Jump to content

Advertisements




Truyện tâm linh - hiendde



831 replies to this topic

#211 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 25/06/2011 - 02:10

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN




TENZIN PALMO VÀ CUỘC SUY TÌM CHÂN LÝ


Lời giới thiệu


Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm.

Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy).

Cô không bao giờ ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.

Sanh vào năm 1943, Tenzin Palmo lớn lên ở trung tâm khu London's East End. Cô là con gái một người bán cá. Khi còn bé, Tenzin Palmo đã thích sống lặng lẽ một mình. Cô đã tìm hiểu nghiên cứu các tôn giáo phương Đông và khát khao được giác ngộ chân lý.

Năm 20 tuổi, thể theo tiếng gọi tâm linh, Tenzin Palmo đã bỏ việc làm tại thư viện và đáp tàu đi Ấn Độ.

Năm 1964, sau ba tuần lễ diện kiến và học hỏi với một vị đạo sư, Tenzin Palmo đã trở thành vị ni cô Tây Phương đầu tiên xuất gia tại Ấn Độ. Cô sống trong một tu viện Phật Giáo Tây Tạng và cũng là người phụ nữ duy nhất trong số hàng trăm tăng sĩ. Do đó, cô đã kinh nghiệm sự đối xử cách biệt đối với hàng nữ tu. Cô đơn và đau khổ, cô đã thề nguyện sẽ chứng đạo trong hình tướng một người nữ, dù phải trải qua vô lượng số kiếp.

Với tư tưởng đó, năm 1970, cô bắt đầu cuộc sống độc cư tại một nơi tĩnh mịch vắng vẻ; và 3 năm sau, cô tìm đến một động tuyết cao chót vót trên dãy Hy Mã Lạp Sơn để ẩn cư thiền đĩnh.

Năm 1988, cô rời khỏi động Tuyết Sơn với ý định sẽ thành lập một nữ tu viện ở miền Bắc Ấn để giúp cho các phụ nữ khác đạt tới cảnh giới giác ngộ.

Từ lúc bắt đầu sống đời ẩn sĩ chỉ với 80 Anh kim một năm, Tenzin Palmo đã trở thành một người nổi tiếng với những cuộc du thuyết toàn cầu; và tổ chức quyên góp xây nữ tu viện của cô càng lúc càng hoạt động sôi nổi.

Tenzin Palmo đã đến với cuộc đời này, rời bỏ nó, và rồi lại trở về một lần nữa để giúp đỡ mọi người.

Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie, với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt, và những xúc cảm tâm linh mà cô đã chứng nghiệm. Cô cũng có đủ can đảm để trung thực diễn tả những dằng co khắc khoải, mâu thuẫn giữa tình yêu trai gái và tiếng gọi nội tâm đầy ân sủng.

"Trong Động Tuyết Sơn" là một kiệt tác phẩm diễn tả sự can đảm, khí phách, và trí tuệ của một vị ni cô Tây Phương đầu tiên đã đối phó và vượt qua một cách dũng mãnh những chướng ngại thiên nhiên; cũng như sinh lý và tâm lý để đạt tới cảnh giới giác ngộ giải thoát.

Qua những sự kiện và kinh nghiệm chứng đạt của cô, Tenzin Palmo đã chứng tỏ cho chúng ta thấy cô là một nữ anh hùng của thời đại chúng ta, một ngọn đuốc sáng đốt cháy hàng rào cản ngăn bước tiến của giới phụ nữ, và san bằng mọi ranh giới phân chia cách biệt giữa người và người, giữa nam và nữ từ ngàn xưa cho đến tận thế kỷ 20 này.


Vickie Mackenzie

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN


CUỘC GẶP GỠ


CHƯƠNG MỘT


Tôi nhớ lại lần hội ngộ đầu tiên với Tenzin Palmo tại Pomaia, một thành phố nhỏ của Ý nằm giữa những ngọn đồi hùng vĩ của Tuscany khoảng một giờ đường lái xe từ Pisa.

Đó là một buổi xế trưa mùa hè và không khí ngột ngạt hơi nóng và mùi nhựa thông, chúng ta thấy những tòa lâu đài một thời nguy nga tráng lệ với những bức tường chạm trổ tinh xảo, những cửa cái có vòm cao, mái nhà kiểu tháp nhọn lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời tháng Tám, và chỉ có tiếng côn trùng rỉ rả phá tan bầu tĩnh lặng của buổi trưa hè. Nhưng chỉ độ vài giờ nữa thôi, cuộc sống dưới phố kia sẽ náo nhiệt ồn ào vào buổi tối.

Những cửa tiệm bán thực phẩm, giầy dép, bánh ngọt, và bia rượu sẽ mở cửa đón khách; và bọn đàn ông sẽ tụm năm tụm ba tán dóc đủ mọi chuyện từ chính trị, kinh tế, đến những hoạt động của các tổ chức phe nhóm địa phương. Tuy nhiên, lần đó, nét lộng lẫy gợi cảm nồng nàn của xứ Ý, nơi mà thiên hạ đua chen nhau hưởng thụ dục lạc, đã phải nhường bước cho ánh sáng thế giới nội tâm của Tenzin Palmo.

Lần đầu tiên, tôi gặp Tenzin Palmo khi cô đang đứng dưới bóng các cây cổ thụ trong một tòa lâu đài. Đó là một phụ nữ mảnh khảnh vào độ tuổi trung niên, với làn da trắng và lưng hơi khòm. Cô mặc áo nữ tu Tây Tạng mầu đỏ sậm và tóc cạo sát đầu. Đứng vây quanh cô là một đám đông phụ nữ.

Chúng ta có thể thấy đó là một buổi nói chuyện rất hào hứng, và bầu không khí rất thân mật, cởi mở. Đúng ra thì họ không được phép nói chuyện như vậy; tuy nhiên, sau cả một tháng trời tu học giáo lý và thực tập thiền định, thì buổi nói chuyện ngoại lệ đó cũng là điều tất yếu thôi.

Tôi và khoảng 50 người nữa cũng tham dự vào buổi nói chuyện đó. Những sinh hoạt hào hứng ngoại lệ như thế đã trở thành quen thuộc nhưng quan trọng đối với tôi, sau khi tôi gặp các vị Lạt Ma ở Nepal từ năm 1976 trở về trước và khám phá ra tính chất đặc biệt phong phú trong những thông điệp của các ngài.

Vì thế, những buổi nói chuyện sống động như tôi đang chứng kiến đây, là một phương pháp thư giãn xả hơi sau những giờ dài ngồi kiết già thiền định hay lắng nghe các vị tu sĩ trùng tuyên lại lời dạy của Đức Phật.

Tối hôm đó, mọi người quây quần ăn uống ngoài trời. Một người đàn ông ngồi bên cạnh, thì thầm vào tai tôi, và chỉ vào Tenzin khiến tôi đặc biệt chú ý. Tenzin Palmo lúc đó đang ngồi ở bàn ăn bên kia và nói chuyện vui vẻ, hăng say với đám đông vây quanh cô.

- "Đó là Tenzin Palmo, một phụ nữ Anh Quốc đã sống 12 năm trong một hang động cao hơn 12.000 bộ trong dãy Hy Mã Lạp Sơn đó. Cô ta sống một mình ở đó và vừa mới rời khỏi động tuyết."

Bây giờ, sự chú ý của tôi đối với Tenzin Palmo không còn là một sự tò mò nữa, mà là một sự chú tâm đặc biệt.

Nhiều năm qua, tôi đã đọc, đã nghe về những nhân vật kỳ đặc, những bậc đạo sư du già ở Tây Tạng, Ấn Độ hay Trung Hoa. Những bậc đại nhân này đã lìa bỏ những tiện nghi sung mãn vật chất của đời sống con người để ẩn cư thiền định tại những núi rừng hoang vu tĩnh mịch hết năm này qua năm khác.

Con đường của họ đi thật khó khăn và cô độc làm sao! Hoàn toàn cô đơn, trên người chỉ có một tấm vải thô hay một chiếc áo mỏng manh, họ dấn thân vào cuộc chiến đấu với bản thân và những cơn đói lạnh khủng khiếp ghê hồn. Thân họ chỉ còn da bọc xương, râu tóc họ mọc xồm xoàm rậm rạp đến tận lưng. Họ đối diện với thú rừng hung dữ và những tên cướp của giết người không gớm tay.

Những tên cướp này không có lương tâm, không có một chút tình nhân loại. Chúng không cần biết đó chỉ là những vị đạo sĩ vô sản; khi không tìm thấy được một vật gì, chúng đánh đập dã man các vị đạo sĩ này không chút nương tay, có khi gần chết.

Tuy nhiên, những khổ sở đau đớn của ngoại cảnh không làm cho các đạo sĩ này nao núng lùi bước; cũng không thể nào so sánh với những chướng ngại nội tâm mà các đạo sĩ cần phải vượt qua để đạt tới giác ngộ giải thoát.

Những lớp sóng ngầm độc hại của nội tâm như sân hận, chấp thủ, tham luyến.. sẵn sàng trổi dạy và trào dâng úp chụp lấy họ không biết lúc nào. Họ phải vượt qua tất cả và ngay cả khi chiến thắng chúng thì các vị đạo sĩ này cũng phải dẹp tan sự phấn chấn hứng khởi đó thì mới có thể gọi là Vô Ngã được.

Cảnh giới giải thoát đó rộng rãi thênh thang, vượt qua biên giới nhị nguyên, không Ngã, không Nhân. Đó là cảnh giới thanh bình an lạc tối thượng, không có gì so sánh được. Đó là trạng thái tinh thần sung mãn cao nhứt mà con người có thể chứng được nếu muốn.

Tôi đã đọc, đã nghe; nhưng hôm nay, tại Pomaia Ý đại Lợi, tôi đã gặp, đã chứng kiến một con người thực sự chứ không phải trong huyền thoại truyền thuyết; một con người bằng xương bằng thịt đang ngồi trước mặt tôi và hơn thế nữa, đó không phải là một đạo sĩ người Á Đông, mà là một phụ nữ Tây Phương tân tiến thời đại. Một phụ nữ Tây Phương thời đại !

Đầu óc tôi quay mòng mòng với hàng trăm câu hỏi. Cái gì đã xui khiến người phụ nữ Anh này rời bỏ được những tiện nghi văn minh vật chất để rút vào độc cư thiền định nơi núi thẳm rừng sâu như vậy?

Làm sao cô có thể sống sót qua những cơn gió lộng bão tuyết kinh hồn? Cô ăn gì, tắm làm sao, ngủ thế nào, và không có cả điện thoại nữa? (đời sống người Tây Phương gắn liền với máy điện thoại; không có nó, họ cảm thấy thiếu thốn, có thể chết đi được).

Làm sao cô có thể tồn tại khi không có một chút hơi ấm của tình người, của một người bạn đồng hành qua nhiều năm như vậy? Cô đã chứng đạt được gì? Và, tò mò hơn nữa, làm sao cô có thể chịu đựng nổi sự cô đơn và im lặng tuyệt đối giữa cảnh núi tuyết lạnh lùng hoang vắng, khi chính cô xuất thân từ một hoàn cảnh tương đối tốt đẹp?

Nhưng tất cả sự tò mò nóng nảy đó của tôi đã vội nhường bước cho lòng kính trọng pha lẫn sự ngạc nhiên đối với một người phụ nữ đã can đảm kiên trì phiêu lưu đến một nơi chốn mà tôi chưa hề biết và cũng không thể tưởng tượng ra được.

Sự khao khát tìm cầu chân lý của cô, hoàn toàn khác tôi, đã đẩy cô vượt qua những khóa tu tập bình thường để dấn thân vào một cuộc chiến đầy cam go và thử thách, cốt làm sao vượt qua khỏi sanh tử luân hồi.

"Nhập Thất", theo kiến thức nông cạn của tôi, là một việc làm lâu dài đòi hỏi tánh bền bỉ chịu đựng ngày này qua ngày khác; những thời khóa tu tập, tụng kinh, ngồi thiền, niệm chú... cứ lập đi lập lại dài vô tận; hay đối phó với những khủng hoảng dao động tâm lý chợt đến, chợt đi, khuấy phá nội tâm hành giả và hành giả phải kiên trì, tin tưởng, can đảm đi đến cuối con đường mình đã chọn.

Ngày hôm sau, tôi lại gặp cô ta ở ngoài vườn, và chỉ ngồi một mình. Thấy có cơ hội, tôi tiến lại gần. Không biết cô có chịu tiếp chuyện với tôi không? Nhưng nụ cười rộng mở, nét mặt khả ái của cô, và đôi mắt xanh trong sáng đã thúc giục tôi tiến bước.

Từ người cô tỏa ra một sự bình an, hoan hỷ, tự tại, và thản nhiên; nhưng tính chất nổi bật nhất của cô là sự tinh khiết trong sáng hoàn toàn không chút vẩn đục của thân tâm.

#212 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 25/06/2011 - 02:15

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN


NƠI KHÔNG THÍCH HỢP


CHƯƠNG HAI


Tenzin Palmo sinh ra tại căn nhà truyền thống lịch sử Woolmers Park ở Hertfordshire. Đúng ra đó là một thư viện nổi tiếng. Không phải vì Tenzin thuộc dòng dõi qúy tộc nên cô được sanh ra ở đó; mà bởi vì đúng vào ngày sanh của cô 30 tháng 6 năm 1943, nhà độc tài Đức quốc xã Hitler Luftwaffe đã tấn công Luân Đôn trong trận Đệ Nhị Thế Chiến. Những bệnh viện đều trở thành hầm trú ẩn, cứu thương, và tạm cư.

Khi mới sanh ra, Tenzin trông rất xấu xí, không có tóc, không có lông mi, và cả móng tay nữa; nhưng người mẹ vẫn cưng yêu đứa bé gái và âu yếm đặt tên con là Diane.

Tenzin lớn lên trong cửa tiệm bán cá của gia đình số 72 đường Old Bethnal Green Road, khu London East End. Ngày nay, khu phố này không còn nữa; nhưng vào thập niên 40, khu phố này rất đông đúc, chật hẹp, và ám khói.

Tenzin kể lại: "Từ bé, tôi đã có cảm giác rất mạnh mẽ là nơi này không thích hợp với tôi. Ngay bây giờ, tôi vẫn có các cảm giác là Anh Quốc không phải là đất sống của tôi."

Cha của Tenzin, ông George Perry, là chủ của cửa hàng bán cá. Ông là một người nhỏ con, và lớn hơn vợ ông đến 20 tuổi; vì thế, ông rất cưng chìu vợ con. Ông hay lui tới những trường đua ngựa, nuôi chó, và các nhà hát kịch.

Năm Đại Thế Chiến thứ I, ông gia nhập quân đội, và khi tàn chiến tranh, ông trở về với căn bịnh viêm phế quản nặng. Làm việc trong cửa hàng bán cá vừa ướt vừa lạnh, căn bệnh quái ác đó đã tàn phá cơ thể ông và ông đã chết lúc 57 tuổi khi Tenzin chỉ mới lên 2.

Tenzin kể lại rằng:

- "Thật đau buồn vì tôi không biết gì về cha tôi; nhưng tôi nghe nói lại rằng ông là một người rất tử tế và dễ thương. Tôi nhớ là người ta nói rằng mẹ tôi trẻ hơn cha tôi đến 20 tuổi, và bà thường đi khiêu vũ với các bạn nhẩy của bà. Cha tôi luôn khuyến khích mẹ tôi vui hưởng tuổi xuân của bà.

Ông thường dọn đồ ăn sẵn để dành cho bà mỗi lần bà đi chơi khuya về. Tôi biết là cha tôi rất muốn có đứa con gái vì ông đã có hai đứa con trai với người vợ trước. Nhưng đối với tôi, ông chỉ còn trong tấm ảnh mà thôi."

Khi cha của Tenzin mất, mẹ của Tenzin, bà Lee Perry, một người nội trợ, phải vất vả lắm mới nuôi nổi hai con, Tenzin và anh trai của cô, Mervyn lớn hơn cô 6 tuổi. Mẹ của Tenzin là một phụ nữ vui tánh, lạc quan, phóng khoáng, và giúp đỡ Tenzin trong mọi hoàn cảnh suốt cả cuộc đời bà. Họ rất thương yêu và gần gũi nhau.

- "Mẹ tôi thật đáng yêu. Tôi vô cùng tôn trọng bà."

Tenzin nói."Mẹ tôi đã làm việc rất vất vả và luôn luôn để ý đến ý kiến hay tư tưởng mới lạ. Bà là người có đầu óc tân tiến, cởi mở. Khi bà gặp cha tôi, ông đã sống ly thân nhưng chưa ly dị. Mẹ tôi không cho điều đó là quan trọng và đã sống với cha tôi và có 2 con với ông.

Thời bấy giờ, việc một ngườI phụ nữ lấy một người đàn ông chưa ly dị vợ là một sự kiện khó chấp nhận. Nhưng đến khi cha tôi ly dị người vợ trước rồi, mẹ tôi cũng không công khai kết hôn với ông; vì bà thích tự do và độc lập của riêng mình."

Gia đình Tenzin không sung túc cho lắm; vì sau khi cha cô qua đời, mẹ cô không biết quản lý cửa hàng cá nên bị người anh họ gạt sạch tiền. Nợ nần ngập lụt đầu, mẹ Tenzin phải làm việc cật lực ngày đêm mới xoay sở nổi qua ngày và trả nợ. Mặc dù mất cha và sống thiếu thốn như vậy, anh em Tenzin vẫn vui vẻ an ổn trong tình thương của mẹ và tuổi thơ anh em họ êm đềm trôi qua.

Cô học rất giỏi, nhất là về môn Anh văn, Lịch sử, và những môn trắc nghiệm tâm lý hay trí thông minh; nhưng cô kể lại rằng cô vẫn không thích thú các môn học này bởi vì cô biết chúng không ích lợi gì cho mục đích cô đã chọn.

Mẹ của Tenzin, bà Lee Perry, là một người sùng đạo và rất tin về thuyết linh hồn có thực sau khi chết.
Hàng tuần vào tối thứ tư, lúc 8 giờ, những người hàng xóm thưỡng tụ tập tại nhà của Tenzin để cầu cơ gọi hồn.

Cô kể lại:

- "Chúng tôi thường ngồi quanh một cái bàn tròn bằng gỗ rất nặng, và người ngồi ở giữa sẽ là người cầm cơ để chuyển đạt lại những gì người chết nói. Tôi nhớ có một đêm nọ, mẹ tôi đùa nói là những người chết không có sức mạnh đâu và họ đánh cá với nhau xem ai thắng.

Họ mời bà chủ tiệm tạp hóa rất nặng ký ngồi lên bàn và họ yêu cầu người chết nhấc bàn lên. Thật dễ sợ, cái bàn gỗ nặng nề và người phụ nữ mập mạp đó như được bàn tay vô hình nào đó nhấc bổng lên một cách nhẹ nhàng và từ từ di động xung quanh căn phòng."

Từ những buổi cầu cơ đó, mẹ con chúng tôi thường nói chuyện với nhau về thế giới vô hình bên kia. Có nhiều người sợ không dám nói, thậm chí không dám nghĩ đến cái "Chết"; nhưng đối với chúng tôi, "Chết" là một cái gì tự nhiên và tất yếu sẽ xảy đến cho mọi người.

Dù lớn lên trong một môi trường ồn ào, náo nhiệt của dân cư vùng đông Luân Đôn với bản tánh dí dỏm, khôi hài của họ; và dù ngay cả khu East End là một thị trấn đáng yêu, dễ sống, Tenzin Palmo, ngay từ hồi còn bé, đã là một cô bé thích sống yên tĩnh và đầy nội tâm. Tenzin cũng có bạn nhưng không hề dẫn bạn về nhà chơi.

Cô nói: "Tôi không bao giờ quan tâm về chuyện bạn bè cả. Tôi biết có một cái gì khác mà tôi cần phải làm hơn. Tôi chỉ thích ngồi yên lặng và đọc sách. Tôi nhớ là các thầy giáo của tôi thường cho tôi mượn sách. Các bạn tôi thì không bao giờ được như vậy."

Tenzin rất chú tâm đến những gì liên quan đến phương Đông, mặc dầu lúc bấy giờ, đối với người dân Anh và gia đình Tenzin, Đông Phương là một cái gì hoàn toàn xa lạ.

- "Tôi đã bỏ nhiều thì giờ một mình ngồi vẽ các cô gái Nhật Bản duyên dáng xinh tươi trong tà áo kimono. Tôi còn nhớ từng chi tiết nhỏ nhặt tôi đã vẽ họ. Khi người Trung Hoa đầu tiên đến khu vực West End mở tiệm ăn, tôi đã năn nỉ mẹ tôi dẫn tôi đến đó để xem mặt mũi người phương Đông thế nào."

Và cô nói rằng: "Nhất là đối với giới nữ tu và tông phái Thiền, tôi cảm thấy có một cái gì hấp dẫn, lôi cuốn tôi không thể giải thích được.

"Tôi rất thích các dòng tu kín. Nếp sống khổ hạnh, giản dị, những buổi cầu nguyện không dứt, và lời thề dâng trọn đời cho hạnh phúc mọi người, thực sự làm tôi rung động và ngưỡng mộ. Có lần một người bán hàng thực phẩm đã hỏi tôi sau cùng muốn làm gì, tôi trả lời không do dự "Làm nữ tu". Bà ta phá lên cười và nói rằng tôi sẽ đổi ý khi tôi lớn lên. Tôi nghĩ thầm "Bà lầm rồi"; nhưng lúc đó, tôi không hiểu là tôi muốn trở thành nữ tu tôn giáo nào."

Còn vài sự kiện khác thường nữa như Tenzin Palmo luôn luôn nghĩ là mình đã sanh lầm làm con gái. "Người lớn nói với tôi rằng thân thể con người sẽ thay đổi khi họ trưởng thành, và tôi rất thích thú khi suy tưởng tôi sẽ thành con trai khi tôi lớn lên."

Ngay từ tấm bé, Tenzin là một đứa trẻ yếu đuối, ốm đau luôn. Cô sanh ra đã bị dị dạng; xương sống bị vặn vẹo về phía trái và do đó, cả cơ thể lệch hẳn đi, không ngay thẳng. Năm cô độ vài tháng tuổi, cô bị viêm màng não, nằm bịnh viện chữa khỏi độ ít lâu, sau lại bị đau lại. Cứ vài tháng, cô lại vào nhà thương chữa trị; một tuần độ 3, 4 lần đi điều trị dược liệu pháp.

Tenzin ốm yếu bịnh hoạn luôn đến nỗi nhà trường tài trợ cho cô bé được đi dưỡng bịnh ở một vùng ven biển để dưỡng sức.

- "Không một ai có thể tìm ra nguyên do xác đáng, nhưng cứ một năm độ 2, 3 lần, tôi lại bị những cơn sốt cao độ quật ngã và chứng bịnh đau đầu kinh khủng lại hành hạ tôi kịch liệt. Sau này, khi lớn lên, tôi tự biết đó là quả báo của những kiếp trước của tôi, bởi vì những căn bịnh đó từ từ biến mất theo thời gian và nhất là tôi không hề bị bịnh nặng lúc tôi ở trong động tuyết."

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN


BUỔI BÌNH MINH


CHƯƠNG BA


Tenzin kể:

- "Khi tôi tìm hiểu về Ấn Độ giáo, tôi nhận thấy đạo giáo nầy chủ trương về "Thần Ngã" (Atman) nhiều quá. Phật giáo, trái lạí chủ trương "Vô Ngã". Đối với tôi, danh từ Vô Ngã đó hàm chứa một sự tự do tuyệt đối vô cùng. Cuối cùng, tôi đã tìm được cho tôi một tôn giáo, một con đường tâm linh tuyệt vời để đi theo."

Quyển sách "The Mind Unshaken" đã thay đổi đời tôi hoàn toàn. Tôi nhớ lại ba ngày sau khi đọc xong quyển sách; vừa đi đến sở làm, tôi vừa suy nghĩ "Tôi đã là Phật tử được bao lâu rồi. Ba ngày thôi sao? Không, tôi đã là Phật tử từ vô lượng kiếp rồi vậy.

"Một khi đã thấy con đường mình phải đi, Tenzin Palmo không bỏ lỡ cơ hội để đi đến đích. Cô nói "Khi bạn muốn làm gì, bạn phải làm ngay, đừng phí phạm thì giờ." Đó là tiêu chuẩn sống của Tenzin.

Nhưng đó không phải là chuyện dễ dàng thực hiện ở Anh quốc, nhất là vào thập niên 60. Ngày nay, Phật giáo đã lan rộng khắp năm châu; hàng trăm thiền viện mọc lên như nấm và tài liệu nhan nhãn khắp nơi; người ta tìm hiểu Phật giáo dễ dàng - nhưng vào những năm 60, thì quả là một việc rất khó khăn.

- "Tôi luôn luôn nhớ trong lòng là Đạo Phật dạy con người phải nên diệt dục nghĩa là diệt trừ bớt những ham muốn thô thiển, thấp hèn vì thế, tôi đã dẹp bỏ hết quần áo và chỉ mặc một loại áo dài mầu vàng, một chiếc thắt lưng và mang vớ đen. Tôi không trang điểm, và không hẹn hò với đám thanh niên nữa. Tôi cố gắng hết sức để diệt trừ những ham muốn bình thường của một con người."

Ít lâu sau, Tenzin khám phá được một hiệp hội Phật giáo ở Eccleston Square, do ngài Chánh Án Christmas Humphreys sáng lập vào năm 1924.

Humphreys là người đầu tiên giới thiệu tư tưởng triết lý phương Đông đến người Tây Phương. Ông đã làm quen, và học hỏi với những triết gia nổi tiếng thời đại như Carl Jung, học giả thiền sư Suzuki và các hoàng thân Thái Lan; ông cũng là một trong những người ngoại quốc đầu tiên đến tham vấn Đức Đạt Lai Lạt Ma khi Ngài vừa lưu vong ra khỏi Tây Tạng. Nhưng, mặc dù Hiệp Hội Phật giáo này đã thành lập lâu năm, nó cũng vẫn chỉ là một căn nhà nhỏ với số thành viên rất hạn chế.

"Khi bước vào căn phòng chính của Hiệp Hội này, tôi rất ngạc nhiên vì không có ai mặc áo dài màu vàng cả. Có lẽ tôi đã sai lầm khi vứt bỏ hết quần áo của tôi."

"Tôi nói chuyện với mẹ tôi và bà lặng lẽ đưa chìa khóa tủ quần áo cho tôi. Bà không vứt đi một cái nào hết. Bà cũng chẳng hỏi tại sao, bà chỉ thản nhiên chờ đợi. Mẹ tôi rất nhạy bén và hiểu tôi rất nhiều."

- Eccleston Square, Tenzin Palmo đắm mình vào kho tàng giáo lý Nguyên Thủy Phật giáo. Tông phái nầy đang phát triển tại Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Việt Nam, và Cam Bốt. Cô học Tứ Diệu Đế và thấu suốt được nguyên nhân đau khổ của con người và phương pháp diệt trừ đau khổ.

Cô tìm hiểu Bát Chánh Đạo và Thiền học. Cô cũng tập trì niệm 6 chữ "Án Ma Ni Bát Di Hồng", mặc dù cô chẳng hiểu thần chú ấy có ý nghĩa gì, nhưng với lòng nhiệt thành và niềm tin sắt đá, Tenzin nói là đã cảm thấy có hiệu lực kết quả khi cô luôn thầm niệm "Án Ma Ni Bát Di Hồng."

Tuy nhiên, giáo lý Nguyên Thủy Phật giáo vẫn chưa thỏa mãn được Tenzin. Cô vẫn thấy có một cái gì thiêu thiếu như một lỗ hổng trong giáo lý Nguyên Thủy với sự tu chứng của các vị A La Hán.

"Tôi rất ngưỡng mộ sùng kính Đức Phật; những gì Ngài dạy đều hoàn toàn minh bạch và tùy duyên, căn cơ của chúng sanh. Đối với tôi, quả vị A La Hán không phải là con đường tôi muốn theo. Với trình độ hiểu biết của tôi lúc đó, tôi chỉ nhận thấy giáo lý Nguyên Thủy không thích hợp với tôi."

Vài tháng sau, tình cờ cô đọc được một quyển sách của ngài Long Thọ, vị hiền thánh và triết nhân Phật giáo nổi tiếng ở thê kỷ thứ 2. Trong sách, Ngài Long Thọ luận giải về quả vị Bồ Tát. Lý tưởng hành "Bồ Tát Đạo" cứu giúp chúng sinh đã hấp dẫn Tenzin Palmo và cô nhận thức ngay rằng đây mới chính là con đường cô muốn đi.

Đại thừa Phật giáo và lý tưởng Bồ Tát do ngài Long Thọ khai phá và luận giải, đã phát triển nhanh chóng, thu hút nhiều tín đồ; nhất là ở Tây Tạng. Nhưng Phật giáo Tây Tạng vào những năm 60 thì hầu như không có ai biết đến và cũng khác hẳn những gì người ta biết về Phật giáo.

Những huyền thoại hay chuyện hoang đường bao phủ xứ Tây Tạng và được thêu dệt thêm lên do những tay du hành tìm cách len lỏi vào vùng "Đất Cấm" này.

Những câu chuyện đầy thần bí đó càng lúc càng hấp dần người nghe hơn, "những vị Lạt Ma có thể bay trên hư không, tùy ý biến hóa đồ vật hay hóa thân ra đủ mọi loài, hoặc vượt qua những khoảng cách, chướng ngại một cách tự tại."

Họ kể lại rằng " Tây Tạng, người ta thờ rất nhiều vị thần; có những ngẫu tượng có nhiều tay nhiều chân, răng nanh và mắt lồi ra thật hung dữ." Tuy nhiên, theo đa số các học giả trong hội London Buddhist Society, thì Phật giáo Tây Tạng là một cái gì huyền bí và không có sự truyền thừa; khác với truyền thống chính phái Thiền và Nguyên Thủy Phật giáo. Lúc đó, không một ai nghĩ rằng Phật giáo Tây Tạng có thể phát triển mạnh được.

Điểm này, Tenzin Palmo, một thành viên mới của hội, lại nghĩ khác và thiên về Phật giáo Tây Tạng nhiều hơn. Cô bắt đầu tìm hiểu kỹ thêm về Phật giáo Tây Tạng và một hôm, tình cờ cô đọc một quyển sách nói về 4 trường phái cổ của Phật giáo Tây Tạng :

1) phái Nyingmapa: thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên là trường phái cổ về Mật Tông bí thuật.

2) phái Sakya thế kỷ thứ 11 trước Công Nguyên là phái pha lẫn cả hai dòng mới và cổ về Mật Tông

3) phái Geluppa vào thế kỷ thứ 14 trước Công Nguyên là trường phái triết học.

4) phái Kargyupa vào khoảng thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên là phái ẩn sĩ ở núi cao hang thẳm.

"Khi tôi đọc đến chữ "Kargyupa", hình như có một giọng nói vô hình nói với tôi rằng "Con là Kargyu". Tôi hỏi "Kargyu là gì?" "Điều đó không quan trọng" "Con chỉ biết đích thực con là Kargyupa." Tim tôi cơ hồ như ngưng đập trong giây lát. Trở thành một tín đồ Phật giáo Tây Tạng là ước muốn cuối cùng của tôi."

Theo sự chỉ dẫn của Tiếng Nói Nội Tâm vô hình, Tenzin Palmo tìm gặp một người duy nhất ở Luân Đôn mà cô biết là ông ta rất am tường về Phật giáo Tây Tạng. Ông ta đưa cho cô ta đọc một quyển sách viết về Milarepa, một vị cao tăng ẩn sĩ của Tây Tạng. Ngài là một bậc thi nhân hiền triết nổi tiếng đồng thời cũng là người sáng lập ra tông phái Kargyupa.

Milarepa là một hiện tượng phi phàm, là một biểu tượng về trí tuệ xuất chúng ở thế kỷ thứ 11. Khi còn trẻ, Milarepa đã tu luyện tà thuật và đã giết một số người. Sau khi nhận rõ sự sai lầm của mình, Milarepa đi tìm một vị đạo sư và tỏ ý cầu đạo. Trải qua những cuộc thử thách kịch liệt, có lần suýt mất mạng, Milarepa được Thầy thâu nhận và truyền dạy bí mật chân truyền.

#213 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 25/06/2011 - 02:21

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN


BƯỚC ĐẦU TIÊN


Chương Bốn


Tenzin không khóc khi chuyến xe lửa lăn bánh, bỏ lại sau lưng mẹ cô, quê hương cô, và cũng không biết bao giờ cô mới trở lại; còn hai người bạn gái của cô là Ruth Tarling và Christine Morris thì lệ rơi đầm đìa. Cả ba cô gái đều trực chỉ tới tu viện của bà Freda Bedi.

- "Tôi cũng không hiểu tại sao tôi không cảm thấy buồn gì khi xa gia đình, xa đất nước tôi như vậy. Tôi chỉ cảm thấy vô cùng sung sướng. Đây là giây phút tôi đã mong đợi từ bao năm qua."

Con tàu "Le Vietnam" là con tàu cũ từ thời Pháp thuộc. Thủy thủ đoàn gồm có người xứ Ethiopie, Việt Nam, Sudan, và Algérie. Vì là tàu cũ nên giá vé đi Ấn Độ rất rẻ. Trên tàu chẳng có quầy rượu hay hồ bơi gì cả; chỉ có một dúm hành khách mà thôi.

Chuyến đi mất hai tuần, dừng lại Barcelona, Port Said Aden, và Bombay trước khi dong buồm thẳng về hướng đông. Trên tàu, Tenzin quen với một thanh niên người Nhật. Chàng thanh niên này vừa thấy Tenzin đã choáng váng và yêu ngay người thiếu nữ duyên dáng, xinh đẹp này; và Tenzin cũng có cảm tình với anh chàng Phật tử người Á Đông nầy.

Một đêm đẹp trời, Tenzin đang ngồi hóng mát trên boong thì anh ta tiến đến gần và ngỏ lời cầu hôn cô.
Tenzin cười phá lên và cho anh ta đùa cợt. Nhưng không, anh ta có vẻ đứng đắn thật sự.

- "Tôi không hề nghĩ tới chuyện bất ngờ đó cả. Nhưng tôi cảm thấy hơi phân vân nghĩ ngợi. Thực ra anh ta rất đẹp trai và nồng hậu vô cùng. Các bạn tôi đều nói, nếu tôi không lấy anh ta thì có lẽ không bao giờ tôi kiếm được một người chồng tử tế đáng yêu như vậy.

Tuy nhiên, tôi đã cân nhắc thật kỹ trước khi quyết định. Đức Phật đã dạy "Đời là bể khổ", một ngày nào đó, anh ta sẽ chán tôi, và cuộc sống gia đình thực tế cũng chẳng có gì hay ho thơ mộng cả. Tôi sẽ là một ni cô. Cuộc đời xuất gia mới đúng là cuộc đời của tôi."

Tenzin ước hẹn với chàng thanh niên Nhật Bản là Tenzin sẽ ở lại Ấn Độ một năm thử thách, và nếu cô không tu được, cô sẽ đi Nhật để gặp anh ta. Tenzin và hai người bạn gái đến Dalhousie, Bắc Ấn vào tháng 3.

- "Khi tôi đến Dalhousie, tôi gặp cả ngàn vị tăng sĩ Tây Tạng đang ở đó; và tuyết , tuyết rơi trắng xóa phủ khắp nơi, nổi bật trong nền trời xanh lơ. Tuyệt vời quá ! Đẹp quá !

Cô kể tiếp tục :

- "Chúng tôi thấy bà Bedi đang nấu ăn trong bếp. Bedi là một phụ nữ to lớn, đẫy đà, với đôi mắt xanh to, mũi cao thẳng, và tóc đã hoa râm. Trông bà độ khỏang 50 tuổi. Trong chiếc áo cổ truyền Tây Tạng mầu đỏ xậm, bà Bedi trông còn to lớn kinh khủng hơn; nhưng bà ấy rất cởi mở và thân thiện."

Cuộc đời bà Bedi kể ra cũng rất lý thú. Bà thuộc dòng dõi quý tộc Anh quốc; và cuộc tình giữa bà và người sinh viên gốc Ấn tại đại học Oxford (sau này là chồng bà) đã chấn động cả thành phố bà đang ở với gia đình. Bà quyết định lấy người bà yêu và chống lại thành kiến phân biệt giai cấp và chủng tộc của chế độ phong kiến Anh quốc. Bà và người chồng rời khỏi xứ Anh, nơi đã đem lại cho bà nhiều đau khổ hơn là sung sướng.

Năm 1959, khi dân Tây Tạng lưu vong theo chân Đức Đạt Lai Lạt Ma chạy trốn qua Ấn, bà Bedi xin xuất gia và được Ngài cho pháp danh là Khechock Palmo. Bà đã giúp đỡ người Tây Tạng thật nhiều và ngay cả Trungpa cũng đã theo học Anh văn cơ bản tại học viện do bà sáng lập.

Tuy nhiên, bà Bedi không biết nắm lấy thời cơ; khi thị trường đất đai tại Ấn sụt giá, bà lại đi mua những thứ không cần thiết vì thế, khi giá cả thay đổi, bà Bedi đã mất sạch tiền. Nhưng dù sao đi nữa, Bedi vẫn là người cống hiến rất nhiều cho Phật giáo Tây Tạng trong những năm đầu lưu vong tại Ấn.

Dalhousie là vùng đồi núi đẹp phủ đầy thông xanh. Hàng ngàn con khỉ đủ loại đang chen chúc nhau ở tại đó. Khi Tenzin đến Dalhousie, cô thấy vẫn còn những ngôi nhà thờ Chính Thống giáo Anh quốc, vài trụ sở, và những căn nhà cổ kiểu Anh với trần nhà cao, hành lang rộng và vườn hoa đầy hoa hồng, hoa thược dược.

Khi ta leo lên tới độ cao 7.000 bộ, Dalhousie không những cống hiến cho ta một cảm giác sảng khoái lâng lâng tuyệt đỉnh của tâm hồn, mà còn phơi bày trước mắt ta một phong cảnh thần tiên diễm lệ tuyệt vời của những cánh đồng xanh mướt chân trời xứ Ấn và dãy Hy Mã Lạp Sơn hoành tráng sừng sững như một vị thần linh đầy uy quyền đang dang tay che chở toàn dân Tây Tạng. Đứng trước quang cảnh hùng vĩ đó, Tenzin cảm thấy con người thật nhỏ bé, quá yếu đuối trước thiên nhiên.

Qua bà Bedi, Tenzin biết rằng Dalhousie là trạm dừng chân đầu tiên của 5.000 dân lưu vong Tây Tạng. Sau đó họ di chuyển xuống vùng Dharamsala, đi Nam Ấn và vài vùng định cư khác; nhưng năm 1963, khi dân số lưu vong Tây Tạng đã lớn rộng, các vị Lạt Ma cao cấp đã quyết định dựng tu viện như các tu viện lớn Sera và Drepung tại Tây Tạng, và họ cố gắng tái tạo và gìn giữ những di tích cổ truyền hay phong tục Tây Tạng tại xứ người.

Tenzin nhớ lại :

- "Dalhousie là nơi tu học lý tưởng, tuyệt vời, không có xe hơi và bụi bặm dơ bẩn. Không khí trong lành, mát mẻ. Sáng và chiều, mọi người đều ra đồng làm việc, các vị Lạt Ma tụng đọc kinh điển. Ai nấy đều vui vẻ tự do, ca hát sảng khoái."

Là một phụ nữ Tây Phương đầu tiên trong số rất ít người ngoại quốc đến Dalhousie, Tenzin được sự lưu ý đặc biệt của dân Tây Tạng cũng như các vị Lạt Ma.

Lần đầu tiên được gọi đến chào hỏi ngài Karmapa, vị Lạt Ma cao cấp nhất của tông phái Kargyu, Tenzin thấy run sợ trước vẻ nghiêm khắc của Ngài. Ngài Karmapa được tôn sùng không kém Đức Đạt Lai lạt Ma

Ba tháng sau ngày Tenzin đến Dalhousie, cô được diện kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma, "Phật Sống" của dân Tây Tạng. Tenzin mặc quốc phục của người nữ Tây Tạng để vào đảnh lễ Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Vừa thấy cô, Ngài nói :

- "Ồ, trông cô giống như người ở vùng Lhasa. Thế nào, ni cô, sự tu tập của cô có tiến bộ chút nào không?"

Câu hỏi của Đức Đạt Lai Lạt Ma làm Tenzin sửng sốt.
- "Tôi không hiểu sao Ngài lại gọi tôi là "Ani-la" (ni cô) giống như cách của hai vị tu sĩ gặp nhau và chào hỏi nhau. Không lẽ Đức Đạt Lai Lạt Ma thấy được quá khứ và tương lai của tôi?"

Tenzin nhìn Đức Đạt Lai Lạt Ma và tự nhiên cô buột miệng nói :"Không, tôi không phải đến từ Lhasa. Tôi là Khampa, người xứ Kham." (Khampa là một sắc dân thuộc miền Đông Tây Tạng)

- "Cô có những kế hoạch, phương án như thế nào?" Đức Đạt Lai Lạt Ma hỏi tiếp.

- "Những chương trình dự án, dù vĩ đại đến đâu, cũng đều tan thành tro bụi. Ngài biết rõ như vậy." Tenzin bướng bỉnh trả lời.

Cô biết là Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ hỏi đố vậy thôi. Vạn vật đều vô thường. Cô không có một chương trình dự án gì cả; ngoài sự nỗ lực đi tìm chân lý. Một tuần lễ sau, Tenzin gặp được người quan trọng nhất đời cô, người mà cô đã bỏ xứ sở để qua Ấn Độ tìm kiếm.

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN


VỊ ĐẠO SƯ


Chương Năm


Khamtrul Rinpoche là một vị Lạt Ma hóa thân đời thứ 8. Ngài đã đến Ấn Độ sau những ngày vượt biên giới đầy gian nan khổ sở.

Một đêm, Ngài đã rời bỏ tu viện của Ngài ở Kham, miền Đông Tây Tạng, cải trang thành một người lái buôn cùng một số ít đệ tử và tùy tùng, vượt biên giới Tây Tạng để trốn khỏi sự áp bức của Cộng Sản Trung Quốc.

Khampagar là một tu viện đồ sộ nguy nga như một tòa lâu đài với những bức tường màu vàng và mái nhà dát vàng thật lấp lánh chiếu dưới ánh mặt trời xứ Tây Tạng.

Khampagar là thế giới của ngài Khamtrul Rinpoche gần suốt 30 năm. Nếu chúng ta đi ngược dòng thời gian 450 năm trước, từ năm 1548, suốt 8 đời hóa thân trước của đức Khamtrul Rinpoche, thì có thể nói, Khampagar là mái ấm, là hơi thở, là sự sống của Khamtrul Rinpoche.

Khi ngài Khamtrul Rinpoche ra đời khoảng vào năm 1930, tu viện Khampagar đã là một trung tâm Phật học sầm uất và ảnh hưởng rộng lớn trên 200 tu viện lớn nhỏ khác, đã đào tạo hàng trăm ngàn tăng sĩ, và cả một dòng truyền thừa những vị đạo sư nổi tiếng khắp Tây Tạng. Ngoài ra Khampagar còn là trung tâm nghệ thuật nổi tiếng Tây Tạng và vũ thuật cổ truyền của các vị Lạt Ma. Khi Cộng Sản Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng, họ đã phá hủy biết bao chùa chiền, tu viện, và các di tích lịch sử của xứ này cùng giam cầm tra tấn hàng ngàn vị sư và dân chúng.

Ngài Khamtrul Rinpoche bắt buộc phải rời bỏ tu viện dấu yêu và gạt nước mắt ra đi lưu vong qua Ấn Độ. Chuyến vượt biên của Khamtrul Rinpoche và đoàn tùy tùng thật vô cùng gian nan và nguy hiểm. Họ phải vượt qua những dòng sông đóng băng hay những con thác khổng lồ sẵn sàng cuốn phăng người ta trôi về biển cả.

Nghe nói lại là, Ngài Khamtrul Rinpoche phải chú nguyện thần linh cầu xin giúp đỡ và tung cát vào những ngọn sóng nước kinh khủng đó mới trấn áp nổi tốc độ của sóng. Và huyền diệu thay, không có một ai bị chết và chút đỉnh đồ đạc đem theo cũng không bị mất. Sau trận hãi hùng đó, đoàn người của Khamtrul Rinpoche còn kinh hồn bạt vía vì chạm trán phải đoàn công-voa của lính Trung Quốc đang vận tải vũ khí trên đường.

Nhưng một lần nữa, như có chư thiên hộ vệ, lại không có một ai bị bắt gặp. Sau cùng và có lẽ cũng là chướng ngại gian nan nhất là vượt qua dãy Hy Mã Lạp Sơn, dãy núi cao nhất thế giới. Khamtrul Rinpoche, với niềm tin sắt đá và nghị lực kiên cường, cuối cùng đã hướng dẫn đoàn người đến được Ấn Độ an toàn. Trong vài năm đầu, Khamtrul Rinpoche đi đi về về Dalhousie, quy tụ lại những tăng sĩ từ từ trốn khỏi Tây Tạng và tái lập lại tu viện theo đường lối của tu viện Khampagar ở Tây Tạng.

Ngày 30 tháng 6 năm 1964, Khamtrul Rinpoche đến học viện "Young Lama" viếng thăm Freda Bedi. Trong thời gian ở Dalhousie, Tenzin Palmo tạm làm thư ký cho trường học và nhiệm vụ của cô là kiểm soát đơn từ, thư tín các nơi gửi đến.

Một lần, cô thấy có một bức thơ đề tên Khamtrul Rinpoche. Cô không biết Khamtrul Rinpoche là ai, nhưng khi cô đọc tên Khamtrul Rinpoche đến lần thứ hai, thì cô cảm thấy có một cái gì đó như là niềm tin dâng lên trong lòng cô. Cô hỏi bà Bedi, và sau khi nghe xong câu chuyện về ngài Khamtrul, cô mong mỏi được gặp ngài:

- "Càng nghe về Lạt Ma Khamtrul, tôi càng nao nức được gặp Ngài. Tôi cảm thấy đó là một vị đạo sư mà tôi sẽ quy y và tu học theo."

Khamtrul Rinpoche đến thăm học viện của bà Bedi đúng vào ngày Tenzin Palmo được 21 tuổi, ngày 30 tháng 6 năm 1964. Khi được bà Bedi báo cho biết, Tenzin quýnh quáng chạy vội vào phòng thay áo Tây Tạng và quàng mảnh vải trắng để dâng cúng Ngài Khamtrul theo nghi thức của Tây Tạng. Khamtrul Rinpoche ngồi trên ghế bành cao, với hai vị Lạt Ma trẻ tuổi, người ta nói hai vị Lạt Ma này là hóa thân của hai vị Bồ Tát.

Tenzin kể lại :

- "Tôi sợ quá nên không dám ngẩng đầu lên xem Khamtrul Rinpoche mập ốm, cao lùn thế nào. Tôi chỉ nhìn gấu áo và đôi giầy nâu của Ngài."

Bà Bedi giới thiệu Tenzin lên ngài Khamtrul và kể sơ về mục đích cô đến đây cốt yếu chỉ tìm một vị đạo sư để dẫn dắt cô tu học. Tự nhiên Tenzin buột miệng nói lớn :"Thưa với Ngài rằng, tôi muốn xuất gia."

- "Ồ, lẽ dĩ nhiên là được." Khamtrul Rinpoche ôn tồn trả lời.

Ngay lúc ấy, Tenzin ngước mắt nhìn lên Khamtrul Rinpoche. Ngài là một người đàn ông cao lớn với khuôn mặt tròn nhưng rắn rỏi và mái tóc búi cao trên đầu như Đức Phật. Ngài lớn hơn Tenzin độ hơn mươi tuổi. Khi nhìn thấy Khamtrul Rinpoche, Tenzin cảm thấy như gặp lại một hình bóng thân thiết đã xa cách bao nhiêu lâu nay.

Ba tuần lễ sau, Khamtrul Rinpoche chủ trì buổi lễ xuất gia của Tenzin vào ngày 24 tháng 7 năm 1964. Tenzin gửi tấm hình cô cạo đầu, mặc áo nữ tu Tây Tạng cho bà Lee Perry, mẹ cô, và viết :

"Mẹ xem con trông rất khoẻ mạnh và gọn ghẽ hay không? Con rất sung sướng được xuất gia."

- "Tôi biết mẹ tôi không muốn tôi đi tu và sống xa bà ấy; nhưng riêng tôi, tôi cảm thấy giải thoát nhẹ nhàng khi cạo sạch đầu, và mặc chiếc áo tu sĩ này."

Cô được thầy cô, Khamtrul Rinpoche, ban cho pháp danh Drubgyu Tenzin Palmo (có nghĩa là "vị nữ tu sẽ làm rạng danh giáo pháp truyền thừa"). Cô là người nữ Tây Phương thứ nhì sau Freda Bedi xuất gia theo tông phái Phật giáo Tây Tạng.

Sau này, có rất nhiều phụ nữ từ các nước Âu Châu, Nam Mỹ, Úc đại Lợi, và Tân Tây Lan đã theo Tenzin Palmo xuất gia cầu đạo. Tình thầy trò giữa Khamtrul Rinpoche và Tenzin Palmo thật sâu đậm. Cô luôn luôn được sư phụ trìu mến gọi "Tenzin, đệ tử của ta !", và cô cảm thấy được che chở bao bọc trong tình thương của Sư Phụ.

Khamtrul Rinpoche là một vị đại sư không những nổi tiếng về thần lực mà còn về tác phong đạo hạnh. Ngài luôn luôn được mọi người sùng bái kính mến; cả những người theo đạo Hồi và Ấn Độ giáo cũng rất tôn trọng kính sợ Ngài.

Tenzin Palmo đã từ giã quê hương, rời xa gia đình, và ngay cả những đam mê ước vọng của tuổi trẻ để xuất gia tìm đạo; nhưng còn một vấn đề uẩn khúc trong tâm mà cô chưa hoàn toàn dứt khoát được. Đó là vấn đề tình cảm giữa cô và người thanh niên Nhật Bản.

Không bao lâu sau ngày Tenzin xuất gia, cô nhận được thơ của John Blofeld, một văn sĩ người Anh nổi tiếng, mời cô viếng thăm gia đình ông ta ở Thái Lan. Tenzin nghĩ đó là một đề nghị hấp dẫn. Thái Lan là một quốc gia Phật giáo; hơn nữa John Blofeld và vợ ông ta rất hiếu khách, và tiện nghi nhà ông ta ở Thái Lan thì quả hết chê vào đâu được. Cô xin phép Khamtrul Rinpoche và được Ngài cho phép đi với lời nhắn nhủ "Con nhớ trở về sớm."

Khi Tenzin Palmo đến Thái Lan thì một sự tình cờ xảy ra quá sự tưởng tượng của cô.Tenzin gặp lại anh chàng si tình người Nhật Bản mà cô đã gặp trên chuyến tàu qua Ấn. Cô đã viết thơ nói rõ với anh ta là cô đã xuất gia và lời ước hẹn giữa họ ngày nào coi như chấm dứt, nhưng anh ta nghe các bạn cô nói lại rằng Tenzin sẽ qua Thái Lan nên anh ta tìm cách qua Thái mong Tenzin sẽ hồi tâm chuyển ý nhận lời cầu hôn của anh ta.

Thực sự, Tenzin Palmo cũng do dự xiêu lòng khi thấy sự thành khẩn của anh ta. Cô mới xuất gia và Khamtrul Rinpoche chỉ mới cho cô thọ có một giới là "Cấm Sát Sanh". Người thanh niên Nhật Bản này thật có sức hấp dẫn cuốn hút, Tenzin thấy bối rối pha lẫn thích thú mê đắm mỗi lần gặp anh ta.

- "Chúng tôi trò chuyện thật tâm đầu ý hợp. Anh ta đề nghị tôi đi Hồng Kông và ở đó vài tháng chờ cho tóc mọc ra trở lại; sau đó chúng tôi sẽ làm đám cưới ở Nhật. Bố mẹ anh ta rất giàu có và tân tiến. Nếu tôi bằng kết hôn với anh ta, họ sẽ xếp đặt mọi việc chu đáo và ổn thỏa.
"Tôi nhớ lại những ngày ở Dalhousie. Nếp sống ở đó thật cơ cực.

Ngày đó, những tu viện Tây Tạng chưa được xây dựng hay tái lập lại. Những tăng sĩ đều sống trong những túp lều ngoài đồng trống hay núi. Họ không có cả vòi nước máy, và có chỗ thì bùn sình ngập đến đầu gối, còn nhà cửa của bố mẹ anh chàng Nhật Bản thì thật tiện nghi và sang trọng, hết chỗ nói. Đờisống sẽ đáng yêu hạnh phúc biết chừng nào bên cạnh người yêu và vật chất sung mãn !"

Tenzin bị dằng co mâu thuẫn giữa lý trí và con tim. Tiếng gọi tâm linh trong cô vẫn có một mãnh lực khiến cô không thể nào quay lưng để chạy theo tình yêu được. Cô lo sợ, đau khổ, dằn vặt; và một đêm, trong nước mắt nghẹn ngào, cô chắp tay cầu cứu Sư Phụ hãy giúp cô sáng suốt chọn đúng cho mình một hướng đi nhất định.

Kỳ diệu thay, ngài Khamtrul Rinpoche đã nghe được tiếng kêu cầu cứu của đệ tử mình. Tenzin thấy như có một luồng ánh sáng mầu vàng soi sáng toàn thân và giọng nói của Khamtrul Rinpoche, Sư Phụ cô, rõ ràng bên tai :

- "Hãy trở về Ấn Độ lập tức !"

- "Tôi vô cùng sung sướng. Tôi đã được che chở, đã được cứu độ. Tôi chắc chắn sẽ dứt khoát được sự sa lầy vào vòng luân hồi đau khổ."

Sáng mai, Tenzin mua vé về Ấn Độ lập tức, và từ đó cô không bao giờ gặp lại người thanh niên Nhật Bản đó nữa.

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN


CÔ ĐƠN VÀ ĐAU KHỔ


CHƯƠNG SÁU


Sự can đảm và lòng trung thực thiết tha cầu đạo của Tenzin đã giúp cô vượt qua biển tình để tiếp tục hoàn thành tâm nguyện của mình.

Nhưng bây giờ mới chính là giai đoạn thử thách cay đắng nhất của Tenzin khi cô bắt đầu thực tập đời sống xuất gia tại các thiền viện Tây Tạng. Nên nhớ, Tenzin là người nữ duy nhất trong số hàng trăm tăng sĩ tại thiền viện của ngài Khamtrul Rinpoche.

Nếu người ta nói Kim Tự Tháp chỉ có ở Ai Cập, thì sự khắc nghiệt phân biệt nam nữ phải nói là ở Tu viện Tây Tạng. Mặc dù Tenzin là đệ tử của Lạt Ma Khamtrul, nhưng Ngài không thể phá lệ để ưu đãi cô.

Trong mắt của các tăng sĩ ở tu viện, Tenzin là một phụ nữ, hơn nữa, lại là một phụ nữ Tây Phương với mắt xanh tóc nâu và ngôn ngữ khác biệt. Vai trò người phụ nữ Á Đông thật yếu kém và phụ thuộc trong tự viện, người nữ tu sĩ còn bị đối xử khác biệt hơn nữa.

Trong lúc các tăng sĩ được học giáo lý, thực tập thiền định hay học hỏi các môn pháp thuật, vũ thuật; thì Tenzin chỉ loanh quanh lẩn quẩn bên ngoài nhìn vào.

Các tăng sĩ có vẻ tử tế, nhưng luôn luôn họ cách xa Tenzin, vì họ đã được giáo huấn rằng người nữ là đầu mối của sa đọa và cạm bẫy. "Tôi thật cô đơn và lạc lõng ngay giữa chốn đông người. Cái cảm giác yêu thương mọi người nhưng không được phép tới gần là một cảm giác đau đớn trong lòng nhất.

Bạn sống giữa loài người nhưng bạn không thuộc về một ai cả, không thuộc về một cái gì cả. Bạn cũng là con người như họ nhưng họ tạo cho bạn có cảm giác bạn là một loài chúng sinh nào khác họ hoàn toàn.

Cô đơn và cô đơn kinh khủng. Người duy nhất tới gần tôi là Sư Phụ tôi, Khamtrul Rinpoche. Nhưng Ngài rất bận việc, và thỉnh thoảng mới tới thăm hỏi tôi. Hằng đêm, tôi khóc thầm vì cô đơn và lạc lõng.

Tenzin bị sống cách biệt với mọi người. Cô không thuộc về Tăng đoàn mà cũng chẳng phải là cư sĩ. Cô thuê một căn phòng nhỏ xíu chỉ kê đủ một cái giường và một cái bàn. Cô tắm ở cái vòi nước lạnh và đại tiểu tiện trong một cái thùng gỗ. Cô tự nấu ăn lấy và sắp xếp mọi thứ, không được ai chỉ bảo. Ban ngày, cô tới văn phòng của Khamtrul Rinpoche phụ Ngài về giấy tờ sổ sách; ban đêm cô rúc về căn phòng trống lạnh của cô.

-"Sau này, có người hỏi tôi là có cô đơn khi ở trong động tuyết không? Tôi trả lời là không bao giờ. Nhưng chính thời gian ở tu viện mới đúng là chuỗi ngày sầu khổ và cô đơn nhất của tôi."

Nhưng, khôi hài thay, chính sự cô đơn, đau khổ, lạc lõng trong tu viện đó của Tenzin Palmo lại giúp cho cô nhìn rõ được nội tâm mình một cách sâu sắc hơn.

Cô giải thích :

- "Một ngày kia, tôi ngồi thiền quán chiếu tự tâm mình và tư duy về những thao thức, khắc khoải, mâu thuẫn, cũng như những ham muốn của bản ngã con người tôi. Tôi đã nhìn rõ được sợi dây ràng buộc bấu víu của khát ái đang trói ghì lại tôi. Tôi nhìn thật rõ, thật thẩm thấu; và từ giây phút đó, tôi đã khám phá được nguyên nhân của khát ái và đau khổ."

Tenzin Palmo đã học được bài học "Ly Dục" và "Xả Ngã" (rời bỏ sự bám víu dục lạc, danh lợi và xả được cái "Ta"). Đó là nền tảng của giáo lý Phật giáo; là thềm thang bước lên quả vị giải thoát hoàn toàn.

Làm sao con người có thể có lòng từ bi đối với mọi loài chúng sanh khi chính tâm họ còn quan niệm, phân chia về "bạn hay thù, quen hay lạ. Xả bỏ được dục lạc hay bản ngã không phải là điều dễ làm; con người luôn khát khao, bám víu, đòi hỏi, và thỏa mãn cho bằng được những dục vọng vật chất và họ không bao giờ bằng lòng với hiện tại. Họ cảm thấy xa lạ với quan niệm bình đẳng giữa người và người, giữa người và vật, hay giữa nam và nữ.

Tenzin Palmo nhận xét khá khôi hài rằng người ta thường hỏi cô là làm sao dứt trừ được sân hận; nhưng không ai hỏi cô là làm sao dứt trừ được ham muốn?

Hoàn cảnh sống của Tenzin Palmo tại Dalhousie càng ngày càng tệ hơn. Trong tất cả sự bạc đãi phân biệt mà Tenzin phải chịu đựng thì sự việc "không được phép học giáo lý và các nghi lễ" khiến Tenzin đau khổ nhứt. Lý do duy nhất chỉ vì Tenzin là "phái nữ". Họ cho rằng "phụ nữ không đủ trình độ và tiêu chuẩn để học Phật pháp và các nghi lễ trang trọng."

Khi chư tăng hành lễ trong chánh điện, Tenzin chỉ ngồi ở ngoài nhìn vào và không được phép tham dự. Khi cô tỏ ý muốn học kinh điển và các nghi thức, cô bị từ chối một cách phũ phàng và quyết liệt.

Cô chỉ được Choegyal Rinpoche, đệ tử thân tín nhất của Khamtrul Rinpoche, kể cho cô nghe những mẫu truyện Phật giáo đơn giản, không chứa đựng giáo lý cao siêu gì. Đó là đăc ân mà họ nghĩ một phụ nữ, nhất là phụ nữ Tây Phương, nên bắt đầu học hỏi.

Nỗi chán chường buồn tủi trong Tenzin càng ngày càng lớn dần ra. Cô nói :"Tôi cảm thấy mình như là một kẻ thừa thãi trong hội chúng. Nếu tôi là đàn ông, thì chắc chắn sự việc sẽ khác hẳn ngay. Tôi sẽ có thể học hỏi và gia nhập Tăng đoàn. Thực sự, đây là thế giới trị vì của đàn ông.

Họ là những người có quyền hành nhất trong tay. Tôi như lọt vào một thế giới lạ lùng, không có chỗ đứng của mình. Các vị tăng sĩ rất hòa nhã tử tế với tôi, nhưng tôi biết trong tâm họ, người phụ nữ chỉ là một vật thừa, không giá trị; và họ cảm thấy sự có mặt của một phụ nữ trong Tăng đoàn như là một sự thách thức đố kỵ !"

Tenzin Palmo đã chạm phải bức tường ngăn cách rắn chắc nhất. Đã bao thế kỷ trôi qua, trong khi các tăng sĩ được học cao, hiểu rộng, và được sự ủng hộ tôn trọng của tín đồ; thì người nữ tu Tây Tạng không được đọc hay viết, không được tìm hiểu học hỏi giáo lý.

Họ ở trong những tu viện nhỏ bé, nghèo nàn, đơn sơ, và tụng kinh làm lễ cho một số ít các cộng đồng địa phương hay tệ hơn nữa, là phục vụ hầu hạ cơm nước cho các Tăng sĩ.

Đó là lý do vì sao không có những vị Lạt Ma nữ, không có những vị nữ đạo sư, giảng sư. Không có địa vị, cấp bực hay học thức, giới nữ tu Tây Tạng chẳng có một thế đứng hiện hữu trong xã hội, trong Tăng đoàn. Không riêng gì ở Tây Tạng mà giới nữ tu ở Thái Lan hay ở các nước Á Đông khác cũng không tốt đẹp gì hơn.

Ở Thái Lan, vị trí các nữ tu sĩ rất thấp kém thậm chí họ không được quyền chạm tay đến các chiếu trải tọa cụ của các vị Tăng. Căn nguyên của vấn đề "trọng Tăng khinh Ni" này bắt nguồn từ thời Đức Phật còn tại thế (hay còn trước đó nữa); khi người nữ không có được một quyền lợi hay vị thế nào trong gia đình và ngoài xã hội.

Trong một môi trường xã hội quá phân biệt về giới tính và giai cấp như vậy, ngay chính Đức Phật cũng đã từ chối không muốn cho người nữ gia nhập vào Tăng đoàn, bởi vì, có thể Đức Phật nghĩ rằng "đời sống một du tăng rày đây, mai đó không thích hợp và nguy hiểm đối với phái nữ"; và còn nhiều chướng ngại nữa như : thân nữ có nhiều nghiệp chướng không thể đắc đạo được, hay thành Ma Vương cũng không xong.

Ngay như ngài Xá Lợi Phất, đại đệ tử của Phật, khi nghe Long Nữ 8 tuổi đắc quả vị giải thoát, đã thốt lên rằng :"Chuyện đó khó tin, quả thực khó tin, vì thân nữ nhiều nghiệp chướng, không thể thành Phật được !" (Kinh Pháp Hoa, phẩm Đề Bà Đạt Đa thứ 12).

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN


LAHOUL


CHƯƠNG BẢY


Đường về Bảo Sở (Phật tánh, Chơn Như) thật khó khăn, nhiều thử thách. Nó đòi hỏi người hành giả phải có sự quyết tâm và can đảm để đương đầu với mọi gian nan nguy hiểm.

Con đường dẫn về Lahoul cũng vậy; thật cheo leo hiểm nghèo và gập ghềnh khó đi. Dãy Hy Mã Lạp Sơn hoang vu cách biệt hẳn thế giới loài người bởi hàng rào dầy đặc tuyết và đá.

Suốt cả 8 tháng trời trong năm, rặng Trường Sơn nầy luôn luôn bị tuyết đá bao phủ. Nhìn đâu đâu cũng thấy một mầu trắng xóa đến rợn người. Thời gian mùa hè ở Hy Mã Lạp Sơn rất ngắn. Hơn nữa, con đường dẫn tới vùng đất bí mật này lại còn được bảo vệ bởi đường đèo rùng rợn Rhotang Pass.

Vì thế, ở độ cao 3.978 mét, vùng đất này đã được mệnh danh là "Cánh Đồng Xác Chết". Hình như đường lên Lahoul đã được các thần linh xếp đặt thật hiểm trở khó khăn để thử thách tâm người cầu đạo.

Ngày đó, người ta chưa khai quang con đường và rất ít, rất ít người biết đến Lahoul : không có xe và chẳng có một phương tiện gì để leo lên tới Lahoul ngoài đi bộ; chứ không phải như ngày nay, du khách đã biết nhiều đến Tây Tạng và Lahoul cũng đã trở thanh một địa điểm du lịch hấp dẫn. Vì vậy, Tenzin phải tính toán thật kỹ nếu cô muốn leo lên Lahoul.

Cô bắt đầu khởi hành trước bình minh. Cô phải làm sao vượt qua đèo Rhotang Pass trước buổi trưa, bởi vì độ nửa ngày thì những cơn cuồng phong sẽ bất thần bốc lên dữ dội thổi tung tuyết và đá khiến người ta mất phương hướng và bị lạc đường. Bị lạc đường ở đèo Rhotang Pass thì chỉ có nước giáp mặt Tử Thần mà thôi !

Do đó, các cơ quan hữu trách bắt buộc Tenzin phải viết đơn cam kết chịu hoàn toàn trách nhiệm về an ninh bản thân trước khi cô khởi hành. Tenzin rất vui vẻ làm theo ý họ.

Tenzin cắm cúi leo, leo mãi; bỏ lại sau lưng những cánh đồng xanh bát ngát, những vườn hoa hồng, hoa cúc tươi thắm, và khói bếp nồng ấm tỏa ra từ những căn nhà vang rộn tiếng cười trẻ thơ.

Cô trực chỉ đèo Rhotang Pass, leo vượt qua rặng cây dày đặc; đất dưới chân càng lúc càng gồ ghề, lồi lõm, khó đi; chung quanh vắng ngắt không có một bóng người qua lại. Thỉnh thoảng, đó đây, Tenzin chỉ thấy thấp thoáng một vài con trâu "yak", vài chú ngựa hoang, và một con kên kên khổng lồ đậu trên mỏm đá, độ cao này, những dốc núi phủ đầy tuyết trông thật hung hãn, gớm ghiếc như một tử thù sẵn sàng xô ngã bất cứ kẻ nào xâm phạm đến nó.

Gió hú lên từng cơn, đem theo cơn lạnh giết người; dù thời tiết đang ở vào đỉnh cao mùa hè, gió vẫn lồng lộng buốt giá. Đường đi trơn trợt vì có chỗ tuyết tan chảy dọc theo sườn núi; có chỗ thì đóng băng cứng ngắt. Tenzin vẫn cắm cúi leo từng bước một, từng bước một. Cuối cùng cô đã leo tới đỉnh núi; và như để trọng thưởng sự kiên nhẫn và can đảm của cô, một quang cảnh hùng vĩ tráng lệ trải dài ra trước mắt Tenzin.

- "Thật tuyệt vời. Trước mắt tôi là một vùng đất bằng phẳng rộng độ khoảng một dặm, bao bọc chung quanh là những ngọn núi tuyết trằng xóa nổi bật trên nền trời xanh thẳm. Thiên nhiên thật quá ưu đãi con người. Cảnh trời cao núi biếc làm tâm hồn người ta thanh tịnh, lâng lâng một niềm thoát tục.

Tôi gặp một vị Lạt Ma trên đỉnh núi. Vị ấy đeo một cái trống cơm nhỏ và một khúc xương người. Vị Lạt Ma cho tôi biết khúc xương ấy là biểu tượng để quán tưởng về cái chết của vị ấy. Chúng tôi trèo qua rặng đèo và để người trượt xuống theo sườn núi qua phía bên kia." Khi Tenzin chạm tới chân núi thì cô lại như lọt vào một thế giới khác.

- " Ở đây giống như ở Shangri-la."

Từ văn hóa tập tục Ấn Độ, tôi bước vào thế giới văn hóa phong tục người Tây Tạng. Những mái nhà ở đây thì bằng phẳng; rải rác dọc theo các sườn núi là những tu viện Phật giáo, những bánh xe cầu nguyện, và những bảo tháp.

Người Tây Tạng ở vùng Lahoul này sống lam lũ hơn, nhưng họ có vẻ rắn chắc và thoải mái hơn các cư dân vùng khác vì họ sống gần với đất trời, rừng núi, cỏ cây. Người Tây Tạng hao hao giống như người Trung Hoa, nhưng đôi gò má họ cao hơn, và đôi mắt thuôn đẹp như trái hạnh đào."

Từ nhiều thế kỷ trước, khi đạo quân Hồi giáo tràn sang xâm chiếm Tây Tạng và Ấn, và tàn phá hủy diệt hàng ngàn ngôi chùa, tự viện, người dân Tây Tạng đã phải bồng bế nhau chạy đến vùng Lahoul này để lánh nạn; Phật giáo cũng đã theo gót chân người Tây Tạng đến mảnh đất hoang vu xa xôi hẻo lánh nầy, và bắt đầu nẩy mầm mọc rễ tại đây, do sự nỗ lực tinh cần của các vị đạo sư sau nầy, sống ẩn dật tại các hang động trong núi tuyết.

Năm tháng trôi qua, người ta thêu dệt nhiều huyền thoại về các vị Lạt Ma ẩn sĩ đó và quyền năng của họ; vì thế, quang cảnh ở Lahoul cũng bao phủ một màu huyễn hoặc.

Năm 1970, khi Tenzin đến Lahoul, thì dân chúng ở Lahoul vẫn còn kém, chưa hiểu biết gì nhiều về thế giới bên ngoài. Đời sống họ mộc mạc giản dị, ngày ngày ra đồng trồng khoai trồng lúa, hay chăn nuôi súc vật.

Nếp sống đơn thuần đó ảnh hưởng đến tính tình bản chất con người nên người dân Tây Tạng rất hiền hòa chất phác và niềm tin Phật giáo của họ rất thuần khiết dung dị.

Những sáng kiến phát minh khoa học kỹ thuật của thế kỷ 20 này như điện lực, máy truyền hình, truyền thanh, xe hơi, v.v... chưa xâm nhập vào Lahoul, cũng như những bộ mặt da trắng của người Tây Phương vẫn còn xa lạ với dân Tây Tạng vùng đất Lahoul này.

Sự có mặt của Tenzin Palmo, với chiếc áo nữ tu Tây Tạng mầu đỏ sậm, đã làm cho dân Lahoul xôn xao và hiếu kỳ. Người đàn bà đó là ai vậy? Làm sao mà một phụ nữ Tây Phương lại dám bỏ hết vật chất để đi tu vậy?

Có phải cô ta tu thiệt không đó, hay là gián điệp gì đây? Cô ta muốn gì ở người Tây Tạng chúng ta? v.v.. và v.v... Nhưng Tenzin đã chinh phục được cảm tình của dân Lahoul, và đè bẹp được làn sóng dư luận xầm xì, nghi kỵ đó bằng chính sự nhiệt tâm, cởi mở, và chân thành của cô.

Cô được họ đặt cho tên gọi là "Saab Chomo" (Ni cô Tây Phương), và sau này khi Tenzin ẩn cư trong động tuyết, thì họ đã kính trọng cô như một vị Thánh.
Lúc đó, Tenzin muốn tới Tayul Gompa, có nghĩa là "vùng đất chọn".

Đó là một toà nhà cổ nguy nga độ 300 năm, tọa lạc giữa rừng cây cách thủ đô Keylong độ vài dặm, nơi đó, có một thư viện lý tưởng, những bộ sưu tập tranh lụa tôn giáo và một bức tượng rất lớn của ngài Padmasambhava, vị Thánh Đạo Sư đầu tiên truyền bá đạo Phật từ Ấn vào Tây Tạng. Người dân Tây Tạng tôn sùng ngài như là một vị Phật.

Bây giờ Tenzin đã có thể sống yên ổn thoải mái ở Lahoul rồi. Mấy năm qua, cô trôi dạt từ phòng thuê này đến nhà trọ khác; giờ đây cô đã có một căn nhà nhỏ xây bằng đá và bùn cho riêng cô đằng sau ngôi chùa, nơi mà các vị tăng sĩ hay các ni cô thường ở riêng biệt.

Tenzin sống vui vẻ, thân mật, hòa đồng với tất cả mọi người. Ai ai cũng quí mến cô cả. Tenzin thân nhất với Tshering Dorje, người mà cô thường thân mật gọi là "Anh trai người Lahoul của tôi".

#214 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 25/06/2011 - 02:23

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN


ĐỘNG TUYẾT SƠN


CHƯƠNG TÁM


Tenzin Palmo và nhóm bạn đồng hành bắt đầu trèo lên ngọn núi sau tu viện Tayul Gompa, hướng tới hang động trong dãy Tuyết Sơn. Họ bám vào đá, rướn người leo lên từng bước, từng bước một; họ leo cao, cao mãi, bỏ lại sau lưng thế giới loài người. Họ kiên trì cẩn thận leo lên cao, cao hơn nữa.

Hơi thở họ đã khó nhọc, nặng nề; buồng phổi họ như bị sức ép không khí trên độ cao hơn 1000 bộ này ở rặng núi tuyết nén chặt lại muốn vỡ tung. Cuộc leo núi này thực sự không phải trò đùa hay một trò chơi mạo hiểm. Những người bị yếu tim hay người có máu xây xẩm không thể lên tới độ cao này được.

Đường dốc núi thật cheo leo, nguy hiểm đến rợn người. Các tảng đá lớn nhỏ chất chồng lên nhau, có hòn thì sần sùi lởm chởm, có hòn thì sắc bén cứa đứt cả tay, có hòn thì chênh vênh nhô tận ra ngoài, chỉ cần sơ ý một chút hay sẩy nhẹ chân cũng đủ toi mạng.

Tuy nhiên, không dễ bị khuất phục, đoàn người Tenzin Palmo vẫn bám chặt leo lên từng bước. Sau hai giờ leo núi vất vả, họ bất thần nhìn thấy động núi. Hang động này nằm tọt trong hốc núi, và như là có bàn tay "ngụy trang" khéo đến nỗi họ súyt không nhận ra được. Động tuyết này không giống như các vòm cửa hang động trong các cuốn phim tưởng tượng của Hollywood.

Nó cũng không có lỗ sâu đen ngòm, bụi bặm, dơ dáy như các hang động của các người thời cổ đại. Động tuyết này chỉ là một vách đá nhô ra lơ lửng trên sườn núi, và 3 phía đều toang hoác. Trần động thấp chủm nên người ta không thể nào đứng thẳng người lên được nếu chui vào bên trong.

Mái động là một vách đá lởm chởm nhô ra ngoài, lưng động nghiêng nghiêng cheo leo theo sườn núi, và bên ngoài dưới gò vách đá là một dốc nhọn hình chữ V chạy dài xuống thung lũng Lahouli.

Suy cho cùng, đây là một nơi trú ẩn mong manh, không kiên cố và có thể dễ bị sụp bất ngờ. Nó chỉ là một lỗ hổng nhỏ tụt vào trong hốc núi, rộng độ 10 bộ bề ngang và 6 bộ chiều sâu; trông nó giống như một cái tủ áo vậy. Có thể nói, động tuyết này như một cái lò giam cô đơn.

Tenzin Palmo đứng sát mép vực và quan sát quang cảnh chung quanh. Cảnh trí thật thanh tịnh, hùng vĩ, và cô liêu. Trước mặt cô, theo hình vòng cung 180 độ là dãy Hy Mã Lạp Sơn phủ tuyết trắng xóa, bao la đến nỗi Tenzin có cảm tưởng như mặt chạm mặt với núi vậy.

Nhìn đâu cũng thấy núi và núi, tuyết và tuyết. Bây giờ là mùa hè nên chỉ có đỉnh núi phủ tuyết; nhưng vào 8 tháng mùa đông thì tuyết đổ xuống dầy đặc tạo thành một bức thành trì trắng toát khổng lồ, nổi bật trên nền trời xanh lơ, không gợn một chút mây.

Ánh sáng mặt trời chiếu xuống núi trong suốt như pha lê, chan hòa trên mọi vật khiến cảnh sắc thêm lung linh tươi đẹp. Không khí thì dễ chịu, trong lành.
Sự yên tĩnh ở đây thật sâu lắng. Người ta chỉ nghe tiếng róc rách nhè nhẹ của dòng sông Bhaga ở dưới thung lũng, tiếng gió rì rào, và lâu lâu vài cánh chim vỗ bay phá tan bầu tĩnh mịch chốn núi đồi.

Bên tay phải của Tenzin là một cánh rừng nhỏ có thể cung cấp nhiên liệu. Bên trái của cô, độ một phần tư dặm là một con suối nhỏ chảy ngang qua các khe đá giúp cho cô có được nước uống thiên nhiên trong mát, sạch sẽ; và đằng sau cô là một ngọn núi cao nhọn như tháp canh bảo vệ cho cô.

Với tất cả cảnh trí thiên nhiên tuyệt vời chung quanh, và sự tuyệt đối yên tĩnh cô đơn, động tuyết sơn này sẽ tạo cho Tenzin một cảm giác thanh bình êm ả vô cùng lý tưởng, và những ngọn núi hùng vĩ hoành tráng của dãy Hy Mã Lạp Sơn, như một bà mẹ hiền, dang rộng đôi tay che chở bảo vệ Tenzin.

Cô đang đứng ở độ cao 13,000 bộ trên mực nước biển - một độ cao chóng mặt rợn người. Tung độ này thấp hơn đỉnh núi Mount Whiney và Mont Blanc không bao nhiêu. Nếu so sánh động tuyết này với ngọn núi cao nhất nước Anh Ben Nevis cao 4,402 bộ, thì Ben Nevis thấp lè tè như chú bé con và anh chàng khổng lồ.

Nơi đây, cheo leo một mình như cánh chim đại bàng cô đơn trên đầu vũ trụ, Tenzin sẽ nhập thất yên ổn không bị quấy rầy phiền nhiễu bởi tiếng động trần gian. Cô sẽ được tận hưởng sự yên tĩnh tuyệt đối mà cô cần có. Sự yên tĩnh của ngoại cảnh quan trọng và cũng rất cần thiết cho sự tu tập của vị hành giả trong công cuộc khám phá tâm linh.

Trong cảnh giới hoàn toàn yên lặng, tiếng nói Tuyệt Đối Vô Cùng sẽ được tiếp nhận một cách trọn vẹn.
Ngoài ra, còn có một vài sự trùng hợp ngẫu nhiên thật lý thú. Trên đỉnh núi đối diện hang động Tuyết Sơn là một phiến đá đen thật ngộ nghĩnh mà dân địa phương đặt tên là "Tượng Nữ Thần Keylong".

Dù ngay giữa mùa đông, phiến đá này cũng không bao giờ bị phủ tuyết cả. Hình tượng nó đó đen sì nổi bật trên nền tuyết trắng của đỉnh núi. Càng nhìn gần, người ta càng thấy rõ hình thù đặc trưng của phiến đá đen đó. Rõ ràng đó là hình dáng của một phụ nữ bồng con sát vào ngực và tay kia của nàng đang cho chim ăn. Theo mắt người phương Tây, hình tượng đó rất giống tượng Mẹ Madonna đang bồng con, và người dân Lahoul thì tin tưởng đó là Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.

Cách phiến đá đen đó xa xa, lại có một bức tượng đá màu vàng và xanh nhạt của một nữ thần khác. Vài thế kỷ trước, hình như người ta cũng đã thấy một bức tượng đá giống như vậy ở thung lũng bên kia đồi, nên dân Lahoul càng truyền miệng kháo nhau rằng "Tượng Nữ Thần" đã di chuyển từ bên này đồi lên đỉnh núi tuyết".

Và dọc xuống sườn núi, không cách xa động tuyết bao nhiêu là một lỗ hổng lớn tụt hẳn vào trong vách núi. Có người nói lại rằng "xưa kia, đó là nơi cư ngụ của nữ thần Phật giáo Tây Tạng Palden Lhamo. Vị Nữ Thần này bảo vệ toàn dân Tây Tạng. Ngài cỡi trên lưng một con la (loại thú giống như lừa).

Vài năm sau, khi Tenzin lên động tuyết cư trú, chính mắt cô nhìn thấy những dấu chân la ấn lõm trên tuyết chung quanh lỗ hổng này. Lạ lùng nhất là cô không tài nào tìm thấy một dấu chân nào khác dẫn lên lối này.

Tất cả những gì Tenzin đang nhìn trước mắt đây thật viên mãn hoàn hảo. Cô nghĩ rằng: " động Tuyết Sơn, cô có thể dành hết thì giờ và năng lực cho sự tham thiền nhập định thật miên mật; để từ đó, cô có thể vén bức màn bí mật của thế giới tâm linh.

Đó là một thế giới đầy kỳ hoa dị thảo; một thế giới bao la, vô cùng vô tận, mà mọi người tu đều muốn khám phá; một thế giới không có sự "bắt đầu" (vô thỉ) cũng không có sự "kết thúc" (vô chung). Thật đúng như câu:

"Càn khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung."

tạm dịch:

"Vũ trụ nằm trên đầu lông xíu
Thế giới lọt trong hạt cải mòng."

Tenzin quá hài lòng và quyết định sẽ cư trú tại hang động này; nhưng các vị đồng tu phạm hạnh khác lại thấy bức rức, áy náy cho cô.

- "Cái động này cao quá ! Không ai có thể để một phụ nữ sống một mình ở đây như vậy. Cô sẽ chết cóng ở độ cao này !"

- "Ồ, quí vị không biết chứ, hang động luôn luôn ấm áp hơn nhà. Các hang động như điều hòa được thời tiết. Khi tôi ở Tayul, tôi đã rét cóng trong căn nhà vào mùa đông; nhưng ở động này thì ấm áp vô cùng."

- "Nhưng mà vẫn còn nhiều thứ bất tiện và nguy hiểm. Cô ở đây thì cứ như con vịt già bị trói chờ bọn cướp đến bẻ cổ và cướp sạch."

#215 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 25/06/2011 - 02:28

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN


ĐỐI DỊÊN TỬ THẦN


CHƯƠNG CHÍN


Cuộc sống của Tenzin tại hang động Tuyết Sơn không quá thơ mộng và lý tưởng như cô đã kể cho chúng ta nghe, mà những bịnh tật, thiên tai, đói khát đã thay phiên nhau tấn công cô một cách khắc nghiệt vô cùng.

Tenzin đã đối phó chịu đựng những hiểm nghèo tật bịnh đó chỉ một mình và một mình lẻ loi; không có bác sĩ, không có bạn bè, không có thân nhân, không có điện thọai hay cũng chẳng có một cơ sở y tế cứu giúp nào.

- "Khi bạn nhập thất, bạn phải phát nguyện sẽ ở trong thất bao lâu và bạn phải giữ đúng lời nguyện đó. Ngay cả khi bạn mắc phải bịnh nan y, bạn cũng không được ra khỏi thất. Nếu chết, bạn chết trong thất." Ngạn ngữ Tây Tạng có câu "Nếu phải bịnh, thì bạn đã bịnh. Nếu phải chết, thì bạn phải chết." Vậy thì bạn đừng thắc mắc gì cả, chỉ an nhiên chờ đợi mọi sự việc đến."

Thật lạ lùng, Tenzin không hề bị bịnh nặng kinh khủng như ngày cô còn bé; tuy nhiên cô vẫn thường đau ốm luôn. Trong động, cô thường bị sốt rét hay đau nhức mình mẩy thấu xương. Có lần, cô khám phá thấy có một cục bướu nhỏ dưới cánh tay, nhưng cô phớt lờ đi, không quan tâm tới; và khi cô hết hạn nhập thất ở động Tuyết Sơn, cô chợt nhớ tới cục bướu đó và rờ cánh tay thì nó đã biến đi tự lúc nào không hay nữa.

- "Trong thời gian tôi nhập thất, có lần tôi bị bịnh đau mắt; vì không có thuốc mắt tôi đã sưng húp lên thật to và đau đớn đến nỗi tôi không thể nháy mắt được. Tôi cũng không chịu được ánh sáng chói vào mắt nên tôi sống trong bóng tối hoàn toàn. Tôi không thể nhóm bếp được vì hơi nóng và ánh sáng chói vào mắt khiến tôi đau đớn kinh khủng, vì thế tôi nhịn ăn luôn.

- "Tôi không thể làm gì cả. Tôi cũng không tập trung ngồi thiền được vì mắt tôi cứ sụp xuống, không dỡ lên được. Cuối cùng tôi chỉ ngồi yên, chờ đợi, và quán sát từng cơn đau hoành hành cơ thể tôi. Tôi chỉ ngồi yên, dù muốn nằm xuống một chút cũng không được, vì hễ nằm xuống là mắt tôi nhức buốt kinh khủng, đau nhói lên tận màng óc.

Do đó, tôi chỉ ngồi yên chịu đựng. Càng quan sát cơn đau, tôi lại càng thấy kỳ diệu. Từng cơn đau trổi dậy như từng nốt nhạc của cung đàn, nhịp trống của một bản nhạc tấu. Giai điệu âm tiết khác nhau của bản nhạc "Khổ Đau" chập chùng nhảy múa trong mắt tôi.

Khi tôi bắt đầu tính nhẩm lại thời gian cơn đau mắt nầy thì nó đã hành hạ tôi đúng 49 ngày. Thật thú vị vì 49 ngày là giai đọan của trung ấm thân (Bardo) giai đoạn tiếp nối giữa Cái Chết và Sự Tái Sanh của một kiếp chúng sinh. Cơn đau mắt của tôi cũng giống giống như vậy."

"Qua sự quán chiếu tư duy, tôi cảm nhận được một điều là sự đau đớn có mặt trong chúng ta, hành hạ chúng ta, bởi vì chúng ta khăng khăng chống trả lại nó."

"Sự phản ứng đó tạo thành một luồng đối kháng mãnh liệt công kích toàn bộ con người, và đưa đến khổ đau phiền não triền miên. Điều quan trọng là chúng ta nên tập làm bạn với khổ đau, sánh vai với nó, dạo chơi với nó, nhẫn nhục uyển chuyển theo nó. Lúc đó, sự dày vò và đau đớn của bịnh tật sẽ thuyên giảm, bớt công kích chúng ta.

Làm sao chúng ta có thể day tay, mắm miệng đánh trả lại "bịnh tật" (một sự cố đương nhiên phải xảy đến cho một kiếp chúng sinh?). Vì thế, tốt hơn hết là chúng ta nằm dài trườn mình ra như loài rắn, uyển chuyển bò nhịp nhàng theo nghiệp quả và tìm cách chuyển hóa nghiệp lực theo chiều hướng tốt đẹp nhất mà chúng ta có thể làm được."

Tenzin cũng đã suýt bị chết đói trong động. Có một lần Tenzin nhập thất hoàn toàn trong động và chỉ nhờ vào Tshering Dorje cung cấp thực phẩm lên động cho cô; nhưng Tshering Dorje đã quên hay vì lý do nào đó, không mang thực phẩm lên cho Tenzin được.
Cô đợi và đợi mãi, thức ăn dự trữ trong động cạn dần, cạn dần. Cô đã nhịn đói và duy trì sự sống qua tư duy thiền định.

Đến khi Tshering Dorje mang thực phẩm lên, Tenzin sắp tàn hơi kiệt sức vì thời gian nhịn ăn quá lâu. Tuy nhiên, cô cũng không hỏi vì sao Tshering Dorje chậm trễ giúp cô; cô nghĩ là ông ta có những lý do cá nhân của ông.

Một thảm kịch gây ấn tượng mạnh nhất xảy ra cho Tenzin khi cô ở trong động khiến cô nhớ mãi không quên. Đó là vào tháng 3 năm 1979 khi Tenzin đang tọa thiền như thường lệ trong hộp gỗ. Bỗng đâu bên ngoài, một trận bão tuyết dữ dội nổi lên, và kéo dài suốt 7 ngày 7 đêm.

Âm thanh của gió lốc và bão tuyết xoáy rít trong không trung như tiếng gầm thét của loài mãnh thú khi tử chiến. Tenzin đã quen với những cơn lốc tuyết, nhưng thực sự trận bão tuyết này vô cùng kinh khủng và dữ dội. Tuyết đổ xuống như thác, chất chồng lên cao, cao mãi, cao qua khỏi cửa cái, qua khỏi cửa sổ căn động và phủ lấp luôn. Tenzin chợt rùng mình hãi sợ.

"Cô đang bị CHÔN SỐNG DƯỚI TUYẾT".

Cảm giác kinh hoàng đó vẫn còn đậm nét trong ký ức cô khi cô kể lại.

- "Thình lình tất cả bị đắm chìm trong tối đen và lạnh giá. Tôi không thể nhóm lò được vì ống thông hơi đã bị tuyết dập nát trên vòm động. Không có cách gì để nấu ăn hay sưởi ấm gì cả. Tôi cũng không dám thắp đèn cầy vì sợ thiếu dưỡng khí. Khi tôi nhìn ra phía cửa sổ, tôi chẳng thấy gì ngoài một tấm màn trắng toát đến rùng rợn của tuyết. Khi tôi cố gắng đẩy cửa cái ra thì một màu tối đen như mực phủ kín tất cả.

"Không hy vọng gì được cứu hay có một lỗ thủng thông hơi để tôi thở được một chút, trong hang động lạnh giá tối om như cái huyệt này, tôi biết là tôi đang đối diện với cái chết đang từ từ nuốt lấy tôi. Tôi nhớ lời dạy của Đức Phật "Cái chết chắc chắn sẽ đến với chúng ta, nhưng thời gian đợi chờ cái Chết mới vô tận."

"Tôi đã quán tưởng về đề mục Cái Chết từ lâu, tôi quán tưởng khi xác thân tứ đại này tan rã đi trong lòng đất hay thiêu rụi đi trong hỏa lò; tôi sẽ không còn gì sót lại trên cõi đời này, ngay cả cái tên gọi "Tenzin" rồi cũng quên lãng đi; những người thân, bè bạn bỏ lại sau lưng.

"Đến từ HƯ KHÔNG và trở về HƯ KHÔNG", nhưng đó chỉ là quán tưởng; còn lúc đó thực sự tôi chạm mặt với Tử Thần đang từ từ tiến tới. "Là một hành giả tu tập Mật tông, tôi biết đó là giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình tu tập của một hành giả.

Qua những tầng lớp tư duy về diễn tiến của quá trình Cái Chết, nếu tôi đầy đủ công phu, tôi sẽ chứng đạt được cảnh giới tối thượng, vượt qua sống chết. Do đó, đối với một đạo sư, cái chết không có gì đáng sợ cả mà chính nó là một cơ hội hiếm có, một cơ hội bằng vàng để giúp họ giải thoát.

"Tôi không lo sợ. Tôi có nhiều thời gian để suy tư về Cái Chết đang thực sự giáp mặt tôi. Tôi nghĩ "Nếu tôi chết, tôi sẽ chết". Từ bé, tôi đã nhận thức được thân xác tứ đại nầy của con người thật tạm bợ, vô thường rồi, và con người cứ tái sanh đi, tái sanh lại bao nhiêu kiếp trong vòng tròn Luân Hồi vô tận.

"Tôi đã có trong tay "Những Viên Thuốc Cứu Độ Giải Thoát" sẵn sàng khi nào và nếu cái chết xảy đến cho tôi. (Những viên thuốc Giải Thoát này là đặc chế của ngành Y Dược Tây Tạng. Được bào chế bằng nhiều nguyên liệu đặc biệt, cỏ thuốc, đất thiêng và những bộ phận của các hài cốt, những viên thuốc này càng được tăng thêm hiệu lực và nhiệm mầu do sự nguyện cầu nhiều tháng của các tăng sĩ và huyền lực của các mạn đà la. Khi cái chết xảy ra cho một người nào, với sự trợ giúp của các viên thần dược này, người sắp chết sẽ dễ dàng chuyển hóa dòng ý thức đến cảnh giới an lạc cao hơn).

"Tôi hồi tưởng lại quá khứ và suy nghĩ xem tôi dã làm những gì, tốt hay xấu. Tôi nghĩ là tôi vô cùng may mắn. Tôi đã gặp nhiều vị Lạt Ma và đã tiếp nhận nhiều đặc ân giáo dưỡng. Thật vô cùng hạnh phúc được xuất gia thành ni cô !"

"Tôi rất ngưỡng mộ và tin tưởng Sư Phụ tôi, ngài Khamtrul Rinpoche. Tôi luôn luôn cầu nguyện sẽ được ngài lo cho phần trung ấm thân (Bardo) và kiếp sau của tôi. Tôi biết chắc chắn Ngài là nơi nương tựa duy nhất của tôi."

Tenzin cũng quán chiếu về thế giới Tịnh Độ, nơi Đức Phật Di Đà là tọa chủ. Cô nói: "Nếu chúng sanh nào vãng sanh được về thế giới Cực Lạc của Đức Phật Di Đà thì sẽ được vô lượng lợi lạc, vì đó là cảnh giới An Lạc Tối Thượng của Niết Bàn."

"Mặc dù vậy, chúng sanh cũng không nên chấp trước về bất cứ một cảnh giới nào, vì còn chấp trước là còn tham cầu, còn tham cầu là còn rơi rớt vào vòng sanh tử luân hồi vô tận. Các vị Lạt Ma cao cấp đã vãng sanh về thế giới Cực Lạc đó, nhưng các ngài lại phát nguyện trở về thế giới Sa Bà này để cứu độ chúng sanh.

Hơn nữa, cũng rất cần thiết là chúng ta nên phát nguyện trở về thế giới nầy và ngụp lặn trong khổ đau để thấu hiểu nỗi khổ của chúng sinh, bởi vì chỉ khi nào chúng ta hiểu được thì chúng ta mới thương; và khi tình thương phát khởi thì chúng ta sẽ dễ dàng xả bỏ được Ngã Chấp và Tham Ái được.

Chư Phật, và chư Bồ Tát đã hóa hiện thân khắp nơi, ngay cả địa ngục để cứu chúng sinh thoát khỏi khổ đau. Đó chính là đại nguyện của chư Phật và Bồ Tát vậy."

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN


CÁC VỊ ĐAO SƯ DU GIÀ


CHƯƠNG MƯỜI


Quang cảnh bên ngoài động Tuyết Sơn thì vô cùng tráng lệ và hùng vĩ, nhưng còn thế giới nội tâm của Tenzin thì ra sao? Cô đã chứng nghiệm được gì trong quãng thời gian dài 12 năm sống ẩn cư trong động núi? Cuộc hành trình đi về nội tâm của cô thế nào, có kết quả gì không? Cô đã thấy những gì xuyên qua quá trình thiền định công phu? Cô có được thấm nhuần ân sủng hay cô có nghe thấy những tiếng gọi thiêng liêng không? Cô có kinh nghiệm được những đợt sóng chuyển hoá tâm thức không?

Những gì chúng ta thắc mắc cũng là ưu tư khắc khoải của Tenzin khiến cô đã phát đại hùng tâm ẩn cư đơn độc trên động núi cách xa loài người hơn 12,000 bộ cao.

Theo huyền thoại của các thiền sư ẩn sĩ, đó cũng là một nan đề, một công án cần phải giải đáp. Tít tận trên hang động giá băng hoang sơ, vị Đại hiền giả đạo sư du già Milarepa, người sáng lập ra tông phái ẩn sĩ Karmapa, sau nhiều năm khổ hạnh, đã chứng đạt tới một cảnh giới huy hoàng kỳ lạ.

Những bức vách và nền căn động nơi Milarepa ở đều chảy tan ra nước bởi những dấu ấn tay chân của ngài và chỗ ngồi tham thiền của ngài thì lõm sâu vào trong đá.

Trong thời gian Milarepa tham thiền nhập định, các vị nữ thần đã xuất hiện và cung cấp thức ăn cho Milarepa đỡ đói. Nhưng dù thân hình của Milarepa chỉ còn xương bọc da và đã đổi màu, biến thành xanh rêu vì Ngài chỉ ăn có một loại lá cây ban (cây dại mọc trên núi), Milarepa vẫn an nhiên tham thiền nhập định, không hề biến động vì ngoại cảnh.

Trong khi thiền quán, Milarepa có thể tùy ý biến hoá ra bất cứ hình dạng nào, hay phiêu du tự tại trong vũ trụ càn khôn không hề bị trở ngại. Khi ngài xả thiền, thì có khi Milarepa đã dùng khinh công để vượt qua những dãy núi đồi đám dân làng đang cày bừa ở các thung lũng phía dưới chân núi.

Liệu cô gái Tenzin Palmo, con người bán cá ở Bethnal Green, có chứng đạt được như Milarepa không?

Không một ai biết chắc chắn được Tenzin Palmo đã chứng nghiệm được gì trong những năm tháng dài ẩn cư cô tịch, nhẫn nhục chịu đựng giá rét, đói khát, và bóng tối hoang vu. Tenzin đã thấm nhuần tư tưởng thanh cao của các vị Togdens, những vị đạo sư du già; họ không bao giờ bộc lộ hay khoe khoang thành tích chứng quả của họ.

Xả bỏ được Ngã Chấp và Kiêu Mạn chính là một trong nhiều đức tính của các vị đạo sư chân chính, phạm hạnh.

Hơn nữa, mật hạnh của một vị tu sĩ cùng không cho phép Tenzin bộc lộ ra sở tu sở đắc của mình. Ngay chính Đức Phật, Ngài cũng đã từ chối không thi triển phép lạ thần thông khi một đạo sĩ khác thách thức Ngài. Ngài nói: "Chỉ có giáo hóa chúng sanh thoát khỏi tham dục, si mê, ngã chấp, và chứng đạt được trí tuệ giải thoát.

Chỉ có giáo hóa thần thông mới có khả năng giúp chúng sanh vượt qua khỏi biển khổ tiến lên bờ giác ngộ. Ngoài ra, những phép thuật hay thần thông, nếu sử dụng không đúng chánh pháp, sẽ gây tác hại cho chính người sử dụng và người khác."

- "Thẳng thắn mà nói, tôi không thích đề cập đến vấn đề nầy. Có nhiều người thích mọi người biết đến mình, có người lại không quan tâm đến những vặt vãnh đó. Cá nhân tôi, tôi nhận thấy đó là chuyện riêng của tôi. Tôi không cần phải phô trương hay khoe khoang với mọi người là tôi tu thế nào, chứng đắc làm sao."

Khi cô bị cật vấn quá mức, Tenzin chỉ tiết lộ đại khái:

- "Lẽ dĩ nhiên, khi bạn nhập thất lâu dài, theo quá trình đúng đắn tu tập, bạn sẽ gặt hái được hiệu quả tốt đẹp, rất to lớn. Bạn sẽ cảm nhận được nhũng phút giây cơ thể bạn trở thành khinh an như bay bổng hay cảm giác thể xác này đang hoà tan trong chân không vũ trụ. Bạn sẽ vô cùng minh mẫn, nhạy bén, và tỉnh giác."

"Điểm tối yếu quan trọng của sự tu tập không phải để nắm bắt những ảo giác khinh an đó, mà chính là phải chứng đạt được giác ngộ. Giác ngộ chân lý không phải là một hiện tượng mơ hồ, siêu hình, mà rất đơn giản, đó là "Chúng ta phải nhìn sự vật y như chúng đang là" (như thị), không qua một bức màn nào. Sự vật như thế nào, chúng ta nhìn như thế ấy."


"Sự chứng đạt không phải là một quan niệm cũng không phải là một sản phẩm tư duy hay tình cảm.
"Sự chứng đạt có thể nói như là ánh sáng trong suốt từ trung tâm của một lăng kính, chứ không phải là những mầu sắc cầu vồng chung quanh nó."


"Trạng thái an lạc hạnh phúc cũng có nhiều tầng lớp khác nhau. "An Lạc" rất quan trọng cho sự nhập thất lâu dài như là xăng dầu cần cho máy xe vậy. Thiếu sự an lạc, bạn không thể nào nhập thất lâu dài được.
Từ niệm hỷ lạc trong tâm đó, bạn có thể sống cô độc và yên tĩnh suốt năm này qua năm khác, không hề cảm thấy thiếu thốn, bức rức, sợ hãi hay cô đơn buồn chán. Vì thế, Đức Phật đã khẳng định "An Lạc chính là yếu tố quan trọng nhất đưa đến Hạnh Phúc, Giác Ngộ, Giải Thoát."

Nhưng chúng ta cũng không nên nhầm lẫn An Lạc và Khoái Lạc của vật dục thị hiếu thấp hèn. Đối với những kẻ mê đắm vật chất thú vui thế gian, thì họ cho là tiền bạc vật chất luyến ái là hạnh phúc tối thượng của đời họ; họ bám víu và khao khát được có trong tay những thứ đó; nhưng họ có biết đâu rằng chính đó là cạm bẫy, là trở ngại cho một cuộc sống thực sự an ổn, nhẹ nhàng.

#216 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 25/06/2011 - 02:34

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN


CON ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ


CHƯƠNG MƯỜI MỘT


Mọi người đã đánh giá sai về Tenzin Palmo.

Người phụ nữ mảnh khảnh, mắt xanh này của phố thị Bethnal Green, Anh Quốc, không dễ gì chịu thua hay bị các trở ngại khuất phục, làm nản chí.

Cô đã sống sót trong động tuyết qua những trận thử lửa kinh hồn, và hiên ngang an nhiên tiếp tục con đường đạt tới Chân Lý Tối Thượng của cô qua hình tướng một người nữ. Cô vẫn kiên gan quyết tâm thực hiện lời thệ nguyện của mình "Thành Phật trong hình tướng một người nữ".

Trái tim cô thật sắt đá, nghị lực cô thật phi thường, ý chí cô thật bền vững, nhưng dù sao đi nữa, Tenzin cũng cần nương tựa vào hay noi theo gương các bậc nữ đạo sư còn sinh tiền để khuyến khích ủng hộ nhau khi cần thiết trên bước đường tu tập.

Tenzin chỉ có một mình, không thầy, không bạn. Ngay cả một ý nghĩ hay lời nói hướng dẫn của các nữ đạo sư cũng không có, để cho Tenzin có thể mường tượng được trí tuệ xuất chúng của người nữ khi chứng đắc ra sao? Thực sự, cô chẳng biết gì về các nữ đạo sư đương thời.

Qua kinh sách Phật giáo Tây Tạng, Tenzin chỉ biết các vị nữ Bồ Tát như nữ thần Tara với nụ cười từ bi, trong dáng ngồi co một chân trên tòa sen, sẵn sàng ứng hiện cứu giúp chúng sinh. Tenzin đã cầu nguyện trì tụng danh hiệu Tara rất nhiều lần để chúc phúc lại cho dân làng Lahoul khi cô đi khất thực xung quanh làng.

Người Phật tử Tây Tạng rất sùng bái Bồ Tát Tara. Khi gặp phải những sự cố bất an, lo sợ, hay đau khổ, họ luôn luôn cầu nguyện Tara đến giúp đỡ cứu thoát cho họ, vị nữ thần Tara nghe tiếng chúng sanh kêu khổ và đến cứu giúp tức thì. Ngài là biểu tượng của Từ Bi và Hùng lực.

Được biết nữ thần Tara được hóa sanh từ những giọt nước mắt xót thương chúng sanh của Đức Phật Chenrezig. Đức Phật đã thấy các nỗi khổ triền miên của chúng sanh và muốn giúp chúng sanh thoát khỏi khổ đau bằng cách cho nữ thần Tara hóa thân ra giúp đỡ. Cũng được biết là nữ thần Tara đã phát nguyện sẽ chứng đắc quả vị Phật trong hình tướng một người nữ.

Người dân Tây Tạng còn thờ phượng nữ thần đầy quyền năng Vajrayogini với toàn thân bao bọc trong vòng tròn ánh sáng lửa rực đỏ. Với bản tánh độc đoán, hăng say, mạnh mẽ, linh hoạt, Vajrayogini là biểu tượng một người nữ độc quyền cai trị lãnh thổ riêng của nàng.

Trong số các nữ thần Mật Tông, Vajrayogini tự mình ngài lo liệu mọi việc và cầm quyền cai trị, không cần người chồng hay phụ tá giúp đỡ. Hơn thế nữa, Vajrayogini còn mang người tình bí mật của nàng đi theo khắp nơi như là một dụng cụ lủng lẳng trên vai, và sẵn sàng dùng phép biến hóa vật đó thành người đàn ông để tùy nghi sử dụng trong mọi trường hợp cần thiết.

Tín đồ Phật giáo Tây Tạng còn tôn thờ sùng bái Đức Bồ Tát Quán Thế Âm với lòng bi mẫn nghe tiếng kêu khổ liền hiện thân ra cứu giúp; họ cũng thờ Bát Nhã Ba La Mật Đa, Mẹ của chư Phật, ngồi oai vệ lẫm liệt trên ngai vàng hoa sen, rực sáng hào quang trí tuệ và bi mẫn.

Các nữ Bồ Tát này mãi mãi là biểu tượng tôn thờ sùng bái và kính ngưỡng của toàn dân Tây Tạng khi hạnh phúc cũng như khi hoạn nạn quyền biến.

Nhưng, thực tế hơn, lịch sử Phật giáo Tây Tạng đã chứng minh về những thành quả chứng đạt của một số ít phụ nữ đã sống tại vùng núi tuyết này và đã can đảm kiêu hùng vượt qua hàng rào trở ngại bước tiến giới nữ của chế độ phong kiến phân biệt của xã hội Tây Tạng ngày xưa, để từ đó tên tuổi họ đã đi vào huyền thoại lịch sử như mặt trời rực sáng không bao giờ tắt.

Các phụ nữ này rất kiên cường bất khuất. Có thể nói, họ là biểu tượng nữ anh hùng cho mọi thời đại.
Sống trong một chế độ xã hội bất công, phong kiến, nặng đầu óc phân biệt nam nữ, họ đã trí dũng chiến đấu phản kháng lại những tập tục lề thói cũ rích đã đè nặng lên vai, lên cổ người phụ nữ như cái gông, cái ách, cái cùm xiềng xích phụ nữ vào xó bếp đời đời.

Họ đã nhóm bùng lên bó đuốc "Cách Mạng Nữ Giới" và trí tuệ hơn nữa, họ đã xả thân tu tập không ngừng nghỉ để chứng đạt Giải Thoát Trí Tuệ. Những hành động phi thường đó đã trở thành truyền thuyết dân gian, và đứng vững như thành đồng của sự Kiên Trì, Bất Khuất, Niềm Tin, và Quy Ngưỡng.

Người nổi tiếng nhất trong số ít các phụ nữ tiên phong đó là Yeshe Tsogyel, còn được biết đến qua danh hiệu "Vũ Công trên không gian".

Sanh ra năm 757 sau Công Nguyên trong một gia đình quý tộc, Yeshe Tsogyel từ thuở bé đã cho thấy nàng có những tín hiệu trí tuệ thiêng liêng khác thường. Nàng cũng đã tuyên bố sẽ thành Phật trong một đời hiện tại mà thôi.

Với tư tưởng đó, nàng đã từ chối mọi lời cầu hôn để đi đúng con đường mình đã chọn. Sau nhiều thăng trầm thử thách, nàng tình cờ gặp được vị cứu tinh của đời nàng, Ngài Padma Sambhava, người đầu tiên đã mang và truyền bá Phật giáo từ Ấn Độ vào lãnh thổ Tây Tạng, và cũng đã trở thành biểu tượng "Phật Sống" đối với toàn dân tín đồ Phật giáo Tây Tạng.

Padma Sambhava không những chỉ là vị cố vấn, vị thầy hướng dẫn tâm linh mà đối với Yeshe Tsogyel, Ngài còn là người yêu tối thượng tâm linh bí mật của riêng nàng. Yeshe Tsogyel đã yêu say đắm Padma Sambhava, đồng thời cũng kính trọng tôn sùng Ngài. Tình yêu của nàng đã thể hiện qua ẩn dụ sau:

"Với lòng trong sáng và kính ngưỡng, tôi, Yeshe Tsogyel, đã kết một tấm mạn đà la huyền bí để dâng lên đạo sư Padma Sambhava của tôi. Nụ cười rạng rỡ và từ bi của Ngài chiếu sáng như hào quang ngũ sắc khiến các ánh sáng khác mờ nhạt đi và hòa tan vào hào quang đó, chan hòa trên toàn thân Ngài, kết thành một tòa sen hồng đỡ bước chân Ngài trong điệu nhạc từ ái muôn đời của vũ trụ."

Nhưng, dù yêu say đắm Padma Sambhava, Yeshe Tsgyel vẫn không quên mục đích tu tập của mình và đã khẩn cầu Padma Sambhava hãy dạy cho nàng Lý Nhân Quả để làm pháp môn thiền quán. Yeshe đã đi vào tận rừng sâu núi thẳm, chịu đựng gian khổ, đói rét, dãi dầu với nắng táp mưa sa.

Nàng đã ăn tất cả những gì có thể ăn được ở núi rừng đến nỗi sau đó, nàng đã tập "ăn không khí" và gầy ốm đến nỗi xương trán lồi hẳn ra ngoài nhưng Yeshe vẫn kiên gan chịu đựng. Cuối cùng, sự quyết tâm kiên trì đó của nàng đã được tưởng thưởng xứng đáng với sự chứng đạt giải thoát.

Chính những lời nói của Yshe đã được chép lại bởi người viết hồi ký tiểu sử của nàng, Taksham Nuden Dorje, và sau đó được Keith Dowman dịch ra trong quyển "Vũ Công trên không gian" (Sky Dancer) của ông ta để diễn tả trạng thái sung mãn tuyệt đỉnh khi chứng đắc của Yeshe Tsogyel do công phu khổ hạnh tinh cần tu tập:

"Tôi đã biến hóa tan hòa vào khối tinh thể của vũ trụ để thấm nhuần đặc tính linh huyền của Chân Không Diệu Hữu, và tôi đã đạt được khả năng tuyệt đối để ứng xử mọi diệu dụng của chư Phật."

Yeshe Tsogyel đã hóa hiện khắp nơi để cứu giúp che chở dân Tây Tạng với lòng từ bi, trí tuệ, và quyền năng vô biên của nàng. Nàng có thể đi xuyên qua những vật rắn chắc như tường vách, núi đồi, cỡi lên ánh sáng của mặt trời, hay bay lơ lửng trên không trung.

Có lần, nàng đã cứu sống trở lại con trai của một thương gia người Nepal bằng cách chỉ ngón tay trỏ ngay tim người chết cho đến khi trái tim hắn đập trở lại và máu bắt đầu lưu thông trong cơ thể. Nhưng, lần thi thố pháp thuật trước phái Bon, (một giáo phái cổ Tây Tạng rất giỏi về pháp thuật) Yeshe đã đánh bại hoàn toàn các pháp sư của giáo phái này và thu phục nhân tâm hoàn toàn.

Trong tư thế ngồi kiết già trên hoa sen bay lơ lửng trên không trung, Yeshe đã biến hóa lửa phun ra từ mười đầu ngón tay, bao phủ toàn vùng trong khối lửa đỏ rực và lại biến lửa thành thành những sợi mềm như bơ vẽ lên trời hàng vạn hình ảnh khác nhau.

Sau cùng, nàng phóng những tia sấm sét dữ dội vào đám tà sư phù thủy của phái Bon khiến chúng kinh hồn bạt vía. Dân chúng và cả đám tà đạo đó đã bị thâu phục, cải hóa hoàn toàn. Họ tin rằng chỉ một người nữ đắc đạo như Yeshe Tsogyel mà còn giỏi như vậy, huống chi là Đức Phật thì còn xuất chúng đến đâu nữa.

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN


XUẤT ĐỘNG


CHƯƠNG MƯỜI HAI


Theo sự thú nhận của vài hành giả Tây Phương, sau một thời kỳ ngắn tĩnh tu, đã quen với không gian thanh vắng yên tịnh, khi tiếp xúc lại với cuộc thế, hầu như họ đều bị choáng váng như bị một cú "sốc" chấn động vào não bộ và các giác quan; cảm tính của họ. Phải mất vài tuần lễ sau, họ mới từ từ quen thuộc trở lại.

Còn Tenzin đã cắt đứt quan hệ với thế giới trần tục gần 12 năm và sống cô liêu trong một hang động cheo leo cao hơn 13.000 bộ, thì cô phải làm sao khi bắt buộc phải trở lại vùng triền phược luẩn quẩn này?
Cô nói:

- "Lần đầu tiên tiếp xúc lại với mọi người, tôi cũng cảm thấy hơi khó chịu, choáng ngộp, và mệt mỏi vì tiếng động ồn ào và hình ảnh mầu sắc lăng xăng - nhưng sau đó một lúc thì tôi đã trấn tĩnh lại và không có gì. Mọi việc đều tốt đẹp."

Lia Frede nhận xét thêm về Tenzin Palmo:

- "Tenzin Palmo có tấm lòng từ bi bao la vô cùng. Cô rất khách quan và tiếp nhận mọi lời khuyên góp ý hay lắng nghe tất cả những lời than thở của mọi người.

Cô đã khôn khéo sáng suốt tùy trường hợp mà hóa giải mọi nguời, không kể người dó là Thánh nhân hay kẻ tội lỗi. Tôi thấy rằng hễ bất cứ ai cần đến sự giúp đỡ của cô, cô đều sẵn lòng cả.

Đó là vì sao mọi người đều chạy đến cô để tìm cầu một sự an ủi, cảm thông, dạy bảo hay hướng dẫn cách tu tập, và ai ai cũng nói là khi tiếp xúc với cô, họ đều cảm thấy thoải mái, êm dịu, và được chan chứa một sự thuần khiết thanh cao tỏa ra từ cô."

Tenzin chỉ trả lời giản dị khi nghe bình phẩm như vậy:

- "Tôi là tôi, không thay đổi và bất cứ ở đâu, trong trường hợp nào. Tôi nghĩ tôi cũng có hai mặt của tâm hồn tôi. Một mặt tôi rất thích được sống yên tĩnh một mình; một mặt là sự giao tiếp với xã hội và tình cảm thân thiết.

Tôi không biết là tôi có khả ái với mọi người hay không, nhưng tôi biết chắc rằng với bất cứ ai, quen thuộc hay xa lạ, tôi đều cư xử bình đẳng như nhau, trân trọng và cởi mở. Vì thế, dù tôi rất thích được sống cô độc, nhưng tôi vẫn không buồn hay khó chịu khi phải trở lại thế giới bên ngoài."

"Một khi người tu đã đạt được "Tự Do Nội Tại Tuyệt Đối" thì họ sẽ không bị ảnh hưởng gì bởi hoàn cảnh bên ngoài. Tâm họ như như bất động, vạn sự đến đến đi đi như mây gặp gió, sóng biển dật dờ; nhưng dù như như tự tại đối với vạn duyên, tâm vị hành giả vẫn thấy xót thương cho đám người ngu muội cứ mãi ngụp lặn vui chơi trong bể khổ, không muốn tìm lối thoát."

Khi được hỏi tại sao người tu cần phải nhập thất, Tenzin đáp:

- "Vị hành giả muốn nhập thất để tự mình chứng nghiệm "Ta là ai?" và "Ta muốn gì?" Một khi người đó đã thực thấu suốt chính mình thì họ sẽ dễ dàng hiểu được người khác, bởi vì vạn vật trên cõi đời này đều tương quan tương tức với nhau. Nếu chúng ta không hiểu được mình và còn vướng mắc vào triền phược thì làm sao lắng nghe được nỗi khổ hay chia xẻ niềm vui của kẻ khác?

"Có hiểu mới có thương" do đó, khi gặp một vị ẩn tu đã 25 năm hơn chẳng hạn, bạn sẽ thấy vị ẩn sĩ đó không lạnh lùng hay cách biệt gì cả; mà trái lại, họ rất dễ thương và tràn đầy từ bi. Lòng từ họ ban bố cho bạn không đặt trên một tiêu chuẩn kích thước gia thế, vọng tộc, hay địa vị xã hội hoặc tình cảm cá nhân của bạn.

Họ rất khách quan và bình đẳng, không thiên vị. Duy nhất chỉ có từ bi ban bố cho tất cả chúng sinh không phân biệt, như mặt trời chiếu sáng lên vạn vật, chan hòa khắp mọi nơi. Từ bi khác với cảm giác, tình cảm bởi vì tình cảm thì luôn luôn có sự đối chiếu "Cho đi và Nhận lại" và loại tình cảm đó rất vô thường, mong manh, dễ tan biến; nhưng Từ Bi thì thuần nhất, bình đẳng, không đòi hỏi phân biệt."

Tenzin nói tiếp:

- "Tôi biết là thời hạn tôi sống ở Ấn Độ đến đây là chấm dứt. Tôi cần phải trở về phương Tây để làm những gì tôi cần phải làm. Suy cho cùng, tôi không phải là người Tây Tạng. Sau 24 năm sống ở Ấn và không đọc gì hết ngoài kinh sách Phật giáo, tôi biết là tôi cũng bị thiếu sót về kiến thức thế gian, và nếu tôi muốn hoằng dương Phật pháp ở phương Tây, tôi cần phải trám lỗ hổng kiến thức để hoàn thành những gì tôi cần phải làm."

Đúng lý ra Tenzin Palmo ẩn cư trong động còn lâu dài hơn nữa, nhưng một sự cố nhỏ xảy ra khiến cô phải rời khỏi động thất ngoài ý muốn và thời hạn. Một ngày mùa hè năm 1988, Tenzin Palmo rất ngạc nhiên sửng sốt vì sự xuất hiện của cảnh sát.

Chẳng thèm để ý đến hàng rào bên ngoài động, hay tấm biển "Xin đừng quấy phá sự yên tĩnh", tên cảnh sát nầy ồn ào đập cửa ầm ầm bắt Tenzin ra mở. Hắn hạch hỏi tại sao Tenzin đã quá thời hạn nhập cảnh mà cứ ở lì tại đây? Hắn ra lệnh đến ngày mai Tenzin không đến trình diện tại sở cảnh sát, Tenzin sẽ bị câu lưu điều tra.

Đó là tiếng nói con người đầu tiên, gương mặt người đầu tiên Tenzin gặp và nghe thấy trong 3 năm qua - nhưng gặp mặt và nghe lại giọng nói loài người trong một tình cảnh vô duyên, khiếm nhã, và thô lỗ làm sao !
Tuy vậy, Tenzin vẫn ôn hòa, nhã nhặn rời khỏi động tuyết để đi gặp ông giám thị cảnh sát. Ông ta xin lỗi về thái độ bất lịch sự của nhân viên, nhưng ông ta rất tiếc phải trục xuất Tenzin khỏi Ấn Độ vì đã quá thời hạn cư trú.

Tenzin phải rời Ấn trong vòng 10 ngày. Tenzin kiên nhẫn giải thích cho ông Giám Thị hiểu rằng cô đã ở Ấn Độ 24 năm rồi và cô cũng không dự định sẽ rời khỏi nơi đây chỉ trong vòng 10 ngày nữa.

Hơn thế nữa, đó không phải là lỗi của cô vì cô đã báo cho người nhân viên cũ của sở Di Trú để họ làm cái mới lại cho cô. Trước sự thành thật và hợp lý của Tenzin, viên giám thị dịu giọng lại và nói rằng ông ta sẽ nghỉ phép một tháng và không trục xuất Tenzin ngay lập tức, nhưng dù sao đi nữa, cô cũng phải rời khỏi nơi ẩn cư trước khi ông nghỉ phép trở về.

Tenzin Palmo leo lên động tuyết trở lại, nhưng đã vô ích. Cô đã bị người khác trông thấy, cô bắt buộc phải nói chuyện và như thế coi như cô đã dứt khoát bị "bể thất".

Cô không thể tiếp tục được nữa. Theo luật lệ nhập thất, người hành giả không được tiếp xúc, không được để bị bắt gặp tất cả những chuyện xảy ra dù ngoài ý muốn của Tenzin, nhưng coi như là cô đã bị động tâm rồi. Thời gian hạn định nhập thất của cô chỉ còn 3 tháng, 3 tuần, và 3 ngày nữa thôi là hoàn tất mỹ mãn; nay thế là hỏng cuộc.

Đáng lẽ cô phải hét lên mới hả hết cơn giận dữ bực tức của cô, nhưng nhờ vào tu tập, Tenzin chỉ cười và nói: "Chắc chắn đó không phải là cách mà tôi lựa chọn để chấm dứt thời kỳ nhập thất. Nhưng, dù sao đi nữa, tôi cũng phải ở lại vài ngày để thu xếp và từ từ gặp lại mọi người."

Tin Tenzin Palmo bị "ra thất" đã lan truyền nhanh chóng, và các bạn cùng người quen biết cô đều náo nức muốn gặp lại Tenzin để xem cô thế nào, có khác xưa nhiều không, cô đã chứng nghiệm được gì trong thời gian dài một mình ở động tuyết? Có thể cô đã trở thành một nữ thần đầy quyền năng và linh thiêng?

Bà Didi Contractor, người ghé thăm Tenzin lần đầu tiên khi cô mới lên ở động tuyết, lên gặp Tenzin lại và trở về thuật chuyện: "Tenzin Palmo không thay đổi gì, ngoại trừ sự tiến bộ tâm linh thật rõ rệt. Sự nồng nhiệt, thái độ cởi mở hòa nhã, sự nhạy bén tinh thông vốn sẵn có trong cô, nay còn hơn thế nữa.

Tenzin đã thành công rõ ràng. Tôi nghĩ rằng những người bên ngoài khó thấy được kết quả của sự phát riển của Tenzin. Đó là sự bí mật giữa Tenzin và đấng thiêng liêng. Tenzin đã gặt hái được kết quả tâm linh hơn những vị hành giả Tây Phương mà tôi đã gặp."

Một người khách khác đến thăm Tenzin là Lia Frede, một phụ nữ người Đức cư ngụ trong một căn nhà rất đẹp ở Dharamsala. Lia Frede đã biết Tenzin từ vài năm trước. Lia cũng rất quan tâm về các vấn đề tâm linh và hơn thế nữa, cô ta đã hành trì pháp môn thiền Vipassana (thiền Minh Sát), và cũng đã nhập thất vài lần. Thật trùng hợp là Lia Frede đang hướng dẫn một nhóm sinh viên nghiên cứu về Sinh Thái học vùng Lahoul khi cô nghe tin Tenzin ra thất.

- "Tôi nôn nóng muốn có cơ hội để nói chuyện với Tenzin vì tôi muốn biết cô đã đạt được những gì. Tôi và hai người bạn tìm đường để leo lên động. Tới nơi, tôi cảm thấy sỗ sàng quá vì chưa báo trước, nên nói hai người bạn đứng ở ngoài cổng để tôi vào trước xem sao.

Nhưng Tenzin đã ra cửa lập tức và cười thân mật nói: "Vào đây và mời bạn của cô vào luôn. Tôi đang nướng bành mì. Cô dùng trà không?" Tenzin thật bình dị. Chúng tôi dùng trà, ăn bánh mì nướng với dầu mè và có cảm tưởng như đang dùng cữ trà buổi xế trưa ở Anh quốc vậy. Thật êm đềm và thú vị."

Khi Tenzin tiễn chúng tôi ra cửa động, tôi không kềm được nữa nên hỏi ngay cô đã chứng đạt những gì. Tôi mong muốn sẽ được cô chỉ bày. Tenzin lặng lẽ nhìn tôi và trả lời: "Chỉ có một điều duy nhất tôi nói với cô là tôi không hề bao giờ buồn chán cả." Thế thôi - Tenzin chỉ nói một câu độc nhất và không hé răng ra nữa.

Và cũng giống như Didi Contractor, Lia Frede đã nhận thấy những đặc tánh nổi bật của bạn gái mình.
"Tenzin Palmo thật chân thành, trong sáng, giản dị, và bình đẳng thực sự. Cô không hề bị ảnh hưởng hay thiên kiến về bất cứ một sự việc gì.

Cô đối phó hay ứng xử mọi trường hợp hay biến cố xảy ra cho cô với một tâm hồn thẳng thắn, khách quan, không hề bị vướng mắc. Không phải cô tỏ vẻ ra như vậy, mà thực sự cái "Ta" tầm thường, nhỏ mọn cố hữu của con người đã biến mất nơi cô. Tôi cũng rất kính phục sự gan dạ và bình tĩnh của cô khi bị vùi sâu trong trận tuyết lở năm nào.

Nếu tôi gặp trường hợp đó, chắc tôi sẽ kinh hoàng mà chết. Ngược lại, Tenzin vẫn bình thản ngồi quán "Tử Niệm"; và khi tôi nghe tin là cô cũng suýt bị bỏ chết đói, tôi rất giận dữ và muốn tìm hiểu lý do, nhưng Tenzin cũng chẳng thèm để tâm tới và cô cũng không hề càu nhàu trách cứ viên giám thị cảnh sát đã làm khó dễ cô không cho cô nhập thất nữa.

Cô biết tự mỗi chúng sanh đều mang theo nghiệp quả của riêng mình; ngay cô cũng vậy, cô cũng chưa thoát khỏi mãnh lực của quả báo do vô lượng kiếp trước của cô nên cô rất thản nhiên chấp nhận và tìm phương chuyển nghiệp.

Đối với tôi, thái độ khách quan và tâm bình đẳng đó của Tenzin đã chứng tỏ một trình độ cao về tâm linh."
Riêng đối với Tenzin, cái quan trọng hơn những lời bình phẩm suy luận của mọi người về cô là cô sẽ ứng xử ra sao khi tiếp xúc lại với thế giới bên ngoài sau một thời gian quá lâu tĩnh tu nhập thất không hề tiếp cận với mọi người chung quanh?

Theo sự thú nhận của vài hành giả Tây Phương, sau một thời kỳ ngắn tĩnh tu, đã quen với không gian thanh vắng yên tịnh, khi tiếp xúc lại với cuộc thế, hầu như họ đều bị choáng váng như bị một cú "sốc" chấn động vào não bộ và các giác quan; cảm tính của họ. Phải mất vài tuần lễ sau, họ mới từ từ quen thuộc trở lại.

Còn Tenzin đã cắt đứt quan hệ với thế giới trần tục gần 12 năm và sống cô liêu trong một hang động cheo leo cao hơn 13.000 bộ, thì cô phải làm sao khi bắt buộc phải trở lại vùng triền phược luẩn quẩn này?
Cô nói:

- "Lần đầu tiên tiếp xúc lại với mọi người, tôi cũng cảm thấy hơi khó chịu, choáng ngộp, và mệt mỏi vì tiếng động ồn ào và hình ảnh mầu sắc lăng xăng - nhưng sau đó một lúc thì tôi đã trấn tĩnh lại và không có gì. Mọi việc đều tốt đẹp."

Lia Frede nhận xét thêm về Tenzin Palmo:

- "Tenzin Palmo có tấm lòng từ bi bao la vô cùng. Cô rất khách quan và tiếp nhận mọi lời khuyên góp ý hay lắng nghe tất cả những lời than thở của mọi người. Cô đã khôn khéo sáng suốt tùy trường hợp mà hóa giải mọi nguời, không kể người dó là Thánh nhân hay kẻ tội lỗi.

Tôi thấy rằng hễ bất cứ ai cần đến sự giúp đỡ của cô, cô đều sẵn lòng cả. Đó là vì sao mọi người đều chạy đến cô để tìm cầu một sự an ủi, cảm thông, dạy bảo hay hướng dẫn cách tu tập, và ai ai cũng nói là khi tiếp xúc với cô, họ đều cảm thấy thoải mái, êm dịu, và được chan chứa một sự thuần khiết thanh cao tỏa ra từ cô."

Tenzin chỉ trả lời giản dị khi nghe bình phẩm như vậy:

- "Tôi là tôi, không thay đổi và bất cứ ở đâu, trong trường hợp nào. Tôi nghĩ tôi cũng có hai mặt của tâm hồn tôi. Một mặt tôi rất thích được sống yên tĩnh một mình; một mặt là sự giao tiếp với xã hội và tình cảm thân thiết.

Tôi không biết là tôi có khả ái với mọi người hay không, nhưng tôi biết chắc rằng với bất cứ ai, quen thuộc hay xa lạ, tôi đều cư xử bình đẳng như nhau, trân trọng và cởi mở. Vì thế, dù tôi rất thích được sống cô độc, nhưng tôi vẫn không buồn hay khó chịu khi phải trở lại thế giới bên ngoài."

"Một khi người tu đã đạt được "Tự Do Nội Tại Tuyệt Đối" thì họ sẽ không bị ảnh hưởng gì bởi hoàn cảnh bên ngoài. Tâm họ như như bất động, vạn sự đến đến đi đi như mây gặp gió, sóng biển dật dờ; nhưng dù như như tự tại đối với vạn duyên, tâm vị hành giả vẫn thấy xót thương cho đám người ngu muội cứ mãi ngụp lặn vui chơi trong bể khổ, không muốn tìm lối thoát."

Khi được hỏi tại sao người tu cần phải nhập thất, Tenzin đáp:

- "Vị hành giả muốn nhập thất để tự mình chứng nghiệm "Ta là ai?" và "Ta muốn gì?" Một khi người đó đã thực thấu suốt chính mình thì họ sẽ dễ dàng hiểu được người khác, bởi vì vạn vật trên cõi đời này đều tương quan tương tức với nhau. Nếu chúng ta không hiểu được mình và còn vướng mắc vào triền phược thì làm sao lắng nghe được nỗi khổ hay chia xẻ niềm vui của kẻ khác?

"Có hiểu mới có thương" do đó, khi gặp một vị ẩn tu đã 25 năm hơn chẳng hạn, bạn sẽ thấy vị ẩn sĩ đó không lạnh lùng hay cách biệt gì cả; mà trái lại, họ rất dễ thương và tràn đầy từ bi. Lòng từ họ ban bố cho bạn không đặt trên một tiêu chuẩn kích thước gia thế, vọng tộc, hay địa vị xã hội hoặc tình cảm cá nhân của bạn.

Họ rất khách quan và bình đẳng, không thiên vị. Duy nhất chỉ có từ bi ban bố cho tất cả chúng sinh không phân biệt, như mặt trời chiếu sáng lên vạn vật, chan hòa khắp mọi nơi. Từ bi khác với cảm giác, tình cảm bởi vì tình cảm thì luôn luôn có sự đối chiếu "Cho đi và Nhận lại" và loại tình cảm đó rất vô thường, mong manh, dễ tan biến; nhưng Từ Bi thì thuần nhất, bình đẳng, không đòi hỏi phân biệt."

Tenzin nói tiếp:

- "Tôi biết là thời hạn tôi sống ở Ấn Độ đến đây là chấm dứt. Tôi cần phải trở về phương Tây để làm những gì tôi cần phải làm. Suy cho cùng, tôi không phải là người Tây Tạng.

Sau 24 năm sống ở Ấn và không đọc gì hết ngoài kinh sách Phật giáo, tôi biết là tôi cũng bị thiếu sót về kiến thức thế gian, và nếu tôi muốn hoằng dương Phật pháp ở phương Tây, tôi cần phải trám lỗ hổng kiến thức để hoàn thành những gì tôi cần phải làm."

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN


THỰC HIỆN ƯỚC MƠ


CHƯƠNG MƯỜI BA


Một buổi sáng tháng 3 năm 1993 tại Dharamsala, trước kia là trụ sở của Anh trên một ngọn đồi ở Himachal Pradesh, Bắc Ấn, nay là chỗ cư ngụ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 và chính phủ lưu vong của Ngài.

Tenzin Palmo được mời tham dự buổi hội thảo Phật giáo Tây Phương đầu tiên với chủ đề "Những vấn đề liên quan đến sự truyền bá Đạo Phật sang phương Tây."

Cùng tham dự với Tenzin có 21 vị đại diện các tông phái Phật giáo chính thống ở Âu Châu và Mỹ Châu, cũng như các vị Lạt Ma nổi tiếng của các dòng truyền thừa Phật giáo Tây Tạng.

Buổi thảo luận xoay chung quanh những chủ đề như: "Vai trò của vị lãnh đạo tinh thần", "Những khác biệt tâm lý giữa Đông Phương và Tây Phương", "Những tiêu đề đạo đức", v.v... bỗng một nữ cư sĩ người Đức, Sylvia Wetzel, phát biểu ý kiến về "Vai trò của phụ nữ trong Phật giáo."

Khi Sylvia Wetzel tung ra ngón đòn độc đáo này, cả hội trường chợt nín lặng. Sylvia đứng lên mời Đức Đạt Lai Lạt Ma và tất cả quan khách hãy cùng cô ta thử tưởng tượng như thế này:

- "Xin quý vị hãy tưởng tượng mình là một người đàn ông duy nhất đi vào một trung tâm Phật giáo. Quý vị thấy bức tranh của Nữ Bồ Tát Tara và 16 vị Nữ La Hán. Quý vị cũng thấy Nữ Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, hóa thân của 13 vị Nữ Đạt Lai Lạt Ma trong quá khứ cũng đã lần lượt hóa thân từ hình tướng một người nữ.

Quý vị bị vây bọc xung quanh toàn là các vị "Nữ Lạt Ma Cao Cấp" xinh đẹp, khỏe mạnh, và trí tuệ. Quý vị lại thấy hàng lô các ni cô hoạt bát, mẫn tiệp, đầy tự tin, và nổi bật. Và quý vị lại thấy những nam tu sĩ rụt rè, khép nép, e sợ, đi vào đằng sau các ni cô.

Quý vị đã nghe, đã biết sự kế tục tuyền thừa các vị Lạt Ma Nữ từ đời nữ Bồ Tát Tara truyền xuống cho đến nay."

- "Tại sao các biểu tượng Bồ Tát toàn là người nữ không vậy?"

Sylva giả bộ làm vị Nữ Lạt Ma trả lời:

- "Ồ, đừng lo. Nam và Nữ đều bình đẳng; ồ, gần như vậy. Chúng ta cũng có vài bộ kinh sách nói là "Sanh ra làm người Nam thì vị trí thấp kém hơn và phải gặp nhiều khó khăn hơn vì tất cả các vị lãnh đạo tinh thần, thể chất, và chính trị đều là người nữ cả nhưng không sao, trên giấy trắng mực đen, chúng ta đều bình đẳng."

"Rồi lại có một nam cư sĩ rất ngây thơ, đến hỏi một vị tu sĩ thuộc tông phái Đại Thừa Phật giáo:

- "Tôi là một người đàn ông, làm sao tôi có thể nhận diện được tôi như thế nào khi xung quanh toàn là biểu tượng Nữ thế này?"

Sylvia lại giả bộ trả lời:

- "Con cứ quan niệm về Chân Không. Trong Chân Không, không có nam, không có nữ, không có hình tướng không có gì cả thì đâu có vấn đề gì phải lo, phải không?

"Rồi quí vị lại đi đến một vị tu sĩ Mật Tông và hỏi:

- " "Họ là phụ nữ, còn tôi là đàn ông. Tôi không biết phải làm sao để giao tiếp cư xử với họ?" và Sylvia lại trả lời:

- "Ồ, các người nam xinh đẹp kia ơi, thật tốt làm sao khi các vị sanh ra làm người nam để giúp người nữ chúng tôi mau đắc thành Chánh Giác." v.v.. và v.v..
Sylvia nêu ra một loạt các lời biện luận đối xử phân biệt giữa Nam và Nữ với một thái độ duyên dáng, buồn cười đến nỗi tất cả mọi người ngay cả Đức Đạt Lai Lạt Ma phải bật cười ha hả.

Sylvia đã nói lên tiếng nói của hàng triệu con tim phụ nữ từ ngàn xưa tới nay. Họ đã kiên nhẫn chịu đựng, chấp nhận một cách câm lặng từ hơn 2500 năm qua và nay, họ phải lật đổ sự chèn ép phi lý của phái nam trên bản thân người nữ.

Những người khác hưởng ứng theo Sylvia. Một vị giảng sư và tác giả Phật học, Ni Sư người Mỹ Thubten Chodron, nói: "Chính bản thân tôi cũng đã bị đối xử thiên lệch như vậy trong những khóa tu, hay ở thiền viện, mặc dù người ta khéo che giấu nhưng tôi vẫn nhận ra sự thiên kiến trọng nam khinh nữ đó."

Một vị thiền sư phát biểu:

- "Đây quả đúng là một sự thách đố gay cấn thú vị cho phái nam phải thấy rõ tiềm năng người nữ và chấp nhận sự thật."

Một vị tăng sĩ Phật giáo Tây Tạng người Mỹ, Thubten Pende cũng bày tỏ ý kiến của ông: "Khi tôi dịch những kinh sách có nói về luật xuất gia, tôi rất ngạc nhiên và sửng sốt là giới ni bị áp đặt quá mức như: một vị Ni Trưởng nhiều tuổi hạ vẫn phái đi sau một vị tăng sa di, mặc dù tuổi đời, tuổi đạo của vị ni trưởng đó cao hơn, lớn hơn; nhưng tại vì là nữ nên phải chấp nhận như vậy.

Tôi có nghe nói về điều này nhưng tôi chưa hề tìm ra chứng cớ về điều luật đó. Trong một giới đàn, tôi phải đọc lên điều luật đó và tôi cảm thấy bối rối lẫn xấu hổ về sự phân chia cách biệt đó. Tôi đã tự hỏi: "Nếu bị xếp đặt như vậy, tại sao vị ni sư đó không đứng lên và rời khỏi? Nếu là trường hợp tôi, tôi sẽ không tham dự nếu đối xử kỳ thị với tôi như vậy."

Một vị tăng sĩ phái Nguyên Thủy người Anh, Thượng Tọa Ajah Amaso cũng nói:

- "Khi thấy giới ni không được nhận sự cung kính tôn trọng như tăng sĩ, tôi cảm thấy đau lòng vô cùng; cũng giống như ai đó cầm cái giáo, cái mác đâm vào ngực tôi vậy."

Và giờ đến lượt Tenzin Palmo phát biểu:

- "Khi tôi mới đến Ấn, tôi sống trong một tu viện có đến cả trăm vị tăng. Tôi là vị ni cô duy nhất ở đó. Sự đối xử kỳ thị của các tăng sĩ đã khiến tôi quyết định rời bỏ tu viện để lên động tuyết ở.

Các vị tăng rất tử tế, tôi cũng chẳng hề bị gây rối hay bất cứ một vấn đề nào khác, nhưng phải nói là tôi bị cư xử khác biệt vì tôi là phái nữ. Họ thường nói với tôi là họ luôn cầu nguyện cho tôi chuyển được thân nam vào kiếp sau để tôi có thể gia nhập vào Tăng đoàn và được tu học như họ.

Họ cũng không chống đối tôi quá mức vì tôi là nữ, nhưng dù sao đi nữa, tôi vẫn phải chấp nhận sự coi thường rẻ rúng đó trong tu viện cũng như của các tín đồ."

"Các vị Lạt Ma đã cạo đầu, làm lễ xuất gia cho giới ni, nhưng họ đã phủi sạch tay và quăng bỏ các ni cô ra ngoài, không dạy bảo, không chuẩn bị cho họ gì cả, không khuyến khích, không nâng đỡ hay hướng dẫn hơn nữa, các ni cô phải tinh nghiêm giữ giới, nỗ lực tu hành và điều khiển các tu viện.

Thật là khó khăn và tôi rất ngạc nhiên là có nhiều thiền viện Phật giáo Tây Phương được xây cất nhưng nhiều ni cô đã hoàn tục. Họ đã vào tu với tấm lòng khao khát tìm đạo, hăng say hướng thượng, niềm tin chân chánh và sẵn sàng xả thân hy sinh vì đạo pháp, nhưng không có một ai giúp đỡ họ cả.

"Kính bạch Đức Đạt Lai Lạt Ma, đó là một sự thật chưa từng xảy ra trong lịch sử Phật giáo ngày xưa."
"Trong quá khứ, Tăng đoàn được tổ chức rất chặt chẽ, được Phật tử cúng dường và bảo vệ. Nhưng ở phương Tây thì không được như vậy.

Tôi thực sự không hiểu tại sao. Có rất ít tu viện Phật giáo ở phương Tây, và hầu hết là theo truyền thống Nguyên Thủy Phật giáo. Như quí vị đã biết, các ni cô tu theo Phật giáo Nguyên Thủy thì kể như không có tiếng nói hay vị trí gì cả. Sự phân biệt kỳ thị rõ ràng đó là một sự thật không thể chối cãi được."

"Tận cùng thâm tâm, tôi luôn cầu nguyện rằng sự trong sáng thanh cao của đời sống xuất gia và chánh pháp sẽ không bao giờ bị chôn vùi trong đống bùn lãnh đạm và khinh miệt phi lý giữa người và người, giữa nam và nữ như vậy."

Tenzin Palmo đã thống thiết chân thành nói lên tất cả cảm nghĩ của mình khiến cử tọa đều xúc động; ngay Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đỏ hoe đôi mắt. Ngài chậm rãi lau kính, nói nhẹ nhàng: "Cô thật can đảm."
Bài diễn văn ngắn gọn của Tenzin đã đánh dấu bước đầu thực hiện ước mơ thành lập nữ tu viện của cô. Cô đã dám can đảm phê bình hệ thống cũ rích của Tăng đoàn, nhưng nói là một lẽ, còn cần phải hành động nữa; và ai sẽ là người đứng lên đảm nhiệm trọng trách cải tổ hệ thống Tăng đoàn?

Những kinh nghiệm rút tỉa được trong sự cô độc và đối xử kỳ thị phân biệt ở Dalhousie nay lại giúp Tenzin làm tròn vai trò lãnh đạo của mình. Cô đã chờ đợi gần 30 năm mới có cơ hội để bày tỏ ý kiến cá nhân, phản đối lại hệ thống cũ mòn của Giáo hội, nhưng chậm vẫn còn hơn không.

"Thời điểm giải phóng phụ nữ đã đến rồi !". Tenzin biết rất rõ con đường trí tuệ mà giới nữ đang bước tới sẽ gặp nhiều gập ghềnh khó khăn. Cô đã đau khổ, đã chịu đựng, nhưng chắc chắn cô phải vượt qua và giúp giới Nữ tu khắc phục khó khăn.

Tenzin bắt đầu giúp các ni cô Tây Phương ở Bồ Đề Đạo Tràng tổ chức một cuộc hội thảo để trao đổi quan niệm và giải quyết một số vấn đề về tài chánh và cộng đồng. Sau đó, cô lại ủng hộ một nhóm phụ nữ khác đòi hỏi quyền lợi được thọ giới Tỳ Khưu Ni.

Tenzin cũng định sẽ nhập thất trở lại nhưng một công tác Phật sự tối cần thiết hơn chờ đợi Tenzin đó là thành lập một nữ tu viện theo tông phái Drukpa Kargyu của cô. Ý định này đã được Tenzin ấp ủ từ lâu theo kế hoạch của Sư Phụ là ngài Khamtrul Rinpoche.
Khamtrul Rinpoche đã chỉ một mảnh đất vùng thung lũng Kangra, nơi ngài đã xây lại tu viện Tashi Jong, và nói :

"Sau này, con có thể xây dựng một nữ tu viện tại đây."

Lúc đó, Tenzin chưa nghĩ tới việc thành lập một nữ tu viện, vì có vẻ xa vời quá. Nhưng nay, cô đã già hơn, chững chạc hơn, và đã xong thời hạn 12 năm ẩn cư ở động tuyết, và nhập thế trở lại. Cô nghĩ bây giờ là phải lúc để thực hiện Phật sự quan trọng này vì các ni cô người Tây Tạng đang cần sự giúp đỡ của Tenzin hơn ni chúng Tây Phương.

Cũng như tình trạng bên ni giới Tây Phương, giới nữ tu Tây Tạng không có nơi chốn nhất định để ở hay để đi, bởi vì họ đã bị người ta bỏ quên qua một bên để gấp rút xây tu viện cho Tăng chúng tị nạn khỏi Tây Tạng.

Ni chúng còn bị giảm bớt đi trong số các người nấu cơm cho Tăng chúng hay là bắt buộc phải về gia đình lại để tiết kiệm ngân khoản của chùa. Điều đó khiến Tenzin đau buồn vô cùng.

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN


VỊ ĐẠO SƯ


CHƯƠNG MƯỜI BỐN


Do nhiều biến cố ngoài ý muốn, Tenzin bất đắc dĩ phải đảm nhiệm vai trò giảng sư. Cô không hề vạch ra kế hoạch thay đổi lạ lùng này, cũng không thích thú gì mấy trách nhiệm lãnh đạo tinh thần đó; cô chỉ thích sống yên tịnh và cô liêu để đạt mục tiêu thành đạo của cô; nhưng những đòi hỏi cấp bách về tài chánh để thành lập một Ni viện giúp cho các nữ tu khác bắt buộc Tenzin phải thay đổi kế hoạch của riêng mình và đứng lên đảm trách công tác nặng nề này.

Muốn mua một mảnh đất gần Tashi Jong để xây tu viện phải cần tới hàng 100.000 đô la để mua gạch, xi-măng, cát, đá, v.v... vì thế, Tenzin đã đi thuyết giảng hết trung tâm Phật giáo này sang tu viện khác, giảng cho nhóm nghiên cứu này sang nhóm tu học nọ, trao đổi, góp ý kinh nghiệm cá nhân về tâm linh cũng như trí tuệ 30 năm tu học của cô để quyên góp tiền bạc.

Mặc dù công tác hoằng dương Phật pháp và lạc quyên rất khó nhọc, và trải qua những tuần, những tháng, những năm dài đi khắp mọi nơi trên thế giới để thuyết giảng, Tenzin vẫn ôn hòa kiên nhẫn, bình tâm, và cư xử bình đẳng trân trọng đối với mọi người (người cho 5 đô la hay người cho 5000 đô la đều ngang hàng nhau, không thiên vị, phân biệt).

Tenzin tâm sự:

- "Các vị Lạt Ma cao cấp đã cầu nguyện và nói công tác xây cất nữ tu viện này sẽ thành tựu. Tôi rất tin tưởng và an tâm tiếp tục, không nản chí."

"Có nhiều lúc tôi nghĩ làm sao tôi có thể đảm nhiệm trọng trách này, tôi cũng không biết nữa. Nếu cách đây vài năm, có người nói với tôi rằng nên đi thuyết giảng khắp thế giới để quyên tiền, chắc tôi nghĩ là họ đã điên rồi. Nhưng bây giờ, nếu tôi không làm thì ai làm đây? Và đó cũng là cách báo ơn Sư Phụ của tôi."

Dòng thời gian cứ lặng lẽ trôi qua. Tenzin bắt đầu chương trình du thuyết của cô tại Singapore năm 1994, một năm sau khi cô trình bày quan điểm của cô về tình trạng Ni giới lên Đức Đạt Lai Lạt Ma. Cô không chuẩn bị nên vừa đến Singapore, cô gặp trắc trở liền. Không một ai biết Tenzin là ai, thế nào, và họ cũng không biết là cô đã đến Singapore.

Trong lúc bối rối đó, cô bỗng gặp lại một người quen cũ, một người phụ nữ Trung Hoa tên Wong Pee Lee. Thật là một sự gặp gỡ kỳ thú, vì đêm trước Wong Pee Lee đã nằm mơ thấy Tenzin đứng giữa các nữ thần Dakinis lộng lẫy với xiêm y lụa là đủ mầu sắc. Trong giấc mơ, Wong Pee Lee nghe văng vẳng một giọng nói vang lên: "Đã đến lúc nhà ngươi phải giúp đỡ các phụ nữ khác "

Tenzin nói cho Wong Pee Lee biết về mục đích xây Ni viện của cô. Giấc mơ của Wong Pee Lee đã ứng nghiệm. Wong Pee Lee bắt tay thực hiện và buổi thuyết trình đầu tiên của hàng trăm buổi giảng khác về sau được tổ chức với sự giúp đỡ ủng hộ của rất đông người.

Từ Singapore, Tenzin du thuyết xuyên qua Đông Nam Á, vòng quanh Mã Lai Á (Malaysia), Đài Loan (Taiwan), Brunei, Hồng Kông, Sarawak, Nam Dương (Indonesia), Cao Miên (Cambodia), Phi Luật Tân (The Philippines), rồi tới nước Anh, Pháp, Hoa Kỳ qua các tiểu bang Washington, Seatle, Nữu Ước, Maryland, Vermont, Hạ uy Di; và qua lại vùng biển California trước khi trở về Á Châu và lại đi thuyết giảng một vòng khắp các nước khác.

Mỗi lần tổ chức thuyết giảng đều có người giúp Tenzin soạn thảo chương trình. Bất cứ nơi nào cô đến đều đông đảo người nghe và họ rất quan tâm đến những kinh nghiệm sống tâm linh của một nữ tu sĩ ẩn cư 12 năm trong động tuyết.

Họ khát khao được nghe giáo pháp và náo nức xem Tenzin chuyển đạt kinh nghiệm tâm linh của cô như thế nào. Họ đã không thất vọng. Tenzin đã chứng tỏ cô là một giảng sư, một đạo sư xuất sắc.

Tenzin đã nói với tất cả sự chân thành tận đáy tâm hồn cô, không cần giấy, không cần chuẩn bị, và với lời nói cứ tuôn ra đều đặn trong suốt như pha lê. Đại chúng đã uống từng lời nói của Tenzin và từng vấn đề của họ đã được Tenzin giải đáp.

Hơn thế nữa, tất cả mọi người như cảm nhận được làn sóng tâm linh của cô trong những năm dài ẩn cư thiền định. Tenzin không nói vòng vo tam quốc mà trực thẳng vào trung tâm vấn đề một cách chân thành, cởi mở, thực tiễn, thẳng thắn, và đầy thông minh, sắc xảo.

Tenzin khác hẳn với các triết gia hay các giảng sư khác chứa đầy những kinh sách chữ nghiã vay mượn; cô nói bằng chính sự chứng nghiệm cá nhân thực thụ, bằng sự nỗ lực tinh cần tu tập bền lâu, bằng niềm tin sắt đá vào Tam Bảo, và Trí Tuệ Từ Bi khai phóng tự nhiên.

Đối với các vị Lạt Ma Tây Tạng khác gặp nhiều khó khăn trong công tác hoằng dương truyền bá Phật pháp qua Tây Phương vì ngôn ngữ bất đồng, văn hóa sai biệt và trình độ Anh ngữ của các sư còn quá kém, nhất là giáo lý Phật giáo Mật Tông lại quá thâm sâu khó hiểu.

Tenzin được thuận duyên hơn khi giảng giải Phật giáo đến các người Âu Mỹ, vì tiếng Anh là ngôn ngữ mẹ đẻ của cô và dù sao đi nữa, là người bản xứ, Tenzin quen với phong tục tập quán Âu Mỹ hơn các vị tu sĩ Tây Tạng.

Cô đã đi từ trung tâm thiền viện Phật giáo Tây Tạng này qua những nhóm thiền sinh khác, giảng Thiền Minh Sát cho các tín đồ cộng đồng Thiên Chúa Giáo, ngay cả những nhóm phi tôn giáo cũng chịu tu tập nghiên cứu giáo lý; và càng hoạt động Phật sự, tiếng tăm Tenzin càng nổi lên như cồn bởi đức hạnh và trí tuệ uyên bác của cô.

Khi giảng cho một nhóm nghiên cứ trị liệu pháp ở Seatle, Tenzin đã nói:

- "Đầu óc chúng ta như bãi chứa đồ phế thải. Cái gì chúng ta cũng chất chứa vào cái bãi đó. Những buổi tranh luận, hội thảo, hội họp báo chí, những trò chơi giải trí, v.v... chúng ta đều chất chồng trong đầu óc chúng ta, và đó là lý do vì sao chúng ta mệt mỏi quá. Chúng ta mệt mỏi vì chúng ta ôm đồm quá, tham lam quá nên không chịu buông bỏ gì hết.

"Tôi rất hoan nghinh công việc các bạn đang làm. Các bạn chọn công việc này không phải chỉ vì miếng ăn sự sống, nếu chỉ là kiếm sống thì dễ quá nhưng các bạn chọn công việc này vì các bạn muốn giúp đỡ người khác.

Các bạn đã cho đi tất cả những gì các bạn có, và các bạn cũng cần tiếp thu lại, nếu không, đầu óc các bạn sẽ giống như những cái thùng rỗng tuếch. Chúng ta luôn luôn cho đi và nhận lại, cho đi và nhận lại."

"Người ta thường nghĩ rằng mỗi khi họ mệt, cần phải nghỉ ngơi thì họ bật TV lên, hay ra ngoài dạo phố, hoặc uống vài ly bia rượu, v.v... nhưng thực ra, những thức đó không giúp được gì mà trái lại, còn nhồi nhét sự mỏi mệt thêm vào đầu óc vốn đã căng thẳng vì bao công việc, ngay cả giấc ngủ cũng chưa chắc đã là sự nghỉ ngơi thực sự.

"Muốn được yên nghỉ thực sự và hoàn toàn, chúng ta cần chuẩn bị sẵn cho chúng ta một khoảng trống vắng, yên tịnh tâm linh.

Chúng ta cần dọn dẹp sạch sẽ đống rác trong cái bãi chứa, và lắng đọng lại những tiếng động bên trong, và phương cách thực hiện để tìm sự yên tịnh tâm hồn là Thiền Quán trong Tỉnh Thức.

Đó là phương cách hữu hiệu nhất để giúp cho đầu óc chúng ta được nghỉ ngơi nhưng nhậy bén. Chỉ cần 05 phút thôi, chúng ta sẽ cảm thấy con người chúng ta tươi mát trở lại, tinh xảo trở lại, minh mẫn trở lại, nhạy bén trở lại."

"Người ta hay nói: "Tôi không có thì giờ để thiền, không có thì giờ để nghỉ, không có thì giờ để làm cái này cái nọ, v.v.." Điều đó không đúng. Chúng ta có thể thiền khi đi dọc hành lang sở làm hay nhà, khi đợi máy vi tính thay đổi những chương trình, hay khi chúng ta dừng xe ở đèn đỏ các ngã tư, khi đứng xếp hàng, khi vào phòng tắm, hay cả khi chải đầu.

Chúng ta hãy tỉnh giác trong từng giây phút, ý thức trong từng hành động. Chúng ta thử chọn một việc làm nào đó trong ngày và tập trung hoàn toàn tư tưởng vào nó, và rồi chúng ta sẽ thấy kết quả ngoài ý muốn. Một sự thư giản và tỉnh thức thức trọn vẹn .


"Thiền định không phải là chỉ ngồi yên trong hang động cả 12 năm, mà chính là phải tu tập từng phút, từng ngày. Chúng ta thực tập hạnh bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn ở đâu? Pháp Phật không phải là những giáo điều nói suông, rỗng tuếch. Pháp Phật vi diệu ở nơi thực hành để chuyển hóa tâm thức.

Những sự chuyển hóa tâm thức đó sẽ không bao giờ đạt được kết quả nếu chúng ta mê muội cho là chỉ cần ngồi yên thiền định và không hiểu biết lý lẽ của các pháp vốn biến chuyển sinh diệt từng giây phút trong dòng sinh mệnh của con người. Lý do đơn giản là chúng ta đã quên, đã đánh mất đi thực tại.

Chúng ta nghĩ giác ngộ là một cái gì thật là to lớn, thật vĩ đại, thật phi thường nhưng chúng ta đã lầm.
Giác ngộ chân lý thật ra vô cùng đơn giản, nó ở ngay trước mắt chúng ta, ngay trong phút giây hiện tại và bây giờ. Và một khi chúng ta ý thức được hiện tại, chúng ta giác ngộ được chân lý.

Tiếng Sanskrit gọi là Tâm Thức là "Smriti", tiếng Pali gọi nó là "Sati", và tiếng Tây Tạng là "Drenpa".
Nói chung, tất cả đều có nghiã là "Hồi tưởng, Nhớ lại". Khái niệm đó quả không dễ hiểu.

Nếu Tâm Thức còn có một nghiã "Hồi Tưởng, Nhớ" thì kẻ thù của nó là "Quên Lãng". Chúng ta chỉ tỉnh thức trong chốc lát và rồi chúng ta lại quên. Quên rồi nhớ, nhớ rồi quên. Vấn đề rắc rối là ở chỗ đó, vì sao? Bởi vì chúng ta không có thói quen nhớ nên cứ hay quên.

Cái đau khổ nhất của con người là họ luôn nhìn sự vật qua lăng kính khái niệm, phán xét, hay suy diễn. Thí dụ như khi chúng ta nhìn một người nào đó, chúng ta không nhìn đúng người đó đang là, mà chúng ta nhìn người đó qua sự liên hệ giữa ta và người đó, qua tình cảm cá nhân chúng ta thích hay không thích họ, hay người đó gợi cho chúng ta nhớ lại kỷ niệm gì, hình bóng nào, hoặc là người đó có những đức tính hay cá tánh gì hợp với chúng ta.

Đối với tất cả sự vật, chúng ta đều đánh giá qua những giác quan thấy, nghe, nếm, ngửi, sờ mó, cộng thêm suy tưởng và kinh nghiệm của chúng ta. Và rồi, ý thức và kinh nghiệm đó đã đánh lừa chúng ta và biến chúng ta thành những con người máy móc, điều kiện. Hễ ai bấm nút thì người máy đó cử động, nói năng."

"Có người sẽ nghĩ rằng "Vậy thì đã sao đâu? Có gì quan trọng đâu?" Nhưng rồi chúng ta sẽ dần dần tách rời thực tại, quên lãng kinh nghiệm, và chúng ta đánh mất luôn con người thật của chính chúng ta.

"Những gì chúng ta cần làm là đem tất cả sự vật trở về lại nguyên vẹn hình hài, bản thể của chúng, và nhìn vạn vật "y như chúng "đang là"; giống như cái nhìn trong sáng, hồn nhiên của đứa bé con không đối đãi, không phân biệt.

Đứa bé con nhìn mầu sắc và các hình dáng không qua một lăng kính phán xét nào, đánh giá nào; tâm hồn đứa bé thật tươi mát, trong trắng làm sao !

Đó, trạng thái hồn nhiên tự tại đó chính là cái mà chúng ta phải có trở lại, phải áp dụng trở vào lại đời sống hàng ngày của chúng ta. Nếu chúng ta có thể tập làm được như vậy, tự nhiên chúng ta sẽ chuyển hóa được chính mình và ngoại cảnh."

"Ngài Milarepa đã từng nói: "Càng nhiều sóng gió, càng thêm hưng phấn", bởi vì ngài đã cưỡi lên được đầu ngọn sóng phiền não và lèo lái ngọn sóng đó một cách khéo léo và thăng bằng.

"Đứng ở một lập trường quan điểm trí tuệ, chúng ta cũng nên thích ứng trở thành một con cọp hơn là một chú thỏ con hiền lành. Những chú thỏ thì rất dễ thương, mũm mĩm, nhưng chúng nó không có đủ năng lực để vượt qua trở ngại.

Trái lại, những con cọp dù hung dữ, nhưng với năng lực mạnh mẽ sẵn có, nếu biết sử dụng khéo léo, thì năng lực đó chính là sự cần thiết quan trọng nhất để đối địch chốn rừng sâu của loài cọp.

#217 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 25/06/2011 - 02:38

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN


NHƯNG CUỘC THÁCH ĐỐ


CHƯƠNG MƯỜI LĂM


Từ một người ẩn cư trong hang động cô liêu, Tenzin đã phóng mình ra khỏi quỹ đạo của mình để đi vào thế giới trần tục đầy u ám, phiền muộn. Từ một người sống yên tĩnh, Tenzin đã phải nói suốt hàng giờ không ngưng nghỉ.

Từ một cuộc sống giản dị đơn thuần, Tenzin đã nhẩy vào cuộc chơi của cuối thế kỷ thứ 20 này; và thế giới mà cô tham dự trở lại đó thật khác xa hoàn toàn cái thế giới mà cô đã bỏ ra đi để tới Ấn độ năm 1963.

Tenzin đã chứng kiến những khủng hoảng, bất an, căng thẳng của một nền văn minh xã hội vật chất dồn dập lên con người; đã thấy tình trạng thất nghiệp leo thang, và đời sống bấp bênh, không biết ngày mai của những kẻ vô gia cư, vô nghề nghiệp.

Cô cũng đã đọc báo viết về mức độ tội ác bạo lực gia tăng và vấn đề sử dụng buôn bán ma túy càng ngày càng lan rộng trong xã hội. Cô cũng đã tận mắt trông thấy các bạn cô chạy đua tốc độ đến bở hơi tai theo nhịp sống vật chất cuồng loạn này.

Đi đến đâu, cô cũng nghe các cấp chính quyền rao gọi thay đổi chính sách phục vụ cộng đồng cho nền kinh tế duy lý, và bây giờ lại đến những nhu cầu xa hoa mới như sự yên tĩnh, không gian, thời gian, và sinh thái môi trường, và cô cũng nhận thức rõ sự cần thiết cấp bách cho những giá trị tâm linh trong một xã hội thăng tiến vật chất kinh khủng này. Tenzin nói:

- " Nơi đây, người ta nung nấu vì ham muốn. Khác với ở Lahoul, người dân sung mãn về tinh thần hơn dù đời sống tiện nghi văn minh vật chất quả thật thua kém; và ở đây, ngoài vật chất ra, người ta cũng khao khát tìm tòi một cái gì đó sâu xa và có ý nghĩa hơn trong đời sống của họ. Khi người ta dừng lại những đam mê bản năng, thì người ta lại theo đuổi những nhu cầu khác.

Vì thế,con người luôn luôn thất vọng, chán nản, và bức rức. Họ cảm thấy đời sống và mọi thứ sao phi lý, vô nghĩa quá. Họ đã có những gì họ muốn, nhưng rồi sao? Xã hội cứ thôi thúc bắt ép con người ta chiếm hữu hết cái này đến cái khác, nhưng rồi cuối cùng con người sẽ về đâu? Tôi đã thấy sự cô đơn đang ngự trị khắp nơi, và con người chán nản không muốn hoạt động gì nữa khi cô đơn. Đó là trạng thái tâm lý hững hờ, lãnh đạm, lệch lạc."

Nhưng đặc biệt hơn những câu chuyện của Tenzin là vào giữa những năm 90, nhánh cây Phật giáo và nền triết lý thâm sâu, mật hiển đã sanh sôi nẩy mầm trên mảnh đất màu mỡ Tây Phương và người dân Âu Mỹ đã bắt đầu tìm hiểu một tôn giáo phương Đông với cái nhìn đúng đắn hơn, trưởng thành hơn, và khách quan hơn.

Và rồi từ đó, dân chúng gồm đủ mọi thành phần, mọi lứa tuổi ở Âu Châu, Hoa Kỳ, Gia nã Đại, Úc Châu và Tân Tây Lan đều hết sức ngưỡng mộ thán phục nền triết học uyên bác vĩ đại của Phật giáo và hết lòng cung kính các vị Lạt Ma đức hạnh đã truyền bá đạo Phật sang Âu Mỹ. Kết quả rỡ ràng của sự hoằng pháp thành công này là các trung tâm thiền đường Phật giáo, nhất là Phật giáo Tây tạng, đã mọc lên như nấm trên khắp thế giới.

Những thời kỳ thịnh vượng của Phật giáo tại Âu Mỹ nay đã suy rồi. Nhưng tín đồ buổi đầu tiên đó, sau 30 năm nghiên cứu thực hành giáo lý, đã bắt đầu tìm hiểu tính chất nhân bản và thực tiễn hơn của nền tôn giáo đang trồng rễ trên đất nước họ.

Những nhược điểm và sự không nhất quán trong nội bộ đồng loạt bị phơi bày ra, và có thể nói, khi Đông Phương bị ràng buộc bởi hàng rào tập tục luân lý xã hội thì Tây Phương, được tự do ngôn luận hơn, không có những đắn đo, ngại ngùng, hay e dè nào cả, sẵn sàng nói huỵch tẹt ra mọi việc.

Tenzin Palmo đã trở về lại cái thế giới trần tục này ngay trong giai đoạn rộn ràng đó; và những cuộc tranh luận, bàn cãi, thách đố nhau công khai, hay những mâu thuẫn trường phái đố kỵ lẫn nhau đã vô tình giúp cho cô tự tìm ra con đường của chính mình.
Những lũng đoạn trong Tăng đoàn Phật giáo ở Âu Mỹ bắt nguồn từ những tật xấu lợi dưỡng cá nhân của các vị Tăng sĩ.

Theo Phật giáo Tây Tạng, vai trò và cương vị của vị đạo sư rất quan trọng. Các tín đồ kính ngưỡng vị đạo sư của mình như một vị Phật. "Đạo sư (guru) là Phật, Đạo sư là Pháp, Đạo sư là Tăng."

Từ sự suy tôn đó, người ta thần thánh hóa vị đạo sư và cho tất cả những gì vị đạo sư đó nói đều đúng, đều thật, và họ đã vô tình tôn vinh bản ngã ông đạo sư để rồi đưa đến những hậu quả thảm hại, ê chề.
Ông đạo sư cũng vẫn còn bằng xương bằng thịt, đã chứng quả Thánh gì đâu, nên những sự cúng dường tôn sùng quá mức đã làm nảy sinh tâm tham đắm mê muội.

Ví dụ như trường hợp của Chogyam Trungpa, người thầy hướng dẫn tâm linh và cũng là người bạn đầu tiên của Tenzin Palmo, đã để lại bao nhiêu là tai tiếng bê bối sau khi ông ta qua đời năm 1987. Kinh khủng hơn nữa là người đệ tử kế thừa của Trungpa, Thomas Rich, pháp danh là Osel Tendzin, sanh tại Mỹ, không những đã nhiễm căn bệnh nguy hiểm mà ông ta đã hết sức dấu kín, mà còn lây luôn cho một nữ đệ tử trong số hàng loạt các nữ tín đồ dấu tên của ông ta.
Đó là một vài trường hợp điển hình trong số rất nhiều vụ tai tiếng bê bối của các vị đạo sư ở Âu Mỹ.

Các nữ tín đồ thật vô cùng ngây thơ khi bị các ông thầy lừa bịp nói là các cô đã được tuyển chọn để làm vợ các ông trong sự liên hệ "thần bí" theo phái Mật tông Tây Tạng; vì thế, các cô rất ư là hãnh diện và sung sướng là mình đã trúng tuyển đặc biệt. Niềm tin mù quáng vào ông thầy đã khiến các cô bị lừa bịp thảm thương và đồng thời cũng gây tiếng xấu ảnh hưởng đến Tăng đoàn Phật giáo.

Tenzin Palmo nhận xét rằng người phụ nữ Tây Phương còn kém kinh nghiệm và không hiểu biết phải làm thế nào để tìm cho được một vị minh sư, và ngay cả đến ý nghĩa thế nào là một vị đạo sư chân chính, đúng đắn, họ cũng không rõ nữa. Sự khao khát học hỏi giáo lý và nương tựa vào một vị lãnh đạo tinh thần đã khiến các phụ nữ Tây Phương dễ bị mắc lừa và trở thành con mồi ngon cho sự lợi dụng thỏa mãn.

- "Nhiều người Tây Phương đã hiểu sai về thiên chức vị đạo sư. Họ cho rằng vị đạo sư là người dìu dắt họ từng bước một trên con đường tìm cầu chân lý, như đứa con cần sự dắt dìu của người mẹ. Nhưng thực ra không phải vậy. Vị đạo sư là người có bổn phận giúp đỡ mọi người nhận thức rõ ràng hơn, trưởng thành hơn, tỉnh thức hơn.

Chức năng của vị đạo sư là giới thiệu cho chúng ta con đường trở về với bản nguyên, và sợi dây liên kết giữa thầy trò là một sự cam kết tôn trọng lẫn nhau.
Về phần người học trò thì phải có trí tuệ suy xét những gì thầy mình làm có đúng chánh pháp hay không, nghe lời Thầy dạy, và thực hành theo những gì Thầy hướng dẫn. Về phần người thầy cũng phải dạy dỗ hướng dẫn học trò mình đạt được chân lý, dù phải trải qua vô lượng kiếp.

Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng có lời khuyên chân thực rằng "Qúy vị phải tìm hiểu dò xét về người thầy mình ít nhất là 10 năm. Quý vị phải nghe, phải quan sát, phải nhìn cho thật kỹ, cho đến khi qúy vị nhận xét ông thầy đó chắc chắn là trong sạch. Ngay trong lúc tìm hiểu đó, qúy vị cư xử với vị thầy đó như một người bình thường và nhận những lời dạy của ông ta như là "một thông báo, một lời giới thiệu."

Một người thầy chân chính, đúng đắn không bao giờ đi tìm cầu học trò hay tín đồ gì cả. Chính đức hạnh và đời sống thanh cao của vị thầy sẽ hướng dẫn các tín đồ tìm đến vị thầy xin nương tựa." Đối với tất cả những phán xét, phê bình hay chê trách những vị đạo sư, Tenzin vẫn luôn luôn kính trọng Sư Phụ của cô là ngài Khamtrul Rinpoche :

- "Tôi có thể nói Khamtrul Rinpoche là người tôi tuyệt đối tin tưởng. Tôi không bao giờ nghi ngờ Thầy tôi dù là một phút giây. Ngài đã chỉ dạy tôi thật chính xác, tuyệt hảo. Tôi không hề thấy có điều gì tôi cần thắc mắc. Sư Phụ tôi lúc nào cũng sắc sảo, trí tuệ, và vô ngã."

Đối với nhiều tín đồ Phật giáo Âu Mỹ, hình tượng "Đạo Sư" đã bị tổn thương nặng nề. Đó không phải chỉ vì những vụ bê bối tai tiếng mà chính vì thời điểm của họ đã tận. Theo sự nhận xét của người Âu Mỹ cuối thế kỷ 20 nầy, hình tượng vị đạo sư chẳng qua chỉ là sản phẩm của một hệ thống giai cấp trưởng lão trên cơ bản cấu trúc và tôn ti cấp bực; và với sự phát triển của giới lãnh đạo nữ, ngày tàn của hệ thống quyền hành trưởng lão đó sắp sửa kết thúc.

Andrew Harvey, cựu học giả đại học Oxford và cũng là một thi sĩ, đã mất nhiều năm đi tìm chân lý với sự hướng dẫn của nhiều đạo sư khác tôn giáo trên khắp thế giới, kể cả vài vị Lạt Ma nổi tiếng đương thời, Linh Mục Bede Griffiths (người xây một đền thờ ở Ấn), và một nữ đạo sư Ấn Độ Mẹ Meera, đã nói lên kinh nghiệm học hỏi của ông ta trong một cuộc phỏng vấn ở đài phát thanh :

- "Tôi rất sung sướng được học hỏi với các vị thầy của tôi, nhưng đồng thời tôi cũng nhận thức rằng, nếu sự liên hệ giữa thầy trò xảy ra trong tình trạng lệch lạc, kém tinh thần thì chúng ta dễ mất đi niềm tin và phương hướng.

Nếu chúng ta không được hướng dẫn đúng đắn thì chúng ta khó có thể tiếp cận đối phó với thế giới bên ngoài được, và sự lệch lạc đó cũng làm băng hoại ông thầy đi. Chúng ta đang đi tìm một kiến thức mới, một mô hình mới của sự liên kết giữa thầy trò phải như thế nào.

Tôi nghĩ rằng trong vòng 10 hay 15 năm tới, sẽ có nhiều thay đổi. Chúng ta sẽ không còn giữ đường lối xưa cũ của các vị thầy phương Đông nữa. Nó không còn phù hợp với thực tế hiện trạng bây giờ. Chúng ta cần một sức một sức mạnh tinh thần thực sự giúp chúng ta phấn chấn lên và đẩy chúng ta đi tới phía trước

Những gì mà giới trí thức tân tiến ngày nay cần để thay thế cương vị "người thầy" là người bạn tâm linh. Hình tượng người "bạn tâm linh" đó không cần phải rêu rao là đã chứng đắc, cũng chẳng cần phải được tôn sùng tuyệt đối và phải được vâng lời dạy bảo hoàn toàn; mà người bạn đó chỉ cần đồng hành, cùng đi chung một con đường với người đang đi tìm chân lý. Đó là một giải pháp dân chủ phù hợp với văn hóa phương Tây.

Tenzin Palmo đồng ý với quan điểm đó. Cô đã gặt hái được nhiều kinh nghiệm vô giá qua sự liên hệ giữa cô và vị đạo sư của cô; nhưng đã nói, Tenzin quả là một người may mắn và phi thường nhất trên đoạn đường tìm chân lý. Tenzin nói :

- "Thẳng thắn mà nói, tôi nghĩ người Tây Phưong nên thực tập giáo lý Phật giáo và nương tựa nơi những vị thầy đạo hạnh hơn là những vị đạo sư. Hai danh từ "Thầy" và "Đạo Sư" không cùng một ý nghĩa như nhau đâu.

Một vị Đạo sư có sợi dây liên hệ rất mật thiết và đặc biệt quan trọng với người đệ tử, và chúng ta chỉ có một đạo sư mà thôi nhưng chúng ta có thể có nhiều thầy; như ngài Atisha (vị sáng lập Phật giáo Tây Tạng vào thế kỷ thứ 10) ngài có tới 50 vị thầy.

Hầu hết các vị thầy đều có đầy đủ khả năng để hướng dẫn chúng ta và ngay tự chúng ta, chúng ta cũng có thể tự mình đi tới đích một cách hoàn hảo.

Chúng ta có trí tuệ, có sức mạnh tâm linh. Nếu chúng ta gặp một thiện hữu trí thức giúp đỡ chúng ta, quá tốt; nếu không, chúng ta vẫn có thể tự chứng qua sự thực hành giáo pháp. Điều quan trọng hơn hết là chúng ta phải hiểu biết rõ ràng sâu sắc về Phật, Pháp, và Tăng."

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN


MỘT HANG ĐỘNG ẨN TU CÓ CẦN THIẾT KHÔNG ?


CHƯƠNG MƯỜI SÁU


Khi Tenzin Palmo ẩn thân trong động tuyết để theo đuổi mục đích cầu đạo của cô, thì các phụ nữ Âu Mỹ khác đang bận rộn phong trào đấu tranh đòi quyền lợi cho phái nữ của riêng họ. Khi Tenzin xuất động, giới nữ cũng đã tạo được một số thành tích đáng kể, và đã tự tin rất nhiều, không còn e dè kiêng nể gì sự thống trị của phái nam hay tôn giáo.

Những thời đại đã thay đổi nhanh chóng, cái cũ phải nhường bước cho cái mới. Vị trí người nữ trong Phật giáo cũng đã thay đổi và họ bắt đầu tìm hiểu tận cùng gốc rễ nguyên lý nền truyền thống cổ xưa ở Tây Tạng mà Tenzin đã noi theo một cách trung thành, và họ cũng bắt đầu đòi hỏi các hình tượng Phật cũng phải mang nét nữ nhiều hơn.

Trong số những câu hỏi hóc búa của giới nữ đặt ra cho Tenzin, sự thắc mắc "Một hang động có cần thiết cho sự ẩn tu không?" là câu hỏi rất đặc biệt gây chú ý. Họ nghĩ là "Một hang động không tiện lợi cho phái nữ với thiên chức làm vợ, làm mẹ, và làm chủ gia đình.

Khi người đàn ông có thể xuất ly khỏi gia đình, như Đức Phật đã cắt ái từ thân, dấn thân vào những chặng đường thiền định cô độc lâu dài để mong đạt được giác ngộ thì người phụ nữ không thể làm được như vậy hoặc họ cùng không muốn làm như vậy hoặc họ cũng không muốn làm như vậy.

Tuy nhiên, không thể kết án hay xem nhẹ người nữ như là một kẻ bị tật nguyền nếu họ không thể ẩn cư thiền định nơi núi rừng, hang thẳm. Người nữ, với thiên chức làm mẹ, đã tiếp tay tạo ra giống nòi, ngay cả Đức Phật, Chúa Jesus, hay các Thánh Nhân khác đều nhờ vào cơ thể người nữ mà hiện thân ra.
Động thất, theo ý họ, chỉ là một mô hình lý tưởng để cầu tìm giác ngộ.

Những người phụ nữ trí thức trong mọi lãnh vực đã lên tiếng nói những gì họ muốn. Họ cho rằng cả hai vấn đề tâm linh và gia đình đều quan trọng như nhau. Họ muốn thực tập các pháp môn bao gồm luôn cả trẻ con và gia đình.

Họ cũng giới thiệu pháp môn trị liệu cảm xúc như là một môn pháp thiền định, và họ cho rằng nhà bếp cũng là một chỗ tốt để thiền quán đạt giác ngộ như là một thiền đường hay hang động Hy Mã Lạp Sơn xa xôi kia.

Đó là sự cách mạng tư tưởng đã làm thay đổi bộ mặt Phật giáo. Tsultrim Allione, một phụ nữ người Mỹ, đi bước tiên phong cho phong trào cách mạng tư tưởng nầy. Bà đã xuất gia năm 1970 nhưng bốn năm sau đã hoàn tục, lấy chồng, và sanh con. Bà là tác giả cuốn "Women of Wisdom", một trong những quyển sách đầu tiên nói về vị trí người nữ trong Phật giáo, và sau đó thành lập trung tâm thiền "Tara Mandala" ở Pagosa Springs, Colorado, nơi sản sinh ra nhiều người nữ trí thức, kinh nghiệm, và cấp tiến.

Bà Allione là người phụ nữ đầu tiên đã kinh nghiệm cả hai mặt tu tập và đời sống gia đình bằng chính cuộc đời bà.

- "Tôi đã hoàn tục bởi vì tôi là vị ni cô Phật giáo Tây Tạng duy nhất ở Hoa Kỳ lúc bấy giờ. Tôi cảm thấy rất cô đơn, lẻ loi, và không nhận được sự trợ cấp dưỡng bảo vệ gì cả. Lúc đó, tôi mới 25 tuổi, sức sống đang tràn trề sự khao khát và bắt đầu chán nếp sống độc thân cô đơn của đời tu sĩ. Vì thế, tôi hoàn tục và một năm sau, tôi trở thành một người mẹ và một nữ văn sĩ. Đối với tôi, sự quyết định đó thật đúng và tốt.

Từ ý nghĩ muốn vượt qua được sự ganh tỵ, giận hờn hay tất cả những cảm xúc tư tưởng bi quan yếm thế, tôi lại bị những xúc cảm đó tạt trở lại vào mặt.
Từ ý nghĩ muốn có được nhiều thì giờ cho riêng tôi, tôi lại chẳng được gì hết. Tôi nhận xét rằng, khoác chiếc áo nhà tu, tôi có cảm tưởng như được che chở khỏi suy nghĩ đến những cảm xúc đột biến thầm kín riêng tư nhưng không, chúng vẫn trơ trơ nằm đó.

Tôi phải nghiền ngẫm sâu hơn, tận cùng hơn lớp vỏ bên trong của năm món độc kia để thấy chúng là gì và học cách đối phó thẳng với chúng, không bao che hay trốn chạy chúng nữa. Vì thế, tôi quyết định hoàn tục để sống đúng với cảm xúc và con người thật của tôi. Nếu tôi vẫn còn là một ni cô, có lẽ tôi đã tự che dấu mình và kiêu căng ngã mạn cho là tôi đã vượt qua được tất cả." Tsultrim Allione, trong 5 năm sanh 4 người con (một đứa chết lúc còn bé).

Bà đã tranh cãi về vấn đề gia đình và vai trò làm mẹ là một trở ngại lớn cho công cuộc khám phá tâm linh. Bà nói :

- "Chúng ta phải tự hỏi mình là "Nhận thức tâm linh là gì?" Bản năng làm mẹ trong người nữ cũng mạnh và cần thiết như tình yêu và họ sẵn sàng hy sinh cá nhân. Sự nhận thức được định nghĩa bởi con người qua những sự kiện thăng trầm thay đổi. Chúng không phải là kinh nghiệm giác ngộ giải thoát.

Người nữ cũng sẵn sàng xả ly những gì họ đang có. Đó là phẩm chất cao quý của người nữ và để hiểu rõ về con người, chúng ta cần phải làm mẹ và làm một phụ nữ bình thường. Là một người mẹ, tôi đã dứt bỏ được ảo ảnh về cá nhân tôi. Tôi đã chọn cách thất bại như thế nào để sống đúng với cảm giác tư tưởng của chính tôi."

Đối với bản thân Allione, bà cam đoan rằng một hang động không cần thiết cho việc tu tập. Bà nói :

- "Tôi tin rằng người phụ nữ ở nhà cũng có thể giác ngộ được. Đó là điểm tối ưu của Mật Tông. Có một câu chuyện về một phụ nữ giác ngộ khi gánh nước. Cô ta miên mật hành thiền ngay cả khi gánh nước hay làm bất cứ công chuyện gì. Một ngày kia, cô đang gánh nước về nhà, bỗng bị đứt dây thùng, nước đổ ào ra và cô hoát nhiên đại ngộ.

Giáo lý thâm huyền của Mật Tông cũng đã được giới cư sĩ đạt được uyên áo chứ không phải chỉ có giới tăng sĩ mới thấu triệt được. Điều đó cho chúng ta thấy hai hệ thống tu sĩ và cư sĩ cũng có những khái niệm hay tư tưởng, lý tưởng khác nhau. Mỗi người nên tùy căn cơ của chính mình mà thực hành để đạt kết quả; cuộc đời tu sĩ quá tốt mà nếp sống gia đình cư sĩ cũng không phải quá dở."

Yvonne Rand, một trong nhũng vị dạy thiền nổi tiếng người Mỹ, cũng đã nói lên tư tưởng của bà về đời sống một người cư sĩ. Yvonne cũng đã có lần mời Tenzin Palmo tham dự một cuộc họp cuối tuần tại trung tâm thiền của bà ở Muir Beach, California.
Bà cũng nhận xét thấy những khó khăn trở ngại lớn nhất mà người phụ nữ phải đối phó với những ước vọng tâm linh.

Trước khi thành lập trung tâm độc lập của riêng bà, Yvonne là chủ tịch Trung Tâm Thiền ở San Francisco, một địa vị mà bà cảm thấy như có đối kháng mâu thuẫn với vai trò làm mẹ của bà.

- "Là phụ nữ, tôi cũng muốn được gánh vác nhiều trách nhiệm, nhưng tôi cảm thấy mọi người xem tôi như là người phụ thuộc, người thứ hai trong xã hội mà thôi. Người ta không cảm thông mấy cho vai trò một bà mẹ độc thân của tôi và tôi thường hay bị tẩy chay, vì chưa đủ nghiêm túc khi thực hành công phu thiền định.

Ví dụ như thật khó tin khi phải dậy sớm mỗi buổi sáng, và đi tọa thiền ở các thiền đường, thì phải để các con nhỏ của tôi một mình ở nhà. Tôi không thể nào yên tâm được nên dù cố định tâm để thiền quán cũng không được." Đúng ra Yvonne xác nhận là bà thực hành nhiều theo khoa tâm lý trị liệu của Nhật Bản hơn là Phật giáo, và bà nghĩ rằng căn nhà là chỗ thích hợp nhất để tu tập cho các nhóm cư sĩ tụ hội lại với nhau.

Cuối cùng, tôi nghĩ rằng dù dưới hình thức một người cư sĩ, một vị tăng sĩ, hay một bà nội trợ và ở bất cứ nơi đâu, tôi vẫn đều đặn tu tập như một tu sĩ ở trong thiền viện. Khi quán tưởng được như vậy, lần đầu tiên, tôi cảm thấy yên ổn và thư giãn được đầu óc."
Khi được hỏi "Người phụ nữ có thể đạt được cảnh giới giác ngộ tối thượng không?"

Yvonne trả lời :"Tôi không biết gì về giác ngộ giải thoát, nhưng tôi nghĩ người phụ nữ sẽ tiến được rất xa. Tôi kinh nghiệm được mùi vị giải thoát khi tôi bắt đầu nhận thức thực tại hiện hữu trong từng giây phút, Tại đây, ngay trong lúc này, khi tôi không đeo hành lý nặng nề của ngày hôm qua, hay khi tôi ôm đồm cả hai, hôm qua và ngày mai.

Cái quan trọng nhất của sự tu tập là Miên mật hành trì, không gián đoạn. Nếu bạn đang thực hành một pháp môn nào, ví dụ như thực tập chánh niệm, bạn phải miên mật tu tập 12 lần trong 1 ngày thì mới thâu lượm được nhiều kết quả; hay bạn tập cười hàm tiếu, bạn nhích nhẹ đôi môi, cười, và giữ yên như vậy độ 3 hơi thở.

Nếu tôi tập làm như vậy 6 lần hay hơn nữa mỗi ngày, trong vòng 3 ngày thôi, chắc chắn tôi sẽ cảm thấy có điều kỳ diệu xảy ra cho tôi, trong tôi, trong đầu óc và cơ thể tôi. Bạn có thể thực tập như vậy khi đứng chờ đợi người nào, khi phải giữ máy điện thoại, lúc ở tiệm bán thực, ở phi trường, hay dừng xe những ngã tư đường lúc đèn đỏ, v.v... "

Những lời của bà Yvonne nói sao nghe giống lời của Tenzin Palmo đã trình bày về phương cách hành thiền. Yvonne tiếp tục:

- "Có rất nhiều cách bạn có thể thực tập ở nhà. Bạn có thể thực tập kiên nhẫn hay sử dụng chuyển hóa những trở ngại vướng bận một cách khéo léo như thầy các bạn đã làm.

Trước kia, tôi thường ngồi bên cạnh những người đang hấp hối, và sau những giờ quán niệm Vô Thường, tôi trở thành một với xác chết. Đó là một phương pháp tu học kỳ diệu. Tôi không những hiểu được về lý vô thường của vạn vật và sợi dây liên hệ giữa hơi thở và tâm thức, mà tôi còn hiểu rằng Chết và Sống có chiều liên quan với nhau.

Ta sống như thế nào, ta chết như thế ấy. Sống vui vẻ, tốt đẹp thì Chết an ổn, thoải mái. (living well, dying well). "Nếu bạn đã chọn được những pháp môn thích hợp nào, bạn thực hành theo đó trong vài năm, bạn sẽ thấu đạt được toàn vẹn ý nghĩa của những pháp môn đó, và bạn cũng không cần áp dụng những pháp môn mới, cho đến khi bạn thực hành một cách viên mãn những pháp môn đã chọn lựa.

Một trong những chướng ngại tâm lý của người Mỹ, là họ sống không khiêm tốn, giản dị. Họ tham lam, hấp tấp hưởng thụ và mong muốn chiếm đoạt tất cả cùng một lúc."

Không phải chỉ có giới nữ mới đặt ra câu hỏi hóc búa đó, mà ngay cả giới nam cũng e dè lên tiếng trả lời câu hỏi "Động thất ẩn tu có cần thiết không?"
Một vị thầy dạy về thiền Minh Sát, Jack Knornfield, một trong những vị thiền sư nổi tiếng người Mỹ, đã trình bày về phương cách, khái niệm "nhập thất ngắn hạn (vài tháng vào thất, vài tháng ra thất) như là một giải pháp thay thế cho những ai muốn nhập thất ở những nơi u tịch thanh nhã.

Ông ta cho rằng sự nhập thất quá lâu sẽ tạo ra những trạng thái tâm lý bất ổn, không thích ứng cho hành giả một khi người đó muốn hòa nhập lại xã hội. Tâm lý những người Âu Mỹ không thể thích hợp được với những pháp môn tu tập ẩn cư xuất thế như vậy, và sự nhập thất dài hạn ( theo ông nghiên cứu qua vài người tu tập) đã dẫn tới sự khủng hoảng tâm lý và lãnh đạm xa lánh người đời.

— Anh quốc, một vị giáo sư Phật học nổi tiếng, Stephen Bachelor, Khoa trưởng Phật học và khoa Thông Tin Thời Đại ở đại học Sharpham, đã đồng ý với nhận xét của Jack Knornfield.

Ông nầy đã xuất gia hơn 10 năm theo truyền thống Thiền Phật giáo, trước khi trở thành một trong những người Phật tử theo chủ nghĩa hoài nghi nổi tiếng, thường đặt những câu hỏi về những nguyên lý cơ bản giáo lý như là Thuyết Tái Sanh, Hóa Thân, v.v...
Là bạn của Tenzin Palmo, ông ta cũng có ý kiến phê bình về vấn đề nhập thất ở hang động.

-"Nhập thất ở một nơi cô tịch thanh vắng ảnh hưởng rất nhiều đến tánh khí vị hành giả. Tenzin Palmo là một trong những người ngoại lệ có kinh nghiệm cao, sống thực, và khi cô nhập thế trở lại, cô không bị ức chế hay trở ngại gì. Cô rất thân thiện, cởi mở, và hòa hợp ngay được với mọi người; chứ không giống như một số các vị hành giả khác nhập thất quá lâu, có khuynh hướng hướng nội hoàn toàn và xa lánh thế tục.

Tôi nghĩ tới vài trường hợp khác của những người không có được cơ sở tâm lý vững chắc và những cuộc nhập thất quá dài sẽ đưa đến hậu quả khủng hoảng tâm lý. Họ nên đi tìm câu trả lời về trạng thái bất an và lãnh đạm đó, và khóa chặt chúng nó lại hơn là để chúng nó vượt quá trớn phạm vi tâm lý.

Chúng ta cần phải buộc dây những cảm xúc lại làm sao để chúng ta có thể đối phó được với sự cô đơn, u tịch của nội tâm lẫn ngoại cảnh."

#218 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 25/06/2011 - 02:46

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN


BÂY GIỜ


CHƯƠNG KẾT


Đã chín năm trôi qua từ lần đầu tiên tôi gặp Tenzin Palmo trong tòa lâu đài ở Tuscany và từ đó, tôi thâu lượm tài liệu viết lại câu chuyện đời Tenzin. Tenzin đã giảm bớt đi ánh sáng linh động rực rỡ nội tâm cô đã có từ lúc cô bắt đầu xuất động, mặc dù ánh mắt cô vẫn sáng ngời và tính cách cô vẫn thân thiện, cởi mở, và hoạt bát.

Những năm tháng dài miệt mài đi giảng dạy không ngừng nghỉ, đã hằn dấu vết trên nét mặt Tenzin. Thật là một Phật sự nặng nề khó nhọc. Khi tôi viết quyển sách này, Tenzin đã quyên góp được một số tiền đủ để mua đất và đặt xây nền móng.

Đối với người có cơ sở vững chắc mà làm được như vậy thì cũng đà thành công tốt đẹp rồi, huống chi đối với Tenzin, một phụ nữ không nhà không cửa, không nghề nghiệp, không một đồng xu dính túi, và cũng chẳng có một cơ quan từ thiện nào giúp đỡ mà xây dựng được như vậy thì quả là phi thường xuất sắc. Tức nhiên đó là một hành trình dài, thật dài Tenzin phải đi để quyên góp xây dựng Ni viện.

Tenzin không hề nản chí, bực dọc, hay mất hy vọng vì Phật sự quan trọng này. Cô không bao giờ lộ ra vẻ mệt mỏi, chán nản cả. Cô cứ miệt mài làm việc và đi thuyết giảng không ngừng nghỉ. Cô cũng chẳng có một tham vọng cá nhân nào trong công cuộc này. Cô làm vì đó là một Phật sự nên làm, phải làm, vậy thôi.

- "Cuộc đời tôi đặt trong tay Đức Phật, Pháp, và Tăng. Tôi đã tùy duyên xoay chuyển mọi tình thế thật tốt đẹp. Những gì cần thiết đối với tôi là phụng sự hạnh phúc của chúng sanh. Hãy để tôi hoàn thành bổn phận này, ngoài ra, tôi không cần gì cả.

Hơn thế nữa, tôi khám phá ra rằng nếu tôi cố thúc đẩy mọi việc để sớm thành công thì tất cả lại đi sai bét. Cứ để cái gì tới sẽ tới, vạn sự tùy thuận duyên mà tới".

Với niềm tin kiên cố và hoàn toàn vào chư Phật, Tenzin vững bước tiến tới, không e dè sợ sệt gì cả. Đi đến đâu, cô cũng được mọi người sẵn sàng giúp đỡ cô mọi mặt từ vật dụng cá nhân, chỗ ở, di chuyển, ăn uống, vé máy bay hay tiền bạc; tất cả những gì cô cần, cô đều được giúp đỡ chu đáo.

Tenzin nói :

- "Đời sống một vị tăng sĩ, không có một sự bảo đảm xã hội nào, có thể nói tùy thuộc vào lòng quảng đại của mọi người, nhưng trái ngược lại với ý nghĩ của một số người Tây Phương thiển cận, đó không phải là sự ăn bám mà đó là Đức tin. Ngay chúa Jesus cũng nói : "Các ngươi không cần nghĩ ngày mai các ngươi sẽ ăn gì và sẽ mặc gì."

Chúng ta cần có một niềm tin vững chắc rằng nếu chúng ta tu hành đúng đắn, chúng ta sẽ không bao giờ chết đói cả, chúng ta sẽ được giúp đỡ không những chỉ là vật chất mà còn tất cả."

Tenzin Palmo đã đứng vững giữa dòng đời xuôi ngược của cuối thế kỷ 20 này, không chao đảo ngã nghiêng theo thời cuộc. Tenzin không sở hữu một vật gì đáng giá ngoại trừ mấy bộ y áo, vài quyển kinh sách, một túi ngủ du lịch, và vài ba thứ vật dụng cá nhân cần thiết.

Có một lần Tenzin nổi hứng mua một cái gối nhỏ đắt tiền để kê dưới cổ khi đi du lịch, nhưng chỉ một thời gian rất ngắn sau, cô đã đánh mất nó. Cô cười nói :

- "Tôi nghĩ rằng mất cái gối đó thật đúng, nếu không tôi chắc sẽ bám víu chấp giữ nó quá."

Trương mục ngân hàng của Tenzin vẫn rỗng tuếch như từ hồi xưa đến giờ. Cô không bao giờ tơ hào một đồng xu những số tiền đóng góp để xây Ni viện, dù là dùng tạm đi đó đây thuyết giảng. Cô không hề quan tâm tới tiền bạc để lợi dưỡng cá nhân.

Cô sẵn sàng mở bóp và dốc hết tiền (nếu có) cho những ai cần đến. Cô theo đuổi đời sống xuất gia mà cô đã lý tưởng và mơ ước, và cô quan niệm rằng sự Thiểu Dục Tri Túc chắc chắn sẽ đem lại hạnh phúc bình yên cho tâm trí.

Đi du lịch vòng quanh một số nước với Tenzin, tôi đã thấy những nét tương phản tâm lý trên gương mặt Tenzin mà chúng ta không thể nào hiểu thấu được. Tenzin vẫn luôn hoạt bát, hòa đồng, giản dị khi tiếp xúc với quần chúng, nhưng đồng thời nhìn sâu vào mắt cô, chúng ta sẽ thấy như cô đang nhìn vào cõi xa xăm nào đó cuối tận chân trời ; nơi đó hình như quá xa và chúng ta chưa nhìn thấy được.

Cô có thể đợi chờ người ta, những chuyến bay, những sự việc hằng giờ, hoặc hằng ngày không cau có mệt nhọc, không phàn nàn phiền trách gì cả; nhưng mỗi khi Tenzin cần quyết đoán một việc gì, cô rất thẳng thắn và mạnh mẽ cương quyết bảo vệ lập trường của cô không lùi bước.

Ví dụ như cô cực lực khuyến khích mọi người không nên sát sanh ăn thịt, hay thở dài khi đề tài nói chuyện bỗng chuyển sang ngày Lễ Tạ Ơn Chúa với gà tây quay, hay khó chịu khi thấy cả một dãy sách dạy câu cá, trưng bày một cách hãnh diện hợm hĩnh trên giá sách.

Tuy nhiên, cá tánh đặc biệt nổi bật của Tenzin luôn luôn là thái độ thân thiện, cởi mở, hòa nhã, và không phân biệt thân sơ với tất cả mọi người. Cô không bao giờ lộ vẻ mệt mỏi hay buồn chán khi phải tiếp chuyện với ai quá lâu. Bạn bè của cô rất đông, và nếu người nào đó đã tiếp xúc với cô chỉ một lần thôi, họ cũng không bao giờ quên cô. Cô gần gũi thân mật ngay cả các em nhỏ.

Tenzin vẫn thường liên lạc hoặc ghé thăm Khamtrul Rinpoche đời thứ 9 (thân tái sanh của Sư Phụ Tenzin, Khamtrul Rinpoche đời thứ 8) mỗi khi có dịp ghé về Tashi Jong, miền Bắc Ấn. Khamtrul Rinpoche đời thứ 9 bây giờ là một thiếu niên cường tráng, nổi bật, và hơi mắc cỡ. Tenzin dạy Khamtrul thiếu niên nầy tiếng Anh và tìm cách đưa vào, thế giới cô đơn, khô khan của chàng Khamtrul Ripoche, những tư tưởng phóng khoáng của Âu Mỹ.

Bây giờ, người dẫn đường tâm linh cho Tenzin là các nữ thần Dakinis. Cô luôn cảm thấy có sợi dây vô hình liên hệ mật thiết giữa cô và các nữ thần Dakinis.
Cô nói "Tôi luôn luôn được các ngài bảo vệ. Thời gian này cũng có nhiều sự kiện thay đổi trong Ni chúng Phật giáo.

Từ năm 1993, khi Tenzin và các phụ nữ khác dự cuộc hội nghị Dharamsala và trình bày lên Đức Đạt Lai Lạt Ma những trường hợp kỳ thị, phân biệt về giới tính, nếp sống Ni chúng đã bắt đầu cải thiện đôi chút. Một phái đoàn Ni cô được mời đi du lịch khắp thế giới và

các ni cô này đã tự trình bày những mạn đà la vẽ hình Nữ Thần Kalachakra bằng cát màu để cổ vũ cho nền hòa bình thế giới, một công việc mà xưa kia chỉ có tăng sĩ mới được làm.

Một ni viện mới Dolma Ling đã được xây cất tại Dharamsala và cho phép giới Ni được học nghệ thuật tranh luận về giáo pháp. Đó là một bước nhảy vọt rõ rệt cho Ni chúng vì ngày xưa môn học trí thức này chỉ có tăng sĩ mới được học và công khai tranh luận.

Vào năm trước, các ni cô đã thu hết can đảm công khai thách đố tranh luận giáo pháp ngay tại tu viện của Đức Đạt Lai Lạt Ma, trước sự hiện diện của đông đảo tăng sĩ.

Các ni cô đứng đó, nhỏ bé, trẻ măng, và gương mặt rạng rỡ hồn nhiên, đập chân vỗ tay tranh luận theo cung cách của Phật giáo Tây tạng, và có một số quan sát viên người Âu Mỹ tham dự buổi tranh tài đó và họ đã nói là họ thấy các ni cô trẻ đó đã chảy nước mắt vì xúc động được lên tiếng cho chính mình; và rồi sự đòi hỏi được thụ giới Tỳ Khưu Ni cũng được tán thành chấp thuận.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã gởi phái đoàn đi Đài Loan để học hỏi về truyền thống tu học của Ni chúng Trung Hoa, với hy vọng sẽ áp dụng được cho Ni giới Tây Tạng. Cuối cùng, sau 1000 năm, thời điểm giải phóng Ni chúng cũng đã đến rồi.

Đã nhiều năm trôi qua những hình tượng của Tenzin Palmo người phụ nữ Tây Phương đầu tiên xuất gia, và ẩn cư 12 năm trong động tuyết Hy Mã Lạp Sơn, vẫn đậm nét và mãi mãi là hình ảnh lý tưởng trong lòng Ni chúng và mọi người trên thế giới.

Tenzin Palmo sẽ mãi mãi là biểu tượng anh hùng, và ngọn đuốc dẫn đường cho phụ nữ trí thức khắp nơi, trên đường tìm về vùng đất tâm linh. Dự án của Tenzin, sau khi hoàn thành Ni viện, sẽ nhập thất trở lại ở một hang động, tuy nhiên, cô không thể trở về Lahoul được nữa.

Cô đã quá già để có thể chịu đựng khí hậu và hoàn cảnh khắc nghiệt vùng núi cao trên 13,000 bộ ở dãy Hy Mã lạp Sơn; cô cũng không còn có thể mang vác trên vai 15 ký vật dụng như cô đã làm ngày xưa nữa.

Tổ ấm trên núi của Tenzin giờ đã xa vời rồi, cô không thể tiếp tục được nữa; và từ ngày Tenzin xuất động vào năm 1988, cũng không có một ông tăng hay một ni cô nào dám lên đó ở nữa.

Căn động bị hư hỏng, cánh cửa và cửa sổ đã tháo gỡ ra và mang xuống phố để dùng trong tu viện khác, và những hòn đá cũng theo gió cuốn bay về nơi chốn cũ. Quang cảnh căn động của Tenzin trở nên hoang tàn, cô tịch.

Vài năm sau, căn động lại có sinh khí trở lại nhờ sự hiện diện của một ni cô người Đức, Edith Besh, đã tìm ra căn động của Tenzin và tu bổ trở lại. Edith làm thêm một căn phòng nhỏ, một góc bếp, và một nhà tắm bên ngoài. Mặt tiền của căn động cùng được sửa sang lại.

Nhưng Edith chỉ sống được có một năm trong động thôi. Bệnh ung thư của cô đã đến thời kỳ cuối cùng, và cô đã chết ở tu viện phía dưới thung lũng vào năm 43 tuổi.

Những cư dân Lahoul đã nói rằng Edith khi mới tới Lahoul thì lên cơn sốt thật cao, nhưng sau 12 tháng sống ở động thất thì đã có phần bớt vật vả vì bệnh, và sau đó cô đã chết trong yên ổn thoải mái. Một lần nữa, động thất đã chứng tỏ có sự mầu nhiệm xảy ra.

Tenzin tâm sự là nơi nhập thất sau nầy của cô có thể sẽ là một căn nhà tranh nhỏ tại một nơi rất thanh tịnh, nhưng cũng không quá hẻo lánh hoang sơ. Có thể là một góc nhỏ trên mảnh đất của một vị thí chủ nào đó để không gặp khó khăn mỗi khi cần dùng vật liệu hay di chuyển. Nơi nhập thất đó có thể ở bất cứ nơi đâu nhưng chắc chắn không phải là Anh quốc.

- "Tôi vẫn không cảm thấy Anh quốc là quê hương, là tổ ấm của tôi. Tôi luôn luôn nghĩ là tổ ấm của tôi là phương Đông và tôi sẽ chết ở đó."

Quê hương tâm linh của Tenzin đã được định hướng rõ rệt, và cô cũng chỉ có một mục tiêu duy nhất, "Chứng đắc Quả vị Giải Thoát trong hình tướng người nữ."



Dịch giả : Thích Nữ Minh Tâm



#219 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 30/06/2011 - 11:09

MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ

VÀ MÔNG CỔ



MỤC LỤC TỔNG QUÁT

MẤY LỜI ĐẦU

Phần thứ nhất: CUỘC VÂN DU CỦA MỘT BÀ ĐẠO NHÂN

1. Vị sư kỳ lạ

2. Cây linh thiêng của đức Tsong-Khapa

3. Mấy vị thượng tọa tái sanh

4. Một gương nghị lực

5. Phép chạy đường trường

6. Phép chuyển lửa trong mình

7. Phép chuyển di tư tưởng

8. Tu thiền

PHẦN THỨ HAI: MỘT NGƯỜI PHÁP LÀM THẦY TU

9. Một người Pháp làm thầy tu Tây Tạng

10. Tại chùa Chumi-Jadsa

11. Thỉnh chư thần hộ trợ

12. Đến Lhassa, gặp thần tiên tri

13. Vị sư làm sấm sét

14. Buổi mật nghị

15. Trên đường tu luyện

16. Nơi miền an lạc

Phần thứ ba: MỘT TU SĨ Ở MÔNG CỔ

17. Một vị sư chiến sĩ

#220 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 30/06/2011 - 11:14

MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ

MẤY LỜI ĐẦU

Sách này được phân làm ba phần:

Phần thứ nhất, từ mục thứ nhất đến mục thứ chín, là những điều trông thấy của bà Alexandra David Neel trong thời gian bà du hành bên xứ Tây Tạng.

Phần thứ hai, từ mục thứ mười cho đến mục thứ mười bảy, ghi lại những cuộc khảo sát và nghiên cứu của ông Jean Marquès Rivière, một người Pháp có đến Tây Tạng và thọ giới xuất gia, tu trì trong các ngôi chùa lớn bên ấy. Riêng về ông J. M. Rivière, sẽ được đề cập đến trong mục thứ mười.

Phần thứ ba, trích dịch trong quyển “Từ Súc sinh, Nhân loại đến Thánh thần” của ông Ferdinand Ossendowski, một nhà mạo hiểm người Ba-lan đã từng đến Mông Cổ và Tây Tạng. Ông này được một vị thượng tọa chùa Na-ra-băn-si, là người được tôn sùng như một vị Phật sống thời nay, ban cho một chiếc nhẫn quý.

Nhờ vậy, nên khi đi qua các nơi trong xứ Mông Cổ và Tây Tạng, ông thường được người ta ủng hộ một cách nhiệt thành. Nhất là giới tăng sĩ ở các chùa luôn đón tiếp ông như một người đã đắc Đạo đi truyền Pháp. Nhờ vậy mà ông được biết lắm điều huyền bí trong chốn cửa Thiền.

Ở đây, xin nói qua về bà Alexandra David Neel. Bà là một nhà tu người Pháp. Có kẻ nói bà là người Mỹ, song theo lời tự nhận của chính bà, thì bà là người Pháp. Vì ham mộ giáo lý đạo Phật nên bà đã từng đặt chân đến nhiều nơi có những ngôi chùa xưa và tham học với nhiều vị danh tăng. Bà đã viếng khắp cõi Thiên Trúc, có làm lễ ở những nơi thờ dấu tích và tro tàn xá-lợi của đức Phật.

Bà cũng có đến nước Nhật, dự nhiều buổi lễ trang nghiêm trong các chùa lớn do các vị lão tăng chủ trì. Bà có sang Trung Hoa, từng sống cuộc đời thanh tĩnh giữa chư tăng trong một số ngôi chùa cổ ở Bắc Kinh. Đặc biệt là bà có viếng qua khắp những miền linh thiêng trong xứ Tây Tạng, nương náu trong vòng mười bốn năm ở các đỉnh núi tuyết, gần gũi với các vị danh tăng đạo cao đức cả.

Chính bà có quen thân với đức Ban-thiền Lạt-ma, một trong các vị đứng đầu hàng tăng sĩ Tây Tạng mà khắp xứ đều tôn trọng và xem như là hóa thân của đức Phật A-di-đà. Bà là người tận tâm với Phật Pháp, đã từ bỏ nếp sống phong lưu, quý phái mà chịu nhọc nhằn sống đến các nơi hẻo lánh để cầu Đạo, cho nên bà biết nhiều chuyện tích rất hay.

Tuy chính phủ Tây Tạng vẫn cấm người da trắng vào xứ này, song bà được chính giới tăng sĩ giúp đỡ nên bước đường tu niệm và nghiên cứu của bà đều được dễ dàng hơn. Bà có soạn nhiều quyển sách giá trị về Phật giáo và về phong tục xứ Tây Tạng. Có thể kể ra đây một số như là:

– Những cuộc thuyết pháp của các vị Lạt-ma

– Cuộc du hành của một người phụ nữ Paris đến Lhassa( )

– Pháp thuật vì ái tình và tà thuật – Những phong tục xứ Tây Tạng mà rất ít người biết đến

– Vị Lạt-ma đắc ngũ thông

– Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây Tạng( )

Phần thứ nhất trong sách này có chín mục, được soạn từ nơi quyển “Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây Tạng” vừa kể trên. Quý độc giả có lòng muốn tu học, nên xem qua cho biết sự tu luyện khó nhọc, cam go của các vị tăng sĩ trên vùng cao núi tuyết. Quý ngài sẽ thấy nhiều sự linh diệu, ly kỳ và nhiều phép huyền vi của các vị tu hành chân chính.

Soạn dịch và cho ra đời quyển sách này, tôi mong muốn là sẽ góp được một phần nào phổ biến rộng thêm giáo lý nhà Phật, khuyến khích những ai còn nghi ngờ trở nên tin chắc, giúp cho các vị cư sĩ tu tại gia đem lòng tín phục mà công nhận rằng: tinh thần được trau luyện kỹ thì trở nên mạnh mẽ vô ngần, và cầu cho các bậc xuất gia càng dũng mãnh mà tiến tới trên đường đức hạnh và giải thoát.

#221 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 30/06/2011 - 11:18

MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ

Phần thứ nhất: CUỘC VÂN DU CỦA MỘT BÀ ĐẠO NHÂN

1. Vị sư kỳ lạ: Theo lời tự thuật của bà A. DAVID NEEL

Năm ấy tình hình chính trị trong xứ có những biến động nghiêm trọng nên đức vua Tây Tạng ngự giá ra khỏi xứ. Ngài đến đóng trại nơi biên thùy trong cõi Thiên Trúc. Thật là cơ hội rất may cho tôi để bệ kiến ngài và cầu ngài giải đáp những điều tôi muốn biết về đạo Phật ở Tây Tạng.

Những người ngoại quốc được phép đến chầu ngài thật ít lắm. Tuy ngài đi tỵ nạn, nhưng cũng không để cho một người đàn bà ngoại quốc nào đến gần long thể. Thật ra, trong hàng phụ nữ ngoại quốc, duy có mình tôi được bệ kiến ngài thôi.

Một buổi sáng mát mẻ mùa xuân, tôi từ giã thành Darjeling để đến thành Kalimpong, chính là nơi đang dừng binh hạ trại của đức vua.

Trong khi ngựa bước gập ghềnh theo sườn non, tôi những tưởng cuộc du hành của mình chắc cũng chẳng lâu lắm, và vẫn nghĩ rằng sẽ đến phỏng vấn đức vua rồi thôi, chẳng ngờ đâu cơ hội ấy hóa ra lại là một dịp may đưa tôi đi khắp các nơi trong nước Tây Tạng.

Sau khi gặp vua, lòng tôi bỗng sinh ra vô cùng ngưỡng mộ giáo lý đạo Phật đang lưu hành trong xứ Tây Tạng, thành ra cuộc hành trình của tôi kéo dài ra hơn mười năm.

Khi gặp vua, ngài có nói với tôi một câu rằng: "Bà nên học tiếng Tây Tạng." Câu nói của Ngài càng làm tôi thêm hừng chí. Lúc đầu, khi mới ra đi, tôi nhớ tới lời ấy mãi, và tôi bỗng có ý tưởng ngộ nghĩnh rằng, dường như Ngài là một người trông thấy có kẻ đi vòng ngoài rào toan tính vào nhà mình, bèn chỉ ngõ cho kẻ ấy biết để mà vào cho nhanh.

Quả thật, lời nói ấy cũng như Ngài muốn chỉ cho tôi cách thức để đi vào xứ sở nghiêm cấm của Ngài, để gặp được những cao tăng danh đức, để thọ giáo với những bậc tu hành đắc đạo ở toàn xứ Tây Tạng, và nhất là ở kinh thành Lhassa.

Tại Kalimpong, đức vua ngự trong một cảnh biệt thự rộng lớn của vị đại thần ở triều vua xứ Bhoutan. Từ con đường chính đi vào đến hành cung, hai bên đường đều có dựng những cây phướn có câu chân ngôn "Án ma ni bát di hồng" và một số cây phướn có hình con ngựa bay với những câu linh phù.

Theo chầu quanh vua có cả trăm người, hết thảy đều có dáng vẻ ung dung, tự tại. Và lúc nào cũng có quan khách cùng đi với những người hầu cận đến để xin bệ kiến đức vua tại hành cung.

Trước hôm từ giã ngài, tôi có chứng kiến một cuộc thủ hộ do ngài ban phép lành cho cả ngàn người. Sự thủ hộ của vua Dalai-Lama có khác với nghi lễ ban phép lành của đức Giáo hoàng ở thành La Mã. Đức Giáo Hoàng thường ban phép chung cho nhiều người, có khi là cả ngàn người một lượt. Còn ở Tây Tạng, đức vua ban phép lành riêng cho từng người.

Đối với những người theo chi phái Lạt-ma giáo của đạo Phật ở Tây Tạng, có ba cách thủ hộ, theo mức độ khác nhau. Cách thứ nhất là lấy hai bàn tay mà sờ lên đầu người thọ phép, tức là cách thủ hộ vinh dự và cao diệu hơn hết. Cách thứ hai là lấy một bàn tay mà sờ đầu, hoặc có khi dùng hai ngón tay, thậm chí một ngón tay mà sờ lên đầu người thọ phép, cũng đều là cách thủ hộ có tánh cách trân trọng.

Cách thủ hộ thứ ba là cách thông thường nhất và thường được áp dụng rộng rãi nhất cho mọi người, là dùng cây phất trần có những mảnh lụa khác màu buộc vào nơi cán mà gõ nhẹ lên đầu người thọ phép.

Người đạo Phật ở Tây Tạng tin rằng việc làm phép thủ hộ tức là truyền sự thanh tịnh, trong sạch của chư Phật xuống đến người ban phép thủ hộ, và cũng truyền sức huyền diệu của phép thủ hộ qua cho người thọ phép, cho nên các vị mới cần phải lấy tay mà sờ vào đầu người thọ phép.

Những người có thiện tâm hành cước đến thành Kalimpong để thọ lễ thủ hộ của vua thật là đông đảo vô cùng. Điều ấy cho thấy rằng dân chúng vẫn sùng bái Ngài nhiều lắm. Người ta lần lượt kéo nhau đi ngang dưới ngai rồng giờ này qua giờ kia không dứt.

Chẳng những người đạo Phật gốc xứ Tây Tạng thọ phép thủ hộ mà thôi, mà người các đạo khác ở xứ Bengale cũng đến để chờ được sự ban phép lành của đức vua. Chính mắt tôi thấy có nhiều người, ban đầu chỉ định đến xem cho biết, nhưng rồi sau cùng như chịu một sức hấp dẫn huyền vi nào đó, thúc giục họ đến nhập bọn mà thọ phép thủ hộ.

Trong khi nhìn quang cảnh ấy, tôi để ý thấy từ xa có một người ngồi dưới đất, tóc rối, quấn tròn theo kiểu những vị tu khổ hạnh bên Thiên Trúc. Nhưng người ấy dáng vẻ không phải là người Thiên Trúc. Người che thân bằng một cái áo của hàng sa-môn Lạt-ma giáo, vẻ như đã rách nát tự lâu đời, và có để một cái túi vải bên mình.

Ông thầy tu ấy ngồi nhìn mọi người với một vẻ rất khinh miệt. Thấy vậy, tôi mới gọi Dawasandup là vị sư đang làm thông ngôn cho tôi và chỉ cho thầy xem. Thầy Dawasandup đáp rằng: "Chắc là một vị sư huyền bí Naldjorpa đi lữ hành." Thấy tôi tò mò muốn biết thêm, thầy liền đến hỏi chuyện với vị sư ấy.

Khi trở lại, thầy có vẻ nghiêm nghị mà nói rằng: "Ngài là một vị sư Lạt-ma gốc ở xứ Bhoutan, thường đi khắp đó đây. Khi thì ngài ở chỗ này, khi thì ở chỗ khác, có khi ở trong động đá, có lúc ở trong mấy cảnh nhà bỏ hoang, hay ở dưới cội cây trong rừng. Ngài ghé lại đây ít hôm và ngụ trong một ngôi chùa nhỏ gần đây.

Tôi chú ý ngay đến vị sư này và định bụng sẽ đến cảnh chùa ấy mà viếng ngài. Tôi lấy làm lạ khi thấy ngài có vẻ như khinh thường đối với nhà vua và những người có thiện tâm đến để thọ phép thủ hộ. Tôi nghĩ, chắc là có lý do gì đây.

Tôi mang ý kiến ấy mà bàn với thầy Dawasandup. Thầy cũng thuận tình đi theo tôi. Chúng tôi lên ngựa cùng đi. Chẳng bao lâu thì đến một ngôi chùa, trông giống như một tòa nhà rộng lớn ở miền quê. Vị sư đang ở trong chánh điện, ngồi trên một chiếc gối đặt trước một cái bàn thấp. Ngài đang thọ trai có vẻ như vừa xong.

Thấy chúng tôi vào, vị sư trụ trì đem gối đến lót mời chúng tôi ngồi và bưng nước trà đến tiếp đãi. Tôi chưa tiện nói chuyện với vị sư lữ hành, vì thấy ngài vẫn còn đang nhai cơm trong miệng. Chúng tôi chào ngài một cách có lễ phép, song ngài chỉ đáp lại bằng một tiếng "hự" trong cổ họng mà thôi.

Tôi đang tìm lời để mở đầu câu chuyện thì ngài bỗng cười lên mà thốt ra ít lời. Thầy thông ngôn cho tôi có vẻ lấy làm khó chịu. Tôi liền hỏi:

- Ngài dạy điều chi vậy?

Thầy đáp:

– Xin lỗi bà. Mấy vị sư này thường hay dùng những lời không mấy thanh nhã. Không biết tôi có nên dịch ra cho bà nghe hay chăng...

Tôi đáp ngay:

– Thầy nên cứ tự nhiên. Tôi đi đây là để ghi nhận những điều tai nghe mắt thấy, lại càng muốn nghe những điều có tính cách đặc biệt.

– Xin lỗi bà vậy ... Ngài nói rằng: "Con mẹ ngu ấy đến đây mà làm gì?"

Tôi nghe xong vẫn không lấy làm lạ, và thật cũng không có lòng hờn giận chi cả. Bên Thiên Trúc tôi cũng biết rằng mấy vị sư khổ hạnh vẫn hay giả vờ chửi mắng những ai đến cầu Đạo với mình.

Tôi nói với thầy thông ngôn rằng:

– Nhờ thầy thưa lại thế này: "Tôi viếng ngài để hỏi xem tại sao ngài ra vẻ khinh miệt những người đến để thọ phép lành của đức vua."

Vị sư ấy liền đáp bằng một giọng ậm ừ trong miệng rằng:

– Toàn là hạng người tự cao. Họ cứ tưởng rằng việc làm của họ là hệ trọng lắm... Ấy chẳng qua là giòi trong cứt đó thôi.

Cuộc đối đáp đến đây thật đã có chiều ngộ nghĩnh. Tôi liền thưa hỏi rằng:

– Thế còn ngài, xin hỏi ngài có ra khỏi đống phẫn uế ấy không?

Ngài cười, tiếng nghe rổn rảng:

– Hễ càng lánh xa thì càng chui đầu sâu vào hơn nữa. Bần tăng đây lăn nhào vào đó như con heo, tiêu hóa nó ra, chuyển cho nó thành cát vàng, thành suối nước trong. Ấy cũng như lấy cứt chó mà làm thành những ngôi sao. Như vậy mới là công phu hành đạo.

Ngài cố ý lấy những từ chỉ vật ô uế mà làm tỷ dụ. Ấy phải chăng cũng là một cách nói chuyện của hạng người thoát tục!

Tôi lại thưa rằng:

– Những người có tín tâm ấy, nhân dịp có đức vua ngự hành đến mà cầu ngài ban cho phép lành, ấy chẳng phải là một điều chính đáng sao? Họ là hạng người chất phát chẳng biết xem kinh đọc sách, chẳng hiểu triết lý thuần lạc, nên đành nương cậy ở sự ban phước của nhà vua.

Ngài ngắt lời tôi mà nói rằng:

– Bà nên biết, muốn cho một cuộc thủ hộ có hiệu quả, thì người ban phép phải có một mãnh lực để truyền ra. Người có mãnh lực ấy thiếu gì cách dùng đến nó. Nếu đức vua hẳn có cái mãnh lực ấy, ngài có cần chi quân lính để chống cự với binh Trung Hoa hoặc những bọn phản nghịch nào khác?

Sao ngài không dùng nó mà đuổi giặc ra khỏi xứ Tây Tạng và bao bọc đất nước bằng một hàng rào vô hình mà chẳng ai có thể vượt qua? Đức vua Padmasambhva có được mãnh lực huyền bí ấy. Ngài đã về cảnh Cực Lạc rồi, nhưng hiện nay có ai thật tâm cần đến thì Ngài cũng còn truyền phép thủ hộ cho. Bần tăng tuy là kẻ học đạo tầm thường, song cũng...

Câu nói dứt ngang nửa chừng ấy như tỏ ra rằng ngài có đắc phép huyền bí nào đó. Vị thầy thông ngôn của tôi lấy làm khó chịu. Thầy rất kính mộ đức vua Dalai-Lama, song thầy cũng nể sợ vị sư lang thang này lắm.

Tôi định ra về. Nghe thầy trụ trì cho hay rằng vị sư ấy hôm sau sẽ ra đi, tôi bèn trao vài quan tiền cho thầy thông ngôn, nhờ đến cúng dường để ngài mua thức ăn đem theo đường. Ngài chẳng nhận, nói rằng đồ ăn còn rất nhiều, mang theo không hết. Thầy thông ngôn muốn nài ép, liền bước đến toan để tiền trên cái bàn thấp gần ngài.

Bất chợt, thầy bước chưa được ba bước thì liền lảo đảo, thối lui và chạm mạnh lưng vào vách, dường như bị ai đẩy mạnh lắm vậy. Khi ấy, thầy kêu to lên và lấy tay ôm bụng. Vị sư đứng dậy và bước ra khỏi phòng, vừa đi vừa cằn nhằn.

Thầy thông ngôn nói với tôi rằng:

– Tôi bị vị sư ấy dùng phép thần thông mà đánh rất đau. Chắc là ngài giận tôi. Không biết có bề gì không.

Tôi phải an ủi thầy và khuyên giải rằng vì thầy xây xẩm mà tự té đó thôi, chứ vị sư kia đâu có thấy đánh đập gì. Tuy vậy nhưng thầy vẫn chưa an lòng...

MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ

2. Cây linh thiêng của đức Tsong-Khapa

Ngôi chùa Koum-Boum nổi tiếng là nhờ một cây linh thiêng từ đời đức Tsong-Khapa. Tên chùa cũng do cây linh thiêng ấy mà ra.

Đức Tsong-Khapa ra đời năm 1355, tại làng Amdo về phía Đông Bắc xứ Tây Tạng, là nơi có ngôi chùa Koum-Boum bây giờ. Ngài là nhà cải cách đạo Phật ở Tây Tạng, đã sáng lập ra phái Gelougs-pas, tức là chi phái tu sĩ mũ vàng, áo vàng.

Khi ngài sanh ra, đức Lạt-ma Doubtchén Karma Dordji có tiên đoán rằng cuộc đời của ngài sẽ trở nên anh linh kỳ diệu lắm và người ta phải giữ cho tinh khiết vùng đất chỗ bà mẹ sanh ra ngài. Chẳng bao lâu, nơi ấy có một cái cây mọc lên. Người ta cho rằng cây ấy sanh ra là nhờ thọ lấy huyết bồn của bà mẹ đức Tsong-Khapa lúc ngài vừa ra đời.

Ban sơ, cấy ấy cũng bình thường, chẳng có chi khác lạ. Song, vì biết gốc tích kỳ lạ của nó, nên người ta có lòng tôn trọng. Có một vị sư bèn đến gần đó cất lên một cái am để ở mà tu niệm. Đó là chỗ khởi đầu của một ngôi chùa to lớn tráng lệ sau này.

Thời gian trôi qua, đức Tsong-Khapa lớn lên, tu hành đắc đạo, khởi sự thi hành cuộc cải cách về Phật giáo trong nước. Bấy giờ, bà mẹ vì xa cách lâu, nhớ con nên viết thư gọi ngài về. Đức Tsong-Khapa đang ở tại miền trung tâm xứ Tây Tạng. Ngài tham thiền nhập định, biết rằng dẫu về làng Amdo cũng chẳng có ích gì.

Ngài bèn viết thư cho mẹ. Trong khi đưa thư cho sứ giả, ngài cũng đưa cho hai bức chân dung của ngài, một bức để tặng bà mẹ và một bức tặng bà chị ngài. Ngài cũng gởi kèm theo một bức tượng của đức Bồ-tát Văn-thù và nhiều bức tượng của Bồ-tát Cambara mà người họa phép linh bên Tây Tạng đều có thờ phụng. Sứ giả về tới quê nhà, giao chân dung và tượng cho gia quyến ngài.

Cũng trong khi ấy, ngài đang ở xa, thế mà ngài chuyển phép thần thông làm cho hình đức Văn-thù và đức Cambara hiện ra rất rõ ràng trên mặt mỗi lá cây linh, đến nỗi chẳng họa sĩ nào có thể vẽ cho rõ hơn. Ngoài hình tượng của hai đức Bồ-tát, nơi cành cây và thân cây còn thấy hiện ra những câu linh chú Án ma ni bát di hồng.

Vì phép linh ấy hiển hiện ra, từ đó về sau người ta gọi ngôi chùa ấy là chùa Koum-Boum. Trước đây, trong một cuộc thám hiểm đến xứ Tây Tạng, có hai linh mục Thiên chúa giáo là Huc và Gabet có đến viếng thăm cây linh thiêng ấy. Hai người đều thấy được những dòng chữ Án ma ni bát di hồng hiện ra nơi cành lá và thân cây.

Cho đến gỡ đi một chút vỏ cây thì liền thấy hình tượng chữ trong vỏ non hiện ra, hoặc khi một lá non vừa nhú ra thì đã có tượng hình mấy chữ linh thiêng đó rồi.

Hiện nay người ta có xây cất một đỉnh tháp bề cao chừng mười lăm mét, bao quanh cây linh thiêng ấy. Người ta có chiết từ cây mẹ ra được một nhánh đem trồng trước cửa chùa, ngoài có hàng rào bao bọc. Dân chúng thường đến lễ bái và chiêm ngưỡng.

Người ta cũng trồng được một nhánh khác trong vườn hoa trước chùa. Cây này mọc lên mạnh mẽ, cao lớn hơn. Hai cây ấy hiện nay đều còn, lá cây và thân cây đều có những câu chú linh thiêng ấy. Mỗi khi có lá nào rụng thì các vị tăng nơi đây nhặt lấy để dành phân phát cho những vị hành cước từ phương xa đến.

#222 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 30/06/2011 - 11:22

MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ

3. Mấy vị thượng tọa tái sanh

Ở Tây Tạng, trong nhiều ngôi chùa lớn, người ta đều truyền rằng những vị thượng tọa sau khi chết có khả năng tái sanh trở lại để cầm quyền nơi ngôi chùa của mình như trước. Có một số ít vị được người ta gọi là Phật sống,( ) tuy đã tu hành đắc đạo song cũng còn tái sanh để hộ trì ngôi Tam bảo,( ) hoặc để thực hiện cho xong hạnh nguyện của mình.

Sau khi những vị Lạt-ma ấy thác đi, thì người ta liền tìm kiếm nơi họ tái sanh ra để mà thỉnh về chùa. Có khi các ngài đầu thai vào những gia đình ở cách chùa rất xa, chẳng tiện cho người ta tìm kiếm, rồi ngẫu nhiên một hôm thầy trò gặp nhau, cùng ôn lại những chuyện xưa cũ mà nhận ra nhau. Soạn giả dịch thuật dưới đây hai chuyện do bà Alexandra David Neel đã tận mắt chứng kiến.

Năm ấy tôi ở tại Koum-Boum, trong đền của đức Lạt-ma tái sanh tên là Pegvai. Gần đó có đền của đức Lạt-ma tái sanh khác tên là Agnai-Tsang. Vị này tịch đã bảy năm rồi, song người ta chưa tìm ra được nơi tái sanh của ngài.

Trong lúc ấy, viên tri sự xem ra không lấy gì làm buồn bã. Ông tự cai quản điền sản của vị thượng tọa đã mất và của mình đôi bên đều được thuận tiện. Cơ nghiệp của ông càng ngày càng mở mang phát đạt.

Một hôm, nhân việc giao dịch ông phải đi về một vùng quê xa xôi, bèn ghé lại một nhà nông dân xin nước uống và nghỉ chân. Trong khi bà chủ pha trà đãi khách, ông này lấy trong túi vải ra một bộ đồ hút nước bằng ngọc thạch.

Vừa kê miệng vào hút thì một đứa trẻ đang chơi gần đó bỗng chạy đến ngăn ông lại, đặt tay lên bộ đồ hút, vừa hỏi ông với giọng quở trách rằng:

– Sao lại dùng bộ đồ hút nước của ta?

Viên tri sự dường như bị sét đánh. Thật ra, bộ đồ hút nước quý báu ấy thật chẳng phải của ông. Ấy là của vị sư Agnai-Tsang đã qua đời. Không phải ông muốn chiếm đoạt, song sẵn có thì ông cứ lấy mà dùng hằng ngày. Lúc ấy, ông lính quính, run rẩy, còn đứa trẻ thì nhìn ông, gương mặt bỗng khác đi, trở nên nghiêm nghị, hờn giận và chẳng còn có vẻ chi là trẻ con nữa.

Cậu truyền lên rằng:

– Trả bộ đồ hút nước đây. Nó là của ta.

Viên tri sự lấy làm hối quá, sợ sệt, hổ ngươi, bèn quỳ mọp và lạy dưới chân ông thầy tái sanh của mình.

Ít hôm sau, tôi thấy người ta làm lễ long trọng mà thỉnh vị thượng tọa tái sanh trở về chùa. Ngài mặc một cái áo gấm màu vàng, cỡi một con ngựa ô rất đẹp, còn viên tri sự thì theo phò tá, nắm lấy dây cương. Khi cả đoàn vào tới đền, vị sư trẻ mới hỏi rằng:

– Sao lại rẽ qua tay trái mà vào cái sân thứ nhì? Ta nhớ cửa vào ở bên mặt mà.

Quả đúng thế! Sau khi vị thượng tọa qua đời, vì một nguyên do gì đó, người ta mới bít cái cửa bên mặt và mở một cửa khác bên trái để ra vào.

Mấy sư trong chùa thấy vậy càng lấy làm tin phục, biết rằng cậu bé ấy hẳn là chủ cũ của mình. Người ta thỉnh thượng tọa vào thất riêng của ngài và đem trà dâng lên.

Vị sư trẻ tuổi ngồi trên một chồng gối, nhìn một cái tô bằng ngọc thạch với dĩa bằng bạc mạ vàng có nắp bằng ngọc bích, để trên một cái bàn trước mặt ngài.

Sư dạy rằng:

– Hãy đem cái tô sứ cho ta.

Mọi người không ai biết. Ngài bèn tả cái tô sứ Trung Hoa và chỉ rõ hình vẽ trên tô ấy. Nhưng không ai thấy cái tô ấy bao giờ. Viên tri sự và chư tăng đều cung kính bạch rằng chẳng có cái tô ấy trong chùa.

Vị sư dạy thêm rằng:

– Các ngươi cứ tìm kỹ đi, rồi sẽ thấy.

Rồi như có một ánh sáng nào đó lóe lên trong trí, ngài nhớ ra và bảo đến tìm trong cái tủ sơn để trong một căn phòng, nơi người ta vẫn cất giữ những đồ vật ít dùng đến.

Chư tăng theo lời đi tìm gần nửa giờ thì mang lại cái tô với dĩa và nắp, quả là để dưới đáy tủ mà ngài thượng tọa đã chỉ.

Viên tri sự bèn thưa rằng:

– Tôi có ngờ cái tô để ở đó đâu. Chính tự tay ngài cất, chúng tôi đâu biết. Vì trong phòng ấy chỉ để những thứ tầm thường mà thôi.

Tôi cũng có chứng kiến việc cuộc tìm ra một vị thượng tọa tái sanh khác nữa. Câu chuyện rất ly kỳ. Việc này xảy ra trong một quán trọ ở vùng quê, thuộc vùng sa mạc Gobi.

Trên con đường diệu vợi từ Mông Cổ( ) chạy dài xuống Tây Tạng, có nhiều đường tẻ chật chội và hiểm trở, cho nên khách lữ hành phải đi từng đoàn trên lưng lạc đà.

Một hôm, lúc mặt trời gần lặn, tôi vừa đi đến một quán nhỏ. Tôi hơi thất vọng khi thấy trong quán đã choán đầy một đoàn lữ khách. Những người ấy coi bộ xôn xao, dường như có việc chi hệ trọng vừa mới xảy ra. Tuy vậy, với sự nhã nhặn thường lệ của họ, và thấy Yong-đen( ) với tôi đều mặc y phục của các vị Lạt-ma, nên họ vui lòng nhường cho bọn tôi một phòng trong quán và một cái tàu cho mấy con thú của chúng tôi.

Tôi với Yong-đen đang đứng nhìn mấy con lạc đà nằm trong sân, bỗng thấy một cái cửa phòng mở ra. Một thiếu niên dáng người cao ráo, gương mặt thanh nhã, vận y phục nghèo nàn theo lối Tây Tạng, đến đứng nơi cạnh cửa và hỏi chúng tôi có phải là người Tây Tạng chăng.

Chúng tôi đáp phải, cũng trong lúc ấy, một vị Lạt-ma lớn tuổi, theo cách trang phục thì chúng tôi đoán ra là chủ đoàn, ra đứng phía sau thiếu niên ấy và cũng hỏi thăm chúng tôi bằng tiếng Tây Tạng.

Trong những dịp gặp gỡ như vậy, đôi bên hỏi thăm quê quán, ở đâu đến và đi về đâu là chuyện thường.

Vị Lạt-ma ấy từ bên Mông Cổ đi qua, tuy đang là mùa đông lạnh lẽo, nhưng ngài cũng nhất định hành cước đến kinh đô Lhassa. Song bây giờ đi nữa cũng vô ích, nên ngài sắp trở về. Bon tùy tùng của ngài nghe vậy đều có vẻ hài lòng. Tôi lấy làm lạ về sự thay đổi trong cuộc hành trình của họ. Đã toan hỏi thăm vị Lạt-ma, song thấy ngài lui gót vào phòng nên tôi không tiện đi theo.

Tuy vậy, tối lại họ có hỏi thăm bọn của chúng tôi về việc làm, rồi đến mời chúng tôi sang uống trà. Nhờ vậy, tôi mới biết rõ mọi việc. Người thiếu niên thanh nhã ban chiều ấy tên là Migyur, gốc người ở tỉnh Ngari xa xôi, thuộc miền Tây Bắc xứ Tây Tạng. Dường như chàng có thuật Nhãn thông.

Từ thuở bé thơ, chàng đã từng thấy ra rằng xứ sở nơi chàng sanh trưởng không phải là xứ sở thật của mình. Đối với làng mạc, đối với gia tộc, chàng như người xa lạ... Trong giấc ngũ, chàng thường trãi qua những phong cảnh mà chàng không thấy ở tỉnh Ngari: những quảng đồng thanh vắng với cát trắng xóa bát ngát bao la, những trại bằng nĩ giăng tròn và xa trên ngọn đồi, lố dạng một ngôi chùa.

Có khi trong lúc thức, những hình ảnh ấy cũng hiện lại cho chàng, chất chồng trên những nhân vật thật chung quanh mình, làm cho những nhân vật này lu mờ đi, và làm cho chàng mãi mãi thấy một cảnh bào ảnh quanh mình. Đến năm mười bốn tuổi, chàng cất mình ra đi, vì không chịu nổi với sự muốn biết sự thật của những hình ảnh hiện ra trước mắt.

Từ đó, ra thân phiêu bạt, làm thuê chỗ này, xin ăn chỗ kia mà sống lang thang qua ngày. Trong thời gian ấy, chàng cứ xao xuyến mãi, không ở yên được chỗ nào, cứ lần bước đi mãi theo sự tưởng tượng của mình. Vừa rồi, chàng ở phía Bắc đồng cỏ Aric mà đi đến đây.

Theo lệ thường, chàng cứ đi tới mãi, đi mà không biết mình sẽ đi đâu. Vừa tới cái quán trọ nhỏ, trước tôi chừng vài giờ. Thấy đoàn lạc đà trong sân, chàng bước vào và đi ngay lại cửa, chẳng biết mình đi vào đó để làm gì. Kế gặp vị lão sư Lạt-ma... Và thật bất ngờ, nhanh như làn chớp, chàng nhớ ra những việc đời trước của mình.

Vị sư Lạt-ma tuy già, song chàng xem như hàng tuổi nhỏ, đệ tử của mình. Còn chàng thì tự thấy mình chính là vị Lạt-ma lớn tuổi, chủ trì trong chùa. Chàng nhắc rằng, một thuở nọ, cũng trên con đường này, hai người đồng đi hành hương đến các nơi thánh địa ở Tây Tạng và trở về ngôi chùa cao ẩn trên đồi non.

Chàng nhắc những việc ấy với vị Lạt-ma chủ đoàn một cách rõ ràng, chi tiết. Và chàng cũng nhắc đến những sự tỉ mỉ hằng ngày hồi hai người còn ở trên chùa.

Vị lão sư lấy làm bằng lòng. Mục đích ngài đến kinh đô Lhassa là để cầu đức vua chỉ cho tìm vị Lạt-ma tái sanh của chùa mình. Bây giờ tìm được rồi thì đi Lhassa có ích gì? Vậy nên đoàn lữ hành sắp trở về, trở về với vị thượng tọa tái sanh, sau hai mươi năm cách biệt.

Chắc đây rồi thế nào họ cũng làm lễ tạ ơn đức Phật sống Đạt-lai Lạt-ma.( ) Vị họ nghĩ rằng nhờ có sức ủng hộ của ngài nên mới khiến cho thầy trò gặp nhau, chứ từ lâu họ đã lắm công dò hỏi, song hạc nội mây ngàn, hồ dễ tìm đâu cho thấy!

Cũng xin nói thêm với bạn đọc rằng, khi tìm được và nhìn nhận rồi, họ còn phải thử nữa; sau khi ấy họ mới nhất quyết. Cách thử thông thường là thế này. Vị lão sư lấy trong hành lý ra nhiều món đồ. Trong những đồ đó, có ít món là của riêng của vị Lạt-ma qua đời và hồi còn sanh tiền ngài rất thích dùng. Bấy giờ, thiếu niên phải lựa món đồ của mình. Lựa trúng thì hẳn là vị thượng tọa tái sanh, không còn nghi ngờ gì nữa.

Hôm còn ở nán lại trong quán, tôi thấy đoàn lữ hành ra đi theo nhịp chân chầm chậm của lũ lạc đà và mất dạng vào phía chân trời nơi đồng cát trắng Gobi vắng lặng. Đây rồi vị Lạt-ma tái sanh sẽ sống một cuộc đời kỳ diệu nơi ngôi chùa mà ngài đã từng cai quản từ lâu...

MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ

4. Một gương nghị lực

Sư Karma Dordji vốn xuất thân là con nhà hàn vi hạ tiện. Từ thuở bé, ông đã được cha mẹ gởi vào tu học trong một ngôi chùa. Song những bạn đồng tu thuộc giai cấp cao hơn thường hay khinh miệt ông.

Khi lớn lên, những sự khinh miệt ấy cũng thay đổi tính cách, không chỉ lời nói của họ mới làm ông đau đớn, mà cử chỉ, hành vi cho đến cách lặng thinh của họ cũng đủ làm cho ông hiểu rằng họ vẫn khinh ông là thuộc giai cấp thấp hèn.

Karma Dordji là một nhà sư tự trọng và rất có nghị lực, cương quyết. Từ lúc còn trẻ, ông đã tự nguyện rằng sẽ lướt lên cao hơn bọn quý phái đã khinh chê mình.

Ở vào thân thế và hoàn cảnh của ông, chỉ có một phương tiện để đạt mục đích thôi: ông phải trở nên một nhà tu huyền bí, một bậc pháp sư có phép thần thông, có thuật chế ngự và sai khiến quỷ thần. Thấy phép linh của ông, bọn xấc xược mới khiếp sợ và kính nể, rồi ông sẽ hài lòng. Như vậy là ông báo thù đó.

Với những ý nghĩ ấy, ông đến ra mắt thượng tọa trong chùa và cầu xin vắng mặt một độ hai năm để vào sơn lâm ngồi tịnh.

Một nhà sư thỉnh cầu như vậy thì lúc nào cũng được như ý. Ông bèn lên núi, chọn một chỗ phải thế, gần suối nước và cất lên một cái cốc.( ) Liền đó, theo gương mấy vị tu khổ hạnh đắc phép nội công chuyển lửa trong mình, ông bỏ hết y phục và để tóc ra dài. Lâu lâu, một hai vị sư ở chùa mới đem thức ăn lên, thấy ông ngồi bất động, mình trần giữa mùa đông nhập trong cơn thiền định.

Người ta đã khởi sự nói chuyện với ông rồi. Song ông cho rằng chưa đạt chí nguyện của mình. Ông hiểu ra rằng ngồi thiền nơi chỗ thanh tịnh và tu mình trần như vậy chưa đủ làm cho người ta hoàn toàn kính phục. Vì vậy, ông xuống núi mà về chùa.

Lần này, ông cầu đức thượng tọa cho ông ra khỏi xứ mà tìm thầy dắt dẫn.( ) Ông cũng được toại lòng.

Ông tìm mãi, song chưa gặp được bậc pháp sư đáng cho ông tín nhiệm. Ông bèn định dùng đến phương pháp huyền vi. Ông vốn tin nơi chư quỷ thần hộ trợ Phật Pháp, lại sẵn biết thuật tạo ra vòng phép,( ) ông liền xuống một trũng núi, lấy đá sắp thành vòng tròn, làm phép tự hộ trợ và ngồi vào vòng. Ông bắt ấn niệm chú cầu chư quỷ thần Hộ pháp đưa ông đi tìm thầy.

Ngồi đến đêm thứ bảy, bỗng có một tiếng nổ vang dội rất lớn. Dòng nước chảy dưới trũng vùng nổi lên. Một cái vòi nước bắt từ trên núi tuôn xuống rất mạnh. Vòi nước ấy tràn ngập nơi eo núi chỗ ông ngồi và rồi cuốn ông đi cùng với cái vòng phép và đồ vật dụng của ông.

Lăn từ hòn đá này qua hòn đá nọ, song may mắn lạ kỳ, ông không chết chìm và không bị thương tích chi cả, lại được đưa xuống một chỗ thung lũng bát ngát mênh mông. Sáng ra, thấy trước mặt có một cảnh am tự ẩn sau vách đá, trên sườn non.

Am tự với vách vôi, dưới bóng trời ban mai, xem ra sáng hực, ửng hồng. Nhà sư thoát chết dường như thấy có những luồng hào quang phóng ngay vào trán mình. Bèn tưởng quyết rằng: ở trên đó, thế nào cũng có bậc tôn sư mà mình đang mong cầu.

Trong việc này, âu cũng là một sự đưa đường dẫn lối của chư quỷ thần đây. Nghĩ vậy, ông mạnh dạn bước chân lên am, chẳng thiết nghĩ đến đồ ăn, quần áo và vật dụng đều đã lạc mất đi tự lúc nào.

Vừa đến nơi, ông gặp một đệ tử của vị sư ẩn cư đi xuống múc nước. Thấy dị nhân xuất hiện trước mặt mình, vị đệ tử hoảng kinh và đánh rơi cái chậu đang xách nơi tay.

Phong thổ ở miền Tây Tạng núi non thật là lạnh lẽo gay go, không mấy ai dám để mình trần. Họa chăng một vài vị tu hành huyền bí lánh mình nơi động đá trong chốn non xa, lâu lâu mới xuất hiện ra, nên ai thấy mà không kinh sợ?

Ngài Karma Dordji liền hỏi:

– Ai ở trên am này?

– Thầy tôi, là đức Lạt-ma Tobsgyais.

Không cần hỏi thêm chi nữa, vì ông đã biết trước rồi, chư quỷ thần hộ pháp thật đã đưa ông đến gặp tôn sư. Ông bèn nói một cách cao kỳ rằng:

– Xin phiền sư huynh lên bạch với đức Lạt-ma rằng: chư vị hộ pháp có đưa đến một người đệ tử.

Người đệ tử ấy sửng sốt, chạy một mạch lên báo với thầy. Đức Lạt-ma cho vào.

Ông lạy ra mắt thầy, cầu xin làm đệ tử, vì chư thần hộ pháp đã đưa ông đến tận chân thầy.

Đức Lạt-ma là một nhà sư có văn học. Ông nội ngài là một viên quan Trung Hoa lấy vợ Tây Tạng. Theo bên nội, nên ngài vẫn tin theo một ý tưởng rằng: tu hành thì tốt thật, song khó mong thành Phật hoàn toàn.

Có lẽ ngài chỉ muốn ẩn nơi đồng vắng để thỏa chí thích của hàng tao nhân mặc khách và rỗi rãi mà xem kinh tìm nghĩa đó thôi. Cho nên trong thời kỳ ngụ tại am, không mấy khi Karma Dordji gặp mặt ngài.

Địa thế nơi am cũng phù hợp với ý nói trong kinh: không quá gần làng mà cũng không quá xa làng. Đứng nơi cửa sổ mà nhìn xuống, nhà sư ẩn dật thấy một thung lũng bát ngát và vắng vẻ. Am ở về phía sườn non bên này, còn dưới sườn non bên kia là một thôn xóm, băng đường núi đi chừng nữa ngày thì tới.

Chốn nhàn cư thật đơn giản, thanh bai, song có một kho tàng kinh sách rất là đầy đủ. Vài bức tranh treo tường cho thấy rằng sư cụ chẳng phải ở kẻ nghèo hèn và không có khiếu thẩm mỹ. Trong cuộc gặp gỡ đôi bên, hẳn là hai lối cực đoan: một người thì phong nhã thanh tao, còn người kia thì cao lớn dềnh dàng, tóc dài chấm gót và chẳng có một mảnh vải che thân.

Sư cụ lặng nghe Karma Dordji thuật lại từ việc tạo ra vòng phép cho đến việc dòng nước cuốn mình đến tận chân thầy. Ông không quên nói rằng được dịp may mắn này là nhờ có chư quỷ thần hộ pháp tiếp tay. Đức Lạt-ma chỉ đáp rằng từ nơi động đá Dordji đến chốn am mây của ngài hẳn là xa xôi lắm. Rồi ngài hỏi tại sao để mình trần mà đi.

Ông đáp rằng có học phép nội công chuyển hỏa theo thánh Hérouka( ) và có ngồi tịnh hai năm nơi sơn lâm, chẳng mặc áo quần chi hết.

Đức Lạt-ma nhìn ông giây lát, kế đến gọi một đệ tử, dạy rằng:

– Đưa gã này ra sau, cho ngồi gần lửa và đem nước trà thật nóng mà cho uống. Và đi tìm một cái áo cũ bằng lông chiên cho gã mặc. Dù sao, gã cũng đã chịu lạnh trong mấy năm nay.

Dạy xong, ngài bảo lui. Được mặc áo lông, ông lấy làm vui, tuy rằng cái áo rất cũ. Kế đó, được hơ lửa và uống trà nóng, ông thấy dễ chịu hơn sau một đem trôi dạt. Tuy vậy, được no ấm rồi mà ông lại có ý buồn, vì đức Lạt-ma chẳng tiếp mình đặc biệt theo như một đệ tử do quỷ thần hộ pháp đưa đến.

Chờ mãi chẳng thấy gọi, dường như thầy quên hẳn ông rồi. Có lẽ ngài đã dặn người ta nên đối với ông cho tử tế, nên ông được ăn uống đầy đủ và cho ngồi chỗ ấm áp gần lò lửa.

Hết ngày này đến ngày kia, ông mãi chờ đợi rất khó chịu. Tuy ở trong cảnh ấm áp, no đủ nơi nhà sau, ông nôn nao thấy như ở chốn ngục tù. Ông cũng muốn được làm lụng, như đi lấy nước hoặc nhặt củi, song các vị đệ tử của thầy chẳng cho. Họ nói rằng: “Thầy không bảo sư huynh làm chi cả, thầy chỉ dặn sư huynh hơ lửa cho ấm và ăn cho no mà thôi.”

Ăn không ngồi rồi mãi, ông sanh hổ thẹn. Mấy lúc đầu, ông có nhờ một đôi vị đệ tử đến nhắc với thầy. Song ai cũng từ chối, nói rằng nếu thầy có cần đến thì sẽ cho gọi. Về sau, ông không dám nhờ ai nữa.

Tuy vậy, thỉnh thoảng thấy dạng đức Lạt-ma ra ngồi nơi bao lơn hóng mát, hoặc nghe tiếng ngài giảng giải kinh nghĩa với đệ tử, hoặc nói chuyện với khách đến viếng thăm, thì ông cũng đỡ lòng sầu. Ngoài những khoảnh khắc tươi đẹp ấy, ông lại chìm vào những giờ dai dẳng, tối tăm. Ông cứ ôn lại trong trí sự việc đã đưa đẩy mình đến am mây này.

Như vậy được chừng hơn một năm, ông sống trong cảnh buồn thảm. Ông cầu sao cho trưởng lão thử lòng ông, bắt ông làm những chuyện khó nhọc nặng nề, còn hơn là bỏ quên ông, để ông chịu bề tủi hổ. Cho đến có khi ông ngờ rằng trưởng lão vốn đắc phép thần thông, thấu rằng ông gốc con nhà bần tiện, nên cho ông nương náu là may lắm rồi.

Tư tưởng này ám ảnh mãi trong trí ông, làm cho ông đau đớn. Song, lại nghĩ đến sự huyền diệu đã đưa ông tới được am mây mà gặp thầy, ông quyết định không tìm đi đâu khác nữa. Tuy vậy mà đôi khi ý tưởng quyên sinh cũng lảng vảng trong đầu ông.

Đang khi tột cùng chán nản, bỗng một hôm có người cháu của trưởng lão đến thăm. Người này là một bậc thượng tọa tái sanh, có nhiều vị sư theo hầu. Mặc y phục bằng gấm vàng rực rỡ và cũng đội mũ vàng, kẻ tùy tùng rầm rộ theo hầu. Ông này dừng chân nơi cánh đồng, phía dưới am. Rồi người ta dựng lên mấy cái trại xinh đẹp.

Đức trưởng lão sai người đem xuống một bình trà lớn bằng bạc. Uống trà xong, vị sư thượng tọa lên am mà thăm chú. Trong mấy ngày sau, thấy ông mặt mũi kỳ dị, choàng áo lông chiên cũ và để tóc dài chí gót, sư thượng tọa bèn kêu lại và hỏi thăm tại sao ông ngồi mãi gần lò lửa.

Cho rằng dịp này âu cũng có chư thần xui khiến, ông bèn đem việc mình mà thuật lại từ đầu chí đuôi: nào khi nhập định trong rừng, nào lúc tạo ra vòng phép, kế bị nước cuốn và đưa đến chân núi, rồi thấy có hào quang từ trên am phóng xuống trán mình. Ông không quên nói rằng đức Lạt-ma chẳng đoái tưởng tới mình trên một năm nay và ông cầu sư thượng tọa thưa lại giùm.

Ông sư cũng điềm đạm như chú mình, nghe xong lặng thinh. Kế nhìn Karma Dordji với vẻ ngạc nhiên, sư hỏi ông muốn đức Lạt-ma dạy về khoa nào. Thấy có người chú ý đến công việc mình, ông được vững lòng. Bèn nói rằng muốn đắc phép thần thông, muốn bay liệng trên không gian và làm cho quả đất rung rinh. Nhưng ông không nói rõ nguyên do sâu kín trong lòng mình.

Sư thượng tọa lấy làm thích mà nghe những lời ấy và hứa sẽ thưa lại giúp. Kế đó, trong khoảng hai tuần lễ ở nơi am, lại không hề thấy ông ngó ngàng gì tới Karma Dordji nữa. Sư Thượng tọa từ tạ chú và xuống núi. Dưới cánh đồng, mấy sư tùy tùng đang chờ.

Đứng nơi cửa am trông xuống, thấy mấy sư thủ hạ kềm cương mấy con ngựa đẹp có phủ nỉ đỏ và vàng, yên và đồ bắt kế khảm bạc chói rỡ dưới ánh trời hồng ban mai. Karma Dordji lặng nhìn cảnh tượng ấy, nghĩ rằng sư thượng tọa quên thưa giúp chuyện mình với đức Lạt-ma. Bây giờ ông ấy ra đi, mối hy vọng đành trôi theo dòng nước.

Ông sắp sửa chào sư thượng tọa. Vừa lúc ấy, sư nói vắn tắt rằng:

– Hãy theo tôi.

Karma Dordji lấy làm lạ. Sư chưa hề cậy mượn ông việc gì, nay lại muốn chi đây? Vả lại, trại và hành lý thì đã có kẻ tùy tùng thâu xếp và đoàn thú đã chở đi hồi tảng sáng rồi. Hay là ông mượn đem món chi lên giao lại cho trưởng lão chớ gì?

Đến chân núi, sư quay lại nói:

– Tôi có thưa với trưởng lão về việc ông muốn đắc phép thần thông. Trưởng lão dạy rằng ở đây không có bộ kinh ấy cho ông học. Bên chùa tôi thì có. Trưởng lão dạy tôi rước ông về bên ấy đặng tu học. Có sẵn một con ngựa cho ông đây. Vậy ông lên yên đi với mấy sư tùy tùng của tôi.

Nói xong, sư trở lưng đi theo chư tăng trọng chức đặng lên đường. Ai nấy đồng xây về phía am, nghiêng mình chào trưởng lão Tobsgyais một cách cung kính rồi lên yên cho ngựa ra đi.

Karma Dordji ngồi cứng đơ, lấy làm bất ngờ. Một viên tùy tùng đặt dây cương vào tay cho ông. Ngồi trên yên, ông cứ để cho ngựa chạy, và vì quá thình lình nên ông không nhớ những sự vừa mới xảy ra.

Về đến chùa, ông ở và ăn chung với mấy sư tùy tùng ấy, không thấy sư thượng tọa kêu gọi mình. Chùa không mấy tráng lệ, song ở xa trông thật nghiêm chỉnh, và đến nơi thấy cuộc bài trí rất đoan trang.

Được bốn ngày, một vị sư đến cho ông hay rằng sư thượng tọa có phái người đem để nơi tịnh thất( ) bộ kinh mà Trưởng lão Tobsgyais dặn ông theo đó tu hành. Vị sư ấy nói thêm rằng trong thời kỳ ông nhập thất, dưới chùa sẽ thường phái người đem đồ ăn lên cho ông dùng.

Ông đi theo vị sư ấy khỏi chùa chẳng xa, gặp một cái nhà nhỏ, địa thế xinh lịch. Đứng nơi cửa sổ trông xuống, thấy mấy đảnh nóc vàng rực của ngôi chùa, và trông xa xa, thoáng thấy một thung lũng cây cối bao giăng chung quanh, chạy dài từ trên tới dưới.

Phía trong thất có một cái bàn thờ nhỏ. Gần đó có một cái kệ nhiều ngăn chất chừng ba mươi quyển kinh to lớn, bao rất kỷ, có dây buộc ràng và ngoài có bìa là hai bản cây chạm chặn lại.

Ông lấy làm hài lòng và vui thích mà thấy người ta khởi sự đối đãi với mình có bề trọng hậu.

Trước khi từ giả ông, vị sư dẫn đường nói rằng sư thượng tọa cũng không buộc ông nhập thất một cách gắt gao. Ông tự tiện sắp đặt chương trình theo ý thích của mình. Ông có thể xuống suối gần đó mà múc nước hoặc đi dạo cho giải khuây. Và sư chỉ lương thực với củi chất sẵn trong thất, rồi quay gót ra về.

Ông bèn khởi sự học kinh. Ông học thuộc lòng rất nhiều câu chân ngôn, thần chú. Đọc đi đọc lại mãi và chờ chừng ra khỏi tịnh thất sẽ nhờ thầy dắt dẫn là sư Tobsgyais nghe xem ông đọc có đúng giọng hay không. Theo lời dặn trong kinh, ông tạo ra nhiều cái vòng phép và lấy bột với bơ làm ra nhiều cái bánh phép đủ cỡ.

Ông cũng y theo kinh mà ngồi thiền nhập định. Trong thời kỳ mười tám tháng, ông tu hành rất tinh tấn. Chỉ ra khỏi thất đặng đi múc nước thôi. Mỗi tháng, mấy sư dưới chùa đem lương thực lên hai lần. Song ông không hề nói chuyện với họ, cho đến không lại gần cửa sổ mà nhìn ra ngoài. Lần lần, có những tư tưởng mà ông chưa hề nhận biết thâm nhập nơi ông trong những khi thiền định.

Ông thấy ra rằng một vài câu kinh, năm ba bức họa có chứa những ý nghĩa khác thường. Ông đứng nơi cửa sổ, nhìn xem chư tăng đi đi lại lại. Sau cùng, ông ra khỏi thất, trải qua cảnh núi, lặng nhìn thật lâu những hòn đá, cánh hoa, xem mây bay trên trời, nước chảy dưới suối, bóng ác( ) lao xao.

Giờ này qua giờ kia, ông mãi ngồi, mắt nhìn xuống những hương thôn rải rác dưới đồi, ngắm những người nông phu làm lụng trong đồng, đoàn thú chở nặng qua lại trên đường và những bộ hành đi thong dong trên đồng cỏ.

Mỗi buổi chiều, sau khi khêu ngọn đèn chong trên bàn thờ, ông lại ngồi tham thiền. Song ông không còn dựa theo những lối chỉ vẽ trong kinh, không còn tưởng đến hình dáng của chư Phật Thánh và chư thần linh gì nữa cả.

Mãi tới khuya, có khi gần sáng, ông vẫn chìm sâu trong cơn thiền định im lìm, thân tâm chẳng động và không cảm giác chi hết, bấy giờ ông thấy mình dường như tựa trên bờ biển, trông xuống con nước trắng xóa đang lên, sắp tràn ngập và chụp lấy mình.

Tháng này qua tháng kia, bỗng một đêm, không nhớ là đêm nào, ông thấy thân mình nhấc lên khỏi chiếc gối đang ngồi. Ông vẫn giữ kiểu ngồi kiết già, lách mình qua cửa, bay lên không khí và lướt tới trên không gian. Ông về đến xứ sở, trước cảnh chùa hồi thuở bé. Nhằm lúc ban mai, mấy sư công phu xong vừa đi ra.

Ông nhìn biết rất nhiều người: đây là mấy vị chức phận, nọ là mấy sư tái sanh, kìa là những bạn bè xưa. Ai nấy đều có vẻ mệt mỏi, nhọc nhằn và buồn rầu, ông ngắm nhìn họ một cách thích ý. Ở trên mây trông xuống, thấy họ bé làm sao. Đây rồi ông đáp xuống, họ sẽ ngạc nhiên và kinh dị biết mấy. Chắc là họ sẽ quỳ mọp trước mặt ông, vì ông đã tu đắc phép thần thông.

Cái tư tưởng ấy làm cho ông mĩm cười thương xót. Trông lâu cũng chán, rồi ông định không hiện xuống. Cho họ thấy để mà làm gì? Ông bây giờ chỉ tưởng đến sự an lạc của mình thôi, sự an lạc nơi cảnh xán lạn và yên tịnh vô cùng.

Ông không còn thiết chi đến sự xét nghĩ, tôn trọng của họ, không màng chi đến lời mai mỉa của họ ngày xưa và càng không sá chi đến sự vui thích mà báo thù.

Chuyển mình trên hư không, ông sắp bay trở về...Bỗng mấy tòa nhà trong chùa rung rinh và phân rã ra. Mấy hòn núi gần đó đều xao động; cây đá lăn rớt xuống và có những hòn núi khác vượt lên. Mặt nhật lướt ngang qua không gian dường như ở đâu trên bầu trời sa xuống.

Kế một cái mặt nhật khác hiện ra ở không trung. Những hiện tượng ấy liên tiếp nhau một cách mau chóng, ông chỉ nhận ra như một nguồn nước hung tợn, mà bọt nước là tất cả nhân vật hiệp thành...

Về đến tịnh thất và nhìn quang cảnh chung quanh, thấy chẳng món nào thay đổi. Phòng thất với mấy chồng kinh trên kệ bàn thờ và lò lửa cũng y như hôm qua và từ ba năm nay. Ông đứng dậy và tựa cửa sổ trông ra. Kìa là ngôi chùa, dưới núi vẫn là cánh đồng chung quanh có cây cối bao giăng, tất cả đều y như cũ.

Chẳng có vật nào thay đổi, song trông ra đều khác hết. Ông rất bình tỉnh, đi lại nhóm lửa. Lửa cháy, ông cắt bỏ đầu tóc thầy tu khổ hạnh của mình và quăng vào. Kế đó, ông pha trà, ăn và uống một cách điềm nhiên. Rồi ông gom góp lương thực, quảy lên vai, đóng cửa tịnh thất và ra đi.

Tới chùa, ông đến tòa nhà của vị thượng tọa. Gặp một sư tùy phái trong sân, ông nhờ lên thưa với vị thượng tọa rằng ông xin giã từ và cám ơn ngài thượng tọa đã ra công chu cấp bấy lâu. Rồi ông cất bước. Được một khoảng đường, nghe có người kêu lại. Một vị sư trẻ tuổi, con nhà quý phái, có họ hàng với thượng tọa, chạy theo sau và nói rằng:

– Đức thượng tọa có việc hỏi thăm ông.

Ông bèn quay gót trở lại, Sư Lạt-ma tái sanh hỏi ông một cách cung kính rằng:

– Ông đi đâu?

– Tôi đi tạ ơn đức Thầy dắt dẫn.

Sư thượng tọa nín lặng một chặp, kế đáp giọng buồn bã rằng:

– Chú tôi đã tịch trên sáu tháng rồi.

Karma Dordji lặng thinh.

– Như ông muốn đến am của chú tôi, tôi sẽ tặng một con ngựa cho ông cỡi, gọi là lễ vật giã từ. Có một vị đệ tử của chú tôi ở nơi am, ông đến đó thì gặp.

Ông cám ơn, song không nhận lãnh chi hết. Ít hôm sau, ông thấy cảnh am, nơi ấy buổi xưa dường như có mấy lằn hào quang phóng ngay trán mình. Ông vào phòng thầy, nơi ông đặt bước vào chỉ có một lần hồi mới đến. Ông quỳ trước linh tọa rất lâu, nơi ấy lúc trước đức Lạt-ma thường ngồi. Ông thức trọn đêm mà tham thiền.

Sáng lại, ông giã từ sư trụ trì. Sư này trao ra một bộ cà-sa, nói rằng của đức Lạt-ma trối lại dặn giao cho ông chừng ông ra khỏi tịnh thất.( )

Từ đó về sau, sư Karma Dordji sống đời vô định như các vị hiền thánh thoát trần. Ông đi lang thang, khi chỗ này, lúc chỗ kia, khuyên giải người này, cứu độ kẻ khác và không an trụ chốn nào. Chính tôi( ) có gặp ông được mấy lần. Bấy giờ ông đã cao niên, song vẫn thích cuộc đời phiêu lưu nhàn tản. Và chính ông đã thuật lại cho tôi nghe cái tiểu sử tu hành kiên trì và nhẫn nại của ông.

#223 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 30/06/2011 - 11:25

MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ

5. Phép chạy đường trường

Bên Tây Tạng có một hạng tu sĩ học phép nội công chạy đường trường,( ) người ta gọi mấy vị ấy là Loung-gom-pa. Mấy sư này chạy nhanh vô cùng, có thể chạy một hơi mấy trăm cây số không cần ngừng nghỉ và ăn uống chi cả.

Chính thánh Milarespa( ) có tự nhận thế này: Sau khi luyện phép nội công ấy, trong vài ngày ông trải qua một con đường mà trước kia ông phải đi trên một tháng. Ông bảo rằng nhờ biết cách đưa hơi thở vào trong nên mới được cái thuật ấy.

Tôi( ) có biết một vài vị sư Loung-gom-pa. Tuy rằng có nhiều vị học phép chạy đường trường này, song thành tựu đến nơi đến chốn thì không mấy người.

Lần đầu, tôi gặp một sư Loung-gom-pa ở cánh đồng cỏ phía Bắc xứ Tây Tạng.

Hôm ấy, nhằm buổi xế chiều, chúng tôi cỡi ngựa đi lững thững trên một khoảng đồng rộng. Tôi vừa nhìn ra xa, chếch về bên trái, thấy có một chấm đen nhỏ. Đặt ống dòm vào, tôi biết là một người.

Tôi rất lấy làm lạ. Ở miền này không hay gặp ai, chúng tôi đi đã mười bữa mà chẳng nhìn thấy một người nào. Vả lại, trên khoảng đồng vắng bao la này, có ai một mình đi bộ thì cũng lạ thật.

Một kẻ tùy tùng của tôi nghi rằng người ấy có lẽ cùng đi với một đoàn khách thương, chẳng may bị bọn cướp chặn đánh nên lạc đoàn. Vì chạy cho thoát chết nên mới một mình bơ vơ trên đồng vắng.

Lời nói ấy, ngẫm cũng có lý. Nếu hẳn thật như vậy, tôi sẽ đưa người đến một dãy trại của kẻ chăn chiên hay một xóm nào theo đường mà gởi gắm người, rồi người muốn đi về đâu thì đi. Tôi lấy ống dòm mà xem nữa, thấy người lướt tới một cách lạ lùng và mau lẹ vô cùng.

Mấy kẻ tùy tùng của tôi lấy mắt không mà nhìn nên chỉ thấy một chấm đen lay động trên cỏ mà thôi. Song một lát sau, họ cũng nhận ra rằng cái chấm ấy lướt tới mau lạ thường. Tôi trao ống dòm cho họ. Xem đâu được ít phút, một người nói nhỏ rằng: Chắc là một ông sư Loung-gom-pa.

Nghe mấy tiếng Loung-gom-pa, tôi bỗng lấy làm thích. Tôi đã từng nghe nói về mấy ông sư ấy chứ chưa được thấy tận mắt. Dịp may này nay xảy đến cho tôi chăng?

Người ấy càng đến gần và rõ ràng lướt tới một cách mau lẹ. Nếu hẳn là một vị sư Loung-gom-pa thì tôi phải làm sao? Tôi muốn nhìn người tận mặt, nói chuyện với người, hỏi thăm người và luôn tiện chụp ảnh người. Tôi muốn rất nhiều việc. Nhưng vừa nghe tôi nói mấy điều ấy, người tùy tùng khi nãy nhận ra sư Loung-gom-pa liền nói rằng:

– Bạch sư bà! Sư bà đừng có chặn đường ông sư ấy, đừng có nói chuyện với ông ấy. Làm như vậy, ông ấy có thể phải chết mất. Những vị sư Lạt-ma ấy, trong khi phi hành không được ngưng sự thiền định của mình. Các vị chẳng ngớt niệm chân ngôn và có thâu vào mình sức linh của một đức Phật hộ trì. Nếu đức linh ấy thình lình thoát ra, không thể tránh khỏi việc bị kích thích mạnh cho đến chết.

Lời dặn phòng ngừa ấy tuy mới nghe như quá đáng, nhưng thật có phần hữu lý. Theo tôi biết về thuật này, người đang chạy ở trong cơn nhập định, nếu thình lình bị ngăn đón, dẫu không đến nỗi chết thì cũng bị xúc động rất đau đớn về thần kinh. Tôi không biết cuộc xúc động này sẽ nguy hiểm đến đâu, song không nỡ đem một vị sư ra mà thí nghiệm, e sự rủi ro bất tường.

Lại còn một lẽ nữa cản không cho tôi thỏa tánh hiếu kỳ. Người Tây Tạng đều công nhận tôi là một sư bà, họ biết tôi theo đạo Phật, song họ không biết phân biệt sở kiến về triết lý đạo Phật của tôi với đạo Phật Lạt-ma giáo.

Vậy muốn cho họ tin tưởng và kính phục bộ đồ nhà sư tôi đang mặc, tôi phải giữ theo phong tục Tây Tạng, nhất là phong tục của nhà thiền. Cho nên tôi đành gác lại một bên những sự nghiệm xét về khoa học, đành dẹp bỏ cái ý muốn phỏng vấn, chỉ lặng nhìn vị sư viễn khách dị kỳ ấy thôi.

Người còn cách chúng tôi chẳng bao xa. Tôi có thể trông rõ gương mặt tự nhiên không cảm xúc của người với cặp mắt mở rộng dường như nhìn chăm chú vào một chấm nào đâu đó ở trên hư không. Nhìn người ấy không phải đang chạy như bình thường, mà dường như băng mình lên khỏi đất trong khi bước tới và nhảy từng cái một, toàn thân dẻo và nhẹ như trái banh cao su.

Người mặc đồ nhà sư Tây Tạng, áo trong và áo choàng đều màu hơi sậm. Tay trái nắm lấy một vạt áo choàng và phân nửa ẩn vào trong áo. Tay mặt cầm một cái gươm phép.( ) Trong khi đi tới, người nhẹ nhẹ lung lay tay mặt cho ăn rập với bước chân, và người chống trên gươm như chống gậy, tuy là mũi gươm cao khỏi mặt đất rất xa.

Mấy kẻ tùy tùng của tôi thảy đều xuống ngựa và quỳ lạy sát đất trong khi ông sư đi qua. Nhưng ông cứ đường thẳng mà tiến tới, dường như không để ý đến chúng tôi. Còn tôi thì tưởng cho rằng không ngăn đón ông, tức là tôi kính trọng phong tục trong xứ nhiều rồi. Tôi khởi sự tiếc vì không được hầu chuyện cùng ông.

Định nhìn ông lâu hơn, tôi bèn kêu bọn tùy tùng lên ngựa cho mau đặng chạy theo, tuy ông đi đã xa. Chúng tôi không muốn theo kịp ông, chúng tôi cũng không muốn cách xa ông. Nhờ có ống dòm, con tôi và tôi vẫn thấy ông rất rõ.

Chúng tôi không còn thấy mặt ông nữa, song có thể nhìn bước chân nhẹ nhàng của ông nối nhau một cách đều đặn lạ lùng, đều như tiếng tích tắc đồng hồ. Chúng tôi đi theo trên một đoạn đường độ chừng ba cây số ngàn, kế ông bỏ đường mòn, chạy dài theo một triền núi và lẫn khuất vào trong mấy trái núi.

Ngựa theo không được nữa, chúng tôi thôi nhìn và quay đầu trở lại, đi theo hướng cũ. Tôi đoán rằng ông sư biết chúng tôi theo sau, nên tách qua đường khó đặng chúng tôi theo không được nữa.

Bốn ngày sau, vào buổi sáng, chúng tôi đến miền Thébgyai, nơi đây có nhiều trại của kẻ chăn chiên nằm cách nhau xa xa. Chúng tôi thuật với họ rằng chúng tôi có gặp một ông sư chạy bộ trên con đường mòn đưa vào đồng cỏ của họ. Vài kẻ chăn có thấy ông ấy năm bữa trước, lúc chạng vạng tối, trong khi họ lùa chiên về.

Tôi độ ra biết rằng mấy sư Loung-gom-pa có thể chạy luôn cả đêm lẫn ngày, chạy một mực không ngừng nghỉ trong nhiều hôm. Thật lạ, thật tài, người bình thường không thể nào làm như vậy được.

Lần thứ nhì, tôi gặp một sư Loung-gom-pa ở xứ sở của những phường dân độc lập, gần phía tây tỉnh Tứ Xuyên,( ) Trung Quốc. Chúng tôi đang đi trong rừng, đến một ngả quanh, con nuôi tôi và tôi đang đi bộ trước đoàn tùy tùng bỗng thấy một người ở trần có quấn xiềng sắt khắp mình.

Người ấy ngồi trên một hòn đá và dường như trầm ngâm trong cơn thiền định, cho nên không nghe chúng tôi đến. Chúng tôi lấy làm lạ, bèn dừng chân lại. Nhưng có cái dấu hiệu chi báo cho người ấy biết rằng có chúng tôi đến. Người ấy quay đầu lại thấy chúng tôi, lẹ làng đứng dậy, và phóng vào rừng rậm mất dạng. Trong một lát, chúng tôi chỉ còn nghe tiếng dây xiềng sắt khua nhỏ dần, rồi im bặt.

Yongden, con nuôi của tôi nói rằng: “Ấy là một vị sư Loung-gom-pa. Con có thấy một số vị như vậy. Các vị quấn xiềng cho nặng thêm, vì phép nội công làm cho thân hình nhẹ đi, sợ e bay trên không mà chạy chẳng tiện.”

Chính mắt tôi có lần đã thấy một vị sư dùng phép nội công mà chạy đến giáp mặt chúng tôi. Chừng gặp rồi, ông đứng yên một lát, mắt hãy còn ngó ngay tới trước. Xem ông không mệt, song nửa tỉnh nửa mê và không nói năng, hành động chi được. Lần lần ông ra khỏi cơn thiền định, bấy giờ mới bình tĩnh lại như thường.

Đáp lại mấy câu hỏi của tôi, ông nói rằng ông học phép nội công chạy đường trường do thầy ông ở gần chùa Pabong truyền dạy. Thầy ông không còn ở trong xứ nên ông tính qua Chalu mà học thêm.

Thầy ông có dạy rằng những lúc tảng sáng, chạng vạng( ) và những đêm trong trẻo rất tiện lợi cho nhà sư chạy đường trường. Thầy ông cũng có dặn rằng, trong khi luyện phép ấy, hãy nhìn chăm chú vào một ngôi sao trên trời.

Tôi khó mà hỏi thêm nữa, vì ông cũng như mấy thầy tu huyền bí khác, phải giữ kín những khoa mật ẩn mà mình đã thọ truyền. Song tôi có thăm nhiều vị sư về phép nội công chạy bộ, nên cũng góp nhặt được đại lược đôi điều, tôi đều ghi ra dưới đây:

Muốn học môn này, cũng như mấy môn khác, trước hết phải chịu lễ điểm đạo truyền Pháp.( ) Kế đó, nhờ có thầy dắt dẫn, phải luyện tập phương pháp hô hấp trong nhiều năm. Tới chừng có sự tiến bộ mới khởi sự chạy đường trường. Chừng ấy, tôn sư điểm đạo truyền Pháp cho một lần nữa và dạy niệm một câu chân ngôn.

Vị đệ tử phải định tâm mà niệm thuộc lòng câu chân ngôn ấy trong trí mình, niệm cho ăn nhịp với hơi thở trong khi chạy bộ và cũng niệm cho những chữ trong câu chân ngôn ăn nhịp với bước chân mình.

Trong khi chạy chẳng được nói, chẳng được tưởng đến việc chi khác, chẳng được ngó bên này bên kia. Cặp mắt phải nhìn một vật nào ở xa, về phía trước, không được chú ý đến vật gì khác.

Nhập định rồi, tuy tâm thức bị chặn lại, nhưng cũng còn đủ sức để dắt mình tránh khỏi những chỗ chướng ngại và đưa mình đi theo đúng hướng. Hai việc ấy được thi hành một cách tự nhiên không cần suy nghĩ. Những khoảng đồng trống, những nơi bằng phẳng, cùng là những lúc hừng đông hay trời chạng vạng, đều là những cảnh ngộ rất thuận tiện cho cuộc chạy đường trường.

Có khi trọn cả ngày chạy xa, sức mệt, song vào lúc mặt trời lặn thì nhập định lại cũng rất dễ dàng. Bấy giờ hết thấy mệt, nhà sư có thể chạy thêm hàng trăm cây số nữa. Lúc rạng sáng chạy cũng tốt, song không bằng buổi hoàng hôn. Còn giữa trưa, xế qua, với những nơi sủng thấp, quanh quẹo, những chỗ cây cối, gập ghềnh, thật rất trở ngại cho người luyện phép chạy bộ. Duy có những vị thật tài giỏi mới lướt qua được những cảnh ấy mà thôi.

Về đêm, những đêm trong trẻo rất dễ luyện tập, nhất là những đêm có sao. Chư vị tôn sư thường bảo đệ tử nên nhìn mãi một ngôi sao trong khi chạy đường trường. Có nhiều đệ tử đang chạy, không thấy ngôi sao, hoặc vì lặn mất, hoặc ẩn phía sau núi, liền ngừng lại ngay. Có những vị khác, mặc dầu sao đã mất, song cũng dùng tư tưởng mà tạo ra một ngôi sao trong mắt, nên chạy như thường.

Một ít vị lại nói rằng hễ luyện tập trong nhiều năm, chừng mình chạy được một quãng xa, bấy giờ hai bàn chân hết chấm đất, mình như lướt tới trên không gian một cách mau lẹ vô cùng. Ở trong cảnh ấy, nhà sư đi giờ này đến giờ kia chẳng biết mệt mỏi chút nào, lại thấy mình vui thích, sung sướng là khác.

#224 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 30/06/2011 - 11:28

MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ

6. Phép chuyển lửa trong mình

Giữa mùa đông, một mình ngồi trong động đá, cao hơn mặt biển bốn năm ngàn thước, mà mặc có một cái áo mỏng che thân, hoặc ở trần, thế mà không hề gì, nghĩ cũng lạ thật.

Giá như người thường thì đã chết cóng còn chi. Thế mà mấy vị sư khổ hạnh và huyền bí bên Tây Tạng ngồi một cách tự nhiên ngày này qua ngày kia. Ấy là nhờ các vị biết phép chuyển lửa trong mình, tức là lửa tam-muội.( )

Lửa tam-muội hay là hỏa hậu có nhiều thứ và sự linh diệu của nó khác nhau tùy theo trình độ của người tu. Một vị sư có khi đang ở trong cơn thiền định thì lửa ấy tỏa ra và bao phủ quanh mình làm cho êm dịu, ấm áp như mặc áo tiên.

Thường thường, các vị tu hành trên núi tuyết, nhờ biết dẫn lửa tam-muội nên chẳng thấy lạnh lẽo. Mấy vị sư bí truyền cũng nhờ lửa tam-muội mà lấy làm dễ chịu nơi thân, dường như được hưởng các điều lạc thú ở cảnh tiên vậy. Theo mật giáo, lửa tam-muội cũng là một sự nóng.

Nó giữ cho ấm áp cái tinh ba, nó dắt dẫn cái sức mạnh trong thân trải qua nhiều đường gân mà lên đến đỉnh đầu. Như vậy, nó làm cho người tu cực kỳ khoái lạc về trí tuệ và tinh thần. Và chính nhờ dưỡng được lửa tam-muội nên mấy thầy tu huyền bí mới đắc nhiều phép thần thông.

Tuy nhiên, vì là một phương pháp bí truyền nên phải có thầy dắt dẫn, chứ nghe theo lời nói hoặc coi theo sách mà luyện thì đã không thành lại có khi nguy hại cho tánh mạng là khác. Phải tu tập cho lâu, phải luyện nhiều phương pháp hô hấp, phải ngồi thiền nhập định cho vững chắc, rồi mới mong học phép chuyển lửa tam-muội.

Vị sư truyền giáo cũng phải là một bậc giỏi phép tam-muội, phải trân trọng dò xem tánh tình của đệ tử, và sau khi xét nết thử ý nhiều phen mới nhận dìu dắt cho. Muốn học phép tam-muội phải có thân thể cường tráng và bộ ngực nở nang, những ai phổi yếu thì rất nguy hại.

Được diểm đạo truyền Pháp rồi, vị đệ tử bèn bỏ áo lông và không được gần lửa. Theo thầy và luyện tập một thời gian, sau đó lên ngồi thiền nơi am thanh động vắng chốn non cao, từ bốn ngàn mét trở lên.( )

Không được luyện phép chuyển lửa nơi nhà cửa xóm làng, vì ở mấy nơi ấy không khí hòa với khói nấu ăn, với nhiều mùi tạp nhạp nên không được tốt, lại có nhiều nguyên nhân khác không hợp với người học đạo đang cần chỗ thanh tịnh.

Chọn được chỗ phải thế rồi, người tu chẳng được gặp mặt ai khác hơn là thầy mình. Thỉnh thoảng, ông thầy đến thăm chừng, cho biết sự tiến bộ của đệ tử và nhắc chừng cho. Mỗi ngày nên luyện tập trong khoảng trời còn khuya cho đến lúc mặt trời sắp mọc. Dầu cho lạnh thế nào cũng phải ở trần hoặc mặc một cái áo mỏng mà thôi.

Mấy vị mới tập thì ngồi trên một tấm thảm hay một tấm ván. Còn những vị tu lâu ngồi ngay trên mặt đất, trên tuyết hay trên mặt nước đóng băng dưới sông. Trong khi luyện phải để bụng trống và không được uống nước, nhất là nước nóng.

Có hai cách ngồi. Hoặc ngồi theo kiểu kết già xếp chân, hoặc ngồi thòng chân xuống, hay bàn tay úp trên hai đầu gối, ngón cái, ngón trỏ, và ngón út đưa ra: ngón giữa và ngón áp út thâu vào lòng bàn tay. Vừa khi ngồi hô hấp đặng cho thông hơi hai lỗ mũi.

Kế đó, thở ra vừa tưởng tượng rằng mình tống ra những tánh trược như tham, sân si, ngạo mạn, giải đãi và ngu muội. Rồi khi hít vào, tưởng tượng rằng mình đem vào những điều thanh lành như sức hộ trợ của chư Thánh chư Phật, Bồ-đề tâm, các nền đạo hạnh, Bát-nhã ba-la-mật-đa, cùng với những sự tốt tươi, cao thượng trong vũ trụ.

Định tâm một lúc, bèn bỏ ra tất cả những sự lo lắng tư lự và khởi sự nhập vào thiền định.( ) Mình tưởng tượng rằng trong thân mình, nơi lỗ rún, có một hoa sen bằng vàng. Trong hoa sen, có một cái mặt trời hiện ra rất sáng suốt, tức là chữ đọc ra thành âm ram.( ) Phía trên nữa có chữ đọc ra thành âm ma.

Trong chữ này, thấy hiện ra đức Phật bà Dordji-Naldjorma. Hễ tưởng tượng thấy Phật bà Dordji-Naldjorma hiện ra khỏi chữ ma thì nhập định làm một với bà. Kế đó, định tâm vào chữ A nơi rún và chữ ha nơi đỉnh đầu.( ) Từ từ hít hơi vào rất sâu, hơi ấy thổi cho cháy cục than lửa đang vùi dưới tro.

Than lửa ấy ở trong chữ A nơi rún, nó hình tròn và cỡ bằng một liều thuốc. Mỗi khi hít hơi vào mình thấy như đem hơi vào bụng chỗ rún đặng quạt cho lửa cháy lên. Và mỗi lần hít dài hơi là mỗi lần mình giữ hơi trong bụng khá lâu. Càng hít thì giữ càng lâu. Mình tưởng tượng thấy lửa cháy và lần theo đường gân Ouma( ) mà lên đến giữa thân mình.

Trong khi hít hơi vào, giữ hơi lại và thở hơi ra phải làm rất đều, lại nương theo một câu chân ngôn niệm mãi không dứt. Và trong tâm thì thấy lửa và nghe hơi nóng, ngoài ra không được tưởng đến hình dáng chi khác.

Trọn thời kỳ nhập định chuyển lửa phân ra làm mười giai đoạn:

1. Mình tưởng tượng và thấy rằng đường gân chánh là gân Ouma cỡ bằng sợi chỉ hoặc sợi tóc. Lửa theo đường gân ấy mà lần lên và hơi mình hít vào cũng đi theo đường gân ấy nữa.

2. Đường gân lớn bằng ngón tay nhỏ.

3. Đường gân lớn bằng cánh tay.

4. Đường gân choán trọn thân mình. Bấy giờ toàn thân như là một cái ống mà phía trong là lửa.

5. Kế đó không thấy thân mình nữa. Cái thân lớn ra vô cùng, nó bao phủ khắp hoàn cầu và người tu ở trong cảnh tam-muội thấy mình như một ngọn lửa có gió thổi, ngọn lửa ấy ở trong một đám lửa mênh mông.

Từ giai đoạn thứ nhất đến giai đoạn thứ năm, phải ngồi ít nhất là một giờ. Những bậc đã rèn luyện cao siêu thì ngồi lâu hơn, vì rất thích để tâm trọn vẹn vào trong sự tham thiền theo từng giai đoạn.

Kế đó, người tu tham thiền tưởng tượng ngược lại.

6. Đám lửa mênh mông ấy với cơn gió lớn hạ lần. Những ngọn lửa dịu bớt và thấp dần. Đám lửa rút lại và thâu vào trong thân.

7. Đường gân bây giờ còn bằng cánh tay.

8. Đường gân còn bằng ngón tay nhỏ.

9. Đường gân còn bằng sợi tóc.

10. Đường gân biến mất. Người tu không thấy lửa nữa. Tâm trí không còn nhận ra hình dáng chi khác, không còn tưởng tượng chi nữa. Người tu vào cõi hư vô, không thấy mình, không thấy vật. Giai đoạn nhập định này lâu hay mau là tùy sức của người tu.

Trong khi nhập định chuyển lửa, ai muốn luyện đủ mười giai đoạn càng hay, hoặc trải qua năm giai đoạn cũng được. Trong ngày lúc nào nhập định cũng được, nhất là những khi thấy lạnh. Song tiện hơn hết là lúc gần sáng.

Thánh Milarespa, có một lúc về mùa đông bị tuyết chận nghẹt trên miền Hy-mã-lạp sơn, nơi đỉnh Everest, cao hơn các núi trong hoàn cầu. Ngồi trong động, phần thì bị lạnh, phần thì không đủ thức ăn, song ngài nhờ nhập định phép chuyển lửa tam-muội nên ở yên cho đến mùa xuân. Trải qua lần ấy, ngài có làm một bài thơ mà toàn xứ Tây Tạng đều khen ngợi. Soạn giả trích và dịch bằng lục bát một đoạn dưới đây:

Chán mùi trần tục, thế tình,

Tìm nơi yên tĩnh non xanh dưỡng nhàn.

Đất trời như có tính toan,

Tạo nên giông tố phá an lão thầy.

Thủy, phong hội với đoàn mây,

Làm cho nhật, nguyệt chẳng bày lố ra.

Mưa tuôn, gió lại thổi nà,

Các vị tinh tú chẳng là thấy đâu.

Bầu trời tăm tối âu sầu,

Sa mù bao phủ, khó hầu sáng ra.

Ngày đêm chín bữa tuyết sa,

Cuộc to, cuộc nhỏ thấy đà khắp nơi.

Tuyết bay như thể chim trời,

Rớt lăn trên đá, lại rơi trên cành,

Trông ra bốn phía bao quanh,

Trên thì đỉnh núi, dưới cành cây thông.

Non rừng trắng xóa mênh mông,

Khác nào vách nọ thảy đồng quét vôi.

Dưới ao hôm đó sóng nhồi,

Nay toàn giá lạnh, hết hồi lô nhô!

Bên khe nước bích chảy ồ,

Bây giờ đông đặc, chảy phô thấy nào.

Đất bằng, sủng thấp, đồi cao,

Khác nào đồng rộng giăng bao ngàn trùng.

Người người kẹt chốn thôn trung,

Thú thì bị đói, chim rừng nhịn ăn;

Chuột kia ẩn dưới đất bằng,

Trên toàn giá phủ, khôn phăng lên đường.








Nhằm khi thời cuộc nguy nan,

Tuyết tuôn xối xả, lại vương bão bùng.

Bần tăng áo mỏng che thân,

Ngồi thiền trên núi đấu cùng nạn nguy.



Trên mình tuyết đổ chẳng thôi,

Tuông nhằm lại hóa ra ngòi chảy đi.( )

Gió đông chẳng có nể chi,

Thổi nà vào tấm áo thầy bằng bông.



May ra có chứa lửa hồng,

Nhà sư phấn đấu, cũng không hề gì.

Rồi ra trổi thắng một khi,

Lửa thiền đủ sức tống đi lạnh lùng.



Hỡi người đạo hữu các vùng,

Khi nào bị lạnh thì dùng lửa linh.



Tuy đức Milarespa đứng về phương diện thi nhân mà tả cảnh, song vẫn là hiển nhiên như vậy. Mấy sư ẩn cư trên núi tuyết, gặp phải mùa đông, lớp bị lạnh, lớp không đủ đồ ăn, đành ngồi nhập định phép chuyển lửa tam-muội cho qua cơn nguy!

Bên Tây Tạng, mấy vị đệ tử luyện phép tam-muội xong, thường tựu lại để khảo thí. Một đêm mùa đông có trăng và gió thổi lớn, những vị nào thấy mình đủ sức thì đi với tôn sư đến mé sông không có giá. Nếu trên mặt sông nước đóng băng hết, người ta bèn xoi một cái lỗ cho thủng xuống.

Mấy vị đệ tử ngồi xuống đất, xếp chân theo kiểu kết già và chẳng mặc y phục. Người ta thòng nhiều tấm nỉ dưới nước đóng băng, để chờ đông lại mới lấy lên. Rồi mỗi vị đắp tấm nỉ lên mình cho nước đá tan ra và để cho đến khô.

Chờ cho nỉ khô người ta lại thòng xuống sông nữa và mỗi vị đệ tử đắp lên mình nữa. Như vậy cho đến rạng đông. Vị nào làm khô nhiều tấm nỉ hơn hết, thì đứng bậc nhất trong cuộc khảo thí. Có vị làm khô đến bốn chục tấm nỉ trong một đêm!

Muốn xứng với danh hiệu Réspa( ) mà người ta gọi mình, người tu phải xông cho khô ít nhất là ba tấm nỉ đóng nước băng giá trong một đêm. Mỗi tấm nỉ cỡ bằng cái khăn choàng lớn.

Réspa nghĩa là lúc nào cũng chỉ mặc một cái áo vải mỏng mà thôi, dù mùa hạ hay mùa đông cũng vậy. Bên Tây Tạng nhiều vị sư khổ hạnh đủ gan lướt qua khỏi đức Réspa, mấy vị này bỏ luôn cả áo, ngồi mình trần trên núi cao năm này qua năm kia, có khi trọn cả đời.

Nói tóm lại, về phép chuyển lửa tam-muội, lúc mới nhập học, còn luyện thì còn thấy hơi nóng làm cho mình ấm áp dễ chịu. Hết luyện thì thấy lạnh lại lần lần. Còn đối với những vị rèn luyện trong nhiều năm, lúc nào cũng thấy mình ấm áp, hàn thử biểu càng xuống thì nhiệt độ trong mình càng lên, lên một cách tự nhiên.

Chẳng riêng gì bà Alexandra David Neel trông thấy mấy nhà sư ẩn cư ngồi trên đỉnh núi tuyết mặc áo mỏng hoặc để mình trần, mà tất cả các nhà thám hiểm Âu châu trong khi toan vượt núi Everest cũng đều lấy làm hãi hùng mà thấy những bậc tu trì khổ hạnh ấy sống một cuộc đời mà người bình thường không làm sao theo nổi!

#225 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 30/06/2011 - 11:32

MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ

7. Phép chuyển di tư tưởng

Bên Tây Tạng, từ các vị tu sĩ trong các chùa, cho đến những bậc ẩn tu trên núi cao, rất nhiều người biết luyện phép chuyển di tư tưởng. Khi luyện được phép này, tuy hai hoặc nhiều người ở cách xa mà vẫn có thể trao đổi ý kiến với nhau vượt qua cả không gian.

Trong thực tế, giữa tôn sư và đệ tử tuy có tình nghĩa hộ trợ và kính yêu rất khăng khít, song chẳng mấy khi được gần nhau. Tuy chẳng gần nhau, nhưng cũng chẳng thể nói là xa nhau, vì các ngài thường vẫn bàn luận, hỏi han nhau bằng phép chuyển di tư tưởng.

Lúc nào cần lắm, năm ba tháng hoặc một đôi năm, thầy trò mới đến gặp nhau, chính là khi vị thầy muốn biết xem đệ tử đã tiến bộ đến đâu, hoặc cần gặp mặt để truyền dạy thêm pháp môn nào khác nữa.

Phép chuyển di tư tưởng cũng tương tự như cách truyền thông bằng vô tuyến mà ngày nay ta vẫn thường dùng. Nhờ có phương tiện máy móc hiện đại, người nói ở một nơi, người nghe ở một nẻo, mà vẫn nhận hiểu nhau rất dễ dàng.

Nhưng ở miền núi tuyết, các vị tu hành không dùng phương tiện máy móc như thế, mà dùng sự tập trung tư tưởng để hỏi han nhau. Có điều khác là, qua nói chuyện vô tuyến, cùng lắm thì hai bên cũng chỉ hiểu nhau qua lời nói, còn với các bậc chân tu thì hai bên còn chuyển đạt cho nhau cả lời nói và tư tưởng nữa.

Phép chuyển di tư tưởng chẳng phải là mới đây. Từ xưa đến nay các nhà tu hành đều thường dùng. Như hồi đức Phật còn tại thế, những ai hoạn nạn, nguy khốn, mà tưởng niệm đến Ngài, thành tâm cầu nguyện Ngài, hoặc khấn vái Ngài, tức thì Ngài liền đến mà giải thoát, cứu hộ cho. Đó chính là nhờ phép chuyển di tư tưởng.

Phép này cũng còn gọi là thần giao cách cảm, tức là chuyển tư tưởng của mình đến cho người ở xa nhận biết. Và từ phép chuyển di tư tưởng hay thần giao cách cảm cho tới Tha tâm thông, một trong sáu thần thông của Phật, La-hán, thật là không xa chi mấy.

Người Tây Tạng cho rằng phép chuyển di tư tưởng không khó, người thực tâm muốn học thì được. Song phải ra công luyện học và gìn giữ cho thân tâm lúc nào cũng có thể đón nhận hoặc chuyển đạt. Cần phải thực hành nhiều phương pháp khác nhau để được phép ấy, song điều cần nhất là phải có một sức mạnh về tập trung tư tưởng, về sự nhập định. Phải chế ngự tư tưởng một cách hoàn toàn, chẳng khác nào vị tướng ra trận cầm cương ngựa, như vậy thì lúc nào muốn nhập định cũng đều được dễ dàng.

Sự tập trung tư tưởng, nhập định cho mạnh mẽ và dễ dàng, tức là căn bản trong luyện phép chuyển di tư tưởng. Vì khi nhập định, bao nhiêu tư tưởng, cảm tình phải trừ tuyệt hết, chỉ còn gom về một đầu mối, một vấn đề mà thôi. Mặt khác, phải dùng nhiều phương pháp để khai thông sự nhận biết, phân tách những luồng tư tưởng đang rung động trong không gian.

Một ít vị ẩn cư, trong khi ngồi thiền, nhận ra những lời dạy bảo của thầy ở xa truyền đến bằng phép chuyển di tư tưởng. Vì đệ tử hằng nhớ tưởng và tôn trọng thầy, hai bên gần gũi nhau về tinh thần, nên sự hiểu biết nhau được thuận tiện.

Nhiều vị sư khác tinh thông phép tham thiền nhập định và diệt hết phiền não, tự nhiên được phép chuyển di tư tưởng. Các ngài có thể gởi tư tưởng mình đi và nhận biết tư tưởng hoặc lời nói của người khác liên quan đến mình, mà chẳng phải bỏ công luyện phép ấy. Cũng như các vị đắc đạo chứng Tha tâm thông vậy.

Còn những ai muốn luyện, thường là phải theo những bước khái quát như dưới đây:

Trước hết, thi hành những phương pháp nhằm đạt đến tập trung tư tưởng. Tập trung tư tưởng tức là giữ trong trí chỉ một vấn đề mà thôi, chú tâm cho đến nhập trọn vào vấn đề ấy mà hòa làm một với chính mình.

Và cũng phải luyện tập thêm cho tâm trí trở nên trống lỏng, nghĩa là chẳng để cái tư tưởng, cảm xúc gì trong tâm trí hết, giữ cho nó lặng lẽ và yên tịnh.

Kế đó, tập phân biệt và phân tách những ảnh hưởng khác nhau xảy đến thình lình làm cho mình thấy phát động nơi thân tâm, như những cảm giác chợt vui, chợt buồn, hoặc lo sợ, tưởng nhớ đến ai, xét nghĩ đến vật gì. Mà những cảm xúc tinh tế ấy, những nhân vật ấy không có dính dấp gì với mình trong lúc bấy giờ. Tập được như vậy độ vài năm thì vị đệ tử được phép ngồi chung với thầy mà tham thiền.

Thầy trò vào trong một cảnh tịnh thất lặng lẽ và chú tâm vào một việc. Chừng hết tham thiền, vị đệ tử bạch cho đức Lạt-ma biết những điều mình đã trải qua trong khi thiền định, từ đầu cho đến cuối: có những ý tứ gì, nhận thấy làm sao, cảm tưởng thế nào, thảy thảy đều thuật hết với thầy. Đức Lạt-ma khi ấy đem so sánh với chính tư tưởng của Ngài. Nếu hai bên có nhiều phần tương hợp thì phép chuyển di tư tưởng sẽ mau thành tựu.

Rồi đến lúc thầy không nói ra cho đệ tử biết phải chú tâm vào việc gì. Mà chỉ bảo đệ tử ngồi lại tham thiền. Bấy giờ vị đệ tử nhập định, làm cho tâm trí mình trở nên trống không.

Sau khi ấy, để ý mà dò xét coi những tư tưởng gì, những mối cảm gì, những vật gì hiện lại nơi trí mình; mà những tư tưởng ấy, những mối cảm ấy, những vật ấy bình thường không ăn thua gì với mình cả. Những chổ nhận thấy trong khi thiền định bèn đem thuật lại với thầy. Nếu hai bên giống nhau thì trò rất dễ thâu nhận những điều phát ý của thầy.

Bấy giờ thầy với trò cách nhau xa xa. Thầy âm thầm truyền lệnh cho trò. Nếu trò hiểu thì hoặc âm thầm đáp lại, hoặc ra tay đi làm việc thầy mới truyền. Rồi dần dần thầy trò cách nhau càng xa.

Có khi thầy ở một ngôi chùa này, trò ở một cảnh núi kia, cách nhau năm ba cây số, vài mươi cây số hoặc hàng trăm cây số, hai bên nhập định mà hỏi han nhau, trao đổi ý kiến với nhau. Chừng đó, vị đệ tử đã thành tựu về phép chuyển di tư tưởng.

Có khi năm ba vị đệ tử học chung với nhau dưới sự trông nom của một đức Lạt-ma. Mấy vị ấy thường nhập định mà chuyện vãn với nhau bằng tư tưởng vượt qua không gian. Vị nào có sự vượt trội hơn thì thường thử năng lực của mình bằng cách này: Trong khi các bạn tu của mình bận việc và chẳng tưởng đến sự cảm nhận gì cả, người vẫn chuyển luồng tư tưởng của mình đến cho bạn, buộc phải cảm nhận cho được và hồi đáp.

Sự này thường xảy ra giữa chư vị Lạt-ma ở các chùa trên núi tuyết. Có vị cho tư tưởng mình phát ra và hiện lại nơi tâm trí của người ngoài cuộc. Bà Alexandra David Neel trong khi du hành bên xứ Tây-tạng, thường tiếp nhận những tư tưởng mà nhiều vị Lạt-ma gởi đến cho bà.

Cũng có vị khéo trau luyện tư tưởng cho đến có sức cảm hóa thú vật và sai khiến chúng nó nữa. Việc này ta thấy ngay từ hồi đức Phật còn làm Thái tử dòng Thích-ca. Ngài là người mà tư tưởng và sức cảm hóa rất mạnh. Trong một cuộc tranh tài, có con ngựa chứng mà ai lên cỡi cũng bị nó hất nhào.

Đến phiên Ngài, Ngài dùng lời nói êm dịu và tư tưởng an lành mà cảm hóa nó, sai khiến nó đưa Ngài đi. Ngựa chứng bèn trở nên hiền, chịu cho thái tử ngồi lên và rồi chạy rất êm. Bà Alexandra David Neel chính mắt có thấy hai lần chuyển di tư tưởng. Vậy soạn giả dịch ra dưới đây:

... Cuộc chuyển di tư tưởng mà tôi thấy lần đầu xảy ra tại miền trung châu sông Dainchine, trong khi tôi lần bước đến kinh đô Lhassa. Vị đại đức Lạt-ma hiện phép ấy vốn tu tại chùa Tcheu-dzong.

Đêm ấy, con nuôi của tôi là Yongden và tôi ngủ ngoài trời, dưới một cái mương nước đã đóng băng rất cứng. Sáng lại, không thấy đâu có củi để nấu nước pha trà, chúng tôi đành để bụng trống ra đi. Vừa giữa trưa, chúng tôi thấy ven lề đường có một vị sư đạo mạo ngồi trên một tấm thảm lót yên ngựa.

Ngài dùng bữa vừa xong. Đi với ngài có ba thầy tu trẻ tuổi, gương mặt đàng hoàng, dường như đệ tử theo hầu. Chung quanh mấy vị ấy, thấy có buộc bốn con ngựa đang ăn mấy cọng cỏ khô. Mấy vị khách ấy có đem theo một ôm củi, họ nhúm lửa, một ấm trà sôi đang lên hơi trên lửa than.

Giữ theo phong tục của hạng khách nghèo, chúng tôi chào vị sư rất có lễ phép.( ) Lúc ấy, chắc là sự thèm trà hiện ra nơi gương mặt của chúng tôi, vì chúng tôi vừa thấy ấm trà, cho nên vị sư than nho nhỏ rằng: Tội nghiệp thay!

Rồi ngài lớn tiếng mời chúng tôi đưa bát ra( ) mà nhận trà và cơm lớ.( ) Một thầy trẻ tuổi rót nước trà còn lại trong ấm vào bát của chúng tôi và để một túi cơm lớ gần chúng tôi. Rồi thầy đi chất đồ lên ngựa, chuẩn bị lên đường. Thình lình, một con ngựa hoảng hốt chạy đi. Thầy ôm theo một đường dây và chạy đi bắt ngựa.

Vị sư ngồi yên, lấy mắt nhìn con ngựa chạy bên này bên kia. Còn chúng tôi thì lẳng lặng ngồi ăn. Nhìn quanh, tôi thấy một cái bình bằng cây đã đựng sữa. Tôi đoán rằng vị sư đã xin sữa trong một căn nhà nằm cách lộ xa xa, mà từ chỗ ngồi chúng tôi có thể nhìn thấy. Tôi kê miệng vào tai con tôi và nói rằng:

- Chừng ngài đi rồi, chúng ta sẽ đến ngôi nhà đằng kia mà xin sữa.

Tôi nói nhỏ hết sức, nhưng dường như ngài nhận ra mấy lời ấy. Ngài ngó tôi rất lâu bằng cặp mắt dò xét. Kế ngài cũng than thở như ban nãy rằng: Tội nghiệp thay! Rồi ngài quay đầu đi nơi khác. Con ngựa chạy không xa, nhưng vị thầy tăng khó mà đến gần nó được. Sau cùng, nó để cho thầy tròng dây vào cổ và dắt đi một cách dễ dãi.

Trong khi ấy, vị sư lẳng lặng ngồi yên, ngài lấy mắt nhìn chăm chú thầy tiểu đang đi tới. Thình lình thầy này dừng lại, đứng yên một lát và ra dáng chú ý. Kế thầy dắt ngựa đến một hòn đá và cột lại. Rồi thầy đi trở lại, bỏ đường cái và hướng về phía ngôi nhà. Chẳng bao lâu, tôi thấy thầy đi trở lại chỗ con ngựa, tay ôm vật gì mà tôi không nhận ra.

Khi thầy đến gần chúng tôi, vật ấy rõ ra là một cái bình bằng cây đựng đầy sữa. Thầy không để trước mặt tôn sư, vừa ôm bình nơi tay vừa lấy mắt nhìn ngài, dường như bạch hỏi rằng: Phải thầy dạy đem món này chăng? Tôi để ở đâu? Đáp lại câu hỏi âm thầm ấy, vị sư gật đầu. Rồi ngài bảo đệ tử đem sữa đến cho tôi.

Lần thứ nhì mà tôi thấy phép chuyển di tư tưởng không phải xảy ra chính trong xứ Tây Tạng mà ở miền biên giới, thuộc về hai tỉnh Kansou và Szetchouan bên Trung Hoa. Nhằm nơi rừng rú lại phải lên đèo, nên có sáu người hành khách tháp tùng với bọn tôi. Ở miền này, bọn cướp người Tây Tạng rất gan dạ, thường hay quấy nhiễu kẻ bộ hành, nên ai muốn đi xa phải tụ họp nhiều người có đủ khí giới mới dám đi.

Trong sáu người theo chúng tôi, có năm người thương khách Trung Hoa và người thứ sáu là một vị pháp sư Bung-bo.( ) Thầy này cao lớn dềnh dàng, đầu tóc bịt trong một cái khăn đỏ rất to. Vốn thích nghiên cứu về đạo lý và pháp thuật, tôi mời thầy ăn uống với tôi, vì ý tôi muốn biết những điều mình đang tìm hiểu.

Nhờ vậy, tôi được biết rằng thầy đi đây là để giáp mặt với tôn sư, là một bậc đại pháp sư đang làm phép trên một hòn núi còn cách chẳng xa. Tôn sư thầy đang lập đàn để thâu phục một con yêu thường hay nhiễu hại những đoàn dân trong xứ.

Sau khi đã trổ những ngón khôn khéo về ngoại giao, tôi ngỏ ý muốn được viếng ngài đại pháp sư. Song vị đệ tử liền nói rằng việc ấy quyết không được. Trong trọn tuần trăng, tức là trong thời kỳ hành lễ, ngài đại pháp sư không được xao lảng vì ai.

Nghĩ rằng có nài nỉ cũng vô ích, tôi định bụng rằng khi qua khỏi đèo, chừng thầy từ giã thì tôi quyết đi theo thầy. Như vậy, có thể đến chỗ đại pháp sư một cách bất ngờ, mình mới có thể xem cái vòng pháp với những vật hành lễ của ngài.

Kế ấy nghĩ cũng hay, nên tôi dặn bọn tùy tùng đừng để cho thầy lẻn đi. Chắc là bọn tùy tùng của tôi nói chuyện ấy ra nên thầy mới biết. Thầy nói với tôi rằng tôi định thử tôn sư thầy chi cho vô ích.

Tôi đáp rằng tôi chẳng có ý ác chi cả, tôi chỉ muốn viếng ngài đại pháp sư đặng cầu học mà thôi. Tôi lại dặn bọn tùy tùng giữ chừng thầy kỹ hơn nữa. Thấy mình bổng nhiên bị giam lổng, song nhận ra rằng không ai muốn hại thầy, lại đãi thầy ăn uống đầy đủ, nên thầy chẳng lấy làm buồn. Thầy nói với tôi rằng:

– Bà đừng sợ tôi trốn. Như muốn chắc ý, bà cứ trói tôi đi. Tôi chẳng cần phải chạy trước bà để báo cho thầy tôi hay đâu. Ngài đã biết rồi. Tôi có báo cho Ngài biết bằng tư tưởng.

Nghe thầy ấy nói, tôi không mấy quan tâm, vì tôi biết bọn pháp sư nhiều người hay khoe khoang ngoài miệng. Lần ấy, quả thật tôi lầm. Qua khỏi đèo, chúng tôi đến miền đồng cỏ. Ở đây hết sợ bọn cướp, vì chúng nó chẳng có chổ ẩn núp. Năm người thương khách Trung Hoa trong mấy hôm nay, ngày đêm không rời bọn tôi nửa bước, bây giờ đã vững bụng bèn mau mắn cỡi la ra đi. Pháp sư cũng sắp rời chúng tôi, song tôi định không bỏ thầy.

Vừa lúc ấy, có một bọn sáu người cỡi ngựa chạy như bay tới. Đến gần tôi, bọn họ xuống ngựa chào tôi, tặng cho tôi mấy cái khăn choàng( ) và ít miếng bơ. Làm lễ xong, một người lớn tuổi hơn hết nói rằng vị đại pháp sư phái họ đến để yêu cầu tôi đừng đến viếng ngài, vì ngài không thể gặp mặt ai khác hơn là một vị đệ tử đã được điểm đạo truyền pháp. Duy có vị đệ tử ấy mới được đến gần vòng pháp của ngài thôi. Nghe vậy, tôi đành thôi. Hẳn thật vị pháp sư có thông tin với thầy qua tư tưởng.






Similar Topics Collapse

6 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 6 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |  
Vượng
Thịnh
Khang
An