

Truyện ngắn huyền bí - hiendde
Viết bởi Manager, 05/06/11 02:02
1072 replies to this topic
#631
Gửi vào 20/05/2013 - 10:29
LỜI KÊU CỨU TỪ MỘT LINH HỒN
Đây là câu chuyện lạ lùng của một thuỷ thủ Trung Quốc mà bình thường không bao giờ quan tâm nhiều đến những bí ẩn trong cuộc sống. Tuy nhiên, vào một mùa đông, có một chuyện dị thường đã xảy ra và khiến anh bối rối tới tận hôm nay.
Đó là một ngày nắng đẹp, không có gió. Con tàu buôn của chúng tôi bơi về phía Liverpool, nước Anh. Đột nhiên tôi muốn nói một điều gì đó với thuyền trưởng. Tôi đến văn phòng của thuyền trưởng và bắt gặp hình bóng của một người ngồi cạnh chiếc bàn ở trong phòng. Từ phía sau, tôi biết rằng ông không phải là thuyền trưởng. Ông có mái tóc vàng và đang viết một cái gì đó.
- Ông ta từ đâu đến?
– Toàn bộ thủy thủ đoàn của chúng ta là Trung Quốc cơ mà.
Tôi tự hỏi. Tôi mở cửa và hỏi lớn tiếng:
- Ông là ai? Làm sao ông vào được đây?
Ông nghe thấy giọng nói của tôi và quay lại từ từ, một cách khá khó khăn. Khi tôi nhìn thấy khuôn mặt của ông ta, tôi vô cùng sợ hãi, ông là một người phương Tây, nhưng nhìn khá bất thường. Ông ta có đôi mắt xanh, nhưng khuôn mặt nhợt nhạt, trông vô cảm và nhìn thẳng về phía trước. Toàn bộ cơ thể của ông ta được bao phủ bởi một lớp sương mù. Trong khi đó, tôi cảm thấy không khí lạnh thổi về phía tôi và tôi chạy nhanh ra khỏi văn phòng của thuyền trưởng.
Sau khi vội vã ra khỏi văn phòng, tôi chạy về phía thuyền trưởng, lúc ấy đang đi bộ về phía tôi. Tôi nói bằng một giọng sửng sốt:
- Thuyền trưởng, có một người đàn ông lạ trong văn phòng của ông.
Thuyền trưởng theo tôi đến văn phòng. Ông mở cửa, nhưng không có ai trong phòng. Tôi nói:
- Người đàn ông ấy đã ở đây viết gì đó lên cái bàn làm việc.
Khi cả hai chúng tôi nhìn chiếc bàn, có một dòng chữ tiếng Anh ghi:
- Hãy lái tàu về phía tây bắc.
Đội trưởng cau mày và sau đó lôi ra một mảnh giấy, và yêu cầu tôi viết:
- Hãy lái tàu về phía tây bắc.
Bằng tiếng Anh. Thuyền trưởng muốn biết chắc chắn rằng tôi có đang bịp bợm hay không. Sau đó, thuyền trưởng yêu cầu tất cả mọi người trên tàu viết cùng câu đó bằng tiếng Anh. Hóa ra không có nét chữ viết tay nào giống với nét chữ trên mặt bàn cả.
Đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp phải một sự việc kỳ lạ đến thế. Thuyền trưởng hiểu rằng đã xảy ra chuyện gì đó khác thường. Theo hướng mà con tàu của chúng tôi đang đi, nếu chúng tôi chuyển hướng về phía tây bắc, thì sẽ phải mất nhiều hơn, ba giờ đồng hồ mới đến đích được.
Để tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra, thuyền trưởng quyết định thay đổi lộ trình và chúng tôi hướng về phía tây bắc. Dần dần, gió thổi dữ dội hơn, nhiệt độ trở nên lạnh hơn và xuất hiện trước mặt chúng tôi, một tảng băng trôi khổng lồ. Một tàu chở khách đang bị mắc kẹt trong đó. Khi các hành khách nhìn thấy chúng tôi, họ nhảy cẫng lên và kêu cứu. Một trong những hành khách hét lên:
- Jimmy đã đúng, đó là một con tàu buôn Trung Quốc màu vàng!
Thuyền trưởng của chúng tôi đã gửi một xuồng cứu sinh tới, để đưa tất cả các hành khách lên tàu của chúng tôi. Đột nhiên, tôi thấy một người trông giống như người đàn ông trẻ trong văn phòng của thuyền trưởng. Tôi chỉ vào người đàn ông trẻ và hét lên với thuyền trưởng:
- Thuyền trưởng, chính là anh ta!
Tất cả mọi người trên tàu rất ngạc nhiên. Thuyền trưởng của chúng tôi lấy ra một mảnh giấy và bảo anh ta viết:
- Hãy lái tàu về phía tây bắc.
Kinh ngạc thay: Dòng chữ viết tay ấy giống hệt với dòng chữ trên cái bàn của thuyền trưởng. Đội trưởng của chúng tôi hỏi anh ta:
- Tên anh là gì? Anh nhớ những gì đã xảy ra chứ?
Người thanh niên cho biết:
- Tên tôi là Jimmy. Tôi không thể nhớ cụ thể những gì đã xảy ra, tôi chỉ nhớ rằng, sau khi tàu của chúng tôi đã bị mắc kẹt bên trong tảng băng trôi ấy, tôi đã rất mệt mỏi và ngủ thiếp đi. Tôi cảm thấy cơ thể mình trôi dạt đến một chiếc tàu Trung Quốc. Khi tôi nhìn thấy chiếc tàu Trung Quốc đang chạy về phía chiếc tàu của chúng tôi, tôi đã rất hạnh phúc.
Sau đó, cơ thể của tôi bắt đầu trôi nổi quay trở lại con tàu của chúng tôi. Tôi rất ngạc nhiên khi tìm thấy ai đó giống hệt như mình đang nằm trên giường. Anh ta có lực hút rất mạnh và ngay lập tức tôi bị hút vào anh ta. Anh ta và tôi kết hợp với nhau, và sau đó tôi tỉnh dậy. Jack, người bạn của tôi, người mà đã la to:
- Jimmy đã đúng; đã ngủ bên cạnh tôi trong suốt thời gian ấy.
Mọi người đều kinh ngạc trước trải nghiệm của Jimmy. Sự kiện kỳ lạ này thực sự đã xảy ra với con tàu của chúng tôi. Mặc dù đã lâu rồi, nhưng tôi vẫn có một ký ức sinh động về chuyện đó. Điều duy nhất tôi không hiểu là làm thế nào một linh hồn có thể tồn tại sau khi rời khỏi thân xác mà thôi.
Isabel Yang
Đây là câu chuyện lạ lùng của một thuỷ thủ Trung Quốc mà bình thường không bao giờ quan tâm nhiều đến những bí ẩn trong cuộc sống. Tuy nhiên, vào một mùa đông, có một chuyện dị thường đã xảy ra và khiến anh bối rối tới tận hôm nay.
Đó là một ngày nắng đẹp, không có gió. Con tàu buôn của chúng tôi bơi về phía Liverpool, nước Anh. Đột nhiên tôi muốn nói một điều gì đó với thuyền trưởng. Tôi đến văn phòng của thuyền trưởng và bắt gặp hình bóng của một người ngồi cạnh chiếc bàn ở trong phòng. Từ phía sau, tôi biết rằng ông không phải là thuyền trưởng. Ông có mái tóc vàng và đang viết một cái gì đó.
- Ông ta từ đâu đến?
– Toàn bộ thủy thủ đoàn của chúng ta là Trung Quốc cơ mà.
Tôi tự hỏi. Tôi mở cửa và hỏi lớn tiếng:
- Ông là ai? Làm sao ông vào được đây?
Ông nghe thấy giọng nói của tôi và quay lại từ từ, một cách khá khó khăn. Khi tôi nhìn thấy khuôn mặt của ông ta, tôi vô cùng sợ hãi, ông là một người phương Tây, nhưng nhìn khá bất thường. Ông ta có đôi mắt xanh, nhưng khuôn mặt nhợt nhạt, trông vô cảm và nhìn thẳng về phía trước. Toàn bộ cơ thể của ông ta được bao phủ bởi một lớp sương mù. Trong khi đó, tôi cảm thấy không khí lạnh thổi về phía tôi và tôi chạy nhanh ra khỏi văn phòng của thuyền trưởng.
Sau khi vội vã ra khỏi văn phòng, tôi chạy về phía thuyền trưởng, lúc ấy đang đi bộ về phía tôi. Tôi nói bằng một giọng sửng sốt:
- Thuyền trưởng, có một người đàn ông lạ trong văn phòng của ông.
Thuyền trưởng theo tôi đến văn phòng. Ông mở cửa, nhưng không có ai trong phòng. Tôi nói:
- Người đàn ông ấy đã ở đây viết gì đó lên cái bàn làm việc.
Khi cả hai chúng tôi nhìn chiếc bàn, có một dòng chữ tiếng Anh ghi:
- Hãy lái tàu về phía tây bắc.
Đội trưởng cau mày và sau đó lôi ra một mảnh giấy, và yêu cầu tôi viết:
- Hãy lái tàu về phía tây bắc.
Bằng tiếng Anh. Thuyền trưởng muốn biết chắc chắn rằng tôi có đang bịp bợm hay không. Sau đó, thuyền trưởng yêu cầu tất cả mọi người trên tàu viết cùng câu đó bằng tiếng Anh. Hóa ra không có nét chữ viết tay nào giống với nét chữ trên mặt bàn cả.
Đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp phải một sự việc kỳ lạ đến thế. Thuyền trưởng hiểu rằng đã xảy ra chuyện gì đó khác thường. Theo hướng mà con tàu của chúng tôi đang đi, nếu chúng tôi chuyển hướng về phía tây bắc, thì sẽ phải mất nhiều hơn, ba giờ đồng hồ mới đến đích được.
Để tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra, thuyền trưởng quyết định thay đổi lộ trình và chúng tôi hướng về phía tây bắc. Dần dần, gió thổi dữ dội hơn, nhiệt độ trở nên lạnh hơn và xuất hiện trước mặt chúng tôi, một tảng băng trôi khổng lồ. Một tàu chở khách đang bị mắc kẹt trong đó. Khi các hành khách nhìn thấy chúng tôi, họ nhảy cẫng lên và kêu cứu. Một trong những hành khách hét lên:
- Jimmy đã đúng, đó là một con tàu buôn Trung Quốc màu vàng!
Thuyền trưởng của chúng tôi đã gửi một xuồng cứu sinh tới, để đưa tất cả các hành khách lên tàu của chúng tôi. Đột nhiên, tôi thấy một người trông giống như người đàn ông trẻ trong văn phòng của thuyền trưởng. Tôi chỉ vào người đàn ông trẻ và hét lên với thuyền trưởng:
- Thuyền trưởng, chính là anh ta!
Tất cả mọi người trên tàu rất ngạc nhiên. Thuyền trưởng của chúng tôi lấy ra một mảnh giấy và bảo anh ta viết:
- Hãy lái tàu về phía tây bắc.
Kinh ngạc thay: Dòng chữ viết tay ấy giống hệt với dòng chữ trên cái bàn của thuyền trưởng. Đội trưởng của chúng tôi hỏi anh ta:
- Tên anh là gì? Anh nhớ những gì đã xảy ra chứ?
Người thanh niên cho biết:
- Tên tôi là Jimmy. Tôi không thể nhớ cụ thể những gì đã xảy ra, tôi chỉ nhớ rằng, sau khi tàu của chúng tôi đã bị mắc kẹt bên trong tảng băng trôi ấy, tôi đã rất mệt mỏi và ngủ thiếp đi. Tôi cảm thấy cơ thể mình trôi dạt đến một chiếc tàu Trung Quốc. Khi tôi nhìn thấy chiếc tàu Trung Quốc đang chạy về phía chiếc tàu của chúng tôi, tôi đã rất hạnh phúc.
Sau đó, cơ thể của tôi bắt đầu trôi nổi quay trở lại con tàu của chúng tôi. Tôi rất ngạc nhiên khi tìm thấy ai đó giống hệt như mình đang nằm trên giường. Anh ta có lực hút rất mạnh và ngay lập tức tôi bị hút vào anh ta. Anh ta và tôi kết hợp với nhau, và sau đó tôi tỉnh dậy. Jack, người bạn của tôi, người mà đã la to:
- Jimmy đã đúng; đã ngủ bên cạnh tôi trong suốt thời gian ấy.
Mọi người đều kinh ngạc trước trải nghiệm của Jimmy. Sự kiện kỳ lạ này thực sự đã xảy ra với con tàu của chúng tôi. Mặc dù đã lâu rồi, nhưng tôi vẫn có một ký ức sinh động về chuyện đó. Điều duy nhất tôi không hiểu là làm thế nào một linh hồn có thể tồn tại sau khi rời khỏi thân xác mà thôi.
Isabel Yang
#632
Gửi vào 22/05/2013 - 11:05
CỤ BÀ KỂ LẠI NHỮNG CẢM GIÁC LẠ SAU CHÍN GIỜ VIẾNG THĂM ÂM PHỦ
Sau lần cải tử hoàn sinh, bà Trần Thị Sương trở thành người đặc biệt giữa cuộc sống đời thường của người dân ấp Trường Lưu.
Bà Trần Thị Sương năm nay đã bước qua tuổi tám mươi chín, là vợ liệt sĩ và bản thân cũng tham gia cách mạng, từng vào Nam ra Bắc trong những ngày toàn dân cầm súng đánh giặc cứu nước. Bà Sương từng bị địch bắt, tra khảo, hành hạ dã man khi còn hoạt động tại Rạch Giá, Kiên Giang. Nhưng cuối cùng chúng thả bà ra vì sau những trận tra khảo tàn bạo mà không thể khai thác bất cứ điều gì.
Ngày giải phóng, bà trở về đời thường một mình côi cút nuôi con. Với sức lao động không mệt mỏi, cùng chút ít gia sản sẵn có và khoản tiền trợ cấp của nhà nước, bà luôn mong có cuộc sống dung dị, bình yên. Nhưng vết thương từ những ngày trong nhà ngục của địch vẫn để lại di chứng, hành hạ thân xác bà.
- Sau này tôi hay đau ốm luôn, đặc biệt là cảm sốt. Lắm khi ngất xỉu giữa đồng Mỗi lần như vậy, các cháu trong nhà phải xông rượu mới đỡ. Bà kể.
Và trong một trận ốm như vậy bà đã được trải qua một cảm giác kỳ lạ và hiếm người có: Chết đi sống lại sau chín tiếng đồng hồ. Nói về cái ngày khủng khiếp mà sau này bà cho là sự thay đổi hạnh phúc, bà Sương cho biết:
- Chuyện cũng xảy ra rất lâu rồi, khi đó chồng tôi còn sống, nhưng đến nay tôi vẫn không thể quên được những giây phút nằm giữa lằn ranh sự sống và cái chết ấy. Tôi vật vã mãi mới trút hơi thở cuối cùng...
Theo lời kể của bà, hôm đó, như mọi ngày, từ đồng về, bà thấy rất mệt mỏi. Bà vào phòng nghỉ ngơi và cảm giác khó ở gia tăng gấp bội. Bà như mụ đi, đầu óc quay cuồng. Bà cố gọi người nhà nhưng không một ai hay biết, ngay cả người chồng nằm cạnh bên vẫn không hay biết những điều bất thường đang đè nặng lên cơ thể mềm oặt của vợ. Đến giờ cơm, người nhà vào gọi bà ra ăn tối mới phát hiện bà đã bất tỉnh.
Gọi mãi, lay mãi không thấy bà trả lời, mọi người xúm vào tìm rượu xông người cho bà như từng làm trước đó nhưng vô ích.
- Lúc đó, tôi vẫn còn tỉnh táo, vẫn nghe và biết những gì diễn ra xung quanh. Tôi vẫn biết người nhà xông rượu cho tôi, nắn tay chân cho tôi nhưng tôi không nói được. Rồi đầu óc tôi mụ mị dần đi. Tôi cảm giác như máu trong người chảy chậm lại, rất khó khăn để thở. Khi đó tôi nghĩ những giây phút cuối cùng của mình đã đến nên cố gắng đón chờ nó. Nhưng tình trạng này kéo dài làm tôi rất khó chịu và thực sự muốn cái chết đến thật nhanh để cho mình đỡ khổ. Vật vã mãi như vậy được hơn ba mươi phút, tôi tắt thở. Bà kể lại.
Sau mọi nỗ lực mà vẫn không thấy bà hồi tỉnh, mọi người đưa tay lên mũi và thấy bà đã không còn thở nữa. Để chắc chắn hơn những người thân ghé tai lên ngực bà để kiểm tra. Khi không hề nghe nhịp tim và không thấy hơi thở nữa mọi người mới thôi các biện pháp cấp cứu và thông báo với mọi người bà đã mất. Chỉ mấy tiếng đồng hồ sau, con cháu trong nhà, người dân trong ấp kéo đến để chuẩn bị làm lễ tang cho bà.
Nói về sự kỳ lạ trong cái chết của mẹ nuôi, chị Trần Thị Đối, con gái của bà Sương kể:
- Thông thường mọi người sau khi chết, thi thể sẽ lạnh đi, sắc thái của khuôn mặt, da dẻ cũng nhợt nhạt nhưng đối với bà lại trái ngược hoàn toàn. Trông da dẻ của bà hệt như một người đang ngủ. Đặc biệt, thể xác bà không hề lạnh đi và khô cứng mà vẫn mềm và ấm như người sống. Tuy nhiên vì không hề còn thấy nhịp tim và hơi thở nữa nên nhiều người cho rằng sở dĩ có tình trạng đó là do người nhà xông rượu cho bà nhiều quá nên thi thể không cứng lại. Ai cũng biết chắc rằng bà đã ra đi.
Sáng sớm hôm sau, khoảng chín tiếng đồng hồ kể từ thời điểm mọi người cho rằng bà Sương đã chết, gia đình bắt đầu thực hiện lễ nhập quan cho người đã khuất. Mọi thủ tục đã hoàn tất, mọi người chuẩn bị nhập quan thì bất ngờ phát hiện những biểu hiện bất thường trên thi thể bà Sương. Bỗng nhiên, môi bà hồng trở lại, con ngươi hình như di chuyển dưới hai mí mắt. Một số người bạo gan đưa tay lên mũi thì cảm nhận được hơi ấm nhè nhẹ, đều đều thở ra.
- Cuối cùng, bà từ từ ngồi dậy, như người vừa thức giấc.
Chị Lê Thị Tâm, một người con nuôi thân thiết với cụ Sương nhớ lại. Nhớ lại phút giây trở về từ cõi chết bà Sương kể:
- Lúc tôi ngồi dậy mọi người xúm lại ôm tôi khóc ròng vui sướng. Chả ai sợ tôi cả mà chỉ ngạc nhiên nhìn tôi thôi.
Sau lần cải tử hoàn sinh trên, bà Sương như biến thành một con người khác, sống một cuộc sống khác. Thay đổi thói quen ăn uống là một trong những cái mới của bà.
- Tự nhiên, tôi sợ thịt, cá. Tôi không ăn được mặn nữa và ăn chay trường từ đó đến giờ. Bà cho biết.
Cũng từ đây, những sự kiện lạ lùng trong cuộc sống liên tiếp tìm đến với bà. Cụ thể như lời bà khẳng định, trước đây trí nhớ bà không tốt nhưng sau ngày khủng khiếp trên bà nhớ nhanh và lâu hơn cả thời trẻ. Một trong những minh chứng đầy thuyết phục: Bà đã tự ghi chép lại những sự kiện cải tử hoàn sinh hy hữu của mình cung cấp cho các nhà khoa học trong và ngoài nước.
Hơn thế, bà Sương cũng mạnh lời khẳng định việc sau lần chết hụt, một số căn bệnh tự nhiên biến mất một cách kỳ diệu.
- Trước đây, tôi bị viêm phế quản nặng, luôn khó thở nhưng sau ngày ấy, tôi không thuốc thang mà thấy nhẹ dần rồi khỏi hẳn như các cháu thấy bây giờ. Cái bệnh viêm gai cột sống cũng vậy. Xưa đi lại khó khăn lắm, không ngồi lâu được. Vậy mà giờ tôi có thể ngồi tiếp chuyện với bạn bè đến thăm hàng ngày mà vẫn không mỏi. Mà tôi cũng đã chín chục tuổi rồi chú ạ. Bà cười xòa cho biết.
Trở lại dương thế, sau những đổi thay về sức khỏe một cách kỳ diệu, quan điểm sống của bà Sương cũng theo đó đổi thay. Được biết, sau ngày ấy, bà sống theo triết lý của người có đạo, tự cởi bỏ mọi gánh nặng, âu lo, hành thiện giúp người. Bà bán ruộng vườn để có tiền giúp người nghèo khắp hang cùng ngõ hẻm.
Chị Tâm, một trong ba người con nuôi của bà cho biết:
- Sau khi sống lại, bà nguyện một đời hướng đạo. Bà trút bỏ mọi sân si, hỉ nộ để hành thiện. Tính đến nay, má Ba đã giúp hơn ngàn gia đình khó khăn trong tỉnh rồi. Quan trọng hơn, những việc thiện của bà có sự ảnh hưởng mạnh đến dân chúng trong vùng. Theo gương bà, nhiều chị em như chúng tôi không quản xa cách về địa lý, tuổi tác xúm lại lập hội đi làm từ thiện khắp mọi nơi.
Được biết, quá trình cải tử hoàn sinh và như biến thành một người khác của bà Trần Thị Sương một thời từng là chủ đề nóng cho các nhà khoa học trong và ngoài nước. Cũng theo bà Sương, nhiều nhà khoa học đã từng tìm đến nghiên cứu và cho rằng bà chưa chết hẳn mà mới chỉ chết lâm sàng.
Chết lâm sàng là tim ngừng đập, phổi ngừng thở, huyết áp không đo được nhưng não vẫn còn hoạt động. Chỉ khi bị ngừng cung cấp oxy từ năm đến tám phút, lúc đó não bộ chết thì khi đó mới xác định một con người chết thật.
Vì vậy, có không ít trường hợp quan sát bên ngoài thì như đã chết nhưng thực ra bên trong tim vẫn còn đập nhưng với tần suất cực thấp, có khi chỉ bảy hoặc mười nhịp một phút, thay vì sáu mươi hoặc tám mươi nhịp một phút như bình thường, và phổi vẫn còn chức năng hô hấp, dĩ nhiên là cũng với tần suất cực thấp.
Cũng có một số trường hợp sau khi bị chết lâm sàng, nhờ có một tác động nào đó đã sống lại. Tuy nhiên, trường hợp của bà Sương, từ khi rơi vào trạng thái chết lâm sàng đến...chín tiếng đồng hồ là một trường hợp thực sự hy hữu.
Hà Nguyễn - Ngọc Lài
Sau lần cải tử hoàn sinh, bà Trần Thị Sương trở thành người đặc biệt giữa cuộc sống đời thường của người dân ấp Trường Lưu.
Bà Trần Thị Sương năm nay đã bước qua tuổi tám mươi chín, là vợ liệt sĩ và bản thân cũng tham gia cách mạng, từng vào Nam ra Bắc trong những ngày toàn dân cầm súng đánh giặc cứu nước. Bà Sương từng bị địch bắt, tra khảo, hành hạ dã man khi còn hoạt động tại Rạch Giá, Kiên Giang. Nhưng cuối cùng chúng thả bà ra vì sau những trận tra khảo tàn bạo mà không thể khai thác bất cứ điều gì.
Ngày giải phóng, bà trở về đời thường một mình côi cút nuôi con. Với sức lao động không mệt mỏi, cùng chút ít gia sản sẵn có và khoản tiền trợ cấp của nhà nước, bà luôn mong có cuộc sống dung dị, bình yên. Nhưng vết thương từ những ngày trong nhà ngục của địch vẫn để lại di chứng, hành hạ thân xác bà.
- Sau này tôi hay đau ốm luôn, đặc biệt là cảm sốt. Lắm khi ngất xỉu giữa đồng Mỗi lần như vậy, các cháu trong nhà phải xông rượu mới đỡ. Bà kể.
Và trong một trận ốm như vậy bà đã được trải qua một cảm giác kỳ lạ và hiếm người có: Chết đi sống lại sau chín tiếng đồng hồ. Nói về cái ngày khủng khiếp mà sau này bà cho là sự thay đổi hạnh phúc, bà Sương cho biết:
- Chuyện cũng xảy ra rất lâu rồi, khi đó chồng tôi còn sống, nhưng đến nay tôi vẫn không thể quên được những giây phút nằm giữa lằn ranh sự sống và cái chết ấy. Tôi vật vã mãi mới trút hơi thở cuối cùng...
Theo lời kể của bà, hôm đó, như mọi ngày, từ đồng về, bà thấy rất mệt mỏi. Bà vào phòng nghỉ ngơi và cảm giác khó ở gia tăng gấp bội. Bà như mụ đi, đầu óc quay cuồng. Bà cố gọi người nhà nhưng không một ai hay biết, ngay cả người chồng nằm cạnh bên vẫn không hay biết những điều bất thường đang đè nặng lên cơ thể mềm oặt của vợ. Đến giờ cơm, người nhà vào gọi bà ra ăn tối mới phát hiện bà đã bất tỉnh.
Gọi mãi, lay mãi không thấy bà trả lời, mọi người xúm vào tìm rượu xông người cho bà như từng làm trước đó nhưng vô ích.
- Lúc đó, tôi vẫn còn tỉnh táo, vẫn nghe và biết những gì diễn ra xung quanh. Tôi vẫn biết người nhà xông rượu cho tôi, nắn tay chân cho tôi nhưng tôi không nói được. Rồi đầu óc tôi mụ mị dần đi. Tôi cảm giác như máu trong người chảy chậm lại, rất khó khăn để thở. Khi đó tôi nghĩ những giây phút cuối cùng của mình đã đến nên cố gắng đón chờ nó. Nhưng tình trạng này kéo dài làm tôi rất khó chịu và thực sự muốn cái chết đến thật nhanh để cho mình đỡ khổ. Vật vã mãi như vậy được hơn ba mươi phút, tôi tắt thở. Bà kể lại.
Sau mọi nỗ lực mà vẫn không thấy bà hồi tỉnh, mọi người đưa tay lên mũi và thấy bà đã không còn thở nữa. Để chắc chắn hơn những người thân ghé tai lên ngực bà để kiểm tra. Khi không hề nghe nhịp tim và không thấy hơi thở nữa mọi người mới thôi các biện pháp cấp cứu và thông báo với mọi người bà đã mất. Chỉ mấy tiếng đồng hồ sau, con cháu trong nhà, người dân trong ấp kéo đến để chuẩn bị làm lễ tang cho bà.
Nói về sự kỳ lạ trong cái chết của mẹ nuôi, chị Trần Thị Đối, con gái của bà Sương kể:
- Thông thường mọi người sau khi chết, thi thể sẽ lạnh đi, sắc thái của khuôn mặt, da dẻ cũng nhợt nhạt nhưng đối với bà lại trái ngược hoàn toàn. Trông da dẻ của bà hệt như một người đang ngủ. Đặc biệt, thể xác bà không hề lạnh đi và khô cứng mà vẫn mềm và ấm như người sống. Tuy nhiên vì không hề còn thấy nhịp tim và hơi thở nữa nên nhiều người cho rằng sở dĩ có tình trạng đó là do người nhà xông rượu cho bà nhiều quá nên thi thể không cứng lại. Ai cũng biết chắc rằng bà đã ra đi.
Sáng sớm hôm sau, khoảng chín tiếng đồng hồ kể từ thời điểm mọi người cho rằng bà Sương đã chết, gia đình bắt đầu thực hiện lễ nhập quan cho người đã khuất. Mọi thủ tục đã hoàn tất, mọi người chuẩn bị nhập quan thì bất ngờ phát hiện những biểu hiện bất thường trên thi thể bà Sương. Bỗng nhiên, môi bà hồng trở lại, con ngươi hình như di chuyển dưới hai mí mắt. Một số người bạo gan đưa tay lên mũi thì cảm nhận được hơi ấm nhè nhẹ, đều đều thở ra.
- Cuối cùng, bà từ từ ngồi dậy, như người vừa thức giấc.
Chị Lê Thị Tâm, một người con nuôi thân thiết với cụ Sương nhớ lại. Nhớ lại phút giây trở về từ cõi chết bà Sương kể:
- Lúc tôi ngồi dậy mọi người xúm lại ôm tôi khóc ròng vui sướng. Chả ai sợ tôi cả mà chỉ ngạc nhiên nhìn tôi thôi.
Sau lần cải tử hoàn sinh trên, bà Sương như biến thành một con người khác, sống một cuộc sống khác. Thay đổi thói quen ăn uống là một trong những cái mới của bà.
- Tự nhiên, tôi sợ thịt, cá. Tôi không ăn được mặn nữa và ăn chay trường từ đó đến giờ. Bà cho biết.
Cũng từ đây, những sự kiện lạ lùng trong cuộc sống liên tiếp tìm đến với bà. Cụ thể như lời bà khẳng định, trước đây trí nhớ bà không tốt nhưng sau ngày khủng khiếp trên bà nhớ nhanh và lâu hơn cả thời trẻ. Một trong những minh chứng đầy thuyết phục: Bà đã tự ghi chép lại những sự kiện cải tử hoàn sinh hy hữu của mình cung cấp cho các nhà khoa học trong và ngoài nước.
Hơn thế, bà Sương cũng mạnh lời khẳng định việc sau lần chết hụt, một số căn bệnh tự nhiên biến mất một cách kỳ diệu.
- Trước đây, tôi bị viêm phế quản nặng, luôn khó thở nhưng sau ngày ấy, tôi không thuốc thang mà thấy nhẹ dần rồi khỏi hẳn như các cháu thấy bây giờ. Cái bệnh viêm gai cột sống cũng vậy. Xưa đi lại khó khăn lắm, không ngồi lâu được. Vậy mà giờ tôi có thể ngồi tiếp chuyện với bạn bè đến thăm hàng ngày mà vẫn không mỏi. Mà tôi cũng đã chín chục tuổi rồi chú ạ. Bà cười xòa cho biết.
Trở lại dương thế, sau những đổi thay về sức khỏe một cách kỳ diệu, quan điểm sống của bà Sương cũng theo đó đổi thay. Được biết, sau ngày ấy, bà sống theo triết lý của người có đạo, tự cởi bỏ mọi gánh nặng, âu lo, hành thiện giúp người. Bà bán ruộng vườn để có tiền giúp người nghèo khắp hang cùng ngõ hẻm.
Chị Tâm, một trong ba người con nuôi của bà cho biết:
- Sau khi sống lại, bà nguyện một đời hướng đạo. Bà trút bỏ mọi sân si, hỉ nộ để hành thiện. Tính đến nay, má Ba đã giúp hơn ngàn gia đình khó khăn trong tỉnh rồi. Quan trọng hơn, những việc thiện của bà có sự ảnh hưởng mạnh đến dân chúng trong vùng. Theo gương bà, nhiều chị em như chúng tôi không quản xa cách về địa lý, tuổi tác xúm lại lập hội đi làm từ thiện khắp mọi nơi.
Được biết, quá trình cải tử hoàn sinh và như biến thành một người khác của bà Trần Thị Sương một thời từng là chủ đề nóng cho các nhà khoa học trong và ngoài nước. Cũng theo bà Sương, nhiều nhà khoa học đã từng tìm đến nghiên cứu và cho rằng bà chưa chết hẳn mà mới chỉ chết lâm sàng.
Chết lâm sàng là tim ngừng đập, phổi ngừng thở, huyết áp không đo được nhưng não vẫn còn hoạt động. Chỉ khi bị ngừng cung cấp oxy từ năm đến tám phút, lúc đó não bộ chết thì khi đó mới xác định một con người chết thật.
Vì vậy, có không ít trường hợp quan sát bên ngoài thì như đã chết nhưng thực ra bên trong tim vẫn còn đập nhưng với tần suất cực thấp, có khi chỉ bảy hoặc mười nhịp một phút, thay vì sáu mươi hoặc tám mươi nhịp một phút như bình thường, và phổi vẫn còn chức năng hô hấp, dĩ nhiên là cũng với tần suất cực thấp.
Cũng có một số trường hợp sau khi bị chết lâm sàng, nhờ có một tác động nào đó đã sống lại. Tuy nhiên, trường hợp của bà Sương, từ khi rơi vào trạng thái chết lâm sàng đến...chín tiếng đồng hồ là một trường hợp thực sự hy hữu.
Hà Nguyễn - Ngọc Lài
#633
Gửi vào 22/05/2013 - 23:56
CHUYỆN VỀ NHÀ SƯ HÀNG LONG PHỤC HỔ
Nhà sư hàng long, phục hổ, tuyệt thực hai mươi sáu năm để cầu dân an.
Đến nay, người dân vẫn truyền nhau chuyện sư Viên Ngộ có khả năng hàng long phục hổ, tự chặt ngón tay để đúc tượng, trường tọa, không nằm, ngủ ngồi, hơn mười năm ròng để kéo dài thọ mạng cho cha, tuyệt thủy bốn mươi chín ngày để tu thành chính quả.
Trước khi được in thành sách, nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng quyết định công bố những tư liệu quý về những giai thoại ly kỳ, gắn liền với cuộc đời thăng trầm của Nguyễn Đình Chiểu lưu lạc dân gian.
Những nỗi đau đã cướp đi ánh sáng của người anh tài Nguyễn Đình Chiểu nhưng không thể đánh tan lòng yêu nước của ông. Trên con đường chạy giặc, người chí sĩ vĩ đại trên đã náu thân tại chùa Tôn Thạnh và từ đây, người để lại cho đời những áng văn thơ bất hủ. Và nguyên nhân cho việc ông chọn cửa chùa làm nơi dừng chân, chính là nhân cách cao đẹp và cuộc sống huyền diệu của người sáng lập chùa Tôn Thạnh: Hòa thượng Viên Ngộ.
Danh tiếng của chùa Tôn Thạnh vượt xa khỏi địa bàn Cần Giuộc, Long An, không phải từ khi chùa được xác lập di tích quốc gia. Trước đó, chùa đã được người dân xứ này ngưỡng vọng. Sự ngưỡng vọng xuất phát từ lòng mộ đạo kỳ diệu và cuộc sống đầy bí ẩn, đến không tưởng của vị sư trụ trì có nhân cách cao đẹp.
Được biết, trước kia chùa Tôn Thạnh có tên là chùa Ông Ngộ. Cái tên trên xuất phát từ tên tục Nguyễn Ngọc Ngộ của cố sư Viên Ngộ. Theo lời của hòa thượng Thích Đạt Đồng, Viện chủ chùa Tôn Thạnh:
- Cuộc đời của hòa thượng Viên Ngộ ẩn chứa những điều kỳ diệu hiếm thấy. Từ sự mộ đạo cho đến con đường hành đạo đều để lại những giai thoại ly kỳ.
Về cuộc đời mang nhiều huyền bí và nhuốm màu huyền thoại của Hòa thượng Viên Ngộ cũng có nhiều tài liệu khác nhau. Tuy nhiên, theo Đại Nam nhất thống chí, hòa thượng Viên Ngộ tên thật là Nguyễn Ngọc Ngộ, con của một gia đình phú nông tại Cần Giuộc. Tuổi thơ của cậu bé Ngộ không mấy cơ cực, nhưng lên bảy tuổi, cậu nhất quyết xin nhà đi tu.
Lý giải chuyện lạ trên, hòa thượng Thích Tắc Ngộ, trụ trì chùa Tôn Thạnh nhận định:
- Sở dĩ sư Viên Ngộ nhất quyết theo nghiệp tu hành là vì một đêm nọ, ông nằm mộng thấy Đức Như Lai hiện giữa tòa sen. Nghĩ là mình có duyên với cửa Thiền, sáng hôm sau, Ngọc Ngộ liền đến tìm cha xin được đi tu.
Nguyện vọng trên của Ngọc Ngộ không được cha mẹ chấp thuận. Song ý đã quyết, Ngọc Ngộ tìm mọi cách lay chuyển cha mẹ. Để hy vọng dập tắt ý nghĩ tu hành của con trẻ, ông Nguyễn Ngọc Bình (bố đẻ Ngọc Ngộ) thách con xuống nhà dưới cách đại sảnh mấy gian, lấy tay không bốc than đang cháy, cầm lên cho ông châm thuốc. Nếu Ngọc Ngộ làm được thì cha chấp thuận cho đi tu.
Không mảy may suy nghĩ, Ngọc Ngộ xuống nhà bếp, tay không bốc lấy một hòn than đang cháy to tướng, đi thong thả lên nhà trên. Ngọc Ngộ quỳ xuống, hai tay dâng hòn than vẫn còn đỏ rực đang cháy xèo xèo trong gan bàn tay mời cha hút thuốc, mặt không biến sắc.
Thất kinh và cảm phục trước lòng mộ đạo không tưởng của con, ông Bình hoảng hốt đỡ con dậy và yêu cầu Ngọc Ngộ vứt bỏ than hồng đang cháy trên tay. Ngọc Ngộ không nghe theo. Đến khi thấy cha gật đầu tuyên bố:
- Được rồi, cha vui lòng chấp thuận cho con theo đạo.
Lúc đó, Ngọc Ngộ mới ngồi dậy, vứt bỏ hòn than còn đỏ rực. Ngay sau khi được chấp thuận, Nguyễn Ngọc Ngộ giã biệt gia đình khăn gói lên chùa Vĩnh Quang xuất gia. Theo những ghi nhận của Tiểu sử đại sư Viên Ngộ, khai sơn chùa Tôn Thạnh của Tỉnh hội Phật giáo Long An:
- Tại chùa Vĩnh Quang, Ngọc Ngộ được sư trụ trì quý mến vì sự nhanh trí, chịu khó và lập được nhiều công quả.
Nhà sư hàng long, phục hổ, tuyệt thực hai mươi sáu năm để cầu dân an.
Đến nay, người dân vẫn truyền nhau chuyện sư Viên Ngộ có khả năng hàng long phục hổ, tự chặt ngón tay để đúc tượng, trường tọa, không nằm, ngủ ngồi, hơn mười năm ròng để kéo dài thọ mạng cho cha, tuyệt thủy bốn mươi chín ngày để tu thành chính quả.
Trước khi được in thành sách, nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng quyết định công bố những tư liệu quý về những giai thoại ly kỳ, gắn liền với cuộc đời thăng trầm của Nguyễn Đình Chiểu lưu lạc dân gian.
Những nỗi đau đã cướp đi ánh sáng của người anh tài Nguyễn Đình Chiểu nhưng không thể đánh tan lòng yêu nước của ông. Trên con đường chạy giặc, người chí sĩ vĩ đại trên đã náu thân tại chùa Tôn Thạnh và từ đây, người để lại cho đời những áng văn thơ bất hủ. Và nguyên nhân cho việc ông chọn cửa chùa làm nơi dừng chân, chính là nhân cách cao đẹp và cuộc sống huyền diệu của người sáng lập chùa Tôn Thạnh: Hòa thượng Viên Ngộ.
Danh tiếng của chùa Tôn Thạnh vượt xa khỏi địa bàn Cần Giuộc, Long An, không phải từ khi chùa được xác lập di tích quốc gia. Trước đó, chùa đã được người dân xứ này ngưỡng vọng. Sự ngưỡng vọng xuất phát từ lòng mộ đạo kỳ diệu và cuộc sống đầy bí ẩn, đến không tưởng của vị sư trụ trì có nhân cách cao đẹp.
Được biết, trước kia chùa Tôn Thạnh có tên là chùa Ông Ngộ. Cái tên trên xuất phát từ tên tục Nguyễn Ngọc Ngộ của cố sư Viên Ngộ. Theo lời của hòa thượng Thích Đạt Đồng, Viện chủ chùa Tôn Thạnh:
- Cuộc đời của hòa thượng Viên Ngộ ẩn chứa những điều kỳ diệu hiếm thấy. Từ sự mộ đạo cho đến con đường hành đạo đều để lại những giai thoại ly kỳ.
Về cuộc đời mang nhiều huyền bí và nhuốm màu huyền thoại của Hòa thượng Viên Ngộ cũng có nhiều tài liệu khác nhau. Tuy nhiên, theo Đại Nam nhất thống chí, hòa thượng Viên Ngộ tên thật là Nguyễn Ngọc Ngộ, con của một gia đình phú nông tại Cần Giuộc. Tuổi thơ của cậu bé Ngộ không mấy cơ cực, nhưng lên bảy tuổi, cậu nhất quyết xin nhà đi tu.
Lý giải chuyện lạ trên, hòa thượng Thích Tắc Ngộ, trụ trì chùa Tôn Thạnh nhận định:
- Sở dĩ sư Viên Ngộ nhất quyết theo nghiệp tu hành là vì một đêm nọ, ông nằm mộng thấy Đức Như Lai hiện giữa tòa sen. Nghĩ là mình có duyên với cửa Thiền, sáng hôm sau, Ngọc Ngộ liền đến tìm cha xin được đi tu.
Nguyện vọng trên của Ngọc Ngộ không được cha mẹ chấp thuận. Song ý đã quyết, Ngọc Ngộ tìm mọi cách lay chuyển cha mẹ. Để hy vọng dập tắt ý nghĩ tu hành của con trẻ, ông Nguyễn Ngọc Bình (bố đẻ Ngọc Ngộ) thách con xuống nhà dưới cách đại sảnh mấy gian, lấy tay không bốc than đang cháy, cầm lên cho ông châm thuốc. Nếu Ngọc Ngộ làm được thì cha chấp thuận cho đi tu.
Không mảy may suy nghĩ, Ngọc Ngộ xuống nhà bếp, tay không bốc lấy một hòn than đang cháy to tướng, đi thong thả lên nhà trên. Ngọc Ngộ quỳ xuống, hai tay dâng hòn than vẫn còn đỏ rực đang cháy xèo xèo trong gan bàn tay mời cha hút thuốc, mặt không biến sắc.
Thất kinh và cảm phục trước lòng mộ đạo không tưởng của con, ông Bình hoảng hốt đỡ con dậy và yêu cầu Ngọc Ngộ vứt bỏ than hồng đang cháy trên tay. Ngọc Ngộ không nghe theo. Đến khi thấy cha gật đầu tuyên bố:
- Được rồi, cha vui lòng chấp thuận cho con theo đạo.
Lúc đó, Ngọc Ngộ mới ngồi dậy, vứt bỏ hòn than còn đỏ rực. Ngay sau khi được chấp thuận, Nguyễn Ngọc Ngộ giã biệt gia đình khăn gói lên chùa Vĩnh Quang xuất gia. Theo những ghi nhận của Tiểu sử đại sư Viên Ngộ, khai sơn chùa Tôn Thạnh của Tỉnh hội Phật giáo Long An:
- Tại chùa Vĩnh Quang, Ngọc Ngộ được sư trụ trì quý mến vì sự nhanh trí, chịu khó và lập được nhiều công quả.
#634
Gửi vào 23/05/2013 - 00:05
CHUYỆN VỀ NHÀ SƯ HÀNG LONG PHỤC HỔ (2)
Nhà sư đặc biệt
Lúc bấy giờ, vùng Cần Giuộc từ Trường Bình đến Mỹ Lộc còn là rừng hoang âm u, hổ báo thường xuất hiện làm người dân không ai dám khai phá, lại càng không dám lai vãng tới chùa cúng quảy.
Theo đó, người dân nơi đây còn truyền nhau giai thoại ông Ngộ phục hổ, mở đường. Về giai thoại trên, bà Châu Anh Phụng cho biết:
- Lúc đầu, vì muốn có đường để dân đi lại và vào chùa cúng bái, ông Viên Ngộ một mình ra rừng làm đường. Sau đó, thương sư thầy có tâm, nhiều phật tử cũng ra góp sức. Nhưng lòng phật tử vẫn sợ cọp xuất hiện. Một hôm, cọp dữ xuất hiện, tiến thẳng về phía các phật tử. Mọi người thất kinh, run rẩy báo thầy Viên Ngộ và bảo thầy chạy nhanh kẻo chết.
Sư Viên Ngộ chắp tay đứng lặng niệm Phật. Phật tử không nỡ bỏ vị sư đức độ nên cũng đứng im, tay chắc cuốc xẻng tự vệ, nhất nhất nghe thầy, không động thủ. Cuối cùng, con cọp to lớn đứng trước mặt sư, nhìn chằm chằm phút chốc rồi bất ngờ ngoảnh đầu bỏ đi. Dân trong vùng nghe câu chuyện ấy, ai nấy đều ngạc nhiên và tin sư Viên Ngộ có thuật hàng long phục hổ.
Tuy nhiên, vị sư trẻ luôn khẳng định mình là một con người bình thường và khuyên người dân không nên tin vào tà thuật, mê tín. Từ đó, đức độ của sư Viên Ngộ càng được người dân tin yêu, lòng mộ đạo của dân chúng càng ngày càng cao.
Đến năm Gia Long thứ bảy, sư Viên Ngộ xin chùa Vĩnh Quang đến vùng rạch Thanh Ba, nay là Xã Mỹ Lộc, Huyện Cần Giuộc, cất chùa khác gọi là chùa Lan Nhược, còn gọi là Lan Nhã, tiền thân của chùa Tôn Thạnh ngày nay.
Tại đây, cuộc đời ông để lại những câu chuyện nhuốm màu huyền thoại, vẫn được người dân truyền tụng, biểu dương. Theo bà Châu Anh Phụng:
- Cuộc đời và tấm lòng đức độ gắn với những câu chuyện kỳ lạ, về những khả năng không tưởng của ông, chính là nguyên nhân khiến nhà chí sĩ vĩ đại Nguyễn Đình Chiểu, người từng lên tiếng đả kích Phật giáo trong tác phẩm Dương Từ, Hà Mậu quyết định ẩn thân tại chùa để viết thơ văn, bàn việc quốc sự. Đến nay, người dân vẫn truyền nhau chuyện sư Viên Ngộ tự chặt ngón tay để đúc tượng, trường tọa, không nằm, ngủ ngồi, hơn mười năm ròng để kéo dài tuổi thọ mạng cho cha, tuyệt thủy bốn mươi chín ngày để tu thành chính quả.
Theo đó, sau khi dựng chùa, sư Viên Ngộ kêu gọi khách thập phương góp của đúc tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát. Các lão phật tử cho biết việc đúc tượng được hòa thượng Viên Ngộ rất coi trọng. Thợ đúc tượng đều là nghệ nhân có tiếng được ông cẩn trọng mời từ Quy Nhơn. Tuy nhiên, sau khi tháo khuôn đúc, mọi sự cố gắng của người dân cùng cánh thợ đúc đồng và cả sư Viên Ngộ đều không được viên mãn.
Bức tượng có một vết nứt chừng một ngón tay. Đây được xem là một điều đại kỵ. Anh thợ đúc vô cùng lo lắng và luôn cho rằng mình là người thiếu ân đức, tâm hồn không trong sạch nên bị quở trách. Sư Viên Ngộ cũng cho rằng đức Địa Tạng Vương đang thử thách lòng thành của mình, nên bảo thợ đúc lại.
Đây chính là lần ông tự chặt ngón tay mình để hoàn thành bức tượng. Bà Châu Anh Phụng kể lại:
- Hôm đúc lại tượng, nhằm khi đồng đã chảy vào khuôn, sư Viên Ngộ gọi người đem thớt và dao lên rồi bất ngờ vung dao chặt ngón tay và cầm thảy vào nồi đồng nấu chảy khiến xương thịt tan vào kim khí. Sau đó, đồng được rót vào khuôn. Ba ngày sau, bức tượng hoàn thành mà không có bất kỳ một sai sót nào.
Tuy nhiên, đó chưa phải là câu kết cho cuộc đời có nhiều điều kỳ lạ của hòa thượng Viên Ngộ. Người dân nơi đây, cũng như các bậc cao tăng vẫn lưu truyền kỳ tích trường tọa mười năm ròng để thọ diên cho người cha đang đau ốm. Sau đó, đến năm 1820, khi nhân dân bị bệnh truyền nhiễm hành hạ, ông lại tiếp tục tuyệt thực hai mươi sáu năm để cầu an. Theo đó, ông chỉ uống chút nước đường vào buổi trưa. Ông sống như vậy đến hai mươi sáu năm, mà vẫn tỉnh táo và khỏe mạnh.
Năm Thiệu Trị thứ sáu (năm 1846), sư Viên Ngộ lại lập nên một kỳ tích mới khi quyết định tuyệt thủy, không uống nước cũng không ăn uống để tu hành. Được biết, ông tuyệt thực tuyệt thủy được bốn mươi chín ngày thì viên tịch. Đây được xem là một kỳ tích thực sự và khó tìm được câu lý giải. Con người có thể nhịn ăn trong một thời gian dài bằng việc uống nước cầm hơi, tuy nhiên, không thể nhịn nước trong nhiều ngày như vậy.
Với những điều kỳ diệu và đạo hạnh của một hòa thượng đức độ, người dân nơi đây tin yêu, ngưỡng vọng sư Viên Ngộ như một vị danh nhân. Ngày nay, xã Mỹ Lộc đã có tên đường Viên Ngộ và giồng Ông Ngộ để tưởng nhớ công đức của vị sư có cuộc sống kỳ diệu trên. Đó cũng là nguyên nhân khiến nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu tìm vào chùa ẩn thân, hoạt động văn thơ, mưu quốc sự.
Hà Nguyễn - Ngọc Là
Nhà sư đặc biệt
Lúc bấy giờ, vùng Cần Giuộc từ Trường Bình đến Mỹ Lộc còn là rừng hoang âm u, hổ báo thường xuất hiện làm người dân không ai dám khai phá, lại càng không dám lai vãng tới chùa cúng quảy.
Theo đó, người dân nơi đây còn truyền nhau giai thoại ông Ngộ phục hổ, mở đường. Về giai thoại trên, bà Châu Anh Phụng cho biết:
- Lúc đầu, vì muốn có đường để dân đi lại và vào chùa cúng bái, ông Viên Ngộ một mình ra rừng làm đường. Sau đó, thương sư thầy có tâm, nhiều phật tử cũng ra góp sức. Nhưng lòng phật tử vẫn sợ cọp xuất hiện. Một hôm, cọp dữ xuất hiện, tiến thẳng về phía các phật tử. Mọi người thất kinh, run rẩy báo thầy Viên Ngộ và bảo thầy chạy nhanh kẻo chết.
Sư Viên Ngộ chắp tay đứng lặng niệm Phật. Phật tử không nỡ bỏ vị sư đức độ nên cũng đứng im, tay chắc cuốc xẻng tự vệ, nhất nhất nghe thầy, không động thủ. Cuối cùng, con cọp to lớn đứng trước mặt sư, nhìn chằm chằm phút chốc rồi bất ngờ ngoảnh đầu bỏ đi. Dân trong vùng nghe câu chuyện ấy, ai nấy đều ngạc nhiên và tin sư Viên Ngộ có thuật hàng long phục hổ.
Tuy nhiên, vị sư trẻ luôn khẳng định mình là một con người bình thường và khuyên người dân không nên tin vào tà thuật, mê tín. Từ đó, đức độ của sư Viên Ngộ càng được người dân tin yêu, lòng mộ đạo của dân chúng càng ngày càng cao.
Đến năm Gia Long thứ bảy, sư Viên Ngộ xin chùa Vĩnh Quang đến vùng rạch Thanh Ba, nay là Xã Mỹ Lộc, Huyện Cần Giuộc, cất chùa khác gọi là chùa Lan Nhược, còn gọi là Lan Nhã, tiền thân của chùa Tôn Thạnh ngày nay.
Tại đây, cuộc đời ông để lại những câu chuyện nhuốm màu huyền thoại, vẫn được người dân truyền tụng, biểu dương. Theo bà Châu Anh Phụng:
- Cuộc đời và tấm lòng đức độ gắn với những câu chuyện kỳ lạ, về những khả năng không tưởng của ông, chính là nguyên nhân khiến nhà chí sĩ vĩ đại Nguyễn Đình Chiểu, người từng lên tiếng đả kích Phật giáo trong tác phẩm Dương Từ, Hà Mậu quyết định ẩn thân tại chùa để viết thơ văn, bàn việc quốc sự. Đến nay, người dân vẫn truyền nhau chuyện sư Viên Ngộ tự chặt ngón tay để đúc tượng, trường tọa, không nằm, ngủ ngồi, hơn mười năm ròng để kéo dài tuổi thọ mạng cho cha, tuyệt thủy bốn mươi chín ngày để tu thành chính quả.
Theo đó, sau khi dựng chùa, sư Viên Ngộ kêu gọi khách thập phương góp của đúc tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát. Các lão phật tử cho biết việc đúc tượng được hòa thượng Viên Ngộ rất coi trọng. Thợ đúc tượng đều là nghệ nhân có tiếng được ông cẩn trọng mời từ Quy Nhơn. Tuy nhiên, sau khi tháo khuôn đúc, mọi sự cố gắng của người dân cùng cánh thợ đúc đồng và cả sư Viên Ngộ đều không được viên mãn.
Bức tượng có một vết nứt chừng một ngón tay. Đây được xem là một điều đại kỵ. Anh thợ đúc vô cùng lo lắng và luôn cho rằng mình là người thiếu ân đức, tâm hồn không trong sạch nên bị quở trách. Sư Viên Ngộ cũng cho rằng đức Địa Tạng Vương đang thử thách lòng thành của mình, nên bảo thợ đúc lại.
Đây chính là lần ông tự chặt ngón tay mình để hoàn thành bức tượng. Bà Châu Anh Phụng kể lại:
- Hôm đúc lại tượng, nhằm khi đồng đã chảy vào khuôn, sư Viên Ngộ gọi người đem thớt và dao lên rồi bất ngờ vung dao chặt ngón tay và cầm thảy vào nồi đồng nấu chảy khiến xương thịt tan vào kim khí. Sau đó, đồng được rót vào khuôn. Ba ngày sau, bức tượng hoàn thành mà không có bất kỳ một sai sót nào.
Tuy nhiên, đó chưa phải là câu kết cho cuộc đời có nhiều điều kỳ lạ của hòa thượng Viên Ngộ. Người dân nơi đây, cũng như các bậc cao tăng vẫn lưu truyền kỳ tích trường tọa mười năm ròng để thọ diên cho người cha đang đau ốm. Sau đó, đến năm 1820, khi nhân dân bị bệnh truyền nhiễm hành hạ, ông lại tiếp tục tuyệt thực hai mươi sáu năm để cầu an. Theo đó, ông chỉ uống chút nước đường vào buổi trưa. Ông sống như vậy đến hai mươi sáu năm, mà vẫn tỉnh táo và khỏe mạnh.
Năm Thiệu Trị thứ sáu (năm 1846), sư Viên Ngộ lại lập nên một kỳ tích mới khi quyết định tuyệt thủy, không uống nước cũng không ăn uống để tu hành. Được biết, ông tuyệt thực tuyệt thủy được bốn mươi chín ngày thì viên tịch. Đây được xem là một kỳ tích thực sự và khó tìm được câu lý giải. Con người có thể nhịn ăn trong một thời gian dài bằng việc uống nước cầm hơi, tuy nhiên, không thể nhịn nước trong nhiều ngày như vậy.
Với những điều kỳ diệu và đạo hạnh của một hòa thượng đức độ, người dân nơi đây tin yêu, ngưỡng vọng sư Viên Ngộ như một vị danh nhân. Ngày nay, xã Mỹ Lộc đã có tên đường Viên Ngộ và giồng Ông Ngộ để tưởng nhớ công đức của vị sư có cuộc sống kỳ diệu trên. Đó cũng là nguyên nhân khiến nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu tìm vào chùa ẩn thân, hoạt động văn thơ, mưu quốc sự.
Hà Nguyễn - Ngọc Là
#635
Gửi vào 27/05/2013 - 01:12
KỲ BÍ Ở NƠI VUA TRẦN NHÂN TÔNG CHỌN KIẾP THOÁT TRẦN
Bao nhiêu người can ngăn, thậm chí có người còn kể rằng có hơn trăm cung tần mỹ nữ đến thuyết phục vụ trở về cung. Ông vẫn khoác áo cà sa tu hành và thành lập một dòng Phật giáo đặc trưng của Việt Nam, dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử và trở thành vị tổ thứ nhất với pháp danh Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Gần một nghìn năm đã qua, chốn rừng thiêng Yên Tử vẫn còn nhiều kỳ bí khó giải thích.
Báo trước điểm đặt quả cầu Như ý
Yên Tử là trung tâm Phật giáo của nước Đại Việt xưa, nơi phát tích của thiền phái Trúc Lâm, một thiền phái Phật giáo của người Việt từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng, từ bỏ phú quý vinh hoa quy y cửa Phật. Xưa kia, chùa Lân hay còn được gọi là Long đồng tử, thiền viện Trúc Lâm, là một trong những ngôi chùa quan trọng nhất trong hệ thống chùa tháp của thiền phái Trúc Lâm. Năm 1293, vua Trần Nhân Tông đã xây dựng chùa Lân trở thành viện Kỳ Lân để làm nơi giảng đạo, độ tăng. Ba vị sư tổ Trúc Lâm là Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang thường đến đây thuyết pháp, giảng kinh. Đây cũng được coi là nơi kiểm định tấm lòng của người vào cửa Phật.
Đến thiền viện Trúc Lâm, nhiều người không khỏi sững sờ với một hòn ngọc lớn màu hồng lung linh được đặt ngay trước sân thiền viện. Qua tìm hiểu, phóng viên được biết đó là quả cầu Như ý báo ân Phật. Quả cầu có đường kính 1.590mm, trọng lượng 6,5 tấn đặt trên bệ đá có tiết diện vuông nặng bốn tấn. Tất cả được đặt trong bể nước hình bát giác với tám bồn hình cánh hoa bao quanh, tám vòi nước tưới xung quanh quả cầu với ý nghĩa "bát công đức thuỷ, tưới mát nhân gian thấm nhuần giáo lý Phật đà, vô ngã, vị tha".
Đây là quả cầu bằng nguyên liệu đá quý trong nước, nguyên liệu chế tác là một khối đá hoa cương đỏ (Rubi) tại mỏ đá An Nhơn. Theo giới chuyên môn, loại đá này không bị phai màu bởi tác động của môi trường thiên nhiên bởi đây là đá già granit màu đỏ (tỉnh Bình Định) bi chỉ có ở bắc Ấn Độ và Trung Bộ Việt Nam. Quả cầu này đã được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam chính thức công nhận là Kỷ lục Việt Nam.
Thầy Thích Thanh Tuệ, Thư ký thiền viện Trúc Lâm Yên Tử cho biết:
- Phật tử muốn biểu hiện lòng biết ơn với Phật tổ nên đã đi tìm hòn đá có thể quay được để đặt lên chốn linh thiêng Yên Tử này. Khổ đau vốn từ tâm sinh ra cũng từ tâm diệt, cũng chính từ đó mà quả cầu hình thành. Bởi trong nhà Phật, đức Phật có dạy rằng sự xuất hiện của ngài là để khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến"; hay còn gọi là Khai, thị, ngộ, nhập (Mở, bày, ngộ, thâm nhập) ứng hợp qua bốn tiến trình nói trên để trở thành một vị Phật. Ngài xuất hiện trên thế gian để chỉ cho chúng ta là trong mỗi con người đều có bản tâm chân thật, bất sinh bất diệt. Và hòn ngọc Như ý là để tượng trưng cho điều này.
Thầy Tuệ cũng cho biết, sau khi hòn ngọc được đặt, thì báo giác ngộ đã về đây và đề nghị, xin được đưa vào là một trong những kỷ lục của Phật giáo. Các vị có nói ở Trung Quốc, cũng có quả cầu nhưng không có quả cầu lớn như bên đây, và quả bên đó do những mảnh ghép chắp lại, còn quả cầu Như ý là nguyên khối. Đó nguyên là một tảng đá rất lớn, được bào mòn mà thành.
Xung quanh hòn ngọc khổng lồ này, còn có rất nhiều huyền bí khó lý giải. Thầy Tuệ kể rằng:
- Khi đặt hòn ngọc, chùa băn khoăn không biết đặt ở vị trí nào cho hợp lý. Các sư thầy đã lập đàn lễ xin đức Phật báo cho nơi đặt qủa cầu. Kỳ lạ thay sáng hôm sau, đất ở một khoảng sân trước thiền viện bị rộp lên, các sư thầy thấy rằng đây là nơi thích hợp nên đã đặt quả cầu ở đó. Có thể đó là một sự kỳ lạ, có thể đó là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng câu chuyện báo trước vị trí đặt quả cầu, khiến cho hòn ngọc càng trở nên linh thiêng.
Thành Huế
Bao nhiêu người can ngăn, thậm chí có người còn kể rằng có hơn trăm cung tần mỹ nữ đến thuyết phục vụ trở về cung. Ông vẫn khoác áo cà sa tu hành và thành lập một dòng Phật giáo đặc trưng của Việt Nam, dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử và trở thành vị tổ thứ nhất với pháp danh Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Gần một nghìn năm đã qua, chốn rừng thiêng Yên Tử vẫn còn nhiều kỳ bí khó giải thích.
Báo trước điểm đặt quả cầu Như ý
Yên Tử là trung tâm Phật giáo của nước Đại Việt xưa, nơi phát tích của thiền phái Trúc Lâm, một thiền phái Phật giáo của người Việt từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng, từ bỏ phú quý vinh hoa quy y cửa Phật. Xưa kia, chùa Lân hay còn được gọi là Long đồng tử, thiền viện Trúc Lâm, là một trong những ngôi chùa quan trọng nhất trong hệ thống chùa tháp của thiền phái Trúc Lâm. Năm 1293, vua Trần Nhân Tông đã xây dựng chùa Lân trở thành viện Kỳ Lân để làm nơi giảng đạo, độ tăng. Ba vị sư tổ Trúc Lâm là Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang thường đến đây thuyết pháp, giảng kinh. Đây cũng được coi là nơi kiểm định tấm lòng của người vào cửa Phật.
Đến thiền viện Trúc Lâm, nhiều người không khỏi sững sờ với một hòn ngọc lớn màu hồng lung linh được đặt ngay trước sân thiền viện. Qua tìm hiểu, phóng viên được biết đó là quả cầu Như ý báo ân Phật. Quả cầu có đường kính 1.590mm, trọng lượng 6,5 tấn đặt trên bệ đá có tiết diện vuông nặng bốn tấn. Tất cả được đặt trong bể nước hình bát giác với tám bồn hình cánh hoa bao quanh, tám vòi nước tưới xung quanh quả cầu với ý nghĩa "bát công đức thuỷ, tưới mát nhân gian thấm nhuần giáo lý Phật đà, vô ngã, vị tha".
Đây là quả cầu bằng nguyên liệu đá quý trong nước, nguyên liệu chế tác là một khối đá hoa cương đỏ (Rubi) tại mỏ đá An Nhơn. Theo giới chuyên môn, loại đá này không bị phai màu bởi tác động của môi trường thiên nhiên bởi đây là đá già granit màu đỏ (tỉnh Bình Định) bi chỉ có ở bắc Ấn Độ và Trung Bộ Việt Nam. Quả cầu này đã được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam chính thức công nhận là Kỷ lục Việt Nam.
Thầy Thích Thanh Tuệ, Thư ký thiền viện Trúc Lâm Yên Tử cho biết:
- Phật tử muốn biểu hiện lòng biết ơn với Phật tổ nên đã đi tìm hòn đá có thể quay được để đặt lên chốn linh thiêng Yên Tử này. Khổ đau vốn từ tâm sinh ra cũng từ tâm diệt, cũng chính từ đó mà quả cầu hình thành. Bởi trong nhà Phật, đức Phật có dạy rằng sự xuất hiện của ngài là để khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến"; hay còn gọi là Khai, thị, ngộ, nhập (Mở, bày, ngộ, thâm nhập) ứng hợp qua bốn tiến trình nói trên để trở thành một vị Phật. Ngài xuất hiện trên thế gian để chỉ cho chúng ta là trong mỗi con người đều có bản tâm chân thật, bất sinh bất diệt. Và hòn ngọc Như ý là để tượng trưng cho điều này.
Thầy Tuệ cũng cho biết, sau khi hòn ngọc được đặt, thì báo giác ngộ đã về đây và đề nghị, xin được đưa vào là một trong những kỷ lục của Phật giáo. Các vị có nói ở Trung Quốc, cũng có quả cầu nhưng không có quả cầu lớn như bên đây, và quả bên đó do những mảnh ghép chắp lại, còn quả cầu Như ý là nguyên khối. Đó nguyên là một tảng đá rất lớn, được bào mòn mà thành.
Xung quanh hòn ngọc khổng lồ này, còn có rất nhiều huyền bí khó lý giải. Thầy Tuệ kể rằng:
- Khi đặt hòn ngọc, chùa băn khoăn không biết đặt ở vị trí nào cho hợp lý. Các sư thầy đã lập đàn lễ xin đức Phật báo cho nơi đặt qủa cầu. Kỳ lạ thay sáng hôm sau, đất ở một khoảng sân trước thiền viện bị rộp lên, các sư thầy thấy rằng đây là nơi thích hợp nên đã đặt quả cầu ở đó. Có thể đó là một sự kỳ lạ, có thể đó là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng câu chuyện báo trước vị trí đặt quả cầu, khiến cho hòn ngọc càng trở nên linh thiêng.
Thành Huế
#636
Gửi vào 27/05/2013 - 01:23
NHẬP VIỆN VÌ BỊ "GHẾ MA" BAY VÀO MẶT
ột gia đình sống tại nước Pháp đã phải nhập viện sau khi bị chiếc ghế bay va trúng mặt. Họ đinh ninh rằng ngôi nhà mà mình đang ở bị ma ám.
Một gia đình sống tại nước Pháp đã phải nhập viện sau khi bị chiếc ghế bay va trúng mặt. Họ đinh ninh rằng ngôi nhà mà mình đang ở bị ma ám.
Nhắc đến những hiện tượng ma quái vừa xảy ra đầu tháng 4-2013 vừa qua, tại một ngôi làng thuộc xã Mentque Nortbécourt, tỉnh Pas de Calais, vùng Nord Pas de Calais, Pháp. Cư dân ở đây không khỏi hoang mang vì các thành viên trong một gia đình đã phải nhập viện vì bị ma trêu trong ngay chính ngôi nhà của mình.
Vào một buổi tối muộn, ba chiếc ghế trong nhà bỗng nhiên bay lơ lửng và đập vào mặt một người trong gia đình họ dẫn tới phải nhập viện. Ngoài ra người này còn bị ném cả khay xà phòng vào lưng từ phía sau.
Trả lời với giới truyền thông, gia đình này cho biết những hiện tượng kỳ quái này đã xảy ra từ cuối tháng 7-2012. Họ đã tận mắt chứng kiến những hiện tượng kỳ bí như trái cam bay lơ lửng khắp phòng, khay xà phòng bay thẳng vào lưng và đến hiện tại là ghế bay.
Để chứng minh cho lời nói của mình không phải là bịa đặt, họ còn mời những người khác đến nhà để chứng kiến những hiện tượng kỳ lạ ở nơi đây, trong đó có cả thị trưởng tỉnh Nord Pas de Calais. Một số người tới hỏi mua ngôi nhà cũng gặp phải hiện tượng như trên. Vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn khi một người bạn của gia đình cũng phải nhập viện vì bị ném đá trúng đầu mà không rõ tác giả là ai.
Truyền hình địa phương đưa tin, sau khi được báo cáo và chứng kiến những hiện tượng ma ám tại ngôi nhà này, giáo phận địa phương đã cử một thày pháp sư trừ tà đến xua đuổi những hồn ma quỷ dữ đang ẩn náu trong ngôi nhà.
Do sự việc xảy ra vô cùng đáng sợ và có thể gây ảnh hưởng tới sức khỏe và tính mạng, vì vậy gia đình này đã xin chính quyền cấp cho họ một nơi ở mới. Ngay sau đó, họ đã được phép cư trú tạm thời ở một túp lều trong khu cắm trại. Lãnh đạo địa phương cho biết họ sẽ cố gắng hết sức để giải quyết ổn thỏa trường hợp của gia đình bị ma trêu này.
Trí Thức Trẻ
ột gia đình sống tại nước Pháp đã phải nhập viện sau khi bị chiếc ghế bay va trúng mặt. Họ đinh ninh rằng ngôi nhà mà mình đang ở bị ma ám.
Một gia đình sống tại nước Pháp đã phải nhập viện sau khi bị chiếc ghế bay va trúng mặt. Họ đinh ninh rằng ngôi nhà mà mình đang ở bị ma ám.
Nhắc đến những hiện tượng ma quái vừa xảy ra đầu tháng 4-2013 vừa qua, tại một ngôi làng thuộc xã Mentque Nortbécourt, tỉnh Pas de Calais, vùng Nord Pas de Calais, Pháp. Cư dân ở đây không khỏi hoang mang vì các thành viên trong một gia đình đã phải nhập viện vì bị ma trêu trong ngay chính ngôi nhà của mình.
Vào một buổi tối muộn, ba chiếc ghế trong nhà bỗng nhiên bay lơ lửng và đập vào mặt một người trong gia đình họ dẫn tới phải nhập viện. Ngoài ra người này còn bị ném cả khay xà phòng vào lưng từ phía sau.
Trả lời với giới truyền thông, gia đình này cho biết những hiện tượng kỳ quái này đã xảy ra từ cuối tháng 7-2012. Họ đã tận mắt chứng kiến những hiện tượng kỳ bí như trái cam bay lơ lửng khắp phòng, khay xà phòng bay thẳng vào lưng và đến hiện tại là ghế bay.
Để chứng minh cho lời nói của mình không phải là bịa đặt, họ còn mời những người khác đến nhà để chứng kiến những hiện tượng kỳ lạ ở nơi đây, trong đó có cả thị trưởng tỉnh Nord Pas de Calais. Một số người tới hỏi mua ngôi nhà cũng gặp phải hiện tượng như trên. Vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn khi một người bạn của gia đình cũng phải nhập viện vì bị ném đá trúng đầu mà không rõ tác giả là ai.
Truyền hình địa phương đưa tin, sau khi được báo cáo và chứng kiến những hiện tượng ma ám tại ngôi nhà này, giáo phận địa phương đã cử một thày pháp sư trừ tà đến xua đuổi những hồn ma quỷ dữ đang ẩn náu trong ngôi nhà.
Do sự việc xảy ra vô cùng đáng sợ và có thể gây ảnh hưởng tới sức khỏe và tính mạng, vì vậy gia đình này đã xin chính quyền cấp cho họ một nơi ở mới. Ngay sau đó, họ đã được phép cư trú tạm thời ở một túp lều trong khu cắm trại. Lãnh đạo địa phương cho biết họ sẽ cố gắng hết sức để giải quyết ổn thỏa trường hợp của gia đình bị ma trêu này.
Trí Thức Trẻ
#637
Gửi vào 01/06/2013 - 23:28
LỜI ĐỒN KỲ BÍ QUANH HAI NGÔI MỘ BỌC SẮT
Người cho rằng hai người đã khuất bị ma cà rồng, ma sói cắn vì vậy gia đình họ phải bọc lồng sắt để trấn yểm những hồn ma quỷ dữ, người lại cho rằng làm như vậy để tránh bị đào trộm mộ.
Không giống như những ngôi mộ khác, tại một nghĩa trang nhỏ ở ngoại ô thị trấn Catawissa, bang Pennsylvania, Mỹ, những du khách ghé qua sẽ không khỏi tò mò trước hai ngôi mộ được bọc lồng sắt cẩn thận.
Thoạt nhìn qua, chiếc lồng sắt được thiết kế kiên cố như một chiếc lồng chim cỡ lớn bao bọc lấy hai ngôi mộ nằm dưới lòng đất. Một ngôi được khắc tên bà Sara Ann Boone mất năm 1852, vợ ông Ransloe Boone. Ngôi còn lại khắc tên bà Asenath Thomas cũng mất năm 1852, vợ ông John F. Thomas. Sarah là chị gái của chồng Asenath vì vậy hai người này có mối quan hệ họ hàng với nhau. Cả hai đều chết trẻ, đặc biệt, Sarah cũng mất sau vài ngày khi Asenath qua đời.
Theo những vết tích còn lại, ở đây từng có một ngôi mộ thứ ba nhưng đã được dời đi vào những năm 1930 trong dự án trùng tu. Trong một số báo đăng vào khoảng những năm 1960, người ta cũng có nhắc đến việc di dời mộ này nhưng không ai biết tên chính xác của người nằm dưới ngôi mộ thứ ba.
Mặc dù không biết có bao nhiêu phần trăm là sự thật, nhưng những người dân ở đây đồn lại rằng Sara và Asenath đều chết do bị ma cà rồng hoặc ma sói cắn. Gia đình họ lo sợ hai phụ nữ trẻ sẽ đội mồ sống dậy, vì vậy họ đã làm những lồng sắt như một cách trấn yểm. Nhưng cũng có những người lại kháo nhau rằng, chiếc lồng sắt được làm ra với mục đích bảo vệ ngôi mộ, tránh bị những kẻ đào trộm mộ nhòm ngó. Vào thế kỷ thứ mười chín, chuyện đào trộm mộ thường xảy ra ở nơi đây, vì vậy giả thiết thứ hai được đưa ra cũng có tính thuyết phục cao.
Về ngôi mộ bí ẩn thứ ba kia, người ta suy đoán có thể là của bà Rebecca Clayton. Rebecca mất trước Sara và Asenath vài tuần và đều có mối quan hệ họ hàng với nhau. Điều khiến nhiều người băn khoăn hơn hết là tại sao cả ba người đều mất khi ở độ tuổi còn trẻ, và chỉ riêng ngôi mộ của Rebecca bị di dời trong khi mộ của Sara vẫn còn đó cho tới ngày nay.
Không một ai biết chắc chắn về những điều bí ẩn này. Cho đến ngày nay, hai ngôi mộ bọc lồng sắt vẫn tồn tại xung quanh những lời kể truyền miệng từ xa xưa của người dân.
Trí Thức Trẻ
Người cho rằng hai người đã khuất bị ma cà rồng, ma sói cắn vì vậy gia đình họ phải bọc lồng sắt để trấn yểm những hồn ma quỷ dữ, người lại cho rằng làm như vậy để tránh bị đào trộm mộ.
Không giống như những ngôi mộ khác, tại một nghĩa trang nhỏ ở ngoại ô thị trấn Catawissa, bang Pennsylvania, Mỹ, những du khách ghé qua sẽ không khỏi tò mò trước hai ngôi mộ được bọc lồng sắt cẩn thận.
Thoạt nhìn qua, chiếc lồng sắt được thiết kế kiên cố như một chiếc lồng chim cỡ lớn bao bọc lấy hai ngôi mộ nằm dưới lòng đất. Một ngôi được khắc tên bà Sara Ann Boone mất năm 1852, vợ ông Ransloe Boone. Ngôi còn lại khắc tên bà Asenath Thomas cũng mất năm 1852, vợ ông John F. Thomas. Sarah là chị gái của chồng Asenath vì vậy hai người này có mối quan hệ họ hàng với nhau. Cả hai đều chết trẻ, đặc biệt, Sarah cũng mất sau vài ngày khi Asenath qua đời.
Theo những vết tích còn lại, ở đây từng có một ngôi mộ thứ ba nhưng đã được dời đi vào những năm 1930 trong dự án trùng tu. Trong một số báo đăng vào khoảng những năm 1960, người ta cũng có nhắc đến việc di dời mộ này nhưng không ai biết tên chính xác của người nằm dưới ngôi mộ thứ ba.
Mặc dù không biết có bao nhiêu phần trăm là sự thật, nhưng những người dân ở đây đồn lại rằng Sara và Asenath đều chết do bị ma cà rồng hoặc ma sói cắn. Gia đình họ lo sợ hai phụ nữ trẻ sẽ đội mồ sống dậy, vì vậy họ đã làm những lồng sắt như một cách trấn yểm. Nhưng cũng có những người lại kháo nhau rằng, chiếc lồng sắt được làm ra với mục đích bảo vệ ngôi mộ, tránh bị những kẻ đào trộm mộ nhòm ngó. Vào thế kỷ thứ mười chín, chuyện đào trộm mộ thường xảy ra ở nơi đây, vì vậy giả thiết thứ hai được đưa ra cũng có tính thuyết phục cao.
Về ngôi mộ bí ẩn thứ ba kia, người ta suy đoán có thể là của bà Rebecca Clayton. Rebecca mất trước Sara và Asenath vài tuần và đều có mối quan hệ họ hàng với nhau. Điều khiến nhiều người băn khoăn hơn hết là tại sao cả ba người đều mất khi ở độ tuổi còn trẻ, và chỉ riêng ngôi mộ của Rebecca bị di dời trong khi mộ của Sara vẫn còn đó cho tới ngày nay.
Không một ai biết chắc chắn về những điều bí ẩn này. Cho đến ngày nay, hai ngôi mộ bọc lồng sắt vẫn tồn tại xung quanh những lời kể truyền miệng từ xa xưa của người dân.
Trí Thức Trẻ
#638
Gửi vào 01/06/2013 - 23:47
BA CHỊ EM CÓ KHẢ NĂNG NÓI VỚI HỒN MA
Năm 1848, dư luận Mỹ dậy sóng khi ba chị em nhà Fox tuyên bố họ có khả năng nói chuyện với những hồn ma.
Nhắc đến Hội Duy tâm nổi tiếng những năm 1840-1920, đặc biệt là ở những nước nói tiếng Anh, người ta sẽ không thể nào bỏ qua những nhân vật chủ chốt, đóng vai trò quan trọng trong việc sáng lập hội, đó là ba chị em nhà Fox, gồm Leah 1814-1890. Margaret 1833-1893. và Kate Fox 1837-1892. Thời đó, ba chị em nhà Fox được biết đến nhờ khả năng nói chuyện với những linh hồn đã khuất.
Vào năm 1848, hai cô em út là Kate, lúc đó mười một tuổi và Margaret, mười lăm tuổi sống cùng bố mẹ ở một ngôi nhà nhỏ ở Hydesville, bang New York, Mỹ. Ngày đó, Hydesville lúc đó chưa phát triển như thành phố mà chỉ là một ngôi làng. Ngôi nhà gia đình Fox ở trước đó đã nổi tiếng là bị ma ám, nhưng phải đến mãi cuối tháng 3-1848, cả gia đình họ mới cảm thấy khiếp sợ khi trong nhà liên tiếp xuất hiện những âm thanh đáng sợ như tiếng gõ cửa, hay tiếng di chuyển đồ vật.
Tối ngày 31-3 năm đó, mặc dù biết đó có thể là một hồn ma, nhưng Kate vẫn quyết định diện kiến kẻ giấu mặt đã gây ra tiếng động kia. Khi được hỏi về số tuổi của các cô bé, hồn ma có thể gõ đúng số tuổi của từng người một.
Vài năm sau, Kate và Margaret vẫn thường xuyên liên hệ với linh hồn này. Thông qua những tiếng gõ để ra hiệu "có" hoặc "không" qua mỗi câu hỏi, linh hồn đã truyền tải thông điệp mà họ muốn nói tới hai cô bé.
Hồn ma này được Kate và Margaret gọi là "Ông Splitfoot" (tạm dịch ngón chân tách), từng là một người bán hàng rong có tên Charles B. Rosma. Nhưng 5 năm trước đó, ông Splitfoot đã bị giết hại và chôn trong hầm rượu của ngôi nhà gia đình Fox ở. Những người hàng xóm quanh đó truyền tai nhau rằng chắc chắn đã có người bị sát hại trong ngôi nhà. Chị em nhà Fox lúc đó như là người giao liên giữa người dân và hồn ma. Họ lùng sục khắp vùng để hỏi tên của chủ nhà cũ. Cuối cùng, dân làng đã gán tội danh sát nhân cho một người đàn ông vô tội tên là Bell và xa lánh ông ta.
Sau đó Kate rời khỏi ngôi nhà cũ ở Hydesville, chuyển tới ở với chị cả Leah, còn Margaret cũng tới ở cùng nhà với anh trai David, những tiếng gõ vẫn đi theo họ. Kể từ khi được một cặp vợ chồng là bạn của gia đình giới thiệu với những thành viên chủ chốt của Hội Duy tâm, cả ba chị em nhà Fox nổi tiếng khắp thành phố New York với khả năng gọi hồn và trò chuyện với người đã khuất vào thời điểm năm 1850.
Bỗng vào thời điểm năm 1888, Margaret thú nhận những âm thanh lạ trước kia họ từng nghe thấy đều chỉ là trò lừa bịp của chính họ, danh tiếng của ba chị em cũng bị phá hủy kể từ đó mặc dù ngay năm sau Margaret đã xin rút lại thú tội đó. Điều kỳ lạ, chỉ trong 5 năm sau, cả ba chị em nhà Fox đã qua đời trong sự nghèo khó, bần cùng và bị bạn bè quay lưng.
Năm 1904, người ta đã phát hiện ra hài cốt của được cho là của hồn ma người bán hàng rong bị sát hại năm xưa. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Joe Nickell đã đưa ra kết luận, bộ xương nằm trong hầm rượu nhà Fox có một số là của động vật. Đồng thời, không có bất cứ thông tin nào về người bán hàng rong nào được tìm thấy vào thời điểm xảy ra vụ việc.
Mặc dù Margaret thú nhận những tiếng động ghê rợn mà Kate và Margaret nhắc đến hồi nhỏ đều là do họ tự tạo ra, nhưng nhiều người vẫn đặt ra câu hỏi về nguồn gốc những hiểu biết về thế giới tâm linh đến siêu đẳng của ba chị em Fox. Và nếu không phải là người có khả năng thực sự, vậy thì tại sao danh tiếng của họ vẫn được nhiều người biết tới đến vậy. Những bí mật đó vẫn không ai hiểu được ngoài ba chị em họ.
Trí Thức Trẻ
Năm 1848, dư luận Mỹ dậy sóng khi ba chị em nhà Fox tuyên bố họ có khả năng nói chuyện với những hồn ma.
Nhắc đến Hội Duy tâm nổi tiếng những năm 1840-1920, đặc biệt là ở những nước nói tiếng Anh, người ta sẽ không thể nào bỏ qua những nhân vật chủ chốt, đóng vai trò quan trọng trong việc sáng lập hội, đó là ba chị em nhà Fox, gồm Leah 1814-1890. Margaret 1833-1893. và Kate Fox 1837-1892. Thời đó, ba chị em nhà Fox được biết đến nhờ khả năng nói chuyện với những linh hồn đã khuất.
Vào năm 1848, hai cô em út là Kate, lúc đó mười một tuổi và Margaret, mười lăm tuổi sống cùng bố mẹ ở một ngôi nhà nhỏ ở Hydesville, bang New York, Mỹ. Ngày đó, Hydesville lúc đó chưa phát triển như thành phố mà chỉ là một ngôi làng. Ngôi nhà gia đình Fox ở trước đó đã nổi tiếng là bị ma ám, nhưng phải đến mãi cuối tháng 3-1848, cả gia đình họ mới cảm thấy khiếp sợ khi trong nhà liên tiếp xuất hiện những âm thanh đáng sợ như tiếng gõ cửa, hay tiếng di chuyển đồ vật.
Tối ngày 31-3 năm đó, mặc dù biết đó có thể là một hồn ma, nhưng Kate vẫn quyết định diện kiến kẻ giấu mặt đã gây ra tiếng động kia. Khi được hỏi về số tuổi của các cô bé, hồn ma có thể gõ đúng số tuổi của từng người một.
Vài năm sau, Kate và Margaret vẫn thường xuyên liên hệ với linh hồn này. Thông qua những tiếng gõ để ra hiệu "có" hoặc "không" qua mỗi câu hỏi, linh hồn đã truyền tải thông điệp mà họ muốn nói tới hai cô bé.
Hồn ma này được Kate và Margaret gọi là "Ông Splitfoot" (tạm dịch ngón chân tách), từng là một người bán hàng rong có tên Charles B. Rosma. Nhưng 5 năm trước đó, ông Splitfoot đã bị giết hại và chôn trong hầm rượu của ngôi nhà gia đình Fox ở. Những người hàng xóm quanh đó truyền tai nhau rằng chắc chắn đã có người bị sát hại trong ngôi nhà. Chị em nhà Fox lúc đó như là người giao liên giữa người dân và hồn ma. Họ lùng sục khắp vùng để hỏi tên của chủ nhà cũ. Cuối cùng, dân làng đã gán tội danh sát nhân cho một người đàn ông vô tội tên là Bell và xa lánh ông ta.
Sau đó Kate rời khỏi ngôi nhà cũ ở Hydesville, chuyển tới ở với chị cả Leah, còn Margaret cũng tới ở cùng nhà với anh trai David, những tiếng gõ vẫn đi theo họ. Kể từ khi được một cặp vợ chồng là bạn của gia đình giới thiệu với những thành viên chủ chốt của Hội Duy tâm, cả ba chị em nhà Fox nổi tiếng khắp thành phố New York với khả năng gọi hồn và trò chuyện với người đã khuất vào thời điểm năm 1850.
Bỗng vào thời điểm năm 1888, Margaret thú nhận những âm thanh lạ trước kia họ từng nghe thấy đều chỉ là trò lừa bịp của chính họ, danh tiếng của ba chị em cũng bị phá hủy kể từ đó mặc dù ngay năm sau Margaret đã xin rút lại thú tội đó. Điều kỳ lạ, chỉ trong 5 năm sau, cả ba chị em nhà Fox đã qua đời trong sự nghèo khó, bần cùng và bị bạn bè quay lưng.
Năm 1904, người ta đã phát hiện ra hài cốt của được cho là của hồn ma người bán hàng rong bị sát hại năm xưa. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Joe Nickell đã đưa ra kết luận, bộ xương nằm trong hầm rượu nhà Fox có một số là của động vật. Đồng thời, không có bất cứ thông tin nào về người bán hàng rong nào được tìm thấy vào thời điểm xảy ra vụ việc.
Mặc dù Margaret thú nhận những tiếng động ghê rợn mà Kate và Margaret nhắc đến hồi nhỏ đều là do họ tự tạo ra, nhưng nhiều người vẫn đặt ra câu hỏi về nguồn gốc những hiểu biết về thế giới tâm linh đến siêu đẳng của ba chị em Fox. Và nếu không phải là người có khả năng thực sự, vậy thì tại sao danh tiếng của họ vẫn được nhiều người biết tới đến vậy. Những bí mật đó vẫn không ai hiểu được ngoài ba chị em họ.
Trí Thức Trẻ
#639
Gửi vào 02/06/2013 - 00:02
NHỮNG LỜI ĐỒN RÙNG RƠN VỀ VIỆC TRẤN YỂM
Lời đồn ở khu mộ cổ Đống Thếch tại Hòa Bình là khu địa linh chôn cất thân nhân, xác của các dòng họ nằm ở hàng danh gia vọng tộc Đinh Công xứ Mường. Khi tiến hành mai táng, những quan lang đã cho người sử dụng trinh nữ để yểm bùa và tẩm thuốc độc khiến những kẻ trộm mộ phải chịu sự trừng phạt đau đớn.
Trước khi chôn, các cô gái được tắm rửa sạch sẽ, ăn của ngon vật lạ và ngậm sâm khi chôn. Sau này khi khai quật mộ, người ta phát hiện ra rất nhiều hình nộm người mà theo truyền thuyết, các hình nộm này đều được yểm bùa, ngâm trong thuốc độc, ai chạm vào, chất độc sẽ ngấm vào người cho đến chết.
Những câu chuyện truyền tai rùng rợn đó còn chưa rõ thực hư. Tuy vậy, có thể khẳng định chắc chắn rằng khu mộ cổ Đống Thếch mang giá trị văn hóa, khảo cổ lớn lao cho các nhà nghiên cứu văn hóa Mường.
Nhiều người dân xã Vân Côn, huyện Hoài Đức, Hà Nội kể, dưới chân ngôi miếu nằm trên bốn tảng đá trắng ở đỉnh núi Bạch Tuyết có đến hàng tấn vàng bạc châu báu được chứa đầy trong một cái hầm đá rộng bằng gian nhà. Kho báu đó do người Tàu để lại từ hàng ngàn năm trước nhưng không ai có thể đột nhập để lấy đi bất cứ cái gì vì nó đã được yểm bùa bằng linh hồn trinh nữ.
Trong quá trình xây dựng, chúng cho người đi lùng bắt một thiếu nữ tuổi mười ba còn trinh trắng, xinh đẹp tuyệt trần về nuôi dưỡng suốt nhiều ngày. Bữa nào cô cũng được ăn sơn hào hải vị, tắm gội bằng nước thơm cho thân thể sạch sẽ, tinh khiết. Đến khi căn hầm được xây xong, bọn chúng đem chôn sống thiếu nữ đồng trinh kia ngay nơi cửa hầm cùng với một con rùa để làm thần giữ của.
Từ đó, có nhiều câu chuyện thần thánh được người dân ở đây truyền tai nhau xung quanh kho báu đồng trinh kỳ bí. Rằng, có mấy người bạo gan, hám của, thuê thợ thuyền đào bới, truy tìm kho báu dưới chân miếu thiêng, lúc đào thấy một con rùa đang nằm với hàng tấn vàng bạc chói lóa, sáng lòa dưới hố, khi mang lên toàn bùn đen, đất đỏ.
Tuy nhiên theo lời Trưởng Ban kiến thiết thôn Ninh Thượng cho biết, những câu chuyện ly kỳ đó chỉ là tin đồn. Thanh niên thôn Cát Bàng xưa có đào xem thực hư kho báu đồng trinh thế nào, nhưng chỉ thấy toàn đất đá. Và người dân trong vùng kể lại, chưa có ai có kết cục bi thảm như lời đồn thổi.
Ngày trước cả mấy trăm hộ ở xứ Mường Rụng vẫn dùng nguồn nước chảy từ chân núi Đống Thả. Người ta gọi đó là con mương Khèn. Con mương này đã được dẫn đi khắp các cánh đồng. Mặc dù những năm hạn hán, khắp các vùng xung quanh đều không có nước dùng nhưng ở thu lũng này vẫn còn nước tưới cho khắp các khóm lúa.
Biết được điều đó, dòng họ Quách Ngọc tiến hành âm mưu bá nghiệp xứ Mường Rụng với nhiều thủ đoạn hiểm ác. Họ tìm cách chơi xấu cực thịnh của dòng họ Quách Công bằng cách phá thế hình chân rồng. Kẻ nội gián đã thuyết phục nhà lang Quách Công cần đào một cái mương để đưa nước đến cánh đồng đang khô cạn.
Vì thương dân tình, lại không am hiểu về phong thủy, nhà lang đã không nghe lời khuyên can của các cụ già làng. Lang Mường huy động dân làng đào con mương dẫn nước về bản. Âm mưu phá hình chân rồng đã thành công. Hai con mương khác nhau chumå đầu lại và đuôi tỏa chi chít. Từ thế rồng bay biến thành hình cái chân gà.
Khi đã phá xong thế hình đất hình rồng, dòng Quách Ngọc lại tìm cách trấn yểm. Họ thấy ở giữa con mương có một ngụn nước quanh năm trong vắt. Nguồn nước này mát rượi, mùi thơm là lạ. Dân làng uống nước này ít khi bị ốm vặt. Nước dồi dào đến nỗi tỏa đi tưới cho các cánh đồng lúa quanh năm mà không cạn. Dòng Quách Công quyết yểm bùa trấn con Mương Khè.
Họ Quách Ngọc dùng con trâu trắng làm bùa. Trong văn hóa Mường, con trâu trắng là biểu tượng cho sự huyền bí, của những điều không may mắn. Mỗi khi người dân gặp chuyện quái gở họ thịt trâu trắng để trừ tà. Khi dòng họ có những chuyện không hay như có nhiều người chửa hoang, hay dòng họ có nhiều người chết trẻ, hay điều gở, bất thường là cả họ lại phải thịt trâu trắng để giải hạn.
Ngày ấy, ở Lang Rụng có một cái giếng bên cạnh tảng đá to phẳng đã bạc màu bên miệng. Tại chiếc giếng này, ai cũng thấy có khắc hình con phượng. Trước đây, đó chỉ là ngụn nước nhưng khi được yểm bùa thì nó mang cái tên là giếng độc. Dòng họ Quách Ngọc đã bí mật mời thầy cúng giỏi đến để làm lễ yểm bùa vào giếng bằng việc thịt con trâu trắng. Họ thả hết toàn bộ số thịt đó vào giếng nước với mưu đồ làm cho linh khí của nguồn nước tinh khiết biến mất. Ngày ấy, người ta quan niệm rằng, thịt con trâu trắng sẽ làm cho giếng nước mất thiêng.
Sự việc mộ của bà mẹ liệt sĩ Nguyễn Thị Trác, thọ chín mươi bốn tuổi, đã xảy ra vào năm 2012 đã gây sự kinh ngạc, lo lắng của người dân xã Vĩnh Khúc, Văn Giang, Hưng Yên.
Ngày 17-4-2012, tức là tròn mười lăm ngày kể từ ngày cụ Trác được chôn cất tại nghĩa trang thôn, bà Lưu Thị Khiển sáu mươi tám tuổi, và con trai là Lê Văn Hậuba mươi tuổi, đang làm đồng ở gần nghĩa trang thì nhìn thấy ông Đỗ Văn Huấn, người cùng làng, sinh năm 1963, chôn một số thứ xuống khu vực mộ cụ Nguyễn Thị Trác.
Khi được biết tin, bà Phấn cùng anh em, con cháu đã mời công an huyện Văn Giang tới xem xét và kiểm tra. Sau khi xem xét, các cán bộ công an huyện đã đào một khoảng đất ở dưới chiếc vòng hoa. Đến độ sâu khoảng bốn chục cm, thì phát hiện một đầu chó còn nguyên lông màu vàng sẫm, trong miệng chó ngậm một tờ giấy được viết chữ Nho, ba nắm nhang, một nắm muối trộn gạo, chín tờ tiền âm phủ, ba quả trứng, ba chiếc đinh.
Theo lời bà Trần Thị Phấn, những chữ trong giấy được người nhà bà mang đi dịch có nghĩa là “Ngọc Hoàng lệnh hãm ngục hình quỷ”. Do đó, bà cho rằng, mộ của mẹ bà đã bị yểm bùa.
Liên quan tới lá bùa này, nhà nghiên cứu Bùi Quốc Hùng, thuộc Trung tâm nghiên cứu Lý học Phương Đông cho biết. Ông nói:
- Loại bùa này đã được nhắc tới trong cuốn sách "Tam giáo chính tông – Truyền độ chư phù chú bí quyết." Đây là tài liệu của các Pháp sư, Phù thủy miền Bắc có nguồn gốc từ Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Phòng, Nam Định.
Bùa này thuộc ngành Lỗ Ban Sát. Xin được nói thêm, Lỗ Ban Sát là một trong ba tông phái của Lỗ Ban Phái. Môn phái có xuất xứ từ Trung Hoa, được một người thợ mộc rất giỏi về các loại bùa chú chữa bệnh, trừ tà...sáng lập. Khi du nhập vào Việt Nam, Lỗ Ban Phái theo chân các Thầy bùa, Phù thủy Bắc Bộ trong các nghi lễ yểm sát, trừ bệnh.
Nhà nghiên cứu này cho rằng, người tạo ra loại bùa chú được yểm dưới mộ cụ Trác chỉ là học mót hoặc chưa hề được học về bùa chú. Hay nói cách khác, tác dụng duy nhất mà nó làm được là gây nên sự hoang mang, sợ hãi cho những người trong gia đình người đã khuất.
Nhà nghiên cứu Bùi Quốc Hùng nói thêm, theo quan niệm dân gian, dù bùa chú có phát huy được tác dụng hay không, nếu ai đó có ý định làm bùa chú hại người, thì gia đình, con cái, họ hàng của người làm bùa, cũng phải chịu những hậu quả thảm khốc.
Nếu cho rằng một hình nhân, một cục đá, hay những thứ vô tri nào đó có thể yểm bùa, hay phá bùa yểm bên trong, do một số đạo sĩ hay pháp sư tinh thông pháp thuật làm ra, có thể đẩy một cộng đồng người nào đó vào thế suy vi, lụn bại hay hưng thịnh, phú cường, thì giải thích ra sao về sự chênh lệch giàu nghèo. Ta nên tin vào tri thức khoa học thực tiễn, vào năng lực lao động và sáng tạo trong cuộc sống hiện tại.
Tổng hợp
Lời đồn ở khu mộ cổ Đống Thếch tại Hòa Bình là khu địa linh chôn cất thân nhân, xác của các dòng họ nằm ở hàng danh gia vọng tộc Đinh Công xứ Mường. Khi tiến hành mai táng, những quan lang đã cho người sử dụng trinh nữ để yểm bùa và tẩm thuốc độc khiến những kẻ trộm mộ phải chịu sự trừng phạt đau đớn.
Trước khi chôn, các cô gái được tắm rửa sạch sẽ, ăn của ngon vật lạ và ngậm sâm khi chôn. Sau này khi khai quật mộ, người ta phát hiện ra rất nhiều hình nộm người mà theo truyền thuyết, các hình nộm này đều được yểm bùa, ngâm trong thuốc độc, ai chạm vào, chất độc sẽ ngấm vào người cho đến chết.
Những câu chuyện truyền tai rùng rợn đó còn chưa rõ thực hư. Tuy vậy, có thể khẳng định chắc chắn rằng khu mộ cổ Đống Thếch mang giá trị văn hóa, khảo cổ lớn lao cho các nhà nghiên cứu văn hóa Mường.
Nhiều người dân xã Vân Côn, huyện Hoài Đức, Hà Nội kể, dưới chân ngôi miếu nằm trên bốn tảng đá trắng ở đỉnh núi Bạch Tuyết có đến hàng tấn vàng bạc châu báu được chứa đầy trong một cái hầm đá rộng bằng gian nhà. Kho báu đó do người Tàu để lại từ hàng ngàn năm trước nhưng không ai có thể đột nhập để lấy đi bất cứ cái gì vì nó đã được yểm bùa bằng linh hồn trinh nữ.
Trong quá trình xây dựng, chúng cho người đi lùng bắt một thiếu nữ tuổi mười ba còn trinh trắng, xinh đẹp tuyệt trần về nuôi dưỡng suốt nhiều ngày. Bữa nào cô cũng được ăn sơn hào hải vị, tắm gội bằng nước thơm cho thân thể sạch sẽ, tinh khiết. Đến khi căn hầm được xây xong, bọn chúng đem chôn sống thiếu nữ đồng trinh kia ngay nơi cửa hầm cùng với một con rùa để làm thần giữ của.
Từ đó, có nhiều câu chuyện thần thánh được người dân ở đây truyền tai nhau xung quanh kho báu đồng trinh kỳ bí. Rằng, có mấy người bạo gan, hám của, thuê thợ thuyền đào bới, truy tìm kho báu dưới chân miếu thiêng, lúc đào thấy một con rùa đang nằm với hàng tấn vàng bạc chói lóa, sáng lòa dưới hố, khi mang lên toàn bùn đen, đất đỏ.
Tuy nhiên theo lời Trưởng Ban kiến thiết thôn Ninh Thượng cho biết, những câu chuyện ly kỳ đó chỉ là tin đồn. Thanh niên thôn Cát Bàng xưa có đào xem thực hư kho báu đồng trinh thế nào, nhưng chỉ thấy toàn đất đá. Và người dân trong vùng kể lại, chưa có ai có kết cục bi thảm như lời đồn thổi.
Ngày trước cả mấy trăm hộ ở xứ Mường Rụng vẫn dùng nguồn nước chảy từ chân núi Đống Thả. Người ta gọi đó là con mương Khèn. Con mương này đã được dẫn đi khắp các cánh đồng. Mặc dù những năm hạn hán, khắp các vùng xung quanh đều không có nước dùng nhưng ở thu lũng này vẫn còn nước tưới cho khắp các khóm lúa.
Biết được điều đó, dòng họ Quách Ngọc tiến hành âm mưu bá nghiệp xứ Mường Rụng với nhiều thủ đoạn hiểm ác. Họ tìm cách chơi xấu cực thịnh của dòng họ Quách Công bằng cách phá thế hình chân rồng. Kẻ nội gián đã thuyết phục nhà lang Quách Công cần đào một cái mương để đưa nước đến cánh đồng đang khô cạn.
Vì thương dân tình, lại không am hiểu về phong thủy, nhà lang đã không nghe lời khuyên can của các cụ già làng. Lang Mường huy động dân làng đào con mương dẫn nước về bản. Âm mưu phá hình chân rồng đã thành công. Hai con mương khác nhau chumå đầu lại và đuôi tỏa chi chít. Từ thế rồng bay biến thành hình cái chân gà.
Khi đã phá xong thế hình đất hình rồng, dòng Quách Ngọc lại tìm cách trấn yểm. Họ thấy ở giữa con mương có một ngụn nước quanh năm trong vắt. Nguồn nước này mát rượi, mùi thơm là lạ. Dân làng uống nước này ít khi bị ốm vặt. Nước dồi dào đến nỗi tỏa đi tưới cho các cánh đồng lúa quanh năm mà không cạn. Dòng Quách Công quyết yểm bùa trấn con Mương Khè.
Họ Quách Ngọc dùng con trâu trắng làm bùa. Trong văn hóa Mường, con trâu trắng là biểu tượng cho sự huyền bí, của những điều không may mắn. Mỗi khi người dân gặp chuyện quái gở họ thịt trâu trắng để trừ tà. Khi dòng họ có những chuyện không hay như có nhiều người chửa hoang, hay dòng họ có nhiều người chết trẻ, hay điều gở, bất thường là cả họ lại phải thịt trâu trắng để giải hạn.
Ngày ấy, ở Lang Rụng có một cái giếng bên cạnh tảng đá to phẳng đã bạc màu bên miệng. Tại chiếc giếng này, ai cũng thấy có khắc hình con phượng. Trước đây, đó chỉ là ngụn nước nhưng khi được yểm bùa thì nó mang cái tên là giếng độc. Dòng họ Quách Ngọc đã bí mật mời thầy cúng giỏi đến để làm lễ yểm bùa vào giếng bằng việc thịt con trâu trắng. Họ thả hết toàn bộ số thịt đó vào giếng nước với mưu đồ làm cho linh khí của nguồn nước tinh khiết biến mất. Ngày ấy, người ta quan niệm rằng, thịt con trâu trắng sẽ làm cho giếng nước mất thiêng.
Sự việc mộ của bà mẹ liệt sĩ Nguyễn Thị Trác, thọ chín mươi bốn tuổi, đã xảy ra vào năm 2012 đã gây sự kinh ngạc, lo lắng của người dân xã Vĩnh Khúc, Văn Giang, Hưng Yên.
Ngày 17-4-2012, tức là tròn mười lăm ngày kể từ ngày cụ Trác được chôn cất tại nghĩa trang thôn, bà Lưu Thị Khiển sáu mươi tám tuổi, và con trai là Lê Văn Hậuba mươi tuổi, đang làm đồng ở gần nghĩa trang thì nhìn thấy ông Đỗ Văn Huấn, người cùng làng, sinh năm 1963, chôn một số thứ xuống khu vực mộ cụ Nguyễn Thị Trác.
Khi được biết tin, bà Phấn cùng anh em, con cháu đã mời công an huyện Văn Giang tới xem xét và kiểm tra. Sau khi xem xét, các cán bộ công an huyện đã đào một khoảng đất ở dưới chiếc vòng hoa. Đến độ sâu khoảng bốn chục cm, thì phát hiện một đầu chó còn nguyên lông màu vàng sẫm, trong miệng chó ngậm một tờ giấy được viết chữ Nho, ba nắm nhang, một nắm muối trộn gạo, chín tờ tiền âm phủ, ba quả trứng, ba chiếc đinh.
Theo lời bà Trần Thị Phấn, những chữ trong giấy được người nhà bà mang đi dịch có nghĩa là “Ngọc Hoàng lệnh hãm ngục hình quỷ”. Do đó, bà cho rằng, mộ của mẹ bà đã bị yểm bùa.
Liên quan tới lá bùa này, nhà nghiên cứu Bùi Quốc Hùng, thuộc Trung tâm nghiên cứu Lý học Phương Đông cho biết. Ông nói:
- Loại bùa này đã được nhắc tới trong cuốn sách "Tam giáo chính tông – Truyền độ chư phù chú bí quyết." Đây là tài liệu của các Pháp sư, Phù thủy miền Bắc có nguồn gốc từ Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Phòng, Nam Định.
Bùa này thuộc ngành Lỗ Ban Sát. Xin được nói thêm, Lỗ Ban Sát là một trong ba tông phái của Lỗ Ban Phái. Môn phái có xuất xứ từ Trung Hoa, được một người thợ mộc rất giỏi về các loại bùa chú chữa bệnh, trừ tà...sáng lập. Khi du nhập vào Việt Nam, Lỗ Ban Phái theo chân các Thầy bùa, Phù thủy Bắc Bộ trong các nghi lễ yểm sát, trừ bệnh.
Nhà nghiên cứu này cho rằng, người tạo ra loại bùa chú được yểm dưới mộ cụ Trác chỉ là học mót hoặc chưa hề được học về bùa chú. Hay nói cách khác, tác dụng duy nhất mà nó làm được là gây nên sự hoang mang, sợ hãi cho những người trong gia đình người đã khuất.
Nhà nghiên cứu Bùi Quốc Hùng nói thêm, theo quan niệm dân gian, dù bùa chú có phát huy được tác dụng hay không, nếu ai đó có ý định làm bùa chú hại người, thì gia đình, con cái, họ hàng của người làm bùa, cũng phải chịu những hậu quả thảm khốc.
Nếu cho rằng một hình nhân, một cục đá, hay những thứ vô tri nào đó có thể yểm bùa, hay phá bùa yểm bên trong, do một số đạo sĩ hay pháp sư tinh thông pháp thuật làm ra, có thể đẩy một cộng đồng người nào đó vào thế suy vi, lụn bại hay hưng thịnh, phú cường, thì giải thích ra sao về sự chênh lệch giàu nghèo. Ta nên tin vào tri thức khoa học thực tiễn, vào năng lực lao động và sáng tạo trong cuộc sống hiện tại.
Tổng hợp
#640
Gửi vào 02/06/2013 - 00:16
BÍ ẨN TRONG KHU RỪNG NUỐT NGƯỜI Ở HÀ NAM
Khu rừng nguyên sơ rậm rạp nằm sâu trong địa phận xã Liên Sơn, huyện Kim Bảng, Hà Nam, hàng trăm năm nay vẫn khiến con người e dè vì một lời nguyền bí ẩn. Rừng không có tên chính thức, người dân chỉ quen gọi là rừng nuốt người.
Mỗi khi có khách từ xa đến, người dân xã Liên Sơn gần như đều hồ hởi giới thiệu những chuyện kỳ lạ về khu rừng nằm ngay trên địa phận xã. Rừng không có tên gọi chính thức, còn khá nguyên sơ, cây cối um tùm, vẻ đẹp tự nhiên, gần như chưa bị con người và thời gian tác động.
Người dân quanh vùng từ xưa sống dựa vào rừng, nhưng từ khi liên tục xảy ra các vụ mất tích bí ẩn, họ đâm sợ nên ít lai vãng. Công việc kiếm củi hay bẫy chim thú trước nay thường do đàn ông trong làng đảm nhiệm, nhưng đã có nhiều trường hợp vào rừng rồi mất hút không thấy trở ra.
Chủ yếu người bị giữ chân lại đều là thanh niên trai tráng chưa vợ, đều thông thuộc đường đi lối lại nhưng bỗng dưng một ngày không thể tự mình tìm đường ra cho đến khi có người đi tìm dẫn về. Chính sự lạ lùng ấy khiến cho người dân ít khi dám bén mảng đến khu rừng nếu không có chuyện cần thiết.
Nhận thấy vẻ ngạc nhiên hoài nghi của phóng viên, một người dân mau mắn kể lại câu chuyện gần đây nhất mới xảy ra khoảng giữa năm 2007 với gia đình ông Lê Văn Thành, cũng là người trong xã. Khi đấy, nhà ông Thành chuyển đến đây sinh sống chưa được bao lâu, người con trai út mới mười bảy tuổi nghe lời chúng bạn kể về nguồn gốc rùng rợn của khu rừng liền nổi hứng vào cho biết, sẵn tiện bẫy vài chú chim về chơi.
Cậu đi từ đầu giờ chiều đến mãi sập tối vẫn chưa thấy về, người nhà bắt đầu lo lắng bủa đi tìm, hỏi bạn bè lại được biết cậu đã vào rừng từ sớm. Mọi người càng thêm hoảng hốt, quyết tâm thắp đèn tìm kiếm. Tuy nhiên, khu rừng thì rộng, trời lại tối, ngay cả một dấu vết để lần theo cũng không có. Đêm ấy đoàn người đành quay về, sáng sớm hôm sau một lần nữa quay lại tìm kiếm, đến gần trưa thì phát hiện thiếu niên đang ngồi vắt vẻo trên ngọn cây cao ven bờ suối, nhưng người ở dưới gọi thế nào cũng không thưa.
Lúc này mọi người đều ngỡ ngàng sợ hãi vì sự việc diễn ra giống hệt những gì họ vẫn được nghe các cụ trong làng thường kể. Cũng theo lời truyền lại, trong trường hợp này, nếu người quen vô tình gọi tên thì người ở trên cây sẽ giật mình ngã lộn cổ. Do vậy, người nhà phải nhờ một thanh niên khỏe mạnh nhẹ nhàng trèo lên cây, dùng dây đưa chàng trai đang trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê xuống đất. Sau một thời gian về nhà nghỉ ngơi, được mọi người chạy chữa, anh này dần dần hồi tỉnh, nhưng hỏi gì cũng không trả lời, cũng không thể nhớ tại sao và bằng cách nào lại có thể trèo lên ngọn cây cao như thế?
Đã xuất hiện nhiều giả thiết khác nhau về nguồn gốc của những sự bí ẩn nói trên. Theo cụ bà Nhâm, năm nay hơn tám mươi tuổi, khu rừng chuyên bắt đàn ông là do trước đây có một cô gái trẻ chết oan ức, linh hồn không siêu thoát nên hay bắt thanh niên vào rừng nhốt lên ngọn cây để trêu ghẹo.
Đầu đuôi câu chuyện từ thời Pháp thuộc, bọn giặc hay càn quét qua làng, mỗi lần như thế chúng đều giở trò cướp bóc, gặp phụ nữ chúng tàn sát rất dã man. Vào một buổi tối trời, cả làng đang yên tĩnh bỗng náo động bởi bọn giặc càn qua bất ngờ. Sau khi lùng sục khắp mọi nơi trong làng giết người cướp của, toán lính phát hiện một cô gái chạy thoát được ra phía khu rừng liền đuổi theo.
Ven rừng có một con sông lớn chảy qua, có ông lão lái đò hiền lành chuyên đưa người qua sông. Cô gái mải miết chạy thẳng đến bến đò thì khẩn thiết xin ông chở giúp sang bên kia. Không may hôm đó trời lại nổi giông bão. Đêm đã khuya, kinh nghiệm chở đò lâu năm cho thấy với thời tiết này, đò chỉ ra giữa sông là đắm nên ông lái không dám chở người.
Bấy giờ, bọn giặc đã đuổi theo sát nút, chúng lớn tiếng dọa nếu ông đưa cô gái qua sông sẽ giết cả hai. Nhìn người con gái khóc lóc van xin thảm thiết, ông lão động lòng thương cảm, lại không biết làm cách nào cứu cô thoát khỏi nanh vuốt bọn giặc nên đã dùng con dao vẫn mang theo dưới đáy đò đâm chết cô gái giúp cô bảo toàn trinh tiết, sau đấy cũng tự vẫn theo. Bọn giặc không làm gì được liền tức tối bỏ đi.
Người trong làng từ đấy đồn đại linh hồn người con gái bị chết oan khuất vẫn lẩn khuất trong khu rừng, khiến những thanh niên vào rừng lạc lối không thể tìm được đường ra, dân làng thường gọi cô là con gái của thần rừng. Một giả thiết khác không liên quan gì đến chuyện hồn trinh nữ trêu người. Theo lời cụ Khang, cũng là một cao niên sống lâu năm tại địa phương, nơi đây vốn rừng thiêng nước độc, chứa nhiều bí mật mà ngay cả người già nhất làng cũng chưa chắc biết hết được.
Khi cụ còn nhỏ, đã nghe người lớn kể, trước kia trong vùng có một thương gia người Trung Quốc sang làm ăn khá phát đạt, của cải nhiều đếm không xuể. Sau nghe tin gia đình ở bên kia có việc khẩn cấp, ông ta liền bán vội hết gia sản ở Việt Nam, gói ghém quay trở về. Nhưng tiền của quá lớn không thể mang theo hết được, ông ta liền tìm chỗ cất giấu trong rừng và mua một người con gái xinh đẹp còn trinh tiết, trấn yểm bắt làm thần coi giữ kho báu.
Vào những năm cuối thập niên chín mươi của thế kỷ trước, có một nhóm người làng vào rừng săn bắn bỗng tình cờ phát hiện một cái hang, thoạt nhìn chưa biết hang tự nhiên hay do nhân tạo nhưng rất kỳ lạ. Hang toàn bằng đá xanh khá kiên cố, chiều dài và chiều rộng bằng nhau khoảng gần 1m tạo nên một khoảng trống vuông thành sắc cạnh.
Toán người tò mò lần tìm vào hang, lối dẫn xuống dốc dần, càng xuống sâu đường càng ẩm ướt và trơn trượt. Lúc này tất cả đều cảm thấy khó thở và có cảm giác lạnh lẽo bủa vây cơ thể. Mọi người thấy ớn lạnh bàn nhau trở lên. Họ quay về kể cho người nhà và xóm giềng biết chuyện, nhưng không hiểu vì sao chỉ trong vòng một tháng những thành viên trong đoàn hôm trước đều lần lượt mắc phải những tai họa kỳ lạ, người nhẹ thì thương tật, nặng thì mất mạng.
Có một gia đình trong số họ đi xem bói được thầy phán đấy chính là hang chôn kho báu của người Tàu, được trấn yểm bằng thần giữ của, vì những người này tự ý đột nhập nên bị trừng phạt mang tai, mắc nạn. Một số người trong làng nghe nói thế liền họp nhau quay trở lại nơi cũ đào bới mong tìm được của nả, nhưng mấy chục trai tráng hì hục đào xới từ sáng đến tối, sâu xuống lòng đất gần hai chục mét vẫn không tìm thấy gì lạ.
Không ngờ sáng hôm sau quay trở lại thì cái hang hôm qua đã biến thành hố sâu hoắm, ngay cả cửa hang bằng đá cũng biến mất, chỉ còn miệng lỗ bằng đất dẫn xuống cái hố to trống trơn. Tất cả mọi người chứng kiến đều nổi gai ốc kinh sợ, một số người già trong làng cho rằng: Thần giữ của linh thiêng, biết có người phát hiện ra kho báu đến đào bới nên đã chuyển đi nơi khác.
Từ đấy người ra vào khu rừng càng thưa thớt. Nhiều câu chuyện khác nhau đã được truyền tụng lại qua nhiều thế hệ, những người dân sinh ra và sống ở đây dường như không để ý thắc mắc về độ xác thực của nó. Họ nhắc đến khu rừng nuốt người một cách vừa thân thương vừa kính cẩn. Khu rừng hầu như còn nguyên sơ với những tán cây lớn đan xen vào nhau âm u, rậm rạp, lại thêm nhiều côn trùng, rắn rết, con người ít lai vãng nên càng khó giải thích cặn kẽ những lời đồn đại xung quanh.
Thêm vào đó, những chuyện kỳ bí từ xưa càng làm cho mọi người e dè ngại thâm nhập khám phá tìm hiểu, khu rừng trải qua bao nhiêu năm vẫn được bao bọc một màu sắc linh thiêng, ma mị. Có lẽ một phần nhờ thế mà nó vẫn may mắn được bảo toàn, trong khi rất nhiều cánh rừng khác đang đứng trước nguy cơ bị tàn phá, để khai thác tài nguyên.
PLVN
Khu rừng nguyên sơ rậm rạp nằm sâu trong địa phận xã Liên Sơn, huyện Kim Bảng, Hà Nam, hàng trăm năm nay vẫn khiến con người e dè vì một lời nguyền bí ẩn. Rừng không có tên chính thức, người dân chỉ quen gọi là rừng nuốt người.
Mỗi khi có khách từ xa đến, người dân xã Liên Sơn gần như đều hồ hởi giới thiệu những chuyện kỳ lạ về khu rừng nằm ngay trên địa phận xã. Rừng không có tên gọi chính thức, còn khá nguyên sơ, cây cối um tùm, vẻ đẹp tự nhiên, gần như chưa bị con người và thời gian tác động.
Người dân quanh vùng từ xưa sống dựa vào rừng, nhưng từ khi liên tục xảy ra các vụ mất tích bí ẩn, họ đâm sợ nên ít lai vãng. Công việc kiếm củi hay bẫy chim thú trước nay thường do đàn ông trong làng đảm nhiệm, nhưng đã có nhiều trường hợp vào rừng rồi mất hút không thấy trở ra.
Chủ yếu người bị giữ chân lại đều là thanh niên trai tráng chưa vợ, đều thông thuộc đường đi lối lại nhưng bỗng dưng một ngày không thể tự mình tìm đường ra cho đến khi có người đi tìm dẫn về. Chính sự lạ lùng ấy khiến cho người dân ít khi dám bén mảng đến khu rừng nếu không có chuyện cần thiết.
Nhận thấy vẻ ngạc nhiên hoài nghi của phóng viên, một người dân mau mắn kể lại câu chuyện gần đây nhất mới xảy ra khoảng giữa năm 2007 với gia đình ông Lê Văn Thành, cũng là người trong xã. Khi đấy, nhà ông Thành chuyển đến đây sinh sống chưa được bao lâu, người con trai út mới mười bảy tuổi nghe lời chúng bạn kể về nguồn gốc rùng rợn của khu rừng liền nổi hứng vào cho biết, sẵn tiện bẫy vài chú chim về chơi.
Cậu đi từ đầu giờ chiều đến mãi sập tối vẫn chưa thấy về, người nhà bắt đầu lo lắng bủa đi tìm, hỏi bạn bè lại được biết cậu đã vào rừng từ sớm. Mọi người càng thêm hoảng hốt, quyết tâm thắp đèn tìm kiếm. Tuy nhiên, khu rừng thì rộng, trời lại tối, ngay cả một dấu vết để lần theo cũng không có. Đêm ấy đoàn người đành quay về, sáng sớm hôm sau một lần nữa quay lại tìm kiếm, đến gần trưa thì phát hiện thiếu niên đang ngồi vắt vẻo trên ngọn cây cao ven bờ suối, nhưng người ở dưới gọi thế nào cũng không thưa.
Lúc này mọi người đều ngỡ ngàng sợ hãi vì sự việc diễn ra giống hệt những gì họ vẫn được nghe các cụ trong làng thường kể. Cũng theo lời truyền lại, trong trường hợp này, nếu người quen vô tình gọi tên thì người ở trên cây sẽ giật mình ngã lộn cổ. Do vậy, người nhà phải nhờ một thanh niên khỏe mạnh nhẹ nhàng trèo lên cây, dùng dây đưa chàng trai đang trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê xuống đất. Sau một thời gian về nhà nghỉ ngơi, được mọi người chạy chữa, anh này dần dần hồi tỉnh, nhưng hỏi gì cũng không trả lời, cũng không thể nhớ tại sao và bằng cách nào lại có thể trèo lên ngọn cây cao như thế?
Đã xuất hiện nhiều giả thiết khác nhau về nguồn gốc của những sự bí ẩn nói trên. Theo cụ bà Nhâm, năm nay hơn tám mươi tuổi, khu rừng chuyên bắt đàn ông là do trước đây có một cô gái trẻ chết oan ức, linh hồn không siêu thoát nên hay bắt thanh niên vào rừng nhốt lên ngọn cây để trêu ghẹo.
Đầu đuôi câu chuyện từ thời Pháp thuộc, bọn giặc hay càn quét qua làng, mỗi lần như thế chúng đều giở trò cướp bóc, gặp phụ nữ chúng tàn sát rất dã man. Vào một buổi tối trời, cả làng đang yên tĩnh bỗng náo động bởi bọn giặc càn qua bất ngờ. Sau khi lùng sục khắp mọi nơi trong làng giết người cướp của, toán lính phát hiện một cô gái chạy thoát được ra phía khu rừng liền đuổi theo.
Ven rừng có một con sông lớn chảy qua, có ông lão lái đò hiền lành chuyên đưa người qua sông. Cô gái mải miết chạy thẳng đến bến đò thì khẩn thiết xin ông chở giúp sang bên kia. Không may hôm đó trời lại nổi giông bão. Đêm đã khuya, kinh nghiệm chở đò lâu năm cho thấy với thời tiết này, đò chỉ ra giữa sông là đắm nên ông lái không dám chở người.
Bấy giờ, bọn giặc đã đuổi theo sát nút, chúng lớn tiếng dọa nếu ông đưa cô gái qua sông sẽ giết cả hai. Nhìn người con gái khóc lóc van xin thảm thiết, ông lão động lòng thương cảm, lại không biết làm cách nào cứu cô thoát khỏi nanh vuốt bọn giặc nên đã dùng con dao vẫn mang theo dưới đáy đò đâm chết cô gái giúp cô bảo toàn trinh tiết, sau đấy cũng tự vẫn theo. Bọn giặc không làm gì được liền tức tối bỏ đi.
Người trong làng từ đấy đồn đại linh hồn người con gái bị chết oan khuất vẫn lẩn khuất trong khu rừng, khiến những thanh niên vào rừng lạc lối không thể tìm được đường ra, dân làng thường gọi cô là con gái của thần rừng. Một giả thiết khác không liên quan gì đến chuyện hồn trinh nữ trêu người. Theo lời cụ Khang, cũng là một cao niên sống lâu năm tại địa phương, nơi đây vốn rừng thiêng nước độc, chứa nhiều bí mật mà ngay cả người già nhất làng cũng chưa chắc biết hết được.
Khi cụ còn nhỏ, đã nghe người lớn kể, trước kia trong vùng có một thương gia người Trung Quốc sang làm ăn khá phát đạt, của cải nhiều đếm không xuể. Sau nghe tin gia đình ở bên kia có việc khẩn cấp, ông ta liền bán vội hết gia sản ở Việt Nam, gói ghém quay trở về. Nhưng tiền của quá lớn không thể mang theo hết được, ông ta liền tìm chỗ cất giấu trong rừng và mua một người con gái xinh đẹp còn trinh tiết, trấn yểm bắt làm thần coi giữ kho báu.
Vào những năm cuối thập niên chín mươi của thế kỷ trước, có một nhóm người làng vào rừng săn bắn bỗng tình cờ phát hiện một cái hang, thoạt nhìn chưa biết hang tự nhiên hay do nhân tạo nhưng rất kỳ lạ. Hang toàn bằng đá xanh khá kiên cố, chiều dài và chiều rộng bằng nhau khoảng gần 1m tạo nên một khoảng trống vuông thành sắc cạnh.
Toán người tò mò lần tìm vào hang, lối dẫn xuống dốc dần, càng xuống sâu đường càng ẩm ướt và trơn trượt. Lúc này tất cả đều cảm thấy khó thở và có cảm giác lạnh lẽo bủa vây cơ thể. Mọi người thấy ớn lạnh bàn nhau trở lên. Họ quay về kể cho người nhà và xóm giềng biết chuyện, nhưng không hiểu vì sao chỉ trong vòng một tháng những thành viên trong đoàn hôm trước đều lần lượt mắc phải những tai họa kỳ lạ, người nhẹ thì thương tật, nặng thì mất mạng.
Có một gia đình trong số họ đi xem bói được thầy phán đấy chính là hang chôn kho báu của người Tàu, được trấn yểm bằng thần giữ của, vì những người này tự ý đột nhập nên bị trừng phạt mang tai, mắc nạn. Một số người trong làng nghe nói thế liền họp nhau quay trở lại nơi cũ đào bới mong tìm được của nả, nhưng mấy chục trai tráng hì hục đào xới từ sáng đến tối, sâu xuống lòng đất gần hai chục mét vẫn không tìm thấy gì lạ.
Không ngờ sáng hôm sau quay trở lại thì cái hang hôm qua đã biến thành hố sâu hoắm, ngay cả cửa hang bằng đá cũng biến mất, chỉ còn miệng lỗ bằng đất dẫn xuống cái hố to trống trơn. Tất cả mọi người chứng kiến đều nổi gai ốc kinh sợ, một số người già trong làng cho rằng: Thần giữ của linh thiêng, biết có người phát hiện ra kho báu đến đào bới nên đã chuyển đi nơi khác.
Từ đấy người ra vào khu rừng càng thưa thớt. Nhiều câu chuyện khác nhau đã được truyền tụng lại qua nhiều thế hệ, những người dân sinh ra và sống ở đây dường như không để ý thắc mắc về độ xác thực của nó. Họ nhắc đến khu rừng nuốt người một cách vừa thân thương vừa kính cẩn. Khu rừng hầu như còn nguyên sơ với những tán cây lớn đan xen vào nhau âm u, rậm rạp, lại thêm nhiều côn trùng, rắn rết, con người ít lai vãng nên càng khó giải thích cặn kẽ những lời đồn đại xung quanh.
Thêm vào đó, những chuyện kỳ bí từ xưa càng làm cho mọi người e dè ngại thâm nhập khám phá tìm hiểu, khu rừng trải qua bao nhiêu năm vẫn được bao bọc một màu sắc linh thiêng, ma mị. Có lẽ một phần nhờ thế mà nó vẫn may mắn được bảo toàn, trong khi rất nhiều cánh rừng khác đang đứng trước nguy cơ bị tàn phá, để khai thác tài nguyên.
PLVN
#641
Gửi vào 02/06/2013 - 00:32
BÓNG MA BÍ ẨN KHIẾN THƯƠNG NHÂN DỰNG TÓC GÁY
Đoạn phim được cắt ra từ camera giám sát trong khu chợ, đã khiến các thương nhân phải giật mình khi bỗng nhiên các chồng hộp bỗng nhiên đổ, và họ cho rằng đó là do ma làm.
Ngày 4-5-2013 vừa qua, các thương nhân của khu chợ Wellington ở thị trấn Telford, hạt Shropshire, Anh, hết sức ngạc nhiên khi thấy những chồng hộp vốn được xếp ngăn nắp, lại nằm ngổn ngang trên sàn chợ khi họ mở cửa vào buổi sáng.
Đoán chắc rằng có kẻ đã đột nhập vào chợ, họ đã mở camera giám sát ra kiểm tra. Từ trạng thái ngạc nhiên, những thương nhân bắt đầu cảm thấy rợn tóc gáy, khi phát hiện ra thủ phạm của chồng hộp ngổn ngang. Theo thời gian ghi lại từ đoạn phim, vụ việc được xảy ra vào lúc 2 giờ 22 phút sáng cùng ngày.
Kay Boakye, quản lý khu chợ cho biết, khi chồng hộp bị đổ, trong chợ không có bất kỳ ai. Bọn họ xem lại đoạn băng lần nữa và phát hiện ra một bóng đen bước lên cầu thang và đẩy những chiếc hộp xuống.
- Chúng tôi không thể tin vào mắt mình. Tóc gáy tôi dường như dựng đứng hết lên. Ông Boakye nói.
Được biết, khu chợ Wellington tọa lạc ngay trong một khu biệt thự Victorian cổ xưa. Thêm vào đó, tại khu chợ thường xuyên xảy ra những hiện tượng kỳ lạ, nhất là khi đi một mình. Theo ông Boakye, đã có vài trường hợp báo cáo về bóng đen đi theo họ.
Trong một vụ việc khác, khi chỉ có hai người đứng nói chuyện với nhau trong chợ, bỗng nhiên xuất hiện tiếng ho từ phía bên kia của toà nhà. Hai người này bắt đầu sợ hãi và nhìn quanh xem có còn ai khác ngoài họ không, nhưng cuối cùng họ vẫn không tìm thấy.
Ngoài ra, máy sấy tay trong phòng vệ sinh tự bật, hay cửa thường xuyên tự đóng sầm lại, cũng có đôi lần xảy ra tại khu chợ Wellington này.
Sau khi kiểm tra đoạn băng, nhà nghiên cứu PJ Godsell, đến từ Trung tâm Ngoại cảm Mercia cho biết, nơi ông làm việc thường xuyên phải tiếp xúc với rất nhiều hiện tượng như vậy. Với trường hợp của khu chợ Wellington, ông cho biết hiện tượng này có thể giải thích được, nhưng ông cũng không dám khẳng định 100% rằng đó không phải là hiện tượng siêu nhiên.
Trí Thức Trẻ
Đoạn phim được cắt ra từ camera giám sát trong khu chợ, đã khiến các thương nhân phải giật mình khi bỗng nhiên các chồng hộp bỗng nhiên đổ, và họ cho rằng đó là do ma làm.
Ngày 4-5-2013 vừa qua, các thương nhân của khu chợ Wellington ở thị trấn Telford, hạt Shropshire, Anh, hết sức ngạc nhiên khi thấy những chồng hộp vốn được xếp ngăn nắp, lại nằm ngổn ngang trên sàn chợ khi họ mở cửa vào buổi sáng.
Đoán chắc rằng có kẻ đã đột nhập vào chợ, họ đã mở camera giám sát ra kiểm tra. Từ trạng thái ngạc nhiên, những thương nhân bắt đầu cảm thấy rợn tóc gáy, khi phát hiện ra thủ phạm của chồng hộp ngổn ngang. Theo thời gian ghi lại từ đoạn phim, vụ việc được xảy ra vào lúc 2 giờ 22 phút sáng cùng ngày.
Kay Boakye, quản lý khu chợ cho biết, khi chồng hộp bị đổ, trong chợ không có bất kỳ ai. Bọn họ xem lại đoạn băng lần nữa và phát hiện ra một bóng đen bước lên cầu thang và đẩy những chiếc hộp xuống.
- Chúng tôi không thể tin vào mắt mình. Tóc gáy tôi dường như dựng đứng hết lên. Ông Boakye nói.
Được biết, khu chợ Wellington tọa lạc ngay trong một khu biệt thự Victorian cổ xưa. Thêm vào đó, tại khu chợ thường xuyên xảy ra những hiện tượng kỳ lạ, nhất là khi đi một mình. Theo ông Boakye, đã có vài trường hợp báo cáo về bóng đen đi theo họ.
Trong một vụ việc khác, khi chỉ có hai người đứng nói chuyện với nhau trong chợ, bỗng nhiên xuất hiện tiếng ho từ phía bên kia của toà nhà. Hai người này bắt đầu sợ hãi và nhìn quanh xem có còn ai khác ngoài họ không, nhưng cuối cùng họ vẫn không tìm thấy.
Ngoài ra, máy sấy tay trong phòng vệ sinh tự bật, hay cửa thường xuyên tự đóng sầm lại, cũng có đôi lần xảy ra tại khu chợ Wellington này.
Sau khi kiểm tra đoạn băng, nhà nghiên cứu PJ Godsell, đến từ Trung tâm Ngoại cảm Mercia cho biết, nơi ông làm việc thường xuyên phải tiếp xúc với rất nhiều hiện tượng như vậy. Với trường hợp của khu chợ Wellington, ông cho biết hiện tượng này có thể giải thích được, nhưng ông cũng không dám khẳng định 100% rằng đó không phải là hiện tượng siêu nhiên.
Trí Thức Trẻ
#642
Gửi vào 04/06/2013 - 08:41
TRƯỜNG HỌC HOẢNG LOẠN VÌ BÓNG MA CÔ GIÁO TRỞ VỀ
Một nữ sinh quả quyết đã nhìn thấy bóng ma cô giáo Hiong Lin Chin, người đã chết trong một tai nạn xe hơi. Trường trung học Riam Road ở Miri, Sarawak, Malaysia đang trở nên rối loạn trong những ngày qua, sau khi một học sinh nữ quả quyết đã nhìn thấy bóng ma cô giáo Hiong Lin Chin, người đã chết trong một tai nạn xe hơi.
Nữ sinh mười ba tuổi có tên gọi Eleanor kể sáng thứ Hai vừa qua, khi cô bé đang đi về phía cổng trưởng:
- Em bỗng phát hiện thấy cô giáo đã qua đời bỗng nhiên xuất hiện ở một góc tối của trạm xe buýt. Cô giáo mặc một chiếc áo sơ mi trắng, váy màu đen và buộc tóc đuôi ngựa. Cô vẫy tay và nói với em:
- Em hãy đến đây!
Eleanor kể tiếp:
- Lúc đó, em không cảm thấy sợ hãi gì và cứ đi về phía cô Chin. Mặc dù trời vẫn còn tối, nhưng em có thể nhìn thấy rất rõ khuôn mặt xanh xao của cô giáo và cả quầng thâm tròn xung quanh mắt cô. Cô mỉm cười với em. Nữ sinh kể tiếp.
Eleanor cho biết, cô bé thấy mọi thứ đều bình thường và nhận thấy bất cứ điều gì lạ về cô giáo, ngoại trừ bàn tay rất lạnh của cô khi đặt lên vai em. Cô bé từ biệt cô giáo và đi vào cổng trường. Tuy nhiên Eleanor cho biết, chỉ mới đi được vài bước, em quay đầu lại nhìn thì không còn thấy cô giáo đâu nữa.
Ít giờ sau đó, Eleanor đi quanh trường để tìm cô giáo Chin. Tuy nhiên, cô bé đã bị sốc khi nghe các giáo viên khác nói rằng, cô Chin đã chết vì tai nạn giao thông một ngày trước đó. Tờ báo Post Borneo cũng đã đưa tin về vụ tai nạn giao thông khiến cô giáo Chin bị thiệt mạng.
Cô Chin là một giáo viên rất nhiệt tình và yêu quý học sinh, và đó có thể là lý do cô trở lại để chào tạm biệt các em học sinh. Câu chuyện của Eleanor đã lan nhanh khắp cả trường, khiến nhiều học sinh và giáo viên trong trường thực sự hoang mang.
Dân Việt
Một nữ sinh quả quyết đã nhìn thấy bóng ma cô giáo Hiong Lin Chin, người đã chết trong một tai nạn xe hơi. Trường trung học Riam Road ở Miri, Sarawak, Malaysia đang trở nên rối loạn trong những ngày qua, sau khi một học sinh nữ quả quyết đã nhìn thấy bóng ma cô giáo Hiong Lin Chin, người đã chết trong một tai nạn xe hơi.
Nữ sinh mười ba tuổi có tên gọi Eleanor kể sáng thứ Hai vừa qua, khi cô bé đang đi về phía cổng trưởng:
- Em bỗng phát hiện thấy cô giáo đã qua đời bỗng nhiên xuất hiện ở một góc tối của trạm xe buýt. Cô giáo mặc một chiếc áo sơ mi trắng, váy màu đen và buộc tóc đuôi ngựa. Cô vẫy tay và nói với em:
- Em hãy đến đây!
Eleanor kể tiếp:
- Lúc đó, em không cảm thấy sợ hãi gì và cứ đi về phía cô Chin. Mặc dù trời vẫn còn tối, nhưng em có thể nhìn thấy rất rõ khuôn mặt xanh xao của cô giáo và cả quầng thâm tròn xung quanh mắt cô. Cô mỉm cười với em. Nữ sinh kể tiếp.
Eleanor cho biết, cô bé thấy mọi thứ đều bình thường và nhận thấy bất cứ điều gì lạ về cô giáo, ngoại trừ bàn tay rất lạnh của cô khi đặt lên vai em. Cô bé từ biệt cô giáo và đi vào cổng trường. Tuy nhiên Eleanor cho biết, chỉ mới đi được vài bước, em quay đầu lại nhìn thì không còn thấy cô giáo đâu nữa.
Ít giờ sau đó, Eleanor đi quanh trường để tìm cô giáo Chin. Tuy nhiên, cô bé đã bị sốc khi nghe các giáo viên khác nói rằng, cô Chin đã chết vì tai nạn giao thông một ngày trước đó. Tờ báo Post Borneo cũng đã đưa tin về vụ tai nạn giao thông khiến cô giáo Chin bị thiệt mạng.
Cô Chin là một giáo viên rất nhiệt tình và yêu quý học sinh, và đó có thể là lý do cô trở lại để chào tạm biệt các em học sinh. Câu chuyện của Eleanor đã lan nhanh khắp cả trường, khiến nhiều học sinh và giáo viên trong trường thực sự hoang mang.
Dân Việt
#643
Gửi vào 04/06/2013 - 09:04
RÙNG MÌNH NGHE DIỄN VIÊN KỂ CHUYỆN ĐÓNG PHIM GẶP MA
Ma luôn là đề tài hấp dẫn, là giai thoại truyền khẩu chưa bao giờ vơi đi sức hút với mọi người, nhưng không phải ai cũng tin vào điều đó. Đó có thể là nỗi ám ảnh, dẫn đến ác mộng cho người luôn mang nỗi sợ hãi về vong hồn, nhưng cũng là điều nhẹ nhàng, bình an cho những ai suy nghĩ trầm tĩnh và thấu đáo thế giới bên kia. Có người nói rằng, nếu có ma thật sự, đó cũng chỉ là những linh hồn tìm về bằng yêu thương hoặc là đang cần sự giúp đỡ.
Giống như diễn viên Nhật Kim Anh kể, có lần đi ăn cùng chị gái, người chị có lúc đã như mất hồn muốn bước qua ban công tầng một quán ăn, như người mộng du, may được mọi người giữ lại. Chị bảo thấy có người, chỉ nửa phần trên đứng bên kia đường nhìn chằm chằm vào bàn ăn, bèn mua ngay một mâm cơm sang đường cúng, linh cảm nghe như có tiếng trẻ con lao xao mừng rỡ, âm vọng cả thanh âm trong tiếng gió:
- Có đồ ăn rồi!...
Bộ phim Lời thề danh dự phát sóng đã lâu, nhưng đến giờ nhắc lại những ngày quay ở Đà Lạt, diễn viên trẻ Quỳnh Lam không khỏi rùng mình. Vốn tính nhát gan, Lam không dám nghe theo lời rủ rê của anh em diễn viên đi khám phá những ngôi nhà ma ở thành phố hoa, nhưng cô cũng phải một lần hồn vía lên mây, khi nhìn thấy một cái bóng trắng bay vèo qua góc hành lang khách sạn.
- Bình thường mọi người trong đoàn hay đợi nhau quay xong rồi cùng về. Nhiều người rất sợ về sớm, khách sạn lúc đó ít khách nên vắng, lạnh lẽo. Thêm vào đó, các anh diễn viên Mai Sơn Lâm, Ngọc Thuận, Minh Trí ở chung một phòng lại kể hình như có đêm, thấy hai đứa trẻ đi qua đi lại trong phòng, ai cũng sợ.
Hôm đó, tôi quay xong sớm, mệt nên phải về một mình. Vừa bước lên cầu thang, tôi chợt thấy giống như có cái bóng trắng chạy băng qua hành lang, chỗ phòng của anh Minh Trí. Người tôi cứng đơ, không nói được gì cả, vô phòng đóng cửa kín mít mà tay chân còn run. Sau đó anh Minh Trí nhất định đòi chuyển phòng. Sợ thật. Quỳnh Lam kể.
Diễn viên Nhan Phúc Vinh nói anh cũng có cảm giác rờn rợn khi một lần đến ở trong khu biệt thự Pháp, nằm sâu trong rừng thông.
- Không gian đã vắng vẻ lại nhiều cây cối, nên đêm cứ có cảm giác âm u tịch mịch. Tôi thấy sợ sợ nên cũng lân la đến quầy lễ tân hỏi thăm nhưng chẳng ai dám nói gì. Tôi mà thấy ma có khi...là khóc chứ chẳng chơi. Nhan Phúc Vinh đùa.
Khác với gương mặt Mai Vàng 2012, Nhan Phúc Vinh không mấy tin vào chuyện trên đời có ma, các diễn viên trẻ của đoàn phim Đỗ Quyên trong mưa, Thái Huy, Anh Tuấn...đã tranh thủ những ngày ghi hình tại Đà Lạt, đã rủ nhau đi khám phá bí ẩn ma Đà Lạt.
Đạo diễn phim Trần Quế Ngọc nói:
- Không bao giờ dám nhắc chuyện ma để mọi người yên tâm làm việc, nhưng diễn viên quậy lắm, cứ thường cố tạo ra kịch tính để làm tăng nỗi sợ hãi. Mỗi lần nhóm diễn viên quậy kéo nhau đi tìm ma, xem như nữ đạo diễn này cũng thót tim, sợ diễn viên rủi có bề gì.
Không phải ai cũng thấy ma, nhưng những giai thoại kỳ bí về bóng trắng đứng vẫy xe tải bên đường, thân người bay là là ngoài cửa sổ, hay chạy vụt qua hành lang, vẫn luôn là những câu chuyện truyền khẩu đáng sợ nhưng luôn...thu hút.
Diễn viên, đạo diễn Việt Trinh kể:
- Có lúc đoàn phim ngủ ở khách sạn gần hồ Xuân Hương, chị và mọi người trong đoàn còn nghe cả tiếng chân ai đó đi cả đêm ngoài hành lang, rồi có tiếng gõ cửa nhưng không ai dám mở.
Cũng như diễn viên Nhật Kim Anh nói:
- Có lần quay đêm trong ngôi nhà hoang, cô có cảm giác như ai đó rung cây ổi sau nhà và chọi vào cửa kính. Không chỉ một mình cô mà nhiều người trong đoàn đều nghe thấy như vậy khiến ai nấy đều sợ hãi, phải ngồi gom lại, bật hết đèn lên vừa làm vừa sợ, xong việc là chui hết vào trong xe, chạy một mạch về mà vẫn còn tim đập chân run.
Một thời, ngôi nhà ma nằm ở chân đèo Prenn, Thành Phố Đà Lạt, là một trong những điểm đến không thể thiếu của khách du lịch. Câu chuyện truyền khẩu về hồn ma quanh quẩn trong khu nhà này, cũng đã từng được nghệ sỹ Nguyễn Chánh Tín khai thác trong bộ phim kinh dị Ngôi nhà bí ẩn. Và mặc dù bối cảnh không phải là ngôi nhà nguyên bản, nhưng diễn viên Ngô Thanh Vân đảm nhận vai chính trong phim này, cũng phải kêu trời khi phải quay những phân cảnh rùng rợn trong một ngôi nhà hoang vu, có thể có ma khác ở vùng đồi ngoại thành Đà Lạt.
Còn diễn viên, ca sĩ Nhật Kim Anh nói:
- Bây giờ có cho vàng Kim Anh cũng không dám quay lại ngôi nhà ma làm phim gì nữa đâu.
Vốn không phải là người mê tín dị đoan, nhưng một sự cố làm cho điên đảo, đã khiến Kim Anh phải tin vào sự tồn tại của vong hồn. Hồi đi quay ngoại cảnh cho clip ca nhạc Tiếng vĩ cầm, có những cảnh Kim Anh đóng vai hồn ma, và bối cảnh được chọn cũng chính là ngôi nhà ma ở chân đèo Prenn. Cảnh quay vào ban ngày, nhưng anh em trong đoàn sơ ý làm đổ các bát nhang ở khu thờ Địa Tạng Vương, sau đó về có hàng loạt sự cố đã xảy ra cho Tiếng vĩ cầm.
- Nhiều lúc mình nói thì rất khó tin, nhưng mà Kim Anh sợ thật. Kim Anh phải khổ sở với album này. Anh em dựng hình nhưng cứ được nửa tiếng là màn hình bị tắt, sau đó thành file hoàn chỉnh rồi mở ra lại không có hình ảnh, phải làm lại, đến khi mang đĩa ra chép thì hình ảnh bị giựt.
Mấy tháng trời khổ sở, in đi in lại gần một trăm lần, rồi đến khi chuẩn bị mang đi họp báo, ê kíp lại phát hiện ra bị một chữ sai chính tả, phải bỏ đi một ngàn đĩa, in lại bằng ngần ấy số lượng. Ra Hà Nội họp báo, tất cả các đĩa phát cho phóng viên đều bị lỗi. Lúc đó Kim Anh chỉ còn biết thắp nhang khẩn cầu tạ tội và xin được phát hành album cho suôn sẻ... Nhật Kim Anh rùng mình nhớ lại.
- Nhiều lần anh em trong đoàn cũng rủ rê đi khám phá ngôi nhà ma, nhưng tôi chỉ dám đứng ngoài. Một lần, mọi người vào bên trong chẳng được bao lâu thì nghe tiếng la lớn, rồi cả nhóm ù té chạy ra, xanh mặt. Đạo diễn Việt Trinh kể.
- Từ nhỏ đến lớn, tôi không tin mấy vào chuyện trên đời này có ma, nhưng khi ba tôi mất, ông thường nhập vô dì hay cô tôi, khiến hai người có những biểu hiện giống như lúc ba tôi còn sống. Hình như ba tôi mất mà còn nhiều điều chưa nói được nên mấy tháng đầu sau ngày mất, ba tôi hay về, dặn dò tôi và đứa em út.
- Từ lúc đó đến bây giờ, tôi tin có linh hồn ở thế giới bên kia nhưng nghĩ đó cũng chỉ là những người thân yêu của mình, lo lắng thương yêu muốn gặp lại mọi người trong nhà, mà về theo nhiều cách khác nhau, chứ không phải là dọa cho mọi người sợ. Diễn viên Quỳnh Lam nói.
Còn đạo diễn Việt Trinh, từ khi phát nguyện theo Phật, ý niệm của chị về hồn ma cũng đã chuyển đi theo chiều hướng bình an:
- Nếu có tồn tại, họ cũng giống như mình thôi, chỉ khác ở sự hiện hữu trên hình hài một con người. Tôi có một người bạn mất vì tai nạn giao thông, những ngày sau đó luôn có con châu chấu bay lẩn quẩn quanh bàn thờ anh, có khi là con bướm quấn quýt mãi bên linh vị.
Ban đầu tôi cũng không nghĩ gì cả, nhưng có nhiều người bày cách thử xem đó có phải là vong hồn đang lẩn quẩn tìm về nhà mà chưa muốn siêu thoát, tôi cũng làm thử và những gì chứng kiến, có thể nói ra mọi người không tin, nhưng tôi nghĩ ai cũng sẽ có riêng đức tin khi nghĩ về thế giới tâm linh.
Một trong những người trải nghiệm với giai thoại ma nhiều nhất, có thể là diễn viên, ca sĩ Nhật Kim Anh. Không chỉ ở Đà Lạt mà trong một lần quay phim ở Long Hải, Vũng Tàu, nàng Cầm của phim Long Thành cầm giả ca, cũng một phen đứng tim và từ đó đến nay không bao giờ dám đặt chân đến khách sạn ấy nữa.
Hôm đó đã khuya, Kim Anh và anh em đoàn phim về khách sạn tổ chức ăn uống vui chơi. Nơi này khi xưa đã có rất nhiều người chết trong chiến tranh, sau này mới được xây thành khách sạn phục vụ khách du lịch. Trong lúc mọi người đang trò chuyện vui vẻ, thì một thành viên trong đoàn phát hiện phía ngoài sân, có một người đàn ông ngồi mài nắp lon bia, cái bóng còn in rõ rệt trên cửa ra vào.
Tưởng chủ khách sạn hay khách du lịch, mọi người mở cửa ra nhìn không thấy ai cả. Nhưng hễ đóng cánh cửa lại thì cái bóng lại hiện lên rõ rệt.
- Sợ quá, cả nhóm ngồi túm tụm lại vừa nhìn nhau vừa run, rồi cứ thế chẳng ai dám về phòng, tất cả đều ngủ chung một phòng suốt mấy ngày sau đó. Nhật Kim Anh kể.
NLĐ
Ma luôn là đề tài hấp dẫn, là giai thoại truyền khẩu chưa bao giờ vơi đi sức hút với mọi người, nhưng không phải ai cũng tin vào điều đó. Đó có thể là nỗi ám ảnh, dẫn đến ác mộng cho người luôn mang nỗi sợ hãi về vong hồn, nhưng cũng là điều nhẹ nhàng, bình an cho những ai suy nghĩ trầm tĩnh và thấu đáo thế giới bên kia. Có người nói rằng, nếu có ma thật sự, đó cũng chỉ là những linh hồn tìm về bằng yêu thương hoặc là đang cần sự giúp đỡ.
Giống như diễn viên Nhật Kim Anh kể, có lần đi ăn cùng chị gái, người chị có lúc đã như mất hồn muốn bước qua ban công tầng một quán ăn, như người mộng du, may được mọi người giữ lại. Chị bảo thấy có người, chỉ nửa phần trên đứng bên kia đường nhìn chằm chằm vào bàn ăn, bèn mua ngay một mâm cơm sang đường cúng, linh cảm nghe như có tiếng trẻ con lao xao mừng rỡ, âm vọng cả thanh âm trong tiếng gió:
- Có đồ ăn rồi!...
Bộ phim Lời thề danh dự phát sóng đã lâu, nhưng đến giờ nhắc lại những ngày quay ở Đà Lạt, diễn viên trẻ Quỳnh Lam không khỏi rùng mình. Vốn tính nhát gan, Lam không dám nghe theo lời rủ rê của anh em diễn viên đi khám phá những ngôi nhà ma ở thành phố hoa, nhưng cô cũng phải một lần hồn vía lên mây, khi nhìn thấy một cái bóng trắng bay vèo qua góc hành lang khách sạn.
- Bình thường mọi người trong đoàn hay đợi nhau quay xong rồi cùng về. Nhiều người rất sợ về sớm, khách sạn lúc đó ít khách nên vắng, lạnh lẽo. Thêm vào đó, các anh diễn viên Mai Sơn Lâm, Ngọc Thuận, Minh Trí ở chung một phòng lại kể hình như có đêm, thấy hai đứa trẻ đi qua đi lại trong phòng, ai cũng sợ.
Hôm đó, tôi quay xong sớm, mệt nên phải về một mình. Vừa bước lên cầu thang, tôi chợt thấy giống như có cái bóng trắng chạy băng qua hành lang, chỗ phòng của anh Minh Trí. Người tôi cứng đơ, không nói được gì cả, vô phòng đóng cửa kín mít mà tay chân còn run. Sau đó anh Minh Trí nhất định đòi chuyển phòng. Sợ thật. Quỳnh Lam kể.
Diễn viên Nhan Phúc Vinh nói anh cũng có cảm giác rờn rợn khi một lần đến ở trong khu biệt thự Pháp, nằm sâu trong rừng thông.
- Không gian đã vắng vẻ lại nhiều cây cối, nên đêm cứ có cảm giác âm u tịch mịch. Tôi thấy sợ sợ nên cũng lân la đến quầy lễ tân hỏi thăm nhưng chẳng ai dám nói gì. Tôi mà thấy ma có khi...là khóc chứ chẳng chơi. Nhan Phúc Vinh đùa.
Khác với gương mặt Mai Vàng 2012, Nhan Phúc Vinh không mấy tin vào chuyện trên đời có ma, các diễn viên trẻ của đoàn phim Đỗ Quyên trong mưa, Thái Huy, Anh Tuấn...đã tranh thủ những ngày ghi hình tại Đà Lạt, đã rủ nhau đi khám phá bí ẩn ma Đà Lạt.
Đạo diễn phim Trần Quế Ngọc nói:
- Không bao giờ dám nhắc chuyện ma để mọi người yên tâm làm việc, nhưng diễn viên quậy lắm, cứ thường cố tạo ra kịch tính để làm tăng nỗi sợ hãi. Mỗi lần nhóm diễn viên quậy kéo nhau đi tìm ma, xem như nữ đạo diễn này cũng thót tim, sợ diễn viên rủi có bề gì.
Không phải ai cũng thấy ma, nhưng những giai thoại kỳ bí về bóng trắng đứng vẫy xe tải bên đường, thân người bay là là ngoài cửa sổ, hay chạy vụt qua hành lang, vẫn luôn là những câu chuyện truyền khẩu đáng sợ nhưng luôn...thu hút.
Diễn viên, đạo diễn Việt Trinh kể:
- Có lúc đoàn phim ngủ ở khách sạn gần hồ Xuân Hương, chị và mọi người trong đoàn còn nghe cả tiếng chân ai đó đi cả đêm ngoài hành lang, rồi có tiếng gõ cửa nhưng không ai dám mở.
Cũng như diễn viên Nhật Kim Anh nói:
- Có lần quay đêm trong ngôi nhà hoang, cô có cảm giác như ai đó rung cây ổi sau nhà và chọi vào cửa kính. Không chỉ một mình cô mà nhiều người trong đoàn đều nghe thấy như vậy khiến ai nấy đều sợ hãi, phải ngồi gom lại, bật hết đèn lên vừa làm vừa sợ, xong việc là chui hết vào trong xe, chạy một mạch về mà vẫn còn tim đập chân run.
Một thời, ngôi nhà ma nằm ở chân đèo Prenn, Thành Phố Đà Lạt, là một trong những điểm đến không thể thiếu của khách du lịch. Câu chuyện truyền khẩu về hồn ma quanh quẩn trong khu nhà này, cũng đã từng được nghệ sỹ Nguyễn Chánh Tín khai thác trong bộ phim kinh dị Ngôi nhà bí ẩn. Và mặc dù bối cảnh không phải là ngôi nhà nguyên bản, nhưng diễn viên Ngô Thanh Vân đảm nhận vai chính trong phim này, cũng phải kêu trời khi phải quay những phân cảnh rùng rợn trong một ngôi nhà hoang vu, có thể có ma khác ở vùng đồi ngoại thành Đà Lạt.
Còn diễn viên, ca sĩ Nhật Kim Anh nói:
- Bây giờ có cho vàng Kim Anh cũng không dám quay lại ngôi nhà ma làm phim gì nữa đâu.
Vốn không phải là người mê tín dị đoan, nhưng một sự cố làm cho điên đảo, đã khiến Kim Anh phải tin vào sự tồn tại của vong hồn. Hồi đi quay ngoại cảnh cho clip ca nhạc Tiếng vĩ cầm, có những cảnh Kim Anh đóng vai hồn ma, và bối cảnh được chọn cũng chính là ngôi nhà ma ở chân đèo Prenn. Cảnh quay vào ban ngày, nhưng anh em trong đoàn sơ ý làm đổ các bát nhang ở khu thờ Địa Tạng Vương, sau đó về có hàng loạt sự cố đã xảy ra cho Tiếng vĩ cầm.
- Nhiều lúc mình nói thì rất khó tin, nhưng mà Kim Anh sợ thật. Kim Anh phải khổ sở với album này. Anh em dựng hình nhưng cứ được nửa tiếng là màn hình bị tắt, sau đó thành file hoàn chỉnh rồi mở ra lại không có hình ảnh, phải làm lại, đến khi mang đĩa ra chép thì hình ảnh bị giựt.
Mấy tháng trời khổ sở, in đi in lại gần một trăm lần, rồi đến khi chuẩn bị mang đi họp báo, ê kíp lại phát hiện ra bị một chữ sai chính tả, phải bỏ đi một ngàn đĩa, in lại bằng ngần ấy số lượng. Ra Hà Nội họp báo, tất cả các đĩa phát cho phóng viên đều bị lỗi. Lúc đó Kim Anh chỉ còn biết thắp nhang khẩn cầu tạ tội và xin được phát hành album cho suôn sẻ... Nhật Kim Anh rùng mình nhớ lại.
- Nhiều lần anh em trong đoàn cũng rủ rê đi khám phá ngôi nhà ma, nhưng tôi chỉ dám đứng ngoài. Một lần, mọi người vào bên trong chẳng được bao lâu thì nghe tiếng la lớn, rồi cả nhóm ù té chạy ra, xanh mặt. Đạo diễn Việt Trinh kể.
- Từ nhỏ đến lớn, tôi không tin mấy vào chuyện trên đời này có ma, nhưng khi ba tôi mất, ông thường nhập vô dì hay cô tôi, khiến hai người có những biểu hiện giống như lúc ba tôi còn sống. Hình như ba tôi mất mà còn nhiều điều chưa nói được nên mấy tháng đầu sau ngày mất, ba tôi hay về, dặn dò tôi và đứa em út.
- Từ lúc đó đến bây giờ, tôi tin có linh hồn ở thế giới bên kia nhưng nghĩ đó cũng chỉ là những người thân yêu của mình, lo lắng thương yêu muốn gặp lại mọi người trong nhà, mà về theo nhiều cách khác nhau, chứ không phải là dọa cho mọi người sợ. Diễn viên Quỳnh Lam nói.
Còn đạo diễn Việt Trinh, từ khi phát nguyện theo Phật, ý niệm của chị về hồn ma cũng đã chuyển đi theo chiều hướng bình an:
- Nếu có tồn tại, họ cũng giống như mình thôi, chỉ khác ở sự hiện hữu trên hình hài một con người. Tôi có một người bạn mất vì tai nạn giao thông, những ngày sau đó luôn có con châu chấu bay lẩn quẩn quanh bàn thờ anh, có khi là con bướm quấn quýt mãi bên linh vị.
Ban đầu tôi cũng không nghĩ gì cả, nhưng có nhiều người bày cách thử xem đó có phải là vong hồn đang lẩn quẩn tìm về nhà mà chưa muốn siêu thoát, tôi cũng làm thử và những gì chứng kiến, có thể nói ra mọi người không tin, nhưng tôi nghĩ ai cũng sẽ có riêng đức tin khi nghĩ về thế giới tâm linh.
Một trong những người trải nghiệm với giai thoại ma nhiều nhất, có thể là diễn viên, ca sĩ Nhật Kim Anh. Không chỉ ở Đà Lạt mà trong một lần quay phim ở Long Hải, Vũng Tàu, nàng Cầm của phim Long Thành cầm giả ca, cũng một phen đứng tim và từ đó đến nay không bao giờ dám đặt chân đến khách sạn ấy nữa.
Hôm đó đã khuya, Kim Anh và anh em đoàn phim về khách sạn tổ chức ăn uống vui chơi. Nơi này khi xưa đã có rất nhiều người chết trong chiến tranh, sau này mới được xây thành khách sạn phục vụ khách du lịch. Trong lúc mọi người đang trò chuyện vui vẻ, thì một thành viên trong đoàn phát hiện phía ngoài sân, có một người đàn ông ngồi mài nắp lon bia, cái bóng còn in rõ rệt trên cửa ra vào.
Tưởng chủ khách sạn hay khách du lịch, mọi người mở cửa ra nhìn không thấy ai cả. Nhưng hễ đóng cánh cửa lại thì cái bóng lại hiện lên rõ rệt.
- Sợ quá, cả nhóm ngồi túm tụm lại vừa nhìn nhau vừa run, rồi cứ thế chẳng ai dám về phòng, tất cả đều ngủ chung một phòng suốt mấy ngày sau đó. Nhật Kim Anh kể.
NLĐ
#644
Gửi vào 04/06/2013 - 16:28
KINH HÃI VỚI LỜI ĐỒN HỒN MA GOÁ PHỤ Ở THÁI LAN
Những người dân làng đang tận cùng sợ hãi sống tại Tambon Tha Sawang, Thái Lan đã và đang bắt đầu treo những chiếc áo phông màu đỏ trước cửa nhà mình, để thoát khỏi sự chú ý của một hồn ma góa phụ, được đồn là đã cướp đi mạng sống của mười người đàn ông khỏe mạnh trong làng chỉ trong vòng một tháng.
Người dân trong làng nói với một phóng viên rằng mười người đàn ông khỏe mạnh đã chết một cách đầy bí ẩn, một số qua đời lúc đang ngủ trong khi số còn lại đột nhiên khụyu xuống trong lúc đi bộ. Các bác sĩ cho biết họ đều chết vì chứng suy hô hấp.
Mặc dù vậy, phần lớn người dân vẫn tin rằng một hồn ma góa phụ, có tên là pee mae mai, một linh hồn chết không siêu thoát, chính là thủ phạm gây ra vụ việc này. Sự hoang mang, lời đồn thổi hiện đang tiếp tục lan truyền sang cả các quận xung quanh như Chom Phra và Tha Tum.
- Lý do tôi treo một chiếc áo phông đỏ không chỉ bởi vì quan điểm tâm linh, nó còn là vì tôi lo cho sự an toàn của cháu trai mình. Tôi không nhất thiết phải tin vào câu chuyện song phòng ngừa bao giờ cũng tốt hơn. Một người dân năm mươi tuổi chia sẻ.
Theo lời kể của người dân, lúc ban ngày, hồn ma này sẽ hiện lên giống như người bình thường. Cô ta có bạn bè, tán tỉnh và chàng trai nhưng không bao giờ ăn uống. Khi đêm đến, đầu và xương sống cùng với các cơ quan nội tạng của người phụ nữ này, sẽ tách ra để đi tìm thịt sống để ăn.
Thực hư của câu chuyện này vẫn chưa có lời giải đáp, nhưng những chiếc áo đỏ vẫn được treo lên ở đầu ngõ mỗi gia đình, như cầu mong cho ma quỷ không ghé qua nhà mình.
TTVN
Những người dân làng đang tận cùng sợ hãi sống tại Tambon Tha Sawang, Thái Lan đã và đang bắt đầu treo những chiếc áo phông màu đỏ trước cửa nhà mình, để thoát khỏi sự chú ý của một hồn ma góa phụ, được đồn là đã cướp đi mạng sống của mười người đàn ông khỏe mạnh trong làng chỉ trong vòng một tháng.
Người dân trong làng nói với một phóng viên rằng mười người đàn ông khỏe mạnh đã chết một cách đầy bí ẩn, một số qua đời lúc đang ngủ trong khi số còn lại đột nhiên khụyu xuống trong lúc đi bộ. Các bác sĩ cho biết họ đều chết vì chứng suy hô hấp.
Mặc dù vậy, phần lớn người dân vẫn tin rằng một hồn ma góa phụ, có tên là pee mae mai, một linh hồn chết không siêu thoát, chính là thủ phạm gây ra vụ việc này. Sự hoang mang, lời đồn thổi hiện đang tiếp tục lan truyền sang cả các quận xung quanh như Chom Phra và Tha Tum.
- Lý do tôi treo một chiếc áo phông đỏ không chỉ bởi vì quan điểm tâm linh, nó còn là vì tôi lo cho sự an toàn của cháu trai mình. Tôi không nhất thiết phải tin vào câu chuyện song phòng ngừa bao giờ cũng tốt hơn. Một người dân năm mươi tuổi chia sẻ.
Theo lời kể của người dân, lúc ban ngày, hồn ma này sẽ hiện lên giống như người bình thường. Cô ta có bạn bè, tán tỉnh và chàng trai nhưng không bao giờ ăn uống. Khi đêm đến, đầu và xương sống cùng với các cơ quan nội tạng của người phụ nữ này, sẽ tách ra để đi tìm thịt sống để ăn.
Thực hư của câu chuyện này vẫn chưa có lời giải đáp, nhưng những chiếc áo đỏ vẫn được treo lên ở đầu ngõ mỗi gia đình, như cầu mong cho ma quỷ không ghé qua nhà mình.
TTVN
#645
Gửi vào 07/06/2013 - 05:02
HỒN MA TRONG CHUÀ
Đời sống này cái quan trọng nhất là sinh tử. Thời gian trôi qua như chớp, thoáng một cái đã bạc đầu. Sống chết thực sự là chuyện lớn lao vô cùng. Mọi nỗ lực mưu cầu của chúng ta đều nằm trong sanh tử. Nếu chẳng may vô thường đến thì bao nhiêu sự nghiệp tạo tác đều phải bỏ lại. Tại sao con người không biết lợi dụng thời gian ngắn ngủi từ sanh tới tử này để học hỏi trí tuệ, mà lại tạo ác nghiệp.
Than ôi! Chỉ một phút lầm lỡ còn hận đến thiên thu huống chi là cả một đời tạo khẩu nghiệp thử hỏi Phật nào cứu chúng ta được. Đương nhiên kiếp lai sinh là phải bị thảm nạn Câm, Điếc, Mù lòa. Vì anh nói tầm bậy nhiều quá thì phải tái sanh làm kẻ Câm cho chừa cái tật nói bậy. Vì anh thích nghe tiếng đường mật hoa mỹ thì cho anh Điếc để bớt nghe những lời không cần thiết nữa. Vì anh học đạo mà không tiêu hóa được đạo hoặc anh không thích nhìn thấy con đường đạo lý tốt đẹp, thì cho anh Đui mù để khỏi mang tiếng có mắt mà không thấy đường.
Đây là những quả báo mà nhà Phật đã nêu ra, là luật nhân quả tự nhiên của cuộc đời. Nhân quả này đã tuần hoàn trong đời sống nhân sinh mà ít ai để ý đến. Con người sinh ra là do nghiệp lực thúc đẩy, chỉ có một thiểu số là Bồ Tát vì nguyện lực ra đời với xứ mạng cứu độ chúng sanh. Như vậy chúng ta hãy nên tự hiểu rằng, sức mạnh thúc đẩy mình tái sanh nơi cuộc đời này, chính là do Nghiệp tạo tác ở quá khứ.
Vì lẽ đó mà con người phải trả lời những nhân quả nghiệp báo mà họ đã tạo. Nếu may mắn tạo nghiệp lành thì họ được tái sanh trong một cuộc đời hạnh phúc. Nếu tạo nghiệp ác thì đương nhiên họ sẽ tái sanh nơi khổ cảnh. Kiếp sống hiện tại của con người là chứng tích họ đã có một quá khứ như thế nào. Tuy nhiên điều này không quan trọng. Cái quan trọng là anh có thừa nhận lý nhân quả nghiệp báo của Phật giáo hay không?
Nếu anh không công nhận nó thì cuộc đời anh sẽ biến chuyển giống y như định luật nhân quả đã ấn định. Nếu anh công nhận nó và phát tâm tu tập điều thiện lành thì do ước nguyện làm thiện sẽ giúp anh tiêu trừ một số ác nghiệp quá khứ mà lẽ ra anh phải thọ báo một cách nặng nề. Những việc làm tốt như bố thí cúng dường kính trọng Tam Bảo của một người, sẽ gắn bó với họ trong dòng sinh mạng tiếp nối và đó là lý do tại sao, có nhiều người hưởng thụ được một đời sống thoải mái và hạnh phúc hơn những người khác. Đó là ý nghĩa của sự tu hành.
Tu hành xuất gia là con đường cao nhất mà một người có thể chọn lựa. Chỉ tiếc một điều sau khi chọn lựa con đường xuất gia rồi có người vẫn không đánh giá được con đường mình đi cao cả như thế nào và trách vụ mình đã chọn là tu hành và hóa độ chúng sanh. Vì lẽ đó họ đã làm mai một cái đời sống cao thượng đáng quý để đi tìm kiếm sự tiện nghi và những tình cảm thân ái tầm thường giữa những tín đồ.
Họ không dám mạnh dạn sống thật với lòng mình, với giáo pháp giải thoát tối hậu mà họ đã ngộ nhập được. Đó là lý do tại sao có người tu hành nhiều năm mà chẳng đạt được một tí thành quả tâm linh gì đáng kể ngoài một mớ kinh giáo thuộc lòng. Ấy là do không dụng công tu tập các pháp hành mà chỉ chú trọng các pháp sự trong phạm vi ứng phó đạo tràng.
Thật sự đời sống tu hành trong điều kiện của xã hội hiện tại cũng là một trở ngại rất lớn cho việc siêu xuất sanh tử, nói chi đến việc buông lung tâm ý. Ngày xưa đức Phật tu hành thiền định chỉ sáu năm là chứng quả vô thượng bồ đề. Xét về mặt tư cách tu hành thì đức Phật đã thành tựu được đạo quả do chỗ khổ hạnh công phu diệt dục, khắc chế nội tâm.
Sự tu hành của giới xuất gia ngày nay quá sung sướng về mặt vật chất tiện nghi lại thêm sự ưu ái cúng dường của tín đồ thì đương nhiên kết quả thành đạo khó lòng đạt được. Vì vậy người xuất gia trong thời đại này cần phải phát tâm dũng mãnh, phát nguyện làm một cái gì đó lợi ích cho đại thể hay chịu khổ hạnh công phu thì họa may mới đủ công đức giải thoát. Chỉ có một điều có thể an ủi là trong một thời đại văn minh cơ khí tiện nghi vật chất mà một người có thể từ bỏ thế tục để sống cuộc đời xuất trần thượng sĩ.
Có những hạng người tu hành với tâm trí bệ rạc chỉ muốn an nhàn thoái mái trong cuộc sống tu tập, không bao giờ thích nghịch cảnh. Ban đầu họ cũng dũng mãnh xuất gia, nhưng thiếu sự học hỏi giáo lý từ các bậc thầy thiện hữu trí thức nên dần dà họ quên mất sứ mạng cao cả, bèn tách ra khỏi tăng đoàn trở về nhà sống tự do an dưỡng bên cạnh đàn con cháu thọ nhận sự nuôi nấng đùm bộc của những người thân quyến này.
Họ lý luận rằng: “Tuổi già sức yếu, tôi không muốn làm phiền các huynh đệ trong chùa và thọ lãnh sự cúng dường của đàn việt” Họ quên rằng con cháu họ cũng là một hình thức đàn việt. Bỏ sự thọ lãnh của đàn việt trong Chùa để thọ lãnh của đàn việt là con cháu mình ở nhà thì có khi còn nguy hiểm hơn. Từ sự thọ lãnh này hun đúc thêm mối dây nhợ ái dục giữa con cái thì sự giải thoát làm sao thực hiện được?
Trải qua gần một năm khi dời Chùa về địa điểm mới, mọi người ra sức tu bổ biến khu nhà rộng lớn này thành một đạo tràng tương đối hoàn chỉnh. Tôi bắt đầu tổ chức những khóa tu học bát quan trai rồi những khóa Phật thất hàng tuần. Tín đồ bắt đầu quy tụ về tu học và gieo được niềm tin vào sự Vãng sanh Cực Lạc.
Trong thời gian đại chúng tu tập trú ngụ trong Chùa, mới phát hiện ra những hiện tượng ma quỷ kỳ lạ.
Tôi dấu nhẹm tin tức này và bí mật tìm hiểu tại sao có hiện tượng những linh hồn mặc áo đen, ban đêm thường hiện ra xua đuổi những đệ tử trú ngụ trong Chùa. Đối với tôi họ rất nể trọng không dám có thái độ gì, nhưng những đệ tử của tôi thì thường bị những hiện tượng ma ám.
Ví dụ như đang ngủ thì bị giựt chăn mền và có người đang ngủ nghe tiếng nói từ trong tường vang ra:
- Hãy đi đi! đi khỏi nơi này ngay!
Có những lúc tôi thấy rõ ràng hai nữ nhân mặc đồ trắng toát đi vào phòng tôi, và xuyên qua ngả lò sưởi rồi biến mất trong hư không. Có lần một vị đệ tử nhìn thấy một người lạ hoắc đứng gần cây chuối rồi tự nhiên biến mất. Nhiều lần khác ở ngoài vườn Sư cô Trí Ấn nhìn thấy rõ ràng một người nữ còn rất trẻ, đi dạo trong vườn một cách rất tự nhiên rồi đột nhiên biến mất dạng.
Ở xứ Anh này nổi tiếng là nhiều ma quỷ, nhưng không hiểu sao lần nào tôi chọn mua Chùa cũng đều bị lọt vào những ngôi nhà có Ma. Có lẽ tôi có số độ cho ma quỷ tu hành? Tôi bắt đầu thiền định mỗi đêm và những gì tôi chứng kiến được đều không dám nói cho đệ tử nghe. Nếu bọn nó nghe được thì chắc không đứa nào dám ở đây tu.
Ngôi nhà này nguyên thủy là một villas sang trọng có mười phòng ngủ, ba phòng khách và nhiều phòng linh tinh khác của Bá tước Bernard xây dựng hồi năm 1891. Bà vợ của Bá tước bị chết trong căn phòng bên trái của tầng lầu thứ hai (sau này làm phòng ăn cho chư tăng). Đến năm 1917 căn nhà này được bán lại cho một người Do Thái.
Đến năm 1941 chiến tranh đệ nhị thế chiến xảy ra. Gia đình người Do Thái bị thảm sát ngay tại căn nhà này. Chính phủ đã niêm phong căn nhà suốt thời gian chiến tranh, và chỉ dùng để chứa xác chết của các quân nhân tử trận (nơi căn hầm mà tôi thường dùng để chứa máy móc in kinh). Lúc đó khu vực này là một ngọn đồi còn rất hoang vu và là nơi xảy ra nhiều trận dội bom kinh hồn.
Sau khi chiến tranh chấm dứt một thời gian dài, ngôi nhà này mới được bán lại cho một hội thánh Tin Lành, và sau đó bán lại cho một người Anh. Gia đình người Anh này bị linh hồn của bà Bá Tước và nhiều hồn ma của các người Do Thái bị giết trong chiến tranh phá phách, nên bán lại cho một gia đình người Ý vào năm 1979. Từ năm này gia đình người Ý sửa lại căn nhà cho thuê. Do ảnh hưởng của Ma quỷ nên không ai dám thuê ở lâu dài vì thường bị ma đuổi đi.
Đến năm 1995 thì rao bán căn nhà này, nhưng mãi hai năm sau Chùa mới mua tức là năm 1997. Sau đó có hai thanh niên trẻ tình cờ trở lại ngôi Chùa cho biết ngày xưa khi họ còn là sinh viên từng trú ngụ ở căn nhà này, nơi căn phòng nhìn ra sau vườn. Họ kể rất rùng rợn là mỗi đêm, thường bị các hồn ma lay dậy và tống ra khỏi phòng.
Họ sợ đến nổi mà không bao giờ dám có mặt trong phòng một người dù là ban ngày, lúc nào cũng đợi có đủ hai người mới dám bước vào phòng. Và cuối cùng họ dọn đi, chủ nhà cũng không thể cho ai thuê căn phòng đó và đành để làm nhà kho.
Ban đầu những linh hồn cư ngụ trong căn nhà này, đều không thích có sự hiện diện của những người tu hành như chúng tôi, nên thường tạo ra những rắc rối và khích động lạ lùng. Sau nhiều thời gian tụng kinh trì chú cầu siêu thoát cho những hồn ma chết oan, thì hiện tượng ma quỷ phá phách đã thực sự chấm dứt 100% (mỗi đêm tôi thường trì chú Phật đảnh tôn Thắng và hồi hướng cho các linh hồn chết oan).
Nhưng khổ thay! Những linh hồn ở đây cùng với những linh hồn thờ phượng trong Chùa, nó đã quen tiếng kinh kệ và bây giờ chúng lại không muốn chúng tôi dọn đi. Thật là lạ lùng khó hiểu làm sao? Đã ba lần chùa bị Chánh quyền địa phương tuyên bố ngừng chỉ sự sinh hoạt, nhưng không hiểu sao cả ba lần đều được một lực bí mật vô hình giúp cho sự sinh hoạt trở lại bình thường.
Chắc chắn có sự can thiệp của những hồn ma về việc sinh hoạt ở đây. Có một số linh hồn chưa chịu đi khỏi nơi đây, và ngấm ngầm ủng hộ chùa. Họ khiến cho Council làm ngơ không nói năng gì về việc sinh hoạt bất hợp pháp nữa. Các hồn ma không hiện hình hay gây những ấn tượng mạnh như hồi xưa, và như thế chúng tôi vẫn tiếp tục sinh hoạt cho đến ngày hôm nay, mặc dù Chùa đã bị đưa ra tòa kết án nhiều lần.
Những câu chuyện về hồn ma hiện lên ở sau vườn, trong những lúc tôi ngồi thiền định được dấu kín suốt thời gian qua. Vì sợ nói ra thì các phật tử hoang mang không ai dám đến Chùa. Lúc đó các linh ảnh về các trận chiến đẫm máu tại ngọn đồi Beulah (BEULAH HILL) diễn lại đúng y như lịch sử hồi năm 1941 khi phát xít Đức tấn công nước Anh.
Hàng ngày xác chết của lính Anh được mang đến lưu giữ tại sau vườn, và trong căn hầm của tòa nhà trước khi mang đi chôn cất. Phía sau chùa lúc đó chưa có nhà cửa và thông với một công viên rộng lớn, con đường chạy ngang công viên chưa được đặt tên. Cảnh tượng gia đình người Do Thái bị giết một cách dã man bởi gián điệp Đức, được diễn lại một cách linh động giống y như sự thật đang xảy ra. Một thiếu nữ con của gia đình này đã chết ngay dưới gốc cây, chỗ đặt đức Phật nằm. Và linh hồn cô này tồn tại đến hơn sáu mươi lăm năm sau.
Tôi hiểu cảnh giới ma quỷ là một hiện tượng có thật, nhưng vì không có ai nhìn thấy nên cho đó là những chuyện hoang đường. Thật sự đó là những chúng sanh sau khi chết linh hồn còn quyến luyến cõi trần. Họ bám chặt những nơi chốn cũ và sinh hoạt y như hồi họ còn sống. Vì không có ai cúng kiến hay khai thị cho họ hiểu rằng, họ đã chết và môi trường họ đang sống đã thay đổi với những con người mới, không cùng nghiệp trong cảnh giới của họ.
Con người đã tái sinh trong dòng sinh mạng vô tận không gián đoạn này, không biết bao nhiêu lần. Mỗi một kiếp sống như vậy, thay vì họ học hỏi và thực hành những điều hay tốt thiện lành để tiến hóa về mặt tâm linh, thì họ lại xu hướng vào những lối sống ích kỷ của tự thân, với những đam mê đầy dục nhiễm về danh vọng và sự nghiệp cá nhân.
Bởi vậy khi chết linh hồn họ không siêu thoát lên các cảnh giới trên cao được. Thực sự mỗi kiếp sống là một cơ hội để chúng ta học hỏi sự tiến hóa. Những bài học trong cuộc đời này có khi là những sự đau khổ cùng cực nào đó, hay một chướng duyên nghịch cảnh thử thách... Tuy nhiên làm sao con người có thể hiểu được điều này một cách dễ dàng, vì thế hầu hết đều xây dựng cuộc đời mình với những vọng tưởng u ám và dục vọng vô bờ.
Cuối cùng họ ra đi với hai bàn tay trắng với một nghiệp thức đầy tội lỗi. Kinh giáo của đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vấn đề tu tập thiện lành. Chùa chiền mở ra đều có mục đích khai ngộ và hướng dẫn đời sống tâm linh cho chúng sanh, nhưng than ôi! Số người đến với Phật giáo vẫn còn quá ít ỏi. Đôi khi có người vào đến cửa Chùa rồi cũng không chịu để hết tâm tu tập Phật pháp, vẫn còn tiếp diễn những thái độ vô minh bằng cách gây rắc rối đến nhiều người khác, tranh chấp nhau y như một kẻ không biết đạo lý.
Đây cũng là một hình thức oan báo tương quan, có nghĩa là nhiều đời trước ở quá khứ, con người từng có những mối oán hận gì đó và họ đã tái sanh lại, để trả lời những oan báo đó và điều này có lẽ cũng cần thiết để khích lệ những người chân chánh hiểu họ cần tu hành trong nghịch cảnh như thế nào, nỗ lực hơn nữa trong cuộc sống tu tập để giải thoát.
Thượng Tọa Thích Trí Như
Đời sống này cái quan trọng nhất là sinh tử. Thời gian trôi qua như chớp, thoáng một cái đã bạc đầu. Sống chết thực sự là chuyện lớn lao vô cùng. Mọi nỗ lực mưu cầu của chúng ta đều nằm trong sanh tử. Nếu chẳng may vô thường đến thì bao nhiêu sự nghiệp tạo tác đều phải bỏ lại. Tại sao con người không biết lợi dụng thời gian ngắn ngủi từ sanh tới tử này để học hỏi trí tuệ, mà lại tạo ác nghiệp.
Than ôi! Chỉ một phút lầm lỡ còn hận đến thiên thu huống chi là cả một đời tạo khẩu nghiệp thử hỏi Phật nào cứu chúng ta được. Đương nhiên kiếp lai sinh là phải bị thảm nạn Câm, Điếc, Mù lòa. Vì anh nói tầm bậy nhiều quá thì phải tái sanh làm kẻ Câm cho chừa cái tật nói bậy. Vì anh thích nghe tiếng đường mật hoa mỹ thì cho anh Điếc để bớt nghe những lời không cần thiết nữa. Vì anh học đạo mà không tiêu hóa được đạo hoặc anh không thích nhìn thấy con đường đạo lý tốt đẹp, thì cho anh Đui mù để khỏi mang tiếng có mắt mà không thấy đường.
Đây là những quả báo mà nhà Phật đã nêu ra, là luật nhân quả tự nhiên của cuộc đời. Nhân quả này đã tuần hoàn trong đời sống nhân sinh mà ít ai để ý đến. Con người sinh ra là do nghiệp lực thúc đẩy, chỉ có một thiểu số là Bồ Tát vì nguyện lực ra đời với xứ mạng cứu độ chúng sanh. Như vậy chúng ta hãy nên tự hiểu rằng, sức mạnh thúc đẩy mình tái sanh nơi cuộc đời này, chính là do Nghiệp tạo tác ở quá khứ.
Vì lẽ đó mà con người phải trả lời những nhân quả nghiệp báo mà họ đã tạo. Nếu may mắn tạo nghiệp lành thì họ được tái sanh trong một cuộc đời hạnh phúc. Nếu tạo nghiệp ác thì đương nhiên họ sẽ tái sanh nơi khổ cảnh. Kiếp sống hiện tại của con người là chứng tích họ đã có một quá khứ như thế nào. Tuy nhiên điều này không quan trọng. Cái quan trọng là anh có thừa nhận lý nhân quả nghiệp báo của Phật giáo hay không?
Nếu anh không công nhận nó thì cuộc đời anh sẽ biến chuyển giống y như định luật nhân quả đã ấn định. Nếu anh công nhận nó và phát tâm tu tập điều thiện lành thì do ước nguyện làm thiện sẽ giúp anh tiêu trừ một số ác nghiệp quá khứ mà lẽ ra anh phải thọ báo một cách nặng nề. Những việc làm tốt như bố thí cúng dường kính trọng Tam Bảo của một người, sẽ gắn bó với họ trong dòng sinh mạng tiếp nối và đó là lý do tại sao, có nhiều người hưởng thụ được một đời sống thoải mái và hạnh phúc hơn những người khác. Đó là ý nghĩa của sự tu hành.
Tu hành xuất gia là con đường cao nhất mà một người có thể chọn lựa. Chỉ tiếc một điều sau khi chọn lựa con đường xuất gia rồi có người vẫn không đánh giá được con đường mình đi cao cả như thế nào và trách vụ mình đã chọn là tu hành và hóa độ chúng sanh. Vì lẽ đó họ đã làm mai một cái đời sống cao thượng đáng quý để đi tìm kiếm sự tiện nghi và những tình cảm thân ái tầm thường giữa những tín đồ.
Họ không dám mạnh dạn sống thật với lòng mình, với giáo pháp giải thoát tối hậu mà họ đã ngộ nhập được. Đó là lý do tại sao có người tu hành nhiều năm mà chẳng đạt được một tí thành quả tâm linh gì đáng kể ngoài một mớ kinh giáo thuộc lòng. Ấy là do không dụng công tu tập các pháp hành mà chỉ chú trọng các pháp sự trong phạm vi ứng phó đạo tràng.
Thật sự đời sống tu hành trong điều kiện của xã hội hiện tại cũng là một trở ngại rất lớn cho việc siêu xuất sanh tử, nói chi đến việc buông lung tâm ý. Ngày xưa đức Phật tu hành thiền định chỉ sáu năm là chứng quả vô thượng bồ đề. Xét về mặt tư cách tu hành thì đức Phật đã thành tựu được đạo quả do chỗ khổ hạnh công phu diệt dục, khắc chế nội tâm.
Sự tu hành của giới xuất gia ngày nay quá sung sướng về mặt vật chất tiện nghi lại thêm sự ưu ái cúng dường của tín đồ thì đương nhiên kết quả thành đạo khó lòng đạt được. Vì vậy người xuất gia trong thời đại này cần phải phát tâm dũng mãnh, phát nguyện làm một cái gì đó lợi ích cho đại thể hay chịu khổ hạnh công phu thì họa may mới đủ công đức giải thoát. Chỉ có một điều có thể an ủi là trong một thời đại văn minh cơ khí tiện nghi vật chất mà một người có thể từ bỏ thế tục để sống cuộc đời xuất trần thượng sĩ.
Có những hạng người tu hành với tâm trí bệ rạc chỉ muốn an nhàn thoái mái trong cuộc sống tu tập, không bao giờ thích nghịch cảnh. Ban đầu họ cũng dũng mãnh xuất gia, nhưng thiếu sự học hỏi giáo lý từ các bậc thầy thiện hữu trí thức nên dần dà họ quên mất sứ mạng cao cả, bèn tách ra khỏi tăng đoàn trở về nhà sống tự do an dưỡng bên cạnh đàn con cháu thọ nhận sự nuôi nấng đùm bộc của những người thân quyến này.
Họ lý luận rằng: “Tuổi già sức yếu, tôi không muốn làm phiền các huynh đệ trong chùa và thọ lãnh sự cúng dường của đàn việt” Họ quên rằng con cháu họ cũng là một hình thức đàn việt. Bỏ sự thọ lãnh của đàn việt trong Chùa để thọ lãnh của đàn việt là con cháu mình ở nhà thì có khi còn nguy hiểm hơn. Từ sự thọ lãnh này hun đúc thêm mối dây nhợ ái dục giữa con cái thì sự giải thoát làm sao thực hiện được?
Trải qua gần một năm khi dời Chùa về địa điểm mới, mọi người ra sức tu bổ biến khu nhà rộng lớn này thành một đạo tràng tương đối hoàn chỉnh. Tôi bắt đầu tổ chức những khóa tu học bát quan trai rồi những khóa Phật thất hàng tuần. Tín đồ bắt đầu quy tụ về tu học và gieo được niềm tin vào sự Vãng sanh Cực Lạc.
Trong thời gian đại chúng tu tập trú ngụ trong Chùa, mới phát hiện ra những hiện tượng ma quỷ kỳ lạ.
Tôi dấu nhẹm tin tức này và bí mật tìm hiểu tại sao có hiện tượng những linh hồn mặc áo đen, ban đêm thường hiện ra xua đuổi những đệ tử trú ngụ trong Chùa. Đối với tôi họ rất nể trọng không dám có thái độ gì, nhưng những đệ tử của tôi thì thường bị những hiện tượng ma ám.
Ví dụ như đang ngủ thì bị giựt chăn mền và có người đang ngủ nghe tiếng nói từ trong tường vang ra:
- Hãy đi đi! đi khỏi nơi này ngay!
Có những lúc tôi thấy rõ ràng hai nữ nhân mặc đồ trắng toát đi vào phòng tôi, và xuyên qua ngả lò sưởi rồi biến mất trong hư không. Có lần một vị đệ tử nhìn thấy một người lạ hoắc đứng gần cây chuối rồi tự nhiên biến mất. Nhiều lần khác ở ngoài vườn Sư cô Trí Ấn nhìn thấy rõ ràng một người nữ còn rất trẻ, đi dạo trong vườn một cách rất tự nhiên rồi đột nhiên biến mất dạng.
Ở xứ Anh này nổi tiếng là nhiều ma quỷ, nhưng không hiểu sao lần nào tôi chọn mua Chùa cũng đều bị lọt vào những ngôi nhà có Ma. Có lẽ tôi có số độ cho ma quỷ tu hành? Tôi bắt đầu thiền định mỗi đêm và những gì tôi chứng kiến được đều không dám nói cho đệ tử nghe. Nếu bọn nó nghe được thì chắc không đứa nào dám ở đây tu.
Ngôi nhà này nguyên thủy là một villas sang trọng có mười phòng ngủ, ba phòng khách và nhiều phòng linh tinh khác của Bá tước Bernard xây dựng hồi năm 1891. Bà vợ của Bá tước bị chết trong căn phòng bên trái của tầng lầu thứ hai (sau này làm phòng ăn cho chư tăng). Đến năm 1917 căn nhà này được bán lại cho một người Do Thái.
Đến năm 1941 chiến tranh đệ nhị thế chiến xảy ra. Gia đình người Do Thái bị thảm sát ngay tại căn nhà này. Chính phủ đã niêm phong căn nhà suốt thời gian chiến tranh, và chỉ dùng để chứa xác chết của các quân nhân tử trận (nơi căn hầm mà tôi thường dùng để chứa máy móc in kinh). Lúc đó khu vực này là một ngọn đồi còn rất hoang vu và là nơi xảy ra nhiều trận dội bom kinh hồn.
Sau khi chiến tranh chấm dứt một thời gian dài, ngôi nhà này mới được bán lại cho một hội thánh Tin Lành, và sau đó bán lại cho một người Anh. Gia đình người Anh này bị linh hồn của bà Bá Tước và nhiều hồn ma của các người Do Thái bị giết trong chiến tranh phá phách, nên bán lại cho một gia đình người Ý vào năm 1979. Từ năm này gia đình người Ý sửa lại căn nhà cho thuê. Do ảnh hưởng của Ma quỷ nên không ai dám thuê ở lâu dài vì thường bị ma đuổi đi.
Đến năm 1995 thì rao bán căn nhà này, nhưng mãi hai năm sau Chùa mới mua tức là năm 1997. Sau đó có hai thanh niên trẻ tình cờ trở lại ngôi Chùa cho biết ngày xưa khi họ còn là sinh viên từng trú ngụ ở căn nhà này, nơi căn phòng nhìn ra sau vườn. Họ kể rất rùng rợn là mỗi đêm, thường bị các hồn ma lay dậy và tống ra khỏi phòng.
Họ sợ đến nổi mà không bao giờ dám có mặt trong phòng một người dù là ban ngày, lúc nào cũng đợi có đủ hai người mới dám bước vào phòng. Và cuối cùng họ dọn đi, chủ nhà cũng không thể cho ai thuê căn phòng đó và đành để làm nhà kho.
Ban đầu những linh hồn cư ngụ trong căn nhà này, đều không thích có sự hiện diện của những người tu hành như chúng tôi, nên thường tạo ra những rắc rối và khích động lạ lùng. Sau nhiều thời gian tụng kinh trì chú cầu siêu thoát cho những hồn ma chết oan, thì hiện tượng ma quỷ phá phách đã thực sự chấm dứt 100% (mỗi đêm tôi thường trì chú Phật đảnh tôn Thắng và hồi hướng cho các linh hồn chết oan).
Nhưng khổ thay! Những linh hồn ở đây cùng với những linh hồn thờ phượng trong Chùa, nó đã quen tiếng kinh kệ và bây giờ chúng lại không muốn chúng tôi dọn đi. Thật là lạ lùng khó hiểu làm sao? Đã ba lần chùa bị Chánh quyền địa phương tuyên bố ngừng chỉ sự sinh hoạt, nhưng không hiểu sao cả ba lần đều được một lực bí mật vô hình giúp cho sự sinh hoạt trở lại bình thường.
Chắc chắn có sự can thiệp của những hồn ma về việc sinh hoạt ở đây. Có một số linh hồn chưa chịu đi khỏi nơi đây, và ngấm ngầm ủng hộ chùa. Họ khiến cho Council làm ngơ không nói năng gì về việc sinh hoạt bất hợp pháp nữa. Các hồn ma không hiện hình hay gây những ấn tượng mạnh như hồi xưa, và như thế chúng tôi vẫn tiếp tục sinh hoạt cho đến ngày hôm nay, mặc dù Chùa đã bị đưa ra tòa kết án nhiều lần.
Những câu chuyện về hồn ma hiện lên ở sau vườn, trong những lúc tôi ngồi thiền định được dấu kín suốt thời gian qua. Vì sợ nói ra thì các phật tử hoang mang không ai dám đến Chùa. Lúc đó các linh ảnh về các trận chiến đẫm máu tại ngọn đồi Beulah (BEULAH HILL) diễn lại đúng y như lịch sử hồi năm 1941 khi phát xít Đức tấn công nước Anh.
Hàng ngày xác chết của lính Anh được mang đến lưu giữ tại sau vườn, và trong căn hầm của tòa nhà trước khi mang đi chôn cất. Phía sau chùa lúc đó chưa có nhà cửa và thông với một công viên rộng lớn, con đường chạy ngang công viên chưa được đặt tên. Cảnh tượng gia đình người Do Thái bị giết một cách dã man bởi gián điệp Đức, được diễn lại một cách linh động giống y như sự thật đang xảy ra. Một thiếu nữ con của gia đình này đã chết ngay dưới gốc cây, chỗ đặt đức Phật nằm. Và linh hồn cô này tồn tại đến hơn sáu mươi lăm năm sau.
Tôi hiểu cảnh giới ma quỷ là một hiện tượng có thật, nhưng vì không có ai nhìn thấy nên cho đó là những chuyện hoang đường. Thật sự đó là những chúng sanh sau khi chết linh hồn còn quyến luyến cõi trần. Họ bám chặt những nơi chốn cũ và sinh hoạt y như hồi họ còn sống. Vì không có ai cúng kiến hay khai thị cho họ hiểu rằng, họ đã chết và môi trường họ đang sống đã thay đổi với những con người mới, không cùng nghiệp trong cảnh giới của họ.
Con người đã tái sinh trong dòng sinh mạng vô tận không gián đoạn này, không biết bao nhiêu lần. Mỗi một kiếp sống như vậy, thay vì họ học hỏi và thực hành những điều hay tốt thiện lành để tiến hóa về mặt tâm linh, thì họ lại xu hướng vào những lối sống ích kỷ của tự thân, với những đam mê đầy dục nhiễm về danh vọng và sự nghiệp cá nhân.
Bởi vậy khi chết linh hồn họ không siêu thoát lên các cảnh giới trên cao được. Thực sự mỗi kiếp sống là một cơ hội để chúng ta học hỏi sự tiến hóa. Những bài học trong cuộc đời này có khi là những sự đau khổ cùng cực nào đó, hay một chướng duyên nghịch cảnh thử thách... Tuy nhiên làm sao con người có thể hiểu được điều này một cách dễ dàng, vì thế hầu hết đều xây dựng cuộc đời mình với những vọng tưởng u ám và dục vọng vô bờ.
Cuối cùng họ ra đi với hai bàn tay trắng với một nghiệp thức đầy tội lỗi. Kinh giáo của đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vấn đề tu tập thiện lành. Chùa chiền mở ra đều có mục đích khai ngộ và hướng dẫn đời sống tâm linh cho chúng sanh, nhưng than ôi! Số người đến với Phật giáo vẫn còn quá ít ỏi. Đôi khi có người vào đến cửa Chùa rồi cũng không chịu để hết tâm tu tập Phật pháp, vẫn còn tiếp diễn những thái độ vô minh bằng cách gây rắc rối đến nhiều người khác, tranh chấp nhau y như một kẻ không biết đạo lý.
Đây cũng là một hình thức oan báo tương quan, có nghĩa là nhiều đời trước ở quá khứ, con người từng có những mối oán hận gì đó và họ đã tái sanh lại, để trả lời những oan báo đó và điều này có lẽ cũng cần thiết để khích lệ những người chân chánh hiểu họ cần tu hành trong nghịch cảnh như thế nào, nỗ lực hơn nữa trong cuộc sống tu tập để giải thoát.
Thượng Tọa Thích Trí Như
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
![]() TUYỂN TẬP SÁCH HUYỀN HỌC![]() |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | babylon |
|
![]() |
|
![]() ![]() những góc nhìn khác nhau về chuyện cưới xin, xung - hợp vợ chồng |
Tử Bình | hieuthuyloi |
|
![]() |
|
![]() Trưởng c.an huyện du lịch ven biển |
Tử Vi | Kimthuy20212054 |
|
![]() |
|
![]() Suy nghĩ với hỗn hợp nhiều môn huyền học cho lá số VNXHCN |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
![]() |
|
![]() NGŨ BỘ CHÚ - QUÁN ÂM - Huyền Thanh dịch |
Sách Huyền Thuật | administrator |
|
![]() |
|
![]() ![]() Dự đoán phối hợp nhiều môn huyền học cho chính trị & kinh tế thế giới |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
![]() |
1 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:
An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |
Quỷ Cốc Toán Mệnh |
Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |
Quẻ Mai Hoa Dịch Số |
Bát Tự Hà Lạc |
Thái Ât Thần Số |
Căn Duyên Tiền Định |
Cao Ly Đầu Hình |
Âm Lịch |
Xem Ngày |
Lịch Vạn Niên |
So Tuổi Vợ Chồng |
Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












