn cỗi. Tôi sợ mọi thứ, từ côn trùng, rắn rết cho đến ngoài cửa nhà. Bởi vì chúng tôi không có con, Tom đã bỏ rơi tôi, điều đó làm tăng thêm nỗi sợ của tôi. Không có người đàn ông nào cưới tôi nữa. Sự yếu đuối và sợ hãi cứ theo tôi.

Cô rùng mình.

- Thật kinh khủng.

Tôi khuyến khích:

- Còn có con?

- Thế giới thật là rộng lớn và tràn đầy ánh nắng. Tom đi cùng tôi, cũng như anh đã hứa. Tôi thật trọn vẹn hạnh phúc.

Đi đến một tương lai hạnh phúc này, cô có khả năng loại bỏ nỗi sợ đã đeo bám cô từ nhiều kiếp, bị bỏ rơi, sự phản bội. Như cô đã tạo ra những mối tương quan này, gương mặt cô rạng rỡ. Tôi hỏi:

- Cô đang ở đâu?

- Tôi đang ở trên rất cao, cao hơn những đám mây. Tôi đang bay. Bay lơ lửng và quan sát. Ở đây thật là đẹp. Không khí rất trong lành. Tôi có thể nhìn xa ngàn dặm.

- Cô đang ở một mình?

- Dạ đúng. Khoan đã...không! Hai cô con gái. Hai thiên thần bé nhỏ của tôi đang đến chào đón tôi. Tôi có thể cảm nhận được niềm vui của chúng, niềm hân hoan của chúng. Ồ, tôi rất yêu thương chúng và tôi rất vui.

Cô ngừng lại quan sát linh hồn cô ở tương lai.

- Tôi nhận ra con gái tôi, một đứa là bà ngoại tôi, người mà tôi yêu quý nhất trên đời. Bà chết năm tôi chín tuổi. Còn đứa khác là mẹ tôi, không phải người mẹ trong kiếp hiện tại, mà chính là người mẹ trong kiếp làm cô gái Pakistan 500 năm trước đây. Chúng ôm chặt tôi và tôi cũng ôm chặt chúng, và chúng tôi sẽ luôn ở bên nhau.

Tôi không có cách đánh giá hợp lý hình ảnh của Roberta nhưng tôi tường thuật lại rất chính xác. Đó là sự trải nghiệm của cô và cô tin rằng đây là những gì sẽ đến. Có khả năng rằng Roberta và Tom sẽ không thể thụ thai và quan điểm bất cứ đứa trẻ nào cũng được là một mơ tưởng, tuy vậy Roberta và Tom có thể, dĩ nhiên, con nuôi. Điều quan trọng là Roberta đã đủ tự tin rằng cuối cùng cô sẽ được hợp nhất với con cô, và vì điều này cô tự tin hơn về bản thân và khả năng yêu thương.

Cô đã tạo ra một cách sống từ một thời của bạo lực đến một thời của hòa bình; cô đang tạo ra một tiến bộ hướng đến một điểm “ở trên những đám mây”. Câu chuyện của Roberta chứng minh sự tổn hại mà bạo lực đã gây ra, không chỉ ngay tức thì mà còn gây cho nhiều thế hệ tương lai và không chỉ gây cho nạn nhân mà cho cả thủ phạm. Những người bạo lực hoặc người bị bạo lực có lẽ sẽ mang nỗi sợ hãi và những cảm xúc tiêu cực kèm theo đến nhiều kiếp sau, cho đến khi họ tìm được tình yêu, như Roberta.

Câu chuyện của Anna đưa ra một sự hấp dẫn tương phản với câu chuyện của Roberta, vì chuyện của cô bắt đầu trong tương lai. Hai ngày trước khi cô đến gặp tôi, cô thức giấc vì một giấc mơ làm ướt đẫm mồ hôi. Đó là một trong những giấc mơ kỳ lạ luôn tái diễn với cô từ trước tới nay: chỉ khi nào giấc mơ có ý nghĩa thật sâu cô mới đổ mồ hôi và tỉnh giấc. Cô Annne trở thành một Anne trong tương lai được xác định bởi những lựa chọn của cô.

Cô nghe một giọng nói dù cô không nhìn thấy người đưa tin và cũng không biết là đàn ông hay đàn bà. Cô nói với tôi một người rất thông minh đã trao cho cô lời nhắn đó. Lời nhắn này có vẻ như ai đó đã biết những gì cô chọn lựa sẽ thành hiện thực, cô thì không hề có ý niệm gì về sự chọn lựa mà họ nói đến. Suốt cuộc đời, cô cứ hành động hấp tấp, đôi khi tùy hứng. Anne, 24 tuổi, thân hình chắc nịch nhưng không mập trông giống cô gái đeo kính đóng vai người bạn thân nhất của ngôi sao trong các phim dành cho thanh thiếu niên. Cô là một nghiên cứu sinh đang nghiên cứu khoa kiến trúc trên phía Bắc.

Mục đích của cô là thiết kế những khu liên hợp nhà ở đổi mới, hợp nhất những mối liên quan thuộc môi trường và cho phép người giàu, người nghèo sống chung. Hình ảnh của cô là một cảnh tượng về con người sống hài hòa trong một khung cảnh tuyệt vời. Giọng nói biết kế hoạch của cô. Cô có một giấc mơ sau khi chúng tôi làm việc với nhau, nó chỉ cho cô một tương lai nơi mà Anne đã thiết kế trong dự án. Nó giống như một tiểu thuyết gia muốn viết một tiểu thuyết và phát hiện ra nhờ một người nhắn tin mà ông ta đã viết nó rồi trong tương lai.

Giọng nói bảo cô rằng công việc của cô sẽ liên quan đến tương lai đó, nơi mà cô đã phát triển kế hoạch của cô, chứ không phải nơi mà cô không phát triển kế hoạch. Cô không biết là tôi đã bắt đầu đưa bệnh nhân đi đến tương lai. Cô rất tò mò về ý nghĩa của giấc mơ trong hiện tại. Cô kể rằng vật chướng ngại cản trở cô hoàn thành kế hoạch nằm trong nỗi sợ hãi bị chú ý. Nếu có người khen công việc của cô thì cô lại lo lắng. Thường thường, cô giấu tên khi đệ trình những bản vẽ mặc dù giáo sư của cô biết cô là người vẽ. Viễn cảnh thắng một giải thưởng hoặc đạt được sự công nhận thành tích bị nỗi sợ của cô vùi lấp. Cô biết sự thành công công khai có thể đẩy nhanh một cuộc tấn công kinh hoàng.

Tiểu sử của cô không đưa ra một lời giải thích cho những phản ứng trong đời sống hiện tại. Tuy vậy những giấc mơ của cô gây cho tôi sự tò mò nên tôi đề nghị đầu tiên chúng tôi nhìn vào tương lai để tìm kiếm thêm thông tin hoặc làm sáng tỏ những giấc mơ. Cô đồng ý. Trong lúc cô đang vào tình trạng hôn mê thư giãn, tôi đưa cô đến phía trước đúng thời gian để khám phá cái gì sẽ xảy ra cho dự án nhà ở.

Cô quan sát vài viễn cảnh tương lai trải ra. Một tương lai không hề có dự án nào cả. Cô làm cho một công ty kiến trúc, nhưng ở vị trí trung bình, phác thảo những ý tưởng của người khác. Tương lai thứ hai có một dự án về nhà ở được hoàn thành, và nó chỉ hợp nhất vài ý tưởng của cô. Nó không được hoàn hảo, không giống như cô mong đợi. Cô có thể nhìn tấm đá trong gian sảnh chính không đề tên cô. Viễn cảnh thứ ba, chiến thắng! Khu liên hợp là nguyên bản thiết kế của cô. Tên cô đứng đầu trên bảng vẽ kiến trúc và trên tấm đá. Tuy nhiên khi kể lại, dường như cô không được vui. Cũng có vài viễn cảnh có thể xảy ra, nhưng không rõ ràng như viễn cảnh thứ ba. Khi tôi đưa cô trở về cô nói:

- Đó là nỗi sợ. Sợ được công nhận. sợ được thành công. Tôi nhận ra tôi có thể theo bất cứ cách nào, nhưng cách thứ ba có vẻ khủng khiếp nhất. Tôi không muốn tên tôi trên tấm đá đó. Thật ra, tấm đá không phải dấu hiệu của cái tôi. Đó chỉ là một vật tượng trưng sự vắng bóng nỗi sợ và vắng bóng sự tấn công kinh hoàng.

Trong mức mà cô sợ hãi tên cô không chắc được đề trên đó. Tôi biết chúng tôi cần tìm về quá khứ của cô cho việc chữa trị được tiến hành. Lần trở về quá khứ đầu tiên Anne là một chàng trai trẻ sống trong một nền văn hóa cưỡi ngựa cổ đại ở vùng trung tâm Châu Á. Người tù trưởng trong bộ lạc có một đứa con trai lớn hơn Anne 2 tuổi, nhưng thua kém Anne về kỹ năng cưỡi ngựa, bắn cung hoặc sử dụng kiếm. Anne kể đơn giản:

- Hắn không ưa tôi.

Gã đó đang được chuẩn bị để nối ngôi cha, người cha nổi giận khi nhìn thấy con trai mình bị bức chế liên tục. Anne lãng quên những hậu quả trong sự thành công của mình, lại thêm càng lúc gã con trai người tù trưởng càng cảm thấy bị bẽ mặt trước những chiến thắng của Anne.

- Có một cuộc tỉ thí về đua ngựa cho các chàng trai trẻ trong bộ lạc. Đó là cuộc thi mà tôi quyết tâm giành thắng lợi và tôi đã thành công. Cả bộ lạc, đàn ông và đàn bà tiếp rước tôi tưng bừng. Tôi say mèm, ngủ quên trên cánh đồng ngoài làng. Gã con trai lẻn lại gần cắt cổ tôi. Tôi chưa chết ngay. Tôi còn quan sát dòng máu đỏ tươi trào ra.

Sau khi đưa Anne trở lại chúng tôi có một cuộc thảo luận. Anne đã bắt đầu hiểu ra mối nguy hiểm ghê gớm mà sự thành công của cô đã tạo ra. Cô than vãn:

- Dĩ nhiên là bây giờ ngồi đây với bác sĩ thì dễ nối lại sự thành công bên ngoài và cái thương tổn lớn lao về thể xác. Không còn thắc mắc vì sao tôi lo sợ.

Cô có thể thấy một mô hình của sự thành công gây ra mối nguy hiểm trong một sợi dây biến ảo muôn màu của cảnh tượng ở kiếp quá khứ, trong khoảng thời gian của chuyến đi về kế tiếp. Vào một kiếp khác cô là một nhạc sĩ tài hoa, một người đàn ông bị hủy hoại bởi kẻ tình địch. Cô bị gã này ăn cắp nhạc và biểu diễn như là hắn đã sáng tác. Rồi một kiếp khác nữa cô là một cô gái sống ở một vương quốc thuộc Trung Đông, cách đây khoảng 2.000 năm. Những gã con trai ở tầng lớp cao cùng tuổi với cô được dạy những bí quyết và những nghi thức bí ẩn, mà con gái bị cấm đoán.

Nhưng Anne bí mật theo dõi những lớp học giới hạn đó và cô học hỏi tất cả những gì họ đã học. Một ngày kia, cô bị lũ con trai khiêu khích mắng nhiếc, cô buộc miệng nói ra một trong những bí mật: “Tao cũng biết rõ như tụi bây vậy”. Cô phải trã giá cho sự ngạo mạn của mình bằng mạng sống. Cô bị tuyên án, giam giữ và sớm bị giết, vì chết là một hình phạt đối với việc đụng chạm đến điều cấm kỵ.

Như chúng tôi đã tiến hành những cuộc trải nghiệm Anne dễ dàng tìm ra điểm ngang bằng. Thành công có nghĩa là bạo lực. Tự vạch trần có nghĩa là hình phạt. Kiêu hãnh có nghĩa là chết. Dần dần, với việc trị liệu thêm nữa cô đã có thể nhận ra rằng nỗi hoảng sợ bị chú ý cứ tồn tại là do sự tiếp nối trong cuộc trải nghiệm ở những kiếp quá khứ, chẳng có gì mà cô phải sợ trong hiện tại và cả những kiếp tương lai. Vì nỗi kinh hoàng của cô quá sâu cho nên khó để cô từ bỏ nỗi sợ hãi. Cô bắt đầu ký tên mình trên những bản vẽ, tạo dựng một mình mẫu theo tỷ lệ cho khu liên hợp của cô và đoạt giải Thiết kế Tân Tiến nhất. Cô có thể đi xa đến mức phát triển một bài diễn văn được đánh giá tương đối khá.

Cô công nhận, ngoài giải thưởng còn có một miếng đá bạc, dựng trên bệ lò sưởi nhà cô. Cả hai chúng tôi đều có một ý tưởng về những kiếp tương lai mà Anne sẽ tìm thấy cô trong đó. Thật ra, một cô Anne trở thành một cô Anne trong tương lai sẽ được quyết định bằng chính sự lựa chọn của cô. Cô không còn toát mồ hôi khi bậc Thầy đến nhắc nhở cô..

#305 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/07/2011 - 10:05

DU HÀNH QUA CÁC VÙNG TÂM THỨC

Chương Tám

Bruce: Những mối quan hệ.

Khi chúng ta đang trong hình thái con người, dù mục đích tối thượng của chúng ta là hòa nhập vào linh hồn, thì một linh hồn này phối hợp với những linh hồn khác về thể xác, tình cảm, tinh thần nằm ngay trong cốt lõi của cuộc đời chúng ta. Và chúng ta phải làm sao điều khiển điều này nắm vai trò quan trọng để quyết định tương lai chúng ta.

Tôi biết một phụ nữ sống theo tâm linh, cô dành cả tuổi thanh xuân trong một ngôi đền, nhưng cô than với tôi là cô không thể ngồi thiền. Trải qua những cách thiền của riêng tôi, tôi hiểu nguyên nhân. Cô cần phải đi ra ngoài thế giới, cần được quan hệ rộng hơn, để trải nghiệm những mất mát, đau khổ, niềm vui hay tình yêu thương. Vì tất cả sự tâm linh, cô cần nhiều bài học để suy nghiệm.

Tất cả chúng ta đều có nhiều loại khác nhau trong những mối quan hệ. Một với một, với gia đình và những người thân yêu, với những người chúng ta cùng làm việc, các ông chủ, bạn đồng nghiệp, nhân viên, với bạn bè, với thầy giáo và sinh viên. Trải qua nhiều kiếp sống thể xác, con người có thể thay đổi và những mối quan hệ với nhau có thể thay đổi, nhưng chúng ta vẫn còn đang nghiền ngẫm bài học về sự quan trọng của những mối quan hệ, bởi vì chỉ có một linh hồn mà chúng ta sẽ vòng đi vòng lại rất nhiều kiếp.

Có lẽ mẹ bạn đã nhấn một cái nút cho bạn nhiều kiếp. Có lẽ, trong nhiều kiếp khác nhau, bạn đã từng là mẹ của bà ấy, và có lẽ hiện tại bạn đang có mối quan hệ khác với bà ấy mà không phải là mẹ con. Rốt cuộc chúng ta phải chữa lành mạnh tất cả các mối quan hệ, và phải dùng những kỹ năng để làm điều đó, đặc biệt là kỹ năng của sự đồng cảm, lòng từ bi, bất bạo lực, và tình yêu. Giao tiếp là chìa khóa của mọi mối quan hệ. Tình yêu và tấm lòng cởi mở là điều tất yếu cho quá trình, như vậy thì rất an toàn, vì nếu không an toàn trong giao tiếp bạn sẽ không dám giao tiếp.

Làm thế nào mà bạn có thể tạo ra một môi trường giao tiếp an toàn? Trước hết bằng hiểu biết nhiều cách của giao tiếp, lời nói, tư tưởng, cử chỉ, biểu lộ qua ánh mắt, khuôn mặt, cái chạm nhẹ, mỗi cách đều được chú ý cẩn thận. Bạn nên hiểu rằng linh hồn mà bạn đang quan hệ có thể rất quan trọng ở nhiều kiếp quá khứ và đã trải qua nhiều thế kỷ, có thể cũng rất quan trọng trong nhiều thế kỷ sắp tới ở tương lai.

Một bệnh nhân mới đây của tôi quá hãi hùng khi nghĩ rằng cô đã có một mối quan hệ cộng hưỡng với một người đàn ông bất lương, người mà cô vừa mới trốn thoát. Mối quan hệ này vẫn chưa hết, cô nhận ra anh ta vẫn còn quay lại với cô vào một kiếp tương lai. Cô hỏi tôi làm cách nào để cô tránh được điều đó, cô đã quá sợ anh ta.

Câu trả lời sẽ bảo đảm là không có cái móc nào trong lòng bạn để kéo anh ta trở lại, không giận hờn, không bạo lực, không có điều gì xấu xa. Nếu bạn có thể rời bỏ một mối quan hệ với lòng yêu thương, đồng cảm, và thương xót, mà không hề có tư tưởng trả thù, thù hận, hoặc sợ hãi, đó là phương pháp để bạn có thể tránh được.

Bạn có thể chọn cách không còn quan hệ với người đó hoặc nhiều người nữa. Bạn chỉ có thể phối hợp với những người mà bạn cảm thấy thân thiết, chỉ với những người bạn yêu thương, trong sự xác định rộng nhất của mối quan hệ. Trong nhiều kiếp tương lai bạn sẽ cùng với nhiều người thân yêu, bạn tâm giao bởi vì bạn đang đóng vai trò như một gia đình của nhiều linh hồn. Những người khác sẽ phải bắt kịp để học những bài học mà bạn đã thông thạo, trước khi họ cũng có thể gia nhập vào cộng đồng các linh hồn của bạn.

Một trong những ví dụ cảm động nhất của các mối quan hệ tiêu biểu liên quan đến Bruce. Năm ngoái anh đến gặp tôi với hình dáng tiều tụy. Anh đang đau khổ vì triệu chứng căn bệnh lo lắng mãn tính: mất ngủ, tim đập nhanh, cơn thịnh nộ bất thần, và thường xuyên say xỉn. Bruce năm nay 35 tuổi, là một người đàn ông khó tả, đôi mắt ướt át, cái bắt tay cũng ướt át, tóc màu nâu cắt kiểu đầu đinh, cái trán sắp bị hói. Giọng nói của anh vẫn giữ theo ngữ điệu cũa vùng trung tâm Bắc Mỹ, anh từ Milwaukee đến Miami sống với Frank đã hai năm.

Frank là nhà sản xuất có thâm niên 15 năm, Frank liên kết với một trong nhựng nhà hát ở khu vực chúng tôi. Frank đã từng có một sự nghiệp rực lửa, nhưng hàng loạt thất bại làm giảm danh tiếng và kể cả thu nhập của anh, đẩy anh từ một lâu đài ở Los Angeles đến một ngôi nhà khiêm tốn ở Coral Gables. Điều đó làm anh thay đổi từ một người đàn ông dí dỏm, thỏa mãn thành một người cáu gắt, rồi cứ trút nỗi thất vọng quá đáng vào Bruce bằng những lời châm chọc và làm Bruce bẽ mặt trước công chúng. Rồi họ đánh nhau, lúc giấu giếm lúc công khai, tuy nhiên cả hai không ai muốn kết thúc mối quan hệ này.

Bruce là nhà thiết kế trang phục. Hai người gặp nhau khi Frank mướn anh thiết kế cho một bộ phim. Họ nhanh chóng bước vào mối quan hệ xác thịt. Cả hai đều thích giữ bí mật mối quan hệ này, do đó họ sống riêng tại Los Angeles. Chỉ khi chuyển về Miami họ mới sống chung một nhà.

Khi tôi hỏi Bruce tại sao vẫn ở lại lúc Frank đã trở nên quá khó khăn, anh chỉ nhún vai và nói:

- Đơn giản vì tôi yêu anh ta.

- Đúng, nhưng anh chuyển đi đâu có nghĩa là hai người không còn gặp nhau. Nó có thể làm Frank bớt bám chặt anh. Nó cũng có thể làm giảm sự lo lắng của anh. Anh ta làm bẻ mặt anh như thế nào?

- Anh ta gọi tôi là gay hoặc người yêu dấu trước mặt bạn bè, và bắt tôi làm điều tôi không thích lúc riêng tư.

- Anh không chống trả?

- Đôi lúc. Hơn vài tháng trước. Và cơn giận dữ cũng bùng lên theo cách khác. Nhưng thường thì tôi giữ lại và giấu trong lòng.

- Anh nói cơn giận dữ bùng lên theo cách khác, thí dụ như uống rượu? Tôi cho là không hợp lý.

- Tôi nổi điên với bọn pha rượu và bọn điếm.

- Điếm nam?

- Dĩ nhiên.

Một cái rùng mình nhẹ.

- Anh thường xuyên có hành động đó với họ?

- Ồ, không. Chỉ thỉnh thoảng.

- Tại sao?

- Chỉ khi nào tôi quá mệt mỏi vì Frank làm nhục tôi và tôi muốn làm nhục lại người khác.

- Làm nhục thể xác họ?

Một cái rùng mình khác.

- Không. Tôi bắt họ làm những gì mà Frank bắt tôi làm.

Một kiểu trả thù lạ lùng, tôi nghĩ vậy. Tôi hỏi lại:

- Anh có thể từ bỏ những chuyện đó? Chuyển cơn giận đến người đã khiêu khích nó?

Anh ta im lặng một lúc, rồi nói:

- Tôi không chắc mình có thể trút cơn giận lên Frank hay không. Điều này quá nguy hiểm. Nhưng tôi bỏ bọn điếm.

- Đó là sự khởi đầu. Điều này tốt cho anh thôi.

Đôi mắt ướt trào lệ, và anh ta cúi đầu.

- Không, rất tồi tệ với tôi.

- Tại sao? Có vẻ...

Anh ngắt lời tôi:

- Tôi đã bị AIDS. Tôi không muốn lây cho ai nữa.

Sức khỏe của anh đã hoàn toàn suy sụp từ nhiều tháng nay. Anh đã bị loét dạ dày, và vết chàm ở bụng gần đây không hiểu sao bắt đầu chảy máu. Hoảng sợ anh đi làm sinh thiết, không tìm thấy bệnh ung thư, anh cảm thấy nhẹ nhõm một chút. Tuy nhiên, vết sẹo lớn đó thỉnh thoảng vẫn trở màu đỏ au và rĩ ra một hai giọt máu. Do đó, anh phải khám lại ở chỗ bác sĩ nội khoa, người ra chẩn đoán ra bệnh AIDS của anh. Anh nói:

- Sự xác nhận nhiều nỗi sợ của tôi hơn lời chẩn đoán.

Các xét nghiệm, chẩn đoán đã được thẩm định cách đây hai tuần, và vì vậy anh đến gặp tôi. Tôi nói rằng tôi có thể giúp anh để giải tỏa nỗi lo lắng và mối quan hệ với Frank, chứ tôi không thể giúp anh chữa trị bệnh tình. Tuy vậy “sự pha trộn” đang được sử dụng rộng rãi có thể làm chậm quá trình tiến triển của căn bệnh và anh có thể sống thêm vài năm. Một nỗi buồn sâu lắng biểu hiện trên gương mặt anh.

- Sống thêm vài năm có gì tốt cho tôi đâu, trừ khi tôi có thể làm lại cuộc đời.

- Để tôi hỏi anh một việc nhé, ba mẹ anh có biết anh đồng tình luyến ái không?

- Bây giờ ba mẹ tôi đã hiết. Tôi đã cố gắng giấu ông bà rất lâu, thậm chí tôi còn bịa ra cô bạn gái ở California và kể cho ba mẹ nghe nữa, nhưng ông bà đã phát hiện ra tôi và Frank chuyển đến đây và bắt đầu sống với nhau.

- Phản ứng của ông bà như thế nào?

- Quá sốc. Phủ nhận. Bác sĩ có tin là ba mẹ tìm xem có thứ thuốc nào cho tôi uống không? Tôi nghĩ ông bà sợ bạn bè mình biết chuyện của tôi hơn là bất cứ thứ gì khác. Xét cho cùng thì đó là Trung Tâm Bắc Mỹ và họ thua kém cả nước khoảng một thế kỷ.

Anh ta ôm lấy đầu với cử chỉ điệu đàng:

- Thật là xấu hổ!

Tôi cười tự nhiên. Anh ta tiếp tục:

- Ba mẹ tôi rất tốt, rất đáng yêu, chỉ là không biết chuyện này thôi. Khi tôi về thăm nhà, ông bà đón tôi với cả tình yêu thương và quý trọng. Chính anh trai tôi mới là vấn đề.

- Anh trai?

- Tôi quên nói về hắn. Đúng vậy, Ben là một nhân vật tai to mặt lớn ở Milwaukee. Phó chủ tịch tầm cỡ tại Aetna. Nhiều tiền, nhiều bạn, nhiều quyền lực. Đảng viên đảng Cộng Hòa đã treo lơ lửng cái từ nghị viện trước mắt hắn, mà hắn cũng đang thèm nhỏ dãi giống như con chó trên đường đua.

- Và một người em là “gay”…?

Anh ta nhún vai:

- Từ biệt Washington. Khoảng một năm trước hắn đến gặp tôi và rõ ràng yêu cầu tôi thay đổi tên họ. Tôi chửi vào mặt hắn. Hắn năn nỉ tôi nên biến đi một thời gian, hoặc ít nhất tôi không nên nói với ai tôi là em của hắn. Điều này đã làm tôi tổn thương. Làm sao mà hắn dám nói vậy chứ! Tôi cũng tốt như hắn, còn tốt hơn, dù người yêu tôi có là đàn ông. Tôi đi theo hắn. Hình ảnh cuối cùng của hắn đối với tôi là một con lừa thiểu não chạy xuống đường.

Tôi nói với anh ta nếu đây là một trong những cơn thịnh nộ bất ngờ của anh thì nó có vẻ hợp lý.

- Đúng vậy, cũng giống khi tôi giận Frank, khi tôi nghĩ đến quan điểm của Ben tôi nổi điên, bất kể tôi đang ở đâu, bất cứ với ai đang ở gần tôi, tôi đều cự lại. Ben chỉ là một tên bán bảo hiểm được tô điểm, tham lam, hơi ngu xuẩn. Tôi thấy tội nghiệp hắn. Thật là buồn cười vì tôi muốn giết hắn. Tôi là người tốt, người tốt thì không nuôi hận thù, hoặc hàng loạt cái kiểu đó.

Cơn thịnh nộ của anh ta dường như không quá đáng để được giải thích đơn thuần là do những biến cố trong cuộc đời. Và nỗi lo lắng của anh cũng tự nhiên thôi khi biết mình bị nhiễm AIDS, tôi băn khoăn liệu có phải là nó luôn luôn quá nghiêm trọng đến nổi ám ảnh cả cuộc đời anh, giống như bây giờ. Tôi đặt ra vấn đề này thì anh trả lời:

- Đúng vậy, thậm chí khi còn đi học, mỗi lần có cớ để vui vẻ như là đạt điểm cao, ba mẹ yêu thương, đại loại là như vậy, tôi luôn luôn cảm thấy buồn rười rượi. Giờ đây tôi thấy có điều gì đó thật buồn, nó trở nên tệ hơn, nhưng không đến nỗi quá tệ.

- Có lẽ do điều gì đó đã xảy ra trong quá khứ anh.

- Thời thơ ấu? không. Chỉ như là những điều tôi đã kể, hoàn toàn bình thường.

- Không phải thời thơ ấu, một quá khứ xa xăm nào đó.

Anh ta nhoài người lên phía trước.

- Vậy bác sĩ giải thích đi.

Tôi giải thích và anh ta đồng ý một cuộc trở về. Rất ngạc nhiên vì tôi cứ nghĩ là Bruce sẽ cảnh giác với thuật thôi miên, không muốn tự cho phép mình bị xúc phạm, nhưng anh ta lại có thể đi sâu hơn so với phần đông bệnh nhân của tôi, và những điều anh ta nhớ rất sống động.

- Tôi đang ở trong Ai Cập cổ đại, vào triều đại của vua Pharaoh. Đam mê của ông ta là xây nhiều ngôi đền và cung điện để chứng tỏ sức mạnh và quyền lực của mình. Trước đó cũng đã có rất nhiều ngôi đền đã xây rồi, tuy nhiên những cái của ông phải lớn hơn bất cứ cái gì đã có từ trước đến nay. Tôi là kỹ sư xây dựng, và Pharaoh chọn tôi để thực hiện hai dự án: sáng tạo một thánh đường và thiết lập những hàng cột liên kết.

Tôi đã gặp chính Pharaoh. Ông ta đang ở đó để phác họa kế hoạch của ông. Dĩ nhiên là tôi rất vinh hạnh được chọn, và nếu tôi thành công, tôi có thể đòi hỏi bất cứ điều gì cho suốt đời tôi. Khi tôi yêu cầu 500 công nhân và nô lệ, ông ta đề nghị cho tôi một ngàn. Chi phí không quan trọng, cái chết không có gì đáng tiếc cho việc phục vụ mục đích cao cả này. Những tòa nhà sẽ được thừa nhận tính thần thánh tối thượng này, và sẽ phản ánh quyền năng tối cao của ông ta.

Tuy nhiên, Pharaoh ban hành nhiều luật lệ khắt khe. Thánh đường sẽ hoàn thành trong vòng bảy năm, và những hàng cột thì phải ba năm sau đó. Chỉ những miếng đá cẩm thạch tốt nhất và những tảng đá cứng nhất mới được sử dụng. Chúng tôi phải bảo đảm rằng khi công trình hoàn thành thì kết quả sẽ chứng tỏ sức mạnh của ông đời đời.

Công việc rất khó khăn. Thực tế có nhiều vấn đề gian nan trong khâu vận chuyển đá và cẩm thạch, chưa kể đến việc có đủ nước để dùng, và gỗ để làm đường ray dựng đá lên. Thời tiết thì nóng cháy, ngay cả trong mùa đông. Những trận bão cát nguy hiểm không lường được. Các kiến trúc sư và kỹ sư rất tài giỏi, hoặc Pharaoh đã tin như vậy, sẽ thiết kế và xây dựng nhiều ngôi đền và nhiều hàng cột. Rất có thể Pharaoh chúng tôi sẽ cạnh tranh lẫn nhau vì cần thiết phải hạn chế sự cung ứng cho dù Pharaoh rất giàu có.

Còn một chướng ngại nữa là em họ của Pharaoh. Tôi đã gặp hắn, hắn là một tên thọc mạch, nịnh hót, mê tín, không tài giỏi, thiếu thẫm mỹ. Hắn giám sát toàn bộ công trình. Tất cả chúng tôi, kiến trúc sư và kỹ sư, phải nghe lời hắn. Lệnh của hắn là lệnh của Pharaoh, và đó là luật lệ. Tôi rất sợ hắn. Hắn có thể phá hoại mọi thứ.

Thật tình thì Bruce tái mặt đi khi nói đến người giám sát. Người đàn ông tiếp tục sử dụng sức mạnh của mình trong sự tĩnh lặng của văn phòng tôi. Tôi bị tác động bởi sự trang trọng trong ngôn ngữ của Bruce, hơi khác lạ so với cách anh nói chuyện thường ngày. Sau đó tôi hỏi có phải là anh đã từng đến Ai Cập hay không thì anh bảo đảm với tôi là chưa bao giờ anh đến đó. Câu chuyện và chuyến du hành đến những địa điểm lịch sử không hề hấp dẫn anh ta. Tôi đưa anh đi xa hơn trong kiếp quá khứ này.

Anh kể tiếp:

- Sự lo lắng của tôi đã được khẳng định. Hắn thọc mạch vào mọi thứ. Đặc biệt là hắn có vẻ không ưa tôi. Có lẽ hắn biết được tôi cũng ghét hắn, dù tôi cố tự chủ không biểu lộ điều đó. Gần như mỗi ngày hắn luôn ở cạnh tôi mọi lúc mọi nơi, đưa ra những đề nghị ngớ ngẩn, hủy bỏ lệnh của tôi, phàn nàn rằng tôi và các đồng sự thi công quá chậm, dù chính hắn là người cản trở tiến độ thi công. Xét đến sự nghiêm ngặt về thời gian Pharaoh đặt ra thì áp lực đang tăng cao đối với tôi cho đến một điểm mà tôi biết chắc sẽ nổ tung. Mỗi ngày là một sự đấu tranh với bản thân để giữ bình tĩnh trong việc đối mặt với những yêu sách và những lời mắng nhiếc, chế nhạo của hắn nếu tôi không thể làm hắn thỏa mãn.

Khoảng một năm sau khi công trình khởi công, tên vô lại khăng khăng đòi đặt thánh đường kế một ngôi đền chứ không phải là kế ngôi đền chính. Khi tôi nhắc nhở hắn đây là trái lệnh của Pharaoh thì hắn gọi tôi là thằng ngu trước mặt các cộng sự của tôi và tức tối bỏ đi. Điều mà tôi lo sợ đã thật sự xảy ra. Tôi làm nổ tung. Tôi nói hắn ngu xuẩn, rằng hắn không khác gì một thằng ngu, rằng hắn ngốc nghếch như tảng đá chung quanh hắn. Tôi kêu hắn hãy trình lên Pharaoh chuyện này và ông ấy sẽ quyết định ai là người nắm quyền điều khiển.

Gã em họ của Pharaoh trả đũa tôi một cách tệ hại nhất mà hắn có thể. Thay vì cùng đi với tôi vào cung điện hắn lại trưng dụng một tên kỹ sư khác, đối thủ của tôi, bỏ thuốc độc vào rượu cho tôi uống. Lập tức tôi ngã bệnh, cơn đau nhức nhối, và tôi được đặt lên giường. Đêm đó một tên lính gác lẻn vào lều và đâm vào bụng tôi. Tôi chết ngay tức khắc. Hình ảnh cuối cùng tôi thấy là tên em họ độc ác của Pharaoh đứng ngoài lều nhìn tôi nhe răng cười.

Tôi đưa Bruce trở về, hiển nhiên là anh rất bàng hoàng. Tôi hỏi:

- Anh có thể diễn tả lại cảm xúc của mình không?

Anh lắp bắp:

- Chỗ bị đâm lúc đó...bây giờ là vết sẹo lồi khi lấy mô để xét nghiệm, vết thương thỉnh thoảng bị chảy máu mà không biết nguyên nhân.

- Còn gì khác nữa không?

Anh rơi vào trạng thái mê mẩn bởi sự khám phá:

- Tên giám sát đã trả thù tôi trong kiếp sống ở Ai Cập là anh trai tôi trong kiếp này.

Anh thừa nhận giận dữ là một yếu tố tiêu cực trong kiếp hiện tại. Quả là tệ hại nhất khi anh đương đầu hoặc phải đối đầu với Ben, và Ben yêu cầu anh phải từ bỏ chính mình và biến mất. Tôi và Bruce đều lo lắng khi quay về một kiếp sống khác. Một lần nữa, lại chính Ai Cập nhưng vào một thời gian khác.

- Tôi là tu sĩ, một người chữa bệnh, một trong số ít người được các nhà giàu có, thế lực thuê mướn. Dược phẩm của chúng tôi rất bí ẩn, không phải loại thuốc bình thường và loại thuốc nước như các bác sĩ sử dụng. Phương pháp chữa bệnh của tôi liên quan đến việc sử dụng mà các thầy tu gọi là những cây gậy năng lượng. Khi cây gậy được quay đúng hướng, nó phát ra sự rung cảm của âm thanh chữa bệnh và các tầng số ánh sáng. Cách sử dụng thì không cẩu thả được. Có một chuỗi chỉ định ánh sáng và âm thanh, một thứ tự và mô hình phức tạp để chỉ ra cách mà những cây gậy chĩa vào những bộ phận của cơ thể. Nghệ thuật là một bí mật. Nó bao gồm năng lượng, ánh sáng, sự tích lũy, việc dự trữ, và sự chuyển đổi.

- Anh đang thực hành phương pháp y học này ở đâu vậy?

Mắt anh lấp lánh:

- Trong những phòng bí mật của các ngôi đền chữa trị thần bí. Chỉ vài thầy tu biết rõ vị trí của chúng. Thậm chí những người phụ trách công việc đơn giản trong đền thờ không thể biết được, chúng được giấu kín một các quá tài tình.

- Và anh có khả năng làm những điều kỳ diệu?

Anh cúi người về phía trước:

- Chính xác! Chúng tôi chữa được rất nhiều bệnh. Và chúng tôi có thể tái sinh các cơ quan và tứ chi bị mất trong chiến trận.

- Xuyên qua việc sử dụng những cây gậy?

- Những cây gậy. Đúng vậy.

- Thật kinh ngạc.

Tôi đã từng đọc về những phương pháp chữa trị thần bí và thần dược trong các nền văn hóa cổ xưa, mà lại chưa hề đọc về những cây gậy mà Bruce miêu tả, tôi biết các bác sĩ Ai Cập tuyên bố họ có thể làm tái sinh tứ chi và các cơ quan. Hiển nhiên là họ có khả năng làm những điều kỳ diệu trong việc chữa trị bệnh máu, bệnh miễn dịch, và các chứng bệnh về da và não. Thật ra có một phòng bên trong của ngôi đền Luxor được sử dụng như một phòng y khoa, tường của nó được phủ những lớp sơn để hiện lên các bác sĩ đang làm việc trong những phạm vi này.

Một tháng sau tôi gặp Bruce. Trong thời gian chuyển tiếp anh bị viêm phổi, một loại ảnh hưởng chung của AIDS, và phải nhập viện. Khi quay trở lại, gương mặt anh trắng bệch, và dường như anh đã kiệt sức, tuy vậy, khi tôi tình nguyện hoãn lại đợt điều trị thì anh năn nỉ được tiếp tục. Anh nói:

- Họ đang làm rất nhiều việc điều trị cho tôi, tôi không thể giải thích chính xác tại sao, nhưng tôi cảm thấy mình đang đứng trên mép của điều gì đó rất quan trọng. Rất cần thiết tôi phải hiểu là cái gì trước khi tôi chết.

Thay vì đưa anh trở về lần nữa, dù nó rất có giá trị, tôi quyết định dược nhìn thấy liệu tôi có thể dùng mối liên quan giữa tư tưởng và thể xác để làm dịu đi triệu chứng thể chất của anh. Tôi nói với anh ta:

- Tôi muốn thử nghiệm, anh có sẵn sàng. Chấp nhận không?

- Chắc chắn. Bất cứ điều gì.

- Tôi muốn anh chuyển những vai trò trong tâm trí. Anh là một bệnh nhân Ai Cập đang nhận năng lượng ánh sáng và âm thanh, và tôi muốn anh truyền năng lượng đó vào trong tâm trí và thân thể hiện hữu này.

Dĩ nhiên việc này là hoàn toàn không chính thống, nhưng tôi thực hiện vì anh đã bị nhiễm HIV, và quá đau đớn trong việc lấy mô xét nghiệm. Tôi hỏi:

- Người nào có thể là bác sĩ của anh?

Anh trả lời lập tức:

- Frank. Chúng tôi có nhiều khác biệt, nhưng dưới bề mặt đó, Frank vẫn yêu tôi.

- Frank đã sống với anh trong kiếp người Ai Cập. Anh ta là một thầy tu chữa bệnh, anh ta biết những khoa học bí ẩn. Hãy để anh ta áp dụng sự thông thái với anh.

Bruce nhắm mắt và tựa người ra sau ghế. Tôi có thể nhìn thấy trên cơ mặt anh một chút thư giãn, và một chút hồng hào trên má.

- Đã có hiệu quả. Tôi cảm thấy khỏe hơn.

- Xuất sắc. Bác sĩ của anh hiểu được cách sử dụng của những cây gậy; anh ta biết những mô hình và thứ tự của ánh sáng và âm thanh. Đây là mức độ cao nhất của việc điều trị thần bí. Hãy cảm ơn vì điều đó.

Anh thầm thì:

- Cảm ơn. Xin cảm ơn.

Phần còn lại của buổi điều trị là sự yên lặng. Khi Bruce ra về tôi khuyên anh nên tập thiền tại nhà.

- Ánh sáng và việc điều trị thần bí sẽ ở bên anh. Không nhất thiết phải ở tại đây.

Lần này Bruce quay lại không chỉ thấy khỏe hơn mà còn rất sáng suốt. Anh kể:

- Anh trai tôi đã ở với tôi trong những kiếp quá khứ. Lần đầu anh ấy là tên giám sát, nhưng trong lần thứ hai anh ấy lại là một thầy tu chữa bệnh theo thần bí. Khi bác sĩ bảo tôi trở về kiếp sống đó để làm một bệnh nhân thì chính là Ben trở thành thầy thuốc của tôi chứ không phải Frank.

- Tôi chắc điều đó là đúng. Bây giờ hãy đặt anh vào chỗ của Ben trong cả hai kiếp. Hướng bản thân anh vào viễn cảnh và thân thể của anh ấy.

Bruce nỗ lực tập trung trong vài phút. Rồi mắt anh mở to, nụ cười rực sáng.

- Anh ấy ghen tị với tôi, cả hai kiếp quá khứ và luôn trong kiếp này. Mặc dù anh ấy là một người đầy quyền lực, nhà quản lý hay một chính khách, anh ấy đang ghen tị. Đó là nỗi khổ riêng đã khiến anh tàn nhẫn.

Bruce giải thích rằng dù người anh trai đã là một quý ông Ai Cập, một nhà quản lý, anh ấy luôn phẫn nộ về tài năng và kỹ xảo của Bruce, điều mà anh ấy không có và cũng không bao giờ có thể học được. Anh ấy được nuôi dưỡng trong một môi trường đầy ưu ái và đầy quyền lực, và khi bị Bruce công khai đả kích, anh ấy phải báo thù chuyện nhục nhã đó.

- Theo cách đánh thuốc độc. Con dao tấn công là phụ. Nó được trang bị bởi lòng căm giận, nỗi ghen tị, sự nhục nhã.

Bruce hiển nhiên đã trải qua một kinh nghiệm đồng cảm mãnh liệt. Hiếm khi mà tôi được nhìn thấy một bệnh nhân xúc động như vậy.

- Kiếp sống hiện nay thì như thế nào? Anh ấy đã ghen tị với anh điều gì?

Câu trả lời đến rất nhanh.

- Tình yêu thương của ba mẹ tôi. Có lẽ vì tôi là một đứa trẻ yếu ớt hơn nên ba mẹ đã quan tâm đến tôi nhiều hơn, Ben thì rất khỏe mạnh, anh ấy có thể tự lo cho mình, nhưng với anh ấy thì có nghĩa là ba mẹ thương yêu tôi nhiều hơn, dù tôi không chắc điều đó là đúng. Đây quả là một khám phá. Giá mà tôi biết sớm hơn.

Tôi hỏi một câu trọng tâm của một nhà tâm thần học.

- Điều này khiến anh cảm thấy như thế nào?

- Tha thứ. Yêu thương. Anh ấy không phải là một người khác đầy quyền lực. Anh ấy cũng như tôi, một sự pha trộn giữa sức mạnh và yếu đuối. Thật là thú vị!

- Anh có nghĩ rằng anh ấy cũng có cảm giác giống vậy?

- Dĩ nhiên. Nếu tôi có thì anh ấy cũng có, chúng tôi giống nhau. Kiếp sống thứ hai ở Ai Cập đã dạy tôi điều đó.

- Anh có thể dạy anh ấy?

- Tôi sẽ thử.

Khi tôi viết trang này thì Bruce đã tạo được những tiến bộ đáng kể. Vết thương ở vùng bụng đã lành; nó đã hết nổi đỏ hoặc rỉ máu. Tương tự, chỗ loét cũng được chữa khỏi. Anh và Frank đã giải quyết vấn đề và họ thôi đánh nhau, tuy vậy họ vẫn cãi vã. Tôi cho là cả hai đều thích cãi cọ. Trải qua những kiếp quá khứ và những trải nghiệm về mặt tâm linh anh đã hết sợ chết. Anh không còn nhìn thấy anh trai mình như một người quyền thế, và nhận ra cảm giác này xuất phát từ sự dự đoán riêng của anh đối với Ben.

Tất cả những bài học của những chuyến du hành trở về quá khứ đã dạy anh, anh cho rằng quyền lực tuyệt đối là những mối quan hệ trong sự hiểu biết sâu sắc nhất của họ, giữa những người ngang bằng, và nếu anh có thể ca ngợi sức mạnh của người khác và tha thứ những điểm yếu bởi vì họ cũng như chúng ta thì tình yêu sẽ đi theo cùng. Anh và anh trai mình gặp nhau thường xuyên và nói chuyện mỗi ngày. Bruce kể cho tôi nghe với một nụ cười toe toét:

- Anh ấy chuyển tình trạng gay của tôi thành lợi thế chính trị. Bây giờ anh ấy là một đảng viên đảng Cộng Hòa khoan dung. Anh ấy không thể làm tốt hơn tại Wisconsin.

Trong buổi điều trị cuối cùng anh nói với tôi rằng khi anh là thầy tu chữa bệnh ở Ai Cập, thỉnh thoảng anh kiểm tra các buổi lễ chữa trị thần bí kèm theo việc ứng dụng những cây gậy. Trong các buổi lễ đó Bruce liên kết sức mạnh của năng lượng chữa trị, ánh sáng và âm thanh, điều mà trong thời kỳ Ai Cập đã tin tưởng để liên kết sức mạnh của thần linh, nhưng bây giờ thì không, anh biết đó là những thuộc tính của đấng tối cao, đấng Toàn Năng. Bruce nhận thức rằng anh bây giờ và mãi mãi bất diệt, rằng tất cả chúng ta đời đời nối kết với nhau, và rằng chúng ta mãi mãi được ôm chặt trong tình yêu...

#306 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/07/2011 - 10:45

DU HÀNH QUA CÁC VÙNG TÂM THỨC

Chương Chín

John: Ý chí tự nguyện và định mệnh

Trước đây tôi đã nói về ý chí tự nguyện và định mệnh, hình thành một chủ để chính trong một cuốn sách tựa là Chuyện tình qua nhiều kiếp luân hồi. Tuy nhiên đó là một bài học khó nhấn mạnh cho đủ ý, bởi vì nó thường xuyên xảy đến trong cuộc đời của chúng ta. Hàng ngày tôi nghe về điều này từ bệnh nhân và các bạn đồng nghiệp làm cùng một công việc tương tự.

Định mệnh và ý chí tự nguyện dường như sẽ tồn tại cùng với nhau. Có một sự thông minh, một trí tuệ, một sự nhận thức biết rõ những sự kiện và các mối quan hệ sẽ diễn ra như thế nào. Hamlet gọi đó là định mệnh “điều đó tạo thành những kết cục của chúng ta”. Chúng ta sống trên trái đất này và không biết rằng chúng sẽ kết thúc ra sao, nhưng chúng ta có thể ảnh hưởng đến việc chúng sẽ diễn ra như thế nào cho cả cuộc đời của chúng ta sau này và những kiếp sắp tới bằng những hành động và cách cư xử trong hiện tại bằng ý chí tự nguyện của chúng ta.”

Giống như một linh hồn kiểm nghiệm lại cuộc đời ở phút cuối cùng của cuộc đời nó, vì vậy dường nư nó làm một cuộc xét duyệt cuộc đời trước rồi chúng ta mới sinh ra. Nó sắp đặt cuộc đời. Ví dụ như tôi đang viết về lòng thương cảm hoặc là sự đồng cảm hoặc tính bất bạo động. Nó nhìn cuộc đời được hình thành như thế nào, người nào mà chúng ta sẽ gặp gỡ, người nào sẽ giúp chúng ta trên con đường trí tuệ, và chúng ta sẽ giúp đỡ họ ra sao. Có vẻ như nó rất rắc rối bởi vì có một mối tương quan với nhiều linh hồn khác, và chúng cũng có sự sắp xếp của mình. Những người chúng ta sẽ gặp và những trải nghiệm được hình thành sẽ giúp chúng ta học hỏi điều này là định mệnh.

Được thôi. Bạn sẽ gặp một người tuyệt đẹp này, và bạn đã có một sự xét duyệt cuộc đời trước để sắp xếp dành phần đời còn lại sống với nhau, cùng nhau học hỏi, giúp đỡ lẩn nhau khi bạn đã phát triển, hướng đến sự bất diệt. Nếu người đó khác tôn giáo hoặc sống quá xa, hoặc cha mẹ bạn xen vào, hoặc bạn không đủ can đảm vượt qua sự ảnh hưởng của nền văn hóa, thì bạn sẽ không cưới người đó, về cả hai mặt tinh thần và thể xác. Đây là ý chí tự nguyện. Bạn có sự lựa chọn và sự lựa chọn là không. Sự lựa chọn sẽ mang đến cho bạn một điễm của định mệnh mà điểm này có thể không xảy ra, nếu sự lựa chọn của bạn là có. Đó là cách mà chúng ta thay đởi tương lai trong kiếp này.

Nếu bạn gặp một người và cưới họ, bạn sẽ bị đặt trên một con đường mà bạn phải cọn bằng ý chí tự nguyện, và phần đời còn lại là cả nhiều kiếp sau của bạn sẽ bị ảnh hưởng. Nếu bạn chọn cách chia tay, bạn sẽ đi trên một con đường khác, và có lẽ bạn sẽ học những bài học khác. Có thể bạn sẽ gặp gỡ người bạn tâm giao khác hoặc là một trải nghiệm khác. Chủ yếu là bạn sẽ thực hành với sự đồng cảm hơn là chỉ nói về bất bạo lực. Câu hỏi quan trọng hơn là bạn sẽ học hỏi nhanh như thế nào? Và bạn sẽ có nhiều niềm hạnh phúc, an lành, tĩnh lặng...như thế nào trong cuộc đời bạn?

Câu trả lời là tùy thuộc vào một phạm vi rộng lớn trên ý chí tự nguyện của bạn. Điều này giống như leo cây: có nhiều nhánh và nhiều sự lựa chọn. Rồi bạn sẽ leo được lên đến đỉnh cao của cây đó, nhưng có thể bạn sẽ phải trải qua nhiều kiếp: năm, mười, hoặc ba mươi. Ví dụ như có biết bao nhiêu kiếp sẽ trôi qua để hoàn thành mục đích của linh hồn bạn về lòng thương cảm? Điều này tùy thuộc vào những lựa chọn mà bạn tạo ra. Tuy vậy, cả định mệnh và ý chí sẽ cùng chung sống.

Tôi không tin một người bói toán nói rằng: Anh sẽ gặp một người tuyệt vời này vào năm sau, và anh sẽ cưới cô ta. Có thể họ có kỹ năng và tài tình trong lĩnh vực siêu nhiên, và có thể họ đoán đúng rằng bạn sẽ lập gia đình vào năm sau, nhưng sự lựa chọn sẽ quyết định là bạn có muốn dành cuộc đời cho nhau hay không. Bạn sẽ lựa chọn theo trực giác của riêng bạn, chứ không dựa trên chuyện siêu linh.

Đây là một ví dụ của sự lựa chọn tự nguyện trong kiếp hiện tại sẽ thay đổi nhiều kiếp tương lai của một người đàn ông. Điều này không diễn ra dễ dàng. Ông ta đã có nhiều lựa chọn ở kiếp trước làm ảnh hưởng đến kiếp hiện tại, và nếu ông không thể quay về và không thể hiểu về những cuộc du hành trở về thì tôi không biết chắc đến bao giờ ông ta mới có thể tìm ra một hướng đi đúng đắn cho cuộc đời mình.

Ông ta tên John, và có lẽ ông đã chết trong một cơn đại hỏa hoạn tại London. Ông cũng không rõ ngày nào, chỉ biết chắc là cuộc hỏa hoạn vào thời Trung Cổ trong thành phố London, và rồi ông ta chết. Sự kiện đó gây chấn thương cho ông trong nhiều kiếp tới.

Lúc đầu tôi không hề biết gì về điều đó. Như đối với tất cả bệnh nhân của tôi, chúng tôi dành buổi đầu tiên nói về nhiều vấn đề hiện tại của ông và cố tìm ra manh mối trong thời thơ ấu hoặc ở các khía cạnh khác nhau trong đời sống hiện tại. Rồi có nhiều chuyến du hành trở về, đưa ra nhiều hình ảnh lờ mờ không đi đến kết luận, và một chuyến về dẫn đến một kiếp quá khứ sống động nhưng không đi đến cơn hỏa hoạn.

Ngay khi chúng tôi bắt tay, ông nói rằng ông rất giàu, đó là điều đầu tiên tôi nên biết về ông. Thường thì người ta hay nói với bạn về tuổi tác, nơi ở, tình trạng hôn nhân, và một chút về tiểu sử, hoặc là nghề nghiệp. John thì khác.

- Tôi là người giàu có.

Ông nói xong thì giữ im lặng một lúc như thể đó là thông tin mà tôi cần phải biết.

Tôi bị lôi kéo:

- Ồ, rất tốt với ông.

Giàu có không hề gây được ấn tượng với tôi, và khoe khoang giàu có là người bất lịch sự, thiếu tế nhị. Nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng ông không hề khoe khoang, vì cách nói không chứa đựng niềm hân hoan hay kiêu hãnh. Giàu sang đối với ông như là một vấn đề khốn đốn để ông tìm tôi. Chúng tôi bắt đầu tiến hành. Đầu tiên, tôi cần tìm hiểu về điều mà trong giống ông và rồi lấy tiểu sử.

Thật tình mà nói, bề ngoài của John hầu như trực tiếp tuyên bố giàu có như ông đã làm cho chính bản thân mình. Ông ở vào những năm đầu của tuổi 60, có vẻ bề ngoài của người mẫu thời trang; gương mặt đã sửa, quần áo đặt may, những chuyến đi nghỉ thường xuyên tại bờ biển Caribean (hoặc là có một cái đèn cực tím rất tốt), hàm răng trắng bóng, tự tập luyện, một cái đầu tóc cắt giá $200, móng tay cắt sửa hàng tuần. Tôi có cảm giác rằng nếu người nào nhẹ nhàng giáng búa xuống đầu ông, ông sẽ bẹp dúm giống như mặt tiền mới xây dựng cẩu thả trên ngôi nhà mục nát. Tôi cũng chẳng ngạc nhiên chút nào nếu ông đã từng hoặc vẫn đang là người mẫu chuyên nghiệp, tuy vậy điều đó không có vẻ đúng chuyên môn đối với ông. Rõ ràng, ông không có chuyên môn gì cả.

Ông sống tại Palm Beach trong một lâu đài 20 phòng, nhiều người hầu, và một ga-ra chứ được 4 chiếc xe hơi. Vợ ông, Lauren là người có nhiều ảnh chụp mà Carole, vợ tôi nhìn thấy không chỉ ở những trang xã hội của Miami Herald mà còn ở trong những chuyên đề xã hội Florida trong Vogue và Vanity Fair. Còn một căn nhà khác ở Barbados, một căn hộ tại London, và một căn hộ dự phòng ở New York. Stacey, con gái ông 19 tuổi, sinh viên năm thứ hai tại Wellesley, chuyên về môn con trai, ông nói vậy. Và Ralph, 25 tuổi, học xong trường luật đang hy vọng tìm được một chân thư ký cho tòa án tối cao. John không hề lạc quan về cơ hội của con trai mình.

Tôi hỏi:

- Còn ông thì sao? Ba mẹ ông còn sống không?

- Đã chết tám, mười năm trước.

- Ông và họ sống với nhau có tốt không?

- Tôi nghĩ là tốt. Ba mẹ tôi rất thoáng. Lúc nhỏ tôi có nhiều bà vú nuôi, nhưng ba mẹ tôi luôn đưa tôi đi chơi với họ. Năm tôi 12 tuổi, mỗi khi có khách tôi thường ăn cơm với ba mẹ và khách mời. Dĩ nhiên là cả ba người chúng tôi vẫn ăn cơm chung với nhau, nhưng không thường xuyên.

- Khách của họ là người như thế nào?

- Bạn bè, bình thường chủ yếu là hàng xóm. Tôi cũng có mặt lúc đến ăn tối. Sau bữa ăn họ chơi bài, còn tôi đi ngủ. Cũng có khách hàng kinh doanh. Lúc đó thì tôi không được có mặt. Người ta gọi cha tôi là nhà tài phiệt quốc tế, hoặc là cái gì đó có nghĩa như vậy. Tất cả các loại giám đốc ngân hàng nổi tiếng xuất hiện, cùng với sự kiện của nhà độc tài bị truất phế của nước nào đó ở Nam Mỹ. Bà Margaret Thatcher cũng đã từng ở lại nhà tôi.

- Tôi chắc không tốt gì cho một đứa trẻ.

- Không tốt một chút nào. Tôi luôn cảm thấy rằng đối với cha tôi, tôi không quan trọng bằng việc kinh doanh giao tiếp của ông.

- Còn với mẹ ông?

- Ít quan trọng hơn cha tôi.

Câu nói giống như một kiểu nói đùa, nhưng tôi lại cảm thấy dường như có nỗi đau buốt tàng ẩn sau đó. Mẹ ông quan tâm đến cha ông nhiều hơn ông.

- Ông có anh chị em nào không?

- Tôi là con một. Họ không có thời gian để bỏ mặc nhiều đứa con đâu.

- Những người bạn lúc nhỏ thì sao?

- Hàng tá người quen, không có một người bạn thân nào. Cha mẹ tôi có thể ném những bữa tiệc sinh nhận thật lớn cho tôi, và dường như tất cả bọn trẻ ở Florida đều có mặt, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng chúng tự tiệc sinh nhật vì đồ ăn thức uống, vì đặc ân, vì kiêu hãnh, chứ không phải vì chúng là bạn thân của tôi. Ngay những đứa bạn học thân, cũng chỉ là thân. Tất cả bọn chúng cũng đều có vú nuôi, bị kiểm tra nghiêm ngặt, vì vậy chúng tôi không có cơ hội đùa nghịch. Thậm chí ngay bây giờ tôi cảm thấy ghen tị khi nghe về những băng cướp đường phố hoặc những trại cải tạo trẻ vị thành niên. Với tôi dường như mấy đứa trẻ đó đã có những điều tốt hơn tôi.

Tôi nghĩ rằng sự mỉa mai nho nhỏ của ông bao bọc nhiều vết thương rất lớn. Đó là một vai phụ trong đời sống cả cha mẹ quả là rất khổ sở. Khi John điện thoại vào lần đầu tiên để hẹn gặp, người phụ tá của tôi đã ghi chú về một điều rằng trước đây ông chưa bao giờ tìm kiếm một liệu pháp tâm lý, dù nỗi bất hạnh của ông đã kéo dài rất lâu. Tôi thắc mắc có phải sự kiện cụ thể nào đó đã thôi thúc ông đến gặp tôi. Tôi hỏi:

- Vậy ông lớn lên trong sự tách biệt quá đáng?

- Hoàn toàn như vậy. Tôi giống như vật trang trí cho cha mẹ; như một tấm tranh thêu trên tường, như một cái khăn quàng cổ rất đẹp, không hơn gì một món đồ trang sức.

Ông nghĩ ngợi một lát.

- Tuy nhiên tôi tin rằng họ yêu thương tôi trong cách của họ.

- Còn ở trường đại học thì sao? Chắc chắn là ông có thể trốn tránh họ?

- Bằng mọi cách để đến trường đại học ở Southern California.

- Rồi cuộc đời ông thay đổi?

- Được ba tháng ở đó.

- Ông bị đuổi?

- Chúa ơi! Chẳng có gì ấn tượng, tôi bỏ.

- Lý do?

- Học cực quá.

- Ông không thích học sao?

- Tôi không thể học. Chẳng có mục đích gì. Quá khó để thu thập tài liệu rồi thi cử.

- Đạt được bằng cấp không phải là mục đích sao?

- Tôi cho là vậy. Tôi có đi xin việc đâu mà cần bằng cấp.

- Ở tuổi 18, có có lên kế hoạch nào cho tương lai?

- Ý thức thì không, vô thức thì có.

- Học về cái gì để vui thích? Thí dụ phấn khởi về mặt trí tuệ?

- Tôi chẳng thấy vui thích hay phấn khởi gì trong việc học.

Tôi bắt đầu thấy khó chịu.

- Chẳng có gì làm ông thích thú?

- Tôi làm rất nhiều, nhưng chẳng có cái gì quá một tháng. Sau khi bỏ học tôi thử hàng lọat công việc như đại lý mua bán nhà đất, ngân hàng, bán hàng...chả được gì.

- Cha mẹ ông cảm thấy thế nào về chuyện này?

- Tôi không chắc là họ biết, họ chẳng quan tâm. Ông biết không, năm 21 tuổi tôi lãnh tiền ủy thác hàng năm là một triệu đô, đủ cho tôi sống lây lất. Tôi thuê một căn nhà tại Malibu và ném mình vào những thứ tôi mê mẩn và ám ảnh tôi từ năm 15 tuổi.

- Thứ gì?

- Gái, đàn bà.

Ông ta mỉm cười:

- Tôi nói rồi, tôi bị ám ảnh từ năm 15 tuổi.

- Vậy là ông có những mối quan hệ, những cuộc tình lãng mạn...

- Hoàn toàn đúng vậy. Một đêm, một mối tình tháng qua. Tôi chưa bao giờ trả tiền cho gái điế, nhưng tốn rất nhiều tiền cho bạn gái. Những bữa ăn tối sang trọng, dồ trang sức rẻ tiền cho những cô nàng tuyệt vời ít nhất là một chiếc xe sang trọng đưa về nhà.

- Bao nhiêu cô?

- Hàng trăm.

- Những mối quan hệ nghiêm túc kéo dài bao lâu?

- Thời gian tập trung tư tưởng thường xuyên của tôi không quá một tháng.

- Còn vợ ông?

- Laurn. Dĩ nhiên là một trong những cô nàng tuyệt vời đó, hoặc khác nữa. Lẽ ra tôi không cưới cô ấy.

- Ông lập gia đình bao lâu rồi?

- Hai mươi sáu năm.

- Có vẻ như ông đã vượt quá thời gian tập trung tư tưởng do đã bỏ quá nhiều.

- Không dúng lắm. Chúng tôi đã cưới nhau lâu rồi, đúng là như vậy, nhưng cả hai chúng tôi cũng mau chóng hết hứng thú. Với chúng tôi đây còn hơn cuộc hôn nhân kinh doanh.

Tâm trí tôi run lên.

- Để nhử...

- Không bao giờ! Ông cho tôi là cái gì? Không. Việc kinh donh của Lauren và tôi rất giàu có. Hai nguồn tài nguyên kết hợp lại thì chúng tôi có thể mua bất cứ thứ gì chúng tôi muốn. Bất cứ thứ gì.

- Cho tôi một ví dụ.

- À...Madagasca.

- Ông đã mua Madagasca?

Ông ta phá ra cười.

- Không thật vậy. Đúng ra tiền bạc của chúng tôi đi đến những việc tốt. Ba mẹ tôi tài trợ cho một quỹ từ thiện. Nó thiết lập những chương trình dạy tại nhà cho trẻ em nghèo từ 4 đến 5 tuổi trong các gia đình bất hòa, xây dựng các phòng khám bệnh AIDS tại mười bảy nơi khác nhau, còn nhiều phòng sắp được xây dựng thêm đại loại là những việc như vậy. Lauren và tôi đóng góp rất nhiều vào đó. Lợi nhuận sinh lợi nhuận.

- Nhưng ông đâu có tích cực tham gia điều hành nó?

Một giọng cười khác, lần này pha chút đau đớn.

- Tôi không thể điều hành nổi một quầy nước ngọt.

- Chà, làm việc đó, rồi thì tìm kiếm những dự án mới.

Ông nhún vai.

- Quá nhiều công việc, quá nhiều rắc rối.

- Lauren có cảm giác giống vậy không?

- Cô ấy có riêng một công ty quan hệ cộng đồng. Nó chiếm toàn bộ thời gian của cô ấy, nhưng Chúa mới biết cô ấy không cần thu nhập.

Tôi quyết định khiêu khích ông. Dửng dưng sa thải mọi đam mê, mọi mục đích, có vẻ như là một triệu chứng của một linh hồn bất ổn.

- Lúc ở nhà ông nên làm bất cứ chuyện gì mình thích, luyện tập nhưng phải có một giấc ngủ ngắn thường xuyên nếu mọi thứ quá căng thẳng.

Ông ta liếc tôi, giật nẩy lên:

- Ông nói đúng hết trừ một thứ; giấc ngủ ngắn.

- Thì mỗi đên ngủ mười tiếng là đủ rồi?

Tấm gỗ đẹp để trang trí này bị rạn vỡ ra, thân hình mềm nhũn và đôi mắt nhìn sâu thẳm như bị ám ảnh, ông nói:

- Gần đây tôi không ngủ được. Chưa bao giờ như vây, không có một loại thuốc nào đủ mạnh để tôi có thể ngủ hơn một, hai tiếng.

- Tuy nhiên ông đang có một cuộc sống lý tưởng: tiền bạc dư thừa, đẹp trai, nhiều đàn bà, một người vợ hiểu biết, nhà cửa lộng lẫy. Vâng, có lẽ ba mẹ ông không chăm sóc cho ông, nhưng họ cung cấp đầy đủ cho ông, và ông nói là họ yêu thương ông. Tác động nào quá mạnh khiến ông không thể ngủ được?

Ông ta cố gắng kìm giọng ra vẻ bình tĩnh nhưng không thể.

- Sự khiếp sự, bác sĩ Weiss à. Sự khiếp sợ dai dẳng, tuyệt vọng.

Tôi cảm thấy dựng tóc gáy.

- Khiếp sợ điều gì?

- Cái chết. Tôi chạy và chạy và chạy khỏi nỗi sợ, nhưng lúc nào đó nó cũng bắt kịp tôi. Phụ nữ chỉ là trò tiêu khiển. Bất cứ một công việc nào mà tôi làm cũng đều là tiêu khiển thôi. Không có cái gì có thể xóa đi nỗi khiếp sợ này. Thật khó đi ra ngoài, khó mà đến đây, bởi vì tôi chắc là tôi sẽ bị tai nạn. Tôi không thể lái xe. Hệ thống báo động ở nhà tôi còn hơn nhà của trùm Mafia. Chúng tôi hiếm khi đi du lịch, máy bay là những cái bẫy chết người. Một tiếng động lớn bất ngờ là tôi liền chui xuống gầm bàn. Tôi như là một cựu chiến binh bị ám ảnh bởi chiến tranh Việt Nam, chỉ có điều là chưa bao giờ tôi đi lính. Ý tưởng cầm súng thật là lố lăng. Giê-su, tôi sợ cắt một con gà tây! Tuần rồi tôi nghe tiếng xe hơi nổ sớm, tôi hoảng hốt ngất xỉu. Tôi nhất quyết đó là điên, tốt hơn tôi phải làm gì đó, vì vậy tôi điện thoại cho ông.

Ông ta ngồi tựa ra sau, mặt tái nhợt, run rẩy. Tôi thường thấy khó hiểu không biết nguyên nhân của căn bệnh nằm ở kiếp hiện tại hay những sự kiện trong kiếp quá khứ. Ở đây, tiểu sử của John cho thấy dường như không có gút mắt: chỉ có diều gì đó đã xảy ra trong một kiếp quá khứ hoặc là hàng loạt kiếp quá khứ có thể giải thích nỗi ám ảnh của ông. Tôi thảo luận với ông về vấn đề này. Ông nói:

- Tôi sẽ thử. Không có gì tệ hơn những điều tôi đã trải qua.

Cuộc thử nghiệm đầu tiên của chúng tôi không có kết quả. Điều này như thể John quá miễn cưỡng điều tra về quá khứ. Rốt cuộc thì ông cũng đạt đến một khoảng thời gian có ý nghĩa, và nó đã thúc giục ông lao vào. John kể, mắt nhắm nhưng thân thể ông rất căng thẳng:

- Cách đây nhiều thế kỷ tôi là một chiến binh anh dũng, một hoàng đế giỏi chiến đấu. Quân đội tôi đóng quân ở bên ngoài một thành trì được phòng thủ vững chắc, tường thành không thể bị chọc thủng, trong khi đó nhiều binh lính đã ngã bệnh lỵ, còn quá ít người đủ sức cho một cuộc tấn công. Tuy nhiên chúng tôi không cố chiếm thành thì họ sẽ biết chúng tôi đang bị suy yếu, và chúng tôi sẽ bị tàn sát ngay chiến trận. Tôi sắp xếp một cuộc gặp gở với tên quan giữ thành, nhưng trước cuộc gặp thì binh lính của tôi dựng lều và đặt áo giáp để che đậy cái mức khốn khổ của chúng tôi.

Những gì hắn nhìn thấy trước mắt và từ chiến trường khi hắn nhìn chúng tôi, tôi nói với hắn đó chỉ là một phần rất nhỏ của quân đội tôi. Không quá năm dặm, một lực lượng ba ngàn binh tinh nhuệ đang chờ tín hiệu của tôi để tấn công. Họ đã thiếu thốn phụ nữ rất lâu; chuyện hãm hại, giết chóc vợ con của các người là điều không thể tránh khỏi, hắn nên biết rõ điều đó khi tường thành sụp đổ. Binh lính sẽ chết và trẻ con sẽ bị nướng chín. Binh lính của tôi cũng có tiếng rất tàn bạo trên chiến trận nên hắn tin những gì tôi nói. Hắn hỏi liệu tôi muốn gì ở hắn. Lập lại hòa bình. Hãy để chúng tôi vào thành một thời gian, chỉ để nghỉ ngơi và chăm sóc ngựa, rồi chúng tôi sẽ đi. Có rất nhiều trận chiến khác quan trọng hơn mà chúng tôi cần chiến thắng.

Tên quan đồng ý mở cửa thành. Ngay lập tức binh lính của tôi tấn công. Họ giết hết đàn ông khỏe mạnh, tôi cưỡng đoạt con gái của hắn, bởi vì chúng tôi đã thèm khát phụ nữ rất lâu. Sau đó chúng tôi đốt thành, chốt cửa thành rồi lên đường. Ngọn lửa lan ra đám cây gần đó, nhưng binh lính không hề bị thương. Còn mọi người ở trong thành đều bị chết cháy. Tên tuổi tôi trở nên đồng nghĩa với tàn bạo và hủy diệt. Khắp cả vùng trời người ta đều sợ hãi tôi. Nhiều tên quốc vương giàu có cống nạp tiền của để tôi đừng tấn công họ. Tôi có thể mua bất cứ thứ gì tôi muốn, có bất cứ thứ gì tôi muốn.

Sau khi tôi đưa ông trở về hiện tại và khi ông kiểm nghiệm lại cảm giác giàu có và quyền lực, tôi hỏi ông:

- Mua bất cứ thứ gì bao gồm cả Madagascar?

Ông nhìn thấy mối tương quan giữa kiếp quá khứ và hiện tại mà câu nói đùa của tôi không hề làm ông cười. Ông bị choáng váng bởi mức độ tàn bạo của ông, khiếp sợ mọi thứ trong cuộc đời, mọi thứ trong tư cách khả năng giết hại.

Tôi nói:

- Tôi nghĩ rằng ông đang trả giá cho việc đó.

- Trong kiếp khác?

- Đúng vậy. Trong kiếp đó ông vẫn bình an vô sự. Khác hẳn là ông đã có người trả thù, nhưng ông có ai biết.

Ông gật đầu đồng ý, tôi nói tiếp:

- Nỗi sợ mà ông cảm thấy khi ông xem xét lại thì không tương xứng với nỗi sợ mà ông đang trãi qua kiếp này.

Ông hít một hơn rồi thở dài.

- Vậy thì cho tôi trở về lại đi.

Đó là thời gian của cơn đại hỏa hoạn. John là một thương gia giàu có. Ông không hề quan tâm đến vợ và hai đứa con; một mối quan hệ tự nguyện trong vô số mối quan hệ. Cô nàng rời bỏ ông và đem theo hai con, cô thà ra đi mà không có một đồng dính túi còn hơn là ở lại với ông. Alice, đứa con gái 6 tuổi quay lại thăm ông và xin tiền. Lúc đó ông đang say xỉn ngủ trên giường. Ngay khi cô nhìn thấy ngọn lửa bùng phát, cô quýnh quáng không thể lôi ông dậy. Nếu cô bé có làm gì thì cũng không thể cứu vãn được tình thế cho cả hai cha con. Ngọn lửa thiêu rụi tất cả, nuốt chửng những căn nhà gỗ ở London và mọi thứ khác; sự sống hay vật vô tri, mọi thứ họ chứa đựng, và tạo ra đều không thể thoát khỏi.

Khi hồi tưởng lại John thở hổn hển:

- Cảm giác đầu tiên của tôi là không thể thở được. Khói dày đặc, không thể nhìn thấy gì hết. Tôi có thể nghe tiếng Alice hét lớn khi tóc của nó bị cháy, nhưng tiếng hét lập tức ngưng lại. Tôi cho là nó đã chết, quá thương tâm. Cái chết cũng đến với tôi, nhưng không vội vã. Dường như ngọn lửa thích bò theo cách của nó tiến đến thân thể tôi hơn là cuộn lấy cả thân hình. Đầu tiên là đôi chân bị cháy trước rồi đến nửa người, và chỉ sau một lúc lâu thì tới đầu. Như thể là tôi bị hình phạt đóng đinh vì tội lỗi nghiện ngập rượu chè, quan hệ bừa bãi tôi công nhận là tội lỗi ghê tởm, nhưng tôi không thấy mình đến nỗi phải chịu một hình phạt tử hình ghê rợn như vậy.

Trong sự kiểm nghiệm lại cuộc đời John nhận ra rằng ông đã phạm nhiều tội lỗi cần phải bị trừng phạt nặng nề thích đáng, nhưng trong kiếp quá khứ mà thôi. Ông cũng hiểu ra vì sao ông lại có nỗi sợ khủng khiếp như vậy. Không có gì khiếp đảm hơn cơn đau cực độ xảy ra ỡ London. Thậm chí ông nghĩ rằng nếu điều đó có thể xảy ra lần nữa, chắc chắn ông không thể chịu đựng nổi. Thay vì phải bị đau khổ hơn nữa, nhưng lòng từ thiện và lòng thương cảm trong ông lại được thôi thúc mạnh hơn bởi cảnh tương tàn bạo ông đã gây ra, rồi hình phạt thiêu cháy mà ông phải chịu.

Ông cảm thấy niềm vui thích to lớn hơn trong việc cha mẹ ông đã thành lập quỹ từ thiện, rốt cuộc thì ông hướng sự giàu có vào những dự án mà ông đã biết tự giám sát chính mình; phù hợp với hoàn cảnh, một dự án trợ cấp cho nhiều bộ phận hỗ trợ hỏa hoạn. Ông bỏ thói tiêu khiển với phụ nữ, cố hàn gắn với Lauren (như tôi đã nói, tiếp tục một công việc không bao giờ kết thúc), tham gia vào các khóa học kinh tế và quản lý, mong có ngày ông có thể điều hành được quỹ từ thiện. Bây giờ ông có thể ngủ được, và với một nguồn năng lực đến với ông làm ngạc nhiên hơn cả nó đã từng đến với tôi. Lòng thương cảm là nguồn sinh lực.

Tôi vẫn tiếp tục gặp ông nhiều tháng sau đó, không phải đưa ông về lại quá khứ mà để thảo luận về sự trầm cảm kéo dài. Ông kể cho tôi nghe rằng dù ông có hy sinh bản thân mình vào các việc từ thiện nhiều đến mức nào, ông cũng không cảm thấy đủ. Tôi có thể bảo đãm với ông là ông đang đi đúng hướng, mà điều đó sẽ đến vào nhiều kiếp khác khi ông có thể thực hành đầy đủ những gì ông đã học hỏi.

Vào gần cuối đợt trị liệu, ông đồng ý để tôi đưa ông đi đến một khoảng tương lai gần. Vì lợi ích của những lần trở về trước, ông rất thích ý tưởng đi đến tương lai. Ông trở thành một đối tượng bị thôi miên xuất sắc và trải nghiệm với những hình ảnh quá khứ sống động. Có lẽ ông sẽ làm điều tương tự trong tương lai.

Trước khi John đến, tôi suy tư về năng lực của định mệnh và ý chí tự nguyện. Trong khoảng thời gian quá khứ, định mệnh đã tạo ông thành người cầm quân; sự thống trị theo cùng một cách đối với người nước ngoài và kẻ thù rất to lớn. Tuy nhiên ông đã chọn sử dụng sức mạnh và sự giàu có cho việc nâng cao địa vị của bản thân, cho sự kiểm soát của người khác, cho việc lợi ích của một số ít người hơn là phần lớn mọi người. Ông phải trả giá cho quyết định của mình trrong nhiều kiếp sau đó lại London, và vào thế kỷ 21 tại Florida.

Giả sử ông chọn con đường khác sử dụng vị trí của mình cho lợi ích cộng đồng, biểu hiện lòng thương cảm và tình yêu thì ông sẽ có hàng loạt kiếp sống khác, sẽ không cần tìm đến tôi, đau khổ và sợ hãi. Ý chí tự nguyên đôi khi đưa chúng ta đến sự xấu xa, không phải tốt đẹp; đến với ích kỷ, không phải vị tha; đến với tính hẹp hòi, không phải từ tâm; đến với sự ghét bỏ, không phải lòng yêu thương. Chúng ta phải hiểu rằng ý chí tự nguyện sẽ gặp nguy hiểm nếu bị sử dụng sai.

Khả năng đi sâu vào trạng thái thôi miên của John làm tôi tin rằng ông sẽ đưa về những thông tin chính xác từ cuộc du hành đến tương lai, hình thành nên những điều ông thật sự trải nghiệm thay vì những điều ông tưởng tượng hoặc mong muốn tương lai được như vậy. Ông có khả năng gạt sang một bên sự nhận thức, trí tuệ để trực tiếp trải nghiệm với tương lai không bị méo mó.

Một lần nữa, đến một cấp độ sâu john di chuyển đến phía trước trong khoảng thời gian vẫn giữ một sự nhận thức ngoài cơ thể. Ông nhanh chóng được hai linh hồn thông thái đưa đến một ngã ba đường hướng đến nhiều kiếp tương lai. Bằng ngoại cảm ông nghe được hai nhà thông thái nói rằng một trong những con đường khác nhau, con đường bên trái là con đường mà ông sẽ đi nếu ông không chọn lấy lòng thương cảm, lòng từ thiện, và đức tính rộng lượng trong kiếp hiện tại. Con đường bên phải là phần thưởng vì sự lựa chọn khôn ngoan của ông.

Tôi đưa ông theo con đường bên trái để ông có thể nhìn thấy định mệnh mà ông nên tránh tạo ra trong suốt kiếp hiện tại.

- Tôi đang đứng trên một chiếc cầu khỉ, chung quanh đầy sương mù. Nhưng khi tôi đi qua phía khác tôi có thể nhìn rõ hơn. Tôi là phụ nữ Mỹ tên là Diana. Đó là khoảng một trăm, có lẻ hai trăm năm sau không rõ nữa, tôi đang bồng trên tay đứa con gái nhỏ của tôi ra khỏi phòng thí nghiệm. Tôi thật bất hạnh khi kết hôn với một người lái tàu đệm khí, anh ta đã hết yêu tôi từ lâu, và quan hệ thoải mái với nhiều phụ nữ khác. Đứa trẻ này không phải con anh ta. Tôi chưa bao giờ mang thai. Đứa trẻ là kết quả của y học sinh sản vô tính tiên tiến. Con bé chính xác sẽ giống tôi một chút, mặc dù tôi hy vọng nó sẽ có cuộc sống hạnh phúc hơn tôi. Sinh sản vô tính thật hoàn hảo bởi vì khả năng sinh sản của con người và tỷ lệ sinh đẻ đã giảm sút đáng báo động do độc tố hóa học trong thực phẩm, nguồn nước và không khí. Hầu hết mọi người chọn cách thụ tinh trong ống nghiệm, và tôi hài lòng với việc tôi làm. Ít ra nó không phải là con chồng tôi.

Tôi không đi du lịch nhiều nhưng chồng tôi thì có. Anh ta đi khắp nơi trên thế giới cùng chiếc tàu đệm khí, nó có thể đi nhanh hơn vận tốc của âm thanh. Khi còn nói chuyện với tôi anh ta kể rằng nhiều cánh đồng và rừng bị biến mất. Tai họa do công nghiệp đã khiến nhiều vùng mất sự sống. Con người sống ở các nước lớn thường gây chiến với nhau, nhiều hơn là ô nhiễm toàn cầu.

Cuộc sống mà Diana mô tả không khác gì so với cuộc sống hiện tại. Con người vẫn còn đau khổ vì những vấn đề, những bệnh tật giống nhau. Khoa học và công nghệ càng tiến bộ thì bệnh tật càng nhiều, nhưng sự đam mê và kiêu hãnh của con người không hề thay đổi. Thế giới sẽ là một nơi nguy hiểm hơn. Thực phẩm tổng hợp giúp giảm bớt sự đói, nhưng ô nhiễm làm nguy hại đến nguồn hải sản và nước uống. Tôi đem cô đi xa hơn trong kiếp đó thì cô bắt đầu khóc.

- Tôi nghĩ rằng con gái tôi sẽ mang đến niềm vui cho tôi, nhưng nó trở nên lạnh lùng và tàn nhẫn như chồng tôi. Tôi sống hơn một trăm tuổi, tuy nhiên mỗi ngày là một gánh nặng, một nỗi buồn. Chết là giải thoát. Tôi chết trong cô đơn cũng như đã sống cô đơn suốt quãng đời.

Tôi đưa John trở lại ngã ba đường. Vẫn trong tình trạng thôi miên sâu, ông hiểu ngay ra rằng người vợ ở London đau khổ biết dường nào khi ông, một thương gia giàu, bỏ rơi. Chính xác đó là tâm trạng khi ông trở thành Diana và bị chồng bỏ rơi. Tuy vậy, John biết là Diana chỉ là hình ảnh trong một kiếp mà có lẽ ông sẽ không theo đuổi. Ông chọn con đường bên phải, và bây giờ tôi đưa ông đi dọc theo đó.

- Tôi là chủ tịch của một trường đại học danh tiếng đã có mặt ở Mỹ trước khi ranh giới quốc gia biến mất. Tôi rất giàu có, nhưng tôi sống rất đạm bạc với vợ và ba đứa con trong một ngôi nhà ở khu nội trú. Tiền của tôi được dành cho học bổng, thu hút những người tài giỏi nhất trong lãnh vực nghệ thuật, khoa học của trường. Tôi thích làm việc với họ: những trí tuệ trẻ trung chứa đầy ý tưởng mới mẻ, tiến bộ. Họ và tôi cùng với các giảng viên giỏi hướng dẫn họ tìm tòi nhiều cách sáng tạo tính đồng chất giữa con người trên trái đất bằng việc khích lệ giá trị quan trọng vào sự giống nhau, mà không có sự khác biệt giữa con người. Tôi là người nổi tiếng, nhưng điều này không thể so sánh với niềm hân hoan mà tôi đạt được trong cuộc sống.

Chuyến du hành đi đến tương lai lần này rất ngắn, ông hoàn toàn thích thú trong thời gian đến dó. Tôi hướng dẫn ông vượt qua hai con đường này đến một đoạn tương lai xa hơn. Ông nhăn răng cười vui vẻ, vẫn trong trạng thái thôi miên.

- Ông định đưa tôi đi đâu vậy? Tôi có thể tự di chuyển tới bất cứ nơi nào mà tôi thích. Con người không cần thân thể nữa, tuy nhiên họ vẫn có chúng nếu họ thích. Đối với thể thao thì rất là vui. Chúng tôi có thể đi đến bất cứ nơi nào và biến thành bất cứ người nào bằng cách sử dụng năng lượng tưởng tượng và ý nghĩ. Chúng tôi giao tiếp qua ý thức và cũng xuyên qua hào quang ánh sáng.

Niềm thõa mãn của ông cũng làm tôi hài lòng. Tôi nói:

- Theo cách ông miêu tả thì tương lai này rất xa, có lẽ vài ngàn năm tới.

- Không phải đâu. Không quá xa như ông nghĩ đâu, dù tôi không biết là năm. Trái đất có một màu xanh, tươi tốt xum xuê.

Một lần nữa, chuyện này phản ảnh lại nhiều bài tường thuật mà tôi đã nghe. Ông nói tiếp:

- Tôi không thể thấy nhiều người, có lẽ vì phần đông họ không muốn nhập vào thân thể, họ vui vì được tồn tại với ý thức và ánh sáng. Thế giới là một nơi tràn đầy yên bình, vượt quá sức tưởng tượng, không có dấu hiệu của chiến tranh, bạo động, đau khổ hay tang thương. Tôi chăm chú nhìn hành tinh này để tìm xúc cảm tiêu cực nhưng nó không hề tồn tại. Không hề có một chứng cứ nào của giận dữ, thù ghét hoặc sợ hãi. Chỉ có bình yên.

Ông đã có thể ở thêm vài giờ trong tương lai mà ông trải nghiệm tại văn phòng tôi, nhưng đồng hồ báo rằng buổi bình minh đã bắt đầu vào thế kỷ 21, và còn một bệnh nhân khác đang chờ, vì vậy tôi phải đưa ông trở về. Lần sau khi ông đến, ông không muốn quay trở lại điểm tương lai xa xôi đó.

- Nó quá tuyệt vời. Tôi phải sống trong hiện tại, và ngay bây giờ điều đó cũng đầy tuyệt diệu.

John hiểu rằng ông đã học được nhiều bài học có giá trị qua nhiều kiếp và vẫn còn có nhiều bài để học nữa. Ông nhận ra rằng những lựa chọn gần đây sẽ có một ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều kiếp sau của ông, tuy nhiên sự ảnh hưởng đó nằm trong tương lai mà ông phải tạo ra những lựa chọn quan trọng, công bằng, khác biệt để đạt đến sự vinh quang mà ông đã nhìn thấy trong những cuộc du hành đến kiếp tương lai.

- Tuy nhiên nếu tôi lựa chọn một mình thì sẽ không sản sinh ra kiếp tương lai đó mà là quyết định được gió nhặt của tất cả loài người để đưa chúng ta đến đó.

Có lẽ vậy. Và có lẽ thời gian đó như John đã thấy “không quá xa như ông nghĩ đâu”.

#307 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/07/2011 - 11:14

DU HÀNH QUA CÁC VÙNG TÂM THỨC

Chương Mười

David: Tâm linh.

Lúc nhỏ tôi thường theo cha tôi đi đến điện thờ vào sáng Chủ Nhật, quan sát những ông lão đu đưa, lắc qua lắc lại khi họ đọc kinh cầu nguyện. Cha tôi bảo tôi rằng nghi thức này lập đi lập lại cả ngày lẫn đêm, sáng trưa chiều tối. Tôi không hiểu ngôn ngữ của lời cầu nguyện, tiếng Hê-brơ, căn bản là tôi không thể hiểu nguyên nhân để họ cầu nguyện. Tôi nghĩ là chẳng có ý nghĩa gì hết. Tôi cho rằng dù nhiều năm trôi qua đi nữa lời cầu nguyện cũng sẽ không thể có ý nghĩa gì hết, và lúc đó việc mà đu đưa, lắc qua lắc lại cũng không thể là bài tập thể dục.

Sau khi điều trị Catherine tôi mới vỡ ra. Những ông lão đó đặt để thân thể họ vào một tình trạng thay đổi cũng giống như tôi đặt bệnh nhân vào tình trạng thôi miên. Tôi không nghĩ nội dung của lời cầu nguyện quan trọng, mà nghi thức cầu nguyện mới là quan trọng, giống như nhiều nghi thức tôn giáo, bất kể tôn giáo nào, đều giúp họ có nhiều năng lực tâm linh hơn. Dù người này là đạo Do Thái, đạo Thiên Chúa hay đạo Hồi, đối tượng chỉ là một: được đến gần hơn với đấng Tối Thượng, và bằng cách cầu nguyện, sẽ trở nên gần hơn với chính bản chất tâm linh trong sáng.

Với tôi, có tâm linh nghĩa là có lòng thương cảm, yêu thương, chăm sóc. Nó có nghĩa là dang rộng đôi tay ra cho mọi người với cả tấm lòng từ ái mà không mong được đền đáp. Nó có nghĩa là thừa nhận điều gì đó lớn lao hơn chính bản thân, một sức mạnh tồn tại trong một cõi xa lạ mà chúng ta phải cố gắng khám phá. Nó có nghĩa là biết được còn nhiều bàn học cao hơn để học hỏi, và sau khi chúng ta đã học xong những bài học đó, chúng ta biết rằng vẫn còn nhiều bài học cao hơn nữa. Khả năng tạo ra tâm linh là trong người chúng ta, và chúng ta phải khai thác nó.

Tôi đã từng thấy nhiều người có đạo, phạm phải những hành động bạo lực và còn kích động người khác tạo ra chiến tranh. Họ nói rằng những người mà không cùng tôn giáo với họ là kẻ thù của họ, vì vậy họ phải tấn công và giết chết. Những người này không hề học hỏi bài học có sẵn mà chỉ biết có một vũ trụ, một linh hồn. Theo tôi, khuynh hướng này là hoàn toàn không có tâm linh, không hề có ý nghĩa là tôn giáo tán thành. Thật ra, điều đó đánh dấu sự khác biệt giữa tôn giáo và tâm linh. Bạn không cần có tôn giáo để có tâm linh, có thể bạn là người vô thần mà vẫn có lòng từ ái và thương cảm. Bạn có thể làm việc tự nguyện mà không phải vì Chúa yêu cầu bạn làm, nhưng bởi vì việc làm này khiến bạn cảm thấy vui vẻ, và bạn nghĩ đó là cách mà con người nên hành động hướng đến với nhau, đó là cách để tiến hóa đến cõi cao hơn.

Khái niệm về Thần Thánh trong tôi là tình yêu thương, năng lực trí tuệ nằm trong từng tế bào của cơ thể chúng ta. Tôi không nhìn thấy người như một tiêu chuẩn sáo rỗng của một người đàn ông với hàm râu quai nón, ngồi trên đám mây phán xét loài người. Trong thuật ngữ phân tâm học, đây là sự hiện hình, nhân tính hóa của Thần Thánh. Câu hỏi quan trọng liên quan đến tâm linh thì không phải là bạn đang hướng đến Chúa Trời nào, mà có phải thật sự bạn đang hướng đến chính linh hồn mình? Có phải bạn đang sống với một đời sống tâm linh? Có phải bạn là người tốt trên trái đất này, nhận niềm vui nơi bạn đang tồn tại, không gây đau khổ, chỉ làm việc tốt cho người khác?

Đây là thực chất cuộc đời, rất cần thiết cho chúng ta trên hành trình tiến lên trước, và dường như nó không hề rắc rối. Nhưng rất nhiều người trong chúng ta vẫn chưa thấu triệt những bài học tâm linh này. Chúng ta quá ít kỷ, thực dụng, mà thiếu lòng từ ái và sự đồng cảm. Ham muốn làm việc tốt được xếp vào sự ham muốn hưởng thụ vật chất. Và khi lòng tốt và sự ích kỷ vật lộn trong tâm trí, chúng ta trở nên bối rối, bất an.

Đó là tình trạng mà David đang lâm vào, như bạn sẽ nhìn thấy.

Gia đình David thuộc dòng dõi quý tộc New England cũ. Từ Boston bằng mọi cách, anh ta đến gặp tôi. Anh ta đã nghe về việc tôi đang làm, và CD của tôi đã giúp anh thư giãn dù anh chưa có cuộc thử nghiệm nào trở về quá khứ. Ngoài ra, anh đã thử phép trị liệu tâm lý thông tường nhưng nó không giúp anh được nhiều.

- Tôi đã chuẩn bị ở lại một tuần, chúng ta có thể làm được điều gì đó trong khoảng thời gian này?

- Chúng ta cứ thử xem.

Tôi trả lời nhưng lại để ý đến vết cắt hoàn hảo trên quần và cái nhãn hiệu Polo trên áo anh ta.

- Tôi sẽ lập cho anh một thời khóa biểu ba buổi. Tuy nhiên chúng ta không thể thực hiện nếu anh không kể rõ lý do anh đến đây.

Tôi thật ngạc nhiên vì câu hỏi có vẻ như đánh đố anh ta. Cuối cùng rồi anh ta mới trả lời.

- Tôi không biết chắc. Tôi không...tôi không hạnh phúc.

- Nghề nghiệp? Cá nhân?

- Cả hai…cũng không phải.

- Cái nào?

- Điểm chính là tôi không nên bị mất hạnh phúc.

- Không hạnh phúc vì không phải vấn đề nên. Đó là tình trạng của tâm trí.

- Dạ phải. Dĩ nhiên như vậy. Chỉ khi tôi nghĩ về cuộc sống riêng mà thường xa hơn cuộc sống tôi ao ước thì tôi không thể nhìn thấy một điểm nào là không vui.

- Nghề nghiệp của anh?

- Luật sư. Tôi làm cho công ty của cha tôi, và làm rất tốt. Có cổ phần đã hai năm, nhưng tôi không nói đến việc ưu đãi vì bà con thân thuộc.

Khi con cái làm việc cho ba mẹ vẫn thường có sự bất đồng.

- Anh có thấy khó chịu khi làm việc cho cha anh?

- Không hề.

Anh ta nhấn mạnh, ngắt câu bằng một cái vỗ tay nhẹ.

- Cha để tôi tự lập. Ông nuôi dạy tôi trở thành một con người của riêng tôi, mẹ tôi cũng vậy. Ông không bao giờ phê bình tôi, và hiếm khi gặp tôi trong văn phòng. Tôi cho rằng tôi dành thời gian cho ông vì thân tình nhiều hơn trong công việc.

Khi nhà tâm thần học bắt đầu tìm hiểu nguyên nhân vấn đề của người bệnh, trước tiên họ thường tìm hiểu về gia đình. Ở đây có vài động cơ vô thức trong công việc mà David không nhận ra? Tôi thăm dò xa hơn.

- Mẹ anh còn sống không?

Anh ta mỉm cười.

- Vẫn còn sống, và hoạt động tích cực. Bà đang trên tàu của đoàn nhạc kịch, múa ba lê, viện bảo tàng nghệ thuật. Mẹ tôi là một bà chủ lớn.

Anh ta đưa tay lên như đoán trước được câu hỏi của tôi.

- Lúc nhỏ tôi được mẹ chăm sóc rất chu đáo, cả anh chị em tôi đều được chăm sóc. Chúng tôi rất gắn bó với nhau.

- Anh nói là anh găp cha anh rất thân tình?

- Dĩ nhiên, mẹ tôi cũng vậy. Hôn nhân của họ bền vững đã bốn mươi năm rồi.

- Anh gặp họ thường xuyên?

- Có lẽ mỗi tuần một lần. Thường thì một tháng ba lần.

- Anh đã lập gia đình?

Một cái vỗ tay nhẹ khác.

- Đúng vậy. Với thiên thần Leslie.

Có phải anh ta mỉa mai?

- Cô ta cũng là luật sư?

- Ồ không, nàng là diễn viên. Tôi gặp nàng vào năm thứ hai của đại học luật Harvard. Vào một dịp đi xem kịch tôi bị choáng váng vì Perdita, rồi tôi đi vào sân khấu rủ nàng đi chơi. Đó là cơ hội may mắn vĩnh viễn khi nàng đồng ý, rồi sau đó lại đồng ý khi tôi hỏi cưới nàng cách đây 5 năm.

- Cha mẹ anh chấp nhận?

- Con cháu gia đình quý tộc ở Boston kết hôn với một diễn viên hèn kém? Lúc đầu tôi không biết ba mẹ cảm thấy như thế nào? Tôi nói rồi, ba mẹ để tôi tự chọn cuộc đời mình. Nhưng bây giờ họ rất yêu quý nàng.

- Có con chưa?

- Chưa. Nhưng 5 tháng nữa thì khác. Siêu âm nói là con trai. Nó ở đây. Có người nối dõi rồi! Dòng họ có người tiếp nối rồi!

Anh kể cho tôi nghe bằng một niềm vui khôn tả.

Bây giờ thì anh nhoài người về phía trước, và biểu lộ buồn thảm.

- Bác sĩ Weiss, đó chỉ là một vấn đề. Tôi yêu thương ba mẹ, tôi có một tuổi thơ tuyệt vời, có một người vợ đặc biệt, được học hành đàng hoàng, cuộc sống đầy đủ sung túc. Chúng tôi có đủ tiền để phòng mọi tai nạn, hoặc chúng tôi có thể đi đến bất cứ nơi nào trên hành tinh. Tôi thật sự là một người chẳng phải lo toan gì hết. Tuy nhiên khi tôi suy nghĩ về những điều này, và thậm chí tôi biết rõ chúng đang hiện hữu, vẫn có một vấn đề gút mắc cơ bản: người đàn ông mà tôi vừa miêu tả không phải người sống trong da thịt tôi.

Điều cuối cùng được kèm theo bằng tiếng nức nở và cái nhìn hết sức đau khổ khiến tôi thật sự nghĩ rằng mình đang đối mặt với một người khác.

- Anh có thể nói cụ thể hơn?

Anh ta cố sức hồi phục.

- Giá mà tôi có thể. Nếu tôi có gắng tìm từ ngữ mà tôi cảm thấy ra sao thì nó giống như là van xin. Một lời than nhỏ mọn của một người quá yêu bản thân mình.

- Không quan trọng là nó như thế nào, rõ ràng là lời than van không hề nhỏ nhoi. Anh đang đau đớn.

Anh ta nhìn tôi biết ơn và thở nhẹ nhõm.

- Được rồi. Nó như thế này: tôi cảm thấy như thể mình đang trượt trong một cái ao đóng băng gọi là cuộc đời, và cái đó nằm sâu dưới nước cả trăm phít. Tôi biết rằng tôi nên bơi trong đó, rằng nó sẽ tốt nếu tôi trải nghiệm nó, nhưng tôi không biết làm thế nào để phá tảng băng đó. Tôi bối rối về nơi tôi đang sống trên thế giới này. Đúng là tôi rất vui khi làm việc với cha tôi, nhưng điều đó chỉ là một sự xác định của tôi: con của cha tôi. Tôi còn hơn nữa. Tôi còn một xác định khác nữa: người chồng tốt và sắp trở thành người cha tốt.

Anh ta cứ nói, lời nói tuôn thành âm thanh lớn đến sững sờ trong văn phòng tôi.

- Chúa ơi! Tôi hoàn toàn vô hình. Cuộc sống chỉ vèo qua tôi như cơn gió.

Tôi biết anh ta cần những lời giải sâu sắc. Nhưng là sự rên rỉ, lời than van của anh ta liên quan đến sự tồn tại, một lời kêu van vì một sự xác định rõ mà anh ta không thể khám phá. Có lẽ anh ta đang tìm kiếm không đúng chỗ.

David kể rằng khi anh nghe CD của tôi tại nhà, anh ta thấy thư giãn và chìm vào giấc ngủ. Chẳng có gì sai cả, đơn giản là người đó đi quá sâu. Vì vậy “đợt thực hành” trước của anh đã khiến việc đưa anh vào trạng thái thôi miên dễ dàng hơn tại văn phòng tôi. Chỉ trong vài phút anh đã đi vào trạng thái thật sâu. Anh nói chầm chậm như đang cố nhìn kỹ vào cuộc đời từ ngoài:

- Đó là thế kỷ 12. Tôi là nữ tu, sơ Eugenie, đang làm việc trong bệnh viện ở ngoại ô Paris.

Anh nhún vai.

- Một nơi đầy chết chóc, lạnh lẽo, tối tăm. Cuộc sống của tôi quá cực nhọc. Người bệnh nằm đầy trong phòng, tôi biết còn nhiều người dứng ngoài người nằm trong đây chết để có chổ nằm. Thân thể họ bị giộp phồng đầy nước vàng. Mùi hôi bốc lên kinh khủng. Ngay thời tiết lạnh như vậy mà người bệnh nghèo nàn này vẫn bị sốt rất cao. Họ toát mồ hôi và rên rỉ. Nhìn họ đau đớn khủng khiếp.

Tôi không hề ngại khi làm việc ở đó. Một đứa em gái 11 tuổi, mồ côi, đôi mắt lấp lánh với cơn sốt, đôi môi khô rang, khuôn mặt nhăn nheo như con khỉ. Chúng tôi biết con bé sắp chết mà tôi không thể làm gì để giúp nó. Tuy nhiên tâm trí con bé rất sáng suốt, nó có thể làm trò cười, nhiều bệnh nhân khác rất thích nó. Tôi yêu quý con bé nhất. Tôi đem nước đến và lau trán cho nó, tôi làm việc này với mọi người với sự chăm sóc đặc biệt.

Vào ngày con bé chết, nó nhìn tôi và nói “Sơ đến trong đời con và đem cho con sự yên ổn. Sơ đã cho con hạnh phúc”. Hạnh phúc! Ông có thể tưởng tượng được không? Một đứa con gái tội nghiệp, một sự đau đớn cực độ về thể xác, nói rằng đã hạnh phúc vì có tôi. Tôi không biết rõ lý do, nhưng tôi tăng đôi nỗ lực của mình đối với mọi bệnh nhân, hy vọng tôi có thể đem cho họ niềm hạnh phúc tương tự, hoặc ít ra cũng đem cho họ sư yên lành. Và nó có kết quả! Tôi biết sự hiện diện của mình để dỗ dành họ, và nối kết linh hồn của chúng tôi lại với nhau, tuy vậy không có ai nối kết mạnh mẽ với tôi bằng cô bé mồ côi đó.

Khi nói khuôn mặt anh phản ánh nội tâm an lành và giọng nói rất nhẹ nhàng, kính sợ, huyền diệu.

- Rốt cuộc rồi tôi cũng không chống nổi bệnh tật. Cơn đau nhức buốt, tuy thân thể tôi khốn khổ nhưng tâm trí và linh hồn tôi rất sáng suốt. Tôi biết rằng tôi đã sống rất hữu ích cho mọi người, và đó là kế hoạch mà Thượng đế dành cho tôi. Khi tôi chết linh hồn bay cao hướng đến Thượng đế, người đã cứu rỗi tôi. Tôi được bao phủ trong ánh sáng vàng rực, cảm thấy có sức sống mới trong ân huệ của Người. Nhiều thiên thần đến dẫn tôi đi, chào đón tôi bằng những tràng pháo tay và những bài hát trên thiên đường. Sống trên trái đất, tôi đã đánh liều mạng sống để cứu người khác mà không hề có ý nghĩa lợi ích vật chất. Đây là phần thưởng của tôi trên thiên đàng, có giá trị nhiều hơn kho báu của vua chúa, quý giá hơn những viên ngọc bích.

Họ giúp tôi kiến thức, và đổi lại tôi cho họ tình yêu thương vô tận. Qua họ tôi hiểu rằng giúp đở người khác là điều thiện cao quý nhất, và ông có thể tưởng tượng ra niềm vui của tôi khi họ nói rằng tôi đã đạt được điều đó. Chiều dài của cuộc đời không quan trọng. Con số của ngày giờ năm tháng sống trên trái đất là vô nghĩa. Quan trọng là chất lượng sống trong những năm tháng đó, chất lượng được đo lường trong hành động nhân từ và trí tuệ đạt được.

Vài người làm việc một ngày còn hơn người khác làm trong một trăm năm. Đây là lời nhắn của họ. “Mỗi linh hồn, mỗi con người đều quý giá. Với sự giúp đỡ của mỗi một người, mỗi một cuộc sống được cứu giúp, đó là giá trị không thể đo đếm được”. Mỗi linh hồn mà tôi chăm sóc trong bệnh viện, thuộc vào những thể xác đã chết trước tôi, gởi lời cầu chúc và tình yêu đến cho tôi, hòa lẫn vào niềm vui của tôi.

David ngừng lại một chút rồi tiếp:

- Một sinh vật tuyệt đẹp đáng ngạc nhiên khác với các thiên thần, dường như được làm từ ánh sáng, tuy vậy nó có hình thái con người rõ ràng, mặc một cái áo choàng tím, mang giày vàng. Giọng nói của nó không thể phân biệt là nam hay nữ có một quyền lực của trí tuệ siêu phàm.

Khi tôi đưa anh trở về hiện tại, anh vẫn trong tình trạng quyền lực của cảnh tượng, vẫn còn tràn đầy kính sợ và tâm được khai sáng, anh nói với tôi:

- Chúng ta có thể gọi đó là Sinh Vật Nguồn. Vì những bài học mà các thiên thần dạy tôi là họ đã học từ sinh vật đó. “Nếu bạn cần sự giúp đỡ, bạn có thể cầu khẩn thông qua thiền định và cầu nguyện, bạn cần lúc nào thì nó sẽ hiện thân lúc đó”. Nguồn này chỉ dẫn tôi trực tiếp. “Mở rộng lòng nhân ái, tìm điều cao đẹp hơn mà không có động cơ ích kỷ, không có bất cứ bóng dáng nào của tiêu cực hay gây hại, có thể cầu khẩn một năng lực hiện thân đầy quyền năng để hoàn thành mục đích. Đây là quyền của chúng ta như những thực thể tâm linh. Đây là bản chất của tâm linh. Đây là lời cầu khẩn phước lành.”

Anh lắc đầu, băn khoăn và nói:

- Trong đời tôi chưa bao giờ có ý nghĩ như vậy. Tôi là người ngoại đạo. Không hề tin có Chúa và không có ý tưởng mập mờ nào cho tôi về Nguồn. Ý tưởng mà tôi đã từng là nữ tu có vẻ vô lý.

- Đó chính là một kiếp mà anh đã từng sống. Chắc chắn là một kiếp rất quan trọng vì anh đến đó rất nhanh và nó lại rất sống động.

Anh đồng ý.

- Anh không thể là ảo tưởng. Nó quá tách biệt với mọi thứ mà tôi tưởng tượng trong quá khứ.

- Vì vậy mà anh nghĩ là thật?

Anh nắm tay lại.

- Tôi không thể đi xa quá. Nhưng tôi có thể nói với ông như vậy, bác sĩ Weiss. Đó là sự trải nghiệm cảm động kinh ngạc nhất mà tôi có thể nhớ.

- Có lẽ Sơ Eugenie là một con người trong da thịt anh. Có lẽ bà ta là David mà anh đang tìm kiếm.

Anh nghĩ ngợi giây lát.

- Chúng ta sẽ gặp lại phải không?

Buổi điều trị đã xong. Anh đứng dậy và vỗ nhẹ tay.

- Cái gì sẽ đến?

Hai ngày sau anh trở lại và nói với tôi rằng cái kiếp sống đó cứ ám ảnh từ lúc anh rời khỏi văn phòng tôi. Anh có cảm giác mình đã trải qua một buổi lễ hiển linh. Bây giờ anh tò mò về cái tiếp, và gần như ném mình xuống ghế. Vài phút sau anh quay trở về khoảng thời gian 140 năm trước trong cuộc nội chiến của Mỹ. Kiếp này anh ở ngoài cảnh tượng dù anh nhìn thấy nó rõ ràng. Anh là một thanh niên trong phe Liên Minh, lính bộ binh, suốt ngày đi tuần tra hoặc chiến đấu. Anh kể:

- Hết trận đánh này tới trận đánh khác. Mỗi trận đánh càng tệ hơn. Tôi sợ kết bạn vì tôi chắc rằng họ sẽ chết hoặc bị thương. Điều đó xảy ra cho mọi người: bị cắt xẻo hoặc bị giết. Chúng tôi chiến đấu với những người không phải là kẻ thù, mà là anh em với chúng tôi. Lý do duy nhất mà chúng tôi bắn họ là họ không bắn trước. Tôi cố gắng hết khả năng cứu đồng đội mình, giúp họ tìm nơi trú ngụ, thức ăn, nước uống. Tôi cũng giúp kẻ thù như vậy nếu có thể.

Anh cụp mắt xuống như thể cố tránh nhìn vào đó.

- Thật là vô nghĩa và đau buồn. Không thể nói là vinh quang từ chiến bại. Anh em giết anh em hoài. Liên quan đến cái gì? Một khoảng đất? Một con suối? Một tư tưởng?

Bỗng nhiên anh có vẻ buồn và già đi.

- Tôi cũng không sống sót sau chiến tranh. Tôi bỏ chổ núp sau thân cây và để bị giết bằng cách đi bộ vào trận chiến. Tôi không có động lực nào để chiến đấu hoặc còn bụng dạ nào để giết chóc nữa. Đó là một loại tự sát.

Anh cam chịu thở dài.

- Chiến tranh, bệnh dịch, động đất tất cả là tai họa của thiên nhiên hoặc của con người. Tai ương giết chết hàng trăm hoặc hàng trăm ngàn thì cái giá phải trả không thể kể xiết.

Giọng nói anh trở nên tự tin hơn.

- Điều gì mà có vẻ không thể tránh khỏi thì không hẳn là thật. Nó có thể dịu bớt bằng ý thức riêng của chúng ta, bằng tư tưởng và ý định của tập thể. Điều gì mà có vẻ tránh được thì đòi hỏi ý chí để ngăn ngừa nó.

Anh đang nói về việc giữ mạng sống bằng cách ngăn chặn bạo lực, nhưng anh ám chỉ tai họa thiên nhiên có thể được ngăn ngừa do sử dụng ý chí của con người? Tôi cũng không chắc lắm. Khi David quay trở về hiện tại anh cũng không biết rõ. Có lẽ chuyến đi sắp tới sẽ giải thích rõ hơn. Vào ngày đó trước khi anh ra về, anh có một cái nhìn thoáng về cảnh tượng trong kiếp quá khứ ở nhiều thế kỷ trước tại Trung Quốc, anh không biết năm nào. Ngay khi anh đến kiếp sống đó, thân thể anh bắt đầu run rẩy, và tôi hõi liệu anh có muốn trở về, anh nói nhanh:

- Ồ không, tôi không sợ cũng không bệnh hoạn gì. Tôi đang quan sát. Tôi là đứa bé trai 11 tuổi. Tôi bị run rẩy vì đất đang run. Đó là cơn động đất. Gia đình tôi rất giàu có, họ xây một căn nhà rất chắc chắn, nhưng nó cũng không chịu nỗi sức đẩy của thiên nhiên. Các bức tường đang nứt, tôi nghe tiếng thét của cha mẹ, của anh chị em tôi. Hoảng loạn, tôi nhảy đến giúp họ nhưng quá trễ. Đứa em gái bé bỏng của tôi đang hấp hối, tôi ôm nó vào lòng cho đến khi nó chết. Tôi chạy qua phòng khác, cũng chẳng có gì đỡ hơn, các bức tường đổ sụp và tôi chết theo cả nhà.

Hầu như ngay khi David bước vào kiếp sống đó, anh liền rời bỏ. Đơn giản là anh đến đó vì những bài học đã mời gọi anh. Họ lại quan sát nó khi anh trở về hiện tại.

- Cuộc sống tuy ngắn ngủi nhưng hạnh phúc. Những tòa nhà không có độ bền chắc không thể chống đỡ sự chấn động. Vào thời điểm dó không thể tránh được tai họa, hồi dó không thể tránh vì mức độ hiểu biết hay nhận thức bị hạn chế. Còn bây giờ chúng ta có kiến thức nhưng con người vẫn chết. Thật đáng giận. Chúng ta vẫn xây dựng những công trình không vững chắc trong những khu vực nguy hiểm mà không có kế hoạch hay sự chuẩn bị chu đáo. Tôi không nói về các nước thứ ba. Tôi đang nói đến nước Mỹ! Không phải thiếu tiền làm chúng ta ngưng trệ mà thiếu giá trị đặt trên con người. Chúng ta thà hy sinh con người hơn là phải tốn tiền. Độ an toàn đơn giản có thể tránh được đau đớn, thương tật và thậm chí mạng sống. Mỗi cuộc sống đều quan trọng, đặc biệt, và như vậy hàng ngàn người hy sinh thường là vì sự tham lam.

Một tiếng thở dài khác.

- Khi nào chúng ta sẽ học hỏi?

Tôi không có câu trả lời, nhưng tôi đã nghĩ đến điều này nhiều năm rồi. Có lẽ rồi tất cả chúng ta sẽ giác ngộ như David. Có lẽ rồi đây, chúng ta nhận ra rằng khi một người chết đi, đó là phần riêng trong quá trình của sự chết. Mọi đời sống và linh hồn đều có liên quan. Khi David quay lại cho đợt trị liệu cuối, chúng tôi đến thăm thêm hai kiếp quá khứ. Một lần nữa, chủ đề trong những chuyến trở về đợt trước sự biểu hiện, và anh có thể kể về nó rành mạch: có một giá trị tối thượng trong việc giúp đỡ người khác vì mỗi cuộc sống, mỗi biểu hiện về mặt thể chất trong chuyến du hành của linh hồn, là một sự vô giá.

Kiếp quá khứ đầu tiên trong buổi trị liệu này, anh là một bác sĩ vào thời đại hoàng đế La Mã. Trong những điều hiện ra với anh có một sự bùng nổ của bệnh dịch. Anh thấy mình đang băng bó chân cho người bệnh, không phải vì họ bị thương mà nhờ băng bó này tránh được bọ chét lây dịch từ chuột lan bệnh ghê tởm đến người. Anh cảnh báo mọi người tránh xa chuột, đặc biệt là những con chuột chết, bọ chét sẽ rời khỏi xác chuột, và càng cố giữ thân thể được sạch sẽ ở nhà càng tốt. Anh đã cứu rất nhiều người, nhưng bệnh dịch lan ra nhiều khu vực nơi mà anh chưa kịp cảnh báo hoặc là họ không nghe theo lời khuyên của anh. Thật kỳ diệu, bản thân anh không bị bệnh dịch tấn công, nhưng anh sống để chiến đấu với bệnh tật như là một người thầy thuốc được tôn trọng và sùng kính.

Kiếp kế tiếp được liên kết mạnh mẽ với hai kiếp tại La Mã và Pháp khi anh là một nữ tu chăm sóc nạn nhân bệnh đậu mùa. Hơn một lần anh đã ở lại thời Trung Cổ, vào một thời kỳ xa xưa nào đó, và lần nữa bệnh dịch lan tràn khắp nơi, ảnh hưởng hầu hết Châu Âu. Anh làm việc điên cuồng, chăm sóc số bệnh nhân quá nhiều trong thành phố nơi anh sống, có thể là ở London, anh không chắc lắm, tuy nhiên nỗ lực của anh không đủ chống lại cơn đại dịch. Hơn phân nữa cư dân thành phố chết, và luôn cả người nhà của anh. Kiệt sức vì chống đỡ, anh trở nên tuyệt vọng và đau đớn, lòng tràn ngập tội lỗi, ân hận vì thất bại nhiều lần. Anh có thể nhìn thấy xa hơn trong kiếp đó. Anh kể rằng anh còn sống thêm mười năm nữa, nhưng chưa bao giờ anh thực sự tha thứ cho mình. Tôi hỏi:

- Tại sao anh lại quá gắt gao với bản thân mình? Trong cuộc sống luôn có nhiều vấn dề anh không thể thực hiện.

Từ trong tiềm thức, linh hồn bay bổng trên thân thể của kiếp sống thời Trung Cổ, anh nói:

- Bởi vì tôi quên việc băng bó. Họ có thể tránh đám bọ chét.

Tôi hết sức ngạc nhiên. Anh đã mang những ký ức trong một kiếp xa xưa vào kiếp sống thời Trung Cổ! Đó là một tín hiệu nối kết lại những kiếp quá khứ của anh mới gần gũi làm sao, và tất cả kiếp quá khứ ở lại trong chúng ta như thế nào khi chúng ta tiến hóa. Vài người trong thời Trung Cổ có kiến thức về La Mã, biết về những con bọ chét lây dịch từ chuột lan ra thành bệnh, nhưng anh cảm thấy lẻ ra mình thu thập điều mà anh biết ở thành Rome rồi ít ra củng ngăn chặn nhiều cái chết, có lẽ cũng cứu được gia đình mình.

Anh lại nói, trong thân thể thời Trung Cổ.

- Tôi sẽ giữ lời hứa với ông. Trong tất cả những lần đầu thai tới tôi sẽ bảo vệ và cứu giúp nhiều người theo sự cố gắng hết sức của tôi. Tôi biết không có cái chết, rằng chúng ta bất tử, nhưng tôi sẽ làm tất cả mọi điều để giảm bớt cơn đau cho nạn nhân và những người sống sót, sẽ làm mọi điều để những bài học của linh hồn tiến hóa không bị cản trở.

Tôi nghĩ anh đã giữ đúng lời trong mọi kiếp, trừ kiếp này. Cái gì có thể thay đổi ký ức giờ đây đang thôi thúc? Có thể anh tìm thấy cốt lõi thật sự của mình là người chữa bệnh? Cả hai chúng tôi đều yên lặng. Tôi hơi thoáng băn khoăn liệu sự hiện diện của David có phải là báo hiệu của nạn dịch khác, điều có có vẻ là mô hình của anh và rồi bỏ qua tư tưởng này vì nó quá kỳ cục. Thời gian vẫn còn đủ trong buổi điều trị này để có thể khám phá nhiều kiếp khác. Tôi hỏi David muốn đi về quá khứ hay tương lai. Nỗi buồn biến mất, anh reo lên:

- Ồ, tương lai!

Anh đưa tôi nhẹ nhàg đi đến một kiếp hơn một trăm năm sau. Trong kiếp đó cái con người da trắng lịch lãm theo đạo Tin Lành ngồi trước mặt tôi là một giáo sĩ đạo Do Thái!

- Tôi tên là Ephraim. Tôi đang đi dự hội nghị với Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Hindu, Phật giáo, Hồi giáo, các bộ trưởng, và các thầy thuốc. Chúng tôi gặp gỡ thường xuyên, hai ba lần một tuần, để tu thiền và cầu nguyện, tạo ra một năng lực hài hòa để chống thù ghét và căn bệnh bạo lực thường thấy ở những con người ngu xuẩn trên thế giới. Con số người tham gia rất khiêm tốn, không quá năm mươi, nhưng sức mạnh của chúng tôi vô song. Mục đích của chúng tôi là làm dung hòa năng lượng tai họa của trái đất đã bị tháo tuôn ra một cách thiếu hiểu biết về những định luật của tâm linh.

Năng lượng này tạo ra động đất, bão tố, lũ lụt, bệnh dịch. Chúng tôi đã từng nghĩ rằng đây là những sự kiện ngẫu nhiên. Bây giờ thì chúng tôi tin là chúng được sản sinh ra, hoặc ít nhất là bị ảnh hưởng, bởi những tư tưởng và ý định của loài người. Chúng tôi có thể ngăn chặn chúng! Nhóm chúng tôi đi khắp nơi để dạy mọi người phương pháp cầu nguyện rõ ràng và thiền định xác thực mà chúng tôi sử dụng. Chúng tôi có hàng ngàn đệ tử. Tháng sau là hội nghị toàn cầu lần thứ mười lăm gồm hơn hai mươi lăm ngàn tín đồ đã tin theo chúng tôi. Họ đã đem lời dạy của chúng tôi về đất nước họ trên khắp toàn cầu. Hội nghị này vượt ra khỏi ranh giới tâm sinh lý để đạt được nền hòa bình, hòa hợp, và cảm thông cho tất cả con người và sinh vật sống trên thế giới và cho cả chính bản thân của hành tinh này.

Đôi mắt anh lấp lánh.

- Nó có hiệu quả! Chúng tôi có thể đo lường ảnh hưởng tíc cực trên khí hậu trái đất. Đây là lần đầu trong nhiều thế kỷ mà trái đất đang hưởng thụ khí hậu mát mẻ. Mùa hè và mùa đông đã bớt khắc nghiệt hơn. Tỷ lệ bệnh ung thư đã giảm hẳn.

Trong một lần trở về quá khứ David đã nói bóng gió về khả năng tư tưởng ảnh hưởng lên hiện tượng thiên nhiên. Lần này đến tương lai, anh đã thông suốt khái niệm đó và xem việc giảng dạy là công việc trong cuộc đời mình. Anh thổ lộ với một giọng nói đầy kính sợ:

- Tôi đã học được cách dạy người khác phương pháp cầu khẩn những sinh linh có tầm nhận thức cao hơn, bằng cách giao tiếp với một trái tim trong sáng và từ ái, bằng cách tìm kiếm điều tốt đẹp cao hơn trong tâm linh, chúng tôi có thể năn nỉ họ trợ giúp. Họ đã sẳn lòng giúp đỡ. Thế giới bây giờ là một nơi tốt đẹp hơn rất nhiều so với một trăm năm trước.

Hình ảnh tuyệt vời mà David mang về làm tôi suy ngẫm. Cho dù kết quả trong công việc của Ephraim sẽ được nhận ra, một tương lai thật sự trên trái đất vẫn chưa rõ ràng. Có nhiều tương lai mở ra cho chúng ta, vài nơi bạo động, vài nơi hòa bình, và cũng có nhiều con đường đi đến đó. Chắc chắn nhiều yếu tố khác vượt ngoài hội nghị và những lời dạy của anh sẽ xác định tương lai nào sẽ trở thành hiện thực. Tuy nhiên, cảm giác của riêng tôi thì cho rằng những bậc thầy sẽ đóng vai trò quyết định, và chúng ta sẽ khôn ngoan lắng nghe họ như David.

Tôi sẽ học hỏi được qua nhiều cuộc hành trình đi đến tương lai sẽ cách đây hàng thế kỷ, dân số trên thế giới sẽ giảm sút đáng kể. Làm sao điều này bị ảnh hưởng, bất kể là do chiến tranh, bệnh tật, độc tố, những mưu mô sai lầm, sự thay đổi trục trái đất, giảm tỷ lệ sinh đẻ, lựa chọn có ý thức, hoặc trong nhiều cách chưa được biết, vẫn còn chưa xác định. Tôi không biết nhiệm vụ của Ephairm cuối cùng rồi có thành công hay không. Liệu sự thúc đẩy bạo lực, tư lợi, tham lam, và thù hận có quá nhiều quyền năng hơn không.

Bây giờ David đang quan sát cuộc sống của Ephairm từ một viễn cảnh cao hơn, xa vời hơn. Dường như anh biết tôi đang nghĩ gì.

- Dân số sắp tới sẽ giảm sút do những sự kiện đau buồn theo cách tác động bất ngờ, hoặc có thể tự nhiên nó sẽ từ từ và nhẹ nhàng hơn, đều được quyết định bởi tư tưởng và hành động của con người. Tất cả chúng ta tự chọn cuộc sống sắp đến. Tôi có sự lựa chọn tốt và hữu ích, người khác cũng lựa chọn đúng đắn. Nhưng tôi băn khoăn liệu có đủ người trong chúng ta đều có sự lựa chọn tốt.

Tôi ao ước giá mà tôi có thời gian cùng David khám phá nhiều vấn đề xa hơn, nhưng anh phải về nhà vì vợ anh mang thai và vì công việc kinh doanh. Tôi dặn anh giữ liên lạc với tôi, và tôi biết ba lần điều trị có hiệu quả như thế nào. Tuy nhiên tôi lo ngại anh sẽ bị cám dỗ lại bởi môi trường sống đầy đủ sung túc.

Điều đó không xảy ra. Kiến thức về những kiếp sống quá khứ và tương lai đã giúp anh xác định vai trò của mình trong hiện tại. Anh rời công việc ở công ty của cha mình và trở lại Harvard học về luật môi trường. Anh cảm thấy mình phải chống lại những tác động tai hại trong hành nghề kinh doanh, nhiều loại mà công ty cũ của anh đã bênh vực, để anh có thể sửa đổi tương lai tốt đẹp hơn. Anh đặc biệt quan tâm đến vấn đề cảnh báo toàn cầu, sự tích lũy bất cẩn độc tố trường thị do quá trình sản xuất công nghệ. Hậu quả của sự thiếu hiểu biết về vấn đề tuyệt chủng toàn bộ động vật và thực vật là rất đáng lo ngại. Vì vắng mặt chúng, sự cân bằng thiên nhiên sẽ bị ảnh hưởng. Cuối cùng thì David cũng trải nghiệm về ý nghĩa và mục đích trong cuộc đời; anh đã bình phục. Anh đã hết rối trí, và anh đã được sắp đặt với số phận của mình.

Như câu chuyện của David đã đưa ra, tâm linh không chiếm ngự đơn độc trong tâm trí, đúng hơn là, toàn bộ trong một con người, trong những chủ đích và hành động của một cuộc đời sống tốt đẹp. Bạn không thể chỉ nghĩ rằng “Kể từ giờ trở đi tôi sẽ có tâm linh”. Bạn phải cảm thấy nó như kết quả của hành động. Chúng ta sống trong một cộng đồng của linh hồn, và chúng ta biểu hiện những việc làm tốt đẹp trong cộng đồng đó. Cuộc sống xem xét nội tam tự nó vẫn không đủ.

Khi chúng ta bắt kịp những linh hồn trợ giúp theo con đường tâm linh của họ, chúng ta đạt đến một mức độ cao hơn của sự tiến hóa. Những kiếp quá khứ và tương lai của David chứng minh lòng tận tủy vị tha này đối với việc phụng sự yêu thương giữa những người bạn của anh. Anh càng cho đi nhiều thì anh càng nhận được nhiều. Như cuộc sống của anh, đời sống hướng đến tâm linh sẽ mang chúng ta lại gần với bản chất thánh thiện của chính chúng ta..

#308 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/07/2011 - 22:56

DU HÀNH QUA CÁC VÙNG TÂM THỨC

Chương Mười Một

Jennifer và Cristina: Tình yêu thương.

Kiểm soát cơn giận, sức khỏe, sự đồng cảm, lòng thương cảm, kiên nhẫn và cảm thông, bất bạo lực, những mối quan hệ, số phận và tự nguyện, tâm linh: tất cả đều là những bước tiến đến sự bất diệt. Tất cả đều phải thấu triệt ngay bây giờ hoặc trong tương lai trên cuộc hành trình đến một linh hồn. Tất cả đều là những khía cạnh của đức tính cao thượng, đó là tình yêu thương.

Tình yêu thương là bài học tối thượng. Làm sao bạn có thể giữ lại cơn giận khi bạn yêu thương? Làm sao mà bạn không thương cảm và đồng cảm? Làm sao mà bạn không chọn những mối quan hệ đúng đắn? Làm sao mà bạn lại đánh đập người khác? Phá hoại môi trường? Gây gổ với hàng xóm? Không có chổ nào trong trái tim bạn cho những quan điểm khác, những phương pháp khác biệt, những lối sống khác biệt. Bạn không thể.

Khi bệnh nhân của tôi trải nghiệm qua những chuyến trở về quá khứ và đi đến tương lai, họ đã thông thạo nỗi sợ, và niềm đau. Tình yêu thương là điều mà họ thấu triệt. Nhiều người nhận được lời nhắn nhủ từ những người có vai trò quan trọng trong cuộc đời của họ. Nhưng người khác thì nghe được từ một phía khác, cha mẹ, vợ chồng, hoặc con cái, những người thân yêu đã chết. Lời nhắn rằng “Con khỏe, con thương mẹ lắm. Mẹ đừng quá đau buồn vì con. Phạm vi nằm ở phía xa không tối tăm mà lại sáng sủa, bởi vì con ở đâu thì tình yêu thương cũng ở đó, và tình yêu là ánh sáng”.

Lời nhắn nhủ này có lẽ là một nguyện vọng đã được thực hiện, hoặc là những ảo tưởng để làm dịu nỗi đau mất mát. Nhưng tôi không nghĩ vậy. Tôi đã nghe chuyện này rất nhiều lần từ nhiều người. Tình yêu là điều chúng ta đem theo từ cuộc sống này đến cuộc sống khác, dù trong vài kiếp sống chúng ta không nhận thức được điều đó và đã có vài lần sử dụng sai mục đích. Cuối cùng thì tình yêu là điều giúp chúng ta tiến hóa.

Ví dụ trường hợp của Jennifer, cô vừa sinh đứa con gái thứ ba, đầu tiên ôm đứa bé trong tay, cô nhận ra đứa bé ngay năng lực, sự biểu hiện trên đôi mắt, mối quan hệ tức khắc. Cô nói “Lại là bà nữa rồi, chúng ta lại sống cùng nhau nữa.” Đứa bé là bà ngoại của một phụ nữ trong một kiếp quá khứ. Họ cứ cãi cọ gay gắt suốt cả cuộc đời đó, cả khoảng thời gian yêu thương nhau, dù tình yêu không hề biểu lộ. Cô biết bây giờ là cơ hội để đền bù những tổn hại trong quá khứ.

Nhiều loại tình yêu: tình yêu nam nữ lãng mạn, tình yêu giữa cha mẹ và con cái, tình yêu thiên nhiên, âm nhạc, thi ca, mọi vấn đề trên trái đất và trên thiên đường. Tình yêu cho đi và nhận lại bằng linh hồn. Đó là sự hiểu biết về tất cả những điều bí ẩn. Với tôi tình yêu là một tôn giáo tối cao. Nếu chúng ta có thể yêu thương theo cách riêng, nếu chúng ta có thể từ bỏ mọi nghi lễ, mà nghi lễ đó tuyên bố rằng “Của tôi là con đường chân lý còn tất cả cái khác đều là giả tạo”.

Nếu chúng ta chính thức từ bỏ bạo lực, hiềm thích, và đau thương thì chúng ta gán vào tên của thượng đế, cụ thể thượng đế của “tôi” khi mà bằng định nghĩa thượng đế là vũ trụ, là tình yêu, chúng ta không phải chờ đợi qua vô số kiếp để đi đến thiên đường. Cristina ăn mặc theo kiểu mà phụ nữ Mỹ dường như không thể ganh đua: váy dài xuống gót chân, áo choàng đủ màu đỏ xanh tím vàng. Tóc dài đen nhánh cột ra phía sau bằng một dây nơ cũng đủ màu. Lần đầu gặp cô tôi phát hoảng vì cách ăn mặc của cô, nhưng sau nhiều lần tôi nhận ra màu sắc như là một sự bù trừ vào tình cảm và tư tưởng tăm tối của cô.

Cô là một phụ nữ đấu tranh để giữ lại một chút cá tính mà gia đình cô nỗ lực dập tắt nó. Ẩn dưới đôi mắt là những mãng u ám, và đôi tay run rẩy. Thật là mỏng manh, tôi nghĩ vậy. Cô than phiền về bệnh suyễn, và nó luôn xuất hiện khi cô bị căng thẳng. Nhưng thật ra tâm lý mới là vấn đề khiến cô đến gặp tôi. Dáng người đầy đặn nhưng không mập, cô lộ ra một vẻ biểu hiện mơ hồ của sức mạnh trong bản năng giới tính rõ ràng. Ngay từ đầu cô đã xen lẫn giữa đối diện trực tiếp với tôi, hầu như không thân thiện, và tránh nhìn vào mắt tôi với dáng vẻ e lệ kiểu Latin, chứng tỏ cô đã lớn lên từ một nền giáo dục quý tộc nghiêm túc.

Tôi đoán cô chừng hai mươi tám tuổi, nhưng hóa ra cô đã ỡ vào cuối tuổi ba mươi. Ngón tay áp út bên trái có đeo một chiến nhẫn hồng ngọc, màu sắc của nó cũng hợp với quần áo lòe loẹt của cô. Tôi thắc mắc không biết có phải để trang trí hoặc là lời tuyên bố về hôn nhân. Để ý đến cái nhìn của tôi, cô nói:

- Đã ly dị, có hai con. Tôi đeo nhẫn vì nó đẹp và vì nó xua đuổi những người cầu hôn.

Tiếng Anh của cô quả là thanh lịch, hoàn hảo, tuy nhiên tôi khám phá có chút giọng ngoại quốc. Tôi nói, tuyên bố chứ không phải hỏi:

- Cô không phải người ở Miami.

- Ồ không, tôi ở São Paulo, Brazil.

- À, cô chuyển đến đây lúc nào?

- Cách đây ba năm. Sau khi ly dị tôi đi cùng với cha tôi.

- Bây giờ cô đang sống với cha cô?

- Ồ không, ông sống với mẹ tôi tại Bal Harbour. Nhà tôi cách đó vài dặm.

- Các con ở với cô?

- Dạ. Hai đứa con gái. Rosana bảy tuổi, Regina năm tuổi. Chúng rất đáng yêu.

- À, cô nói là đi theo cha cô…

- Làm việc với cha tôi trong kinh doanh.

- Kinh doanh gì?

- Ông không biết thật sao? Sau khi ly dị tôi lấy lại tên mình, và tôi cho là ông có nhận ra nó.

Tôi thật ngớ ngẩn. Đáng lẽ tôi phải liên kết ngay. Cha cô là chủ của một công ty chuyên về thời trang cao cấp. Hai năm trước nó mở rộng chi nhánh theo một hướng dành cho giới trẻ, quần áo thể thao giá rẻ. Vợ tôi có nói rằng nếu tôi ở tuổi thanh thiếu niên thì sẽ có một món nào đó mặc được. Tôi hỏi có phải Cristina chuyển về đây trùng khớp với việc kinh doanh mới của cha cô. Cô nói:

- Do trùng khớp, tôi không có quyết định, cũng không có kế hoạch.

Đôi mắt cô ánh lên giận dữ.

- Tôi không thua gì một con hầu.

- Điều này làm cô bực mình?

- Bực mình? Nổi điên thì có!

Cô chồm người về phía tôi và nói với nỗi đam mê, khiến cô run rẩy.

- Chúa ơi! Nếu cha tôi để cho tôi được tham gia! Ông sản xuất quần áo cho phụ nữ nhưng không tin phụ nữ có quyền biểu thị quan điểm của mình về việc họ ăn mặc trong như thế nào. Thị hiếu của tôi gấp hai lần ông. Tôi cũng thông minh hơn ông gấp hai lần. Quần áo của ông chỉ là mốt nhất thời, giống như mọi thứ nhất thời, nó trở thành cổ hủ. Rồi ngưởi ta cũng chán không mua nữa. Quần áo của tôi có thể vượt thời gian.

Tôi cho là Cristina có thể hoàn thành tốt bất cứ cái gì cô tự làm. Tôi hỏi cô:

- Ông không nghe lời cô?

- Ông tách tôi ra giống như động cơ xe hơn. Tôi không thử nữa. Cãi lại ông giống như chiến đấu với quân đội của toàn án dị giáo.

- Còn mẹ cô thì sao? Bà không giúp gì cho cô?

- Bà còn không tự giúp mình. Mẹ tôi chỉ là một vật trang trí, giống như cái bình hoa. Bà câm miệng vì bà biết ông có thể bỏ rơi bà bất cứ lúc nào.

- Nhưng ông đâu có làm vậy.

- Chắc chắn ngàn lần ông không dám. Ông có nhiều bà ở nơi khác, căn hộ riêng, khách sạn riêng, tùy vào cảm giác của ông đối với họ. Tôn giáo của ông không cho phép ly dị. Tôi bất chấp và ly dị cách đây bốn năm. Lúc đó ông gần như giết tôi. Chỉ khi ông cần tôi nên mới cho tôi tới Mỹ.

- Mẹ cô có biết về những người phụ nữ khác?

- Nếu bà không biết thì bà thật là khờ khạo.

Cristina ngừng một lát.

- Nhưng rồi bà đúng là một người khờ.

Tôi không bình luận về nỗi cay đắng của cô.

- Cô là con một?

- Con gái một, tôi có hai anh trai.

- Họ cũng làm chung?

- “Làm việc” là từ bị dùng sai. Họ vào văn phòng rồi đi ra ngoài ăn trưa.

- Nhưng họ được đề bạt và kính trọng. Họ cũng được nghe lời.

Đây là một lời đoán dễ dàng.

- Cha cô thì quá biết họ, làm gì mà ông nghe lời họ Nhưng ông nói đúng về đề bạt và kính trọng. Ông biết không, tôi là phụ nữ và cũng không xứng đáng.

Đó là lời than phiền quen thuộc của phụ nữ Latin bị đàn áp bởi nền văn hóa không hề tiến bộ trong thế kỷ 21. Cô quả là một ngôi sao của gia đình, tuy nhiên cô bị ngăn lại bở đám mây của truyền thống và tư tưởng bảo thủ.

- Tại sao cô không bỏ đi, bắt đầu cuộc sống độc lập?

Như thể tôi buộc cô tội giết người. Mặt tái nhợt cô đẩy chiếc ghế đứng dậy, nhưng rồi ngã xuống. Cô bắt đầu khóc, nước mắt đầm đìa, dường như tôi đã đưa ra một câu hỏi hiển nhiên.

- Tôi không biết.

Cô kêu gào, mọi sự tế nhị tan biết, bỗng nhiên mất tự chủ.

- Làm ơn, xin làm ơn. Tôi cần ông giúp!

Sự thay đổi tâm tính quá bất ngờ đến nỗi vượt ngoài một lời lẩm bẩm. Tôi cảm thấy kinh sợ.

- Dĩ nhiên tôi sẽ giúp, hãy kể cho tôi nghe vấn đề khó khăn, càng chi tiết càng tốt.

Cô nhìn tôi qua làn nước mắt và khó thở.

- Ông cần biết một điều là tôi yêu thương cha tôi. Chuyện mà tôi kể với ông không quan trọng, mà quan trọng là sự thật nằm bên dưới.

Tôi nghĩ yêu và ghét. Gần như sự mâu thuẫn tình cảm độc nhất lạ lời.

- Khi ông qua Mỹ ông bỏ lại gia đình tôi, tôi cảm thấy thoải mái. Hai anh trai tôi cũng theo ông, việc ra đi của họ có vẻ như tôi đả trút bỏ được mọi hạn chế, mọi áp lực đè lên tôi bởi tên bạo chúa Brazil cuả ngôi trường cũ.

Cô cười hối tiếc:

- Đàn ông là một ngàn, đàn bà là con số không. Cha chưa bao giờ đánh tôi, chưa bao giờ thô lỗ. Ngược lại ông cho tôi mọi thứ tôi muốn, và đó là vấn đề. Tôi chưa bao giờ kiếm được tiền để mua chúng đúng hơn là tôi kiếm được chúng bằng cách vâng lời. Khi còn nhỏ tôi đã biết là tôi khôn ngoan hơn anh trai tôi. Lúc tôi 21 tuổi tôi biết tôi khôn hơn cha tôi. Tôi làm việtc cho ông một thời gian ở Brazil, giúp công ty phát triển, rõ ràng là giúp, vì không hề nhận được cổ phần. Nhưng điều đó chẳng tốt gì cho tôi.

Tôi bị đuổi, bị đẩy sang một bên, không phải chỉ do ông mà còn cả anh trai tôi, vì họ ghen tị với sự thông minh của tôi, và mẹ tôi, bà chỉ là nô lệ của ông thôi. Điều đó không đúng, không công bằng. Vì vậy tôi lấy chồng, người đầu tiên theo đuổi tôi, mà tôi không nhận ra hắn cũng chỉ là tên bạo chúa...hắn đánh tôi.

Bây giờ thì những giọt nước mắt đã thôi không lăn xuống nữa. Giọng nói cũng đã cân bằng, tuy nhiên tôi vẫn có thể cảm giác sự xúc động khá căng thẳng giấu sau lời nói của cô. Tôi không hề nghi ngờ về sự thật trong lời kể của cô. Cristina là một người phụ nữ thách đấu với nền văn hóa lạc hậu trong một đức tin cổ hủ, và dù cô có mạnh mẽ đi chăng nữa họ vẫn đánh bại cô.

Cô thở sâu rồi nói:

- Được thôi. Gia đình tôi ở Miami, cha tôi ở Miami, còn tôi thì ở lại São Paulo với người chồng quá tệ và hai đứa con nhỏ đáng yêu. Cha tôi chống đối vụ ly dị, nhưng dù sao tôi cũng bất chấp. Tôi không có sự lựa chọn, hắn đánh cả con tôi. Khi dứt khoát rồi tôi mới kể với cha. Ông yên lặng.

Nhiều tháng sau cũng yên lặng. Hết sức kinh ngạc khi ông gọi tôi: “Đến Miami đi. Làm việc với cha trong công ty. Con ở đó có một mình. Cha sẽ lo cho con”. Vì vậy tôi đến đây. Tôi nghĩ ông tội nghiệp cho tôi lòng rộng lượng và thương cảm của người đàn ông không bao giờ bộc lộ. Chi nhánh làm hàng cho tuổi “teen” là ý tưởng của tôi, và tôi thật hãi hùng khi chúng tôi bắt đầu làm chung với nhau nữa. Tôi đưa cho ông nhiều ý tưởng. Ông ngốn nó giống như kẹo sô cô la. Nhưng mà rất nhanh sau đó tôi nhận ra ngay chẳng có điều gì thay đổi, rằng ông đang lợi dụng tôi, rằng các anh tôi kiếm lợi bằng sự tài giỏi của tôi rằng ông là người ích kỷ, tư lợi, kẻ hung ác máu lạnh.

Tôi chỉ ra một điều:

- Nhưng cô nói là cô yêu thương ông.

Một ý nghĩ thoáng qua đầu tôi. Cô không lộ ra một triệu chứng nào. Không, lạm dụng thuộc về tâm lý. Đặt để cô dưới sự thống trị của ông, ông hành động giống như kiểu hội chứng Stockholm, trong linh hồn của cô ở một khía cạnh người bị giam giữ phải lòng người bắt giữ. Ông hành hạ cô, nhưng cô không có ai để cô quay lại, không có ai để cô tin cậy. Đó là một dạng tàn bạo ngấm ngầm nhất. Cô ta không còn có sự lựa chọn ngoài lòng yêu thương ông. Dường như cô kiệt sức vì kể chuyện, tôi hỏi liệu cô có muốn nghỉ ngơi một lát. Nhưng cô thích kể tiếp.

- Tôi bắt đầu cuộc sống mới. Tôi và con tôi chuyển đến nhà hiện nay, và tôi nói với ông là tôi sẽ mở riêng một mặt hàng thời trang.

Hình dung ra cơn giận dữ của ông, tôi hỏi:

- Cha cô có nổi giận không?

- Tệ hơn. Ông cười mũi, và nói rằng tôi sẽ không bao giờ được tài trợ, rằng không ai muốn cho phụ nữ mượn tiền, rằng nếu tôi cố làm riêng thì ông sẽ không cho tôi và các con tôi thừa hưởng tài sản. Nhưng bất chấp tôi cứ tiếp tục tiến hành. Khoảng một năm trước tôi bỏ việc ở công ty của ông, viết một dự án tiếp thị riêng, và thuê một văn phòng. Tôi nói chuyện với người mua sỉ và lẻ.

- Mà không có tiền?

- À, khi sống chung tôi cũng dành dụm tiền lương, và tôi được một khoản vay dành cho công ty nhỏ ở ngân hàng. Nhưng cũng chẳng đủ, mấy tháng đầu này đang gặp khó khăn. Tuy vậy, tôi cũng có vài mối bán. Khách hàng của Bloomingdale’s tại Miami mua mặt hàng thời trang công sở của tôi. Cô ta nói rằng tôi đã hoàn thành một cách “kỳ diệu” chỉ trong một thời gian ngắn. Tôi đang đi trên con đường của tôi. Dĩ nhiên khi cha tôi phát hiện ra điều này, ông không nói chuyện với tôi nữa. Tôi đã có hy vọng cho cuộc đời mới, nhưng nỗi lo lắng thì khủng khiếp. Tôi gặp ác mộng thường xuyên, cho nên tôi sợ ngủ. Tôi la mắng con tôi. Tôi ăn uống trong hồi hộp. Tôi đã tăng 5 ký, toàn là ăn vặt. Hơi thở tôi rất tệ, thỉnh thoảng tôi nghĩ tôi sắp chết.

- Cô nói cô có hy vọng. Nó đã tan biến rồi sao?

Cô ôm đầu.

- Dạ đúng.

- Cô có biết lý do không?

Lần nữa cô lại mềm nhũn người ra khóc tức tưởi, hổn hển thốt ra câu trả lời qua làn nước mắt.

- Cha kêu tôi quay về. Công ty của ông sắp phá sản. Dù với danh tiếng của nó và dù sự thật là kho hàng đang chứa đầy hàng hóa, ông đang gặp rắc rối lớn về tài chính. Mặc dù quần áo ở thị trường cao cấp vẫn bán chạy đó là lãnh vực mạnh của ông, là điểm nhấn mà ông phất lên còn phần hàng giá rẻ đang bị tuột dốc.

Cristina đã đúng khi cô nhận định khách hàng sẽ mau chán. Đơn đặt hàng cho năm tới chỉ còn 40% một sự sa sút thảm hại. Sau khi cô giải thích về nguyên nhân, cô kể tiếp:

- Ông đang trên bờ phá sản, ông gọi tôi về để cứu ông.

- Và đó là lý do cô đến gặp tôi?

- Dạ đúng. Vì tôi không thể quyết định phải làm gì, nó đang làm tôi quẫn trí.

Tôi cam đoan với cô:

- Cô không hề quẫn trí, chỉ bị kẹt thôi.

Tôi nói thêm:

- Đôi khi rất khó quyết định, nó ngăn chúng ta không thể quyết định được gì.

Cô nhìn tôi đầy biết ơn. Dù những gì tôi nói chẳng có gì sâu sắc hay có căn cứ nào, tôi chỉ đưa ra vấn đề.

- Có lẽ sẽ có ích nếu cô xem xét sự lựa chọn của cô.

- Rất tốt.

Cô nói với sự điềm tĩnh đã trở lại. Giờ đây từ ngữ tuôn rất nhanh. Rồi cô cũng tỉ mỉ sắp xếp sự chọn lựa trong tâm trí.

- Đầu tiên, tôi có thể quay lại giúp cha tôi. Điều đó có nghĩa là tôi hy sinh cuộc sống vì ông, một loại tự tử vì nguyên nhân gia đình. Kế bên, tôi nhưng làm việc và tái hôn. Lần này tôi phải chọn cẩn thận. Lần này có vẻ sẽ vì tình yêu và sinh tên vài đứa con, giống như hàng triệu chị em phụ nữ trên khắp thế giới. Cha mẹ tôi sẽ tán thành. Nền văn hóa của tôi sẽ cám ơn tôi, và tôi cho rằng tôi có thể tạo hạnh phúc cho mình nhưng với một cuộc đời không trọn vẹn.

Cô ngưng lại, rõ ràng đang mường tượng rồi lắc đầu buồn bã:

- Hoặc là tôi sẽ tiếp tục với mặt hàng quần áo của tôi.

Cô sáng lên:

- Ông biết không nó có hiệu quả, bác sĩ Weiss, tôi quên kể cho ông nghe chuyện này, khi đi đến quyết định kinh doanh, tôi là nhà siêu linh. Đừng cười tôi. Đúng vậy đó. Tôi biết tôi sẽ thành công. Nó không chỉ trong quyết định cuộc sống mà tôi bị rối tung.

Nhiều nhà kinh doanh thành công đều có năng khiếu giống như Cristina. Người ta gọi nó là “bản năng tự nhiên” hoặc là “phản ứng theo bản năng” hoặc là “làm theo trực giác”, nhưng đó là một loại năng lực siêu nhiên. Tôi không nghi ngờ gì nếu Cristina sở hữu nó, và điều này có vẻ như chỉ ra con đường chân chính.

Tôi hỏi:

- Vậy cái gì là khía cạnh tiêu cực.

Cô thở dài:

- Nhiều thứ. Cạnh tranh với ông trên thương trường? Gia đình đã trục xuất tôi rồi, kể cả mẹ, nếu tôi cứ tiếp tục, họ sẽ không bao giờ tha thứ cho tôi. Thật tình, tôi không biết liệu tôi có tha thứ cho chính mình. Điều đó giống như tôi phản bội lại họ, pbản bội cha nên tôi thấy mình cũng đáng bị ông giận và bị trừng phạt.

- Hiện nay cô đang cạnh tranh với ông?

- Chính xác. Đó là lý do làm tôi khó ngủ và quá lo lắng.

Cô nhìn thấy tôi ngạc nhiên.

- Ồ, không phải phần kinh doanh làm tôi lo. Việc tôi làm rất kỳ diệu, như khách hàng Bloomingdale nói. Tôi đã nói là tôi là nhà siêu linh. Đó là chuyện mà cha tôi sẽ tự phá sản, sự thành công của tôi rõ ràng là sẽ giết ông.

- Tôi không hiểu. Rốt cuộc thì tại sao cô lại kinh doanh riêng.

- Vì tôi giận. Vì cha phản tôi, tôi muốn trả thù. Vì...

Đến đây thì cô dừng lại và bắt đầu khóc.

- Tôi nghĩ mình không thể tiếp tục kinh doanh riêng. Khi thành công tôi cho là mình đã công kích ông. Thật sự một phần trong tôi không muốn thành công. Tôi đã có kế hoạch từ bỏ kinh doanh trước khi tôi đến gặp ông.

Lòng đầy thông cảm, tôi nói với cô:

- Ở đây có rất nhiều yếu tố. Cô bị phản bội, nhưng cô sẽ cảm thấy tội lỗi nếu cô đánh trả. Cô giận giữ, nhưng cô sợ hậu quả. Cô nó năng lực siêu linh nhưng cô không biết trước được tương lai. Đàn ông chỉ toàn là người hại cô nhưng cô vẫn sẵn lòng tái hôn. Cô yêu và ghét cha cô cùng một lúc. Tôi nói có đúng không?

Cô cười ha hả.

- Bác sĩ hãy nói cái này là cơ hội của tôi?

- Chúng ta phải nhìn tương lai để thấy chúng. Nhưng chúng ta nên trở về quá khứ trước.

Chuyến trở về đầu tiên của cô rất ngắn. Tất cả những gì cô kể là cô sống trong nền văn hóa Hồi giáo tại Bắc Phi, cô không biết ngày tháng cũng không biết gì về chung quanh. Cô là đàn ông, một thi sĩ, và cha cô cũng là nhà văn mà cô rất ghen tị, vì ông được công nhận sáng chói hơn, nổi bật hơn, và thu nhập cao hơn. Trường hợp tương ứng chính xác với kiếp hiện tại của cô quá rõ và trực tiếp, cho nên cô nghĩ những gì cô nhìn thấy chỉ là sự tưởng tượng không hơn không kém. Lần thứ hai thì thú vị hơn.

- Đó là thời Trung cổ. Thế kỷ thứ 12. Tôi là một thanh niên, một tu sĩ rất đẹp trai, sống trên núi trông giống ở trung tâm miền Nam nước Pháp. Có rất nhiều hẻm núi và thung lũng, vì vậy việc đi lại rất khó khăn. Tuy nhiên nhiều người vẫn đến thăm tôi. Họ cần sự cứu giúp về tâm sinh lý. Tôi tin về chuyện đầu thai và khuyến khích người khác tin theo, đó là nguồn an ủi lớn lao cho họ. Những người bị bệnh tật, trẻ em bị bệnh phong, tìm kiếm tôi, và khi tôi chạm vào họ, nhiều người đã khỏi bệnh một cách thần kỳ. Dĩ nhiên tôi là hình ảnh được yêu thích. Không ai tài giỏi như tôi.

Cha tôi bây giờ là một chủ trang trại trong kiếp đó, và sống gần tôi. Ông ta có mọi thứ mà tôi thì không: tham lam, độc ác, ham mê thu lợi, kẻ yếm thế. Ông là người giàu nhất vùng, nhưng của cải vật chất của ông không cám dỗ được thôn nữ hoang dã mà ông thèm muốn, tuy vậy ông có thể cho tất cả gì tình yêu của nàng. Nàng yêu tôi và sẵn sàng chấp nhận một tình yêu tinh thần thuần khiết, vì tôi hoàn toàn theo lời nguyện sống độc thân. Nàng nói với tôi “vì yêu người nên em nguyện hướng tình yêu mình đến Chúa”.

Một đội xâm lược từ Rome đã vượt qua được các hẻm núi và bao vây ngôi làng. Họ tấn công. Tôi bị bắt. Người chủ trang trại tố cáo tôi với nhà cầm quyền, hắn quả quyết là tôi có sử dụng sức mạnh thần bí. Khi họ nghe và tin về năng lực chữa bệnh và những câu chuyện đầu thai của tôi, họ đem tôi đi thiêu sống. Quả là một cái chết quá đau đớn, lửa và khói đã khiến tôi không thể nhìn thấy nàng đang khóc, chạy đến gặp tôi, cố gắng hết sức để an ủi tôi. Sau khi tôi chết, nàng gieo mình xuống vách núi tự tử và chết tức khắc.

Trong lúc chết, tôi có thể nhìn xuống ngôi làng để trông thấy chuyện gì đang diễn ra. Sự ghen tị của chủ trang trại không bao giờ biến mất, điều mà tôi không thể biết được lúc còn sống. Ông ta phải thu xếp một cuộc hôn nhân không tình yêu, và ngày càng cay đắng hơn, ác độc hơn. Trong sự kiểm nghiệm lại cuộc đời tôi có thể nhìn thấy mình quay lại trong một kiếp sau đó để giúp ông ta, bấy giờ là một người thợ rèn sống với bài học cuộc đời. Tuy nhiên tôi cũng chẳng giúp ông được nhiều. Tôi cảm thấy thất bại, và tôi thất bại vì tận trong tim, tôi ghét ông. Ông giết tôi và tệ hơn nữa, gián tiếp giết người phụ nữ tôi yêu. Tôi vui mừng vì ông cay cú, thất bại, và đau khổ. Tôi biết tư tưởng mình sai trái nhưng tôi không thể ngăn được. Đó là sự dối trá để che đậy chuyện khác.

Ngày hôm đó khi Cristina ra về, tôi ghi nhớ lại để nhìn thấy liệu bệnh hen của cô có đỡ hơn, vì cái chết bị thiêu của vị tu sĩ: khói và lửa có liên quan đến bệnh hen. Điều này khá phổ biến, thở khó khăn thường do nguyên nhân trong quá khứ. Thật ra, điều này được cải thiện rõ rệt qua đợt trị liệu kế tiếp, và không quá suy nhược như ngày nay. Tôi ghi chép thêm: “Ghen tị là cái móc xích người chủ trại và vị tu sĩ lại với nhau trong một kiếp khác và có lẽ trong kiếp này. Bây giờ cha của Cristina đó có cơ hội tự cứu lấy mình vì sự ghen tức và phản bội mà ông đã bộc lộ trong kiếp quá khứ.

Lẽ ra ông nên ủng hộ cô về mặt tâm lý bằng cách công nhận tài năng của cô, và nên để bạt cô như một phần thưởng cho cô trong công ty. Ông chẵng chọn cách nào cả. Có lẽ vẫn còn một kiếp khác mà ông cần học hỏi thêm bài học của lòng nhân ái, vị tha.” Trong đợt trị liệu cuối cùng, Cristina thấy mình đang ở trong một thị trấn nhỏ tại nước Anh vào những năm 1800. Cô kể rằng:

- Đó là một nơi rất thú vị. Lần đầu tiên trong lịch sử, đàn ông đi làm, rời nhà rồi đi đến văn phòng hoặc nhà máy, trong khi phụ nữ được đặt trách nhiệm ở nhà. Đó có nghĩa là một mô hình xã hội mới, mối quan hệ khác nhau giữa vợ chồng. Nhưng tôi may mắn: tôi vẫn còn trẻ, mới hai mươi, chưa kết hôn, có một công việc ở nhà máy dệt, vì vậy tôi làm ra tiền. Một hôm tôi đến đó, tôi nghĩ ra mọi cách để tăng sản phẩm mà đồng thời giảm được chi phí. Người giám sát của tôi rất ấn tượng và thường xuyên nhờ tôi tư vấn. Anh ta rất đẹp trai. Rồi một ngày anh nói yêu tôi, và tôi chắc rằng mình cũng yêu anh.

Người giám sát của Cristina trong kiếp đó lại một lần nữa là cha cô trong kiếp này. Tôi đưa cô đi xa hơn trong kiếp đó, chú ý đến những thay đổi rõ rệt qua sự biểu hiện của cô. Cô không còn là cô gái vô tư, hạnh phúc nữa, mà là một phụ nữ bị vỡ mộng, đầy cay đắng. Hóa ra anh ta là kể phản bội.

- Rốt cuộc hắn chẳng hề yêu tôi. Hắn giả vờ để lấy cắp ý tưởng của tôi thành của hắn. Hắn được thăng chức. Ông chủ cho rằng hắn là thiên tài. Thật là quá quắt, tôi thù hắn! Một ngày nọ, tôi chạm trán với hắn trước mặt ông chủ, năn nỉ hắn thừa nhận đó là ý tưởng của tôi. Ngay hôm sau hắn buộc tội tôi ăn cắp năm bảng Anh của bạn đồng nghiệp. Tôi quá vô tư, hoàn toàn vô tư, nhưng cô gái đó bênh vực hắn. Cô ta là người tình của hắn và hắn cũng nói yêu cô ta để cô ta đứng về phía hắn. Khi nào biết hắn là thằng khốn thì cô ta cũng hết đời rồi. Tôi bị bắt ở tù một năm, nhục nhã và cô đơn.

Trong tù bệnh viêm phổi càng tấn công mạnh. Không chết nhưng phổi tôi quá yếu, và tôi bị ho suốt cả cuộc đời. (Một tương ứng song hành với bệnh hen của cô trong hiện tại). Tôi không còn khả năng tìm việc và buộc phải đi ăn xin. Tôi có triển vọng, thật sự triển vọng, tất cả bạn đồng nghiệp tại nhà máy đều nghĩ như vậy, nhưng tôi đả nhận được điều gì tốt đẹp? Điều đã phá hủy cuộc đời tôi.

Cô bắt đầu khóc nức nở. Tôi hỏi:

- Cô có từng tha thứ cho hắn?

- Không bao giờ! Thù hận hắn là sự khích động khiến tôi không bao giờ quên. Tôi tự nhủ lòng mình “Tôi sẽ nhìn thấy cái chết của hắn trước khi tôi chết”. Nhưng tôi chẳng giữ được lời hứa ấy. Tôi chết trẻ chưa đến tuổi 40, độc thân, không con cái, cô đơn. Có lẽ hắn sống đến cả trăm tuổi. Thật không công bằng! Thật là một kiếp sống vô vị trên cuộc đời.

Không thật như vậy. Bi kịch của kiếp đó và kiếp làm tu sĩ đã chuẩn bị cho kiếp này và nhiều kiếp tới nữa. Khi tôi mang cô trở về, cô vẫn còn trong tình trạng biến đổi mà tôi không thể định nghĩa chính xác.

- Kinh Thánh nói rằng: “Con cháu nhiều đời sẽ chịu hình phạt vì tội lỗi của ông bà cha mẹ”. Nhưng thật vô nghĩa. Chúng ta là con cháu của chúng ta, được đầu thai làm cháu nội, ngoại, chắt, chít qia nhiều đời nhiều kiếp của chúng ta. Ngay tại bất cứ điểm nào, chúng ta cũng có thể xóa bỏ mọi tội lỗi, bởi vì chúng ta tồn tại trong một kiếp nào mà chúng ta tồn tại trong chính con người của chúng ta. Cha tôi đã theo suốt mọi kiếp sống của tôi. Tôi nhận ra ông có khi là người cha, là chủ trang trại, rồi người giám sát. Và trong mỗi kiếp, tôi yêu ông rồi thù hận ông. Tội lỗi của ông đã theo ông nhiều thế kỷ.

Cô chồm người lên, đầy hứng thú:

- Nhưng tội lỗi của tôi cũng vậy. Tôi không cần phải thay đổi tội lỗi của ông. Chính là của tôi. Tôi đã ghét ông cả thiên niên kỷ. Thù hận là tội lỗi. Mỗi lần thù ghét là tự triệt tiêu đi tình yêu mà tôi dành cho ông ở buổi ban đầu. Vậy thì nếu có gì thay đổi trong lần này thì sao? Nếu tôi chuyển thù hận thành tình yêu thì sao?

Sự sáng suốt lạ thường của Cristina dĩ nhiên không cần có câu trả lời cho câu hỏi: để chọn là người công nhân, người nội trợ, hoặc người cạnh tranh trong những tháng kế tiếp. Lúc làm việc với nhau, tôi chỉ vừa bắt đầu tiến trình đi đến tương lai và sử dụng nó theo cách có lựa chọn cẩn thận. Trí tuệ và sức mạnh của Cristina khiến cô trở thành một thí sinh xuất sắc. Tôi nghĩ như vậy và đề nghị chúng tôi nên tiến hành.

Cô sẵn sàng đồng ý. Tôi dặn dò cô:

- Chúng ta chỉ nhìn vào tương lai có khả năng liên quan đến sự lựa chọn của cô. Tôi muốn tránh những cái nhìn thoáng qua bệnh tật, mất mát, chết chóc. Nếu cô thấy mình đi đến hướng đó thì hãy nói ngay, tôi sẽ đưa cô trở về.

Tôi bắt đầu bằng cách hỏi xem cô có thấy đang ở trong công ty của cha cô.

- Tôi bị bệnh, bệnh về thể xác.

Cô kể ngay tức thì, bất kể lời cảnh báo của tôi, cô ngăn không cho tôi đưa cô về.

- Đó là căn bệnh bắt nguồn từ sự thất vọng. Công việc vắt kiệt sức tôi. Bệnh hen nặng thêm. Tôi không thể thở. Giống như tôi đang ở tại Anh hai thế kỷ trước. Tôi đang ở trong tù.

Cảnh tượng là người nội trợ của cô quả là bằng với sự u ám.

- Con tôi đã lớn và đã chuyển đi. Tôi chỉ có một mình. Tôi không bao giờ tái hôn. Đầu óc tôi trống rỗng, giống như trí não bị khô cằn vì lâu ngày không sử dụng. Tôi thấy phát minh của mình như thuộc vào kiếp khác không phải kiếp này.

Khi bắt đầu việc cạnh tranh trong kinh doanh, cô nói tiếp:

- Tôi thành công. Cha tôi phá sản, và tôi là nhà triệu phú. Nhưng tôi rất đau khổ. Đó là mọi cảm giác giận dữ và thù hận. Tôi đã mất mát vì chiến thắng. Gia đình và tôi không bao giờ gặp nhau, không bao giờ nói chuyện. Chúng tôi trong phòng riêng, chia cách bằng sự im lặng, dành thời gian cho nhau bằng thù ghét.

Khi tôi đưa cô về, tôi cứ ngỡ cô sẽ buồn bã, nhưng ngược lại, cô tỏ ra rất vui. Cô gào lên:

- Có một chọn lựa thứ tư, một cái tôi không nhìn trước: bắt đầu kinh doanh riêng mà không cạnh tranh với cha tôi.

- Có rủi ro không?

- Chắc là không. Khả năng thiết kế và tiếp thị ứng dụng cho tất cả các loại hình kinh doanh. Dụng cụ nhà bếp! Đồ gốm! Tôi là đầu bếp giỏi và thợ gốm khá tốt, vậy thì ít nhất tôi cũng có khái niệm về chúng nhưng tôi sẽ nhờ tư vấn thêm. Tôi có nhiều cửa hàng rất thân thiết, họ có thể tiêu thụ hàng hóa, và tiếng tăm trong việc kinh doanh mới thì cũng cân sức với việc kinh doanh của bất cứ người nào. Tôi sẽ nói với người đã giúp cho mượn tiền trước kia về sự thay đổi trong kế hoạch kinh doanh, không có gì phải lo lắng. Tôi sẽ nảy sinh ra một kế hoạch tiếp thị mới, một kế hoạch kinh doanh mới, tôi có kinh nghiệm về loại hình này. Tôi sẽ thiết kế mẫu mã nồi chảo, ly tách nhiều thứ cho buổi tiệc, gồm có đất sét, thép, bạc. Sẽ không ai nói tôi giết hại cha tôi nữa. Lý do là ít nhất khi tôi thành công ông sẽ hãnh diện về tôi và còn yêu thương tôi hơn.

Lòng nhiệt tình của cô quá mức nên tôi không nỡ chỉ ra những nguy hiểm không lường trước. Tôi tin chắc cô sẽ thành công, nhưng đạt được tình yêu của cha cô thì tôi phải đặt lại dấu hỏi. Đôi khi sự sâu sắc phải thay đổi trong cả hai người trước khi điều đó trở thành hiện thực. Cô ra về lòng dạt dào biết ơn, còn tôi thì chưa thật hài lòng. Đúng là tôi đã giúp cơ giải quyết một tình trạng khó xử, nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm. Tôi nghĩ lại sự sáng suốt của cô về việc chuyển đổi tội lỗi, và tự hỏi liệu cô có mệt mỏi hơn không. Do đó vài tháng sau khi cô điện thoại và xin một cái hẹn, tôi rất vui.

Cô kể tôi nghe rằng con đường kinh doanh của cô không vững lắm. Kế hoạch mới của cô không được sự ủng hộ như cô mong đợi. Cô phải còn tìm “dạng thiết kế" riêng. Cô phải chuyển các con từ trường tư sang học trường công. Cô đang lo lắng về tiền bạc, sợ rằng cuối cùng phải quay lại với cha cô, giá như chỉ lo cho các con. Tuy nhiên cô trình bày vấn đề khó khăn với tâm trạng cởi mở mà những lần trước đây không hề có, nỗi u ám trong đôi mắt đã biến mất, và hơi thở của cô nhẹ nhàng hơn. Tôi chỉ ra điều này và hỏi cô lý do.

- Tôi đang yêu.

Tôi thật sự ngạc nhiên. Khi cô về, tôi hình dung ra phải rất lâu cô mới có thể yêu được, cô quá hận đàn ông, quá quyết tâm sống một mình, tuy nhiên không hề có vết bụi nào trong ánh sáng của đôi mắt cô.

- Kể tôi nghe xem.

- Ricardo rất tuyệt vời. Rất tuyệt vời! Tôi gặp anh ấy trong nhóm đọc sách. Chúng tôi phát hiện ra là cùng yêu thích Don Quixote, có lẽ chúng tôi cùng đánh nhau với cối xay gió. Anh là người nhanh nhẹ trong thương mại, làm nghề tự do, điều hành cho các công ty quốc tế ở đây và tại Mỹ Latin. Anh đã từng ở São Paulo và biết cả con đường mà tôi đã sống. Anh nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, khi tôi nói với anh ấy về bác sĩ thì anh cũng đã biết và đã đọc một cuốn sách của bác sĩ bằng tiếng Bồ Đào Nha lúc anh ấy lưu lại Brazil lần cuối, vì ở đó anh ấy không tìm được bản tiếng Anh. Đó là cuốn sách đầu tiên của bác sĩ, anh ấy nghĩ như vậy, một cuốn sách viết về bác sĩ và bệnh nhân của ông tôi quên mất tên sách tuy vậy tôi e là anh ấy không tin mấy. Bác sĩ có phiền không?

- Dĩ nhiên là không. Tôi rất vui vì cô đang hạnh phúc. Nhưng tôi thật sự ngạc nhiên là cô đang yêu.

Cô nhìn tôi quá đỗi nghiêm trang.

- Tôi cũng ngạc nhiên. Tôi tự hỏi lòng mình làm sao mà điều này có thể xảy ra, và quá bất ngờ, tôi tin là tôi có câu trả lời. Đó là vì những gì chúng ta nói chuyện về thời xa xưa. Giây phút mà tôi nhận ra tôi là người tội lỗi cũng như cha tôi có những tội lỗi mà tôi rất ghét, như nó đã đi qua suốt mọi kiếp quá khứ của tôi, rồi sự thù hận đối với cha và đàn ông bỗng biến mất và Ricardo bước vào đời tôi. Tôi biết là quá nhanh, nhưng có thật.

Cô đặt tay lên bàn và chồm người lên.

- Đó là điều lạ lùng nhất, bác sĩ Weiss. Khi tôi nhìn thật sâu vào anh ấy, tôi thấy phần tốt của linh hồn tôi. Anh ấy là tôi và tôi là anh ấy. Nhưng có vẻ là không thể.

Tôi giải thích rằng nếu một linh hồn bị vỡ ra từ đấng Tối Thượng, nó có thể cùng một lúc đi vào nhiều thể xác, và điều cô cảm thấy thì không có gì lạ lùng hoặc bất thường cả. Cơ duyên mà cô và Ricardo gặp nhau đã được an bày, và giờ đây sự lựa chọn tự nguyện của hai người có thể sẽ quyết định chuyện gì sẽ xảy ra trong tương lai.

Cô cười hớn hở và nói:

- Tôi có một ý kiến về chuyện có thể xảy ra.

Tôi cũng vậy. Vẫn còn vấn đề về chuyện kinh doanh mới của cô, không biết sẽ thành công hay thất bại. Tôi hỏi cô có muốn tôi đưa cô đến tương lai không, và sau khi do dự khá lâu cô đồng ý, trọng sự phấn khởi hiện có cô không muốn thấy điều xấu.

Thay vì chỉ đi xa trong vài năm tới, cô đi xa đến 1.200 năm! Thông thường ít khi người ta biết rõ chính xác năm nào trong tương lai mà họ đến, nhưng Critina thì biết là năm 3200. Cô kể:

- Trái đất rất xanh tươi, xanh hơn và phì nhiêu hơn bây giờ. Rừng rậm xum xuê, đồng cỏ thì phủ đầy hoa. Nhưng thật buồn cười là không có thú vật. Tại sao, khi đã có quá nhiều thực phẩm? Cũng không có nhiều người. Con người giao tiếp với nhau bằng ngoại cảm, thân thể họ nhẹ hơn chúng ta nhiều và đầy ánh sáng. Họ sống theo từng nhóm nhỏ, không phải đô thị, trong những ngôi nhà xinh xắn làm bằng gỗ hoặc bằng đá, họ có vẻ là nông dân. Tôi nhìn thấy chất lỏng hoặc ánh sáng lỏng đang tưới xuống cây cối; thỉnh thoảng họ tưới chất lỏng đó vào thân thể. Những người đó cực kỳ trí tuệ. Tôi không nhìn thấy bất cứ bệnh tật, giận dữ, bạo lực hay chiến tranh. Chắc chắn có một đặc tính mờ ảo đi đến mọi thứ, một ánh sáng khắp nơi nối kết mọi người và mọi vật trong thanh bình.

- Điều này làm cô cảm thấy thế nào khi nhìn vào thế giới trong cách đó?

Tôi hỏi khi mang cô về hiện tại. Cô tươi cười:

- Thanh thản. Dễ chịu. Hân hoan. Tôi mong đến sống ở đó.

- Tôi thắc mắc sao cô lại đến đó thay vì một tương lai gần hơn.

Cô ngẫm nghĩ câu hỏi:

- Vì nó quan trọng hơn. Chính bản thân tôi có thể sắp xếp những năm đó ngay trong kiếp này. Việc kinh doanh của tôi sẽ tươi tốt như những cây cối ở hai thiên niên kỷ sau. Với tình yêu dành cho Ricardo thì làm sao nó có thể thất bại được?

Dĩ nhiên là cô nói đúng. Trong vòng mười tám tháng, hàng hóa của cô đã tăng tỷ lệ tại các cửa hàng khắp đất nước, và khi hai vợ chồng tôi đi qua nước Nga, chúng tôi thấy mặt hàng của cô tại St. Petersburg. Cô cũng đang phát triển nhanh việc kinh doanh trên mạng. Cô đầu tư một ít lợi nhuận vào việc kinh doanh của cha cô và cứu ông khỏi sự khủng hoảng bị phá sản. Ricardo và cô kết hôn, và tôi hầu như mất liên lạc với cô. Nhưng vào một buổi sáng, cô điện thoại đến và tôi có thể nghe giọng nói của cô tràn ngập niềm vui.

- Bác sĩ Weiss ơi, tôi phải kể cho ông nghe vì nhờ ông mà nó xảy đến. Tối qua Ricardo và tôi ăn tối tại nhà cha mẹ tôi. Chúng tôi đến thường xuyên vì ông bà thích anh ấy. Khi chúng tôi tạm biệt, cha kéo tôi qua một bên và ôm tôi. Ôm tôi! Quả là tuyệt diệu. Và rồi lần đầu tiên trong đời tôi hoặc đời ông, ông nói ông yêu thương tôi.

Tình yêu là một phẩm chất và năng lực tuyệt đối. Dù chúng ta chết đi nó vẫn không dừng lại. Nó tiếp tục đi trên phương diện khác và lại quay trở về đây. Nó là nội bào của phẩm chất linh hồn và thể xác. Nó là cuộc sống và cả khi đã chết. Nó là mục đích của chúng ta, và tất cả chúng ta bây giờ và mãi mãi sẽ đạt được nó.

#309 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/07/2011 - 23:15

DU HÀNH QUA CÁC VÙNG TÂM THỨC

Chương Mười Hai

Gary: Tương lai.

Trong tất cả cuốn sách của tôi, tôi luôn cố gắng truyền đạt những động tác đầy kinh ngạc của những chuyến du hành trở về quá khứ: ảnh hưởng về những cảnh tượng kỳ diệu, không chỉ về mặt thể chất mà luôn cả mặt tâm lý, ý nghĩa của bí ẩn hoặc huyền bí hoặc siêu việt mà bệnh nhân và tôi đều trải nghiệm. Làm sao mà nó lại quá kỳ lạ như vậy, rồi khi chúng tôi du hành đến tương lai để không chỉ nhìn những gì xảy ra mà còn những gì sẽ xảy ra, cái gì sẽ tồn tại.

Những chuyến đi như vậy tiếp tục lấp đầy trong tôi niềm kính sợ và sự cẩn trọng. Tôi luôn tận trọng đưa bệnh nhân vào những cõi mà có thể chỉ là tưởng tượng, nhưng nhờ chúng mà có những quyết định trong đời họ, theo những gì mà họ nhìn thấy, và tôi nhấn mạnh với họ về sự nguy hiểm của trí tưởng tượng hoặc ảo tưởng. Một sự báo trước khi khái niệm hóa về tương lai là khả năng dự đoán mà tiềm thức riêng của một người ao ước tạo ra viễn cảnh tương lai. Theo nhà phân tâm học những viễn cảnh ấy rất quan trọng bởi vì bất kể điều gì mà tiềm thức tạo ra đều có lợi cho nhà trị liệu và rất có ý nghĩa với người sáng tạo.

Trong ý nghĩa này, ký ức về tương lai như là những giấc mơ. Thường có sự pha lẫn giữa biểu tượng và ẩn dụ, giữa niềm hy vọng và mơ ước trong lòng, giữa những ký ức thật sự và những trải nghiệm được biết trước. Nói một cách khác, chỉ vì người bệnh nhìn thấy tương lai nên không có nghĩa nó là tương lai thật. Mặc dù vậy, sự gẩn gũi và sức mạnh của ký ức có thể cải thiện sớm cho hiện tại và quá trình tương lai của đời sống bệnh nhân. Đối với nhà trị liệu những thay đổi này thậm chí quan trọng hơn khả năng công nhận giá trị vật chất.

Ngoài ra, nhiều cảnh tượng tương lai gần đã được chứng minh là đúng, bạn có thể thấy kết quả của nhiều trường hợp trong cuốn sách này. Và nếu như chúng ta học hỏi để phân biệt chính xác tuyệt đối giữa sự thật và ảo tưởng, cái mà đôi khi không thể xảy ra trong thế hệ này nhưng có lẽ sẽ xảy ra trong thế hệ kế tiếp. Và như chúng ta đã nhìn thấy tương lai, bất kể do sử dụng bài tập trị liệu hay không, đều có thể cải thiện tương lai đó bằng cách tự cải thiện chính mình. Sự bất diệt quý giá này mà rốt cuộc sẽ là của chúng ta chắc hẳn sẽ đến nhanh hơn. Chúng ta sẽ trải ngang qua những cánh đồng xanh tươi tốt và bầu trời sáng ngời để đến với đấng Tối Cao.

Tôi tin rằng chúng ta có thể nhìn thấy tương lai vì phần nào đó trong chúng ta đáp lại sự kiện mà quá khứ, hiện tại, và tương lai là một, xảy ra cùng một lúc, hơi khác so với độ dài của năm tháng ngày giờ bằng cách chúng ta đo đếm thời gian trên trái đất. Khá rõ nét, tương lai là ngay bây giờ, và thậm chí trên hành tinh này chúng ta có thể hình thành hiện tại bằng hành động của chúng ta. Đó là lý do tại sao điều này lại quá quan trọng để chuẩn bị không chỉ cho phần đời còn lại mà còn cho cả những kiếp sắp tới cho sự bất diệt.

Tương lai dường như là một điểm đến khá linh động. Tồn tại một số lớn cho nhiều tương lai chắc chắn sẽ xảy ra và tương lai có thể xảy ra, qua một phạm vi thống kê rộng lớn. Tương lai gần riêng lẻ của chúng ta trong kiếp này sẽ tới rất sớm tùy vào một phạm vi lớn, như chúng ta đã thấy, dựa trên sự lựa chọn và hành động của chúng ta trong hiện tại. Tương lai xa, tương lai chung, tương lai của hành tinh này, một hành tinh mà có thể tồn tại mãi mãi, hoặc có thể bị phá hủy, dù bị phá hủy đi nữa, chúng ta cũng không ngừng tiến tới đấng Tối Cao tùy thuộc vào sự lựa chọn chung của tất cả mọi người.

Sự lựa chọn đó có thể được nhìn thấy từ bây giờ trong cảnh tượng của tương lai vài ngàn năm sau. Chúng ta càng nhìn gần một tương lai đặc biệt, chúng ta càng chỉnh sửa đúng hơn theo cách dự đoán. Rất quan trọng để nhìn thấy trước một ngàn năm và hơn nữa bởi vì trái đất ngày nay đang gặp nguy hiểm. Có lẽ, nếu chúng ta ứng dụng trí tuệ nhiều hơn vào sự lựa chọn, do những gì chúng ta đã thấy, bắt đầu từ bây giờ chúng ta có thể điều chỉnh hướng đi của tương lai.

Khi tôi làm việc với những người tham dự hội thảo, tôi đưa họ đi đến một khoảng tương lai, vào những thời kỳ riêng biệt: một trăm năm tới, năm trăm năm, một ngàn năm hoặc hơn nữa. Tôi muốn nhìn xem có sự phù hợp nào trong những cảnh tượng đó, vì nếu chúng thích hơp thì sẽ có một cơ hội tốt, một sự thật nằm trong đó. Giá mà thế giới sẽ nhìn thấy và có cảm giác nhiều như họ đã dự đoán. Kinh nghiệm của tôi vẫn còn non nớt, nhưng tôi đã tìm ra những đặc điểm giống nhau, nổi bật như vậy trong 90% của những cảnh tượng mà càng lúc tôi càng tin có một cơ hội xuất sắc, có nhiều kiếp sống từ đây, rằng có một thế giới rực rỡ đang đợi chúng ta.

Tôi sử dụng phương pháp đi đến tương lai riêng lẻ để điều trị. Như tôi đã chú giải, chỉ trong thời gian gần đây tôi mới làm như vậy mà cũng rất miễn cưỡng vì tôi lo lắng về việc tự hoàn thành sự tiên đoán trong tinh thần người bệnh không được ổn định. Tuy nhiên, vài bệnh nhân tự ý đi đến tương lai cũng có lợi ích từ điều đó. Tôi bắt đầu sử dụng phương pháp này, đưa bệnh nhân gần đến cái chết mà không cho họ thật sự nhìn thấy nó.

Nếu chúng ta nhìn thấy đoạn cuối của cuộc đời, có lẽ bây giờ còn ba hay bốn giai đoạn nữa chúng ta mới nắm lấy được, còn nhiều sự lựa chọn nữa mà chúng ta sẽ quyết định, khi chúng ta tiến đến kiếp sau. Vài người vượt quá mức độ liệu pháp cho phép rồi đi đến cái chết thật sự, nhưng họ đủ sức mạnh để điều khiển nó, những người không mạnh mẽ không thể điều khiển được. Tôi phát hiện ra người ta có những quyết định khôn ngoan và nhiều lựa chọn tốt khi họ biết trước. Khi họ nhìn vào ngã ba đường rồi nói: “Nếu tôi chọn con đường này, đường này, hoặc đường này, thì cái gì sẽ khác nhau?”. Như bây giờ chúng ta lựa chọn, chúng ta thay đổi thường xuyên tương lai mình.

Nhưng nói chung ngoài sự vô hạn của tương lai mà chúng ta đối diện, vẫn còn một hoặc nhiều tương lai sẽ có, và có thể chúng ta có 5% cơ hội để đi theo con đường này, 10% cơ hội đi theo con đường khác, và chỉ 0,0001% cơ hội của con đường thứ ba. Đó là hệ thống khả năng có thể xảy ra và khả năng chắc chắn xảy ra mà chúng ta thường xuyên chỉnh sửa. Hãy nhớ rằng tất cả tương lai riêng lẻ của chúng ta là một phần của hình cong vũ trụ. Nếu vô số tương lai riêng lẻ này kết hợp với linh hồn cao hơn trong tương lai xa thì chúng ta sẽ đạt đến mục đích của chúng ta.

Cho đến bây giờ, sự lựa chọn là vấn đề quan trọng. Ví dụ như John, người đã nhìn thấy ngã ba đường nên đã quyết định một cuộc sống từ ái trong hiện tại, do có sự khác biệt quá lớn so với con đường hiện thời anh đang đi. Evelyn đã nhìn thấy tương lai nơi mà nỗi thù hận ăn sâu trong tâm trí của cô không còn tồn tại, và trong kiếp này cô đã có thể bắt đầu con đường đi đến đó. Khi chúng ta nhìn thấy tương lai, không có nghĩa là chúng ta bắt buộc phải đến đó, vì rằng nhiều ngã ba nằm trong rất nhiều trường hợp. Vẫn còn rất nhiều sự lựa chọn, và cũng không quá trễ để quyết định.

Trong cả hai trường hợp của John và Evelyn, và cả người khác, tôi cũng đã miêu tả đầy đủ. Chúng ta đi về quá khứ rồi đến tương lai. Trong cách trị liệu cho Gary tôi đưa anh ấy đến tương lai mà không trở về quá khứ, vì anh đến với tôi trong tình trạng khủng hoảng. Vào một đêm trước khi anh điện thoại cho tôi, anh nằm mơ nhìn thấy mình tự bắn vào đầu. Sau khi nghe xong câu chuyện của anh, tôi nghĩ giấc mơ đó có vẻ như cũng rất thích hợp. Chết có nghĩa là kết thúc sự tuyệt vọng.

Gary là người đàn ông ở tuổi 40 tràn đầy sinh lực. Tuy nhiên công việc kinh doanh đồ cổ của anh ta sắp sụp đổ. Bởi vì sự thành công của Antiques Roadshow trên ti vi, anh thừa nhận rằng sự hoành hành trong đồ hàng bạc có giá trị cao, tranh ảnh, đồ trang trí đã có thể lan khắp đất nước vì vậy anh phải mở rộng việc kinh doanh và thuê thêm kho chứa hàng. Nhưng một là do khiếu thẫm mỹ của anh quá kém, hai là do anh đánh giá quá cao về thị trường, anh lôi cuốn thêm vài người mua, đến khi nợ đáo hạn anh không có khả năng thanh toán.

Đối tác thưa anh ra tòa. Anh phải cho nhân viên nghỉ việc. Hai đứa con trai sinh đôi sắp vào đại học anh cũng không đủ tiền trả học phí cho chúng. Người vợ yêu quý, Constance, chẩn đoán bị nhiều xơ cứng. Một luật sư dề nghị anh nên lập hồ sơ phá sản, nhưng với Gary đó là điều không thể nghĩ tới. Anh kể với tôi trong tâm trạng vội vã, khuôn mặt hốc hác mệt mỏi, ảm đạm, ánh mắt lắp đầy niềm hối tiếc.

- Bác sĩ thấy đó, vì sao giấc mơ tác động mạnh đến vậy.

- Tại sao ý tưởng phá sản lại không thể nghĩ tới? Dường như đó là giải pháp hợp lý duy nhất.

- Bởi điều đó chứng minh rằng cha tôi đúng.

- Về chuyện gì?

- Cha tôi đã nói ngàn lần: “Con trai ơi, con chẳng bao giờ làm nên trò trống gì”.

- Ông đã chết?

- Mười hai năm rồi.

- Nhưng anh vẫn nhớ lời nói của ông.

- Tôi bị ám ảnh. Bác sĩ Weiss, cha tôi là người đàn ông mạnh mẽ. Mẹ tôi chết lúc tôi 3 tuổi. Ông một mình nuôi tôi khôn lớn. Ông là thợ xây dựng, một người cứng cỏi, không bao giờ đi uống rượu với bạn bè, không bao giờ tìm kiếm người đàn bà khác mà không chăm sóc tôi, lo lắng cho tôi, để dành tền cho tôi. Chúa ơi! Ông nói tôi là người đầu tiên trong gia đình vào đại học. Ông muốn tôi làm luật sư hay bác sĩ hoặc nhà khoa học. Ông hãnh diện về tôi. Tôi đã cố gắng, rất cố gắng, nhưng cũng không thể qua được các môn toán lý hóa, chỉ vì đầu óc tôi không lô-gíc. Tôi không thể làm luật sư, chỉ có thể là công nhân xây dựng.

Anh đứng dậy và giang cánh tay ra.

- Không, nó tạo ra sức mạnh. Hãy nhìn tôi.

Điều tôi nhìn thấy là một người đàn ông bình thường “có tầm vóc bình thường, chiều cao bình thường”. Đó không phải là anh ta, con người trốn tránh mình vì công việc thể xác, mà chính là anh tự nghĩ về mình như vậy. Anh tiếp tục:

- Tôi rất thích nghệ thuật, Ai Cập, Hy Lạp, Ý, thời kỳ phục hưng. Trong năm học thứ hai tại Tulane tôi quyết định học ngành lịch sử học nghệ thuật, nhưng chưa hết năm tôi nói chuyện với cha tôi.

- Rồi chuyện gì xảy ra?

Đôi môi anh ta cong lên đi đầy trách móc.

- Cha tôi nói: “Con trai, con chẳng bao giờ làm nên trò trống gì”. Ông gọi tôi là thằng hèn, thứ ẻo lả, người trí thức, chẳng còn gì tệ hơn. Tôi đã phản bội ông, đã làm tan vỡ niềm hy vọng của ông, đã chứng minh ông đã phí cả cuộc đời. Ông nói: “Giá mà tôi có con gái”. Đối với ông là con gái thì cũng tệ như là người trí thức.

- Ông có từ bỏ anh không?

- Tệ hơn. Ông vẫn trả tiền ăn học. Ông nói tiền ông chẳng có chuyện gì khác để làm, rằng ông quá già để bắt đầu cuộc đời mới. Mỗi mùa hè và ngày lễ, tôi về thăm ông, và ông vẫn rất thân mật. Thân mật, tôi nghĩ vậy, như thể tôi là người lạ. Sau khi tôi bắt đầu kinh doanh, tôi cố gắng trả lại tiền cho ông, nhưng ông xé nát tấm ngân phiếu đầu tiên tôi vừa đưa. Tôi không bao giờ thử lại lần nữa. Ông trả thù tôi bằng cách khiến tôi cảm thấy tội lỗi, và ông đã thành công.

- Anh bị sức ép quá lớn. Rất khó giả vờ là điều gì đó mà anh không có, thậm chí khó hơn để bị coi thường rằng anh là ai. Nhưng anh đã tạo dựng cho mình cuộc sống, trong khi nhiều người có cha như anh thì không làm được.

Cái nhìn tủi thân của anh ta chứng minh điều tôi nói là đúng. Anh nói trong cay đắng:

- Vài thành tựu, đối diện với chúng, tôi là kẻ thất bại.

- Thất bại trong kinh doanh đâu có gì xấu xa. Chuyện này luôn xảy ra. Anh sẽ rút ra khỏi điều đó. Trong khi anh đang có người vợ yêu thương anh.

- Ai nói là nàng yêu tôi.

Tôi bị choáng váng vì anh cố nhấn mạnh lời nói.

- Anh không nghĩ như vậy sao?

- Làm sao nó có thể được?

Anh trả lời trong trạng thái quá bi quan. Anh đang quá tuyệt vọng nên tôi cũng cảm thấy thật vô ích nếu có ý định cho anh thấy rằng chắc hẳn cô đã từng yêu anh khi cô kết hôn với anh, và cô cũng yên tâm rằng anh vẫn còn yêu cô hoặc ít ra phần nào trong anh vẫn còn hấp dẫn cô.

- Điểm nào cho thấy rằng cô không yêu anh?

Anh biểu lộ sự hoang dại.

- Khi tôi nói với nàng tôi muốn tự sát, nàng năn nỉ tôi đừng.

Tôi choáng váng một chút, rồi cuối cùng hỏi lại:

- Điều đó chứng tỏ là cô ta không yêu anh?

- Nếu vậy thì nàng đã để tôi tự sát.

Anh ta cười lạnh lùng.

- Nhưng không thành vấn đề. Không quan trọng là khó khăn như thế nào mà nàng cố ngăn tôi, tôi sẽ thực hiện.

- Khi nào?

- Ngày mai thì sao? Có thích hợp với ông không? Còn tôi thì rất thích hợp.

Đe dọa tự tử là vấn đề nghiêm trọng nhất mà nhà trị liệu đối mặt. Điều mà Gary đến với tôi có nghĩa là ngay chính điểm nhỏ nhất anh đang lẫn lộn với quyết định của mình, rằng giấc mơ đã làm anh sợ. Có lẽ anh chỉ cố gây sốc cho tôi hoặc chỉ tạo bi kịch cho mình. Tuy nhiên mức độ khốn khổ biện luận rằng niềm ao ước vẫn còn đó, và tôi biết mình có thể nắm lấy cơ hội.

- Vậy tôi sẽ đưa anh vào bệnh viện.

Anh trợn mắt nhìn tôi, bỗng nhiên môi mắt hoàn toàn mất hết biểu hiện.

- Không đời nào.

- Anh đang trong tình thế nguy hiểm chết người.

- Không phải nguy hiểm. Đó là một giải pháp.

- Chẳng ai mong anh như vậy. Anh đã nói vợ anh cố ngăn anh. Tôi cá với anh là con trai anh cũng sẽ cố ngăn.

- Các con tôi đi xa.

- Rồi hãy nghĩ về cú sốc của chúng, nỗi đau của chúng.

- Chúng bỏ tôi đi. Chúng nghĩ rằng tôi vô dụng, và chúng nó đúng. Tốt hơn là chúng không ở với tôi.

Lần nữa, sự biện hộ dường như không có hiệu quả. Nếu tôi không vực anh dậy khỏi cơn mê thì tôi phải đưa anh vào bệnh viện thôi. Nhưng nếu tôi có thể giúp anh ta đến một viễn cảnh cao hơn và hình dung ra hậu quả việc tự tử...

- Tôi thỏa thuận với anh như thế này...

Anh có vẻ giật mình.

- Thỏa thuận gì?

- Nếu anh dành hai buổi điều trị với tôi, để tôi cố giúp anh, tôi sẽ không đưa anh vào bệnh viện.

- Nhưng nếu tôi vẫn cảm thấy như vậy sau đợt trị liệu, bác sĩ sẽ không cố ngăn tôi?

Dĩ nhiên là không phải phần của thỏa thuận.

- Cứ hãy nhìn thấy những gì mà chúng ta đạt được. Tôi muốn anh đi đến tương lai.

Khi Gary đi sâu vào tình trạng thôi miên, tôi hướng dẫn anh hai con đường xa rời nơi của anh trong hiện tại. Một con đường sẽ chỉ cho thấy những ảnh hưởng sau đó của cái chết của anh. Con đường kia là con đường của hành động tích cực, yêu bản thân, yêu cuộc sống. Chúng tôi chọn con đường thứ nhất trước, con đường tự tử. Ngay lập tức mắt anh nhòa lệ.

- Tôi đã sai. Constance rất yêu tôi. Tôi nhìn thấy nàng quá đau đớn đến nhiều năm sau khi tôi chết. Hai đứa con tôi cũng đau đớn không kém. Tôi quá ích kỷ chẳng màng đến vợ con, sau khi tôi bóp cò thì các con phải bỏ học để về chăm sóc cho Constance vì nàng bệnh rất nặng.

Anh ngừng lại một chút rồi sửng sốt kể lại:

- Thật buồn cười, chúng nó đều cảm thấy phải chịu trách nhiệm về cái chết của tôi. Cảm giác tội lỗi đã tiêu phí thời gian của chúng. Chúng đều nghĩ lẽ ra phải bảo vệ tôi, cứu tôi nếu chúng cần cù hơn. Tôi không thể tin được! Chính là tay tôi đã bóp cò chứ không phải chúng. Còn Constance đã làm những gì nàng có thể. Nàng đã van xin tôi. Tôi không tin nàng và tự ý làm.

- Phản ứng của họ không có gi lạ lùng. Không nhiều trường hợp người sống sót luôn cảm thấy có trách nhiệm.

Tôi nói trong yên lặng. Nước mắt rơi đầm đìa, anh kể lể:

- Tôi cảm thấy tiếc nuối về điều đó. Quá, quá hối tiếc. Tôi không muốn…

- Làm tổn thương vợ con?

- Dạ đúng. Tôi là người đau khổ.

Tự tử không phải là hành động của lòng vị tha. Đó là hành động của cơn giận dữ hoặc tuyệt vọng. tôi đã chỉ ra điểm này cho Gary khi tôi đưa anh trở về, nhưng còn nhiều vấn đề quan trọng để anh biết thêm về tương lai. Tôi đưa anh đi xa hơn vào đợt trị liệu kế tiếp. Những ngón tay anh nắm chặt vào thành ghế đến khi những đốt ngón tay trắng bệch ra.

- Có người đàn ông đang đứng, tay cầm súng chĩa vào đầu. Tôi có thể nhìn thấy ngón tay hắn siết cò.

- Người đàn ông là anh?

- Đúng vậy!

- Với cây súng chĩa vào đầu, như là giấc mơ anh đã kể cho tôi nghe khi đến đây lần đầu.

Thân thể anh thư giãn.

- Một giấc mơ. Đúng vậy. Đúng là giấc mơ.

- Đó có nghĩa là anh muốn tự sát?

- Đúng. Tôi đáng chết. Tôi đang có một mối tình.

- Vậy là anh đã lập gia đình?

- Dĩ nhiên. Tôi làm việc cho cha vợ tôi.

- Một mối tình không phải là lý do để tự sát.

- Ông không hiểu. Nếu vợ tôi phát hiện, cô ta sẽ méc với cha cô, rồi tôi sẽ mất hết: công việc, gia đình, vị trí, bạn bè, lòng tự trọng. Tôi không chịu đựng nổi sự nhục nhã.

- Mối tình đó bí mật mà. Tại sao vợ anh biết được?

- Vì người tình của tôi đã viết cho vợ tôi một bức thư kể hết mọi chuyện. Ông biết không tôi bỏ cô ta nên cô nổi điên. Bức thư là sự trả thù.

- Nhưng mối quan hệ đã chấm dứt rồi. Anh kết thúc nó. Tại sao không thừa nhận rồi xin lỗi vợ anh trước khi cô ấy nhận được lá thư? Lúc cô ấy tha thứ cho anh, cô sẽ không kể cho cha cô biết.

- Không có cơ hội đâu. Cô ta không yêu tôi như yêu cha mình. Thật tình tôi chẳng hề nghĩ là cô ta yêu tôi.

- Vì vậy cô ta sẽ hài lòng nếu anh tự sát?

- Có một buổi lễ. Cô ta mời cha và bạn bè.

Nỗi cay đắng quả là sâu sắc giống như trong hiện tại của anh.

- Có giống như giấc mơ không?

Câu hỏi làm anh giật mình. Anh nghĩ ngợi một lát rồi do dự nói:

- Ông cho là một giấc mơ tái diễn? Không, tôi không nghĩ vậy. Chỉ là...

Anh lắc đầu.

- Không.

- Anh thật sự nghĩ mình tự sát?

Anh nhíu mày. Một sự yên lặng khác trùm lên. Cuối cùng thì...

- Tôi không biết. Tôi không thể nhìn thấy. Ôi, Chúa ơi! Tôi không biết phải làm gì.

Anh nhớ giấc mơ tương lai trong kiếp hiện tại khi anh quay lại với nó.

- Có phải tôi đã có cảm giác cũ, nỗi nhục nhã và tuyệt vọng, lập lại nhiều lần?

- Phãi chăng là cảm giác như vậy?

- Có vẻ như tôi luôn luôn muốn tự sát. Không có nghĩa là cuộc đời tôi, mà đó là mô hình sẽ xảy ra.

- Cho đến khi anh sẵn sàng học hỏi. Giống như thảm kịch Hy Lạp. Nếu bây giờ anh tự sát, số phận anh sẽ bị sắp xếp phải đối diện với tình huống này mãi mãi. Điều mà anh không thể nhận ra là người đàn ông trong mơ và trong tương lai với cây súng chĩa vào đầu không thật sự là anh, chỉ là một phần trong anh, phần tự ghét mình, phần muốn tự sát.

Anh rùng mình như thể bất ngờ bị ớn lạnh.

- Nếu tôi đi con đường khác sẽ như thế nào?

- À, một câu hỏi hay. Ở đó anh sẽ có khả năng học hỏi.

Lần này mất thời gian hơn bình thường để đưa anh vào trạng thái thôi miên, có lẽ vì anh cũng quá sợ hãi con đường thứ hai, con đường sẽ đưa đến nỗi tuyệt vọng. Nhưng rồi anh cũng tìm thấy mình trong một tương lai gần, rốt cuộc không hề lựa chọn sự tự sát.

- Tôi cho phá sản. Nhưng tôi thắng kiện. Thật ra không có chứng cứ gì hết.

- Còn Constance?

- Hoàn toàn thông cảm. Các con tôi cũng vậy. Luôn cả bạn bè. Tôi nghĩ họ cảm thấy tất cả chúng tôi đều phạm sai lầm, rồi họ tha thứ cho tôi. Thật tình, họ không cảm thấy tôi cần sự tha thứ. Tôi là chồng, là cha, và là bạn, không thể tuyệt đối, không phải là Chúa.

- Làm sao anh đương đầu với vấn đề tài chính?

- Tôi bán nhà lớn mua lại nhà nhỏ. Tôi có thể thanh toán những món nợ chưa trả, không nói đến viện phí.

- Các con?

- Ở lại trường. Khi về nhà chúng phải ở chung một phòng, nhưng chúng không phàn nàn.

- Công việc của anh bây giờ ra sao?

Anh cười:

- Tiền xu quý hiếm. Chúng là một trong những thú vui của tôi, và bây giờ chúng là năng khiếu của tôi.

- Làm tốt chứ?

- Thật huy hoàng, cám ơn ông. Tôi thuê lại vài người làm cho tôi trước đây. Họ rất vui vẻ quay lại làm với tôi bỏ luôn việc đang làm. Tôi đoán họ không nghĩ tôi là ông chủ tồi hay kẻ thất bại. Tôi cho họ biết sự thật khi họ thôi việc. Một trong số họ nói rằng anh ta rất khâm phục lòng thương cảm và tính thật thà của tôi. Dĩ nhiên, việc kinh doanh đồ cổ cũng bắt đầu tốt đẹp, ai mà biết được?

Tôi đưa anh đi xa hơn đến cuối đời.

- Đó là cháu nội. Constance chết cách đây vài năm, nhưng tôi đã an ủi cô vào những ngày cuối cùng. Chúng tôi vẫn yêu nhau cho đến hơi thở cuối cùng.

Anh thở dài.

- Nói chung, đó là một cuộc đời tốt đẹp.

Tôi biết khi anh có sự thay đổi về trái tim và tư tưởng, cuộc đời tiếp theo của anh sẽ tốt đẹp hơn. Trong đó Gary là một nhà khoa học, nghiên cứu sinh lý học thực vật, đặc biệt, tạo những giống có đầy đủ dinh dưỡng để góp phần giúp những người theo thuyết ăn chay tăng cường sức khỏe như một sự lựa chọn thay thế ăn thịt động vật, ở một cấp độ ý thức cao hơn. Không hề có viễn cảnh gì về kinh doanh, không ngoại tình, không có đau khổ bất hạnh, không hề có bóng dáng của tư tưởng tự sát.

Không có câu hỏi về con đường anh đã chọn khi tôi mang anh trở lại thực tại. Anh nhận ra mình sẽ tránh con đường đầu tiên vì anh sẽ khôn ngoan hơn trong lựa chọn ở hiện tại. Thật ra, theo cách đó cuộc sống của Gary sẽ phát triển xa hơn, chính xác như anh đã thấy trước trên con đường anh đã chọn. Gia đình vẫn tiếp tục ủng hộ và yêu thương anh. Anh thắng kiện. Anh bắt đầu kinh doanh lại, một phòng tranh cho họa sĩ (cảnh tượng về tương lai của một người hiếm khi đúng chính xác 100%), và có thuốc mới điều trị cho Constance, tuy vậy cả hai sẵn sàng chịu đựng bệnh tật của cô. Cách đây vài ngày, anh gọi cho tôi và kể về con trai anh đã bỏ trường đại học và trở thành nhạc sĩ rock.

- Anh nghĩ thế nào về chuyện đó?

- Tôi không ưa.

- Anh đã nói gì với nó?

- Tôi nói: “Con trai, bất kể con quyết định như thế nào thì con cũng sẽ làm được.”.

#310 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/07/2011 - 23:22

DU HÀNH QUA CÁC VÙNG TÂM THỨC

Lời Kết.

Trong lúc tôi tin có một ngã ba đường trong tất cả cuộc đời chúng ta và cuộc du hành đến tương lai, sẽ giúp chúng ta quyết định nên đi trên con đường nào. Tôi cũng tin rằng có một ngã ba đường trong cuộc đời của thế giới, mà nếu chúng ta càng nhìn thấy và càng thấu hiểu, thì sẽ có nhiều cơ hội tốt đẹp hơn để chúng ta bảo vệ trái đất tránh khỏi sự hủy hoại.

Đó là nguyên nhân tôi thường sử dụng những buổi hội thảo như một phương tiện tiên tri. Một lần nữa lại không có cách nào để thẩm định những gì tôi đã khám phá. Tuy nhiên tôi tin chắc rằng vào đúng lúc tôi sẽ phát triển những phương pháp tốt hơn, để tinh lọc các câu chuyện do những người mạo hiểm đi đến tương lai đã thấy và kể lại. Tôi biết rõ có một sự đồng lòng về tương lai của những người cùng tham dự hội thảo, cho đến giờ con số đã lên hai ngàn người. Và tôi sẽ đề nghị, có thể hơi do dự và ngập ngừng một chút, những buổi hội thảo ở nước ngoài. Tôi sẽ tiếp tục khám phá.

Trong những nhóm du hành của tôi, như tôi thường ghi chép, tôi thử chọn ra ba người dừng lại trên cuộc hành trình đến tương lai: một trăm năm, năm trăm năm, một ngàn năm cách đây. Điều này không chắc chắn. Con người luôn luôn tự do để khám phá bất cứ một cõi nào trong bất cứ thời gian nào. Tuy nhiên như một lời nhắn nhủ, họ và tôi đều tìm thấy lợi ích. Chúng tôi đã tìm thấy gì?

Trong một trăm năm hoặc hai trăm năm nữa thế giới sẽ gần giống như bây giờ. Chắc hẳn có thảm họa, có đau thương, có bệnh tật do thiên nhiên và con người gây ra, nhưng không ở một mức độ toàn cầu. Có nhiều độc tố hơn, đông đúc hơn, ô nhiễm hơn, và lời cảnh báo cho thế giới nhiều hơn. Có ít bệnh độc hại hơn mà phương pháp lại tốt hơn do sự tăng trưởng mùa màng, thực phẩm...Nhưng theo cách diễn giải dông dài gần như nguyên vẹn ý nghĩa trong bài hát, của Stephen Sondheim “Chúng tôi vẫn ở đây”.

Sau giai đoạn đó, có thể gần như ba trăm năm, hoặc cách xa như sáu trăm năm, bắt đầu có một Thời Kỳ Đen Tối thứ hai. Trong những buổi thảo luận, chúng ta dường như được báo trước những sự kiện đáng ngại khít khao với niên đại sớm hơn. Có lẽ, vì tương lai không phù hợp và sự u ám sẵn sàng tiến nhanh hơn, do những ý niệm và hành động tiêu cực cũa nhiều người. Nhưng vẫn còn thời gian làm đảo ngược lại, thông qua những nỗ lực tích lũy của chúng ta. Giữa thời kỳ này khó hơn rất nhiều để định nghĩa chính xác.

Tôi không biết cái gì tạo ra sự đen tối đó, như vậy cần phải có sự tinh tế, nhưng chúng tôi nhìn thấy dân số giảm sút rất hơn. Nguyên nhân có lẽ là do tỷ lệ sinh đẻ bị giảm vì chất độc hại trong môi trường. Tuy nhiên vi khuẩn, chất độc, thiên thạch, sao băng, hoặc tai họa chưa được thấy trước, cũng chẳng chịu trách nhiệm. Vài người trong chúng tôi sẽ không đầu thai lại vào trong thời gian đó. Ý thức của chúng tôi có lẽ thay đổi vừa đủ để chúng tôi được quan sát từ một nơi khác, từ một cảnh giới khác.

Hẳn là chúng tôi không phải ở đây nữa. Theo cách riêng lẻ, tương lai của chúng tôi có thể tiến bộ hơn tương lai của hành tinh này. Vài người đầu thai vào các cõi khác hoặc các thế giới khác. Trong cuốn sách trước tôi viết về sự quan tâm đối với thế giới, một thế giới đang di chuyển từ một ngôi trường có một phòng học, nơi đó từ lớp một đến lớp mười hai ngồi học chung, đi đến hai ngôi trường khác nhau tiểu học và trung học.

Nhưng trung học thì hiện nay chưa có ở đây và sẽ không có cho đến khi chúng ta ngưng lại quá trình làm ô nhiễm, phá hủy và chết chóc. Vài người chắc chắn đã lên tới trung học và người khác đã lên đại học, nhưng họ ở vào một cõi khác và số lượng người đang đến ngày càng lớn hơn. Họ đạt đến mức độ mà họ không phải đầu thai trở lại trên trái đất này nữa, và có lẽ học sinh trung học đang giúp chúng ta từ một khoảng cách xa. Những người trong trường đại học được tập trung trong khóa tốt nghiệp, nơi mà họ hình thành một nhóm và trở thành một phần của đấng Toàn Năng.

Và rồi vùng đất yên lành, màu mỡ, bình dị mà Hugh đã nhìn thấy ngay trước khi tôi bắt đầu thực hiện nhóm du hành vào tương lai, và từ đó có nhiều người cũng mô tả lại giống như vậy. Chỉ vài người tham dự có nói đến những đám mây mà Hugh đã đi qua trước khi đến miền đất tươi sáng. Có lẽ vì bây giờ chúng ta đang ở trong đám mây đen, và những người tham dự trong khoảng giữa đám mây đó, không có khả năng nhận ra sự tồn tại của họ như Hugh đã biết. Nhưng tất cả mọi người đó có thể nhìn thấy ánh sáng rực rỡ, cảm thấy an lành và đều áp dụng sự biến đổi.

Nếu cảnh tượng họ tích lũy đầy đủ năng lực và nhiều người khác cùng tham gia để chuẩn bị cho nhiều kiếp sắp tới hơn là ghét nhau, giết hại nhau, gieo độc hại cho môi trường và cho linh hồn của họ, thì vùng trời lý tưởng đó sẽ thành hiện thực. Họ sẽ đến một nơi trên thế giới này giống như một cõi khác, nơi đó sẽ dễ dàng giảm khoảng cách cho họ hơn. Vì tôi phải chết cũng như bất diệt nên hiện nay tôi quan tâm về thực tại và thời gian khác nhau sắp đến. Chúng ta không hề bị bắt buộc phải đi vào tương lai đó, thậm chí dù cách cư xữ của chúng ta có vẻ bị hạn chế quyền lựa chọn.

Tuy nhiên tôi là người lạc quan. Tôi cho rằng còn kịp lúc để những ý thức chung của con người, đạt được sự mong muốn cho một thế giới bình dị hơn yên lành hơn. Để làm được điều đó, mỗi người trong chúng ta phải nhớ rằng định mệnh cũa chúng ta sẽ bất diệt. Than ôi! quá nhiều người trong chúng ta không biết điều này, hoặc trong thời báo tin tức hàng ngày quên đi điều này. Tôi hy vọng cuốn sách này sẽ là một lời nhắc nhở.


Tác Giả: Bác sĩ Brian L. Weiss

Dịch Giả: Vương Thị minh Tâm



#311 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/07/2011 - 11:49

HÀNH TRÌNH ĐẾN CHÁNH NIỆM

Lời Nói Đầu

Viết tự truyện có lẽ không phải là chuyện một vị tỳ kheo, một nhà sư Phật giáo nên làm, vì các tỳ kheo chúng tôi phải luôn phấn đấu để diệt ngã, không phải để tôn vinh nó. Qua thiền quán và chánh niệm chúng tôi muốn tu tập buông bỏ ái luyến, thực hành vô ngã. Vậy thì tại sao tôi lại viết cả một quyển sách về mình? Cũng khá lạ lùng là ý tưởng ấy lại đến trong những khoá thiền của tôi.

Bất cứ khi nào hướng dẫn một khoá thiền, tôi thường yêu cầu các thiền sinh viết các câu hỏi ra giấy, rồi bỏ vào trong một cái hộp. Mỗi tối, sau buổi thuyết pháp chính thức của tôi, giảng về những điều dạy căn bản của Đức Phật, tôi bốc một vài tờ giấy đó ra khỏi hộp, từng cái từng cái, và trả lời bất cứ câu hỏi gì ở đó.

Thường các thiền sinh muốn biết về việc hành thiền: làm thế nào để duy trì được mức độ mà họ đã thực hành được ở các khoá tu; họ phải làm gì khi quá phẫn nộ đến nỗi không thể ngồi yên; làm thế nào để thực hành nếu họ không có một vị thầy tốt ở cạnh bên.

Tuy nhiên, đôi khi cũng có người hỏi về cuộc đời tôi:

- Thưa, Sư đã tu được bao lâu rồi?

- Thưa, là người sinh ra và trưởng thành ở Tích Lan, Sư có cảm giác thế nào?

- Thưa, làm sao Sư có thể giữ được các giới luật của người tu trong cái thế giới đầy những cám dỗ nầy?

Khi trả lời những loại câu hỏi này tôi thường lan man, dông dài. Tôi kể những câu chuyện về đời tôi và các thiền sinh có vẻ rất thích thú. Thiền đường, thường là nơi yên tĩnh, lại đầy vang tiếng cười. Các thiền sinh thường nói:

- Bhante, Sư nên viết quyển tự truyện của mình.

Tôi đã đọc một vài câu chuyện đời của các vị thầy tâm linh nam cũng như nữ, và trong đó, lúc nào hình như cũng có những việc mầu nhiệm, lạ thường xảy đến cho nhân vật chính. Đôi khi, nhân vật chính có thể là người đã tạo ra những phép mầu đó.

Đọc những câu chuyện đầy ấn tượng này, người ta có thể kết luận rằng những người sống về tâm linh dầu gì cũng rất khác với người bình thường. Nhưng đối với tôi, tôi không thể kể về một sự mầu nhiệm nào.

Suốt cuộc đời, tôi chỉ là một người bình thường. Ngay từ thời trẻ, tôi đã được dạy rằng, nếu siêng năng làm việc thì tôi sẽ được những kết quả tốt, không có gì là thần kỳ về điều đó. Có thể dưới nhiều cách nhìn, cuộc đời của tôi cũng rất giống cuộc đời của bạn.

Vì thế tôi rất do dự khi viết quyển sách mà các đệ tử của tôi đã đề nghị. Tôi lo âu rằng nó sẽ là một biểu hiện của ngã mạn, lo sợ rằng người ta có thể nghĩ ở tuổi già, tôi đã trở nên rồ dại và quá chấp ngã.

- Không nhất thiết là vậy.

Một người bạn đã bảo tôi.

- Có thể qua câu chuyện đời mình, Sư sẽ để lại một bài học gì đó.

Tôi đã suy nghĩ về điều nầy. Tôi đã quán sát về cuộc đời mình và nhận ra rằng, vâng, đây thật sự có thể là một cơ hội để mọi người thấy rằng, giáo lý của Đức Phật là những lời hướng dẫn tuyệt diệu, khiến cho một người tầm thường như bản thân tôi, có được một cuộc đời tràn đầy hạnh phúc, tràn đầy tự tại.

Là một tu sĩ, tôi đã hiến dâng cuộc đời mình để bảo vệ và duy trì giáo lý của Đức Phật. Ngược lại, Phật Pháp cũng đã bảo vệ và duy trì tôi. Đó là những gì tôi đã học được trong suốt 75 năm của cuộc đời. Căn bản đó là những gì tôi muốn chia sẻ với bạn, trong những câu chuyện dông dài về cuộc đời tôi.

Thí dụ, tôi có thể nói một cách thành thật rằng, bất cứ khi nào tôi cảm thấy tự cao, tự đại trong cuộc đời mình, thì tôi phải lãnh chịu nhiều đau khổ. Khi còn là một tu sĩ trẻ trong các Phật học viện, tôi thường dò xét các huynh đệ khác, tôi nói lén, tôi luôn tìm lỗi của người. Và vì thế, tôi luôn đau khổ.

Đúng ra, tôi phải nói rằng, đó luôn là yếu điểm lớn nhất của tôi: xét lỗi của người. Thoát khỏi được tính xấu đó dầu chỉ chút ít, tôi cũng phải mất rất nhiều năm, qua rất nhiều cố gắng và lầm lỗi. Ngay chính bây giờ đôi khi tôi vẫn còn phải tranh đấu với nó.

Nhưng dầu ít hay nhiều, tôi cũng rất hạnh phúc để nói rằng, bây giờ tôi có thể chấp nhận người khác như họ là. Và cuộc đời tôi (không, kể cả của họ!) đã trở nên thanh thản hơn cũng nhờ đó.

Nương tựa vào những điều dạy của Đức Phật, tôi đã tu tập để dần dần tránh xa những xung đột hơn là tạo ra chúng, hay tệ hơn nữa, đi tìm chúng. Điều đó đã khiến cho cuộc đời của tôi được yên ổn không thể kể xiết.

Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người, bất kể là họ đã làm gì, và hãy tin tôi, thiện tánh nầy thật không phải dễ mà có được! Tôi đã phải thực hành rất lâu, rất tinh tấn mới được.

Nhưng sân hận, tự mãn và tánh hay phán đoán của tôi, là những mảnh đất màu mỡ để tôi thực hành. Chỉ vì một người đã trở thành tu sĩ, không có nghĩa là người ấy lập tức thoát khỏi những tính cách uế nhiễm, hay không quan tâm đến chuyện thế gian.

Như bạn sẽ thấy trong suốt quyển sách, ngay chính trong thế giới được coi là cao thượng của tâm linh, tôi đã từng cảm nhận, nơi chính bản thân hay nơi người khác, những sự ganh tỵ nhỏ nhen, hại người, sự thờ ơ và lòng độc ác.

Giờ khi nghĩ lại, tôi thấy rằng tất cả những việc dường như rất tồi tệ lúc đó, cuối cùng cũng dẫn tới những kết quả tích cực. Tất cả những người hay những hoàn cảnh mà tôi đã nghĩ là chướng nghịch, thật ra cũng đã là những vị thầy thúc đẩy tôi đi con đường đã chọn, chỉ cho tôi những gì tôi cần tu tập để đạt được hạnh phúc.

Nhìn ngẫm lại, tôi rất mang ơn những chuỗi nhân quả kỳ diệu đã xảy ra trong cuộc đời tôi, mặc dầu, lúc đó, nhiều điều đã khiến tôi cảm thấy vô cùng đau đớn, bất hạnh. Nếu cha tôi không phải là một người quá khắc nghiệt, có thể tôi đã không bỏ nhà đi tu.

Nếu các vị thầy của tôi đã không phạt tôi quá nặng, tôi đã không tìm đến các trường truyền giáo. Nếu tôi đã không bị mất trí nhớ và cần "thuốc chữa", có thể tôi chẳng bao giờ quan tâm đến thiền.

Nếu tôi không cảm thấy chán làm việc với những người hạ tiện ở Ấn Độ, tôi đã không bỏ Ấn Độ sang Malaysia. Nếu visa của tôi được gia hạn ở Malaysia, có thể tôi sẽ chẳng bao giờ phiêu lưu đến nước Mỹ.

Và nếu mọi sự đã không tan vỡ một cách đớn đau ở chùa Phật giáo Washington (Washington Buddhist Vihara), có thể tôi đã không thiết lập hội Bhavana. Nhưng đó là cuộc đời tôi và tôi biết ơn tất cả.

Dầu vậy, tôi vẫn thấy đau đớn khi viết về một số điều nầy, đào xới lại kỷ niệm của những nỗi đau, ưu phiền cũ. Nhiều lần tôi gần như không còn ý chí và đã muốn bỏ ý định hoàn thành sách. Trong những khoảng thời gian khi hoài nghi dằn vặt, tôi luôn nhớ đến câu nói của Mark Twain:

- Chỉ có người chết mới nói sự thật.

Tôi đã nghĩ về những sự thật đôi khi rất xấu xa trong đời tôi, và tôi cảm thấy lo lắng. Nếu tôi viết về chúng một cách thành thật, tôi sẽ phơi bày những yếu kém, những thiếu sót của mình. Nhưng che giấu sự thật, điều đó cũng không đúng.

Ngược lại, tính cách của một tu sĩ không phải là để viết về những lời nói, hay hoàn cảnh không được tốt đẹp đã xảy ra hàng thế kỷ trước, để tiết lộ về những người không tốt với tôi, nhất là khi nhiều người trong số họ không còn sống để tự bào chữa.

Bên cạnh những nỗi lo đó nền văn hoá và phong tục nơi tôi sinh ra, không ủng hộ việc công khai các cuộc tranh chấp, xung đột. Khi các cháu người Sinhala của tôi đọc bản thảo đầu tiên của quyển sách này, họ rất kinh hoàng.

- Sư không thể nói về người ta như vậy.

Họ phê bình.

- Tại sao Sư muốn bới lại những vấn đề cũ? Chúng chỉ đem lại phiền não cho Sư.

Người cư sĩ Tích Lan không muốn nghe về những lầm lỗi hay thiếu sót của người tu. Họ thích nghĩ về người tu như là một người thánh thiện, cao thượng mà họ có thể bái lạy với lòng cung kính.

Trong mối liên hệ tâm linh giữa người tu và hàng cư sĩ Phật giáo Á châu, việc bày tỏ lòng kính trọng một vị tỳ kheo bằng cách cúng dường hay giúp đỡ vị ấy, đem lại những phần thưởng tâm linh. Vì thế nếu họ khám phá ra một vị tỳ kheo có những điều không xứng đáng, sẽ làm đảo lộn cảm giác về tôn ti trật tự của người cư sĩ.

Nhưng trong nền văn hoá Tây phương, sự thật rất được đề cao. Vì thế tôi không thể kể câu chuyện của đời mình, mà bỏ qua những điều không tốt đẹp; đó sẽ là một bản thảo được "lược bớt" và có thể sẽ bị coi là gian dối.

Và nếu tôi tự họa mình như một người chưa bao giờ phải đương đầu với những khó khăn, yếu kém, thì câu chuyện của tôi chắc chắn không thể giúp ai nhìn thấy được giá trị của Phật pháp, trong việc giúp tôi đương đầu với những làn tên, mũi đạn của cuộc đời.

Chân lý đầu tiên trong Tứ diệu đế của Đức Phật là cuộc đời chứa đầy đau khổ. Chúng ta không thể thoát khỏi khổ đau. Sự chọn lựa duy nhất của chúng ta là phải cố gắng chế ngự các uế nhiễm: tham, sân và si, nơi bản thân là nguyên nhân gây ra mọi đau khổ.

Chế ngự được các uế nhiễm này là công phu tu tập của cả một đời, mà tôi hy vọng là câu chuyện đời tầm thường của tôi, cuộc hành trình đi đến chánh niệm của bản thân tôi, sẽ chứng tỏ điều đó. Và tôi cũng mong, câu chuyện của tôi sẽ minh chứng rằng, dầu những khổ đau của bạn có mãnh liệt tới đâu, bạn cũng sẽ chế ngự được chúng.

#312 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/07/2011 - 11:51

HÀNH TRÌNH ĐẾN CHÁNH NIỆM

Lời Người Dịch

Tôi có thú đi nhà sách. Trước đây thì là những góc sách văn học. Giờ mỗi lần được vào nhà sách Barnes Nobles, tôi lại thường tìm đến góc sách Phật học. Lần đó, tôi bị thu hút bởi quyển sách có màu bìa tối, chữ trắng đen. Thật không có gì hấp dẫn ngoài gương mặt của một nhà sư. Gương mặt hiền từ, với đôi mắt sáng, và nụ cười mỉm đầy "chất thiền" đó đã khiến tôi phải mang quyển sách về nhà.

Về nhà, lật đôi ba trang, mới hay đó là tác giả của một quyển sách thiền, mà tôi rất thích khi đọc bản Việt ngữ của dịch giả Nguyễn Duy Nhiên: Chánh Niệm - Thực Tập Thiền Quán. Thế là tò mò đọc hết quyển sách, thế là bỗng muốn dịch quyển sách ấy.

Vài ba tháng sau, một người bạn đạo, chị Tâm Hạnh bỗng gọi điện. Đôi ba chuyện, rồi chị bảo sẽ đi dự khóa thiền của Sư Gunaratana. À, nhớ ra quyển sách. Nhớ đến ý định sẽ dịch sách. Chị Tâm Hạnh bảo sẽ hỏi Sư cho mình được dịch. Chỉ vậy. Mà rồi sau đó nhận được thư của Sư hoan hỷ cho phép mình được dịch. Thật đúng là duyên lành!

Quyển Tự Truyện của Sư Gunaratana, dĩ nhiên không phải là một tác phẩm văn chương. Nhưng đó là một câu chuyện đời rất thật của một người rất bình thường như chúng ta. Có những lúc tôi phải gập sách lại cười khan một mình. Mà cũng lắm khi lại thấy nghẹn ngào, tức tưởi. Không phải là cách kể chuyện, mà là những câu chuyện khiến người đọc thêm vững lòng tin vào Phật Pháp.

Quyển sách dịch này còn để lại trong riêng tôi những kỷ niệm không thể bao giờ quên. Đó là khi tôi dịch chương 22 của quyển sách, khi tác giả kể về lần thăm viếng mẹ lần cuối, cũng là lúc tôi nhận được tin mẹ tôi bịnh nặng. Rồi Sư lại kể về tâm trạng của người con, không được ở bên mẹ vào giây phút cuối. Ôi, trang sách là của Sư, mà nỗi lòng là của người dịch, nên nước mắt tôi cũng ướt dầm.

Xin chân thành cảm ơn Sư Gunaratana đã bỏ qua những áy náy ban đầu để hoàn thành quyển tự truyện này. Gấp sách lại, người đọc không hề thấy niềm tin của mình bị lay động bởi những điều không hay được kể trong sách, mà đọng lại là một tấm gương sáng quyết tâm tu hành của một bậc chân tu. Và càng thấy gần gủi, thông cảm, yêu kính hơn những vị tu sĩ mình vẫn gặp hàng ngày.

Mong là bạn cũng được nhiều niềm vui khi đọc quyển Tự truyện này. Xin hồi hướng công đức dịch thuật đến tất cả mọi chúng sanh, đến cha mẹ đã quá cố của tôi. Đặc biệt xin cảm ơn chị tôi, Chơn Đăng Lý Thu Lan, vì đã gánh vác hết mọi việc thời gian mẹ tôi nằm bịnh, để tôi có thể hoàn tất việc dịch quyển sách này. Chắc chắn là bản dịch vẫn còn nhiều thiếu sót. Mong nhận được những sự chỉ giáo của các bậc tôn sư, quý đạo hữu và độc giả, để những lần tái bản sau được hoàn chỉnh hơn.


Diệu Liên Lý Thu Linh

#313 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/07/2011 - 11:59

HÀNH TRÌNH ĐẾN CHÁNH NIỆM

Chương Một

Kho Báu Nhỏ

Tôi sinh ngày bảy tháng mười hai, 1927, ở Henepola, thuộc Ceylon. Ceylon, giờ được gọi là Tích Lan (Sri Lanka), là một hòn đảo có hình dạng giống như một giọt nước ở bờ biển phía Đông Nam của Ấn Độ. Đó là một nơi rất đẹp với những ngọn núi phủ đầy cây xanh mượt, những đồng lúa và những đồn điền cao su cũng như trà.

Vào thời kỳ cuối của những năm 1920, ngôi làng bé nhỏ Henepola là chốn định cư của khoảng bốn mươi gia đình. Không có đường vào làng, không trường học, đồn cảnh sát, bưu điện, tiệm ăn hay quán xá. Tất cả chỉ có những mái nhà tranh xúm xít bên nhau, và cạnh đó là một ngôi chùa Phật giáo, nơi công cộng duy nhất mà dân làng tôi có thể tụ họp lại.

Không có ai ở Henepola có điện hay nước máy, nhưng có một dòng sông nhỏ chảy qua làng. Đến thành phố gần nhất cũng phải đi bộ khoảng ba dặm,trên một con đường đất hẹp uốn quanh những rặng cây dừa, những đồn điền trà, và đến một ngôi làng gần nhất cũng phải đi gần một cây số.

Người dân xứ tôi chỉ cần nghe pháp danh của tôi, Henepola Gunaratana, thì họ cũng biết nơi tôi được sinh ra. Theo phong tục của người Sinhala thì lúc xuất gia vị tu sĩ sẽ nhận một tên mới: tên họ thì có ý nghĩa về tâm linh, và tên gọi là nơi sinh của người ấy.

Khi tôi còn là một đứa trẻ, Ceylon là một thuộc địa của Anh, nổi tiếng về trà, cao su, gia vị, đá quí, cũng như về vị trí chiến lược của nó trên con đường tơ lụa giữa Âu châu và Trung Quốc. Phần lớn một triệu rưởi dân số là nông dân, và gia đình tôi cũng không ngoại lệ.

Chúng tôi trồng lúa, dừa, cà phê, và những loại cây trồng khác trên những mảnh đất nhỏ, đôi khi là của chúng tôi, đôi khi là mướn từ nhà nước Anh. Gần như tất cả mọi người trong làng của tôi đều nghèo, nghèo quá sức. Nhưng niềm tin vào nền Phật giáo Nguyên thuỷ đã tạo cho chúng tôi sự tự tin vào cuộc sống, mà không gì có thể lay chuyển được.

Theo nghiệp, định luật của nhân quả, những hoàn cảnh hiện tại là kết quả của những hành động trong quá khứ. Quan trọng hơn, những hoàn cảnh trong tương lai sẽ là kết quả của những hành động của chúng ta trong hiện tại. Do đó, chúng tôi đã tin rằng tốt hơn hết là cố gắng hết sức và tiếp tục sống, bất chấp những khó khăn trong cuộc sống.

Thực ra, trong những ký ức xa xưa nhất của tôi tràn đầy dấu ấn Phật giáo. Nơi nương tựa của cả làng là ngôi chùa. Người ta đến đó để viếng thăm các vị sư, thỉnh họ tụng kinh hay tham vấn về Phật Pháp, gần như cho tất cả mọi sự kiện: đám cưới, sinh nhật, đau bịnh, và tang chế.

Quý sư là người thầy, là giảng sư hay nhà tư vấn, và đôi khi còn là y sĩ nữa. Dân làng cũng rất thích trao đổi thân mật với các sư vào bất cứ giờ nào trong ngày hay đêm. Chùa luôn mở cửa. Một tháng bốn lần, vào ngày mười bốn, ngày rằm, ngày ba mươi và ngày mùng một, dân làng thường lên chùa ở cả ngày. Hình thức khá dễ dãi. Có người tọa thiền; người đi kinh hành hoặc đứng bên cây bồ đề linh thiêng đọc kinh.

Quý sư và các cư sĩ thay phiên nhau thuyết giảng trong giảng đường, nơi người ta có thể ngồi hay nằm trên nền nhà mát lạnh. Tôi còn nhớ lúc nhỏ, tôi thường thiếp ngủ trong lòng mẹ trong những thời giảng này.

Mẹ tôi tên là Herat Mudiyanselage Lokumenike. Tên gọi và tên lót của bà có nghĩa là “người thuộc về giai cấp cao nhất (hay giai cấp vàng), và tên họ của bà có nghĩa là "viên ngọc lớn". Ở Ceylon vào thời đó, phụ nữ vẫn giữ tên thời con gái của mình khi lập gia đình.

Ba tôi tên là Ekanayaka Mudiyanselage Puncibanda. Tên gọi và tên lót của ông có thể dịch là "một người thuộc giai cấp thượng lưu" và tên họ của ông có nghĩa "kho báu". Chỉ là một sự trùng hợp khi tên lót của mẹ tôi lấy theo tên ông ngoại tôi, thì cũng giống như tên lót của cha tôi.

Tôi là áp út trong bảy người con. Năm ba mươi bảy tuổi, mẹ sinh tôi. Tôi có hai người anh và ba người chị. Một chị lớn hơn tôi nhiều; chị đã lập gia đình và ra riêng trước cả khi tôi được sinh ra. Hai em gái được sinh sau tôi, nhưng một đã chết lúc sơ sinh.

Có một bà mụ đỡ khi tôi được sinh ra, bà đã được thưởng một số gạo và dừa cho công sức của bà. Tôi đã đến với cuộc đời này trong một căn lều với ánh sáng lờ mờ và không có cửa sổ. Trong khi chuyển bụng, mẹ tôi lúc thì ngồi chồm hổm, khi thì nằm trên chiếc chiếu làm bằng lá cây dương xỉ được trải trên sàn nhà.

Theo tục lệ, bà mụ đã cột một sợi dây trên xà nhà, thả dài xuống đến chiếu của mẹ để bà có thể nắm lấy nó khi cơn đau trở nên không chịu đựng nổi. Bà đã sanh tất cả tám đứa con như thế đó. Sau hai tuần, khi tôi có vẻ đủ khỏe mạnh để sống sót, cha tôi đến viếng trưởng làng ở một làng bên cạnh.

Tất cả chuyện sinh nở hay tang ma đều phải trình báo một cách chính thức với trưởng làng ở địa phương, nhưng vì Henepola quá nhỏ nên không có trưởng làng riêng, vì thế cha tôi phải đi bộ gần cây số để đến ngôi làng gần nhất, Dehideniya. Ở đó ông thông báo cho vị trưởng làng tên mà ông đã đặt cho người con trai thứ ba của ông: Ekanayaka Mudiyanselage Ukkubanda.

Ukku có nghĩa là nhỏ và banda có nghĩa là kho báu. Đó là một cái tên rất dễ thương, mà người lớn thường dùng để âu yếm gọi một đứa bé. Thường là cái tên, dầu nó được dùng cho một đứa bé, cũng sẽ theo nó cho đến lúc trưởng thành.

Tuy nhiên, khi tôi lớn hơn, cha mẹ tôi quyết định gọi tôi là Kudabanda, đại khái có nghĩa là "cậu bé tí". Tôi nghĩ cũng có lý, vì tôi là con trai út trong gia đình. Nhưng tôi cũng chẳng bao giờ hỏi tại sao họ lại gọi tôi như thế, thay vì cái tên chính thức của tôi.

Căn nhà của chúng tôi là do chính ba tôi tự xây. Chiều ngang ba mươi, chiều dài bốn mươi phít (ND: một Foot Anh = 0,3048 mét). Mái làm bằng rơm, cọng lá dừa khô, và các mảnh thiếc. Tường bằng bùn được chắn thêm những cây tre cho chắc. Phía trước và sau nhà là một khoảng hiên trống, phân nửa dưới là vách bùn, nửa trên là rào gỗ.

So sánh với nhiều ngôi nhà tranh trong làng, thì nhà tôi rất rộng. Có đến hai phòng. Một là nhà bếp nhỏ, tối tăm; phòng kia là nhà kho để chứa giấy tờ, sách báo và dụng cụ của cha tôi. Đồ đạc không có gì nhiều, và tất cả đều làm bằng tay, gồm có vài ghế đẩu nhỏ, đóng sơ sài, và một cái ghế được đan bằng những cọng lát.

Tôi nhớ cha tôi sau mỗi bữa ăn, ngồi đĩnh đạc trong chiếc ghế đó, hút thuốc hay nhai trầu cùng lúc kể chuyện, hay rầy dạy chúng tôi. Mẹ tôi ngồi trên một chiếc ghế đẩu, không bao giờ ngồi trên ghế của cha tôi. Lũ trẻ chúng tôi thì ngồi trên sàn nhà.

Sàn nhà được làm bằng bùn, giống như tường, nhưng thỉnh thoảng mẹ và các chị em gái tôi lại trét phân bò tươi lên đó, bằng những đôi tay trần của họ. Phân bò được coi là có thể sát trùng, mùi của nó đem lại sự sảng khoái. Chúng tôi hàng ngày vẫn đi chân không trên sàn nhà đó.

Chỉ có hai cái giường, mỗi cái là một bục gỗ thô, trên phủ những bao vải nhồi vỏ dừa khô. Những "tấm nệm" này chỉ mềm hơn đá một chút. Người anh lớn nhất của tôi, Tikiribanda, ngủ trên giường, ở hiên trước.

Anh kế tôi và tôi ngủ gần bên, trên sàn nhà. Chiếc giường còn lại, ở hiên sau, là của cha tôi. Chẳng bao giờ dù chỉ một lần, tôi thấy mẹ tôi nằm trong giường đó với cha; bà ngủ trên sàn với các chị em gái của tôi. Tôi cũng chẳng bao giờ thấy cha mẹ tôi âu yếm hay hôn nhau, hay ngay cả có một cuộc chuyện trò riêng tư nào.

Dầu vậy, cha mẹ chúng tôi chia sẻ một lòng tin sâu sắc vào Phật giáo. Mỗi sáng lũ trẻ chúng tôi đều thức dậy bởi tiếng tụng kinh Pali của họ. Những bài kinh tụng hàng ngày cũng là những bài hát ru của chúng tôi vào ban đêm. Ngay trước khi học đánh vần, chúng tôi đã có thể đọc thuộc lòng các đoạn kinh cầu nguyện tiếng Pali, và chúng tôi đã hiểu những chữ như kamma (nghiệp) và rebirth (tái sinh) có nghĩa là gì.

Ngày này qua ngày khác cha mẹ chúng tôi làm các công việc độ nhật của họ không chút phàn nàn. Mỗi sáng cha tôi đều ra làm việc ngoài ruộng lúa hay ở khu vườn cao su nhỏ của chúng tôi. Mẹ tôi ở nhà, chăm lo nhà cửa và con cái. Khi cha tôi trở về, bà đã dọn sẵn cơm nước cho ông.

Cả cha lẫn mẹ tôi đều biết đọc và viết tiếng Sinhala, là điều hiếm có trong làng cũng như ở phần lớn những vùng quê của Ceylon. Vì cha tôi có học, và được biết đến như một người có phẩm cách, đạo đức nghiêm chỉnh, ông là người được kính trọng nhất ở Henepola.

Những người dân làng khác thường tìm đến ông để nhờ giải quyết những cuộc tranh cãi của họ. Tuy nhiên, trong chính gia đình của mình, thì cha tôi có thể là một hung thần. Đôi khi bỗng dưng ông kiếm chuyện cãi cọ với mẹ tôi, mà tôi chẳng bao giờ hiểu tại sao.

Và ông thường biểu lộ tính khí của mình một cách bạo động. Hình phạt cho những đứa trẻ chúng tôi thì rất đau đớn, quyết liệt, đôi khi ông còn đánh cả mẹ tôi. Khi điều đó xảy ra, tất cả chúng tôi đều lẩn trốn. Chúng tôi sợ rằng nếu hó hé, ông sẽ trút cơn giận lên chúng tôi.

Mẹ tôi chẳng được đi học chính thức, nhưng bà rất thông minh. Bà tự học đọc và viết, và bà biết rất nhiều về các cây thảo dược. Khả năng trực giác của bà rất nhạy bén.

Tôi rất thân với người chị lớn nhất của mình, Dingiriamma. Khi tôi khoảng hai tuổi, thì chị sanh đứa con thứ hai, một bé gái nhưng nó chết vài tuần sau đó. Dầu đã bắt đầu ăn được thức ăn bình thường, tôi vẫn còn rất thích uống sữa, nhưng gia đình chúng tôi không có bò, và sữa của mẹ tôi thì đã dứt lâu rồi.

Vì thế gần cả năm sau khi em bé của chị chết, Dingiriamma vẫn cho tôi bú sữa, giống như tôi là con của chị. Chị và chồng sống trong một làng gọi là Gunadaha, cách chúng tôi khoảng ba dặm, và mỗi tuần, đôi ba lần chị đi bộ đến nhà chúng tôi để cho tôi bú.

Cho đến ngày nay, tôi vẫn coi chị như người mẹ thứ hai của mình. Có lẽ chúng tôi thân với nhau hơn là với tất cả năm người anh chị em còn lại. Mẹ và các chị em gái tôi có nhiệm vụ đi lượm củi để nấu ăn. Trong một nơi mà phần lớn chỉ có cây dừa và cây ca cao (cocoa), thì củi rất hiếm. Thường họ phải bẻ những cành cây cao su khô.

Vì không có điện, chúng tôi phải dựa vào ánh sáng lù mù của mấy cây đèn dầu dừa. Đôi khi chúng tôi cũng không có đủ dầu đốt đèn, mẹ tôi phải đốt đuốc từ những hạt cây kekuna. Bà bóc lớp vỏ cứng của khoảng mười hay mười lăm hạt và rồi xâu chúng lên một que củi. Lớp dầu tự nhiên trong các hạt này sẽ cháy hàng giờ.

Dầu làng chúng tôi không có nước máy, nhưng gia đình tôi khá may mắn có được một cái giếng riêng, cách nhà khoảng hai trăm thước. Nước từ một dòng suối chảy vào giếng quanh năm. Dầu giếng chỉ sâu khoảng một thước rưỡi, nhưng có chiều dài khoảng hai thước, chiều ngang hơn một thước hai. Chúng tôi dùng nước này để ăn uống, tắm và giặt giũ quần áo.

Mẹ và các chị em gái tôi hứng nước suối đem về nhà trong những bình đất lớn, bụng bình tròn to và miệng bình nhỏ. Tôi vẫn nhớ nước chứa trong những bình này mới mát lạnh làm sao!

Để tắm giặt, chúng tôi dùng những chiếc thùng thô sơ, làm bằng sợi của những tàu cây cau, đôi khi dài đến một thước rưỡi, ngang gần cả thước. Chúng tôi bện chúng thành hình dạng như cái thùng, có thể chứa mười hai, mười ba lít nước trong đó.

Dầu chúng tôi giữ gìn thân thể, quần áo và chăn nệm sạch sẽ đến đâu, chúng tôi vẫn phải khổ sở với những con rận giường. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ đã gãi đến sưng tấy, đỏ mẩn những chỗ mà mấy con rận giường đã cắn trên người tôi. Dầu sự ngứa ngáy rất kinh khủng, tôi chẳng bao giờ mong muốn điều gì hơn; đó chỉ là một phần của cuộc sống.

Ruồi và muỗi cũng đầy, nhưng chúng tôi có thể trị chúng bằng cách đốt các vỏ dừa. Tuy nhiên với rận giường thì khác, gần như không có cách chi để diệt được chúng. Chúng khó thấy, lại trốn trong những tấm nệm vỏ dừa. Dầu chúng tôi vẫn thường giặt mấy tấm nệm này, rồi phơi ngoài nắng, nhưng rận giường luôn có mặt.

Có người dời những tấm nệm của họ xa ra khỏi vách nhà, hay đặt những ống thiếc nhỏ chứa dầu dưới mỗi chân giường, nhưng rận giường vẫn không chịu thua. Nếu chúng không thể trèo lên từ chân giường, chúng sẽ bò lên vách, rồi từ trần nhà thả mình xuống như những chàng phi công cảm tử tí hon.

Đỉa cũng là một vấn đề. Bất cứ khi nào anh tôi và tôi đi đâu đó, chúng tôi luôn trở về nhà với những con đỉa bám vào chân, hay các kẽ chân của chúng tôi. Chúng tôi rứt chúng ra, nhưng thường những chiếc răng nhỏ xíu của chúng đã dính cứng trong da thịt chúng tôi. Vài ngày sau đó những nơi đỉa cắn sẽ biến thành những vết thương lở lói.

Đôi khi mấy con ruồi xanh lại đẻ trứng vào đó. Trứng sẽ nở thành giòi, làm cho các vết thương thêm tồi tệ. Có thể vì thiếu dinh dưỡng, cơ thể tôi không đủ sức để chống lại mấy con vi trùng trong các vết thương đó, nên chúng rất chậm lành và đau đớn. Tôi vẫn còn nhiều vết thẹo trên chân.

Cha tôi được thừa hưởng khoảng vài công đất: một công vườn cao su, nửa công vườn trà, và một công ruộng, còn một công đất trống thì ông xây nhà trên đó. Ngoài việc làm ruộng, trồng trà và cao su, cha tôi còn thích chăm nom vườn tược.

Ở khoảng đất trống quanh nhà, ông trồng hoa giấy và bông bụt. Kế bên nhà, ông làm một hàng rào hoa lài và hoa hồng, mà ông khéo cắt tỉa với một con dao thật to. Ông cũng trồng một số hoa mầu đem huê lợi như: khoai lang tây, khoai mì, đậu, cà, đậu bắp, khổ qua, bắp cải và cà phê. Tuy nhiên, với bao nhiêu hoa mầu được trồng đó, dường như cũng chẳng bao giờ đủ cho tất cả chúng tôi.

Bên cạnh những tài sản trên, chúng tôi còn có hai con trâu nước, mà cha tôi dùng để kéo cày ngoài ruộng. Cũng may là chúng tôi không phải nuôi trâu bằng các hoa mầu trong vườn hay ngoài đồng; chúng ăn cỏ hay các vỏ mít đầy gai người ta vứt bỏ.

Cha tôi dùng hoa mầu để đổi lấy cá khô, gia vị, đường, muối, dầu đèn, và những thứ khác mà chúng tôi không thể trồng hay tự làm. Trong những cuộc trao đổi như vậy, ông phải đi bộ khoảng bốn cây số tới một thành phố gọi là Galagedara, nơi có nhiều tiệm buôn bán do người Hồi giáo và Tamil Ân Độ làm chủ. Thường ông cũng không tìm được đủ các thứ ông cần; tất cả dường như đều thiếu hàng hóa.

Để nuôi bảy đứa trẻ luôn đói khát, cha tôi còn làm thêm hàng mộc cho mấy người hàng xóm. Tiếc là, những người này cũng ít khi đủ sức để trả công ông. Có thể là những nỗi lo về tài chính luôn canh cánh trong lòng đã khiến ông trở nên rất cục cằn.

Ông là người chấp hành nguyên tắc rất khắt khe. Ông giấu một cây roi trên trần nhà và thường dùng nó để trừng trị chúng tôi rất nặng trong chớp mắt, vì bất cứ lỗi lầm nhỏ nhặt nào. Tiếng la mắng của ông làm chúng tôi sợ đến run bắn người lên mỗi khi nghe.

Anh tôi, Rambanda, và tôi rất quen thuộc với sự la rầy nầy cũng như là cây roi, vì chúng tôi cũng khá quậy phá. Một trong những trò tinh nghịch tai hại nhất của chúng tôi là chọi đá chim và bò. Một ngày kia chúng tôi gặp một con chó mẹ với bầy chó con.

Anh tôi lượm một nắm tay đầy đá, rồi bảo tôi trèo lên một cây gần đó. Anh dự định là sẽ chọc phá con chó trong khi chúng tôi đã trèo lên cây an ổn. Tôi nói với Rambanda rằng cây cao quá, rằng tôi quá nhỏ không trèo lên được.

- Đừng, đừng làm vậy.

Tôi nài nỉ:

- Nó sẽ cắn em.

Nhưng anh rất bướng bỉnh. Anh phóng mình lên cây rồi bắt đầu ném đá loạn xạ vào con chó. Tôi chạy thục mạng với tất cả sức lực của mình, nhưng con chó còn nhanh hơn. Tôi té ngã và nó nhào tới cắn tôi. Khi anh và tôi về đến nhà, chúng tôi phải giải thích tại sao tôi bị thương. Cha đã đánh cả hai vì tội ác độc với con chó.

Rambanda và tôi hình như lúc nào cũng đói khát. Các loại trái hay hạt ăn được, mà chúng tôi tìm thấy khi đi chơi là những niềm vui lớn. Nếu chúng được trồng trên đất của người khác, chúng tôi sẽ xin phép người chủ. Nếu họ không cho, chúng tôi vẫn hái.

Một ngày kia anh tôi và tôi trên đường đến vườn cao su của gia đình. Giữa đường, chúng tôi đi qua một khu vườn nhỏ của một gia đình nghèo hơn chúng tôi. Có khoảng năm mươi cây bắp trồng trên khu đất. Một cây gần đường có trái bắp chín treo lơ lửng. Anh tôi nhìn quanh không thấy ai, nên anh hái trái bắp, bẻ ra làm hai. Một phần cho anh, một cho tôi: Thiệt là ngon!

Trên đường về, chúng tôi lại đi ngang qua vườn bắp. Lần này, vì một lý do nào đó, chúng tôi quyết định phải tỏ ra thật thà. Anh tôi vào nhà người chủ vườn và xin phép bà được hái một trái bắp. Bà chủ nói chúng tôi có thể hái trái bắp ngay cạnh bên đường.

Bà ra vườn để chỉ cho chúng tôi trái bắp ở đâu, nhưng khi ra đó, bà thấy rằng trái bắp bà định cho chúng tôi đã biến mất. Rồi bà để ý thấy những vết chân nhỏ trong bùn. Bà bảo anh tôi đặt chân vào đó. Anh tôi đặt vào, và đúng là dấu chân anh.

Rõ ràng là chúng tôi phạm lỗi nhưng người đàn bà không tỏ vẻ gì giận. Bà nói:

- Hai đứa về nhà đi. Tôi sẽ mang thêm bắp qua cho.

Chúng tôi vui vẻ ra về. Tuy nhiên khi chúng tôi về đến nhà, người đàn bà đã có mặt ở đó. Bà đã kể cho cha tôi nghe tất cả câu chuyện và ông đang đợi chúng tôi, với cây roi trong tay, giận dữ hơn lúc nào hết.

Đó là một hành động xấu, thật xấu. Không chỉ là chúng tôi đã phạm giới luật của Phật là không được ăn cắp, mà chúng tôi còn ăn cắp của một gia đình thấp kém, không dư dả.

Cha tôi đánh cho đến khi lưng chúng tôi bắt đầu rướm máu. Mẹ tôi cố ngăn ông lại nhưng ông cứ tiếp tục đánh. Ngay chính người đàn bà, nạn nhân của tội lỗi của chúng tôi, cũng năn nỉ ông dừng lại. Mọi người đều khóc, nhưng cha tôi không muốn nghe ai. Ông đánh chúng tôi cho đến lúc ông kiệt sức, không thể đánh tiếp nữa.

Ngày nay, dĩ nhiên việc đó sẽ bị coi là hành hạ trẻ em. Nhưng bảy mươi năm về trước ở Ceylon, chỉ là một chuyện bình thường khi cha mẹ trừng phạt con cái bằng cách đánh chúng. Là một Phật tử tín tâm, cha tôi quyết dạy chúng tôi biết điều sai trái, và phương cách của ông chỉ là làm theo những gì thế hệ của ông, và phong tục thời đó cho phép. Thật sự, tôi không trách ông về điều đó.

Lúc nhỏ, tôi thường mặc áo chemise dài bằng vải cô tông (cotton) thô, có sọc xanh, sọc đỏ, và phủ đến gối. Đó là loại quần áo các em bé trai và gái thường mặc. Năm mười một tuổi, tôi bắt đầu mặc những bộ đồ có hai mảnh: một áo chemise thông thường và một cái xà rong giống như một cái váy.

Suốt thời thơ ấu, tôi chẳng bao giờ mang giày, ngay cả dép cũng không; vì những thứ này rất đắt tiền. Mấy đứa trẻ chúng tôi phải rất cẩn thận với quần áo của mình, vì chúng tôi chỉ được một bộ đồ mới vào mỗi đầu năm, mà người Ceylon tổ chức vào giữa tháng tư.

Các anh em chúng tôi cũng không có đồ chơi gì. Chúng tôi chơi với mấy que củi, những bẹ dừa khô, vỏ dừa, và những sợi dây cọ xơ xác đã bị người ta vứt bỏ. Sân chơi của chúng tôi là bãi đất cát trước nhà, ngoài ruộng lúa, hay sân đập lúa, nơi các nông dân suốt lúa khỏi nhánh. Tôi cũng thích trèo cây và đi dạo trong rừng.

Một lần khi tôi ra ngoài đi dạo và khám phá ra một lều gỗ cũ trong rừng. Tôi tìm vài sợi dây, quăng lên xà của căn lều, để làm cái đu. Tôi vui vẻ được khoảng ba mươi giây. Rồi ngay khi tôi bắt đầu đong đưa, cái xà nứt rạn, gẫy làm đôi, rớt xuống đầu tôi. Lúc đầu, tôi không có cảm giác gì, sau đó, một dòng nước ấm bắt đầu chảy xuống trán và mặt tôi.

Tôi loạng choạng bước ra ngoài, tìm được một lá cây cau trên mặt đất. Tôi dán chặt nó lên đầu, nghĩ rằng bằng cách nào đó tôi phải chặn máu lại. Mẹ tôi, người dường như có giác quan thứ sáu luôn biết khi nào tôi gặp nạn, đã nhanh chóng tìm ra tôi. Bà đem tôi về nhà, cẩn thận rửa vết thương và dán lên đó một trong những loại thảo dược của bà.

Buổi chiều, các anh chị em tôi thường chơi trốn tìm cho đến giờ ăn, thường là khoảng chín giờ tối. Ngay sau bữa ăn, chúng tôi ngủ thiếp đi trên sàn nhà trống, không có gối hay mền. Không có những chuyện như là đánh răng hay tắm rửa trước khi đi ngủ. Để dỗ ngủ chúng tôi, mẹ thường kể những câu chuyện rất hay, đôi khi là chuyện cổ tích dân gian, đôi khi là chuyện tiền thân của Đức Phật trong nhiều kiếp.

Lúc còn nhỏ, một trong những câu chuyện tiền thân của Đức Phật mà tôi thích nhất là về Sasa, một con thỏ tốt bụng đã nhảy vào lửa hy sinh thân mạng để cứu một ông lão đói nghèo, không có gì để ăn. Tôi nghĩ là tôi đã thích câu chuyện đó vì tôi thường ngắm trăng tròn, và thấy những hình ảnh trên đó giống như một con thỏ.

Tôi mơ mộng rằng mình cũng có thể tốt bụng như thế, để được lên mặt trăng, nơi tôi có thể ngồi bên cạnh con thỏ đó và nhìn xuống mặt đất. Cha mẹ tôi luôn kể rằng Đức Phật rất hiền lành tử tế, giống như ánh sáng mặt trăng chiếu soi trên tất cả mọi người, không phân biệt.

Vì thế khi tôi nghĩ đến mặt trăng, tôi nghĩ đến con thỏ trên mặt trăng, đến Sasa, con thỏ độ lượng và đến Đức Phật, cả ba quyện lẫn vào nhau trong tâm trí tôi. Thật là oái ăm; trong khi tôi thích câu chuyện về con thỏ độ lượng, thì bản thân tôi thật sự lại rất tham lam, nhất là tham ăn.

Tôi luôn giấu đồ ăn của mình, sợ người khác giành ăn. Nếu có ai nhìn vào dĩa của tôi, tôi sẽ nổi giận và hất nó xuống đất. Một hành động rồ dại, dĩ nhiên rồi, vì thức ăn quá quí hiếm để tôi hoang phí như thế. Nhưng tôi là người có tính khí nóng nảy, có lẽ giống như cha tôi, và tôi cũng không thể kiềm chế được nó giỏi gì hơn ông.

Đôi khi các anh chị tôi nhìn chăm bẩm vào dĩa đồ ăn của tôi chỉ để chọc giận tôi. Một lần, khi điều đó xảy ra, tôi giận đến nỗi tôi vứt dĩa đồ ăn ra cửa. Cha đánh cho tôi một trận rồi bắt tôi đi lượm dĩa lên, và dĩ nhiên là bữa đó tôi không được ăn thứ gì.

Một ngày, người chị thứ ba, lớn hơn tôi bốn tuổi, lấy một chiếc đũa, vẽ hình một trái bí lên đất. Tôi lấy chiếc đũa khác, xoá đi. Chị giận quá lấy chổi đánh tôi. Tôi chụp cái ghế đẩu, rượt chị chạy khắp nhà, rồi chọi cái ghế vào người chị. Cái ghế trúng ngón chân cái của chị, làm tét móng. Máu tuôn ra, và chị lập tức gào khóc.

Khi mẹ tôi nghe tiếng, bà lẹ làng chạy vào giúp chị, còn tôi chạy ra ngoài. Tôi nhớ đó là lần đầu tiên tôi đã làm một điều không phải, đối với một trong những anh chị em của mình. Lúc đó tôi khoảng bảy, tám tuổi. Cũng may, lúc đó cha tôi không có mặt ở nhà, và cả mẹ và chị tôi đều không dám kể cho ông nghe điều gì đã thực sự xảy ra.

Tôi đoán là giống như tôi, họ cũng sợ cha nổi trận lôi đình. Họ chỉ cho ông biết ngón chân băng bó của chị tôi là do tai nạn xảy ra. Khoảng thời thơ ấu của tôi, trong làng không có xe hơi, ngay cả xe đạp cũng không có; cuốc bộ là phương tiện di chuyển độc nhất.

Để ra được đường lộ, chúng tôi phải đi bộ khoảng ba cây số xuống một ngọn đồi dốc, hay khoảng năm cây số đường bằng theo một hướng khác. Khi có ai bệnh nặng, không thể đi bộ, họ được buộc vào một cái ghế hay một mảnh ván và được khiêng đi gần năm cây số, để đến bệnh viện gần nhất ở Galagedara.

Năm 1933, khi tôi được năm tuổi, một trận dịch tả đã tràn lan khắp Ceylon. Cả gia đình tôi đều bị bệnh, lúc nhẹ lúc nặng, suốt ba năm trời. Chính phủ Anh đã phát thuốc ký ninh (quinine), cũng như phát chẩn gạo và các loại nhu yếu phẩm khác, vì không ai đủ sức để làm việc.

Tuy nhiên, có điều khó là: mỗi tuần chúng tôi phải đi bộ khoảng năm cây số để lãnh phần của mình. Chúng tôi thay phiên nhau đi; người nào ít bệnh nhất sẽ đi. Tôi còn nhớ phải đi bộ năm cây số đó khi đang lên cơn sốt cao, chỉ để được có thức ăn và thuốc men.

Tôi nhớ lại hai trường hợp cấp cứu khác. Đó là khi tôi khoảng tám, chín tuổi, tự nhiên tôi bị mất thị lực vào ban đêm, có thể do thiếu dinh dưỡng. Khi trời tối, tôi giống như người mù. Tôi không thể thấy gì cả, dầu có ánh sáng từ ngọn đèn dầu.

Các anh chị trêu ghẹo tôi về điều đó, vì họ cho rằng tôi giả bộ, nhưng mẹ tôi rất lo lắng. Bà hỏi thăm thầy lang trong làng; ông cho bà một loại thuốc đắng đem về cho tôi. Đó là một loại thảo dược, nhưng ông không cho bà biết tên loại cây. Nhiều người tin rằng các loại thảo dược có những sức mạnh huyền bí, và các thành phần của chúng thường được giữ bí mật.

Mẹ tôi phải xay thuốc nhuyễn ra, rồi cho tôi uống mỗi ngày, cho đến khi thị lực của tôi khá hơn. Thuốc đắng khủng khiếp, đau khổ hơn nữa là tôi còn phải uống vào sáng sớm, khi bụng đói.

Để tôi phải uống thuốc, mẹ tôi đã dùng đến sức mạnh của tình thương. Trước khi mọi người khác trong nhà thức dậy, bà sẽ bồng tôi đặt trên đùi. Bà ôm tôi, hôn tôi, thầm thì kể chuyện cho tôi nghe. Sau vài phút tôi cảm thấy dễ chịu, hạnh phúc đến nỗi tôi sẽ làm bất cứ điều gì bà yêu cầu.

Đó là lúc bà sẽ bỏ thuốc vào miệng tôi và bảo tôi nuốt nhanh. Bà luôn trộn phần thuốc đắng đó với đường, vậy mà nó vẫn không bớt đắng. Nghi thức đó diễn ra mỗi ngày, sau vài tháng tôi hoàn toàn phục hồi thị lực.

Đến giờ, nhiều năm sau, tôi mới hiểu được sức mạnh của metta hay lòng từ bi. Phần nào đó, nó giúp chúng ta chịu đựng được những cay đắng của cuộc đời. Nó xoa dịu những khó khăn, thất vọng, đau đớn.

Đức Phật cũng đã dùng sức mạnh của từ bi để "chiến thắng" bao kẻ thù. Ngài còn khuyên các vị sư sống trong rừng, phải sử dụng tâm từ bi khi đối mặt với những con rắn độc. Và kinh Từ Bi là một trong những bài kinh tuyệt vời nhất của Đức Phật.

Đó là một bài kinh rất ngắn, nhưng là một trong những bài kinh mà quý sư thường tụng đọc ở các buổi lễ. Kinh chỉ bày cho ta cách suy nghĩ và hành động, để có thể mang lại hạnh phúc cho chính bản thân người thực hành, và cho tất cả mọi người ở quanh họ.

Đức Phật đã dạy rằng thực hành từ bi là một hành động đáng tán thán. Do đó khi phát triển những tư tưởng về lòng từ bi, chúng ta thật an lạc, cảm nhận được một niềm hạnh phúc sâu xa từ việc tạo được công đức. Đó là cảm giác của sự thanh tịnh.

Bất cứ khi nào tôi khuyên người ta thực hành tâm từ bi một cách nghiêm chỉnh, tôi đều dạy họ lặp lại những câu sau đây:

Nguyện cho bạn được khoẻ mạnh, hạnh phúc, và bình an.

Nguyện không có điều rủi ro nào xảy đến cho bạn.

Nguyện không có những khó khăn nào đến với bạn.

Nguyện cho bạn không bị não phiền.

Nguyện cho bạn luôn được thành công.

Nguyện cho bạn có lòng can đảm, kiên nhẫn, hiểu biết, và quyết tâm để đương đầu và chế ngự những khó khăn, những phiền não, và thất bại không thể tránh khỏi trong cuộc sống.

Người đầu tiên mà chúng ta nên hướng tâm từ đến là bản thân chúng ta:

Nguyện cho tôi được khoẻ mạnh, hạnh phúc, và bình an.

Nguyện không có điều rủi ro nào xảy đến cho tôi.

Nguyện không có những khó khăn nào đến với tôi...

Tại sao lại bắt đầu với bản thân? Có người hỏi. Như thế không phải là ích kỷ lắm sao? Thương yêu bản thân trước tất cả mọi người sao? Không hẳn là vậy. Hướng tâm từ bi đến bản thân chúng ta là việc dễ làm nhất, vì giữa muôn loại chúng sanh trên trái đất nầy, chúng ta yêu bản thân mình nhất. (Thì phần lớn chúng ta là thế!)

Vì thế chúng ta có thể dễ dàng phát khởi những tình cảm thương yêu ấm áp đến với bản thân. Chúng ta có thể tắm đẫm trong đó, chan hoà thân tâm trong đó. Rồi khi tình thương yêu đã tràn đầy trong ta, tự nhiên nó sẽ lan tỏa sang người khác. Chúng ta có dư thừa để chia sẻ.

Và chúng ta làm thế với nhóm người kế tiếp, thích hợp nhất là: những người ở gần và thân thiết với ta. Như vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị em, bà con quyến thuộc, bạn bè thân thiết, hoặc có thể là người hướng dẫn tâm linh. Chúng ta tưởng nghĩ đến họ trong tâm mình, và lặp lại những lời nguyện cầu, mà họ là đối tượng thọ hưởng tâm từ của chúng ta.

Nhóm kế tiếp thì rộng lớn nhất. Bao gồm tất cả những người mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày, nhưng không thân thiết. Những người quen biết qua đường, đôi khi hoàn toàn xa lạ, những người đến và đi qua cuộc đời chúng ta.

Bạn học, đồng nghiệp, hàng xóm, người bán hàng, người ngồi trên xe đậu kế bên ta ở một ngã tư, một chú chó đáng yêu, người chạy lướt qua bạn trên đường. Chúng ta trải rộng tình thương yêu đến tất cả những chúng sanh nầy, người hay vật, và đều cầu nguyện cho họ được tốt đẹp.

Nhóm cuối cùng thì có thể là một nhóm nhỏ, hy vọng thế. Bao gồm những kẻ thù của ta, những người xuất hiện để gây khó khăn cho cuộc đời ta, mà ta nói một cách lịch sự là "thử thách" chúng ta. Đó là những đối tượng mà sự thực hành tâm từ bi trở nên rất khó khăn đối với nhiều người.

Cầu nguyện điều tốt lành cho kẻ thù của ta được sao? Mong cho họ được thành công, khi họ cũng muốn chức vị mà bạn đang hướng tới? Dành cho họ những ý nghĩ thân thiện khi họ vừa hiếp đáp con bạn, hay vừa chạy xe lấn lướt bạn?

Đúng vậy, Đức Phật dạy. Và đây là lý do tại sao: Nếu chúng ta cầu mong cho người đó được tốt đẹp, hy vọng rằng anh ta được thành công, có thể là anh ta sẽ phát triển tâm linh. Đó là thứ thành công mà chúng ta mong cầu cho người đó, sự thành công về tâm linh.

Và nếu anh ta tiến bộ về mặt tâm linh, có thể anh ta sẽ không còn là kẻ thù của ta nữa. Không còn mưu cầu để làm như thế. Anh ta sẽ trở nên hiền lành hơn; những đức tính cao quý của anh ta sẽ hiển lộ. Tất cả chúng ta sẽ có thể sống chung hoà bình.

Nhưng sự thực hành tâm từ bi không chỉ bó hẹp trong sự lặp đi lặp lại những câu kinh đó. Đức Phật dạy chúng ta cần phải vun trồng tâm từ trong ý nghĩ, lời nói, và hành động. Mỗi bước đi, mỗi hành động, mỗi nghĩ suy phải phát xuất từ tâm từ bi.

Những gì mà ta huân tập nhiều lần sẽ trở thành trạng thái tâm của ta. Nếu bạn luôn thực hành tâm từ bi, thì chính bản thân bạn sẽ đầy từ bi. Nó sẽ trở thành cá tính của bạn. Và bạn sẽ nhận ra rằng, người khác cũng có những cá tính dịu dàng, từ tốn ẩn chứa bên trong họ.

Mẹ tôi hiểu và sống theo những lời dạy của Đức Phật. Bà muốn chắc rằng, tất cả con cái của bà đều được nghe những câu chuyện về cuộc đời của Đức Phật, và được dạy về trí tuệ và lòng từ bi của Ngài.

Chính bản thân bà là một tấm gương về lòng từ bi, luôn đối xử với bất cứ ai bà gặp bằng sự dịu dàng và lời nói nhẹ nhàng. Xét dưới nhiều khía cạnh, tôi xem bà gần như là một vị thánh. Gần một năm sau căn bệnh không thấy đường vào ban đêm lạ kỳ của tôi, mẹ tôi bị một tai nạn đã làm thay đổi cuộc đời của bà.

Một ngày kia bà trèo lên cây ca cao để hái trái, là việc bà vẫn thường làm. (Rồi chặt trái ra, lấy thịt hột cỡ bằng một hột đậu hạnh nhân, phơi ngoài nắng). Cha tôi sẽ mang ra chợ bán, khoảng năm xu nửa ký. Hột ca cao khô rất ngon vì người ta có thể giã ra thành bột ca cao.

Ngày hôm đó, công việc thường nhật của mẹ tôi đã biến thành thảm họa. Khi bà đã trèo cao lên cây, cành cây gãy khiến bà rơi xuống. Tôi nghe tiếng kêu của bà, và khi chạy đến, tôi thấy bà nằm ngửa trên mặt đất, bất tỉnh. Hai người chị của tôi cũng chạy đến và khi nhìn thấy bà, họ bắt đầu gào khóc.

Hình như là các nhà hàng xóm nghe tiếng các chị tôi khóc, họ chạy đến, cố gắng giúp đỡ chúng tôi. Khi mẹ tôi tỉnh lại, một người hàng xóm đưa cho bà một loại thuốc bổ dân gian: một loại nước uống pha rượu quậy với tròng đỏ trứng trong đó.

Bà từ chối không uống. Cả đời, bà đã giữ giới luật Phật giáo, bao gồm giới không uống rượu. Bà không muốn phá giới, ngay nếu như rượu đó sẽ làm giảm cơn đau của bà. Có người đã chạy gọi cha tôi đang làm việc ngoài ruộng lúa. Cha tôi lại chạy đi tìm người thầy thuốc trong làng.

Một số người giúp khiêng mẹ tôi vào nhà; lưng bà bị chấn thương quá nặng đến nỗi bà không thể ngồi dậy. Vị thầy thuốc sai người túa ra nhiều hướng để hái các lá và rễ của một số cây thảo dược đặc biệt. Khi họ trở về, ông giã nhỏ các loại thảo dược để xoa lên lưng mẹ. Khi ra về ông để lại cho chúng tôi ít thuốc đó và bảo chúng tôi mỗi ngày xoa cho mẹ hai lần.

Mỗi ngôi làng ở Ceylon đều có nhà sư Phật giáo và một vị thầy thuốc, và cả hai đều hợp tác làm việc với nhau. Trước khi chuẩn bị bất cứ loại thuốc nào, vị thầy thuốc sẽ tụng kinh Phật trước bàn thờ nhà ông. Ông không tính tiền công với dân làng, nhưng thường người ta mang đến cho ông rau củ, dừa, trà, gia vị, hay trái cau.

Người ta tin rằng nếu vị thầy thuốc là một Phật tử tín tâm, thì thuốc của ông sẽ hiệu nghiệm hơn. Do đó, khả năng chữa trị của người thầy thuốc tùy thuộc vào việc ông có là một người Phật tử gương mẫu hay không.

Ngay cả sau khi người Anh đã thiết lập một hệ thống chính quyền địa phương với người sếp (chief) cai quản mỗi làng, thì thầy thuốc và vị sư vẫn có quyền lực cao nhất. Người sếp luôn tham khảo ý kiến với nhà sư và thầy thuốc, trước khi quyết định một hình phạt hay dàn xếp một tranh chấp nào.

Hai ba ngày sau tai nạn, mẹ tôi vẫn không khá hơn. Bà không thể cử động đôi chân hay đứng dậy; bà chỉ có thể nằm rên vì đau. Bà không ăn uống được thứ gì, trừ một ít cháo và nước cam. Rõ ràng là bà cần được chữa trị tốt hơn, nhưng cha mẹ tôi không tin tưởng bệnh viện.

Mẹ tôi bảo muốn trở về nhà cha mẹ bà, cách làng tôi khoảng bốn mươi hai cây số. Đó là một cuộc hành trình dài, nhưng người thầy thuốc ở làng ông bà ngoại tôi hình như giỏi hơn, và mẹ cũng nói bà sẽ cảm thấy dễ chịu hơn trong ngôi nhà thời thơ ấu của mình.

Vì thế cha tôi và một vài người nữa khiêng bà đặt lên một tấm phản, rồi khiêng bà đến thành phố gần nhất. Ở đó, cha mướn xe để chở mẹ tôi về nhà ông bà ngoại. Khi họ đi xa, những đứa trẻ chúng tôi phải ở nhà một mình. Người chị lớn thứ hai của tôi lúc đó đã mười tám tuổi, nên chị lo việc nấu nướng và chăm sóc chúng tôi, những đứa nhỏ hơn.

Vài ngày sau đó, cha trở về một mình. Mẹ tôi đã ở lại nhà ông bà ngoại để dưỡng bệnh. Nhưng bà chẳng bao giờ hoàn toàn lành mạnh trở lại. Vài tháng sau đó khi bà trở về nhà, bà phải đi nạng, với cái lưng còng. Chân trái của bà không co lại được, và bà không thể đi bộ đến cả ngôi chùa gần nhất.

Năm bảy tuổi tôi bắt đầu đi học. Ngôi trường gần nhất là ở Medagama, cách nhà chúng tôi khoảng hơn nửa cây số, được điều hành bởi các vị nữ tu truyền giáo Thiên Chúa. Tôi rất thích, chính là vì mỗi ngày họ đều cho chúng tôi ăn những bữa ăn trưa rất ngon.

Trước khi ăn, chúng tôi phải đọc kinh Thiên Chúa, chúng tôi cúi đầu trước những chiếc mâm nhỏ đựng thức ăn đặt trên bàn. Tôi nhắm mắt, lầm thầm đọc, nhưng tâm của tôi thì đang khốn khổ vì mùi thơm đang xốc lên mũi tôi.

Tôi học trường Thiên Chúa giáo được khoảng một năm, trước khi ngôi chùa Phật giáo ở Dehideniya mở trường tiểu học. Tất cả trẻ em ở Henepola, khoảng ba mươi, bốn mươi đứa chúng tôi lại đổi trường. Năm đầu tiên học ở trường Phật giáo khá đông đúc. Giảng đường của chùa, ở ngoài trời, được sử dụng làm lớp học duy nhất, luôn ồn ào vì có quá đông học sinh dồn vào một chỗ.

Một năm sau, chính phủ hỗ trợ một miếng đất nhỏ cạnh bên chùa để xây một ngôi trường tách biệt. Dân làng họp nhau lại xây ngôi nhà một phòng, hình chữ nhật đơn giản khoảng ba mươi bốn mét dài, và mười mét ngang. Tường cao gần hai mét, cửa sổ, cửa chính để trống không, còn mái thì làm bằng những cọng lá dừa.

Ngôi trường mới có những dãy bàn và ghế dài bằng gỗ cứng. Năm đầu tiên ở ngôi trường mới, chúng tôi dùng bảng đen và những viên đá nhọn để viết bài. Tuy nhiên qua năm thứ hai, chính phủ hỗ trợ viết chì và giấy làm bài tập, thật là sung sướng! Mỗi buổi sáng khi thầy giáo vào lớp, chúng tôi đứng dậy khỏi ghế, cúi đầu, khoanh tay trước ngực.

- Chào thầy ạ.

Chúng tôi đồng thanh nói, và ông cũng đáp lại chúng tôi bằng cái chào tương tự. Sau đó là tới thời gian kiểm tra. Thầy giáo đi dọc theo các dãy bàn học sinh, xét xem răng và móng tay chúng tôi có được giữ gìn sạch sẽ hay không? Tất cả mọi thứ đều phải gọn ghẽ, kể cả áo quần.

Nếu có gì không ổn, chúng tôi sẽ bị ăn gậy. Thực ra với bất cứ lầm lỗi gì, mông chúng tôi cũng đều hứng gậy. Đôi khi thầy giáo còn dùng tay để cốc đầu chúng tôi. Không ai nghĩ đó là ác hay có gì khác thường.

Trước khi bắt đầu học, tất cả chúng tôi đều đọc quy y tam bảo bằng tiếng Pali, quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng và năm giới cấm trong Phật giáo. Ngay cả các em nhỏ cũng thuộc lòng những bài kinh này, vì chúng đều đã được nghe cha mẹ đọc tụng ở nhà mỗi ngày.

Chương trình học ở trường gồm văn phạm tiếng Sinhala, lịch sử, khoa học, toán và dĩ nhiên, Phật giáo. Mỗi ngày trên đường đến trường và về nhà, chúng tôi đi qua một con lạch nhỏ, nước chảy xiết. Cả tôi và anh tôi đều không biết bơi, vì thế mẹ tôi thường sợ rằng một ngày nào đó chúng tôi sẽ bị chết đuối ở lạch nước đó.

Mỗi ngày bà sẽ đứng ở cửa, đợi chúng tôi đi học về. Bà biết rằng con lạch đó hấp dẫn những đứa trẻ nghịch ngợm biết bao, biết rằng anh tôi và tôi rất muốn vứt cặp sách xuống đất, cởi đồ ra để nhảy vào dòng nước mát đó. Đôi khi, chúng tôi thực sự đã làm thế! Mẹ tôi, lúc nào cũng theo dõi từ xa, hét đến vỡ lồng ngực ngay khi chúng tôi vừa nhún chân xuống nước, còn chúng tôi thì chẳng muốn bước ra khỏi đó.

Tuy nhiên, có lần chúng tôi qua mắt được mẹ. Chúng tôi nhảy vào nước mà mẹ không thấy. Gần như lập tức tôi bị kẹt vào trong một vòng xoáy nơi dòng nước chảy dưới một bụi tre. Tôi vùng vẫy hai tay, cố ngoi lên khỏi mặt nước, nhưng dòng xoáy cứ kéo tôi xuống với một sức mạnh khủng khiếp. Không biết bằng cách nào mà anh tôi nắm được tôi kéo lên. Anh đã cứu sống tôi.

Nhưng đó không phải là kinh nghiệm sắp chết đuối cuối cùng của tôi. Cho tới ngày nay, dầu tôi đã chu du khắp thế giới, đã vượt bao đại dương không biết bao nhiêu lần, tôi vẫn còn sợ sông suối. Một ngày, lúc tôi khoảng chín tuổi, trên đường đi học về với các bạn nhỏ trong lúc mưa bão lớn. Chúng tôi phải đi qua một ruộng lúa, có những dải phân cách hẹp giữa các luống lúa, với những ống dẫn nước chia đôi các dải phân cách.

Chúng tôi đến một rãnh đã bị các trận mưa làm xói lở ra. Nó trở thành giống như một con sông nhỏ, với dòng nước chảy siết. Tất cả mấy đứa bạn đã nhảy qua rãnh, nhưng tôi còn do dự, ôm ghì tập sách trước ngực.

Cuối cùng khi đã thu hết can đảm để nhảy qua, tôi lại trượt chân trên bờ rãnh và té xuống nước. Sách vở, bảng đá lập tức bị nước cuốn trôi trong khi tôi cố gắng để ngoi đầu lên khỏi mặt nước. Tôi càng cố gắng bơi, thì hình như tôi càng chìm nhanh hơn.

Anh tôi, Rambanda, nhảy xuống nước và kéo tôi lên. Tôi bị một phen sợ hãi và ướt nhem, nhưng cũng an toàn. Chúng tôi chẳng bao giờ kể cho cha mẹ nghe chuyện đó. Chúng tôi biết điều gì sẽ xảy ra nếu chúng tôi kể.

Ngôi chùa Phật giáo cách nhà chúng tôi khoảng nửa cây số, là trung tâm làng. Chỉ có một vị sư và thị giả của ông, một cư sĩ, sống ở đó. Khuôn viên chùa bao gồm một giảng đường, một chánh điện, một căn chòi nhỏ đắp bằng bùn, được sử dụng làm nhà bếp, và một nhà vệ sinh.

Ở một góc sân là cây bồ đề, gợi cho chúng tôi nhớ đến cây bồ đề mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã ngồi dưới đó, khi Ngài đạt được giác ngộ. Một bức tường gạch được xây quanh cây, để ngăn không cho trẻ con trèo lên những cành cây thiêng liêng nầy.

Có một ban quản lý chùa và những người tự nguyện đóng góp công sức. Dân làng luôn vui vẻ góp tay vào việc xây dựng, dọn dẹp, nấu nướng và xếp đặt các buổi lễ. Các Phật tử tin rằng những việc làm tốt đẹp đó sẽ giúp họ được phước đức ở đời nầy và đời sau. Nhiều người đi chùa gần như mỗi ngày, dầu chỉ là một cuộc thăm viếng ngắn ngủi.

Thời khoá thường ngày của chùa cũng ảnh hưởng tới đời sống hằng ngày của chúng tôi. Mỗi ngày lúc sáu giờ sáng, vị sư hay là đệ tử của ông, sẽ đánh một cái chuông lớn giống như cái cồng trong sân chùa. Đó là dấu hiệu cho buổi đọc kinh sáng.

Có nghĩa là vị sư đã hoàn tất buổi tọa thiền một tiếng đồng hồ của ông, và giờ ông đi qua chánh điện để tụng kinh cầu nguyện. Tất cả mọi người trong làng đều có thể nghe được tiếng chuông. Khi nó vang lên, chúng tôi biết đó cũng là thời gian, dành cho những nghi thức của cá nhân chúng tôi nữa.

Chúng tôi sẽ bày hoa tươi trên bàn thờ trong nhà, đốt nhang và ngồi xuống để tụng kinh. Chuông chùa lại vang lên lần nữa lúc mười một giờ, khi vị sư bắt đầu dùng bữa chánh trong ngày. Tiếng chuông là cách duy nhất để chúng tôi biết giờ giấc, vì không ai có đồng hồ treo tường hoặc đồng hồ đeo tay.

Mỗi chiều, Rambanda và tôi đều đến chùa. Chúng tôi rất thích ở đó. Vị sư cho phép chúng tôi chơi trong sân chùa, và thường cho chúng tôi kẹo hay đồ ăn còn thừa. Đúng ra, chúng tôi không được ăn đồ ăn của chùa, vì đó là do dân làng cúng dường cho vị sư dùng.

Cha mẹ chúng tôi đã dạy rằng ăn đồ ăn của chùa sẽ tạo ra nghiệp xấu cho chúng tôi, khiến chúng tôi bị đọa địa ngục. Nhưng vị sư quá tử tế, và cái đói của chúng tôi cũng quá mạnh, đến nỗi chúng tôi quên cả địa ngục. Chúng tôi hăm hở ăn bất cứ thứ gì mà vị sư cho: cơm, cá, đậu nấu, bánh bột gạo, hay một trái xoài chín.

Cha tôi đã xây dựng giảng đường của chùa, một căn phòng với chiều dài mười thước, chiều ngang mười thước, nền xi măng, tường gạch và mái ngói. Bên trong có một cái bục vuông, cao khoảng mười lăm centi mét, với bốn trụ cây cao ở bốn góc. Trên bục gỗ, chỉ có một cái ghế, bao quanh bởi những lưới gỗ, và được che bởi một tấm màn vải phủ căng trên mấy cây trụ.

Vào ngày rằm và mùng một, các cư sĩ sẽ ở cả ngày và đêm trên chùa. Các vị sư ở những làng gần bên cũng đến chùa chúng tôi, và thay phiên nhau an vị trên chiếc ghế đó để thuyết pháp. Việc đầu tiên mỗi buổi sáng, là vị sư sẽ tụng một trong những bài kinh của Đức Phật bằng tiếng Pali.

Vì tiếng Pali gần giống như tiếng Sinhala, nên phần đông các cư sĩ đều có thể hiểu. Thời kinh sáng thường ngắn chỉ khoảng một tiếng, vì các sư còn phải thực hiện nghi lễ cúng ngọ trước khi thọ thực, khoảng mười giờ sáng.

Buổi chiều, một vị sư khác sẽ thuyết giảng về ý nghĩa của bài kinh Pali đã được tụng ban sáng. Sau đó khách viếng chùa được tự do vài tiếng đồng hồ để ngồi thiền, thưa hỏi đạo với quý sư, hay đọc các kinh sách.

Buổi tối sẽ có nghi lễ trọng thể hơn. Sau khi tất cả các cư sĩ đã tụ tập vào trong giảng đường, một vị sư cao đạo được kiệu vào, bởi hai người đàn ông trên cánh tay xếp bằng của họ. Các vị sư được cung kính đến mức đó không nhiều. Một số vị có thể tụng thuộc lòng cả bộ tạng kinh tiếng Pali, cũng như thông hiểu tất cả những bài bình luận về kinh.

Họ rất khéo léo trong việc phân tích, giảng giải từng chi tiết trong một bài kinh, có những buổi giảng có thể kéo dài đến mười tiếng đồng hồ. Họ cũng thường nổi tiếng về khả năng kể chuyện và giọng tụng đọc êm đềm của họ.

Các nghi thức nầy thường được đi kèm theo bằng tiếng đánh trống, thổi cồng, chơi sáo và những tiếng đồng thanh hỗ trợ như là “Sadhu! Sadhu! Sadhu!”, có nghĩa là "Lành thay! Lành thay! Lành thay!"

Vị sư từ tốn ngồi vào chiếc ghế của ông ở trên bục gỗ, rồi phủ vải trắng lên người đến tận cổ. Một bức màn được kéo trước mặt ông, chỉ còn chừa lại khuôn mặt. Các cư sĩ mang trà dâng cho vị sư, hay là một mâm đầy kẹo mía đường, trầu cau, vôi và thuốc lá. Một ống nhổ được đặt trước mặt vị sư.

Trước hết vị sư sẽ đọc kinh quy y Phật, Pháp và Tăng (tam bảo trong Phật pháp). Giọng mũi của ông nghe rất hay, cách đọc tụng như hát, có sức thôi miên đến nỗi dường như nó từ phía sau bức màn bay bổng ra.

Namo tassa bhagavato Arahato Sammasambuddhasa.

Namo tassa bhagavato Arahato Sammasambuddhasa.

Namo tassa bhagavato Arahato Sammasambuddhasa.

(Cung Kính Đảnh Lễ Đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác)

Buddham saranam gacchami.

(Con nguyện quy y Phật)

Dhammam saranam gacchami.

(Con nguyện quy y Pháp)

Sangham saranam gacchami.

(Con nguyện quy y Tăng)

Dutiyam pi Buddham saranam gacchami.

(Lần thứ hai con nguyện quy y Phật)

Dutiyam pi Dhammam saranam gacchami.

(Lần thứ hai con nguyện quy y Pháp)

Dutiyam pi Sangham saranam gacchami.

(Lần thứ hai con nguyện quy y Tăng)

Tatiyam pi Buddham saranam gacchami.

(Lần thứ ba con nguyện quy y Phật.)

Tatiyam pi Dhammam saranam gacchami.

(Lần thứ ba con nguyện quy y Pháp)

Tatiyam pi Sangham saranam gacchami.

(Lần thứ ba con nguyện quy y Tăng)

Sau đó, vị sư sẽ truyền năm giới cho các dân làng, một nghi thức truyền thống ở bất cứ cuộc họp Phật giáo nào. Vị sư tụng các câu kinh bằng tiếng Pali, và các cư sĩ lặp lại theo sư.

Sau những nghi lễ khởi đầu này, bài thuyết pháp sẽ được bắt đầu vào khoảng tám giờ tối. Đôi khi kéo dài cả đêm. Trẻ em ngủ thiếp đi trên sàn nhà bên cạnh cha mẹ chúng. Tuy nhiên, người lớn thì phải thức. Để hỗ trợ họ, một vị trưởng lão với chòm râu bạc trắng, ngồi phía trước bục gỗ. Mỗi lần vị sư dừng lại để nghỉ, thì vị trưởng lão sẽ xướng to lên:

- Vâng, thưa Đại Đức.

Đôi khi tôi thức giấc lúc nửa đêm, thì thấy cả phòng đều ngủ, trừ vị sư và ông lão. Tôi thật sự ngạc nhiên rằng ai còn có thể thức vào giờ đó. Vào khoảng năm giờ sáng, những người đánh trống sẽ bắt đầu nổi trống lên, và các Phật tử bắt đầu chuyển động.

Lúc đó nhà sư đã ở phần cuối của bài thuyết Pháp, giải thích tại sao Đức Phật Di Lạc, vị Phật tương lai, sẽ xuất hiện khi giáo Pháp của Gotama, vị Phật hiện tại, không còn được truyền hành.

Khoảng sáu giờ, vị sư sẽ mở cửa màn, duỗi đôi chân đã xếp bằng trong một tư thế suốt đêm. Vài vị đệ tử mang một thau dầu dừa ấm đến bên sư. Họ xoa bóp dầu đó lên chân ông trong khoảng mười lăm phút. Rồi vị sư bước xuống khỏi bục gỗ, lui về phòng để chuẩn bị dùng bữa điểm tâm.

Quán sát tất cả những nghi thức nầy từ lúc còn trẻ, tôi thật sự ấn tượng. Thái độ quý mến và trân trọng của giới cư sĩ đối với quý sư thật đáng ngưỡng mộ. Tôi bảo với cha mẹ rằng tôi muốn trở thành một tu sĩ: tôi muốn thuyết pháp và được công kênh đến ghế ngồi bởi các đệ tử tín tâm.

Không chỉ có thế, mà tôi còn sẽ giảng Pháp bằng tiếng Anh, tôi ba hoa. Người anh cả đã dạy tôi vần tiếng Anh, cũng như một vài từ tiếng Anh. Không có ai trong làng của chúng tôi biết chút tiếng Anh nào, dầu đó được coi là ngôn ngữ chính thức của Ceylon dưới thời cai trị của người Anh.

Dân làng chúng tôi được quyền sử dụng tiếng Sinhala, nhưng tiếng Anh thì đúng là ngôn ngữ của giới thượng lưu, những người làm việc với chính phủ, người ở tầng lớp xã hội cao, hay người khá giả có tiền đi du lịch. Vì thế, tôi đã nghĩ là tôi có thể học tiếng Anh, và tôi sẽ là một tu sĩ thật sự thông thái. Cha mẹ tôi lắng nghe những giấc mơ trẻ con của tôi và họ chỉ mỉm cười.

#314 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/07/2011 - 12:04

HÀNH TRÌNH ĐẾN CHÁNH NIỆM

Chương Hai

Cuộc Sống Không Nhà

Khi tôi lớn hơn, ý muốn được trở thành một người tu sĩ càng tăng lên. Trước khi xuất gia, tôi rất thích giả bộ tôi đã là một tu sĩ. Tôi sẽ quấn quanh mình một miếng vải trắng, giống như các vị sư quấn y quanh mình, rồi ngồi xuống một gốc cây trong rừng.

Tôi tưởng tượng rằng các cây chung quanh là người, rồi thuyết cho đám đông thính giả thầm lặng đó, hay đọc tụng lại một vài đoạn kinh bằng tiếng Pali mà tôi đã nghe ở chùa. Rồi tôi cũng ngồi xuống, giả vờ như mình đang lắng sâu trong “thiền định”, dầu lúc đó tôi chẳng biết thiền là gì.

Từ thuở đó, tôi đã tin rằng nghiệp của tôi là phải trở thành người tu sĩ. Điều đó không có nghĩa là “số kiếp” của tôi phải là như thế, vì trong Phật giáo không có những quan niệm như thế. Đúng hơn, đó là vì tất cả các nhân đã tích lũy trong quá khứ, không biết là đã bao lâu rồi, khiến bây giờ tôi lại muốn trở thành một tu sĩ Phật giáo.

Có thể tôi đã là một tu sĩ trong một kiếp trước, không được thành công lắm, vì rõ ràng tôi vẫn chưa đạt được giác ngộ trong kiếp này, nhưng cũng không hoàn toàn thất bại, vì tôi đã có duyên lành được tái sinh làm người, được có thêm cơ hội để hoàn thiện công phu tu tập của mình. Dầu không phải như thế, thì sự thôi thúc được xuất gia, niềm khao khát sâu xa được mặc chiếc áo nhà tu cũng đã chớm nở trong tôi rất sớm.

Khoảng năm mười một tuổi, tôi đã không còn thích thú gì trong những trò quậy phá và đánh nhau của đám con trai, mà tôi và Rambanda thường ưa thích, và tôi cũng không còn hứng thú trong chuyện học. Tôi chỉ muốn được gia nhập vào tăng đoàn Phật giáo, theo truyền thống Á châu cổ xưa của hơn hai ngàn năm trăm năm trước.

Những câu chuyện của các thiếu niên vào thời Đức Phật còn tại thế, với những ước muốn trở thành người tu tương tự như tôi, làm tôi say mê. Một trong những câu chuyện như thế là về một cậu bé tên gọi là Culapanthaka.

Culapanthaka được sinh ra ở ven đường, khi mẹ cậu trên đường trở về quê ngoại. Ở Ấn Độ vào thời cổ xưa, người phụ nữ có thai, theo truyền thống, phải trở về nhà cha mẹ ruột để sinh con, và thường những nhọc nhằn trong cuộc hành trình dẫn đến việc sinh con trên đường về.

Thái tử Siddhattha Gotama (gọi trong tiếng Phạn là Siddhartha Gautama), người mà sau này trở thành Đức Phật, được sanh trong một khu rừng nhỏ bên đường vì mẹ của thái tử, hoàng hậu Mahamaya đang trên đường trở về nhà cha mẹ ruột.

Mẹ của Culapanthaka có hai người con trai, cả hai đều được sinh ra bằng cách đó, ở ven đường. Người đầu tiên bà đặt tên là Mahapanthaka “người lữ hành lớn”. Người thứ hai tên là Culapanthaka, có nghĩa là người “lữ hành tí hon.” Vì người mẹ rất nghèo, bà để hai con trai lại cho cha mẹ bà nuôi ở Rajagaha.

Mahapanthaka thường đi theo ông ngoại đến nghe Đức Phật thuyết pháp, và điều đó lôi cuốn ông dần dần trở thành một tăng sĩ. Vài năm sau, người em Culapanthaka cũng đi theo bước chân anh.

Mahapanthaka muốn dạy Pháp cho em mình, nhưng thấy cậu bé là người quá kém thông minh. Culapantakha không thể nhớ đến một câu kinh đơn giản trong mấy tháng trời. Mahapanthaka rất thất vọng và đã nghĩ rằng nếu em mình không thể học Pháp, thì không thể tiếp tục làm tăng sĩ.

- Em nên cởi bỏ y áo rồi về nhà đi. Ông bảo với em trai mình.

Culapantakha rất buồn khổ. Ông rất thích cuộc sống tu hành và được làm đệ tử Đức Phật. Ông không biết phải làm gì, nhưng biết rằng ông không muốn phải hoàn tục. Không lâu sau đó, Jivaka Komarabhacca, người thỉnh thoảng làm lương y cho Đức Phật, yêu cầu Mahapanthaka thỉnh Đức Phật và tăng đoàn ở tu viện đến dùng bữa trưa tại nhà ông. Mahapanthaka thay mặt tăng đoàn chấp nhận lời mời, rồi nói thêm:

- Đến ngày mai Culapanthaka sẽ không còn ở tu viện nữa. Tôi đã yêu cầu thầy ấy hoàn tục nhưng tôi sẽ đến cùng với Đức Phật và tăng đoàn.

Nghe giọng nói quyết liệt của anh mình, Culapantakha đau buồn thảm thiết, với đôi mắt đẫm lệ, ông thu xếp vật dụng rồi rời tu viện. Nhưng khi ông vừa đi ra, Đức Phật thấy ông và hỏi tại sao ông buồn vậy, ông kể cho Phật nghe những gì đã xảy ra.

Đức Phật nói:

- Thầy không cần phải cởi bỏ y áo, từ bỏ đời sống tu sĩ chỉ vì thầy không thể thuộc một câu kinh. Đây, tôi có thể chỉ cho thầy một việc mà thầy có thể hiểu một cách dễ dàng.

Đức Phật đưa cho ông một miếng vải trắng và nói:

- Hãy cầm mảnh vải này ra ngồi ngoài sân. Tay trái thầy cầm mảnh vải, lau lên bàn tay mặt, lặp đi lặp lại câu "Chùi sạch, chùi sạch, chùi sạch".

Culapantakha làm đúng như lời Phật dạy. Ông ngồi dưới nắng, cầm mảnh vải lau vòng vòng trên bàn tay mặt, lặp lại câu chú bất thường mà Đức Phật đã dạy cho ông, để thực hành chánh niệm. Sau một lúc ông nhìn lại. Miếng vải trắng đã trở thành đen, lem luốc bởi mồ hôi trong tay ông. Mặc dầu đọc câu chú về làm sạch, nhưng ông đã làm dơ hết miếng vải!

Bỗng nhiên, Culapantakha chứng ngộ rằng tất cả đều vô thường. Tất cả những gì ông ưa thích, tất cả những gì ông đã nếm trải, đã chống đối, không có gì là ngoại lệ, tất cả đều vô thường như miếng vải trắng sạch đó.

Ngay lúc đó, Culapantakha đã trở nên giác ngộ, nhận thức rõ ràng được sự vô thường của vạn vật. Ông trở vào tu viện ngồi dưới một cội cây và dùng năng lực tâm linh huyền bí của một người đã hoàn toàn giác ngộ, tạo ra hàng trăm tăng sĩ giống hệt như ông. Trong lúc đó, các vị tăng khác ở tu viện đã đi với Đức Phật đến nhà Jivaka. Đức Phật không thấy Culapantakha, do đó Ngài đã từ chối thọ thực.

- Bạch Đức Thế Tôn, có chuyện gì?

Jivaka lo lắng hỏi.

- Còn thiếu gì nữa chăng?

Đức Phật hỏi:

- Ông có chắc rằng tất cả tăng đoàn đã đến chăng?

- Bạch Đức Thế Tôn, con chắc rằng tất cả đã đến.

Đại đức Mahapanthaka đã xác nhận điều đó.

- Dầu vậy.

Đức Phật từ tốn nói:

- Hãy cho người trở lại tu viện xem còn có tăng sĩ nào ở lại phía sau.

Jivaka sai người trở lại tu viện. Người đó nhanh chóng trở lại mặt xanh như người chết.

- Bạch Đức Thế Tôn cả tu viện đầy tăng sĩ!

Ông thưa:

- Người thì đang hành thiền, người đang vá áo, người lau chùi, người gánh nước, người kinh hành, người đọc tụng kinh pháp.

Đức Phật bảo người kia trở lại tu viện tìm thầy Culapantakha. Ông ta làm theo. Và khi ông làm thế, thì tất cả tu sĩ, hàng trăm người, trả lời, trong một giọng:

- Tôi là Culapantakha.

Người đàn ông kinh hoàng. Ông trở về nhà Jivaka, báo lại những gì ông đã chứng kiến. Sau đó Đức Phật dạy ông trở lại, nắm lấy áo một vị.

- Nếu ngươi làm thế.

Đức Phật nói:

- các tu sĩ khác sẽ biến mất.

Người đó đã y theo lời Phật dạy. Và ông đã đưa vị tên là Culapantakha về để thọ thực. Sau khi thọ thực, Đức Phật yêu cầu Culapantakha thuyết một bài Pháp. Người anh, Mahapanthaka và các vị tăng còn lại đều ngạc nhiên. Tại sao Đức Phật lại trân trọng một người yếu kém như thế, một vị tu sĩ tồi tệ đến nỗi không nhớ đến một câu kinh?

Nhưng Culapantakha đã thuyết một bài Pháp tuyệt diệu, dựa ngay trên sự chứng nghiệm của mình về vô thường. Mọi người đều bàng hoàng trước sự hiểu biết sâu rộng của ông.

Theo câu chuyện nầy, trong tiền kiếp ông đã là một vị sư rất thông minh, nhưng đã chế ngạo một huynh đệ kém thông minh, đang cố gắng với nhiều khó khăn để học thuộc lòng một đoạn kinh. Cho nên trong kiếp kế tiếp của Culapantakha, nghiệp của ông đã trổ quả:

Một mặt ông không thể học một câu kinh trong bốn tháng, mặt khác ông lại có thể đạt được giác ngộ và thần thông. Cả hai đều là kết quả của những nghiệp trước đó, tốt và xấu. Một câu chuyện với hai chủ đích: vừa sách tấn, vừa cảnh cáo!

Cũng giống như Culapantakha, tôi rất kiên quyết theo đuổi mục đích của mình. Tôi van nài cha mẹ tôi để được đi tu mãi, đến nỗi dần dần họ cũng coi điều yêu cầu của tôi là nghiêm chỉnh, chứ không phải là bốc đồng thoáng qua.

Tôi còn rất trẻ để có thể được xuất gia ngay, nhưng tôi có thể ở trong chùa và học tập làm chú tiểu. Nhiều cậu bé đã làm như thế, và nhiều người trong số họ đã trở thành tu sĩ khi họ lớn lên.

Gia đình nào có một trong những người con trai của họ gia nhập tăng đoàn, thì được coi là rất vinh dự. Khi một người xuất gia, tất cả họ hàng đều được công đức tâm linh. Ngay chính như người thanh niên đã lập gia đình, khi anh ta quyết định xuất gia, bỏ vợ lại nhà cũng không bị khiển trách. Người vợ cũng được công đức bởi sự xuất gia của chồng.

Vì thế dầu ngần ngại, cuối cùng cha tôi cũng đồng ý để tôi thử sống ở chùa. Mẹ tôi khóc vì bà không muốn tôi rời xa nhà, nhưng bà thấy không thể lay chuyển quyết định của tôi, ngay chính tử vi của tôi cũng đã tiên đoán như thế!

Và mẹ tôi chắc chắn không phải là người mẹ duy nhất ở Ceylon, phải đưa đứa con trai nhỏ nhất của mình vào đời sống tôn giáo; vì Phật giáo quá phổ biến trong nền văn hoá của chúng tôi, điều đó xảy ra luôn.

Cha tôi đi hỏi một vị chiêm tinh gia trong làng, để chọn một ngày may mắn cho tôi rời nhà. Thời đó, thuật chiêm tinh quyết định những biến cố quan trọng trong cuộc đời của chúng tôi.

Người ta xem sao để quyết định khi nào xuống giống, khi nào lập gia đình, khi nào chôn người chết, khi nào cắt tóc cho đứa trẻ lần đầu tiên, khi nào bắt đầu một công việc quan trọng, kể cả khi đào móng xây nhà.

Mặc dầu sự tiên đoán của thuật chiêm tinh có vẻ trái nghịch với giáo lý Phật giáo, về nghiệp luật của nhân quả, niềm tin vào thuật chiêm tinh vẫn hiện hữu bên cạnh Phật giáo, và không ai nghĩ điều đó có vấn đề gì.

Vào ngày đã chọn, mẹ tôi nấu một ít cơm sữa cho tôi. Đó là một sự chiêu đãi đặc biệt. Khi đứa trẻ học đánh vần lần đầu tiên, bà mẹ nấu cơm sữa. Hay khi đứa trẻ lần đầu tiên đến trường, bà mẹ nấu cơm sữa. Để mừng sinh nhật hay năm mới, người ta cũng nấu cơm sữa. Hàng năm, vụ mùa đầu tiên thường được dùng để nấu cơm sữa dâng cúng cho các vị sư.

Và dĩ nhiên, đó chính là cơm sữa mà cô thôn nữ Sujata đã dâng cho thái tử Siddhattha Gotama gầy yếu, sau khi Ngài quyết định từ bỏ cách tu khổ hạnh. Ngài đã nhận sự cúng dường đó. Chén cơm sữa đã giúp Ngài hồi sức để có thể dũng mãnh toạ thiền dưới gốc cây bồ đề và đạt được giác ngộ, rồi sau đó giảng dạy về con đường trung đạo.

Khi đang ăn chén cơm sữa mà mẹ đã nấu cho ngày rời xa nhà của tôi, tôi nhìn thấy những giọt nước mắt bắt đầu lăn trên mặt mẹ và các chị tôi. Rambanda cũng đang kiềm giữ những giọt nước mắt.

Khi thời điểm phải rời nhà đến gần, cha tôi xuất hiện, trong bộ xà rông và áo sơmi trắng tốt nhất của ông. Ông bảo tôi đã đến lúc phải đi. Tôi cũng mặc vào chiếc áo sơmi và cái xà rông trắng.

Lúc đó thì anh tôi oà lên khóc, và bỗng nhiên tôi cảm thấy rất khó ra đi. Những tình cảm lẫn lộn làm tôi nghẹn ngào. Tôi rất hạnh phúc, vì cuối cùng cũng được đến ở chùa, nhưng tôi cảm thấy rất buồn vì phải xa gia đình.

Với sự ra đi này, tôi coi như đã từ bỏ cuộc sống gia đình, để theo một cuộc sống được gọi là "vô gia cư", cuộc sống của một vị tu sĩ Phật giáo. Cả gia đình tụ ra trước nhà để tiễn tôi đi. Tôi quỳ gối trước mặt mẹ, và chạm trán xuống đất dưới chân bà. Bà vuốt đầu tôi bằng cả hai tay.

- Nguyện cầu Tam Bảo phù hộ cho con.

Bà thầm thì, giọng nói nghẹn ngào:

- Cầu chư thiên phù hộ con. Cầu cho con được sống lâu sức khoẻ. Cầu cho con khỏi mọi tai nàn.

Và rồi bà bắt đầu khóc. Tôi đứng dậy và mẹ tôi hôn lên trán tôi, ôm chặt lấy tôi. Cha tôi và tôi đi bộ hàng giờ trên con đường bụi bặm để đến ngôi chùa, nơi sẽ là mái nhà mới của tôi. Chúng tôi không có hẹn trước, cha tôi đã không báo với nhà chùa rằng tôi sẽ đến.

Các vì sau đã báo rằng đó là một ngày tốt để tôi rời nhà, và đúng như thế. Gần cuối ngày, chúng tôi đến thành phố Kosinna, ở quận Rambukkana. Ngôi chùa nằm trong một đồn điền dừa ở cuối con đường đất. Khuôn viên chùa bao gồm một giảng đường, khu nội viện của các tăng và một chánh điện riêng biệt.

Ngoài sân có vài chiếc ghế và rất nhiều cây hoa, cũng như là các luống trầu cho ra những lá trầu mà các vị sư thường nhai vì chất gây nghiện nhẹ của chúng.

Cha dẫn tôi đến trước vị sư trụ trì, là một người đàn ông nhỏ thó, khoảng sáu mươi tuổi. Sau này tôi được biết rằng ông đã lập gia đình trước khi xuất gia, đã sống trong ngôi nhà ở cạnh vườn dừa, và có được một người con trai lớn.

Cha ở lại chùa với tôi khoảng hai tiếng đồng hồ; rồi ông về. Tôi rất mệt và chỉ muốn đi ngủ. Gia đình và thời thơ ấu của tôi dường như đã xa thẳm.

Sáng hôm sau vị sư trưởng đưa cho tôi một quyển sách tiếng Pali căn bản, ngôn ngữ mà Đức Phật đã sử dụng và được dùng trong các kinh điển Phật giáo nguyên thủy. Sư bảo rằng tôi phải thuộc lòng tất cả mọi thứ trong sách, để chuẩn bị cho sự xuất gia của tôi, và sư hoạch ra những bổn phận tôi phải làm.

Tôi và ba cậu bé khác ở chùa phải đi vòng quanh đồn điền, để lượm những trái dừa rụng và đem chất chúng ở nhiều nơi. Chúng tôi cũng phải quét nhà, lượm củi để nấu ăn, kéo nước, rửa chén, và giặt đồ.

Căn bản chúng tôi là những người lao động không công, cũng một loại nô lệ. Những bổn phận thuộc về tôn giáo của chúng tôi bao gồm hái hoa để chưng trên bàn thờ trong chánh điện, và dự các buổi đọc kinh mỗi sáng chiều.

Các cậu bé khác thì nấu ăn mỗi ngày. Công việc của tôi là đến nhà cũ của vị sư trưởng, để mang những thức ăn đặc biệt do người vợ trước của ông chuẩn bị. Chỉ có ông được quyền dùng các món nầy.

Ba cậu bé ở trong chùa tất cả đều lớn và to con hơn tôi. Những "cậu bé ở chùa" nầy không phải là các chú tiểu như tôi sẽ trở thành sau nầy, nhưng họ được có cơ hội lãnh hội một nền giáo dục tôn giáo bằng cách sống ở chùa, và làm việc để bù cho tiền ăn ở của họ.

Một cậu phải coi sóc các luống trầu. Cậu nữa quản lý nhà bếp. Đứa thứ ba thì trông chừng những con chó chạy rong trong khuôn viên chùa. Thường họ làm những việc mà một vị tu sĩ không được phép làm do giới luật, thí dụ như là nấu ăn hay đi chợ.

Đây sẽ là cuộc sống mới của tôi. Nhưng tôi chỉ sống ở chùa đó được khoảng ba tháng. Một ngày kia tôi đang ở trong nhà bếp rửa nồi. Hai đứa trẻ khác đứng gần đó cãi nhau dữ dội. Một đứa chọi đứa kia cục đá nhưng lại trúng cườm tay tôi. Bàn tay tôi lập tức sưng lên và rất đau đớn.

Tôi viết cho cha một lá thư và kể cho ông nghe câu chuyện. Vài ngày sau đó, cha đến để dẫn tôi về. Ông nói:

- Tôi không muốn con trai tôi ở bất cứ chùa nào mà có những người bạo lực.

Ông cho rằng cha có thể đánh con, điều đó hợp lý, nhưng không nghĩ rằng những hành động như thế lại có chỗ ở trong chùa. Tôi trở về nhà với cha. Mẹ và các chị tôi rất vui mừng được gặp lại tôi, và thật tuyệt vời được trở về với Rambanda. Tất cả chúng tôi lại tiếp tục sống như trước kia.

Phần lớn thời gian của tôi là chạy qua chạy lại giữa nhà cha mẹ, và nhà nơi người chị cả của tôi sống với chồng chị và đứa con gái. Họ nói với tôi rằng họ rất thích có một đứa con trai trong nhà, thế thì tại sao tôi không đến sống với họ?

Điều đó thật hấp dẫn. Tôi thương cả hai rất nhiều, và cháu gái tôi cũng giống như là em tôi. Hoàn cảnh của tôi, lúc đó có vẻ rất bấp bênh. Tôi đã gần mười hai tuổi và đã nghỉ học bốn tháng rồi. Nhưng ước muốn được trở thành một tu sĩ vẫn còn cháy bỏng trong tôi. Tôi rất nhớ những ngày được mặc áo tu. Vì thế tôi xin cha tìm một ngôi chùa nào khác chấp nhận tôi.

Vài tháng sau, vào tháng giêng năm 1939, anh rể tôi nói với cha rằng anh có nghe về một ngôi chùa khác, ở làng Malandeniya, đang tìm một cậu bé để cho xuất gia. Chùa đó được gọi là Sri Vijayarama, có nghĩa là "sung túc và thắng lợi". Cha và anh rể nghĩ rằng Malandeniya cách nhà tôi khoảng chín kilômét, nhưng họ cũng không chắc chắn vì chưa có ai trong chúng tôi đã từng đến đó.

Lần thứ hai tôi rời nhà cũng giống như lần đầu tiên: cũng cơm sữa của mẹ; xà rông trắng tinh; nước mắt và cảm giác vừa phấn khởi vừa đau buồn của tôi. Tôi cảm thấy hạnh phúc khi nghĩ đến tương lai được làm một tu sĩ.

Đồng thời nhớ lại những kinh nghiệm của tôi ở ngôi chùa trước, lòng tôi đầy âu lo khi phải đến sống ở một nơi xa lạ, với những người xa lạ. Lần nầy, cả cha và anh rể đều cùng đi với tôi trong chuyến đi nầy. Khi chúng tôi ra đi, mẹ bảo với anh rể tôi rằng:

- Hãy chăm sóc con trai mẹ. Vì con sống gần chùa đó, hãy báo cho mẹ biết tin tức của nó.

Rồi chúng tôi cất bước, khi mẹ đứng bên cửa nhà. Tôi cứ ngoái đầu lại để nhìn bà, và mỗi lần như thế, bà vẫn còn đứng đó, xa dần xa dần, cho đến khi tôi không còn nhìn thấy mẹ nữa, và còn lâu hơn nữa những giọt nước mắt trên má tôi mới khô đi.

Không có con đường nào từ làng tôi dẫn đến Malandeniya. Chúng tôi phải đi dọc theo những lối đi băng qua ruộng lúa, qua các dòng suối nhỏ và các đồn điền cao su. Thỉnh thoảng, chúng tôi đi qua những ngôi làng nhỏ khác. Mỗi lần như thế, chúng tôi lại hỏi đường đến Malandeniya, người ta lại bảo chúng tôi đi xa thêm chút nữa.

Cuối cùng thì chúng tôi cũng đến được một ngôi chùa có dây thép gai rào quanh. Sau này chúng tôi biết rằng người ta làm vậy để không cho trâu bò trong xóm vào chùa, ăn những cây dừa non trên mặt đất. Ở cổng, có một hàng rào tre, che dây thép gai để chúng không làm vướng xà rông khi người ta bước qua đó.

Khi chúng tôi bước vào, một đàn chó ùa ra sủa như để chào đón chúng tôi, sau đó là một vài cậu bé, và cuối cùng là vị trụ trì, một người có tầm cao trung bình, với đôi mắt sáng và một chiếc mũi dài. Ông cười, để lộ hàm răng bợn đen vì trầu cau.

Cha, anh rể và tôi lập tức quỳ xuống dưới đất và lễ bái ba lần. Nhà sư ra dấu cho chúng tôi đi vào bên trong chùa và chỉ chiếc chiếu trên sàn nhà nơi chúng tôi có thể ngồi xuống.

Danh xưng của Sư là Kiribatkumbure Sonuttara Mahathera. Mahathera, "trưởng lão", hàm ý rằng Sư đã là một vị tỳ kheo ít nhất ba mươi tám năm. Giờ Sư đã gần sáu mươi tuổi và có vẻ rất thân thiện; nụ cười thường ở trên môi.

Cha giới thiệu về tôi và thưa với Sư rằng tôi muốn đến sống ở chùa và xuất gia. Nhà sư nhìn tôi từ đầu đến chân, rồi gật đầu. Thật đơn giản. Tôi đã được chấp nhận.

Cha và anh rể tôi nán lại khoảng một tiếng đồng hồ tiếp chuyện với Sư rồi cáo từ. Ngay khi họ vừa đi khỏi, tôi cảm thấy một làn sóng cô đơn phủ trùm lấy tôi. Tôi muốn chạy theo họ và bảo rằng tôi đã thay đổi ý định, rằng tôi muốn về nhà.

Tôi bắt đầu khóc, và không thể dừng lại sau hàng giờ. Sư Sonuttara an ủi tôi, bảo rằng ở chùa, tôi sẽ có được một mái ấm, tôi sẽ được học Pháp từ các vị thầy uyên thâm. Rồi Sư đưa cho tôi một manh chiếu cũ và một cái gối dơ để trải trên nền nhà cứng làm giường.

Chánh điện gồm có một sàn gỗ dựng trên bốn cây cột cao khoảng hơn một thước. Giữa sàn là một tượng Phật bằng đất sét cũ kỹ và xấu xí. Tôi nhớ tượng Phật đó có đôi mắt nhìn dữ tợn, ghê khiếp, không giống chút nào với những tượng thanh thoát thường thấy ở hầu hết các chùa.

Rõ ràng là người nặn tượng chưa từng học qua về những phẩm chất của Đức Phật, mà họ phải biểu hiện trong các bức tượng của Ngài. Ở một bên tượng Phật dữ tợn đó là hình của vị thần da xanh Vishnu, một trong những vị thần lớn của Ấn Độ giáo.

Ở bên kia là hình của Humiyam Devata, một vị hung thần mà cho đến ngày nay vẫn còn một số người Sinhala tôn thờ. Người ta cầu nguyện vị thần này để nhờ uy lực của thần chống lại kẻ thù của họ. Vishnu và Huniyam có mặt trên bàn thờ của một ngôi chùa Phật giáo, là một sự chọn lựa lạ lùng, nhìn chung ba hình ảnh nầy thật đối chọi nhau.

Trong một gian nhà khác, cách chánh điện khoảng sáu thước, có ba phòng, tất cả đều dơ bẩn, u ám: đó là chỗ ngủ của sư trưởng, một phòng khách dành cho các sư vãng lai, và một căn phòng chứa đồ. Bên ngoài có một hành lang, nhỏ dẫn đến nhà bếp.

Có một khoảng diện tích hẹp là góc ăn uống, cũng rất dơ bẩn, và một bếp lò bằng gỗ với ba hòn gạch để lên trên, nơi người ta có thể đặt những chiếc nồi lên đó nấu. Phía sau nhà bếp là căn nhà vệ sinh, chỉ dành riêng cho sư trưởng sử dụng.

Mấy đứa trẻ chúng tôi được bảo phải giải tỏa ngoài đồng trống, phía sau khuôn viên chùa. Và khi nào chúng tôi làm việc đó, là mấy con heo hàng xóm sẽ đến và ủi sạch cho chúng tôi. Cũng giống như ở ngôi chùa đầu tiên, tôi cũng có rất nhiều bổn phận phải làm.

Tôi phải bửa củi nấu ăn, gánh nước từ giếng lên, quét sân, hái hoa chưng bàn Phật, nấu ăn, rửa chén, và cho hơn cả chục chó mèo chạy rông trong chùa ăn. Bên cạnh những công việc nầy tôi còn phải học thuộc lòng những bài kinh tiếng Phạn từ các sách gọi là Sataka, nghĩa đen là “một trăm” nhưng thường ám chỉ “một trăm câu thơ tán thán Đức Phật”.

Khi thuộc lòng hết một quyển sách, chúng tôi sang qua quyển khác. Một trong những quyển sách Sataka giải thích về một trăm lẻ tám danh hiệu của Đức Phật, quyển khác lại giới thiệu về chín phẩm chất đáng ngưỡng mộ của Đức Phật...

Mục đích của việc bắt mấy đứa trẻ chúng tôi học thuộc những bài kinh nầy là vì ba việc: để dạy chúng tôi phát âm tiếng Phạn đúng; để giới thiệu với chúng tôi về những phẩm chất của Đức Phật; và quan trọng hơn cả, theo tôi, là để phát khởi sự tín tâm, thành ý trong những đầu óc non trẻ của chúng tôi.

Mỗi chiều, khi chúng tôi phải trả bài học thuộc lòng trong ngày, Sư Sonuttara sẽ vặn nhỏ ngọn đèn dầu xuống, để chúng tôi không thể ăn gian bằng cách đọc từ trong sách ra. Nếu tôi sai hay không thuộc đủ các bài kinh, Sư sẽ nổi giận và đánh tôi. Những cái đánh của Sư thì giống như "dụng cụ hỗ trợ học tập" không hoàn toàn giống như sự bạo lực, đã khiến tôi phải rời ngôi chùa đầu tiên.

Tuy nhiên, thường thì tôi học khá thuộc bài. Tôi có vẻ là người học mau hiểu biết và thầy tôi rất vừa lòng. Trong ba tháng, Sư đã tuyên bố rằng tôi tiến bộ nhiều, và đã sẵn sàng để được làm lễ thọ giới Sadi.

Sư Sonuttara cũng xem lịch để chọn một ngày giờ tốt cho buổi lễ. Rồi ông gửi lời mời cha mẹ tôi và khoảng hai mươi tăng sĩ từ các chùa khác trong vùng. Vị sư trưởng lão nhất trong vùng, Sư Alagoda Sumanatissa Nayaka Mahathera, sẽ đứng ra chủ lễ và truyền giới cho tôi.

Ngày hôm trước buổi lễ, cả chùa bận rộn với các sinh hoạt khi các vị khách lần lượt đến, và dân làng ở Malandeniya chuẩn bị thức ăn cho các khách tăng.

Rất nhiều bà con của tôi cũng đến trong ngày trọng đại đó, kể cả cha, anh rể, và Rambanda, người anh trai thân thiết của tôi. Mẹ tôi không thể đi xa như thế vì đau lưng. Bà rất đau khổ vì không thể có mặt ở đây, cha đã nói với tôi như thế và tôi cũng rất buồn.

Vào lúc mười giờ sáng, tất cả mọi người đều tụ lại trước hiên của khu nội viện tăng. Thông thường lễ xuất gia sẽ được tổ chức trong chánh điện, nhưng vì có quá nhiều khách dự, thầy tôi quyết định làm lễ ở một nơi rộng rãi hơn.

Tôi mặc áo chemise và xà rông trắng. Cha cùng với tôi tiến đến chỗ quý sư đang ngồi trên sàn nhà, cạnh bên một bàn thờ vừa được dựng lên, đối mặt với đám đông.

Tôi quỳ xuống trước vị lão sư, Sumanatissa, và đảnh lễ Sư ba lần. Sư bảo tôi xin phép cha để được bước vào cuộc sống không nhà của người tu. Vì thế tôi quỳ xuống trước mặt cha và lập lại nghi lễ vái lạy ba lần, mỗi lần đều để trán chạm xuống nền nhà ngay chỗ chân cha, để bày tỏ lòng kính trọng. Tôi vẫn còn nhớ gương mặt nghiêm trang của cha khi nhìn xuống tôi.

Khi tôi quay trở lại phía các sư, Sư Sumanatissa lấy kéo cắt một vài lọn tóc của tôi, và dạy tôi lặp lại theo Sư:

- Tóc trên đầu, lông trên thân, móng tay chân, răng, da. Các bộ phận thân thể là những đối tượng thiền quán đầu tiên của tôi.

Đây là lời chỉ giáo truyền thống dành cho tất cả những ai vừa xuất gia, phản ảnh lãnh vực đầu tiên trong Tứ niệm xứ của Đức Phật, đó là thân vật chất. Trong kinh Mahasatipatthana, bài kinh về Tứ Niệm Xứ, một trong những bài kinh chánh yếu của Đức Phật, đã chỉ bày cho chúng ta bốn lãnh vực mà ta cần chú tâm thẳng đến: thân, thọ, tâm và đối tượng của tâm.

Nếu thật sự quán sát bốn lãnh vực nầy với sự chú tâm hoàn toàn, không xao lãng và rõ ràng, chúng ta bắt đầu thấy rằng chúng luôn biến đổi với thời gian. Chúng chuyển biến, thay đổi từ phút này qua phút khác, khiến ta không thể bám vào khoảnh khắc của chúng.

Quán tưởng về bốn đối tượng không ngừng chuyển đổi nầy, ta sẽ thấy sự vô thường của vạn vật, thể hiện trong chính sự hiện hữu của chúng ta. Hơn thế nữa, chúng ta sẽ thấy rằng, không có sự khác biệt giữa chúng ta và tha nhân.

Mỗi người và tất cả chúng ta, là một tổng thể của thân, thọ, tâm và pháp. Hiểu được như thế, chúng ta sẽ trở nên đồng cảm với người khác. Lòng ganh tỵ và chia rẽ sẽ tan dần, và được thay thế bằng lòng bi mẫn và tâm từ bi.

Nhưng đó không phải là điều dành cho một đứa trẻ mười hai tuổi, đang trong buổi lễ xuất gia của mình, tất cả những điều đó, vẫn còn là một mục đích xa vời, trong ngày mà chú sadi nhận chủ đề thiền quán đầu tiên của mình.

Các vị trưởng lão cũng có thể hướng dẫn cho các chú sadi đến bất cứ lãnh vực nào của tứ niệm xứ, nhưng họ luôn chọn thân, vì lãnh vực đó rất dễ, ngay chính người sơ cơ cũng có thể cảm nhận.

Thân thì, có thể nói là ở ngay đây, với tất cả những ham muốn, đau khổ, kiêu mạn phát khởi ngay nơi thân. Nhưng khi quỳ gối trước thầy tôi, tôi hoàn toàn mù mịt về những gì tôi sẽ tu tập sau nầy, về niệm xứ đầu tiên nầy.

Vị lão sư bỏ mấy lọn tóc vào lòng bàn tay tôi. Đó là dấu hiệu để một vị tăng trẻ bước đến, dẫn tôi ra ngoài để cạo hết phần tóc còn lại trên đầu tôi. Nghi lễ cạo tóc, biểu tượng của một người tu sĩ từ bỏ những bám víu vật chất thế gian, lúc nào cũng được diễn ra ở nơi kín đáo, tránh xa sự chứng kiến của các cư sĩ.

Khi đầu tôi đã được cạo sạch trơn, tôi đi tắm ở giếng chùa, sau nhà bếp. Sau đó tôi mặc lại bộ quần áo trắng. Khi quay lại phòng họp, tôi đội trên đầu một bọc vải đã được xếp lại, đó là y của tôi.

Tôi quỳ trước thầy tôi. Tụng bằng tiếng Pali, tôi thỉnh cầu Sư chấp nhận bộ y mà tôi có, và truyền giới cho tôi làm sadi, để tôi có thể chấm dứt mọi khổ đau và đạt được Niết Bàn.

Tôi lạy ba lạy nữa. Rồi Sư Sumanatissa làm lễ quy y tam bảo và truyền mười giới là những đạo đức căn bản trong cuộc sống mới của tôi. Sư đọc tụng bằng tiếng Pali và tôi lập lại theo Sư:

Con nguyện quy y Phật.

Con nguyện quy y Pháp.

Con nguyện quy y Tăng.

(Được tụng ba lần)

Con xin giữ giới không sát hại.

Con xin giữ giới không trộm cắp.

Con xin giữ giới không tà dâm.

Con xin giữ giới không nói dối.

Con xin giữ giới không uống rượu và các chất gây nghiện.
C
on xin giữ giới không ăn sái giờ.

Con xin giữ giới tránh xa sự múa hát, chơi các nhạc cụ, xem múa hát.

Con xin giữ giới không đeo tràng hoa, thoa nước thơm, trang điểm, làm đẹp thân thể.

Con xin giữ giới tránh xa chỗ nằm ngồi quá cao sang và đẹp đẽ.

Con xin giữ giới không nhận vàng bạc.

Sau khi đọc tụng những lời này, tôi thỉnh cầu thầy tôi hãy chia sẻ công đức mà tôi đã có được do xuất gia:

- Bạch Sư, xin hãy hoan hỷ chấp nhận mọi công đức mà con đã có được, và cho phép con được chia sẻ những công đức của Sư.

Rồi tôi đảnh lễ Sư ba lần, cũng như đảnh lễ tất cả các vị tăng sĩ khác. Cuối cùng, Sư Sumanatissa ban cho tôi danh hiệu mới: Gunaratana, “Báu vật của Giới hạnh.” Giờ thì tôi đã là một Sadi.

Tôi được cho một cái gối nhỏ và được ngồi giữa các tăng sĩ khác, dầu không được quá gần! Tôi ngồi xuống và một nhóm nhỏ các cư sĩ bước đến, mỗi người vái chào và đặt một món quà nhỏ trước mặt tôi. Có khăn lông, xà phòng, một cây dù, những đồ vật thật hữu dụng cho tôi trong cuộc đời mới, đơn giản này.

Ngày lễ được kết thúc với một bữa ăn thịnh soạn. Tôi cùng dùng bữa với các vị sư khác, ngồi trên sàn nhà. Thực phẩm do các cư sĩ cúng dường ở chùa chỉ dành cho các tu sĩ, vì thế trước đó tôi chưa bao giờ được phép nếm qua. Thiệt là ngon.

Ngày hôm đó thực sự là một cao điểm trong cuộc đời tôi. Tất cả mọi thứ đều tuyệt vời, chỉ trừ một việc: người mẹ thương yêu của tôi vắng mặt. Tôi nhớ mẹ rất nhiều. Hai tuần sau đó tôi được về thăm mẹ. Bà quá đỗi vui mừng được gặp lại đứa con trai út của mình, giờ với chiếc đầu cạo bóng, mình mặc bộ y màu vàng của một vị tu sĩ xuất gia.

Bà trải một cái khăn sạch dưới chân tôi và đau đớn quỳ xuống để vái chào tôi. Cả ba lần, trán bà đều chạm xuống khăn. Ngược lại với ngày tôi rời nhà ra đi, khi ấy tôi đã lạy chào mẹ. Giờ mẹ lại bày tỏ lòng kính trọng đối với tôi. Thật là một giây phút xúc động mãnh liệt cho cả hai chúng tôi.

- Chú tiểu đáng yêu của mẹ.

Mẹ nói, mắt rướm lệ:

- Con không bao giờ được hoàn tục. Cuộc đời tu sĩ là tốt nhất cho con. Đó là một cuộc sống giải thoát. Đừng bao giờ nghĩ đến việc bỏ tu.

Kể từ ngày hôm đó, mỗi lần tôi về thăm nhà, mẹ tôi đều lặp lại nghi lễ và lời căn dặn đó, lúc nào cũng nói:

- Con trai, đừng bao giờ bỏ tu.

Sau lễ xuất gia, cuộc sống ở chùa lý ra phải thay đổi, vậy mà không phải thế. Vẫn còn những bài kinh phải học, các công việc phải làm, những hình phạt phải hứng chịu. Tuy nhiên các bữa ăn thì khác. Giờ, theo giới luật, tôi không được ăn sau giờ ngọ.

Căn bản là chúng tôi có một bữa ăn chính trong ngày. Bữa ăn có được bằng việc đi khất thực quanh làng. Là người vừa mới xuất gia, đó là nhiệm vụ của tôi. Mỗi ngày, sau khi xong việc buổi sáng, tôi rời chùa khoảng chín giờ ba mươi sáng. Một bình bằng đồng to, khoảng cỡ một nồi xúp, được máng vào một miếng vải to bản, treo quanh cổ tôi, miệng bình được đậy lại bằng vải cotton.

Bổn phận của tôi là thọ nhận thức ăn cho cả hai, sư trưởng và tôi, từ mỗi nhà trong sáu mươi hay khoảng đó nhà trong làng. Dân làng đứng trước cửa nhà họ, với những tô cơm hay rau hay bánh ngọt trong tay. Khi tôi chậm rãi bước qua, trong im lặng và tránh giao tiếp bằng mắt, họ sẽ đặt một muỗng đầy thực phẩm cúng dường của họ vào bình bát của tôi.

Ngày nay, việc khất thực vẫn còn được thực hành ở các làng khắp Á châu. Thật là một cảnh tượng đẹp đẽ, một hàng dài các tu sĩ đi trong im lặng, chân trần và dừng lại trước nhà của các cư sĩ. Dân làng thành kính chấp tay vái chào khi đặt thức ăn vào bình bát. Không một lời trao đổi.

Sự thực hành này là một truyền thống lâu đời được áp dụng, để tạo ra sự liên hệ tương quan giữa người tu và cư sĩ. Các tu sĩ, những người vì giữ giới không nấu ăn, tiếp nhận sự nuôi dưỡng từ các cư sĩ. Người cư sĩ, bằng cách cúng dường thực phẩm cho người tu, được công đức tâm linh và hỗ trợ sự tiếp nối con đường của Đức Phật.

Nhưng đối với tôi, việc đi khất thực bao giờ cũng đầy căng thẳng. Tôi phải đến tất cả sáu mươi nhà và trở về chùa đúng mười một giờ sáng. Nếu tôi chỉ trễ năm phút, thầy tôi cũng nhất quyết không ăn. Giới luật đặt ra cho người tu là phải xong bữa trước ngọ, và thầy tôi không muốn phải ăn một cách hối hả.

Vì thế tôi phải nhanh chân đi qua làng, không dám thiếu sót nhà nào, vì như thế sẽ khiến cho người ở nhà đó không được có công đức cúng dường thực phẩm, rồi họ sẽ than phiền với thầy tôi và tôi sẽ bị quở phạt.

Trong làng có rất nhiều chó, chúng cũng đói. Khi nhìn thấy một đứa trẻ mang bình bát đầy thức ăn nóng sốt, thơm lừng, chúng trở nên rất hung tợn. Tôi cố gắng xua đuổi chúng bằng cây dù tôi mang theo để bảo vệ tôi khỏi ánh nắng mặt trời thiêu đốt. Nhưng tôi khó mà thành công.

Đôi khi tôi cố gắng chạy trốn lũ chó, nhưng với chiếc bình bát nặng treo quanh cổ, điều đó không dễ dàng. Không thể tránh được tôi bị vấp ngã, đổ thức ăn ra đất. Lũ chó sẽ rượt theo tôi, gầm gừ cắn táp. Nhiều khi tôi trở về chùa với đôi chân chảy máu và một bình bát chỉ còn một nửa đồ ăn.

Vài người dân làng hình như cảm thấy tội nghiệp cho tôi. Bất cứ khi nào có một con chó nào đó cắn tôi, vài ngày sau họ sẽ đến chùa và tuyên bố rằng con chó đó đã chết. Kết cục như thế không phải là điều tôi muốn xảy ra chút nào, nhưng dù sao nó cũng đã xảy ra.

Mỗi ngày sau bữa ăn, tôi phụ hai cậu bé ở chùa dọn dẹp nhà bếp, rồi tôi phải đi bộ gần ba cây số để đến một ngôi chùa ở làng kế bên, nơi vị trụ trì ở đó sẽ dạy tiếng Pali cho tôi. Tôi có thể học thuộc kinh một cách dễ dàng, vì thế vị thầy này rất thích tôi.

Rồi sau buổi học, tôi lại nhanh chóng trở về chùa của tôi, để làm các công việc trong chùa và công phu chiều, một nghi lễ tán tụng các phẩm chất của Phật, Pháp, và Tăng. Sau buổi lễ, chúng tôi dùng trà và tôi phải học tiếp nữa. Thường chúng tôi đi ngủ lúc chín giờ ba mươi tối. Chuông đánh thức sẽ nổi lên lúc bốn giờ sáng hôm sau.

Giống như cha tôi, Sư Sonuttara rất nóng tính. Sư dùng ngôn ngữ không tế nhị để chửi rủa tôi và mấy cậu bé trong chùa. Nếu chúng tôi phạm bất cứ điều luật gì, hay xao lãng công việc hàng ngày, dù chỉ chút ít, Sư cũng không ngần ngại gì để đánh chúng tôi với bất cứ thứ gì trong tầm tay: đá, roi, gạch, chổi, hay ngay cả dao.

Vì thế tôi hết sức cố gắng để tuân theo các luật lệ. Ngay khi vừa thức dậy lúc bốn giờ mỗi sáng, tôi bắt đầu chuẩn bị điểm tâm và đun nước. Đến năm giờ, thầy tôi cần nước để rửa mặt. Sau đó tôi phải đi hái hoa tươi và chưng trên bàn thờ, chuẩn bị cho công phu buổi sáng lúc năm giờ rưỡi.

Điểm tâm sẽ phải sẵn sàng đúng sáu giờ. Sư Sonuttara muốn mấy cái đĩa cho chó ăn phải để cạnh bên chỗ sư ngồi, để chính tay sư có thể cho chúng ăn. Chúng tôi không được ăn cho đến khi sư đã dùng xong, rồi chúng tôi phải ngốn vội thức ăn để có thể nhanh chóng bắt tay vào các nhiệm vụ khác.

Sau khi đã thọ giới làm sadi, tôi được phép ngồi cạnh sư để ăn, nhưng sư ngồi trên ghế với đĩa thức ăn trên bàn. Tôi ở gần bên, ngồi trên sàn nhà, với đĩa đồ ăn để trên một chiếc ghế đẩu thấp trước mặt tôi.

Khi tôi đi khất thực về lúc mười một giờ, chúng tôi lại trải qua một nghi lễ tương tự để phục vụ buổi trưa, rồi ngốn vội bữa ăn của chính mình. Một giờ trưa là lúc thầy chúng tôi phải có trà trên một chiếc bàn đặc biệt. Sau đó tôi đi qua chùa kia để học tiếng Pali, và không được về trễ hơn ba giờ chiều.

Vườn cây và hoa phải được tưới xong lúc năm giờ rưỡi, sau đó tôi có thì giờ để vội vã đi tắm, trước thời khóa tụng kinh buổi chiều lúc sáu giờ. Sáu giờ rưỡi, tôi châm trà cho Sư. Bảy giờ tôi trả bài thuộc lòng cho sư. Sau đó, tôi chuẩn bị trầu cau cho sư ăn lúc bảy giờ rưỡi. Rồi là dọn dẹp lần cuối trước khi đi ngủ.

Vào ngày rằm và mùng một, chúng tôi rất thích được khỏi làm những công việc hàng ngày nầy. Thay vì là các lao động chân tay, chúng tôi trở thành chủ đối với những người dân làng đến để ở lại chùa vào ngày đặc biệt đó. Phần đông họ là những người già cả, không biết đọc hay viết. Ở hầu hết các chùa, quý sư sẽ đọc các câu chuyện Jataka và giải thích về ý nghĩa quan trọng của chúng cho các cư sĩ nghe.

Jataka là những câu chuyện về tiền thân của Đức Phật. Cả bộ sách có khoảng 550 câu chuyện. Mỗi câu chuyện biểu hiện lại cho ta thấy Đức Phật trong những kiếp sống trước đã có các phẩm chất cao thượng như thế nào: rộng lượng, đạo đức, xả ly, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, kiên quyết, từ bi, và hỷ xả.

Đôi khi trong các câu chuyện nầy, Đức Phật có thể ở trong kiếp thú; nhưng Ngài luôn là một vị Bồ Tát, hay người ở trong giai đoạn chuẩn bị thành Phật.

Vì đã học đến lớp bốn, tôi trở thành như là một người hùng đối với những người dân làng thất học đến chùa. Họ thích lắng nghe tôi đọc các câu chuyện bằng cái giọng mới lớn, như con gái.

Một ngày kia, tôi nhớ đang kể một câu chuyện từ tiền thân của Đức Phật. Tôi nói rằng sau khi rời cung điện của vua cha và cắt tóc, hoàng tử Siddhattha trở thành một nhà tu khổ hạnh. Ngài quấn y vàng quanh người và khất thực trong bình bát.

Một trong những người dân làng đang lắng nghe, một ông lão giống như ông nội tôi, nói:

- Nầy chú tiểu, tôi nghĩ chú sai rồi. Y vàng và bình bát chưa có mặt trên thế gian này cho đến khi thái tử Siddhattha trở thành Phật và bắt đầu thiết lập Tăng đoàn.

Tôi trả lời ông:

- Thưa ông, cái bình bát trong tiếng Phạn là patra, có nghĩa là bất cứ một đồ chứa gì có nắp ở trên. Chắc chắn rằng những vật dụng như thế, đã được sử dụng trước khi Đức Phật có mặt.

Những người ăn xin thường sử dụng chúng. Và tiếng Phạn cho y vàng là kashaya vastra, để chỉ bất cứ mảnh vải vàng nào. Vậy tại sao thái tử Sidhattha không thể quấn y áo màu vàng?

Theo tôi nhớ, câu trả lời của tôi đã làm ông lão rất vừa lòng. Nhưng không phải mọi thứ ở chùa đều trôi chảy như thế. Một ngày kia mấy cậu bé trong chùa, chúng đều lớn hơn tôi, mời tôi hút thuốc với chúng. Tôi hút, và thế là một thói quen nghiện hút đã thành hình.

Chúng tôi không có tiền để mua thuốc lá, vì thế chúng tôi đã lấy cắp thuốc lá từ phòng của sư trưởng, nơi sư cất để khi nhai trầu, sư trộn với trầu cau. Chúng tôi cuộn thuốc lá trong những mảnh giấy báo và bí mật hút.

Thỉnh thoảng sư bắt gặp chúng tôi hút thuốc và đánh chúng tôi vì tội đó. Nhưng điều đó cũng không làm chúng tôi suy chuyển; chúng tôi chỉ trở nên cẩn thận hơn để không bị bắt gặp.

Một ngày kia sau khi khất thực trở về, tôi đốt một điếu thuốc ve tròn nhỏ trong nhà bếp và bắt đầu hút. Thầy tôi xuất hiện, đang bưng một cái thau trên đường ra giếng tắm. Sư dừng lại, nhìn thẳng vào tôi, tôi đã bị bắt quả tang.

- Sư sẽ không đánh con lần này. Ông nói:

- Nhưng nếu Sư bắt gặp con hút lần nữa thì sư sẽ phải làm gì với con? Con nói cho sư nghe đi.

Tôi nghẹn lời. Sự giận dữ của thầy tôi rất đáng sợ. Tôi biết là chỉ có một câu trả lời cho câu hỏi đó.

- Nếu Sư thấy con hút thuốc lần nữa, Sư đánh con bao nhiêu cũng được. Tôi trả lời.

Nhưng tôi không bỏ thuốc được; tôi đã bị ghiện mất rồi. Vài tuần sau tôi lại bị sư bắt gặp. Sư Sonuttara đánh tôi bằng tay không. Sau đó, sư khoá thuốc lại để chúng tôi không thể lấy cắp.

Lần nữa, chúng tôi cũng không nản lòng mà chỉ trở nên mưu chước hơn: chúng tôi bán dừa, khăn lông, khăn tay, và gạo, bất cứ thứ gì đến tay chúng tôi, thường là vật thực của cư sĩ cúng dường, để mua thuốc lá.

Khi gần đến tuổi dậy thì, tôi cảm thấy rất muốn được độc lập. Tôi không còn quá sợ những cơn giận không đoán trước được của Sư Sonuttara. Những hình phạt quá khắt khe của Sư dường như bất công và tàn nhẫn quá nên tôi bắt đầu oán hận sư.

Tôi cũng bắt đầu cảm thấy tôi không được học hành đầy đủ. Tôi đã mười ba tuổi mà chỉ mới học xong lớp bốn, một thành đạt trong những ngày đó, nhưng đối với tôi vẫn chưa đủ. Cả thầy tôi lẫn vị sư ở chùa làng bên, người dạy tôi tiếng Pali, đều không được học hành đàng hoàng. Tôi muốn học thêm nữa, một ước muốn theo tôi suốt đời.

Tôi bắt đầu cảm thấy ở chùa giống như ở tù. Đây không phải là đời sống tôn giáo huy hoàng mà tôi đã mơ tưởng đến. Một ngày, sau khi thọ trai, Sư Sonuttara đi nghỉ trưa. Một trong mấy cậu bé kia muốn hái trái cam trên cây bên ngoài phòng Sư. Nó bắt đầu chọi đá lên cây để trái cam rụng xuống.

Tiếng động đánh thức thầy chúng tôi. Sư bước ra khỏi phòng, giận dữ muốn biết ai là người đã làm huyên náo. Cậu bé bảo đó là tôi, là tôi đã chọi đá. Và bỗng nhiên lúc đó tôi cũng nổi giận. Tôi hỏi cậu bé, bằng thứ ngôn ngữ rất khó nghe, tại sao nó nói dối Sư.

Sư Sonuttara quay qua tôi. Sư bảo tôi vô lễ. Sư bảo sư không cần biết ai đã chọi đá, nhưng vì tôi vô lễ, tôi là người phải bị phạt. Sư với lấy cây chổi và đánh tôi tới tấp, cho tới lúc tôi ngã ra sàn nhà. Tôi không còn thở nổi. Đó là giọt nước tràn ly cho tôi.

Chiều hôm đó, tôi thu gom sách vở như thường lệ khi tôi phải đến chùa Kebilitigoda học tiếng Pali. Tôi bắt đầu ra cửa, đúng lúc thầy tôi và những đứa trẻ khác đi về hướng phía sau chùa, để đào một nhà vệ sinh mới. Tôi canh cho họ đi qua, rồi tôi lặng lẽ trở vào bên trong, vứt sách xuống.

Tôi vào phòng nơi mấy cậu bé ở chùa để đồ, tóm lấy một cái áo chemise và xà rông trắng. Không một chút nuối tiếc, tôi cởi y ra rồi mặc áo chemise và xà rông vào.

Một niềm hưng phấn trỗi dậy trong lòng, tôi lẻn ra cửa trước chùa, bước qua cổng hàng rào dây thép, đi trên con đường gồ ghề. Tôi không còn là một chú tiểu nữa. Tôi đã được tự do.

#315 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/07/2011 - 12:06

HÀNH TRÌNH ĐẾN CHÁNH NIỆM

Chương Ba

Một Cuộc Chạy Trốn

Khi cởi bỏ y áo rời chùa, trong đầu tôi chỉ có một ý nghĩ: về nhà. Tuy nhiên, trước hết, tôi ghé qua nhà chị gái. Anh rể tôi hình như chỉ hơi ngạc nhiên khi thấy tôi. Anh đã nghe kể về những khó khăn của tôi, nên anh mỉm cười nói:

- Em rời chỗ đó là đúng rồi. Cứ ở đây một lúc, anh sẽ tìm cho em một ngôi chùa khác.

Nhưng tôi lo sợ rằng nếu tôi ở đó, đại đức Sonuttara sẽ đến tìm tôi. Vì thế tôi chạy về nhà cha mẹ tôi. Mẹ tôi bị sốc khi nhìn thấy tôi. Bà hỏi tại sao tôi bỏ chùa, vì thế tôi kể cho mẹ nghe những gì đã xảy ra. Bà không nói gì nhiều, chỉ bắt đầu khóc.

Buổi tối cha tôi từ ngoài ruộng lúa trở về nhà. Tôi kể với ông về những sự ngược đãi mà tôi đã phải chịu đựng ở chùa. Nhìn nét mặt cha, tôi biết rằng ông không tin tôi, nhưng ông vẫn giữ bình tĩnh. Các anh chị em tôi, tất cả đều rất vui được gặp lại tôi, nhưng không ai nói gì nhiều. Họ chỉ chấp nhận sự có mặt của tôi ở đó.

Tuy nhiên, tất cả chúng tôi dường như đều biết rằng việc này không thể kéo dài lâu hơn. Việc nhà sư cởi bỏ y áo là điều cấm kỵ. Nó sẽ mang lại những điều bất hạnh, hay ngay cả sự tủi nhục, cho cả gia đình.

Ngay chiều hôm sau, thầy tôi đã có mặt ở nhà tôi. Cha mẹ tôi, vì lòng kính trọng đối với tăng sĩ, đã không đòi ông giải thích tại sao tôi phải chạy trốn khỏi chùa. Họ giả vờ như không biết bất cứ điều gì đã xảy ra.

Sau vài phút chuyện trò xã giao, sư Sonuttara yêu cầu tôi trở về chùa với ông. Tôi nhìn cha mẹ, cầu khẩn trong im lặng sự giúp đỡ của họ, hy vọng rằng họ sẽ đứng lên để bảo vệ tôi, và nói rằng họ muốn tôi ở nhà với họ.

Nhưng không ai nói gì trong những giây phút đó. Hoàn toàn im lặng. Cha mẹ hình như không dám nhìn tôi. Sau đó thầy tôi lặp lại yêu cầu của ông. Cha tôi gật đầu, nói nhỏ:

- Con phải đi theo Thầy.

Tim tôi chùng xuống. Tôi biết rằng nếu tôi cố ở lại, thì cha tôi cũng sẽ dùng sức mạnh để bắt tôi về chùa ngày hôm sau, hay ngày hôm sau nữa. Và tôi không muốn mang lại sự tủi nhục cho gia đình. Vì thế tôi ra đi theo sư Sonuttara.

Ngay khi chúng tôi trở lại chùa, Sư lại làm lễ xuất gia cho tôi lần nữa, trong một buổi lễ kém quan trọng hơn lần đầu rất nhiều. Lần thứ hai trong cuộc đời, tôi lại mặc lên mình bộ y vàng. Tôi chỉ có thể hy vọng rằng lần này nó sẽ tốt hơn.

Sư Sonuttara, thầy tôi, là một thành viên của hội đồng Tăng già, bộ phận quản lý tông phái của chúng tôi, phải trải qua một tháng giữa rằm tháng sáu và rằm tháng bảy ở Kandy. Trong tháng đó, hội đồng Tăng già tổ chức các buổi lễ thọ đại giới cho các sadi, đôi khi truyền giới tỳ kheo cho đến ba mươi vị trong một ngày.

Trong lúc thầy tôi vắng mặt, tôi đảm nhiệm việc quản lý chùa, dầu rằng tôi chỉ mới mười ba tuổi và hãy còn là một Sadi. Một ngày kia, khi thầy tôi vắng mặt, và tôi coi sóc chùa, có một người đàn ông đã đến chùa xin cam.

Chúng tôi có hai cây cam trong khuôn viên chùa, vì thế khi nào dân làng cần cam, họ đến xin chúng tôi. Anh ta trả cho tôi khoảng gần một rupee, tương đương với khoảng hai mươi lăm xu tiền Mỹ. Một trong những đứa trẻ ở chùa đã đi Kandy với sư Sonuttara, vì thế chỉ còn một đứa ở lại với tôi, tên là Hinnimahattaya.

Thường thì chúng tôi chia sẻ với nhau mọi thứ, giống như cặp bài trùng. Vì thế ngay khi người đó đã ra đi với một bao cam, Hinnimahattaya đòi tôi phải chia phần cho hắn.

- Ông ta chỉ đưa cho tôi hai mươi lăm xu.

Tôi nói với Hinnimahattaya:

- Mà trong đó chúng ta phải mua đường, trà, và một ít dầu cho đèn tối nay.

Hinnimahattaya rất bực mình. Hắn xổ ra một tràng chửi rủa tục tĩu, nên tôi đánh hắn một trận. Một lần khác, chúng tôi không còn diêm để đốt đèn dầu. Tôi bảo Hinnimahattaya chạy qua nhà hàng xóm mượn đốm lửa. Đó là việc rất thường vào thời ấy, đi mượn lửa từ nhà hàng xóm.

Nhưng Hinnimahattaya từ chối không đi. Nên tôi đe dọa hắn: nếu hắn không đi lấy lửa, tôi sẽ không chia cho hắn nửa điếu thuốc của tôi. (Thường thì chúng tôi chia nhau thuốc hút; tôi sẽ hút một nửa rồi đưa cho hắn một nửa.) Nhưng Hinnimahattaya không nghe. Nó thà là không có nửa điếu thuốc hơn là phải chạy đi công việc.

Vì thế tôi phải tự đi, và khi tôi trở lại với cây lửa, tôi đốt một điếu thuốc. Hinnimahattaya nhìn tôi nôn nóng. Khi điếu thuốc vừa hết một nửa, nó đòi tôi chia phân nửa còn lại.

- Hãy quên đi.

Tôi nói:

- Luật là luật. Tao đã phải chạy đi lấy lửa, thì mầy đừng hòng được hút chút thuốc nào.

Hinnimahattaya bắt đầu chửi rủa tôi. Quá tức giận, tôi đẩy nó vào tường, rồi dí thuốc vào hai khóe miệng của nó. Cũng có chuyện xảy ra nữa là, trong lúc Thầy tôi đi Kandy, có vài thiếu niên trong làng lên chùa ở với chúng tôi. Chúng tôi bày ra nhiều trò chơi.

Dĩ nhiên là một sadi, đáng lý ra tôi không được tham dự những trò chơi này, nhưng ai mà biết được khi thầy không có ở nhà? Một trong những trò chơi mà chúng tôi rất thích, được gọi là panca ganahava, có nghĩa là "trò chơi năm số". Chúng tôi thẩy các vỏ sò trên sàn nhà và tính điểm tuỳ thuộc vào số vỏ sò lật úp hay ngửa.

Một ngày kia người hàng xóm kế bên đến, bảo rằng anh ta muốn dạy chúng tôi chơi đánh bài. Anh ta chỉ cách chơi, và tất cả chúng tôi đều thích. Anh ta cho chúng tôi thắng liên tiếp mấy ván, rồi nói:

- Nếu mấy em có tiền, thì đặt cược trong ván bài này. Hôm nay là ngày may mắn của mấy em. Mấy em chắc sẽ thắng.

Tôi nói rằng tôi chỉ có một rupee. Anh ta nói:

- Tốt. Hãy chơi bằng tiền.

Tôi cá đồng rupee của mình và lập tức ăn được thêm hai cái nữa! Tôi khoái quá. Anh ta khuyến khích tôi chơi nữa. Dĩ nhiên, sau đó tôi thua. Người hàng xóm bỏ túi ba đồng rupee rồi ra về, mỉm cười. Vậy là kết thúc sự nghiệp cờ bạc ngắn ngủi của tôi, và tôi đã được một bài học chỉ trong lần thử duy nhất đó.

Chiều hôm đó thầy tôi từ Kandy trở về, việc đầu tiên sư làm là xem xét cái tô, chúng tôi dùng đựng thức ăn cúng Phật trong chánh điện. Chúng tôi đã được dặn là phải rửa sạch nó mỗi ngày trước ngọ. Ngày hôm đó, sư Sonuttara thấy là nó vẫn còn đầy thức ăn lúc một giờ trưa.

Lúc đó tôi đang ở trong bếp, chuẩn bị trà cho sư. Sư gọi tôi và tôi bước ra khỏi nhà bếp, bắt đầu bước xuống những bậc thềm để vào gian nhà chính. Bỗng nhiên tôi thấy một vật đang bay về phía mình, cái tô đựng thực phẩm trong chánh điện!

Thầy tôi quá giận đến nỗi ông đã liệng cái tô về phía tôi, ngay trước khi hỏi tại sao nó vẫn còn đầy. Cái tô trúng ngay trán tôi, rất mạnh, và tôi ngã xuống đất, chảy máu đầu. Cho đến ngày nay tôi vẫn còn vết thẹo trên trán. Thầy chúng tôi cũng thấy vết bỏng quanh miệng của Hinnimahattaya.

- Đã xảy ra chuyện gì?

Sư hỏi tôi. Tôi đã dặn Hinnimahattaya không được nói với thầy về vụ hút thuốc. Nếu nó nói, cả hai chúng tôi sẽ bị phạt vì đã hút thuốc. May mắn thay, Hinnimahattaya đã không nói gì. Tôi thưa với sư Sonuttara rằng thằng bé đã chửi tôi, vì thế tôi châm lửa vào miệng hắn để phạt.

Ngạc nhiên thay, hình như Sư đã tin như thế, nên không nói gì thêm nữa. Tuy nhiên, đó chỉ là một trong những trường hợp hiếm hoi mà tôi có thể trốn tránh tội mình. Tánh thầy tôi nóng nảy, ít khi kiềm chế được, và việc đánh đập vẫn tiếp diễn, đôi khi chỉ vì những sự vi phạm luật lệ nhỏ nhặt nhất.

Sư là một nhà độc tài, và chúng tôi phải thi hành tất cả mệnh lệnh của sư, mà không được thắc mắc hay bàn cãi. Ngoài tính độc đoán và nóng nảy, sư Sonuttara thật sự cũng có những điều tử tế. Đặc biệt, sư rất thương thú vật; đó là lý do tại sao sư cho tất cả đám mèo chó hoang trong vùng được ăn.

Và nếu có những người bệnh tìm đến chùa để nhờ giúp đỡ, sư cũng cho họ thuốc, miễn phí. Thỉnh thoảng có những đứa trẻ trong chùa chạy trốn, đem theo một vật gì đó có giá trị, như là một cây đèn dầu bằng đồng hay ngay cả một trong những bức tượng Phật.

- Hãy tha cho nó.

Thầy tôi sẽ nói:

- Nó cũng nghèo. Nó có thể bán những thứ đó để kiếm chút tiền. Chúng ta có thể mua cái khác để thay cho cái đã bị lấy đi.

Giờ xét lại những hành động của sư Sonuttara, tôi nghĩ rằng sư thực sự chỉ muốn tôi trở thành một người tu sĩ tốt, không bị lôi cuốn theo các bản năng của tuổi trẻ, chỉ muốn được tự do, độc lập. Và sư khuyến khích thiện tánh bằng cách dùng những hình thức trừng phạt phổ biến thời đó: sự đánh đập.

Dĩ nhiên, tôi không thể hiểu được như thế cho đến mãi sau này, khi tôi đã trưởng thành. Còn lúc tôi là sadi, sống ở chùa của sư, thì tôi rất khổ đau. Tôi luôn bị hành hạ dưới sự cai quản của sư.

Đến một lúc, tôi bắt đầu bàn với một trong những đứa trẻ ở chùa về việc bỏ trốn. Nó cũng rất bất mãn. Cả hai chúng tôi đều để dành tiền, và tích trữ đèn cầy, chúng tôi dự định đêm nào đó sẽ bỏ trốn. Một ngày kia cả hai chúng tôi đồng ý sẽ trốn đi đêm đó.

Ngày hôm đó cả hai chúng tôi đều làm việc chăm chỉ hơn ngày thường, cố gắng làm vừa lòng sư để ông không nghi ngờ gì. Đêm đó, sau khi mọi người trong chùa đã đi ngủ, tôi cởi y ra, mặc trở lại áo sơmi và xà rong. Tôi và người bạn đồng lõa lén lút ra đi bằng cửa sau.

Trước hết chúng tôi phải đi qua một nghĩa trang, là việc cả hai đều rất sợ. Rồi chúng tôi đi trên một chiếc cầu gỗ bắc qua một con suối nhỏ. Chúng tôi đã nghe nhiều câu chuyện từ dân địa phương, rằng đây là nơi mà những con quỷ dữ và chằn tinh thường ăn thịt người.

Truyền thuyết cũng nói rằng dấu hiệu đầu tiên về sự có mặt của chúng, sẽ là một con chó đen to lớn. Thông thường, nếu người ta phải đi qua chiếc cầu đó, họ sẽ đi thành từng nhóm, mọi người sẽ nói lớn tiếng, và cầm những bó đuốc cháy bùng để xua đuổi lũ quỷ.

Nhưng vì đang chạy trốn, chúng tôi phải im lặng và không thể đốt đèn cầy mà chúng tôi đã mang theo mình, vì sợ rằng ai đó sẽ phát hiện ra chúng tôi. Chúng tôi đi qua cầu đúng lúc giữa đêm. Chúng tôi run rẩy, miệng khô đắng. Tóc dựng đứng. Chúng tôi không thể nói lời nào với nhau, chỉ chầm chậm bước đi trong bóng tối dày đặc.

Thình lình, một con chó đen to lớn hiện trước mặt chúng tôi, và tim tôi bắt đầu đập mạnh hơn. Rồi cả hai chúng tôi đều bị tát vào mặt, mạnh đến nỗi suýt té khỏi cầu, và rơi xuống nước. Thì ra con chó đen to lớn đó là con chó ở chùa và những cái tát tay là của thầy chúng tôi, người đã nghe được chúng tôi lén lút trốn đi ở cửa sau, nên đã đi theo chúng tôi đến tận cây cầu.

Theo lệnh của ông, chúng tôi đành theo ông trở lại chùa, nơi tôi lập tức được thọ giới lần thứ ba, giữa đêm khuya. Không có một đứa trẻ nào khác ở chùa biết về chuyện này, cả dân làng cũng thế. Ngày hôm sau, mặc trở lại chiếc áo người tu, tôi ôm bình bát vào làng để khất thực như lệ thường.

Khi tôi được mười lăm tuổi hay khoảng đó, tôi bắt đầu để ý đến một cô gái trong làng khoảng tuổi tôi. Mỗi ngày cô đứng trước cửa nhà khi tôi ôm bình bát đi ngang qua. Cô cao gần bằng tôi, với mái tóc đen dài. Cô cũng có khuôn mặt tròn như tôi, với màu da trắng hơn da của người Sinhala bình thường, và một hàm răng hoàn hảo được phô bày mỗi khi cô cười.

Theo tôi cô rất đẹp. Một ngày kia, khi cô bỏ gạo vào bình bát của tôi, chúng tôi thầm thì trao đổi vài lời ngắn ngủi, một điều rất trái với giới luật người tu. Tối hôm đó, khi ra giếng tắm, tôi cố ý va mạnh chiếc thùng vào thành giếng để gây tiếng động đủ lớn, cho cô có thể nghe thấy từ nhà. Đó là tín hiệu mà chúng tôi đã đồng ý với nhau.

Chỉ một lúc sau cô đã chạy ra giếng, mang theo một chiếc bình như thể cô cần lấy thêm nước. Tôi rất sung sương thấy cô đến. Chuyện như thế kéo dài khoảng mười ngày. Tôi sẽ va thùng vào giếng; cô ta sẽ chụp lấy bất cứ bình nước nào trong nhà, và nếu nó còn đầy nước thì cô sẽ đổ nước đi để có lý do ra giếng.

Dầu còn e dè chưa dám bày tỏ tình cảm thân thiết dành cho nhau, nhưng chúng tôi cũng có những buổi chuyện trò rất lâu, rất dễ thương, và càng ngày chúng càng dài hơn. Tôi kể với cô rằng cuộc sống ở chùa giống như ở tù. Chúng tôi cũng nói chuyện người khác trong làng. Cô kể cho tôi nghe về cuộc sống ở nhà cô.

Dần dần thầy tôi cũng bắt đầu thắc mắc tại sao tôi tắm quá lâu, và một ngày ông ra đó xem, bắt gặp chúng tôi đang nói chuyện và cười đùa. Dĩ nhiên là ông rất giận. Tăng sĩ ở bất cứ độ tuổi nào cũng không được tiếp xúc thân mật với nữ giới. Ông cấm cô gái không được ra giếng khi tôi ở đó.

Trở về chùa, ông nặng lời rầy la tôi, và ra lệnh cho tôi phải đi tắm trễ hơn, vào lúc mà ông nghĩ rằng sẽ quá trễ cho cô gái ra giếng. Thực ra, điều đó còn tốt hơn vì tôi biết rằng chúng tôi sẽ được trò chuyện kín đáo lúc đêm khuya, khi không ai có thể thấy chúng tôi bên nhau. Vì thế chúng tôi tiếp tục những cuộc gặp gỡ thầm lén này.

Dĩ nhiên, thầy tôi lại bắt gặp chúng tôi lần nữa, và lần này sự phản kháng của ông còn mạnh mẽ hơn. Ông cấm cô gái không bao giờ được ra giếng nữa. Ông dọa rằng ông sẽ báo cho cha mẹ cô biết về những hành động của cô. Cô gái khóc, van xin ông đừng nói cho cha mẹ cô biết. Cô hứa không ra giếng nữa và cô đã giữ lời. Tôi chẳng bao giờ gặp lại cô nữa.

Giờ khi nhìn lại sự việc đó, sau nhiều năm học và thực hành pháp, tôi thấy rõ ràng là người ta không nên xuất gia quá sớm, như thường xảy ra vào thời của tôi. Trước hết họ cần được học thế học, được phép chơi thể thao, trò chơi, bạn bè và hội hè, tất cả những thứ mà người trẻ thường ham thích.

Rồi khi đã trưởng thành, họ có thể chọn lựa một cách chín chắn về việc có nên xuất gia hay không. Gia nhập Tăng đoàn là một việc rất nghiêm trọng, và tôi không nghĩ rằng một người còn nhỏ tuổi có thể sẵn sàng chọn lựa một cách đúng đắn. Và cũng ít có đứa trẻ nào có thể chuẩn bị tinh thần, sẵn sàng chấp nhận những gian khổ và trói buộc của đời sống xuất gia.

Cách suy nghĩ cũ xưa ở xứ tôi là các chú bé, với tâm nhạy bén trẻ trung, có thể học thuộc các thánh điển dễ dàng hơn là người lớn. Cá tính của chúng cũng có thể được uốn nắn và rèn luyện để có được phong thái tự tại của một tăng sĩ thiền định.

Nhưng giờ tôi cũng không dám chắc rằng điều đó là đúng. Tôi cũng đã thấy rất nhiều người trưởng thành xuất gia ở tuổi trung niên hay lớn hơn thế nữa, sau khi đã lập gia đình, có con cái, và họ cũng là những tỳ kheo xuất sắc. Ngược lại, tôi cũng đã thấy rất nhiều vị tu sĩ xuất gia trước tuổi trưởng thành, vẫn tiếp tục cư xử như trẻ con.

Sau khi sư Sonuttara cắt đứt sự lãng mạn thân thiết của tôi với cô gái bên giếng, thì sự bất mãn với đời sống ở chùa trong tôi càng sâu nặng hơn. Tôi là một thiếu niên, với tâm tính bướng bỉnh và ước muốn được giáo dục một cách chính thống, hơn là những gì mà thầy tôi có thể mang đến cho tôi.

Tôi vẫn muốn làm người tu sĩ nhưng không phải dưới sự cai quản của vị thầy này. Tôi không thể tìm ra giải pháp nào ngoại trừ lại chạy trốn lần nữa, nhưng đi đâu chứ? Tôi biết rằng tôi không còn thể nào trở lại nhà được nữa. Cha mẹ tôi sẽ rất đau lòng nếu tôi lại hoàn tục. Tôi không thể mang lại sự tủi nhục cho họ nữa.

Vào khoảng thời gian đó, có hai cha con người kia đến sống ở chùa. Đứa con trai tên là Gunawardhena, và tôi với nó trở thành bạn tốt của nhau. Nó luôn nói với tôi rằng nó biết một nơi tốt hơn là chùa này, vì thế chúng tôi lại rấp tâm chuẩn bị chạy trốn với nhau.

Lần này, tôi quyết định phải làm cho chắc ăn. Tôi phải chạy trốn làm sao mà không ai có thể tìm được tôi. Vào ngày đã định, tôi nhờ người thợ hớt tóc trong làng cạo tóc cho tôi như thường lệ. Cả ngày hôm đó tôi luôn ở trong tình trạng phấn chấn với những dự tính của mình; và Gunawardhena cũng thế.

Mười một giờ đêm hôm đó, tôi đi nhà vệ sinh, và khi trở lại tôi để cửa trước hơi hé mở. Khoảng mười hai giờ rưỡi khuya, chúng tôi nghe tiếng sư phụ đã ngáy ngủ. Chúng tôi lấy một ít đèn cầy rồi xuống nhà bếp, nơi tôi lại cởi bỏ y áo và một lần nữa lại mặc vào chiếc áo sơmi và cái xà rong.

Rời khỏi khuôn viên chùa, chúng tôi đi về hướng ngược lại với hướng mà tôi đã đi trong lần chạy trốn trước. Với tất cả sức lực, chúng tôi chạy băng qua những ruộng lúa ra con đường chánh, cách đó khoảng ba cây số. Chung quanh chúng tôi chỉ có âm thanh của các con chim đi ăn đêm, cóc nhái, dế, và tiếng chó sủa ở đằng xa.

Khi ra đến đường lộ, chúng tôi bước chậm lại. Chẳng lâu sau chúng tôi thấy hai người cầm đèn tiến về phía chúng tôi. Đó là năm 1942, thời thế chiến thứ hai, và luật giới nghiêm đã được áp dụng ở khắp nơi trên Ceylon.

Gunawardhena run rẩy nói với tôi, không dùng pháp danh nhưng gọi tên thế tục của tôi.

- Ukkubanda, đó là cảnh sát. Họ sắp tra vấn chúng ta với đủ các câu hỏi đây. Chúng ta phải nói với họ làm sao?

Trong chớp mắt, tôi đã nghĩ ra một câu chuyện hoàn toàn tưởng tượng:

- Hãy nói rằng mẹ tôi chết hôm qua, và đã sai người đến chùa nhắn tin với chúng ta. Chúng ta trễ chuyến xe buýt đi dự đám tang của bà, nên giờ chúng ta phải đi dọc theo đường, hy vọng sáng nay sẽ có thể bắt được chuyến xe buýt khác.

Mấy người cảnh sát đến gần, nhìn tôi một cách nghi ngờ. Tôi đã dùng một khăn tay cột quanh cái đầu không tóc của mình, và một cái nữa cột chung quanh cổ. Vì không có dây nịt, nên tôi lại dùng một cái khăn nữa cột ngang thắt lưng để giữ chiếc xà rong. Số đèn cầy trong tay tôi cũng được gói trong một chiếc khăn tay.

- Hãy nhìn thằng quỷ này.

Một người cảnh sát nói:

- Cả người nó đầy khăn mùi xoa.

Họ tách tôi ra khỏi Gunawardhena và dẫn chúng tôi ra xa nhau khoảng mười thước, rồi hỏi mỗi đứa chúng tôi cùng một câu hỏi: Chúng tôi đi đâu giữa đêm hôm khuya khoắt thế này? Cả hai chúng tôi đều nói giống nhau, nên hai người cảnh sát để chúng tôi đi, không đá động gì đến chuyện giới nghiêm. Họ chỉ nói là khi đi chúng tôi cần phải đốt đèn cầy lên.

Hai tiếng sau chúng tôi đến Kurunegala, cách chùa khoảng hơn mười lăm cây số. Giờ thì chúng tôi cảm thấy an toàn hơn, vì chắc chắn rằng sư Sonuttara không thể nào đi theo chúng tôi xa đến vậy.

Khi trời bắt đầu sáng, chúng tôi tìm được một nơi trú ẩn bên đường, một trong những hình thức thường được biết đến, như là những nhà nghỉ dành cho người hành hương. Căn lều có tường thấp, mái tranh, nền đất mà người ta trải chiếu nằm lên đó. Phần lớn, những căn lều thô sơ trống trải này, được người lữ hành sử dụng để tránh nắng mưa, và mấy gã ăn mày dùng làm nơi nấu nướng bất cứ thứ gì mà họ đã cuỗm được.

Gunawardhena và tôi thật may mắn. Buổi sáng đó không có ai ở trong căn lều nọ. Mừng rỡ, chúng tôi nhào xuống đất và đánh một giấc ngay tức thì. Vài giờ sau, chúng tôi thức dậy rửa mặt với nước giếng lạnh. Chúng tôi lại bắt đầu đi tiếp, không rõ mình sẽ đi về đâu. Chúng tôi chỉ đi tới.

Cảnh vật chuyển đổi không ngừng. Chúng tôi đi qua những hàng dừa, những đồn điền cao su và trà, những thửa ruộng lúa, vườn chuối và các khu vườn trồng rau nhỏ bên ngoài những túp lều một gian. Hình như ở đâu cũng có chó hoang, nhiều con đã hoàn toàn rụng hết lông, và cũng lắm con mình đầy thương tích, vì bị chó khác cắn hay bị người ta đánh.

Chúng tôi cũng thường thấy khỉ rừng đong đưa trên cây hay chạy rong dưới đất. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe từ xa xa tiếng voi rống. Đôi khi cũng có xe hơi, xe hàng, xe buýt, xe máy và xe kéo, tất cả đều nhấn kèn để cảnh báo cho người đi bộ và người bên đường. Nhưng phần lớn lưu thông trên đường là người đi bộ.

Chúng tôi đã đi qua bao người đàn ông, phụ nữ, và trẻ em đi trên đường hay chăn bò, đuổi gà. Có người đánh những chiếc xe bò bằng gỗ thô sơ. Dọc theo đường có những căn nhà nhỏ làm bằng bùn là những tiệm buôn bán. Người ta ngồi trước các cửa tiệm này, nhai trầu, uống trà và tán gẫu.

Khách qua đường có thể dừng chân mua trà, bánh mì, cau ăn trầu, khô, dây thừng làm từ các sợi dây dừa và lương thực như đường, muối, gạo, đậu, và dầu lửa. Gunawardhena và tôi đã lấy cắp được ít tiền trong phòng của sư Sonuttara trước khi rời chùa, nên chúng tôi có tiền mua ít ổ bánh mì.

Chúng tôi thấy một trong đống dừa trong vườn nhà ai đó cạnh bên đường. Chúng tôi ăn cắp một trái, đập xuống đất cho đến khi bể ra. Thịt dừa, cùng với bánh mì, là bữa ăn đầu tiên của chúng tôi trong cuộc hành trình này. Ngày hôm đó chúng tôi đã đi ba mươi lăm cây số.

Chiều tối chúng tôi đến một thành phố gọi là Dambulla. Chúng tôi lại tìm được một nhà nghỉ cho người hành hương còn trống nữa. Chúng tôi trải vài tàu lá dừa trên sàn nhà và nằm xuống. Chúng tôi hoàn toàn kiệt sức.

Sáng hôm sau thức dậy chúng tôi thấy cả người đầy rận và ruồi đất. Chúng tôi ra một giếng gần bên, bẻ vài cọng cây trong bụi rậm và bắt đầu đánh răng bằng cọng cây đầy sơ. Một tăng sĩ tiến lại phía chúng tôi, nhìn tôi lom lom. Tôi cố gắng phớt lờ ông.

- Con là tu sĩ?

Ông hỏi, nhìn cái đầu không tóc của tôi.

- Không.

Tôi nói dối một cách dễ dàng.

- Tôi bị bệnh. Tôi vừa ra viện hôm qua.

- Con trông không giống người bệnh.

Vị tăng nói:

- Sư nghĩ con là tu sĩ. Hãy theo sư. Sư sẽ truyền giới lại cho con, ở chùa của sư.

Tôi suy nghĩ về điều đó. Tự đáy lòng tôi vẫn còn muốn làm người tu. Tôi chỉ cởi bỏ y áo vì thầy tôi quá ác độc. Vị sư này có vẻ tử tế hơn. Nhưng dĩ nhiên là tôi không thể đi mà không bàn với bạn tôi. Tôi quay qua Gunawardhena.

- Bạn nghĩ sao?

Tôi hỏi nó:

- Tôi thật sự không muốn hoàn tục. Đây là cơ hội để tôi được trở về làm người tu sĩ.

- Bạn điên à?

Gunawardhena nói:

- Bạn không nhớ thầy mình đã làm gì chúng ta à? Tất cả các thầy đều giống nhau. Họ không có trái tim. Họ chỉ nghĩ về luật lệ và giới cấm. Đừng có điên, hãy đi thôi.

Vị tăng sĩ càng dỗ ngọt. Ông bảo rằng ông quen biết vài viên chức người Anh ở một phi trường quân sự cạnh bên. Ông hứa sẽ tìm cho Gunawardhena một việc làm ở đó. Cả hai chúng tôi đều có thể sống ở chùa, tôi có thể là tu sĩ trong khi Gunawardhena làm việc ở phi trường.

Gunawardhena không muốn nghe bất cứ điều gì, và tôi không muốn bỏ rơi bạn mình. Vì thế chúng tôi từ giã vị sư và bắt đầu đi tiếp. Ngày hôm sau chúng tôi gặp một người đàn ông, làm việc cho một nhà thầu xây dựng nhân sự.

- Nếu muốn kiếm việc làm thì hãy đi theo tôi.

Hắn nói với chúng tôi:

- Chúng tôi có rất nhiều việc cần người làm.

Chúng tôi đồng ý. Công việc của chúng tôi thật ra là công việc lao động tay chân nặng nề. Họ trao hai cái xẻng và hai cái cần xé cho chúng tôi, rồi bảo chúng tôi đi xúc cát dưới suối, đổ thành đống lớn.

Nhiều tháng qua, chúng tôi đã làm việc ở đó trong một nhóm khoảng hai mươi thanh niên, từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối. Lương là một chấm hai rubi một ngày, tương đương với khoảng năm mươi xu. Từ số lương đó, chủ còn trừ hai mươi lăm xu ăn uống.

Mặc dù, điểm tâm là một ly trà với đường, và buổi tối là cơm với súp. Chúng tôi ngủ trong những chiếc võng, được làm bằng cách cột một bao tải giữa hai thân cây. Rừng đầy muỗi. Chúng tôi bị chúng cắn ngày đêm và không lâu sau đó thì Gunawardhena bị sốt rét. Nó bị sốt cao và không thể làm việc.

Tôi xin ông chủ hai ngày phép, để tôi có thể chăm sóc bạn mình. Ông ta từ chối.

- Tôi đã làm cho ông hàng tháng, bảy ngày một tuần, mười hai giờ một ngày.

Tôi nói:

- Mà tôi chỉ xin một vài ngày nghỉ.

Ông ta nhất định từ chối. Một là tôi phải tiếp tục làm việc, hai là cả tôi và Gunawardhena phải rời trại lao động.

- Được rồi.

Tôi nói:

- Hãy trả hết lương cho chúng tôi đi.

Ông chủ trả tiền và chúng tôi ra đi. Thế là chúng tôi bắt đầu cuộc đời của những kẻ ăn mày. Ban ngày chúng tôi lang thang dọc theo những con đường bụi bặm. Ban đêm chúng tôi chia phần thức ăn ít ỏi, của những người ăn xin khác trong các căn lều bên đường, rồi đùa giỡn, ca hát, nhảy múa và kể chuyện phiếm để giết thì giờ.

Mấy tuần chúng tôi không tắm. Quần áo chúng tôi dơ bẩn và chúng tôi hôi thối. Mỗi sáng những người ăn xin khác sẽ rời nhà đi "làm việc" và hỏi chúng tôi định ngày đó xin ăn ở địa điểm nào.

- Không biết.

Luôn là câu trả lời của chúng tôi. Sự thật là, chúng tôi không đi xin chỗ nào hết. Chúng tôi chỉ ăn bất cứ thứ gì mà người khác muốn chia sẻ với chúng tôi. Chúng tôi là những người ăn xin lười biếng.

Dần dần Gunawardhena khỏi bệnh sốt rét và hồi phục sức khoẻ trở lại. Nhưng rồi một buổi sáng kia, khi thức dậy tôi cảm thấy đau buốt ở chân phải và gây gây sốt. Quan sát kỹ, tôi thấy một vết đỏ ở trên đùi cách đầu gối khoảng mười centimet. Một người ăn xin ở chung chỗ, săm soi vết thương và bảo rằng đó là vết rắn cắn.

Sự đau nhức tăng dần lên, và tôi gần như không thể nhấc nổi chân. Gunawardhena và tôi phải ở lại phía sau khi những người ăn xin khác ra đi. Khoảng hai giờ sau đó, tôi cố gắng đứng lên và đi cà nhắc ra khỏi lều.

Chúng tôi chỉ mới đi được khoảng mười thước thì gặp một thanh niên khoảng hai mươi lăm tuổi. Chúng tôi chưa từng gặp anh ta trước đó. Nhưng vì một lý do gì đó tôi không biết, anh ta và Gunawardhena trở nên thân thiết ngay. Họ bắt đầu cười đùa giống như những người bạn thân lâu ngày.

Có lẽ Gunawardhena cảm thấy tôi và cái chân cà nhắc của tôi là một trở ngại cho anh; anh ta như trút được gánh nặng khi gặp một người vui vẻ hơn. Ba người chúng tôi đi với nhau, nhưng tôi đi chậm ở đằng sau. Khoảng chừng năm phút sau Gunawardhena quay lại nói với tôi.

- Ukkubanda, vì bạn không thể đi nhanh, tôi sẽ đi trước với anh bạn này? Còn bạn, cứ thong thả, cần đi chậm cứ đi. Chúng tôi sẽ đợi bạn ở Lovamahapaya.

Ngay lập tức tôi cảm thấy vô cùng sợ hãi. Muốn đến Lovamahapaya phải đi bộ sáu đến bảy tiếng.

- Không, đừng bỏ tôi lại một mình.

Tôi van nài:

- Tôi không thể đi một mình. Tôi cần bạn giúp đỡ. Xin hãy ở lại với tôi.

Rồi thì chuyện không thể hiểu được đã xảy ra: Gunawardhena phớt lờ tôi và bước thẳng tới với người bạn mới của mình. Tôi ngồi xuống và bắt đầu khóc. Chân tôi buốt đau. Tôi không thể tin điều gì đã xảy ra. Gunawardhena thật là vô ơn. Chúng tôi đã sắp đặt cuộc hành trình này với nhau, nhiều tuần trước đó, và tôi đã từ bỏ cuộc sống tu hành để chạy trốn theo nó.

Khi nó bị bệnh trong rừng, tôi đã bỏ luôn việc làm của mình. Bao nhiêu ngày tháng, chúng tôi đã đi với nhau như bạn bè. Chúng tôi đã dựa vào nhau để sống. Vậy mà bây giờ, khi tôi cần nó, nó lại bỏ rơi tôi.

Tôi không có bạn bè, không nhà cửa, không tiền bạc, không lương thực. Tôi ở tận cùng vực thẳm và tôi hoàn toàn cô đơn. Bây giờ tôi phải làm sao đây?






Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |  
Vượng
Thịnh
Khang
An