Truyện ngắn huyền bí - hiendde
#1
Gửi vào 05/06/2011 - 02:02
Từ lúc còn nhỏ cho đến giờ, không biết sao tôi lại rất thích con số mười hai (12). Cái gì đó đã thu hút tôi mỗi khi tôi nhìn thấy nó. Là một cô gái, mỗi khi nhìn thấy ai mặc áo có ghi con số đó thì tôi lại dính chặt cặp mắt tôi vào họ. Nhiều khi bị họ bắt gặp, tôi rất mắc cỡ, nhưng tính nào tật đấy, vẫn không bỏ được.
Ở bên Mỹ này, hầu như mọi người ai cũng có một con số đặc biệt cho riêng mình. Có người gọi nó là "số hên" (lucky number), hoặc số ưa thích nhất (favorite number). Con số mười hai của tôi thì chẳng đưa đến cái hên cho tôi bao giờ, nhưng tôi cứ thích nó. Theo cách tính nút thường thấy khi ta tính số nhà, số xe, con số 12 gồm số 1 và số 2, cộng lại thành 3 nút. Con số ba, dù tôi không bao giờ để ý đến nó, nhưng không biết có phải là định mệnh hay không, lúc nào nó cũng đi liền với tôi như hình với bóng từ khi tôi còn nhỏ và cho đến bây giờ
Mẹ tôi kể, hồi tôi ba tuổi, tôi bị lên đậu mùa rất nặng, tưởng chết. Mẹ tôi đã cầu nguyện và thuốc men ngày đêm, rốt cuộc tôi cũng qua khỏi, nhưng mặt và toàn bộ thân người đều bị rỗ và sẹo khắp nơi.
Năm tôi bảy tuổi, ở Việt Nam hồi đó, với cái tiền trợ cấp quả phụ mà mẹ tôi lãnh hàng tháng, mẹ thỉnh thoảng chơi số đề với cái hy vọng một ngày nào, chó táp phải ruồi, sẽ trở lên giàu có. Cái ước vọng mạnh mẽ đó đã in sâu vào tâm não tôi. Khi lớn hơn chút chút, một đêm tôi nằm mơ thấy mình đang nằm ngủ trưa, bỗng có hai cô gái mặc áo dài không biết từ đâu tới lay gọi tôi dậy, đưa cho tôi một chén cơm và hai chiếc đũa, rồi lặng lẽ bỏ đi.
Khi tỉnh dậy, tôi kể lại giấc mơ đó với mẹ. Mẹ tôi tính toán rồi nói mẹ sẽ mua số đề với con số Ba, hoặc mười ba vì trong giấc mơ tôi chỉ thấy có ba người, tôi và hai cô gái. Họ cho tôi thêm 1 chén cơm và 2 cái đũa. Cái gì cũng đều là số ba cả.
Một tuần sau đó, mẹ tôi đã dẫn tôi đi sắm rất nhiều quần áo và đem tôi đi ăn hàng, liền suốt mấy ngày. Mẹ không nhắc gì tới chuyện “mua số Đề” theo giấc mơ của tôi nhưng tôi cảm thấy là mẹ đã trúng đề, nhờ mua theo con số tôi gợi ý.
Tuy mẹ tôi không chịu mặc nhận tôi nói đúng vì tôi chỉ là đứa con nít, nhưng tôi biết chắc rằng mẹ tôi đã kể lại cho Bác Trọng, một bà quả phụ ở cuối xóm, vì từ hôm đó, bác cứ gọi tôi đến và cho tôi những cái ngon, cái ngọt, hoặc cho tôi tiền để mua quà vặt rồi bảo tôi nói cho bác nghe một con số nào đó. Như diều gặp phải gió, tôi cứ đoán đại, đoán bừa, miễn sao có ăn là tôi chịu, nhưng một thời gian sau, bác Trọng đã hiểu rằng, tôi không còn linh nữa. Sau khi tiền mất, tật mang, bác đá tôi qua một bên.
Những năm ở bên Mỹ, tôi là người thứ ba, người cuối cùng được việc, khi tôi đi xem những cái game nào hoặc show nào, thì tôi lại thắng cái này, cái nọ, và khi nhìn lại thì lại thấy mình vô tình được xếp ngồi ghế thứ ba hoặc hàng thứ ba, và cứ thế nhìn lại, thì thấy cuộc đời mình mọi những biến cố to nhỏ đều vô tình bao quanh con số đó.
Năm nay tôi đã ngoài bốn mươi. Con cái đã khôn lớn, đứa vô đại học, đứa vừa lập gia đình. Bao năm làm lụng, chúng tôi đã để dành được chút vốn liếng, mua nhà, mua cổ phần, và mua bảo hiểm nhân thọ (Life Insurance) để cho con cháu sau này. Khi dư dả chút đỉnh và sở cho vacation, thì chúng tôi lại đi du ngoạn đây đó. Cuộc sống coi như đã ổn định, con cháu, chúng tôi đã phân chia, đồng đều và đều ghi rõ trong di chúc. Bây giờ chỉ còn một chuyện cuối cùng….
Ở đời, có một số người rất sợ chết, hoặc nghe đến chữ chết. Tôi thì lại không vì từ nhỏ tôi suýt bị chết đuối và suýt chết rất nhiều lần. Làng tôi ở, hầu như bị pháo kích hàng tuần, có khi hàng đêm. Khi chạy giặc từ Đà Nẵng vô Sài Gòn, xong đến vượt biên qua Mỹ, tôi cũng mấy lần bị tử thần đến viếng nhưng lại may mắn thoát khỏi.
Năm ngoái tôi có bàn với chồng nên mua trước hai miếng đất trong nghĩa trang thành phố để khi mất, có chỗ mà chôn. Sau này, dù có để lại tiền cho con, cho cháu, thành phố sẽ không còn chỗ trống và phải chôn rất xa vùng ngoại ô, như vậy thấy tội nghiệp cho con cháu quá. Nếu tụi nó không đi viếng thăm, thì là bất hiếu, mà nếu đi, thì quá bất tiện. Đã lo thì lo cho trọn.
Sau một năm tìm kiếm, tuần qua chúng tôi đã mua được hai lô rất là ưng ý của một cặp vợ chồng già Mỹ. Hai lô đất này nằm trên một ngọn đồi nho nhỏ. Ngay dưới đồi, là một bờ hồ nước thật xanh. Chỗ chúng tôi nằm, gió thổi thật mát. Chồng tôi nói, anh rất thích chỗ yên nghỉ này. Chỗ này rất lý tưởng cho hai chúng mình ở bên nhau mãi mãi.
Sau khi thương lượng tiền bạc và làm thủ tục, giấy tờ, tôi cầm tờ giấy và bản đồ trên tay và đọc những hàng số ghi trên đó.
Tôi sanh năm Nhâm Dần. Tính theo ngôi thứ: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, như vậy là trong mười hai con giáp, tôi đứng vào hàng thứ ba. Hai lô đất chờ an táng, từ ngữ Hán Việt gọi là “sinh phần” của chúng tôi nằm vào khu III. Lô đất dành cho chồng tôi nằm ngay bên tôi, và con số lô đất dành cho tôi là… số 3.
Minh Phượng
Thanked by 8 Members:
|
|
#2
Gửi vào 05/06/2011 - 07:41
Tôi mất việc sau kỳ khủng bố ở NewYork, thành người deli pizza luôn từ đó. Tính làm tạm một thời gian để chờ hãng kêu trở lại. Nhưng không ngờ công việc deli pizza cho tôi thu nhập khả quan, cũng như tinh thần sảng khoái hơn làm hãng, nên tôi làm luôn tới nay. Tôi nhớ những ngày đầu lớ ngớ tìm địa chỉ khách hàng khi chưa là thổ địa vùng này, nhớ cái Viện dưỡng lão đằng sau Bệnh viện Medical Center of Plano, chung một building thôi, nhưng người ta chia ra làm hai khu: Khu North cho người già ở, gọi là: Heritage Manor Health Care Center.
Và khu South là nơi săn sóc sức khoẻ khi những người già ốm đau, gọi là: Plano Specialty Hospital. Mọi người trong đó đều là khách hàng của tôi, lần đó tôi đưa pizza đến, có một cụ gìa Mỹ trắng, nhưng đôi mắt rất tinh anh, đôi mắt đẹp nhưng không già theo gương mặt nhăn nheo làm nên sự kỳ lạ, tương phản trên gương mặt. Bà cụ khoảng tám mươi nhưng đôi mắt sáng, xanh và đẹp như con gái, đặc biệt là sắc lạnh, chứ đôi mắt không hiền. Bà ngồi trên xe lăn, phía trong building như chờ người mở cửa để ra ngoài. Khi tôi mở cửa để bước vô thì bà nói: "Giữ giùm tôi cái cửa. Làm ơn".
Giọng bà sang sảng đến chói tai, mất thiện cảm, nhưng tôi cũng đâu dám từ chối tuổi tác và hoàn cảnh ngồi trên xe lăn của bà. Tôi mở hẳn cánh cửa rộng hết cỡ cho bà lăn xe ra ngoài. Bà vừa lọt qua cửa thì ba con nhỏ Mỹ đen ào ra lôi xe bà vô, một trận chửi lộn om xòm gian phòng khách bên trong building. Bà già dữ thiệt chứ chẳng chơi.
Sau đó, ba con nhỏ quay sang quát cho tôi một trận về cái tội mở cửa cho bà. Tôi bất bình với thái độ hung dữ không kém bà già của ba cô gái trẻ. Xét cho cùng, dù tôi không biết là không được mở cửa cho bà ấy ra ngoài thì cũng không nên hung dữ với tôi như thế! Nhưng hơi đâu đôi co với Mỹ đen, tôi đi giao pizza cho lẹ để còn đi chỗ khác. Hôm nào, tôi sẽ mách Manager của họ.
Từ đó về sau, sáng nào tôi có đến Viện dưỡng lão đó cũng thấy bà ta ngồi trên xe lăn, và sẵn sàng xông ra ngoài. Bà không ngồi xem tivi, đọc sách hay trò chuyện như những cụ ông, cụ bà khác. Gặp ai, bà cũng nhờ giữ cửa cho bà ra, và không làm theo ý bà thì bà chửi oang oang, chửi tục lắm! Có hôm phải đứng đợi khách hàng dăm phút, tôi hỏi thăm mới biết! Bà luôn đòi về nhà để hỏi con cháu sao không đến thăm bà, bà xin gọi điện thoại về nhà thì không ai bắt phone…
Nói chung, bà rất tội nghiệp. Nhưng trong Viện thì bà cũng không hoà nhã với ai, luôn gây phiền phức cho y tá, với đủ thứ chuyện như một lần bà lén được ra ngoài, thì nhặt thuốc lá của ông kia vừa bỏ, bà hút và ho, sặc… đến phải đưa bà qua cấp cứu bên Hospital, làm người trực tiếp chịu trách nhiệm về bà bị đuổi việc. Lần thì bà đánh một người không giữ cửa cho bà, gặp bà Mỹ trẻ đó thích kiếm tiền trời ơi đất hỡi! Nên đệ đơn thưa viện dưỡng lão…
Ôi thôi! Bà cụ khủng bố những người chăm sóc cho bà nên không lạ gì thái độ thiếu thân thiện của họ đối với bà. Riêng tôi, tôi bị ám ảnh bởi đôi mắt kỳ quái của bà tới tôi gặp trong mơ. Đôi mắt sắc lạnh và quá trẻ trên gương mặt nhăn nheo, giọng nói lanh lảnh không phù hợp với tuổi tác cũng làm tôi ớn xương sống.
Rồi thời gian trôi đi hai, ba năm như thế! Bà vẫn hung dữ, oang oang… không thay đổi gì hết. Hôm tôi gặp lại bà ngồi trên xe lăn, nhưng bên South building tức Hospital. Bên North thì cửa mở bằng tay, nhưng bên South thì hai lần cửa tự động, khó thoát ra ngoài hơn. Thế mà có lần tôi cũng gặp bà thoát ra được tới packing handicap. Tôi biết bà trốn ra, vì thấy bà đang lăn xe quanh quanh, đã nhặt được nửa điếu thuốc lá và hỏi tôi xin lửa.
Tôi nhớ bà đã sặc thuốc lá như nghe kể lần trước ,nên vội chạy vô bên trong để cho y tá hay, chứ cho bà mượn quẹt thì khác gì mình cố tình giết bà ta. Bà ta bị lôi vô và dĩ nhiên là chửi từ trên xuống dưới cái bệnh viện.
Tôi nghe kể, bà ta sức khoẻ còn tốt, nhưng phải đưa qua khu bệnh viện này, vì có một cô y tá order thức ăn Mễ cho bữa ăn trưa của cô ta. Cô đi rửa tay trong bathroom để ra ăn trưa thì ngoài này, bà ta đánh cắp thức ăn, lăn xe về phòng và trùm mền thưởng thức. Kết quả là sặc cay vì ớt jalapenõ, rối loạn hô hấp nên phải đưa qua Hospital.
Có những hôm, tôi nhìn bà ấy rũ rượi trên cái xe lăn. Tôi buồn vô kể, khi nghĩ đến tuổi già trên nước Mỹ. Tôi biết nhiều người già ở đây, đầu tiên vô khu North để làm quen với cuộc sống mới, không con cháu. Hình ảnh những người mới vô chưa quen với sinh hoạt ở Viện dưỡng lão, họ chống đối lệnh tập trung đi xem tivi, hội họp… thì tôi gặp hoài.
Dần dần họ quen với sinh hoạt thì đã đến lúc qua Hospital, nằm ú ớ u ơ trên cái giường có bánh xe, chung quanh ống nhựa và đủ thứ máy đo… sự sống còn bao lâu?! Khi những cái máy đo hết việc thì Viện dưỡng lão hú lên một tiếng còi báo tử thê lương. Tiếng còi khác hẳn với tiếng còi xe cứu thương, cứu hoả… xe cảnh sát. Tiếng còi trầm buồn và uất nghẹn nhưng không làm ngưng lại được sự hối hả bên ngoài.
Ngoài đường, xe vẫn rú ga qua mặt nhau, tiếng còi xe bất bình vẫn ganh đua với tiếng còi báo tử, vang lên trên mặt đất không bao giờ hết bon chen. Có khi nghe tiếng còi báo tử, tôi muốn dừng xe lại để tiễn biệt một người vừa quá cố, như Công Dân Giáo Dục thuở nhỏ mình học ở trường làng, là ngả nón, đứng nghiêm khi xe đám ma đi qua. Nhưng trên nước Mỹ, làm thế là khùng! Xứ sở văn minh bậc nhất thế giới này, vẫn chưa hoàn thiện Đức Dục Công Dân.
Tôi gặp bà thỉnh thoảng trong những lần đưa pizza đến Hospital cho khách hàng, rồi không gặp nữa. Một lần tôi được thấy y công đẩy cái giường có bốn bánh xe ra khỏi phòng để clean up. Bà nằm co ro trong tấm đắp lạnh lẽo. Bà tóp teo trong làn hơi thở nhẹ hều, như đã sẵn sàng bay lên thiên đàng một chuyến. Đôi mắt đã lạc thần nhưng hãy còn sắc lạnh của đôi mắt tinh anh một cách kỳ quái. Bà đã nói nhảm u ơ trong tiếng rên rỉ đến não lòng.
Tôi rất không thích đến những nơi buồn bã như thế này, nhưng công việc deli pizza như chạy Taxi, đến tài ai thì nấy phải đi. Tôi thường ra về từ nơi ấy trong tâm trạng bất an. Có khi tôi mơ được chết vì một tai nạn nào đó sẽ hay hơn chết già trong Viện dưỡng lão vì mình có quá nhiều thời gian để đối mặt với cái chết đến từng ngày! Tôi thường đổi tài với người driver kế tiếp, nếu tôi phải đi bệnh viện, mà cụ thể là Viện dưỡng lão. Chẳng giải thích được với đồng nghiệp Mỹ hay Mễ, vì họ không có những ý nghĩ như mình, như tôi.
Rồi không thấy bà nữa, và tôi quên đi đôi mắt ấy từ khi không gặp. Một thời gian qua đi như thế! Một hôm, tôi gặp đôi mắt Liz Taylor trên báo, tôi nhớ ngay đến đôi mắt bà ta, và so sánh thì mắt Liz chỉ mới dễ sợ bằng một nửa bà ta thôi! Tôi lại bị ám ảnh bởi ánh mắt kỳ quái của bà dăm hôm.
Tính bụng là hôm nào có đến Hospital thì hỏi thăm bà, nhưng mấy khi đến đó trong giờ rảnh, toàn giờ lunch là giờ cao điểm làm ăn nên đâu có nhớ. Khi nhớ thì tôi thầm nghĩ… chắc bà đã qua thế giới bên kia! Tôi không biết nên vui hay buồn cho bà?! Giã từ cuộc sống thì ai không buồn nhưng sống trong thèm khát từ hơi thuốc lá tới miếng ăn ngon thì thà chết đi hay hơn. Chưa nói tới nỗi buồn không ai thăm hỏi, gọi về nhà cũng không ai bắt điện thoại… Sống như vậy thì chết đi sẽ sướng hơn không?!
Quy trình hội nhập của tuổi già nơi Viện dưỡng lão âm thầm lắm! Đến trong hoang mang của những đôi mắt bị tách ra khỏi đời thường, cuộc sống hằng quen như đôi mắt trẻ thơ ngày đầu đến lớp học. Cảnh bịn rịn của người già với con cháu y như con trẻ với mẹ hiền ở cổng trường Mẫu giáo, Tiểu học. Bước thứ hai là hội nhập và chấp nhận cuộc sống mới, cứ tưởng tượng sự hội nhập hoàn cảnh mới của tuổi nhỏ đến trường, đã khó khăn, dù chỉ trong vài giờ school times, rồi lại về với mẹ và gia đình.
Ở sự khó thay đổi hoàn cảnh sống, và thói quen của người già, trong mội trường tù túng, và kỷ luật hơn ở nhà, thì biết họ khổ sở tới đâu?! Phần, bạn bè cũng không còn đến thăm nhau được, vì ai cũng hoàn cảnh như nhau, khi cánh cửa Viện dưỡng lão khép lại, thì một cuộc đời đã đóng nắp quan tài, nhưng số xã hội chưa bôi.
Những nặng nề tâm lý đó, sẽ sớm đưa họ sang Hospital hơn ở nhà với con cháu, nhưng con cháu trong đời sống Mỹ thì thật là không thể chăm lo cho cha mẹ, ông bà lớn tuổi ở nhà. Lỗi tại thời đại Văn minh chứ trách ai được bây giờ? Tôi bắt đầu nghĩ tới tuổi già của vợ chồng mình, nhưng nói ra thì bà xã hoang mang thêm chứ ích gì?
Rồi cuộc sống cuốn hút tôi vào vòng cơm áo, để quên đi ngày mai, chắc chắn khó khăn hơn hôm nay! Một hôm mưa gió, tiệm hơi ế nên tay Manager nói tôi chạy cái order Viện dưỡng lão, rồi về sớm luôn đi, anh ta cho tôi ăn lương đủ giờ, đó là ưu tiên cho người đã làm việc lâu năm ở tiệm.
Tôi lái xe đến Hospital của viện dưỡng lão, trời mưa do ảnh hưởng bão nên mưa không lớn, gió nhiều vít bóng cây lắc lư trong ánh đèn cũ kỹ nhạt nhoà của packing vắng hoe. Ánh, đèn xe tôi cũng cũ rồi nên không sáng trưng như xe mới. Tôi hoảng hồn khi quẹo vô mấy cái Packing Handicap, vì anytime không được đậu trên lối dành riêng xe Ambulance.
Tôi tối mắt tối mũi, khi thấy bà ngồi trên xe lăn một mình, ngoài packing đêm mưa. Tim tôi đập loạn lên, và nổi da gà liên tục dù trong xe thì đâu có lạnh. Tôi mất hồn vía đến năm giây như thế. Bình tĩnh lại chút mới thấy việc cần làm ngay là đẩy xe lăn bà ta vô trong building trước, rồi kêu y tá sau. Quyết định xong, tôi xuống xe vội vàng để ngã quỵ xuống packing đang mưa, vì chỉ có mình tôi trên packing trống trơn, không một bóng người.
Tôi trở vô ngồi trong xe mình, thần hồn nát thần tính đến u mê. Đến người Manager ở tiệm gọi tôi:
- Mày có sao không? Xe mày có bị hư dọc đường không? Sao đi lâu quá rồi mà chưa đến chỗ giao hàng? Khách hàng gọi complain…
Tôi tỉnh hồn và đi giao hàng. Tôi hoang mang trong thầm lặng nhiều ngày sau, muốn nói cho mấy ông nghe nhưng sợ mấy ông cười tôi yếu bóng vía! Cho tới Thankgiving năm rồi! Tôi cũng đến Viện dưỡng lão, với order cuối trong ngày để về nhà luôn. Ở đó, sau 9:00 tối thì lần cửa tự động phía ngoài vẫn mở khi có người, nhưng lần cửa bên trong, thì khoá để không cho người ra vô, vì đã hết giờ thăm. Mình phài bấm nút gọi người ngồi Information desk, mở cửa cho mình vô giao hàng.
Tôi được ông Bác sĩ Ấn Độ ra mở cửa, ông đưa luôn tiền cho tôi, và nói bạn ông nhờ ông ra lấy pizza. Tôi láp dáp với ông mấy câu, rồi chào tạm biệt, ra về. Khi tôi de xe để trở đầu, vì làm biếng chạy hết vòng cái building hơi lớn. Tôi nhìn trong kính chiếu hậu (rear-view mirror) vì quay đầu lại cũng chẳng thấy gì bởi kính xe mờ căm hơi lạnh. Bà già Mỹ lại ngồi trên xe lăn, chừng một gang tay nữa thì tôi đụng bà. Đôi mắt lạnh lùng nhìn tôi không khoan dung, mới hết hồn hết vía tôi. Tôi đạp thắng, đèn de đang mở lại thêm đèn thắng sáng lên… gương mặt bà càng rõ ràng hơn và đỏ hoét.
Đôi mắt lạnh tanh ấy nhìn tôi tới tôi mất hết tinh thần… chân tôi buông thắng hồi nào không hay? Xe tôi tông vô hàng cây kiểng lanscap. Tôi đứng tim luôn! Không biết bao lâu sau, chắc ông Bác sĩ Ấn Độ trong building nhìn ra thấy tôi. Ông mở cửa bước ra, và gõ kiếng xe tôi làm tôi tỉnh. Tôi lại trò chuyện với ông. Ông băn khoăn dữ lắm! Gương mặt ông cũng căng thẳng chẳng kém gì tôi.
Cuối cùng ông kể tôi nghe với điều kiện phải giữ im lặng:
- … một lần, vợ con tao đi ăn tối ngoài nhà hàng, họ mua cho tao một phần ăn và ghé đây đưa cho tao. Vợ tao de xe và đụng bà già ngồi trên xe lăn! Cô ta hoảng hồn xuống xe để xem nạn nhân có sao không?... Và cô ta ngất xỉu khi không có ai ở sau xe, y như mày vậy! Từ đó, tao phải ăn pizza hay fastfood. Tao cũng nghe một đồng nghiệp (bà Rose-Manager) nói, có thấy bà ta, nhưng dặn tao đừng kể lại, vì nhân viên sẽ sợ! Mày về đi và kín tiếng giùm tao, nhớ lái xe cẩn thận! Cái lanscap này không phải lo vì chẳng hư hại gì!...
Chúng tôi giải tán bữa tiệc bỏ túi ngoài vỉa hè để ai về nhà nấy, dẫn con đi xin kẹo. Đường về nhà tôi hơi xa, dư thời gian cho tôi sắp xếp một bài viết nên thời gian còn lại trước khi về tới nhà, tôi miên man trong suy nghĩ: Đôi mắt sắc lạnh của bà lão nhìn đời đầy hận thù, hằn học… thì chết thành ma cho thiên hạ không ngớt hoang mang, lo âu, sợ hãi… Cái giá bà phải trả là không siêu thoát được để đi đầu thai. Ai là người sẽ cúng siêu độ cho bà? Đó là nói theo duy tâm.
Phan
Thanked by 5 Members:
|
|
#3
Gửi vào 05/06/2011 - 08:03
Chuyện ma ở Mỹ.
Sau hơn năm năm sống khá êm đềm trong căn apartment hai phòng bệ rạc trên đường Maple, thuộc thành phố Orange, nơi hai đứa con nhỏ của tôi được sinh ra, vợ chồng tôi đi đến quyết định là đã đến lúc phải dọn đi nơi khác. Dãy apartment đó có sáu căn nhà một tầng mặt đường. Căn thứ nhất ngay góc ngã tư, nhà tôi là căn thứ hai. Ở cuối dãy có một phòng để máy giặt máy xấy, loại máy bỏ tiền cắc vô mà dùng, dành cho bà con trong toàn dãy xử dụng.
Dạo gần đây, căn phòng này bị đập khóa, đêm nào cũng có người vào "ị" ba bốn bãi thù lù thật dơ dáy trên nền, nhưng lại đái vào...máy xấy! Khi gia đình tôi mới dọn vào, thì hàng xóm còn có vài gia đình Mỹ, nay thì họ đã dọn đi từ lâu, chỉ còn lại toàn bà con Mễ và gia đình tôi mà thôi. Ông bà Mỹ già kế bên dọn đi sau khi xe của họ đậu trên đường trước nhà bị ... đẩy một bánh lên lề ban đêm bởi một ông say rượu "hit and run" nào đó!
Đêm nào, cũng có một vài xe đậu ngoài đường bị đập kiếng, chiếc xe van Aerostar của tôi cũng không tránh khỏi số phận đó! Lại có đêm đang ngủ, tôi phải lăn xuống đất mò mẫm tìm điện thoại trong bóng đêm để gọi 911, vì "gang" Mễ bắn rầm rầm trước cửa nhà...còn cái "alley" đằng sau dãy apartment, thì đêm nào chó cũng sủa tới gần sáng vì bọn mua bán "drug" ước hẹn nhau giao dịch ở đó!
Ngày ấy, tôi còn làm nghề thẩy báo cho tờ Register, và vừa chuyển lên trường CSUF từ Fullerton College. Thế rồi, sau hơn một tháng tích cực tìm nhà cho thuê trên báo, tháng hai năm chín mươi ba, gia đình tôi dọn vào một căn nhà hai phòng ở đường Hewes, cũng thuộc thành phố Orange. Đây là một căn nhà nhỏ khá cũ kỹ xây từ thập niên bốn mươi, và là căn thứ ba, cuối cùng, bên tay phải trong một con hẻm cụt. Đối diện cũng có ba căn xây y hệt, có điều hai căn đầu hẻm thì mặt tiền nhìn ra mặt đường, chỉ có cửa garage của họ thì nằm bên trong đầu hẻm.
Nhà tôi một bên thì sát vách với cái garage cho hai xe, với cửa hông trổ ra sân cỏ sau nhà, trong garage lại có chỗ cho máy giặt máy xấy thật tiện. Hông nhà bên kia còn có một lối đi nhỏ thông từ sân trước ra sân sau nơi có một giàn bông giấy lớn thật xinh đẹp. Trước nhà là cái sân cỏ nhỏ với một cây dâu ta cổ thụ cành lá xum xuê quanh năm rất thơ mộng, nhưng đến mùa hè thì rụng đầy trái dâu ta nho nhỏ mầu đen, rất dơ và có ruồi!
Vợ chồng tôi rất hài lòng với căn nhà này, vì trong "xóm" thật ra chỉ còn có bốn gia đình, hai căn đầu hẻm thích đậu xe của họ ngoài đường trước nhà, garage thì chỉ để chứa đồ đạc, nên không mấy khi họ đi vào hẻm mà gặp gỡ những người trong "xóm". Căn thứ hai bên dãy của tôi là gia đình bác Ba, có hai vợ chồng già sống với anh con út và cô con dâu mới.
Đối diện nhà bác Ba là gia đình môt anh người Phi làm nghề đưa thơ nhưng có vợ Mễ và một thằng con nhỏ lên hai. Còn đối diện nhà tôi là cặp vợ chồng Mỹ, có đứa con gái mười bốn hay lén lút đứng hút thuốc sau hàng rào sân trước nhà nó (cũng là sân trước nhà tôi, ngăn bởi cái hàng rào đó).
Lối xóm chỉ có mấy gia đình đều biết rõ nhau, nên người lạ mặt chẳng có lý do gì bén mảng vào khu này cả, cho nên cuộc sống ở đó riêng biệt, an toàn, và hai đứa con nhỏ của tôi có thể chơi loanh quanh bứt bông trước nhà hoặc đạp xe đạp ba bánh của nó từ sân trước vô garage rồi ra sân sau mà tụi tôi chẳng phải lo lắng gì hết.
Để bà xã khỏi phải ra "Bolsa" mỗi cuối tuần giặt xấy quần áo như lúc còn ở apartment, tôi lập tức lên Sears mua ngay một cặp máy giặt xấy về gắn trong garage liền, tha hồ mà giặt lúc nào cũng được. Tôi cũng mua ở Sears một bàn bi da lỗ về để trong garage cho cha con chơi với nhau lúc rảnh. Còn xe của tôi thì đậu trên sân trước garage vẫn còn rộng chán mà chả lo bị trộm cắp gì nữa.
Nhà thì có hai phòng ngủ kế bên nhau, nằm ở cuối một lối đi hẹp ở giữa, dẫn ra phòng khách. Một bên của lối đi là nhà tắm. Kế phòng khách là một phòng ăn nhỏ. Đằng sau tường phòng khách là nhà bếp, thông với nhau bằng một cánh cửa. Năm ấy đứa con gái lớn của tôi chưa đầy mười sáu tuổi, còn hai đứa nhỏ thì một thằng lên bốn, đứa gái út mới bẩy tháng. Tôi chọn căn phòng ngủ có cửa sổ nhìn ra sân trước, nơi có cây dâu ta để dễ bề quan sát phía trước nhà khi cần, còn đứa con gái lớn thì được căn phòng có cửa sổ nhìn ra sân cỏ sau vườn.
Đời sống ở đó êm đềm, thoải mái, và yên ổn rất nhiều so với lúc còn ở thuê apartment. Vợ chồng tôi cuối tuần nào cũng kêu bè bạn nghèo lại chơi, để nướng sườn Đại Hàn, uống bia trò truyện tâm tình với nhau ở vườn sau nhà, trong khi lũ con còn nhỏ lon ton quấn quít chơi loanh quanh. Ngày ấy tôi còn thẩy báo kiếm ăn, và đêm đêm ngồi học ở cái bàn tròn trong nhà bếp đèn tuýp sáng choang đến hai ba giờ sáng...Cuộc đời còn nghèo khó nhưng hạnh phúc lắm...
Thế rồi, khoảng hai tháng sau đó, một đêm, tôi đang miệt mài vật lộn với bốn "chapter" của môn "U. S. Corrections" ở bàn nhà bếp cho cái "test" sáng mai lúc chín giờ, định bụng sẽ học xong vào khoảng bốn giờ sáng rồi thì đi nằm vài tiếng cũng khỏe. Bỗng nhiên, tôi bị giật thót người, vì trong đêm thanh vắng, bỗng có tiếng TV lao xao trong phòng khách tối thui! Tôi nghĩ chắc mình vì tập trung đầu óc vào sách nhiều quá thành ra tai bị...lùng bùng rồi, hay là TV nhà hàng xóm chăng?
Nhưng nhìn lên chiếc đồng hồ tròn trên tường nhà bếp, kim đồng hồ chỉ đúng phóc ba giờ sáng, chẳng lẽ có người còn coi TV vào giờ này sao... Tôi bèn đứng bật dậy định bụng sẽ bước ra phòng khách, vén cái màn cửa sổ lớn nhìn ra ngoài xem nhà hàng xóm nào còn coi TV giờ này mà vặn lớn vậy! Rồi thì, vừa bước chân tới cái cửa mà ngăn nhà bếp với phòng khách, tôi phải khựng lại ngay lập tức...
Trời đất, có một người đàn bà trong chiếc áo ngủ trắng toát, đang ngồi vắt vẻo, chân tréo lên nhau, trên thành ghế bên phải của cái "sofa" bự kê sát ngay cái cửa sổ lớn phòng khách, còn cái TV 25" của tôi thì đang đổi đài liên tục, từ đài có hình với tiếng đến đài "off air" chỉ toàn lấm chấm li ti và âm thanh rè rè! Tôi biết ngay mình đã...gặp ma rồi, thế mà đành đứng chết trân chẳng làm sao nhúc nhích gì được, cỡ mười giây là ít. May thay, người đàn bà đó bỗng từ từ mờ đi rồi tan biến luôn tại chỗ!
Chẳng biết nghĩ làm sao, mà tôi lại quay người bước trở vào nhà bếp, rồi ngồi phệt xuống chiếc ghế bàn học mà thở phì phò gần mười phút vì tim đập thình thịch không làm sao kiềm chế được! Người đàn bà đó, vì ngồi nghiêng một bên trên thành ghế, nhưng nhờ ánh sáng hắt ra từ TV, tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt bên trái của nàng.
Đó là một người đàn bà da trắng tuổi từ hai mươi lăm tới ba mươi, vóc dáng cỡ 54, một trăm ba chục lbs (làm gì có ma nào nặng vậy, lại méo mó nghề nghiệp nữa rồi), có khuôn mặt xinh đẹp và vóc dáng kiêu kỳ của nàng Winona Rider trong film "Bram Stoker s Dracula" mà tôi chỉ được xem vài năm sau đó...
Tôi chẳng dám tắt đèn bếp, cũng chẳng dám ló mặt ra phòng khách để tắt cái TV đang kêu rè rè, vì đang bị chỉnh trúng ngay đài "off air" nhằm lúc ... "nàng" bỏ đi (xin gọi tên "nàng" là "Winona" cho tiện). Bước nhanh về phòng ngủ với vợ con, tôi thao thức gần tới sáng mới thiếp đi một lát cho tới khi vợ đánh thức dậy kêu đi học. Không muốn vợ con sợ, tôi chẳng hó hé một câu ...
Đêm sau, tôi ngồi học ở bếp mà lòng cứ thấp thỏm, chẳng học được gì hết, vừa gần mười hai giờ đêm là chui vô giường rồi. Thao thức một chút rồi cũng ngủ quên hồi nào không biết. Đêm ấy, bà xã tôi và tôi phải choàng tỉnh và ngồi bật dậy cùng lúc vì làm như có ai đang đập cửa rầm rầm liên tục ở nhà trước ...
Chẳng kịp đắn đo suy nghĩ gì hết, tôi phóng mình xuống đất chạy ào ra phòng khách, thì chỉ thấy cái xe đua màu đỏ chạy bằng "remote control" của thằng con trai tôi...đang liên tục de lại lấy đà, rồi lủi hết ga thẳng vô tường từ hồi nào! Tôi chỉ còn có nước chụp nó lại, rồi mở bụng tháo pin ra. Trở lại phòng ngủ, vừa bực bội vừa khó ngủ lại, cho rằng chiếc xe đua của thằng nhỏ bị "mát" điện rồi chạy mà thôi, thì bỗng nhiên cây đàn "Mandolin" đồ chơi của thằng con để đâu đó trong phòng ăn bỗng...kêu tưng tưng một chập!
Hai vợ chồng tôi im thin thít chẳng dám nhúc nhích, nhưng tôi vẫn quyết chẳng hé môi với vợ về nàng "Winona" gặp trong phòng khách đêm trước. Nhìn đồng hồ bàn, chỉ mới ba giờ lẻ năm sáng! Hai đêm kế, tôi ngồi học mà cứ thấp thỏm nhìn đồng hồ từng chập, và cuối cùng quyết định gấp sách đi ngủ vào lúc hai rưỡi sáng, vì biết rằng ba giờ sáng là giờ...của "nàng", vậy thì mình tốt hơn đã trùm mền trong giường rồi!
Khoảng ba giờ sáng đêm thứ nhì, vợ chồng tôi bị đánh thức dậy vì đứa con gái lớn ôm mền mở cửa phòng bước vào, vừa khóc vừa nói rằng có bà mặc áo ngủ trắng dở mền che mặt của nó lên, rồi kê sát mặt bà ta vào mặt nó và la lên, "Boo !" Vợ chồng tôi chẳng biết làm sao, vì trên giường đã có bốn người rồi, đành cho nó nằm dưới đất cạnh giường. Chưa hết, năm phút sau thằng "robot" đồ chơi của thằng con tôi bắt đầu...lên tiếng từng câu một, đâu đó trong phòng khách! Thằng "robot" màu vàng này, cao bằng cái bình thủy của Tầu, có chín cái nút vuông khác mầu kế nhau, nằm ngay ngắn trước ngực.
Mỗi nút, khi ấn vào, mắt thằng "robot" sẽ chớp đèn lia lịa, đồng thời nó sẽ nói một câu tiếng Anh ngắn ngủi khác nhau, từ chào đón đến hỏi thăm. Tuy nhiên, thằng "robot" cũng có một nút tròn "On/Off" ngay lỗ tai trái của nó. Nếu muốn ấn chín cái nút vuông trước ngực cho nó nói, trước tiên phải ấn nút "On/Off" trước, và sau năm phút nếu không "chơi" với nó nữa, thì nó tự động "Off" để tiết kiệm pin. Tôi hiểu rằng phải có ngón tay ai ấn vô tai thằng "robot" trước khi ấn vô bụng nó thì nó mới nói, nhưng đành nằm im nghe nó nói được đủ...ba câu giữa đêm khuya thanh vắng!
Đêm kế, vợ chồng tôi vừa thuyết phục vừa bắt đứa con gái lớn phải ngủ trên giường trong phòng của nó, vì thật là vô lý nếu nó cứ phải nằm duới đất trong phòng bố mẹ, mà nếu nói ra nguyên do tại sao thì lại làm em nó sợ! Để cho nó an tâm, tôi để hai cửa phòng ngủ mở toang gần như có thể nhìn thấy nhau.
Lại đúng ba giờ sáng, vợ chồng tôi phải choàng dậy vì tiếng radio ồn ào lải nhải trong phòng con gái! Tôi chạy qua phòng nó, bật đèn lên thì thấy nó nằm co quắp trên giường, trùm mền kín mít từ đầu tới chân, nhưng chắc chẳng thể nào ngủ được vì sợ lắm! Chiếc radio cassette nhỏ dài, màu xanh dương hiệu Sanyo của nó trên bàn học chẳng ai đụng tới mà đang nói oang oang lao xao đài AM. Tôi thò tay tắt cái radio đi, tắt đèn buồng, rồi trở về phòng.
Chừng mười phút sau, tôi nghe tiếng cái quạt máy đứng trong phòng của nó, dựng gần cửa ra vào, quay vù vù với số lớn, rồi thì nghe một cái "rầm" thiệt lớn ... cái quạt bị xô đổ xuống đất thiệt mạnh! Đêm đó, vợ chồng tôi, và chắc chắn là đứa con gái lớn, chẳng ai ngủ được...
Sáng sớm hôm sau, nghe đứa con gái kể rằng, người đàn bà trong cái áo ngủ trắng toát đó đi vào phòng nó từ cái cửa sổ nhìn ra sau vườn. Bà ta chắp tay sau đít đi tới đi lui trong phòng để coi những tấm "post" lớn với hình các ca sĩ Mỹ, mà con gái tôi dán đầy trên tường trong phòng của nó (teenager mà!), và sờ mó đồ đạc trong phòng hết cái này đến cái khác, vì nó tuy trùm mền kín mít, nhưng vẫn hí mắt nhìn ra coi tình hình nếu xấu thì vùng dậy chạy...
Vừa tội nghiệp cho đứa con gái, vừa lo buồn vì không biết phải làm sao, vợ chồng tôi đã có lúc bàn đến chuyện dọn ra! Bà xã tôi bèn sang nhà bác Ba hàng xóm để xin ý kiến người lớn xem sao. Vợ chồng bác khuyên bà xã tôi về cúng cho "nó" đi. Tuy nhiên, vợ chồng tôi thà dọn ra chứ không cúng ma quỉ. Vậy thì, sẵn nhà thờ Phật, vợ chồng tôi bèn nhang khói liên tục ba ngày đêm hết lòng cầu xin cho nàng "Winona" được giúp đỡ mà siêu thoát...
Một tuần liền, nàng "Winona" của tôi không trở lại... Tôi vẫn để mở cửa buồng ngủ mỗi đêm cho con gái đừng sợ, nhưng không có gì xảy ra hết. Một sáng, đứa con gái kể cho vợ chồng tôi nghe, đêm trước nó thấy bà ta đứng ngay trước cửa buồng, tươi cười nhìn về phía giường nó, rồi biến mất...Thế rồi, gia đình tôi sống đầy hạnh phúc ở đó thêm ba năm nữa, cho đến khi tôi được cái "job" counselor trong tù, đủ khả năng dọn ra để mua căn nhà ở Anaheim.
Đã mười ba năm rồi, từ ngày tôi gặp nàng "Winona" xinh đẹp mà hơi...quậy đó (người với ... ma đẹp nào mà chẳng quậy!), tôi vẫn luôn nghĩ đến nàng. Tôi tin rằng nàng chắc phải cỡ tuổi mẹ tôi bây giờ nếu nàng còn sống, mà thà chết đi khi còn trẻ đẹp như vậy vẫn hơn... Tuy nhiên, theo tôi, người sống có nơi của người sống, và người chết cũng có chỗ của họ. Vậy thì lý do gì "Winona" đã không về chốn của nàng, và với một khoảng thời gian khá dài từ ngày nàng qua đời, có thể từ 1940, 1950, 1960...cha mẹ, chồng con, anh chị em của nàng, chắc hẳn chẳng còn mấy ai trên đời này, hoặc đã già "khú đế" rồi, vậy thì vì sao nàng vẫn vấn vương?
Còn mấy ông "Probation Officer, Parole Officer" của Department of...Hell Security, đang ngồi ăn phở uống cà phê sữa đá ở đâu mà không lo đi tìm...dẫn nàng về, hay là thấy nàng quá đẹp nên...du di ngó lơ sao đây? Tôi ước mơ, trong một nghiệp kiếp nào đó, sẽ được nhìn thấy nàng lần nữa, vẫn trong chiếc áo trắng tinh nhưng với cặp cánh thiên thần, nhẹ nhàng thanh thoát giữa bầu trời sao lấp lánh... ôi! Nàng Winona của tôi!
Quân Nguyễn
Thanked by 4 Members:
|
|
#4
Gửi vào 05/06/2011 - 08:30
Chuyện ma tại một bệnh viện Mỹ ở Los Angeles.
Bước vào thế kỷ hai mươi mốt rồi, khi mà thế giới khoa học kỹ thuật tân tiến đến độ hầu như giải thích được tất cả mọi sự vật, hiện tượng trên vũ trụ này… mà còn ngồi kể chuyện ma quỉ thì thật là khôi hài! Nhưng nói gì thì nói, trên đời vẫn có những chuyện không ai cắt nghĩa được.
Đó là một tòa building bốn tầng cũ kỹ nằm ngạo nghễ giữa đất trời East Los Angeles tính đến nay đã hơn trăm năm. Vùng đất đó ban đầu đa phần là người Mễ đến lập nghiệp, họ lam lũ và sống bằng nghề tay chân. Một ngày kia có một bác sĩ người Đức đã đến đây, lập ra bệnh viện này, cứu biết bao nhiêu là người và cùng họ vượt qua bao phen nhọc nhằn, khốn khó.
Trải qua bao nhiêu vật đổi sao dời…bệnh viện STMT vẫn ngất ngưởng hiên ngang giữa trời cao đất rộng. Tuy bề ngoài trông rất là cũ kỹ, nhưng đó chính là một di sản văn hóa vô cùng quí, ngày nay bên trong hoàn toàn đã được trùng tu với tất cả những thiết bị y khoa tân tiến nhất để đáp ứng nhu cầu mới của con người thời đại…Thế nhưng những câu chuyện hoang đường cổ xưa vẫn mỗi ngày khơi dậy óc tò mò của cư dân vùng này, nhất là với người Việt Nam vốn thích nghe chuyện ma.
Năm đó ra trường tôi về làm việc ở đây, nửa hoang mang nửa hiếu kỳ khi nghe người ta rĩ tai nhau: Bệnh viện này…ma dzữ lắm!! Tôi làm ca từ 3h chiều đến 11 rưỡi khuya, cái thời khắc mà tòa nhà cứ như lạnh hơn, rợn hơn khi người bệnh đắp chăn đi vào giấc ngủ và cất tiếng thở đều. Chiếc đồng hồ trên tường cứ nghe rõ mồn một tích tắc, tắc tính và vạn vật cứ âm u dưới cái thứ ánh sáng lờ mờ của nhà thương, ai nấy đều gượng nhẹ, lặng lẽ đến đáng sợ…..
Nhà thương này đã cũ kỹ rồi, lại còn lọt tỏm giữa bốn bề nghĩa địa. Ai đi qua East Los Angeles khoảng giao điểm của freeway 60 và 710, từ trên freeway nhìn xuống là thấy ngay những mộ phần của người trung cổ được dựng cao sừng sững. Đó là nơi an nghỉ của những đại gia tộc giàu có ngày xưa, người ta đã cất giữ tro cốt trong một tòa "lâu đài" nho nhỏ, công phu và đầy bí tích.
Còn thường dân thì nằm đều đặn, cao thấp, lớn nhỏ rải rác khắp nơi với những tấm bia chống đứng thẳng tắp, khác với lối chôn cất của đa phần người ở đây là tấm bia được đặt dọc trên lối đi,…nên nhìn vào người ta chỉ thấy những quả đồi thơ mộng, rực rỡ hoa hồng dưới ánh nắng mặt trời không hề thấy âm khí của một nghĩa trang. Tôi vốn tính nhát gan, lại làm chung với một bà "thỏ đế" là cô Anh người Việt Nam bên khoa hô hấp. Mới vô làm đã nghe bả bỏ nhỏ:
- Ma dữ lắm Gigi ơi, mà ngay giữa ban ngày ban mặt luôn kìa, con mới vào nên không biết đó thôi, cô làm ở đây hơn mười năm nên rành quá rồi.
Tui tò mò:
- Mà cô có thấy chưa?
Cổ trợn mắt:
- Thấy chớ sao không thấy. Biết Dr Bansal Ấn Độ không? Buổi trưa "taking a nap" trên giường đàng hoàng, nửa tiếng sau thức dậy "hạ thổ" hồi nào không biết.
Tôi cắt ngang:
- Chắc ổng trực gác dữ quá, tâm thần suy nhược nên lẫn lộn đó thôi cô ơi. Bên Mỹ này làm gì có ma.
Cổ chưa chịu thua:
- Không tin hở? Ông Dr Marshak dê sồm kìa, cũng đang ngủ gà ngủ gật nửa đêm trong phòng cấp cứu, bị con Mễ tóc vàng ngồi lên đùi…rồi…sao đó…bị nó hất lăn kềnh xuống đất, mắt kiếng văng ra mấy thước. Ổng la ú ớ "girl, girl lượm giùm cái mắt kiếng," mà người ta chẳng nhìn thấy ai xung quanh hết cả.
Hai cô cháu đang xầm xì, thì thằng Henry người Phi từ đằng sau "bò" tới…. Hù một phát thất kinh, biết hai người đang nói chuyện gì. Nó tinh nghịch hỏi:
- Annie (cô Anh) chừng nào tới phiên bà?
Cô Anh chửi:
- Tới phiên mày trước thì có…
Nó phùng mang, trợn má:
- Bộ tui chưa kể với you nghe hả? Mới tuần rồi trực đêm nè, gần sáng không có người bệnh, tui trùm mền leo lên bàn ngũ. Hai tiếng sau phòng cấp cứu gọi, tui mở mắt thấy mình đang nằm dưới đất, chăn vẫn được đắp cẩn thận, còn cái phone thì cũng được đem xuống đặt cạnh một bên, công nhận con ma này….chu đáo thiệt…nó biết mình đang trực mà, chuyện lạ là tui rờ "lại mình mẩy" chẳng thấy chỗ nào bầm đau hay trầy trụa gì ráo trọi, mới biết mình được "ẳm" xuống nhẹ nhàng lắm, con ma này chắc…con gái!
Nó cười ranh mãnh, thằng Henry này nổi tiếng quỉ quái mà, nó mà nói thì không biết có mấy phần là thiệt đây (?) chỉ biết là bọn con trai ở nhà thương này biết con gái nhát gan, nên cứ dọa ma suốt ngày, tụi nó còn nói:
- Ma "Mỹ" có gì đâu mà sợ…đâu có mặc đồ đen xõa tóc, cũng đâu có khóc lóc tỉ tê… chỉ mặc T-shirt, nhe răng cười, rung đùi ngồi ăn hamburger, tụi này gặp hoài …ở trên lầu hai. (?)
Tụi này quái quỉ thiệt, nhưng cũng nhờ tụi nó mà… những đêm trực phòng cấp cứu không còn dật dờ khó qua nữa, nhờ những câu chuyện ma 1001 đêm, kể hoài không chán. Đêm càng thanh vắng, câu chuyện càng ly kỳ, hấp dẫn… Đêm đó, phòng cấp cứu tiếp nhận một ca trợt chân bể đầu vào lúc ba giò sáng, bà cụ tám mươi, có lẽ vào phòng vệ sinh lúc nửa đêm.
Bà Mỹ đen tay chân, nhỏ thó, co quắp đau đớn, thiệt là tội nghiệp… bác sĩ đề nghị chụp hình chụp hình cast. Scan sọ não. Anh chàng Danilo người Đại Hàn một cây "lí lắc" đứng làm ca đó, tụi tui đứng quanh trợ giúp. Nó nâng đầu bà cụ lên gượng nhẹ, tháo khăn quàng cổ….đưa vào máy scan, luôn miệng xuýt xoa:
- Chịu khó một chút honey, God bless you, God bless me.
Liệu trình hoàn tất, bác sĩ Bansal nhíu mày:
- Không ổn rồi, chấn thương sọ não phải đưa ngay về USC chuẩn bị "đại" giải phẫu (nơi tôi làm không có phương tiện phẫu thuật phức tạp này).
Ambulance hụ còi…Thủ tuc chuyển viện hoàn tất thì đã gần 4h sáng, mọi người mệt lả, Danilo nằm gục trên bàn lơ mơ, thì… bà cụ quay lại đòi chiếc khăn quàng cổ, mà Danilo đã cởi ra cho bà lúc làm cast scan, vì "ngoài trời lạnh quá!" Anh chàng lật đật ngồi dậy liền…nhưng bà già đã bỏ đi đâu mất.. nó chụp vội cái khăn chạy ào ra cửa tìm nhưng hành lang vắng tanh không một bóng người qua lại.
Mệt mỏi, nó lững thững quay vào ngủ tiếp. Tới chừng sáng thức dậy mới hay được, người bệnh đã từ trần trên đường đi….lúc đó… bốn giờ thiếu mười sáng, ngay đúng giờ khắc bà cụ trở về đòi lại chiếc khăn (!?). Danilo mặt mày tái mét không còn giọt máu, nhưng ai mà biết nó sợ quá hay đêm rồi nó thiếu ngủ. Tên này cũng là tổ sư nói phéc và hay kể chuyện tiếu lâm. Nên ai cũng bán tính bán nghi câu chuyện nó kể.
Trong khoa chỉ có ông xếp người Phi tên Ademin là nghiêm nghị nhất. Ít bao giờ thấy ông bông đùa, nói giỡn nhưng ông rất tốt bụng, hiền hòa và hay làm từ thiện. Một hôm, ông giúp đỡ nhà thờ phát động chương trình "vì tương lai của những cô nhi hiếu học" ở bên Philippine, tài liệu hình ảnh, chương trình được soạn thảo rất công phu, nhưng kết quả hoàn toàn ngược lại…. cả ngày trời gặp gỡ, chào hỏi, rao giảng đến phờ cả người, cũng không mấy ai quan tâm, thậm chí họ còn xua đuổi ông.
Mệt mỏi ông ngồi phệt xuống ghế đá, băn khoăn suy tính làm sao để đạt được kết quả khả quan nhất… thì có một người bệnh đi đến ngồi xuống bên ông, gương mặt đầy vẻ nhân từ: ông Sarmiento, Steven. Hai người cười với nhau chào hỏi, họ trao đổi với nhau bằng tiếng tagalog và cùng nhau thảo luận về đề tài học vấn của trẻ em Phi ra chiều tâm đắc lắm.
Cuối giờ, ông Sarmiento từ giã trở về phòng, không quên căn dặn ông xếp "Chủ Nhật nhớ đến đúng địa chỉ này ở thành phố San Dimas, sẽ có nhiều người Phi tụ họp ở đó, họ sẽ giúp ông hoàn thành ý nguyện." Trời đã tối, ông sếp cũng hấp tấp đi về mà quên hỏi số phòng của người bạn già khả ái kia.
Chủ Nhật, sau khi hát lễ nhà thờ xong, ông hăng hái chở vợ tìm đến địa chỉ kia, quả thật có nhiều người Phi đang tụ họp ở đó, gương mặt ai cũng đầy vẻ thánh thiện và trang nghiêm… Ông đậu xe bên đường chạy lại thăm hỏi đồng hương và trình bày về chương trình cứu trợ cô nhi ở đất nước ông. Kết quả bất ngờ, họ ủng hộ nhiệt liệt ông, họ xiết chặt tay thân ái cám ơn việc làm tốt của ông, làm ông rất khích lệ đến không cầm được nước mắt.
Trước khi ra về, mọi người tha thiết mời ông sếp và vợ ở lại dùng bữa. Hôm nay người ta "cúng thất" cho một người thầy kính mến vừa mới qua đời tên… Sarmiento. Đứng trước di ảnh của người quá cố ông sững cả người đến không nói được thành lời, đó chính là người ông vừa gặp tuần trước ở sân bệnh viện và đã mách bảo với ông về địa chỉ này. Và ngày giờ ông gặp cũng đúng vào lúc ông cụ từ giã cõi đời.
Chao ôi, người đã đi rồi vẫn còn quyến luyến và lo nghĩ cho nỗi khổ thế gian, cố nấn ná lại làm thêm chút việc cho người, cho đời… thân thể đã buốtlạnh nhưng con tim vẫn con ấm nóng. Vậy thì sao người còn lại ở đời có thể ngoảnh mặt làm ngơ trước những cảnh thương tâm, những con người khốn khó, những cô nhi tội nghiệp? Ông Sarmiento ra đi chẳng để lại tài sản gì và mai này chúng ta ra đi cũng chẳng mang theo được những gì. Tất cả sẽ trở về với cát bụi cả thôi. Chỉ có linh hồn cao quí là trường tồn mãi mãi.
Giờ này chắc ông Sarmiento đang khẳng khái, mạnh dạn bước vào nước thiên đàng, bởi những việc làm khi còn sinh thời đã khiến ông thanh thản, không còn vướng mắc gì. Đừng sợ người chết và hãy yêu hơn những người còn sống quanh ta. Vì họ cho ta được những khám phá về thực tại và về chân lý, cho ta mỗi ngày vun trồng đức nhẫn nại, lòng bao dung và niềm hy vọng….
Trân Nguyễn
Thanked by 2 Members:
|
|
#5
Gửi vào 05/06/2011 - 08:57
Nhiều người ở vùng Little Sài Gòn thường tò mò tại sao miếng đất ngay góc một con đường chính khu Sài Gòn Nhỏ, trông ngon lành là thế mà vẫn bỏ hoang?
Trước đây khoảng hơn hai mươi năm, thì đây là một căn nhà hai tầng khá lớn, làm bằng gỗ, nằm trên một lô đất rộng đến nỗi có thể xây được bốn căn nhà. Thảng hoặc thấy có người ở, rồi lại dọn đi. Lần cuối thì thấy chủ nhà sơn lại màu trắng, thay cửa sổ trông rất sạch sẽ, thế mà chỉ ít lâu sau đã thấy họ lấy ván ép đóng bịt kín các cửa ra vào lẫn cửa sổ, vườn cây trở nên hoang tàn và cỏ mọc thì le hoe vàng úa.
Cư dân Việt Nam quanh đó thì mỗi người kể một chuyện khác nhau: Có người nói là ba mẹ con một người đàn bà Mễ khi băng ngang đường từ phía vườn dâu đối diện bị xe tông chết; Kẻ lại cho rằng đó là một thanh niên bị băng đảng bắn, lết tới trước cửa căn nhà rồi gục ở đó mà chết; Một người làm chung với tôi lại nói hồn ma trong nhà đó là một cô gái Mễ, nếu người mướn nhà là đàn ông con trai thì đêm đêm thường bị cô ta nhát...thê thảm.
Không biết tin nào là đúng, nhưng bất cứ ai dọn vào nhà này, cho dù Việt Nam hay Mễ hoặc Mỹ là đêm đêm đều bị dựng cổ, dựng giường dậy hoặc phải xanh mặt xanh mày, phát khiếp lên vì những tiếng gió rít, tiếng động lạ kẽo kẹt như tiếng nghiến răng. Tiệm bán hàng grocery bên kia đường to lớn và đông khách là thế, mà cũng bị ma phá tơi bời, đến nỗi phải đóng cửa cho đến bây giờ vẫn bị bỏ hoang.
Sao thời buổi này mà lại còn có sự ma quỉ phá phách như thế! Tôi nảy ra ý định rủ mấy người bạn mua lại căn này, sửa sang lại rồi đăng báo cho thuê từng đêm, có khối người đã từng huênh hoang không tin chuyện ma quỉ, sẵn lòng bỏ ra một vài trăm đô la đến ngủ thử và sẽ được tận mắt nhìn thấy ma, và nếu may mắn lại còn được cô ma Mễ nhát nữa.
Dự tính "nảy ra vô số tiền" đó chưa xong, thì có người đã mua mất rồi và ủi bình địa luôn căn nhà thành một miếng đất trông phát thèm, vì nhà cửa đất đai vùng chung quanh Bolsa bỗng lên giá vùn vụt gấp bốn năm lần. Ấy thế mà miếng đất kia cả chục năm vẫn để trống mới lạ cho chứ! Cách đây hơn một năm, thấy xe đào đất Back-hoe tới ủi lên một đống khá to, ai cũng tưởng người ta sắp xây nhà đến nơi, vậy mà đống đất lại được bang xuống...rồi mãi cho đến bây giờ lại thấy rục rịch giăng dây đào móng!
Lại có người nói ngày trước khu này là bãi rác, nên bây giờ không cho xây nhà vì khí mê tan bốc lên, nguy hiểm cho sức khoẻ. Nói vô lý, bởi vì bãi rác đâu có nhỏ như thế, mà nếu bãi đó lớn thì sao những nhà chung quanh căn nhà này lại được phép xây? Bạn bè làm nghề xây dựng thì lại nói khi đào đất lên họ thấy có xương cốt, chắc đó là mồ mả người Da Đỏ, mà nếu đụng tới vấn đề nghĩa trang của người bản xứ, của các bộ lạc thì rất phiền phức, nó không còn có thể điều đình ở cấp thành phố nữa mà phải lên tới Tiểu bang và Liên bang.
Như vậy chẳng có một kết luận gì về căn nhà kia cả mà chỉ là toàn là những tin đồn. Trước đây tôi thường phản đối việc di dời mồ mả, vì tâm niệm rằng thân thể từ tro bụi rồi sẽ trở về với bụi tro, khi chết rồi thì cái xác phàm hay bộ xương khô chôn đâu cũng được, nhất là người sống đây còn lo không nổi miếng ăn. Nhưng người nhà bên Việt Nam thường yêu cầu thân nhân gửi tiền về xây lăng mộ cho cha mẹ, ông bà tổ tiên để trước là nở mày nở mặt với xóm làng, sau là để trâu bò không dày xéo trên phần mộ, thì các ngài sẽ phù hộ cho con cháu khoẻ mạnh, ăn nên làm ra.
Phù hộ đâu chưa thấy, mà chỉ vì số tiền gửi về đó mà họ hàng anh em xào xáo, đánh chửi nhau vì cho rằng người nọ người kia ăn bớt ăn xén. Theo như kinh nghiệm bản thân và bạn bè tôi kể lại, thì trong mười gia đình gửi tiền về xây mồ mả, có tới chín là gây ra sự xích mích trong anh em. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta để cho mồ mả cha ông xiêu lạc không còn vết tích, tôi chỉ xin góp ý quí vị nên tự tay về lo liệu việc đó, hoặc vì không đủ thời giờ thì chỉ giao tiền cho một người tương đối tín cẩn, mà không cho bất cứ ai hay biết ông đó nhận được tiền, hãy giả vờ như là chính ông ta bỏ tiền ra xây vậy.
Dĩ nhiên không có ai kiểm soát thì có thể ông ta bớt xén chút đỉnh, nhưng vẫn còn hay hơn họp cả họ lại, rồi cạnh nanh, chửi bới, bươi móc nhau về số tiền mà họ không hề đóng góp đồng nào. Có người xây phần mộ cho cha mẹ mình to lớn quá, lấn sang phía mộ bên cạnh, nên bị con cháu người ta ban đêm ra đập phá gẫy đổ tùm lum, có khi trét cả phân bò lên mộ bia, hình ảnh người nằm dưới mộ.
Mùa hè năm 2000, gia đình tôi ghé Hà Tiên thăm một người anh tinh thần là một Linh mục ở nhà thờ Hòn Chông, khi đi ngang một đập ngăn nước mặn đang xây dở dang, ông tài xế kể lại chuyện sau:
- Ở đây hồi trước có một gia đình kia có hai anh em, người anh đi vượt biên qua tới Mỹ làm ăn rất thành công. Cha mẹ già yếu rồi chết cả và được chôn ngay gần chân một ngọn núi đẹp đẽ cây cối bốn mùa xanh tốt. Người em được anh gửi tiền cho nhiều nên về Sài Gòn mua nhà buôn bán sinh sống và cũng để khi gia đình anh về, có nơi ở cho tiện khỏi phải ở trọ khách sạn.
Nhưng mỗi lần về Việt Nam, thì cả hai gia đình lại phải về thăm mồ mả xa xôi diệu vợi quá, nên họ quyết định cải táng đem về gần thành phố mà để. Họ đến một ông thầy xin coi giùm ngày giờ bốc mộ, ông thầy cho biết ngày và thêm rằng: "Muốn cho con cháu khoẻ mạnh và làm ăn tấn phát thì giờ dở nắp áo quan phải là sau 12g đêm mới tốt".
Hai anh em về Hà Tiên ở trọ khách sạn, mướn hai xe ôm chở hai cái tiểu sành, còn họ thì chở nhau trên một xe Honda mới thuê ngay gần đó để đi bốc mộ. Qua môi giới của anh xe ôm, họ cũng mướn được cả chục người phụ giúp đào mồ. Mặt trời chưa lặn thì họ đã đào tới nắp ván thiên, nhưng vì chưa đến giờ tốt nên cả nhóm đốt lên một đống lửa thiệt to, nướng khô mực nhậu với rượu đế và trò chuyện om xòm cả khu rừng. Đến lúc vừa qua khỏi giờ Tý là họ hè nhau làm cho xong việc: Hai nắp hòm được cạy lên, xương cốt được rửa bằng rượu và xếp thứ tự vào tiểu sành.
Hai anh xe ôm chạy về trước, còn anh em sự chủ thì lo thanh toán tiền công và nói lời cám ơn với mấy người giúp đỡ. Lúc đó rượu bắt đầu ngấm và thấy mất hút ánh đèn xe trước nên họ phóng hết ga. Hai ông xe ôm về đến phòng ở khách sạn, họ bê hai cái tiểu đã được bọc kín, để không ai để ý đó là xương người lên phòng, nhưng rồi đợi hoài cũng không thấy ông Việt Kiều về trả tiền công, nên tuy trời chưa sáng, một ông cũng chạy ngược lại xem hai anh em họ có ngủ lại nhà dân nào gần đó không.
Ai ngờ đâu mới tới con đập đang xây cất dở dang kia, thì thấy dân chúng đang xúm xít trên bờ nhìn công an đang gỡ xác hai người bị treo ngất nghểu trên đầu những cọc sắt tua tủa đâm lên từ khối bê tông. Thì ra thay vì phải quẹo xuống ruộng để tránh công trình xây dựng, họ lại phóng xuyên qua rào cản mà rớt cả xe lẫn người xuống cả mấy chục thước chết thê thảm như vậy. Giá mà đừng nghe lời ông thầy cải táng vào lúc nửa đêm thì đâu có "Ăn nên làm ra" kiểu đó!
Cách đây hơn mười năm, chính quyền thành phố Huế ra lệnh cho dân chúng phải bốc mộ ở Cồn Mồ, Bãi Dâu đi hết để làm một xa lộ vòng cho xe cộ Bắc Nam khỏi đi xuyên qua thành phố. Chúng tôi trở về và dời mồ mả ông cha lên phía núi Ngự Bình. Vì ông nhạc tôi và những họ hàng mới chết có xây mộ xi măng nên việc lấy cốt không có gì đáng nói, chỉ có mả ông nội, ông cố bà sơ là không biết chỗ nào mà đào vì không còn dấu tích gì.
Họ hàng bên vợ tôi phần đông theo đạo Thờ Ông Bà, nên họ vẫn tin tưởng vào chuyện cầu cơ hoặc lên đồng để chỉ chỗ nào là mộ. Sau khi cúng vái và viết lên tờ sớ tên tuổi của các vị, thì người ta mới chỉ chỗ cho mà đào. Tôi ngẫm nghĩ trong bụng: Cả cái nghĩa địa này đã hàng mấy trăm năm, người ta chôn ngổn ngang không theo hàng lối thứ tự gì, rồi hồi Mậu Thân xác người vô thừa nhận chôn dấp chôn dúi, làm sao mình biết được đó chính là xương cốt người nhà?
Ấy thế mà đã tốn tiền lại còn công cốc nữa chứ, họ chỉ rất nhiều địa điểm mà đào lên chỉ toàn có sỏi đá và đất trắng phau. Từ đó tôi không còn tin tưởng mấy người cầu hồn chỉ mộ nữa, cho đến mới đây, khi về Việt Nam thì tôi mới thay đổi ý kiến... Vừa tin, vừa sợ. Lần này về Rạch Giá tôi chỉ ở có ba ngày, mà hết hai ngày phải đi ăn đám cưới. Buổi tối chị tôi không dám tắt đèn, nói nho nhỏ:
- Ghê quá cho mấy đứa con gái nhà này, tụi nó cầm hai cái kẹp ba lá lên săm mà không biết sợ!
Tôi ngạc nhiên:
- Có gì mà sợ, mà bây giờ có còn ai xài kẹp ba lá nữa?
- Cậu không biết đâu, kẹp này là ở dưới mộ đào lên.
Chị tôi kể tiếp:
- Khi bố con cô Khâm từ Mỹ trở về, nhờ được một ông thầy chỉ chỗ, nên tìm được di cốt người chú đi lính chết đâu tận ngoài miền Trung, mà còn nguyên cả thẻ bài, thì ông thầy kia lại càng nổi danh. Một người nhà ở gần đây bèn nhờ ông chỉ mộ đứa con gái chôn ở đầu Kinh Tư, nhưng khi đến xin đào mộ thì chủ nhà quát lên:
- Mấy người đừng nói xàm, trong nhà trong sân của tui mà nói có mồ mả gì!.
Thế nhưng khi ông kia nói rằng hồi 1956 dân Bắc di cư mới về vùng này, ông có được phép chủ đất cho chôn một đứa con ở vườn này, vì đồng ruộng lúc đó hoang vu bị ngập nước trắng xoá. Chủ nhà nói:
- Cái này phải hỏi lại tía tui, vì hồi đó tui chưa sanh. Ông già tui hiện bây giờ ở dưới Rạch Sỏi, mấy người mướn xe đi để mời ổng lên đây coi thế nào.
Ông già lụ khụ lên xe về Kinh Tư và chỉ ngay boong địa điểm gần gốc xoài cổ thụ mà ông thầy đã chỉ. Tuy gần nửa thế kỷ mà bộ xương và mái tóc dài của cô gái còn y nguyên và hai cái kẹp ba lá trên mái tóc còn sáng dới, mà họ bỏ vô cái dĩa, để trên bàn lúc đọc kinh cầu hồn.
Tân Ngố
Thanked by 1 Member:
|
|
#6
Gửi vào 05/06/2011 - 09:24
Năm 1994 là năm mà nền kinh tế Orange County bị bế tắc trầm trọng, nạn thất nghiệp gia tăng... đó là nguyên nhân đã khiến cho hàng loạt người đã rời bỏ nơi đây để tìm sinh kế nơi các tiểu bang khác. Trong dòng người ra đi tìm sự sống có ba anh em tôi! Chúng tôi lái xe đến Fort Smith thuộc miền Bắc tiểu bang Arkansas vào đúng nửa đêm... sau ba ngày đêm vượt hơn 2000 miles. Tất cả chúng tôi đều quá mệt mỏi, nên đã quyết định đậu xe trong khuôn viên của một “Gas Station” để ngủ, chờ sáng...
Sáng hôm sau, chúng tôi đi tìm thuê Apartment ở khu downtown của thành phố. Đang dọ hỏi đường đi, chúng tôi lại gặp một nhóm gồm bốn người, cũng từ Orange County ra đi như chúng tôi, họ gồm có đôi vợ chồng trẻ, và hai thanh niên, bạn của đôi vợ chồng này... Cùng chung cảnh ngộ, nên dễ cảm thông nhau, và đồng kết bạn và cùng thuê nhà ở chung. Chúng tôi thuê được một phòng của Fourplex, có một bath một bedroom. Trong bathroom để cho ba thanh niên, ngủ ở living room thì có cặp vợ chồng trẻ, tôi và cô em gái tôi. Chúng tôi cùng apply xin việc tại công ty OK Food.
Ca một (shift một) năm người, trong đó có tôi.
Ca hai (shift hai) chỉ có một mình Hùng, do Hùng xin vì hắn ta không thức sớm nổi.
Hằng ngày từ 3:00 Am, chúng tôi phải thức dậy lo chuẩn bị đi làm. Theo xe ủi tuyết, đến Parking của hãng ngủ tiếp trên xe, chờ đến 5:30 am vào ca. Riêng Hùng, hắn ta ngủ đến 2:00 Pm mới vào ca hai. Phần cô em gái tôi, vì dị ứng với thời tiết mùa Đông nên bị cảm cúm luôn, nên phải ở nhà lo cơm nước cho mọi người.
Ba ngày nơi căn nhà trọ trôi qua thật yên lành. Sáng ngày thứ tư, khoảng 8:30 am Duyên em gái tôi, đang chuẩn bị lo thức ăn nơi nhà bếp, cô giật mình vì nghe tiếng la ú ớ của Hùng trong phòng ngủ...Cô chạy đến đập cửa phòng gọi Hùng, khoảng mười phút sau mới có tiếng trả lời và Hùng mở vội cửa chạy ra, nhớn nhác và có vẻ hồi hộp chạy thẳng ra living room ngồi xuống nền thảm, nói với Duyên rằng: anh ta bị “Ma” đánh, đuổi anh ta...
Duyên cũng có phần lo lắng, nhưng cô cố trấn tĩnh và khuyên Hùng ráng bình tĩnh để mà họp tất cả anh em lại để hội ý cùng quyết định. Hùng quyết định, ngay hôm nay Hùng nghỉ việc, ở nhà chờ năm anh em chúng tôi đi làm về để bàn bạc. Mọi người tắm rưả xong là vào ngồi tại living room để nghe Hùng kể:
- Từ đêm đầu tiên vào nhà này, liên tiếp cho đến hôm nay là ngày thứ tư, mỗi đêm Hùng đều mơ thấy một người đàn ông Việt Nam, mặt tròn, đầu hói, luôn luôn với nét mặt nhăn nhó, cau có đến nói với Hùng rằng: đây là phòng của ông ta và ông ta yêu cầu Hùng phải rời khỏi nơi đây!
Chuyện trong mơ, theo Hùng nghĩ: đó chỉ là dị mộng...nhưng đêm nào cũng xảy ra như thế, cho đến sáng nay là lần thứ tư, Hùng thấy ông “ma” này nổi giận, mắng chửi Hùng và xô anh ta té từ trên giường xuống sàn nhà...Hùng la ú ớ, khi nghe tiếng đập cửa của Duyên, Hùng mới tỉnh giấc và thấy mình đang nằm dưới sàn nhà cách xa giường ngủ khoảng một yard! Và khắp thân thể đều bị ê ẩm! Nhưng cố bò lại mở cửa chạy ra ngoài...!
Câu chuyện của Hùng vừa kể xong, thì tiếp đến Lê và Thư, hai thanh niên cùng phòng với Hùng cũng nói. Đêm nào hai em cũng nghe có tiếng động như có người đi. Có tiếng nước chảy trong bathroom, có tiếng xoong, nồi, chén, dĩa va chạm nhau ở nhà bếp...Còn Lê nói: Có đêm thức giấc đi tiểu, thì dường như có bàn tay nào đó sờ vào Lê, còn Thư thì kể:
lúc đang tắm thì nghe có tiếng gõ cửa và có tiếng người hối Thư tắm nhanh cho anh ta vào tắm...Lật đật tắm lẹ để nhường phòng tắm...nhưng khi xong trở ra, Thư hỏi mọi người thì ai cũng tắm rồi cả. Thư và Lê còn cho biết, có lúc nằm còn xem Tivi nhưng họ cảm thấy có ai đó khiêng cái giường họ lên...khi họ ngồi dậy thì cái giường rớt xuống nền nhà nghe thành tiếng “cụp". Mọi sự việc đã xảy ra trong suốt bốn ngày qua...tất cả ba thanh niên đều nghĩ “Không phải là ảo tưởng mà là sự thật” nên họ đều sợ...do đó đêm nay tất cả đều ra nằm ngủ chung ngoài living room.
Một đêm an toàn ngủ tại living room đã làm mọi người an tâm trở lại. Đến đêm thứ bảy, weekend đầu tiên, chúng tôi quây quần bên nhau tại living room người xem tivi, người đọc báo, hai cô gái thì trò chuyện về cuộc sống hôm nay. Chờ xem bản tin 9:00 Pm của đài ABC băng tần số bốn xong, thì mới tắt neon đi ngủ...bỗng tất cả chúng tôi đều giật mình khi nghe tiếng xã nước trong bath room, như có người đang tắm. Mọi người, nhất là hai cô gái rất sợ hãi...
Tôi quyết định lấy cây đèn Pin bảo Hùng và Thư theo tôi, còn Lê ở lại living room với hai cô gái..bath room hoàn toàn khô ráo. Không còn nghe tiếng nước chảy. Đêm đó, hầu như mọi người đều mất ngủ, chỉ riêng tôi còn ngủ được một chút ít. Cứ mỗi lần có ai cần đi tiểu, thì lại đánh thức tôi dậy để đưa dẫn giùm...khiến tôi cũng chỉ ngủ được rất ít.
Sáng chủ nhật, tôi quyết định cùng nhau đi chợ mua ít thực phẩm, về nấu mấy món ăn cúng người khuất mặt! Tôi khấn người khuất mặt nhận phần cúng này, chúng tôi dâng cúng với lòng chân thành, cầu xin người tha thứ và độ trì cho chúng tôi: những người tỵ nạn đầy khó khăn nơi xứ lạ và vì cuộc sống, vì việc làm nên phải tha phương cầu thực và lưu lạc như thế này. Cầu mong “người” thông cảm cho hoàn cảnh và đừng làm cho chúng tôi sợ nữa, tôi cũng khấn hứa rằng: đi tìm thuê nhà khác với sự phò trợ của “người”.
Cúng xong, chúng tôi dọn ra ăn thật vui vẻ, bỗng cô em gái tôi nói với mọi người: Ông ta bảo rằng: Ông là người Việt Nam di tản sang Mỹ hồi 30 tháng 4 năm 75, ông cũng là công nhân của hãng thực phẩm này, ông làm shift một, vợ con ông làm shift hai. Khi ông đi làm về nhà, thì vợ con ông đã đi làm, ông tắm rửa xong, ông bị chóng mặt quá, ông cố lết vào phòng thì té cạnh giường chết vì đứt mạch máu não..đến ngày hôm sau vợ con ông mới phát giác...
Nghe xong câu chuyện, ai cũng bùi ngùi cho ông, gia đình ông và ngay cả thân phận chúng tôi (có điều xin ghi chú: Cô Duyên, được hồng ân Thiên Chúa cho nên Duyên nghe được tiếng người chết nói). Ngay chiều hôm đó, Hùng xuống phố Downtown chơi, gặp một người Việt Nam cùng làm chung hãng, chĩ cho chúng tôi thuê được một townhome cách căn nhà “Ma” khoảng nửa miles. Trưa thứ hai từ hãng ra về chúng tôi dọn nhà ngay. Chúng tôi báo cho bà chủ nhà về việc chúng tôi “moved” chưa hề có ý định xin lại bớt tiền nhà, thế nhưng bà chủ đã sẵn sàng bớt lại cho chúng tôi hai mươi ngày, và chỉ yêu cầu chúng tôi đừng bao giờ tiết lộ về tin tức “căn nhà ma” của bà...
Chúng tôi làm việc cho OK Food được sáu tháng, thì hãng bắt đầu suy sụp, vì ảnh hưởng chung của nền kinh tế Mỹ. Mỗi tuần chỉ làm có ba ngày, do đó cuộc sống chúng tôi lại bị khó khăn, nên chúng tôi bắt buộc phải rời thành phố đầy băng tuyết này để đi tìm sinh kế nơi khác. Cuối năm 1995, chúng tôi được người bạn ở San Francisco gọi lên và giới thiệu cho ba anh em chúng tôi, làm quản gia một “Tòa lâu đài” và quản lý nhà hàng.
Được bà chủ nhà (Tòa lâu đài và nhà hàng) đã vui vẻ, lịch thiệp ân cần đón tiếp chúng tôi với lòng tha thiết, bà cũng ưu ái trả lương rất là vừa phải, bao ăn, ở tại tòa lâu đài. Sau khi mời chúng tôi ăn lunch tại nhà hàng, bà đích thân đưa chúng tôi về tòa lâu đài lúc 1:00 PM để chúng tôi nghỉ ngơi ít hôm, trước khi bắt tay vào việc. “Tòa lâu đài” sừng sững trên một ngọn đồi, nhìn xuống trước mặt là một hồ nước khá to, chung quanh “lâu đài” là một dãy Apartment khá sang trọng, bên trong bức tường bao quanh tòa lâu đài là những “vườn hoa muôn sắc” thật là rực rỡ thanh tao..!
Tòa lâu đài có diện tích khá rộng, trên 25,000 sqft nằm trong một khu vườn rộng trên 60,000 sqft và được xếp hạng là Tòa lâu đài thứ mười hai trên đất Mỹ. Tòa nhà có ba tầng, khá rộng mà hệ thống đèn quá cũ kỹ nên không đủ ánh sáng, do đó các phòng hơi tối và lạnh lẽo...! Đêm đầu tiên ba anh em chúng tôi ngủ tại living room nhỏ bên trái, lúc 9:00 Pm tôi và cậu em trai còn xem tin tức trên tivi, cô em thì nằm trên sofa...đột nhiên có một làn gió mạnh,...thổi ngang làm cho tất cả chúng tôi đều rùng mình ớn lạnh...mặc dù quanh chúng tôi chẳng có một cửa sổ nào mở cả, tôi vội đứng lên đi xem tất cả các cửa sổ, nhưng tất cả đều đóng kín!
Khoảng mười lăm phút sau, chúng tôi lại nghe nhiều tiếng động phát ra từ trong các phòng ngủ ở tầng trệt và trên lầu, có tiếng đóng và mở cửa..rồi liên tục hướng nhà bếp có tiếng cọt kẹt, tiếng nồi, niêu, xoong, chảo va chạm nhau...tiếng chân người chạy trên tầng hai! Tôi cũng giật mình chới với, nhưng cố trấn tĩnh lại để không làm hai đứa em sợ. Tôi bảo: có lẽ bên ngoài gió to nên gây ồn như vậy thôi, tivi vẫn để cho mọi người xem, cho đến lúc cả ba chúng tôi đều ngủ quên luôn...đến khoảng nữa đêm, cô em gái giật mình thức giấc ngồi bật dậy, gọi tôi và cậu em..cô nói:
- Em sợ quá anh ạ, em vừa mơ thấy một ông Mỹ già, cao và ốm, đầu bạc trắng, đến đuổi anh em mình ra khỏi nơi đây ngay tức khắc! Ông hỏi tại sao dám vào nhà ông ta ngủ?
Tôi dịu dàng trấn tĩnh cô em:
- Chỉ là giấc mộng thôi em à! Chẳng có gì mà phải lo sợ.
Nói xong tôi lại âm thầm cầu nguyện Chúa và Đức Mẹ độ trì, đồng thời tôi cũng khấn xin “Ông chủ Mỹ” cho chúng tôi được tạm trú chờ thuê apartment xong chúng tôi sẽ move ra. Chúng tôi muốn kéo dài thời gian lưu ngụ với hy vọng là “Hồn ma chủ nhà” sẽ thông cảm, nhưng chúng tôi chỉ ngủ yên được đêm thứ hai, qua đêm thứ ba thì tình trạng xảy ra y như đêm hôm đầu tiên....
Sự việc xảy ra đã làm chúng tôi bắt đầu “lo sợ” nên đến sáng ngày thứ tư, tôi phải báo với bà chủ lâu đài: Chúng tôi từ chối việc làm mà bà có nhã ý giúp đỡ, vì chúng tôi không thể ở “Tòa lâu đài” này được lâu hơn vì có “Ma”. Bà gật đầu, suy nghĩ một lúc, bà bão:
- Tôi đề nghị anh đem tượng Chúa về thờ, phần bà thì có thờ Phật trên lầu rồi.
Bà còn bảo chúng tôi ráng cầu nguyện thì sẽ yên thôi. Thật ra, anh em chúng tôi đã làm tất cả những gì bà đã nghĩ, nhưng vô hiệu! Tôi chỉ còn một hy vọng cuối cùng, sáng hôm sau, tôi đến tiệm Mc Donald mua một phần hamburger đem về cúng, tôi vừa khấn cúng xong, thì cô em la to lên:
- No, I don’t care, go out go out...
Tiếp theo là hệ thống alarm trong nhà rú lên ầm ỉ, tôi cố trấn tĩnh nhưng tay run cầm cập, gọi cậu em theo tôi, đến tắt alarm nơi cửa chính, còn cô em thì bỏ chạy ra sân trước mặt mày tái mét! Tắt alarm xong, tôi và cậu em trai bật đèn tất cả để tìm xem có ai lọt vào nhà không? Dù giữa ban ngày nhưng lòng tôi cũng cảm thấy hồi hộp khi bước lên lầu môt, hai rồi tầng thứ ba...nhưng chẳng có gì!
Cho tới giai đoạn này, tôi mới bắt đầu cảm thấy lo sợ...nên quyết định lại quay về Orange County mà không báo với bà chủ tốt bụng, sau đó tôi gởi trả chìa khóa “Lâu đài” qua đường bưu điện, với lời cám ơn bà, và xin thứ lỗi vì đã phụ lòng bà! Trở lại vùng đất gọi là “thủ đô tỵ nạn” để sống thì rất là tốt, nhưng chỉ có việc làm là quá khó khăn thôi.
Sáng chủ nhật chúng tôi đi lễ sớm lúc sáu giờ sáng, chúng tôi chỉ cầu xin Chúa, Đức Mẹ cho anh em chúng tôi có việc làm. Lễ xong, ra bãi đậu xe, em gái tôi gặp nhiều người quen trong đó có cô bạn thân từ hồi còn ở Việt Nam, đôi bên tâm sự và cô bạn cho biết ở Riverside có một linh mục chết bởi tai nạn nhưng rất thiêng liêng, vì ông hay đẩy xe...có người gọi là “ma đẩy xe”. Tin đồn nhiều, nên nhiều người đã thực hành theo tin này và cho biết kết quả là có thật...
Vì tính hiếu kỳ, và sẵn có niềm tin, nên anh em tôi cùng vợ chồng một bạn thân, quyết định đến nơi “linh mục hiển linh” để cầu nguyện và thực hiện theo tin đồn, ngay vào trưa chủ nhật tháng bảy, năm 1996, chúng tôi hoàn toàn toại nguyện với ý định của mình. Chúng tôi xuống xe cùng cầu nguyện và cám ơn “Vị linh mục Việt Nam thiêng liêng” đã làm phép lạ tại nơi đây, mà ngài đã vĩnh viễn nằm xuống để về nước Chúa, nhưng vẫn hướng dẫn mọi người củng cố niềm tin qua việc đẩy xe của Ngài...
Ai cần đến với Ngài, xin đi free way 91 East quẹo sang freeway 60 East chạy khoảng bốn miles ra Exit Nason, quẹo trái lên cầu, xuống dốc cầu quẹo chữ U trở lại đậu dưới dốc cầu khoảng 100 m tắt máy xe, trả số về (N) mọi người ngồi yên và tập trung cầu nguyện, trong vòng từ mười phút đến ba mươi phút, xe sẽ được đẩy...di chuyển từ từ....
“Ma” là những mẩu chuyện huyền thoại, ít ai tin. Nhưng đối với cá nhân tôi và hai đứa em là những “chứng nhân” thực sự và cũng đã từng là “nạn nhân” bị “Ma” đuổi, ngay trên đất Mỹ này. Xin ghi lại nơi đây để mọi người suy gẫm.
Nam Huỳnh
Thanked by 1 Member:
|
|
#7
Gửi vào 05/06/2011 - 09:35
Có phải tình yêu mạnh hơn sự chết? Và linh hồn có thể vượt khỏi sự bao vây của mộ địa? Có lẽ câu trả lời có thể được tìm thấy qua kinh nghiệm lạ lùng của ông bà Phạm, lạ lùng nhưng có thật mà chúng tôi ghi lại sau đây.
Ông bà Phạm luôn luôn cư ngụ tại tỉnh thành, nhưng trước khi ông Phạm hồi hưu, hai ông bà đã quyết định về sống tại miền quê, để được hưởng bầu không khí trong lành và sự yên tĩnh cần thiết cho tuổi già, họ mua một mảnh đất xinh xắn nằm trên một sườn đồi, và vừa dọn vào, công việc đầu tiên của bà Phạm là trồng ngay một vườn rau, với đủ những loại rau cải mà ông bà ưa thích. Với một vườn rau xanh tươi, mỗi tuần ông bà chỉ cần mua sắm thêm môt ít thực phẩm và một vài thứ lặt vặt, là đã có thể sống thoải mái suốt tuần.
Một hôm trong khi đang làm việc ngoài vườn, bà Phạm có cảm tưởng như đang bị ai theo dõi. Ngước nhìn lên, bà thấy một thiếu niên ốm yếu với đôi mắt trũng sâu đang đứng nhìn bà làm việc. Cậu bé mặc một chiếc quần jean cũ và đi chân không. Bà giơ tay vẫy chào nhưng cậu bé đứng bất động. Bà thầm nghĩ có lẽ cậu ta yếu ớt quá tới độ không đủ sức giơ tay lên vẩy lại, Câu bé gầy trơ xương và bà Phạm có thể đếm được từng cái xương sườn.
Đứng theo dõi bà làm việc trong vài phút, cậu bé quay mình rảo bước, và chẳng mấy chốc đã biến dạng sau những bụi cây rậm rạp. Hai hôm sau cậu ta trở lại. Đi cùng với cậu là một người đàn bà khoảng bốn mươi, ăn mặc rách rưới, mặt mũi hom hem. Người đàn bà tiến tới sát hàng rào, lên tiếng hỏi trong khi cậu bé cúi đầu lẽo đẽo theo sau :
- Bà là người mua mảnh đất này phải không?
- Dạ đúng, bà có cần tôi giúp gì không?
Người đàn bà nói với vẻ cứng cỏi:
- Nếu bà cần nó sẽ phụ bà trong công việc vườn tược, cũng như để bà sai vặt. Mỗi ngày chỉ xin bà cho hai đồng.
Bà Phạm toan từ chối vì bà không cần ai phụ, mà trái lại bà rất thích hoạt động một mình, trong bầu không khí trong lành tại đây, tuy nhiên trước hình ảnh tiều tụy của cậu bé, với đôi tay buông xuôi và đôi mắt trõm lơ, bà hơi ngập ngừng :
- Con bà còn nhỏ quá, và coi không được mạnh khỏe lắm...
Người đàn bà giơ tay ngắt lời:
- Năm nay nó đã được mười sáu tuy coi nó có vẻ nhỏ hơn tuổi của nó. Như tôi đã nói, nó rất mạnh chứ không yếu đuối như hình dáng của nó đâu. Tôi bảo đảm là bà sẽ không có điều gì than phiền. Mẫn là một người giúp việc rất giỏi.
Hai đồng một ngày đối với bà Phạm không nghĩa lý gì và bà nghĩ rằng nếu cho cậu bé phụ bà một tay, bà sẽ có cơ hội cho cậu bé ăn uống đầy đủ. Nghĩ thế bà bèn đáp :
- Được! Mỗi ngảy cậu Mẫn có thể tới đây vào lúc mười giờ sáng và đi về vào lúc năm giờ chiều. Tôi sẽ cho cậu ta ăn trưa.
Rồi bà quay sang phía cậu bé:
- Sao cậu Mẫn, cậu thấy như vậy có được không?
Mẫn không trả lời khiến bà Phạm tự hỏi không biết cậu ta có nghe bà nói hay không, vì cậu ta vẫn đứng yên cúi đầu, không hề ngước mắt.
Mẹ cậu ra hiệu cho bà Phạm bước ra xa với bà rồi bà thầm thì:
- Thưa bà, tôi không muốn con tôi đi đi về về, vì chúng tôi ở cách đây khá xa. Nó có thể ngủ trong căn lều nhỏ kia, và xin bà đừng bận tâm gì về việc nó ăn uống. Tôi sẽ đem đồ ăn tới cho nó mỗi ngày . Nó ăn uống khó khăn lắm. Tôi biết nó muốn ăn món gì và sẽ lo cho nó. Mỗi lần tôi tới, xin bà cho tôi hai đồng.
- Thế còn Mẫn thì sao? Nếu cậu ta làm việc cho tôi, tôi phải trả tiền cậu ta mới phải?
Người đàn bà lắc đầu:
- Thưa bà, bà không hiểu. Tôi cần tiền nuôi mấy đứa nhỏ ở nhà. Ba của cháu Mẫn mất rồi và bây giờ chỉ có mình nó, là người có thể làm việc được để nuôi gia đình. Nó muốn làm việc để giúp đỡ tôi, và bà sẽ không ân hận khi nhận cho nó giúp việc. Nó rất siêng năng, làm việc không biết mệt và không bao giờ than phiền bất cứ điều gì.
- Thôi được. Nhưng tôi nghĩ rằng nó không nên ngủ ngoài lều, để tôi sửa soạn một phòng trong nhà cho nó.
- Thưa bà không sao. Nó không cần ngủ trong nhà đâu. Nó khó ngủ lắm và tôi không muốn nó làm phiền bà. Nó ngủ trong lều là tốt nhất.
Thế là ngày hôm sau Mẫn tới làm việc cho bà Phạm. Chẳng bao lâu, bà Phạm nhận thấy những gì mẹ cậu ta nói với bà hoàn toàn đúng, Mẫn không bao giờ than phiền cũng như không bao giờ tỏ ra mệt mỏi. Mỗi buổi sáng dù ông bà Phạm dậy sớm tới đâu đi nửa, Mẫn đã đang làm việc hăng say, khi thì cho gà ăn khi thì làm vườn...Lần lần bà cho Mẫn làm một vài việc vặt trong nhà và bất cứ việc gì sai cậu ta, không bao giờ bà phải nhắc lại. Một hôm bà nói với ông Phạm:
- Mẫn nó giỏi thật! Nhưng nó không giống một đứa con trai mà giống như... một cái máy. Ông có biết là nó không hề nói một lời với tôi hay không? Nó cũng không bao giờ nhìn tôi mà chỉ luôn luôn nhìn xuống đất.
Ông Phạm càu nhàu:
- Hừ! Tôi chỉ biết một điều là nó làm cho tôi nổi da gà. Có thể nó bị câm. Và theo ý tôi, tâm trí nó không được bình thường.
Bà Phạm lắc đầu:
- Không đâu nó rất thông minh, Tôi chỉ có cảm tưởng như nó là một kẻ mộng du, làm việc trong khi đang ngủ...
Ông Phạm ngắt lời:
- A, thì...giá mướn cũng được...A, không được! hai đồng một ngày quả là không thể chấp nhận được khi nó làm việc thật siêng năng. Mình cho nó lên bốn đồng đi. Tôi không bực bội gì sự hiện diện của nó, nhưng coi việc tăng lương nó có phản ứng gì hay không.
Bà Phạm thì không nghĩ rằng Mẫn để ý tới vấn đề tiền bạc, vì cậu ta không bao giờ đụng tới. Mỗi ngày sau buổi trưa cậu bé ngưng làm việc, đứng yên một chỗ nghiêng đầu như nghe ngóng. Chỉ mấy phút sau mẹ cậu xuất hiện sau hàng cây dầy đặc, đem đồ ăn trên một cái dĩa đậy kín tới cho cậu. Bà ta chờ tới khi bà Phạm trả tiền rồi mới dẫn con tới lều, và ngồi chờ trong khi con bà ăn uống.
Bà Phạm nói với chồng bằng một giọng bất bình:
- Tai sao bà ta không chịu để tôi cho nó ăn? Tôi đã thấy món ăn bà ta đem tới cho nó, trông giống như một loại cháo, đó không phải món ăn thích hợp cho một đứa bé làm việc vất vả như vậy. Tôi thấy hình như nó còn ốm hơn khi mới tới nữa.
Ông Phạm hoàn toàn đồng ý. Xương mặt của Mẫn bây giờ lộ ra rõ rệt. Khi cậu cúi xuống, những đốt xương sống hiện lên thật rõ sau làn vải áo. Bà Phạm cố gắng một lần nữa khi gặp mẹ Mẫn:
- Tôi muốn cho Mẫn ăn đồ nóng hằng ngày. Nếu không, tôi không thể để nó tiếp tục làm việc như hiện tại. Nó mỗi ngày một gầy yếu. Tôi sợ rằng nó có thể bị bệnh.
Một nét hoảng hốt hiện lên trên đôi mắt người đàn bà:
- Thưa bà, bà không hiểu, Mẫn giống y như cha nó. Nó không ăn được những món ăn của bà và của tôi. Nó không ăn muối được. Cơ thể của nó không chịu đựng được. Xin bà cứ để mọi việc diễn tiến như hiện tại và xin cho cháu nó tiếp tục làm việc với bà. Nó là đứa con duy nhất mà tôi nhờ cậy được. Nếu không có số tiền mà nó kiếm được ở đây mấy em nó sẽ chết đói.
Bà Phạm đành nhượng bộ:
- Thôi được. Nó có thể tiếp tục làm việc với tôi. Phải nhìn nhận rằng nó làm việc rất giỏi, nhưng nó có vẻ không được vui lắm khi ở với chúng tôi. Nó không bao giờ cười và cũng không bao giờ nói một lời với tôi hoặc nhà tôi.
Người đàn bà nhún vai:
- Thưa bà, điều đó không có nghĩa gì hết. Mẫn là đứa khác người. Nó không có cùng sự xúc cảm như những đứa trẻ khác. Nó chỉ biết một việc duy nhất là giúp đỡ tôi và các em nó. Xin ông bà đừng thắc mắc gì về nó. Nó luôn luôn làm những gì nó muốn.
Tuy nhiên bà Phạm vẫn tự hỏi "có phải là việc đó là việc Mẫn muốn làm hay không?". Tối hôm đó bà đứng ở cửa sổ phòng ngủ, nhìn ra căn lều nơi Mẫn nằm ngủ. Cậu bé không ngủ mà ngồi ngay ở cửa, hai tay bó gối nhìn ánh trăng không chớp mắt.
Bà nói lớn:
- Chắc có điều gì lạ lắm thì phải.
Ông Phạm ngái ngủ lên tiếng:
- Bà nói cái gì?
- Mẫn. Tôi đứng theo dõi nó đã nửa tiếng đồng hồ. Nó ngồi yên như phỗng. Với những việc nó làm ban ngày, đáng lẽ nó đã phải ngủ từ lâu rồi. Nhưng không, nó vẫn ngồi kia kìa.
Ông Phạm vừa ngáp vừa tiến tới bên vợ:
- Đáng lẽ tôi phải cho bà biết điều này từ lâu rồi. Nó luôn luôn ngồi đó suốt đêm. Theo tôi biết, nó không bao giờ ngủ. Thú thực với bà, tôi thấy thằng bé có vẻ ma quái quá! Nhưng thực ra nó có làm phiền ai đâu!
Bà Phạm không nói nhưng biết rõ rằng Mẫn đã khiến bà lo nghĩ rất nhiều. Sáng hôm sau, hình dáng cậu bé khiến bà cảm thấy bất nhẫn. Làn da xanh xao của Mẫn bây giờ đã trở thành vàng khè, bóng loáng. Xương trán và xương má của Mẫn như lộ rõ ra. Bà còn lo lắng hơn nữa khi thấy Mẫn có vẻ châm chạp hơn và mệt mỏi hơn thường lệ.
Bà hỏi:
- Sao cậu thấy không được khỏe phải không?
Mẫn không đáp, cúi đầu đi qua trước mặt bà. Cảm thấy bứt rứt, bà nói với chồng:
- Ông coi nó kìa. Tôi nghĩ rằng nó bị bệnh. Nó di chuyển như một ông già.
Ông Phạm chăm chú nhìn Mẫn đang cắt cỏ một cách chậm chạp:
- Bà nói đúng. Sao da nó bị đen nhiều chỗ thế nhỉ?
- Tôi không biết nhưng chắc chắn một điều là nó bị thiếu dinh dưỡng quá độ. Tôi không cần biết mẹ nó nói những gì, và tôi sẽ chuẩn bị một vài món ăn ngon lành và bổ dưỡng cho nó. Rồi ngày mai ông đưa nó lên tỉnh gặp bác sĩ xem sao.
Nghĩ rằng Mẫn thiếu chất protein, bà Phạm bèn làm món jam bông hột gà, thêm một ly sữa và một cái bánh ngọt. Xong xuôi bà gọi Mẫn vào, đưa cậu vào bếp và nói thật ngọt ngào:
- Cậu ngồi vào bàn đi. Tôi sửa soạn một bửa ăn thật đặc biệt cho cậu vì hôm nay là đúng ba tháng cậu làm việc với tôi. Đây là một dịp kỷ niệm.
Mẫn cắn một miếng, rồi một miếng nữa. Cậu nhai miếng jam bông chầm chậm trước khi nuốt. Rồi cậu đứng lên. Bà Phạm lên tiếng với vẻ lo lắng:
- Sao vậy? cậu đi đâu vậy?
Nhưng Mẫn đã đi rồi. Bà Phạm chạy tới mở tung cánh cửa. Mẫn đã đi tới hàng cây bao quanh mảnh đất với những bước chân thật dài. Bà Phạm lớn tiếng gọi nhưng Mẫn không hề nhìn lại.
Ông Phạm cầm tay vợ:
- Thôi cứ để nó yên. Chắc là nó đi về nhà. Có lẽ mẹ nó nói đúng. Đáng lẽ bà không nên cho nó ăn những món đó.
Đêm hôm đó bà Phạm trằn trọc suốt đêm. Hôm sau khi trời mới tờ mờ sáng bà đã dậy, ra vườn đi tới đi lui. đúng như bà lo ngại, Mẫn không trở lại. Tuy nhiên ngay trước buổi trưa, mẹ cậu ta tới nơi, tiến thẳng tới trước mặt bà Phạm, khuôn mặt đanh lại:
- Bà đã làm việc đó phải không? bà cho nó ăn sau khi tôi đã dặn bà không được làm như vậy. Bà cho nó ăn cái gì?
- Thì...tôi cho nó ăn hột gà và jam bông, thứ đồ ăn cần thiết cho Mẫn.
Người đàn bà rên lên:
- Jam bông! trời ơi! Bà cho nó ăn muối rồi!
Rồi bà ta rít lên the thé:
- Bà điên rồi! tại sao bà không để nó được yên?
Bà Phạm có vẻ bối rối:
- Tôi rất tiếc nếu đồ ăn của tôi khiến Mẫn bị bệnh.
Đột nhiên bà đổi giọng giận dữ:
- Nhưng... nó thiếu ăn tới độ gần chết đói ngay trước mắt tôi. Tôi không thể nhắm mắt làm ngơ được. Tôi sẽ trả tiền thuốc men và sẽ nhờ một bác sĩ săn sóc cho nó.
Người đàn bà im lặng trong một phút, trước khi lên tiếng bằng một giọng buồn bã:
- Thưa bà, xin bà vui lòng đi theo tôi để xem những gì bà đã làm cho con tôi.
Người đàn bà quay lưng. Bà Phạm đi theo bà ta xuyên qua cánh rừng trước khi tiến tới một chân đồi. Khoảng nửa tiếng sau, hai người tới một túp lều xiêu vẹo nơi ba đứa nhỏ đang ngồi yên ngoài cửa. Khi bà Phạm ngưng lại, người đàn bà nắm tay bà lôi đi. bà Phạm hỏi:
- Bộ đây không phải nhà bà hay sao? Mẫn không có trong này hay sao?
Người đàn bà lắc đầu tiếp tục đi tới. Mấy phút sau cả hai vượt qua hàng cây, trước khi tiến tới một khoảng đất trống, với một vài ụ đất cỏ mọc um tùm. Một vài ụ đất có cắm cây thánh giá, những ụ khác thì không. Bà Phạm rùng mình:
- Đây là chổ nào?
Người đàn bà thản nhiên :
- Một nghĩa trang cũ. Không còn ai dùng đến nữa. đây mời bà tới đây.
Rồi bà ta chỉ vào một ụ đất. Bà Phạm giật mình nổi gai ốc, khi thấy đám cỏ phía trên như bị xé bung ra, và dường như có người tìm cách đào một cái hố ở phía dưới. Không một ai hoặc một sức mạnh nào, có thể buộc bà tới gần ngôi mộ bị đào tung lên đó, tuy nhiên từ nơi bà đứng, bà Phạm nhìn thấy dưới hố một hình thù co quắp, trong chiếc quần jean sờn rách, và cái áo thun bẩn thỉu.
Ngườ đàn bà rên rỉ:
- Đó, Mẫn đó. Đó là chỗ bà đưa nó tới đó. Chồng tôi và nó chết từ hai năm nay, giữa một mùa đông lạnh lẽo vì chứng sưng phổi. Tôi cầu khẩn cả hai trở lại, nhưng chỉ có Mẫn đáp lại lời cầu xin của tôi. Nó biết là tôi cần nó. Nó muốn săn sóc cho tôi và mấy em của nó. Nó luôn là một đứa con ngoan.
Ba Phạm ngẩn ngơ:
- Bà nói gì, tôi...tôi không hiểu...
Người đàn bà dường như không để ý, lẩm bẩm:
- Tôi phải săn sóc cho nó thật cẩn thận. Bà có biết là bà không thể cho người chết ăn muối hay không? Muối làm cho người chết quên tất cả, mà chỉ nhớ chỗ ngơi nghỉ của họ. Chính bà đã khiến Mẫn trở về với nấm mộ của nó, và từ bây giờ, nó sẽ không bao giờ rời khỏi nơi đó nữa.
Người Kể Chuyện Ma
Thanked by 1 Member:
|
|
#8
Gửi vào 05/06/2011 - 10:47
Vào khoảng cuối thập niên năm mươi, có một lò sát sinh ngựa,(sau này, bỏ đi, thay thế là một công viên rất lớn) Hồi ấy, hàng ngày, bọn lái thường dẫn đoàn ngựa ngay trên con đường ấy đến lò sát sinh.
Thế rồi có hôm nào cả khu phố huyên náo ồn ào, cảnh sát chặn đường, không cho xe hơi qua lại. Bởi vì hôm ấy khi đến gần lò sát sinh, có đoàn ngựa, năm sáu con, cắn đứt dây thừng, chạy trốn. Phải chăng bọn ngựa đến gần lò sát sinh, thấy tử khí loài mình, nên sợ hãi, tìm cách bỏ trốn?. Chỉ biết mọi ngưởi xôn xao bàn tán mà báo chí hai ba ngày nói đến. Sau mấy tiếng, lùng bắt được mấy con ngựa "bất kham" đó trừ một con, ngựa đua "hồi hưu", không biết trốn đâu.
Khu phố này, ngày nay đã sửa sang lại, nhưng hồi ấy đều là những chung cư nghèo nàn. Một cô bé, tên Sandra hôm đó ở trường về, thấy góc sân sau bụi rậm một con ngựa. Cô bé, trên đường về nhà đã biết chuyện thương quá. Quên cả nguy hiểm, đến gần :
- đađa ơi, đừng sợ, tôi sẽ giấu đađa...không ai tìm thấy đâu.
Mấy hôm sau báo chí đăng tin tìm được ngựa thoát thân. Mà tìm thấy ở đâu? Sandra cùng chúng bạn giấu nó trên gác căn nhà hoang cuối vườn chung cư. Ngày ngày chia nhau chăm sóc, dùng tiền quà mua lúa mạch. Giám thị chung cư tình cờ khám phá, bọn con nít van xin nhưng hắn ta cương quyết báo chức trách. Thế là cảnh binh phối hợp với nhân viên thú y và lái ngựa đến bắt "tội phạm".
Ai nấy ngạc nhiên thấy nó trên gác căn nhà sắp phá đi đó mà cầu thang thì nhỏ hẹp uốn khúc. Thì ra, nó là con Junthua, ngựa chuyên đua chướng ngại vật đã lâu chẳng được giải nào, nên chủ ngựa bán đi. Nó đã theo Sandra lên được gác cao. Nhưng khi người ta kéo xuống, nó sợ, nhất định không xuống cầu thang hiểm nghèo ấy. Sau cùng bắc tấm ván rộng dài, nó mới xuống. Bọn con nít khóc như mưa.
Ðược tin qua báo chí, mấy nhà mạnh thường quân trả tiền lái ngựa, cứu nó, để nó an toàn "về hưu" vui chơi hạnh phúc. Junthua về nông trường Ôrivanô, bạn của tôi, nên tôi có dịp săn sóc. Một hôm, chợt nghĩ đến tên nó, tôi ghé tai nó:
- Cái tên của cô thực kỳ khôi, Junthua, chả trách lúc nào cũng thua rồi đi vào lò sát sinh quá sớm, tôi đặt tên việt cho cô, từ nay gọi cô là Bạch Ðằng nhé.
Gọi nó Bạch Ðằng, vì nó giống con Bạch Ðằng mà tôi gập ở quê nhà, trong vùng di tản chiến tranh. Con này, cực kỳ hiền lành, nhẫn nại, theo đoàn người tản cư, trên lưng đeo đầy túi bọc, và hai, ba cái nôi trẻ sơ sinh. Nó tinh khôn, thính tai, mỗi khi nghe tiếng máy bay oanh kích, nó tự động, cùng bọn con nít nấp trong lùm cây bụi rậm. Chuyện con Bạch Ðằng quê hương cũng khá dài, xin hẹn kể lại lần khác còn bây giờ tiếp tục chuyện con Bạch Ðằng Junthua.
Nông trại Ôrivanô ở gần núi rừng, đặc biệt đồng cỏ xanh mượt, Bạch Ðằng Junthua hạnh phúc tự do với trời xanh, với đàn bò, đàn cừu. Tôi thường có dịp chăm sóc Junthua, khám phá ra Junthua bị chủ bán đi vì một chân có tật it ai nhìn thấy. Nghĩ lại, thì ra con Bạch Ðằng quê nhà đã cho tôi ý nghĩ chọn nghề thú y. Junthua và tôi thành đôi bạn. Mỗi năm về nông trại một hai lần, thấy tôi là Junthua bỏ chúng bạn, đến bên tôi. Tôi thủ thỉ đôi lời êm dịu bên tai nó. Các bạn ơi, cuốn phim "người nói chuyện với ngựa" trên màn ảnh gần đây đối với tôi không có gì lạ!
Thời gian qua mau thấm thoát hơn mười năm qua. Tôi chuyển ngành, làm giám đốc một xưởng chuyên làm đồ thực phẩm cho tất cả các giống gia súc. Công việc bộn bề, tôi quên Junthua và chủ trại bạn tôi. Tình cờ một hôm tôi gập Ôrivanô ở hội chợ nông nghiệp hàng năm tại Paris. Ông ta cho tôi biết là đã về hưu sau khi chuyển giao nông trại cho bọn con cháu. Tôi hỏi thăm Junthua thì ông không biết. Ông mời tôi, mấy tuần sau, ăn tiệc tân gia ở Paris, hôm ấy sẽ được tin Junthua.
Y hẹn, tôi đến nhà Ôrivanô, ở một con đường nhỏ khu 18. Ðó là một khu phố cổ. Chung cư cổ xưa, nhưng công trình xây dựng kiên cố kiểu cuối thế kỷ 19. Từ trạm métro đến cũng phải hơn mươi phút. Ðặc biệt, khu phố nhỏ này ít hàng quán, chỉ có gần nhà ông ta một hàng bán thịt ngựa. trên biển hàng đề "boucherie chevaline" có treo một đầu ngựa, đầu giả lẽ dĩ nhiên, viền đèn néon, thay nhau bật sáng đỏ xanh. Ðèn đường lờ mờ khu phố, chỉ có cái đầu ngựa sáng rực trong màn đêm.
Ông bà Ôrivanô đón tôi ngưỡng cửa, vồn vã hồn nhiên, tôi cũng vui mừng không kém. Nhưng thấy ông bà ở chung cư sao to lớn thế? Khi còn ở nông trường thì cả hai đều vừa phải thôi. Thế mà, ở đây trông như hai tủ đứng miền Normandie. Ông thì vẫn xềnh xoàng ăn mặc, còn bà thì duyên dáng xiêm y Paris thời thượng, dáng vóc không thay đổi, ánh mắt nụ cười gợi cảm. Chợt nhớ lại tuy có học nhiều hơn ông, nhưng ở nông trường bà là người quán xuyến chỉ huy toàn bộ công việc đồng áng chăn nuôi, mộc mạc "nâu sòng", như phụ nữ quê nhà. Thiên tính tinh tế phụ nữ, bắt gặp ánh mắt ngạc nhiên trìu mến của tôi, bà tủm tỉm trả lời bằng ánh mắt vui đời, xanh lơ ánh chớp:
- Anh tưởng con cái đàn bò sữa của anh không thể thay đổi theo môi sinh?
Bữa tiệc thân mật, khá đông tân khách. Ông bà cố tình giữ tôi ở lại. Thế rồi chính bà Ôrivanô kể chuyện Junthua:
- Junthua không còn nữa, bà buồn rầu nhắc lại, khi còn ở nông trường rất quí Junthua, và đôi khi cưỡi Junthua đi chơi rừng núi. Ðúng thế Junthua không còn nữa. Ông nhà tôi về hưu giao lại nông trường cho đàn con cháu. Chúng nó quản lý theo lối mới, tất cả những con vật không làm lợi đều bán đi. Con cháu gái kể lại hôm lái ngựa đến dắt Junthua lên xe vận tải súc vật, nó không phản đối, lặng lẽ theo sau khi nhìn đàn con nít đến tiễn đưa. Trong xe, nó thò đầu hí lên mấy tiếng vang dội tới dãy núi xa xa. Bọn con nít khóc trông theo chiếc xe rời nông trường. Sao hôm ấy nó không chống cự? Tôi luôn luôn tự hỏi.
Bà chấm dứt câu chuyện, kín đáo lau giọt lệ, bà nhìn tôi. Tiếc buồn chiếm đóng tâm tư, tôi không trả lời bà, tính nhẩm thì theo luật trời, ngựa sống lâu nhất 20, 25 năm, khi nó rời trường đua thì nó khoảng ba, bốn tuổi, về nông trường Ôrivanô thế là được hơn mươi năm nữa. Có nghĩa Junthua 15 tuổi, so với đời người, Junthua đã là bà cụ trên bẩy mươi. Junthua có thể đã chán ghét cuộc đời, bình tĩnh đi theo định mệnh của loài người đặt ra cho nó.
Từ biệt ông bà, tôi xuống thang máy, ra đường, khoảng hai giờ sáng. Hè phố vắng tanh, một mình, chiếc bóng tôi trải dài trên vỉa hè với nỗi buồn vô tận. Ðầu ngựa trên tiệm bán thịt ngựa tắt tối đen, chỉ còn mờ ảo trong màn đêm. Tôi rảo bước vì một cảm giác lạnh lạnh sống lưng. Nhanh nhanh qua khỏi tiệm thịt. Chợt nghe tiếng vó ngựa rập rồn sau lưng, Tôi né tránh, quay lại chẳng thấy gì. Thế rồi, một tiếng hí não nùng xáo trộn thinh không. Như tiếng hí của Junthua. Qua giọt lệ, tôi gửi vào khoảng không:
- Thôi đành vĩnh biệt Junthua với tất cả lòng thương mến của tôi.
Tôi xuống métro thì mới nhớ ra đã quá giờ, trạm xe cửa đóng then cài. Tôi đi bộ tới ga taxi mất gần nửa giờ, dọc đường chỉ lo nghe lại vó ngựa và tiếng hí Junthua. May mắn, không có chuyện gì khác. Cả đêm không chợp mắt. Nhưng cuối năm ấy tôi dự tiệc tân niên ở nhà ông bà Ôrivanô. Kể lại nghe tiếng hí và tiếng vó của Junthua gần nhà thịt ngựa, thì ông bà cho tôi biết đêm giáng sinh tuần trước, đi nhà thờ về, gần tới nhà, cả hai ông bà đều nghe tiếng hí và vó ngựa sau lưng,vội vàng né tránh. Ngoảnh lại, chẳng thấy con ngựa nào.
Nhưng cả hai trông thấy rành rành vó in tuyết trắng hè đường. Cả hai đều cho mình say rượu, cùng bỏ qua. Hối hận, sáng sau, ông ta xuống đường: vài vết vó ngựa còn mờ in trên thảm tuyết, vội trở lên nhà, lấy máy chụp hình xuống ghi những vết vó ngựa, nhưng khi in ra thì chỉ toàn tuyết trắng tinh, không vết tích. Tới nay, thỉnh thoảng nhớ tới Junthua, tôi lại nghi ngờ, đó có thể là Junthua hiện về, từ biệt và cám ơn tôi đã chăm sóc nó và ông bà Ôrivanô cho nó thêm mươi năm hạnh phúc trên trái đất thiếu hiền hòa vị tha này? Câu hỏi đó xin để các bạn trả lời.
Bùi Văn Nhẫm
#9
Gửi vào 05/06/2011 - 11:07
Trên đời có hai thứ tôi sợ: Ma và sâu, ngoài ra thì tuốt mo cóc sợ gì cả. Ngày học SPCN chứng chỉ đầu tiên của khoa học, tôi cầm ếch, chuột, gián, mổ bằng tay không tỉnh bơ, lớn lên tôi ôm trăn quấn quanh người chụp hình cuời toe toét. Tôi sợ ma có lẽ vì hồi nhỏ bị đứa em họ doạ, khi tôi ở trọ nhà nó, nhà này có ba bà cô ở chung, một bà lớn nhất, có đứa con trai út bằng tuổi tôi, hai bà kia chưa chồng, còn đang đi học Trưng Vương.
Vì nghèo nên thuê nhà ở chung với chủ, buổi tối các cô tôi còn học bài, tôi phải đi vòng phía sau leo cầu thang, nhìn sang nhà hàng xóm tối om, lên gác ngủ môt mình cũng tối om, nghèo mà đâu dám bật đèn ngủ, chỗ tôi nắm nhìn ra cửa sổ, xế xế là cây đa xum xuê, khỏi nói các bạn cũng biết, cây đa vào ban đêm nhìn thấy mà ớn, rễ lòng thòng tha hổ tuởng tuợng đủ thứ. Thằng em họ cứ doạ tôi là cây đa có ma tôi sợ lắm, sợ mà không dám hó hé vì cũng sợ hai bà cô nhỏ.
Bởi vậy điều tôi muốn khuyên các bậc cha mẹ nhỏ bây giờ là đừng doạ trẻ con, đừng để xem phim kinh dị, đừng để nó trong bóng tối. Sau đó tôi về nhà, khổ thật, nhà tôi ở Cây Quéo, cũng nghèo lắm, chờ dạy Saigon thì lâu nên cha tôi đành đi Sóc trăng, nhà chỉ còn mấy mẹ con, nhà vệ sinh ở xa nhà đi ngang một bãi tha ma nhỏ, đương nhiên là tôi sợ không dám đi vào buổi trưa rồi, ban ngày cũng đứng đầu bãi chờ có ai đi bộ hay xe đạp thì chạy theo.
Tôi có cảm tuởng nhà tôi có gì đó mà không biết. Mẹ tôi tính nghiêm lạnh ít nói nên con cái sợ, cũng ít dám thổ lộ, một lần tôi nằm giuờng cậu em, kế giuờng mẹ tôi, đêm đó tôi nằm mơ bị bóng đè và cảm giác rất kỳ, cứ như nửa thực nửa mơ, thấy có ai đó ở đầu giường.
Lần khác cha tôi về Saigon chơi, tôi nằm một mình trên gác, vì bà chị ruột lên cô tôi học thi, nửa đêm tôi thức giấc vì nghe tiếng khóc nỉ non văng vẳng, tôi nín thinh không nói gì vì tưởng từ hàng xóm vẳng sang. Nhưng nghe kỹ eo ôi không phải, tôi lạnh gáy nhưng sợ cha mẹ, nên nằm im không cựa quậy chỉ len lén trùm mền kín mít. Tôi chợt nghe tiếng cha tôi hỏi vọng từ nhà dưới lên:
- Con Chi khóc đó hả?
Trời đất tôi cứng người vì sợ, té ra cha tôi cũng nghe tiếng khóc và ông tuởng là tôi, tôi nín khe vì sợ nếu lên tiếng, thì chắc ma sẽ bóp cổ tôi, năm đó tôi mới muời tuổi mà. Bây giờ nghĩ lại tôi oán cha mẹ lắm, ai đời bắt con gái còn nhỏ xíu phải ngủ một mình trên gác tối thui.
Năm muời bốn tuổi, gia đình dọn đến đuờng Vạn Kiếp, nhà to và khang trang hơn, có nhà vệ sinh. Eo ơi truớc mặt nhà là một bụi tre um tùm, ngay cửa sổ phòng trong nhìn ra là khoảng vuờn lớn của hàng xóm, chình ình cái mả ông cha của họ, cây cối cũng um tùm luôn, bây giờ tôi đã khá lớn nên cũng đỡ sợ. Ở lâu quen có khi ban đêm tôi còn mở tung cửa sổ ngồi học đến khuya, nhìn ra cái mả cũng chẳng còn sợ mấy.
Khi dọn nhà lên Vạn Kiếp, chị người làm cũ mới nói với mẹ tôi:
- Chị Giáo biết không, nhà chị có cô con gái kia thắt cổ tự tử, nhưng tụi tui đâu dám nói cho chị hay. Cổ thắt cổ ở ngay đầu giuờng thằng Ân đó!
Trời đất đó là nơi tôi nằm một lần và tởn luôn, vì bị bóng đè, mà ban đêm có cảm giác rất kỳ, hèn chi có tiếng khóc ban đêm văng vẳng mà cả tôi và cha tôi đều nghe. Số con người cũng kỳ, có người dạn thì cả đời chẳng bao giờ phải ngủ một mình, còn người nhát thì chuyên môn gối lẻ! hì hì... Hồi đó tôi và chị lớn ngủ chung phòng trong, hai chị em tôi là hai kẻ thù không đội trời chung, nhưng đội mùng chung, tôi ghét bả vì bả được mẹ cưng, hễ cãi nhau là mẹ bênh bả. Mẹ nói bả đẹp còn tôi xấu ỉn Không ghét sao được.
Đêm đến dù mới uýnh nhau hồi chiều, nhưng khi bả ngủ say, tôi len lén xích dần, xích dần cho đến khi cái lưng tôi áp vô lưng bả, thì tôi yên tâm ngủ không sợ ma nữa, còn nếu để khoảng trống sau lưng, tôi sợ ma chen vào quá, đúng là già đầu mười bảy bẻ gẫy sừng trâu mà còn sợ ma.
Rồi chị tôi lên trọ nhà cô để học chung với đứa em, tôi lại phải ngủ một mình, hồi đó sao cũng ngu, không kêu một cô em gái xuống ngủ cùng, lại chịu trận một mình, có lẽ vì vậy thần kinh tôi rất yếu, tôi nằm sát tường để có tường che chở cho cái lưng, mặt quay ra ngoài để nếu thấy ma thì còn la lên. Năm 75 tôi lấy chồng, ở nhà cô em chồng tại đuờng Trương Tấn Bửu, còn cô ta về nhà mẹ đẻ vì chồng đi làm xa, nhà này cũng có ma.
Ban ngày khi ở một mình trong nhà, tôi luôn có cảm giác ai đó đang nhìn mình từ góc nào đó. Vào tối thứ bảy ông xã cũ hay về Phú lâm. Ông về muộn có mình tôi trong nhà tôi rất sợ, Lần thứ hai tôi kêu ông chở sang nhà bác gần ộ lần, tôi ..làm gan ở nhà một mình. Chèn ui, tôi đang rửa chén bỗng có cảm giác lành lạnh rất kỳ. Hơi ớn nhưng tôi cố rửa chén cho xong. Bỗng meo, tiếng mèo não nuột rồi đùng đùng...Thế là tôi quăng chén chạy ra sân ngồi bậu cửa, không dám vô nhà nữa, khi ông xã về tôi tuyên bố: “kể từ nay tôi chỉ chờ đến bảy giờ tối, sau đó là tôi sẽ đến nhà bạn“ .
Ổng tưởng tôi đùa, nhưng không, ở nhà một mình sợ thấy mồ, tôi cũng tham khảo ý kiến các bà chị họ, bà nào cũng lắc đầu “không dám ở một mình nhất là nhà mới ở chừng một tháng“. Lần tới đó chờ đến bảy giờ ổng không về, tôi bèn xách xe đi, đúng là sợ ma khổ thật, ước gì tôi đừng nhát. Năm 78 tôi sanh con đầu lòng và phải về ở nhà bà chị ở Tự Đức, gia đình tôi ở chung với bà.
Một đêm đang ngủ tôi thức giấc, trời đất tự nhiên tôi thấy phòng từ từ tối lại, giống như cái đèn ngủ tôi treo ở cửa sổ giữa hai phòng, đang bị ai đó đem ra phòng bếp vậy, tôi nín khe phòng rất lặng không có tí gió nào, mà gió cũng không thể nào bứng được ngọn đèn ngủ, từ vị trí này sang hẳn vị trí kia, xịch qua lại thì Ok chớ phòng tối như vậy, thì chỉ có đèn ngủ bị nhấc đem ra phòng bếp. Tôi đang nằm nghiêng ở thế nhìn vào TV, đèn ngủ hắt bóng ở đó, tôi thấy bóng đỏ của đèn ngủ lay động, tôi nín thở vì sợ, một lúc sau tự nhiên lại thấy phòng sáng trở lại như cũ.
Tôi chờ môt lúc, sau đó tôi thò tay lên kệ sách đầu giường, vớ được cái mỏ lết tôi yên chí nhét mỏ lết dưới gối và ráng ngủ, gần sáng tôi thức giấc và kể chuyện cho ông xã cũ nghe, ổng nằm cách tôi bởi con trai. Bà chị ở trên gác nghe tiếng tôi kể, bả nói:
- Không phải ma đâu mày ơi, nhà tao có ông tiền chủ đó. Ông thiêng lắm.
Trời đất nhè người sợ ma mà hô tiền chủ thiêng, ngay hôm đó tôi sợ quá, bỏ liền đèn ngủ đỏ, tậu ngay đèn ngủ mới mầu vàng, còn cẩn thận bỏ đèn ngủ đỏ vô ông lò cũ, nhờ thổ công “giữ ma” dùm, vì tôi cho là đèn ngủ đỏ có ma.
Cũng may tôi chỉ phải ở đó chừng hơn tháng, rồi lại đi về nhà ngoại, nhưng một lần tôi thấy có hiện tượng kỳ lắm, lúc đó con trai tôi chỉ hơn một tuổi, tôi đang nằm chơi với con ở nhà ngoài, tôi thấy ánh mắt thằng bé nhìn vào nhà trong, giống như nó đang “ nhìn” ai đó, tôi nhìn vào thì không thấy gì cả, teo quá tôi bèn vặn TV, cho tiếng nói oang oang để bớt sợ.
Năm 85 chị tôi giao nhà lại cho vợ chồng cậu em. Ngay bữa đầu tiên cô ta đã làm cả xóm náo động, vì khoảng tám giờ tối, thấy con chó cứ vọng lên gác sủa và có tiếng động ở trển, cô ta hét ầm lên bỏ chạy ra ngoài, tội nghiệp cô ta cũng giống tôi, phải ở nhà một mình vì chồng mải đi nhậu, chứ có chồng ở nhà thì đâu đến nỗi hét toáng như thế. Nghe kể chuyện trên, đứa cháu con chị tôi còn viết thư về bồi thêm:
- Hồi đó tụi con đang chơi ở nhà trên, vô tình con nhìn xuống bếp, thấy có ông nào đó đang mở nắp nồi thịt. Nghe mà ớn coi như nhà này cũng có ma.
Số tôi xui xẻo, năm 87 tôi lại phải quay về nhà này ở. Nhà có ba mẹ con: tôi, con gái và con bé người làm khoảng mười ba tuổi, tôi sợ ma đến độ mấy mẹ con ra tuốt gần cửa ra vào nằm, đem đầy đủ bô, nước uống và không dám héo lánh vô phòng trong hay bếp, nghĩ cũng buồn cười cứ tuởng nằm gần cửa thì chạy ma dễ. Ở nhà này cũng có cảm giác kỳ kỳ lành lạnh, cứ như có ai đó đứng ở góc nhà nhìn mình, sau này hàng xóm kể:
- Khu này là đồn bót cũ thời Pháp, ngay đầu hẻm là cái cột dùng để xích phạm nhân.
- Có lần chị kia đi làm về khuya, mà không vào được nhà cứ đi lòng vòng ngoài sân.
- Một lần cô kia ở nhà đối diện tôi cứ nghe tiếng khóc từ hàng xóm, sáng ra hỏi thì hàng xóm nói có ai khóc gì đâu.
Tôi thấy quá ngán ngẩm cho cái tính sợ ma của mình, chẳng sợ người sống mà sợ người chết, vô duyên cực kỳ, tôi qua than thở với bác hàng xóm. Bác nói chuyện rất hay, tôi ngộ ra. Thế là tối đó tôi thắp nhang theo như bác chỉ và tôi nghiêm chỉnh nói chuyện với người chết:
- Tôi biết rằng truớc khi tôi đến đây ở, thì quý vị đã từng ở đây, tôi không biết gì về cuộc sống của quý vị trước kia ở dương thế. Nhưng quý vị có cuộc sống quý vị, tôi có của tôi, không ai đụng chạm ai. Quý vị đã không còn phải lo cơm áo, nếu quý vị thấy đói, chẳng qua là quý vị tuởng thế, vì hình hài không còn thì làm sao đói được? Do đó tôi sẽ không cúng gì cho quý vị hết, tôi cũng đề nghị quý vị không làm điều gì cho tôi phải sợ, tôi không trêu ghẹo, không can thiệp vào cuộc sống quý vị, thì tôi mong quý vị cũng như thế với tôi.
Con người sống chết có số và được định bởi trời, nhưng nếu quý vị làm tôi sợ, tôi chết thì ai nuôi con tôi? quý vị có thấy vui không? hay nếu tôi mời thầy về ếm quý vị thì quý vị củng thấy vui không? vậy tốt hơn hết, tôi không biết cuộc sống bên kia thế giới của quý vị ra sao, nhưng tôi đề nghị chúng ta tôn trọng nhau.
Thế là xong bài nói chuyện với người chết, kỳ lạ nói xong tôi thấy tự tin ra mới khỉ chứ, không thấy sợ ma nhiều như trước kia, tôi can đảm dọn vô phòng trong ngủ, không phải chạy tuốt ra gần cửa ra vào nằm đất, tôi cũng cương quyết không cúng kiếng gì hết, cũng từ đó vào ngày rằm tháng bảy, tôi cũng không cúng cô hồn luôn. Nhưng chỉ bớt thôi chứ sợ thì vẫn còn, bởi vậy hồi năm 98 tôi nói:
- Ai nộp đơn đòi lấy tui bi giờ là tui xé, nhưng mai mốt con gái đi lấy chồng, thì chắc tui cũng phải lấy quá, vì sẽ không có ai canh ma cho tui ngủ.
Ai dè năm 2000 con bé đi lấy chồng, bọn đệ tử bao gồm các giảng viên đại học, mà tôi giúp họ có giờ dạy đến sinh viên, phụ giúp trong phòng máy của tôi, phải thay phiên nhau đến ngủ vì cô sợ ma. Buồn cười nhất là một lần, người giảng viên quản trị hót là bà thấy bói ở chùa Phật Cô Đơn Bình Chánh rât hay, anh chàng còn xung phong chở cô đi. Cái bà đúng vô duyên bà ta phán:
- Nhà cô có cái mả ngay giữa nhà, nhưng cô cúng đi, người ta sẽ phò trợ cô.
Tối đó bị ám ảnh bởi câu nói của thầy bói, tôi bắt người giảng viên..hì hì..vô nắm đất gần giường tôi, bình thường người giảng viên nằm trên salon phòng khách, y chang đêm đó tôi mơ hoảng la lối làm hắn đang ngủ phải lay cô dậy, liên tiếp cả tháng sau, mấy tên kia thay phiên nhau, trai gái có đủ, phải vào nằm đất cạnh tôi để canh ma cho cô. Tôi thề từ nay không đi xem bói nữa, mà có xem sẽ yêu cầu không được nói chuyện ma trong nhà tôi.
Bây giờ tôi không còn ở nhà đó nữa. Về đây, chỉ là căn hộ được sửa từ phòng của một hotel từ trước 75 nhưng nhát thì vẫn còn, nên bắt cô cháu gái ở lầu một tối tối lên ngủ. Tôi đang lo tết này nó về quê thì ai canh ma cho tôi đây? ôi trời ơi! trời sinh ra ma làm gì cho tôi sợ. Mà sao mấy nhỏ em tôi dạn lắm, chẳng bao giờ phải ngủ một mình cả, bé thì ở nhà cha mẹ lớn thì có chồng, bởi vậy chúng cứ chế tôi nhát. Tức quá ngày mai đăng báo kiếm...người ngủ chung để canh ma.
Hoàng Lan Chi
#10
Gửi vào 05/06/2011 - 11:14
Miễu Bà Chúa Xứ, Ðìa Gừa, Gò Mả Lạn, phải qua những chòm cây cổ thụ, những vùng lau sậy hoang vu ấy rồi mới đến nhà ông Tư Ðạt. Trời đã quá chạng vạng. Ánh nắng thoi thóp, đỏ khé. Trong giây phút trở sang màu tím bầm, muỗi dậy ổ kêu vo ve khắp gần xa, loài ếch nhái côn trùng bắt đầu lên tiếng, chào mừng bóng tối đang tràn ngập qua nhanh chóng. Cô đơn làm sao căn nhà giữa đồng này, gió thổi lành lạnh, tôi rùng mình:
- Thưa ông, cháu về.
Ông Tư Ðạt cười ngất:
- A ha! Ðứa cháu này sợ ma, nãy giờ tôi quên, vô đây đốt thêm ngọn đèn nữa, phải rồi đèn lu quá sợ ma sao? Ở đây chơi mà!
Tôi trả lời, ấp úng:
- Dạ cũng hơi sợ, thiên hạ nói ở Ðìa Gừa, ở Gò Mả Lạn này...
Ông Tư nói nhanh:
- Có ma hả? Hơi đâu mà tin, họ nói ma buông xuống lòng thòng từ cánh tay, từ bàn chơn, cái đầu rồi ráp lại, họ nói ma bỏ tóc xõa, đứng trên ngọn cỏ mà múa. Mình hú nó hú trả lời. Mình chạy nó rượt theo, nhưng tôi nhứt quyết xứ này không có loại đó. Xứ này, cháu biết không, là xứ của ma.
Tôi trầm ngâm suy nghĩ: Tại sao ông Tư Ðạt nhìn nhận có ma rồi bảo rằng không có? Chớ ma ở gò mả này thuộc về loại nào? Dầu sao vẻ mặt trầm tỉnh can đảm của ông cũng làm cho tôi được yên tâm chút ít:
- Thiên hạ đồn đãi nhiều cháu phải sợ theo.
Ông Tư khêu ngọn đèn rồi vào trong đem ra một chai rượu đế:
- Uống đi cháu, thủng thỉnh tôi nói qua chuyện khác vui hơn, đồn đãi là một chuyện, nhưng sự thật lại khác. Cái gì được người ta lặp đi lặp lại nhiều lần bằng câu hát đưa em? Vậy mà có người không hiểu rõ thí dụ như:
Một mai thiếp có xa chàng
Ðôi bông thiếp trả, đôi vàng thiếp xin.
Tại sao đôi bông thiếp trả, đôi vàng thì xin? Không lẽ người đàn bà nước mình mang thói tham lam? Sự thiệt nó có tích như vầy: đôi bông là vật cha mẹ chồng cho nàng dâu hồi đám nói, đôi vàng là của riêng mà hai vợ chồng trẻ, nhờ dành dụm sắm được lúc sau. Nàng dâu than vãn bà mẹ chồng khắc nghiệt, sẵn sàng “trả đôi bông” lại cho mẹ chồng. Nhưng nàng vẫn thương chồng,“xin giữ đôi vàng” nài nỉ chồng cất nhà ở riêng để thoát ách.
Câu hát đó cao sâu lắm. Hồi xưa khách qua đường, hễ nghe nó là hiểu được, tánh tình của bà mẹ chồng trong nhà như thế nào. Bởi vậy người hát phải biết hát, người nghe phải biết nghe. Cái chuyện ma ở Gò Mả Lạn này cũng như câu hát đó, lâu ngày thiên hạ không hiểu, họ nói xàm làm mất phẩm giá người đời xưa, rồi đâm ra sợ sệt vô lý. Chung quanh nhà này có ma thiệt.
- Ghê quá vậy ông!
- Phải! Ðó là hồn oan. Mình phải thấy rõ họ, mình phải thương họ. Thường bữa họ tới lui, muốn làm quen với mình nữa, sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn mà.
Non tám mươi năm về trước, hồi đó ở tại Gò Mả Lạn này xóm nhà đông đúc hơn bây giờ. Họ sống về nghề ruộng rẫy, giăng câu, bắt rắn. Giặc Tây đến chúng đóng binh ở ngoài huyện Kiên Giang. Binh sĩ của ông Nguyễn Trung Trực lén kéo về châu thành để công kích. Dân chúng nghe tiếng súng, nửa mừng nửa sợ. Tới một đêm đó, nhiều loạt súng nổ chát chúa ngay đầu xóm, tại Ðìa Gừa.
Không ai dám bước khỏi nhà. họ đoán rằng có người bị giết và tiếng súng sát nhơn nọ là của Tây. Sáng hôm sau, vài người bạo dạn ra dò xét, họ kéo mấy cái thân người dưới đìa đem lên, chôn cất kỹ lưỡng gần bờ thềm. Từ đó đêm nào đêm nấy giống nhau, cứ quá nửa đêm dân chúng phải cắn răng, nuốt lệ mà nghe súng nổ, khi thì nghe tiếng kêu rú, khi thì nghe thêm tiếng chim bay.
Nước dưới đìa lần lần đen ngầu hôi tanh, cỏ bên bờ ngày một cao, vì dân làng không còn ai lui tới để gánh nước như trước. Trong khi đó, con đường từ thềm đìa ra ngoài lộ cái trở nên mòn lẵn, vì dấu chân của bọn đao phủ Tây tà và của những nghĩa quân, lương dân vô tội từ nơi xa lạ dẫn tới. Dân làng quá đỗi hiền lương, hằng đêm họ thức để chờ nghe tiếng súng đầu tiên nổ ngoài bờ giếng. Rồi họ cúi đầu lầm thầm đọc kinh vãng sanh, cầu nguyện cho người quá cố. Trưa đó ngày mùng bảy tháng chạp, bất thường giặc kéo nhau tới bờ Ðìa Gừa, chúng đứng lại nhìn xuống đìa, đếm mấy gò mả xung quanh, nào ai dám hó hé! Chập sau, chúng rút lui, một thằng bé chăn trâu được may mắn núp ở gần bờ đìa, khi nãy nó về xóm thuật lại:
- Tui thấy ông Tây này cười ông kia la hét, ông Tây nọ gật đầu, mấy ổng dòm vô xóm mình.
Ðiềm lành, điềm dữ hay là không có điềm gì hết? Không ai đoán trúng cả. Vì đó là một diềm dữ, nhưng dữ quá mức tưởng tượng của họ. Ðêm ấy cả xóm đều bị bao vây. Nhờ ngủ ngoài chuồng trâu, đứa bé chạy thoát được, nó qua xóm kế bên cầu cứu, trong khi súng nổ liên hồi lửa bốc cháy. Ðầu canh năm tiếng súng vẩn còn thưa thớt. Mặt trời gần mọc, chừng đó dân làng kế bên mới dám đi qua cứu giúp. Người chết quá nhiều, người còn sống quá ít làm sao mà chôn? Ban đầu còn bó thây bằng chiếu, mỗi hầm chôn một người, sau cùng cứ chôn chung một hầm, đủ già trẻ bé lớn, khiêng nhiều chuyến quá sanh ra mệt mõi. Họ khiêng bằng võng, đặt hai xác chết trên một võng, người trở đầu phía trước, người trở đầu phía sau.
- Ðúng vậy, hồi đó hai người nằm một võng, theo kiểu hai đứa con nít ngủ trưa, như bây giờ thiên hạ đưa con.
Ðêm về khuya chai rượu gần cạn. Ðứa bé chăn trâu thưở trước, là ông Tư Ðạt ở Gò Mả Lạn buổi này, nói tiếp:
- Lâu quá rồi, thiên hạ chết oan, cả xóm chết giống nhau, không một người khóc, không một miếng khăn tang. Cả tháng sau quạ còn bay đen trời như tàn nhà cháy. Tôi là người quen với họ, họ thương tôi lắm. Tôi không sợ ma, nhờ đó mà ít gặp ma, vậy mà không hiểu can cớ gì buổi trưa đó tôi gặp họ.
- Ban ngày hả ông?
Ông Tư Ðạt nói:
- Chánh hiệu là... ban ngày, đi gặt về dọc dường tôi ghé lại bờ Ðìa Gừa, thấy nước trong quá tôi nhảy xuống tắm, rồi ngắt một cọng bông súng, nhai vô miệng cho mát. Tôi nhớ rõ: cọng bông súng dài lắm, nhai một hồi bỗng nhiên thấy một ông già hiện ra, đâu mặt với tôi, miệng ổng thì nhai đầu kia của cọng bông súng. Sợ quá tôi nhả ra nhưng không được. Hàm răng của tôi cứng lại rồi đánh bùa cạp. Sau rốt ông già nọ, nhai lần cọng bông súng đến gần mặt tôi, hai mặt đụng nhau, sát rạt lạnh ngắt.
Ông già nọ hỏi tôi:
- Cái thằng Ðạt chăn trâu! Nhớ ta đây không?
- Ông là ai?
- Bà con mà! Mấy chục năm nay mày làm ăn thế nào?
- Dạ nghèo quá!
- Vậy thì thằng Ðạt mày còn sống tới bây giờ, cũng không sung sướng gì hơn, mấy người chết yểu cả xóm hồi đó, nhớ không Ðạt? Bà con chết đêm mùng bảy tháng chạp, phải cúng kiến chớ! Có thịt ăn thịt, có muối ăn muối, rồi cất nhà cho bà con mày ở nhớ thắp nhang.
Ông Tư Ðạt nói tiếp câu chuyện:
- Ðêm đó về nhà tôi ngủ không yên, sau rốt tôi kêu gọi bà con lối xóm cất một cái miễu. Hương chức hội tề hỏi, tại sao cất miễu mà không xin phép, tôi trả lời đó là miễu thờ Bà Chúa Xứ, nào dám nói sự thật, sợ mình bị buộc vô tội làm quốc sự. Bởi vậy cháu hiểu vì đâu tôi giữ nhang khói ở miễu này, vì sao ở sát Gò Mả Lạn mà tôi không sợ ma. Ba bốn mươi năm nay, ruộng nương thất bát, có một lần bỏ xứ mà đi nhưng buồn bực quá, tôi trở về nền nhà cũ. Tôi nghĩ: Mình ở đây nghèo, nhưng mà vui, nhiều đêm tôi nằm nói thơ Vân Tiên một mình mà không đỡ buồn, tôi đứng nhìn trời đất đồng ruộng ở ngoài, tối thui vậy mà vui quá! Cháu ra đây coi thử.
Ông Tư Ðạt bước ra cửa, đưa tay làm dấy hiệu bảo tôi đi theo, đồng ruộng mơ hồ trăng non chưa hé, đám lau sậy mịt mùng chạy dài, như bức trường thành nối liền Gò Mả Lạn qua Ðìa Gừa, tiếp đến miễu Bà Chúa Xứ đằng xa. Ông lẩm bẩm:
- Không riêng gì ở Gò Mả, ở Ðìa Gừa, rải rác đầy ruộng nương, hồi đó ở đâu cũng có mả có xương người. Kìa cháu thấy không? Sao trên trời xẹt xuống một đốm, hai đốm rồi đất ruộng rung rinh, lúa mới cấy dợn đều như sóng dậy ngoài biển, cháu thầy không?
Tôi lạnh người, phải chăng oan hồn thuở trước đang về đây? Họ trở thành cát bụi, đang thu hình vào rễ lúa để vươn lên mặt đất, đòi đơm bông kết trái? Hay là họ buồn rầu khi nhìn cậu bé chăn trâu, còn sống sót thuở nọ, giờ đây sống hẩm hiu. Từng vệt sao rơi, phải chăng đó là những niềm tin tưởng soi sáng quyển sử trường cửu của đất nước, một huyển sử không có số trương, mà mỗi luống cày là một tờ giấy bao la, mỗi bụi lúa là một nét chữ không nhòa, muôn năm linh động? Ông Tư Ðạt vỗ vai, bảo với tôi:
- Bây giờ cháu thấy ma chưa? Không thấy thì ráng đứng hoài cho tới chừng nào thấy rõ. Ông ở đây mấy chục năm rồi mà chưa biết đủ mặt người. Bởi vậy đêm nào ông cũng thức, cũng nhìn.
Sơn Nam
#11
Gửi vào 05/06/2011 - 11:39
Mùa hè năm 1987, Nguyễn Văn Hãn tức Hãn Râu, một con sói biển già hãnh tiến, thuyền trưởng chiếc "TC-9071" đã phạm phải sai lầm nghiêm trọng khi quyết định chạy vào tránh bão ở cửa Hoàng Long, vùng nước mênh mông quanh năm hoang vắng, với những đám rong trôi nổi dễ đánh lừa cảm giác, và vô số bãi cát ngầm di động, khiến cho việc quay trở hết sức khó khăn, nguy hiểm.
“TC-9071” đã vật lộn, cày, dũi suốt một đêm ròng mới ra được, nhưng đành chịu mất neo chính và bị sợi dây nilông phi ba mươi, quấn chặt vào giò bên phải. Những cuộc cãi cọ đỗ lỗi cho nhau kéo dài hơn một tiếng đồng hồ, cuối cùng Hãn Râu cảm thấy xấu hổ về nghề nghiệp, hơn nữa cũng lo ngại những hậu quả xấu khi trở về, ra lệnh quay lại Vụng Giải, hy vọng sẽ xử lý xong xuôi mọi chuyện mà không gặp phải người quen trong giới tàu bè.
Chiếc tàu một giò lặc lè lết đi, hai bên những đảo đá lô nhô xám xịt, gieo vào lòng người cảm giác u sầu và bứt rứt. Vụng Giải nằm cách luồng chạy tàu chừng năm hải lý về phía bờ, bốn bề vách đá cao vút, nước trong vắt lạnh lẽo rợn người, tàu bè lớn ít khi ghé vào đây, chỉ có dân đào ngán hay chèo thuyền qua để đi tắt sang Lạch Tỉnh.
Giữa trưa “TC-9071” thả neo mũi tắt máy, nhưng không một ai dám yên tâm. Chiếc neo phụ quá nhẹ lại đã cũ mèm chẳng lấy gì làm chắc chắn. Dân sông nước ngán nhất công việc lặn gỡ dây neo quấn chân vịt, ở đây có một lý do bí hiểm nào đó không ai giải thích nổi, hình như càng những tay bơi lội như rái cá càng hay gặp nạn.
Đã là thuyền trưởng, cho dù là thuyền trưởng tàu chiến, đố anh nào dám đùa cợt với tử thần. Hãn Râu cho giết gà cầu khấn cẩn thận, sau đó hạ lệnh chuẩn bị đồ lặn, gọi là đồ lặn nhưng thực ra chỉ có một cuộn dây mồi, mấy cái áo phao dự trữ và con dao nhọn dùng để cắt dây. Toàn tầu tập trung sau lái nhìn xuống nước, trong bầu im lặng căng thẳng, gió nhẹ biển bình yên một cách đáng ngờ. Mặt cau có Hãn Râu đi lại như giẫm vào tổ kiến, tấm lưng gấu lực lưỡng cúi gập hẳn xuống.
- Một chỉ, ai dám nhận không?
Giọng Hãn Râu vang to và bình thản, vẻ bình thản của người không còn đủ tự tin. Cuộc mặc cả mang dáng dấp của sự ve vãn. Hãn Râu tăng phần thưởng lên hai chỉ, sau đó lại kèm thêm mười lăm ngày phép, dĩ nhiên ai cũng biết rằng thuyền trưởng không có quyền cho lính nghỉ phép, nhưng Hãn Râu vẫn quen hành động như vậy, còn vàng thì chỉ có người trên tàu mới biết ở đâu ra.
Thuỷ thủ là những người thận trọng, nhưng bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng liều lĩnh, nếu như sự liều lĩnh ấy được trả giá xứng đáng, Không khí dễ thở hơn, vài người toàn những trẻ tuổi giơ tay xin lặn. Đúng là người ta ở đời sống chết có số cả. Hãn Râu đã chỉ định Thiều Méo, thì Hải Bần sầm sầm từ khoang máy chạy lên.
- Để tui lặn cho anh Hãn.
Hải Bần nằn nì bằng thứ tiếng Nghệ An chưa hề pha tạp, sau này ai nấy nhớ lại, giọng Hải Bần nghe lạ hoắc, còn hôm đó tất cả đứng như hóa đá. Hải Bần là lính cơ điện mới mười chín tuổi, vốn dân miền biển thấp bé nhưng rắn chắc, suốt ngày cởi trần da đen nhánh, vừa cưới vợ chưa đầy hai tháng, có thể ai đó bị hai chỉ vàng hấp dẫn, nhưng Hải Bần thì lại khác. Hải chỉ nghĩ đến mười lăm ngày phép mà thôi.
Hải Bần không đợi thuyền trưởng đồng ý, xăm xăm tiến lại gần đống đồ lặn, vội vã buộc sợi dây mỗi ngang lưng, cầm dao trèo qua lan can. Những vòng tròn mờ đi rất nhanh, chỉ còn lại từng đám bọt trắng nổi lên và vỡ tan trên sóng. Mọi người bắt đầu thấy rằng chọn Hải Bần là đúng đắn, rõ ràng có thể qua mặt cả Hãn Râu, hai phút, rồi ba phút trôi qua mà Hải Bần vẫn chưa chịu ngoi lên. Nhưng đến phút thứ năm thì một nỗi kinh hoàng bao trùm lấy toàn tàu.
- Kéo lên!
Hãn Râu ra lệnh. Hai thằng bảo hiểm vội vàng giật mạnh sợi dây mồi, nhưng sợi dây nhẹ bỗng. Không ai kịp hiểu ra điều gì xảy ra, lần thứ hai họ như hoá đá, đột nhiên có ai đó kêu lên:
- Thằng Hải bị rồi!
Thuyền trưởng như sực tỉnh.
- Tất cả!...chúng mày...nhảy xuống!...
Hãn Râu hét lạc giọng, chẳng theo một nghi thức mệnh lệnh gì. Cử động của mọi người chậm chạp, tiếng nước bắn toé lên xung quanh tàu ung oang dường như không thật, cả thế gian này trong đó có chiếc tàu, mấy chục con người và hành động ngụp lặn của họ cũng vậy, dường như chỉ là hư ảo. Sự hư ảo ấy kéo dài hai tiếng đồng hồ, cả thời gian có thể cũng là hư ảo nốt, nhưng kết quả thì hoàn toàn chân thực, Hải đã biến mất. Hải biến đi đâu? Nước lặng dòng chảy không có, mà họ đã lặn ngụp từng ấy thời gian.
Ba giờ liền sau đó họ vẫn thay nhau ngụp lặn, nhưng không phải để cứu mà tìm xác kẻ xấu số, vài người nói rằng họ thoáng thấy bóng cá mập lởn vởn gần tàu, có lẽ đó là lời giải thích? Trên boong người ta bắt đầu nhắc lại vẻ khang khác của Hải Bần, hình như nó đã linh cảm thấy ngày tận số của mình, hình như nó khóc khi nhắc đến ngừoi vợ mười sáu tuổi làm nghề muối cá ở quê nhà. Trời đã về chiều dân đào ngán lác đác từ Lạch Tỉnh trở về, Hãn Râu vẫy một chiếc thuyền.
Chủ thuyền cao lớn râu bạc trắng, tay dài như tay vượn, mặc quần rộng ống bằng vải thô nhuộm chàm, trên bộ ngực để trần vô số những vết sẹo phồng rộp, chồng chéo lên nhau như một bầy đỉa bám vào hình hai con cá mập, xâm bằng những đường xanh mờ đứt đoạn, kiểu xâm của dân chài vùng Cái Hống, đầu ông già trọc lóc bị rạch đôi bởi một vết sẹo bóng như xác rắn, chạy dài gần tới mang tai.
- Lâu chưa?
Ông già hỏi sau khi nghe thủng đầu đuôi câu chuyện.
- Năm tiếng rồi.
Hãn Râu đáp.
- Các chú định trả bao nhiêu?
- Năm xách.
- Được rồi bỏ lên thuyền đi.
Hãn Râu sai hai người lính đi lấy năm xách dầu, đem ra trút xuống lòng thuyền. Ông già ngồi xuống boong móc thuốc trong túi, nắm tay lại làm tẩu lặng lẽ hút và theo dõi, sau đó gọi xuống thuyền:
- Thắm, đưa ông cái túi con!
Hoá ra trên tàu còn có người nữa, một đứa bé gái khoảng mười một tuổi, gầy nhom chui ra, đứng ở mũi thuyền, đưa cho ông già cái túi nhỏ bằng lụa cáu bẩn, đã sờn rồi lại chui vào. Bàn tay to lớn sần sùi của ông già, run run lần mở sợi dây gai đen xỉn buộc miệng túi, lấy ra một mảnh xương nham nhở, xỏ vào một sợi dây vừa tháo đeo lên ngực.
- Cầm lấy con!
Ông già lại gọi. Cũng như lúc nãy đứa bé lẳng lặng chui ra, dường như bị câm cầm lấy túi, và ngay tức khắc biến mất vào mũi thuyền. Ông già cởi quần dài.
- ùm!...
Cùng với tiếng động nước bắn lên tận boong tàu. Ông già biến mất dưới làn nước đang chuyển dần sang màu xám sẫm. Chưa được một phút ông già đã ngoi lên, bám vào đệm và miệng lầm rầm những câu gì đó không ai nghe rõ, đột ngột ông ngẩng lên:
- Các chú có ai phạm trọng tội không?
Không ai nhúc nhích.
- Các chú có ai giết người không?
Ông già hỏi lại và đưa mắt nhìn những người đứng trên boong, nhận thấy ai nấy đều im lặng cảnh giác, ông chậm rãi giải thích:
- Vụng Giải là chỗ nước dữ, từ lâu nổi tiếng linh thiêng, các chú tìm xác người chết trôi mà không biết đường khấn vái thì đến tết...người chết trôi bao giờ cũng nằm sấp, nhưng nếu được khấn thì tức khắc lật ngửa, lúc đó ai phạm tội giết người sẽ hộc máu tươi mà chết.
Giọng ông già bình thản nhưng xa xăm lạnh lẽo, mọi người đều rùng mình nhưng vẫn không ai mở miệng.
- Rồi!
Ông già nói và leo lên boong mặc quần dài. Tất cả những gì ông già làm sau đó đều bí hiểm, cả những câu thần chú cả giọng nói trầm trầm, khi to khi nhỏ, cả động tác chậm chạp như trong mộng.
- Lên ngay bây giờ đây!
Quả thật phía xa xa một khối đen, đang từ từ nổi lên cùng với những đám bọt nước, màu gạch cua sôi sùng sục, mọi người nhất loạt kêu lên, nhưng đó là kêu không thành tiếng. Cái xác chết nằm sấp bập bềnh trôi lại gần tàu. Trên boong lặng như tờ, không ai để ý thấy rằng bầu trời đang sẫm dần và gió đông nam mỗi lúc một mạnh thêm. Hải kìa! tấm lưng đen thui của Hải đã bắt đầu bợt nước, đột nhiên cái xác dừng lại khe khẽ xoay rồi lật ngửa.
Một tiếng rú khủng khiếp không rõ của ai, mấy chục con người ngã vật ra boong tàu. Một trận gió bất ngờ ném chiếc tàu “TC-9071” vào vách đá, và nó vĩnh viễn nằm lại trong lòng biển. Không ai biết ông già đào ngán đi đâu, còn những người trên tàu, trước khi chết không ai kịp thú nhận rằng, họ đã lặn ngụp một cách hoàn toàn hình thức, rằng chuyện gặp cá mập cũng chỉ là bịa đặt mà thôi.
Ngô Tự Lập
#12
Gửi vào 05/06/2011 - 12:03
- Hải, mày đi mua giùm tao hai lon nước ngọt.
Toàn vừa nói và đưa tiền.
- Mua hai lon nước ngọt thôi, làm gì đưa tao nhiều tiền vậy?
Tôi cầm tiền và hỏi.
- Tiền dư mày đem về lại cho tao ok.
Toàn trả lời. Một mình lặng lẻ chen lấn trong đám đông đi về gian hàng bán nước ngọt. Loay hoay mãi tôi mới tìm được, một quầy bán nước nhỏ nhắn, nằm bên vĩa hè góc đường. Tôi nói:
- Ông chủ, cho hai ly nước ngọt nhe.
- Có liền, đây nước của anh đây.
Ông chủ quán nói. Vì thời tiết nóng nực và đang khát nước. Tôi cầm hai lon nước ngọt uống ừng ực rất ngon lành. Mùi vị nước ngọt thấm lạnh vào đầu môi chót lưỡi, vào từng tế bào trong cơ thể, làm cho tôi rùng mình và nỗi da gà. Hôm nay là ngày cuối tuần, cho nên đường xá đông nghẹt người qua lại. Ngồi một mình bên quán nhỏ vĩa hè uống nước và suy nghĩ. Tôi cảm thấy cuộc đời này thật tươi đẹp và hạnh phúc lắm. Tôi cảm thấy đời mình rất may mắn. Cuộc đời của tôi không có chịu cảnh nghèo đói, bệnh tật, hay bị tù tội như những người khác.
Đang nhìn người và cảnh vật xung quanh, tự nhiên tôi cảm thấy buồn ngủ, đầu nặng chỉu và hai con mắt như muốn sụp xuống. Tôi thầm nghĩ, chắc hôm nay mình đi bộ nhiều quá. Cho nên tôi thấy trong người mệt mỏi rã rời. Tôi cố gắng gượng tỉnh táo chừng nào, lại thấy tay chân và thân thể càng lạnh lẽo. Tôi tự nhủ, thôi mình tựa đầu vào bàn nhắm mắt nghĩ ngơi một vài phút cho đỡ mệt.
Tiếng xì xào trong gió vang vọng làm tôi giựt mình tỉnh ngủ. Nhìn quanh, tôi thấy mọi người đang bu quanh, nhìn cái bàn tôi đang nằm ngủ gật. Họ xì xào to nhỏ, chỉ chỏ về phía tôi. Rảo mắt nhìn quanh, tôi thấy, bên cạnh tôi ngồi có một chàng thanh niên đang cúi đâu ngủ im lìm. Tôi thầm nghĩ và tự hỏi lòng? mình đã nằm đây ngủ bao lâu rồi?.
Tôi ngủ say đến mức độ, có một người con trai đến ngồi bên cạnh, và ngủ gật mà tôi cũng không hay biết. Ngoài ra tôi cũng không biết lý do gì, tại sao thiên hạ lại đứng xung quanh, chỉ chỏ và xì xào bàn tán cái bàn tôi, và anh chàng trai xa lạ đang ngồi ngủ gật. Nhìn quanh tôi thấy bầu trời vẫn còn nắng ấm và sáng chói lạ thường. Đang ngồi suy nghĩ miên man. Tôi chợt thấy Toàn, người bạn của tôi, cũng đang đứng trong đám đông và nhìn về hướng tôi đang ngồi. Tôi vội gọi Toàn:
- Toàn, đây là nước ngọt và tiền thối lại của mày nè.
Tôi vừa nói và thọc tay vào túi lấy tiền ra đưa cho Toàn. Nhưng không hiểu tại sao, Toàn vẫn đứng yên lặng lẽ trong đám đông và nhìn về phía tôi với nét mặt đăm chiêu và lo lắng. Trong tích tắc, Toàn vội vã quay lưng đi khuất dần trong đám đông. Một lần nữa tôi vội gọi và nói thật lớn:
- Toàn, đây là nước ngọt và tiền thối lại của mày nè.
Mặc cho tôi kêu gào thật lớn, Toàn vẫn lặng lẻ quay lưng đi lẫn dần vào trong đám đông. Tôi ngạc nhiên thái độ của Toàn. Một mình lặng lẽ gục đầu trên bàn nhắm mắt thiu thiu ngủ và suy nghĩ, tôi không hiểu tại sao mọi người và Toàn có những thái độ lạ lùng như vậy. Tôi chợt thấy tinh thần mình mệt mõi. tôi tiếp tục nằm gục đầu ngủ thiu thiu trên bàn. Bất chợt tôi nghe có tiếng động, tôi ngửng đầu nhìn lên. Khi tôi nhìn lên, tôi thấy bầu trời bây giờ đã về đêm. Trên bàn tôi đang ngồi, có một cây đèn cầy đang cháy le lói hiu hắt trong bóng đêm.
Xung quanh tôi phủ kín một màu đen, cảnh vật bây giờ rất vắng lặng. Nhìn xung quanh, tôi thấy có một cô gái, đến ngồi bên cạnh từ khi nào tôi không hay biết. Ngồi nhìn cô gái xa lạ này, tôi chợt thấy và không hiểu tại sao, khuôn mặt của của cô ta nhìn rất sáng hồng hào trong bóng đêm. Cô gái ta chỉ ngồi im lặng trầm tư không nói năng gì. Cô ta nhìn rất dễ thương, hiền hậu nhưng có vẻ u sầu điều gì.
Không biết cô gái này có tâm sự gì mà ngồi lặng lẻ trong bóng đêm không nói năng gì cả. Tôi lấy làm lạ, tò mò muốn đến làm quen trò chuyện cho vui. Ngồi suy nghĩ hoài, tôi không biết làm thế nào để làm quen và trò chuyện. Cuối cùng tôi nghĩ ra được một cái kế để làm quen. Tôi vội giả đò làm rớt chiếc chìa khóa xe bên cạnh cô ta, rồi tôi cố ý ngã người va chạm và vuốt đôi chân cô ta để gây sự chú ý.
Nhưng tôi không ngờ kết quả xẫy ra ngoài ý muốn. Tôi chỉ thấy cô ta phản ứng nhẹ nhàng, như chỉ đưa bàn tay phất nhẹ như phủ bụi trên đôi chân mình và ngạc nhiên nhìn dáo dác xung quanh tìm tòi cái gì. Phản ứng của cô bé làm tôi cụt hứng. Thấy thái độ cô ta có vẻ lạnh lùng không thân thiện, làm như không thấy, không cần biết có sự hiện diện và hành động lố lăng của tôi. Cảm thấy cô gái này có vẻ lạ lùng và kiêu ngạo. Tôi đứng dậy quay lưng đi về nhà.
Trên đường về nhà, tôi thấy cảnh vật xung quanh thật vắng vẻ và tối tăm. Hai bên đường không có đèn đuốc gì cả, nhưng không hiểu tại sao tôi vẫn thấy đường đi rất rõ ràng. Càng để ý, tôi không hiểu tại sao tôi không nghe tiếng động xung quanh như tiếng côn trùng, tiếng chó sủa và tiếng xe hơi. Đang suy nghĩ miên man, bất chợt tôi thấy có ba người đàn ông con trai, đang đi về phía hướng của tôi Hình dáng của ba người này rất dữ dằn và hung ác. cả ba người nhìn đen mun như người mỹ đen. Đặc biệt người đi đầu rất hung dữ và mạnh khoẻ.
Với kinh nghiệm bao nhiêu năm lăn lộn giang hồ, và giác quan thứ sáu báo cho tôi biết, ba người này sẽ đến gây chuyện. Tôi ỷ mình có một thân thể cường tráng và có kinh nghiệm giang hồ. Cho nên tôi không thấy sợ sệt chút nào. Tôi đã thủ thế và sẵn sàng chiến đấu nếu đụng chuyện. Quả đúng như linh tính dự báo, người đi đầu trong nhóm ba người đó. Hắn không nói năng gì cả, vừa thấy tôi, hắn nhào vào tấn công đánh đấm tới tấp.
Tôi cũng chẳng hiền hòa hay nhường nhịn chút nào. Tôi cũng nhảy vào ôm chặt và vật hắn xuống đất. Tôi và hắn đã đánh nhau tơi bời hoa lá. Hắn không nhường nhịn và tôi cũng chẳng coi hắn ra gì...Cả hai ôm nhau vật lộn trên mặt đất. Đánh nhau khoảng mười phút, tôi và hắn buông tay ra và lườm lườm nhìn nhau. Sau mười phút ôm nhau vật lộn, cả hai đều nhận thấy rằng. Nếu còn đánh nhau nữa cũng không tới đâu cả. Hắn vội bỏ đi và tôi tiếp tục đi về nhà của mình.
Một lần nữa, trên đường đi về nhà, tôi để ý khung cảnh chung quanh. Tôi thấy bầu trời lúc nào cũng đen tối, hai bên đường không có đèn đuốc gì cả. Mặc dù xung quanh tối âm u, Tôi vẫn thấy mọi vật rất rõ ràng từng nét một. Càng để ý và càng lắng tai nghe, tôi càng không nghe tiếng động của những sinh vật khác thí dụ; như tiếng chó sủa, tiếng côn trùng, hay tiếng xe cộ, tôi tiếp tục đi về nhà. Đi được một đoạn, tôi thấy và gặp một nhóm người đứng khác bên lề đường nói chuyện với nhau. Nhìn kỷ, tôi thấy những người này diện mạo hiền lành hơn, nhưng họ nhìn cũng đen như những người mỹ đen.
Khi đến gần, tôi thấy một người đang nói và yêu cầu khoảng bốn người bạn của họ, xếp hàng thành một hàng dài chắn hết cả lối đi. Tôi để ý thấy họ ăn mặc theo kiểu nhà binh lính. Họ vừa nói và vừa pha trò rất vui vẻ. Họ có vẻ tự nhiên không bối rối hay tò mò, khi có sự hiện diện của tôi. Có một điều lạ lùng, họ không nhường chỗ cho tôi đi. Bắt buộc tôi phải đi giữa chen kẽ và xen lấn họ. Có điều tôi rất ngạc nhiên ở chỗ, tôi không hiểu làm sao tôi có thể đi qua khỏi nhóm người này.
Trong khi họ đứng hàng dọc khoảng bốn người choáng hết lối đi. Tôi thấy tôi bước đi xuyên qua họ như một làn mây khói. Tôi thở dài nhẹ nhỏm khi vượt qua được hàng rào cản của nhóm người xa lạ này. tôi tiếp tục trên đường đi về nhà. Đi một đoạn sắp tới nhà. Tôi thấy hai bên đường có chút ánh sáng mờ mờ. Nhờ có một chút ánh sáng, tôi thấy đường đi và mặt đất có vẻ đen sì, bóng láng và mặt đường có nét kẻ ngang dọc như hình vuông.
Bên cạnh đó tôi thấy đôi chân mình đi rất lẹ như lướt trên mặt nước. Suy nghĩ miên man, tôi đã đến nhà mình lúc nào không hay. Nhìn căn nhà, tôi thấy mình đang đứng ngay ngôi nhà cũ ở Việt Na,, trước khi tôi xuất ngoại. Tôi vội bước vào nhà. Khi tôi vào nhà rồi và nhìn lại sau lưng, tôi thấy tôi vào nhà không bằng lối cửa chính, mà tôi vào nhà bằng cách lướt vượt qua dàn chắn song sắt. Tôi rất ngạc nhiên, tại sao tôi vào nhà mình bằng cách này. Vừa đi vừa suy nghĩ tại sao sự việc lạ lùng như vậy.
Bước vào phòng khách, tôi càng ngạc nhiên hơn nữa, vì tôi thấy trong nhà tôi có rất nhiều người xa lạ đang ở trong nhà. Tôi nhìn quanh, cố gắng tìm những người thân quen như cha mẹ, mấy chị em gái, Nhưng tôi tìm hoài cũng không thấy. Tôi đứng lặng lẽ trong phòng khách nhìn và quan sát những người xa lạ này. Tôi thấy khuôn mặt của những người xa lạ nhìn rất hồng hào và sáng rực. Sự hồng hào trên những khuôn mặt này, khiến cho tôi nhớ lại khuôn mặt những người tôi gặp hồi nãy, khuôn mặt của họ nhìn rất đen, nếu so với những người xa lạ đang ngồi trong nhà.
Tôi lặng lẽ và đứng gần lắng nghe những mẫu chuyện họ đang trò chuyện. Có một điều lạ lùng, họ có vẻ không ngại ngùng, hoặc họ không biết có sự hiện diện của tôi đang đứng trong nhà. Càng quan sát và càng suy nghĩ, linh tính và giác quan thứ sáu lại báo cho tôi biết, sự việc xung quanh có vẻ không được bình thường. Thấy vậy tôi vội lên tiếng nói chuyện với những người xa lạ trong nhà. Nhưng không hiểu tại sao những người này, họ có vẻ như không nghe và không thấy tôi. Trái lại tôi vẫn thấy và nghe họ trò chuyện rất rõ ràng từng tiếng một.
Đứng lặng lẽ một hồi lâu, tôi cảm thấy bối rối và ngỡ ngàng. Tôi không hiểu tại sao họ không nghe và không thấy tôi đang có mặt trong nhà. Một hồi lâu tôi thấy họ bỏ đi hết. Trong nhà chỉ còn lại một người con trai khoảng độ mười bảy hay mười tám tuổi. Anh ta đang ngồi suy nghĩ một mình. Tôi vẫn không hiểu tại sao, tôi có thể thấy anh chàng này được, nhưng anh ta tuyệt đối không thấy tôi. Không dằn được sự tò mò và tức giận, tôi vội nhào vào đầu anh ta, giơ tay hất mái tóc của anh ta. Lạ lùng thay, tôi thấy anh ta vẫn ngồi yên, giơ tay phủi lại mái tóc và ánh mắt anh ta có vẻ rất ngạc nhiên nhìn dáo dác sau lưng, anh ta vẫn ngồi suy nghĩ tiếp tục.
Sau khi thấy phản ứng của người con trai này, tự nhiên tôi thấy thế giới xung quanh tôi tối sầm nhào lộn tứ phía, và người tôi bay bỗng tứ tung, như một cái bong bóng đang bị xì hơi bay tán loạn trong không khí. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao mọi người không thấy tôi. Tại vì bây giờ tôi là một người đã chết, bây giờ tôi chỉ là một hồn ma vất vưởng trên trần gian. Bây giờ tôi là người cõi âm. Đến đây tôi thấy mắt mình mờ đi, mọi vật xung quanh quay cuồng đảo lộn. Tôi cảm thấy hồn mình chết lặng đi trong mấy giây, Vì tôi không ngờ tôi đã chết từ hồi chiều.
Tôi chết vì trong lon nước ngọt có chất độc cực mạnh. Tôi chết vì ngộ độc và tôi ra đi một cách thanh thản nhẹ nhàng, như đang ngủ một giấc thật dài. Bây giờ tôi đã hiểu, tôi chỉ là một bóng ma mà thôi. Sau mấy giây xúc động, tôi lấy bình tĩnh, tôi thấy anh chàng con trai bây giờ nhìn già hơn nhiều. Tôi không ngờ chỉ trong vòng mấy giây quay cuồng suy nghĩ, khi trở lại hiện thực anh chàng con trai này già đi hơn hai mươi tuổi.
Bây giờ tôi chợt hiểu rằng, đối với người âm có mấy giây, nhưng đối với người dương đó là mấy chục năm đã trôi qua. Ring ring ring, tiếng đồng hồ báo thức kêu vang xé nát bầu không khí im lặng của buổi sáng sớm...Ring ring ring...Tôi giựt mình tỉnh ngủ, nhìn đồng hồ bây giờ mới 7:00 am giờ sáng. Nằm nán trên giường, tôi chợt nhớ và suy nghĩ đến giấc mơ của mình. Giấc mơ đêm qua sao lạ lùng qúa vậy? Có nhiều đêm nằm ngủ, tôi có nhiều giấc mơ lắm. Nhưng chưa bao giờ tôi nằm ngủ lại thấy một giấc mơ như đêm qua. Nằm quấn mình trong chăn ấm áp suy nghĩ miên man về giấc mơ này.
Nếu đem so sánh giấc mơ này với những giấc mơ khác. Tôi thấy giấc mơ này mang một màu sắc và một ý nghĩa khác thường. Vì những giấc mơ khác rất êm đềm và thơ mộng. Có nhiều giấc mơ tôi thấy tôi gặp gỡ người âm. Cũng có những giấc mơ tôi thấy mình đánh nhau với người âm. Nhưng giấc mơ hôm qua khác hẳn như mọi lần. Vì trong giấc mơ đêm qua tôi là người âm, tôi là một người đã chết, một linh hồn đã rời khỏi thế giới người dương.
Nằm trên gường suy nghĩ về giấc mơ đêm qua, làm tôi thấy thú vị. Tôi nhớ từng chi tiết và từng cá nhân. Tôi nhủ thầm, tại sao tôi thấy giấc mơ của mình thú vị. Vì giấc mơ của tôi có nội dung tương tự như nội dung của cuộn phim "six sense" mà tôi đã được coi trong rạp chiếu bóng cách đây khoảng ba năm. Cuốn phim này, nói về một người đã chết. Nhưng anh ta không biết mình đã chết. Anh ta cứ làm việc và sống bình thường. Cho đến một ngày nào đó, anh ta mới biết mình đã chết từ lâu.
Tôi còn nhớ cái phút và cái hình ảnh, khi anh ta khám phá chợt hiểu mình đã chết, thì anh ta bay nhào vun vút trong không khí, như một cái bong bóng xì hơi. Hình ảnh và cảm giác đó giống hệt như cảm giác của tôi khi tôi chợt hiểu ra mình đã chết trong giấc mơ. Càng suy nghĩ về giấc mơ của mình, tôi càng thấy thú vị. Tôi nhận thấy có một khác biệt rất lớn giữa bộ phim "Six sense" và giấc mơ đêm hôm qua. Một trong sự khác biệt đó là khuôn mặt của người dương nhìn rất sáng và hồng hào. Còn người âm lúc nào nhìn củng đen tối cả.
Ngoài ra, cảnh vật trong giấc mơ của tôi lúc nào cũng tối tăm, so với cảnh vật trong bộ phim "Six sense". Ngoài ra những hình ảnh cảm giác, khi phát hiện và hiểu bản thân mình đã chết, rất giống nhau, nếu so sánh giữa cuốn phim và giấc mơ đêm qua. Tôi nhớ cái cảm giác khi biết bản thân mình đã chết, là một cảm giác bàng hoàng xúc động mạnh như một tiếng sấm sét đánh bên tai, hoặc như có một luồng điện cực mạnh, chạy xuyên qua người làm thân thể mình, bay bổng trong không gian như hạt cát bụi.
Càng suy nghĩ về giấc mơ, tôi càng thấy thú vị. Vì từ nhỏ cho đến lớn tôi đã từng đọc rất nhiều sách vở, kinh kệ, kinh thánh, Phim ảnh xinê, tài liệu phim ảnh được ghi âm, tài liệu ghi lại trên sách vở, những mẫu chuyện ma quái. Nhưng tất cả những điều trên vẫn không bằng cái cảm giác tôi đã có trong giấc mơ. Có thể và có rất nhiều người khi đọc những dòng chữ tôi viết, họ cười và chê bai. Họ cho những điều tôi viết là nhảm nhí vô bổ. Họ có thể cười lên cho những gì tôi viết là điên rồ mất trí. Họ có thể cười bò lăn bò lóc vì những điều tôi viết có vẻ huyền thoại mơ hồ như con nít.
Nhưng riêng bản thân tôi rất trân quí những gì tôi đã thấy, đã nghe trong giấc mơ đêm qua. Tại sao tôi lại suy nghĩ như vậy. Tại vì tôi nhận xét và cho rằng; Tôi phải đi đâu hoặc phải làm gì để tìm được những cảm giác, những hình ảnh cực mạnh độc đáo như vậy trên thế giới trần gian này. Tôi đã đọc rất nhiều cuốn sách thánh kinh và kinh Phật. tôi đã đọc biết bao nhiêu sách vở, phim ảnh tài liệu về thế giới vô hình. Nhưng tôi vẫn thấy không so bì được với giấc mơ đêm hôm qua của mình. Qua giấc mơ đó, không nhiều cũng ít, tôi đã biết thế nào là thế giới người âm, thế nào là thế giới người dương.
Thế nào hình ảnh và cảm giác của người âm khi giao tiếp với người dương. Thế nào hình ảnh và cảm giác giao tiếp giữa người âm và người âm. Nhờ giấc mơ này, tôi thấy và biết được một chút khái niệm về linh hồn của con người. Nhờ giấc mơ này cho tôi thấy và hiểu được linh hồn của con người sẽ như thế nào sau khi họ mới chết. Nhờ giấc mơ này giúp cho tôi hiểu được, hình ảnh và cảm giác của một người vừa trút làn hơi thở cuối cùng, bỏ lại sau lưng những hình ảnh tình cảm nồng nàn của cha mẹ, người yêu, con cái và anh em bạn bè.
Nhờ giấc mơ này, tôi không còn sợ hãi người âm hay thế giới người âm, như trong sách vở và phim ảnh thường hay nhắc nhở làm ám ảnh sợ hãi con người qua bao nhiêu thế kỷ. Chính vì những lý do trên, giúp cho tôi có sự kiên nhẫn, sự cố gắng, để ngồi xuống viết lại những hình ảnh, âm thanh và cảm xúc đã đến trong giấc mơ. Cho dù thế gian chê cười và ngạo báng. Riêng bản thân mình, tôi rất quí giá và nâng niu những hình ảnh, âm thanh và cảm xúc trong giấc mơ đêm qua. Vì tôi biết, cho dù tôi có bao nhiêu tiền đi nữa, tôi vẫn không mua được những thứ này trên cõi trần gian.
Bản thân và bản chất tôi là một người vô thần. Tôi nhìn tôn giáo và sách vở tôn giáo với một ánh mắt nghi ngờ. Tôi suy nghĩ và nhìn tất cả mọi sự vật qua con mắt khoa học. Tôi là một người nhìn cuộc đời, đời sống, rất thực tế và khoa học. Tất cả sự việc trong đời sống hàng ngày của loài người, đlều được thể hiện bằng con số tính toán. Bản thân tôi không hề tin tưởng một đấng bề trên thần linh nào cả. Cho nên trong mắt và dòng suy nghĩ của tôi làm gì có thiên đàng và địa ngục.
Giấc mơ đêm qua làm cho tôi suy nghĩ thật nhiều. Làm sao tôi chứng minh được những điều tôi thấy và nghe, trong giấc mơ qua lăng kính góc độ hiểu biết của khoa học? Làm sao tôi chứng minh những điều tai nghe mắt thấy trong giấc mơ, bằng những con số tính toán trên giấy trắng mực đen? Làm sao tôi chứng minh những điều trong giấc mơ có thể là sự thật?.
Dù sao đi nữa, tôi vẫn tin tưởng bản thân mình. Tôi tin tưởng những gì tôi đã thấy, đã nghe từ bên kia thế giới mà người đời gọi là thế giới của người âm. Qua giấc mơ này, tôi đã học được một điều quan trọng. Tôi tin rằng, ngoài kia vẫn có một thế giới của những người đã chết. Chỉ tiếc thay bản thân tôi không có đủ bãn lãnh khả năng để chứng minh những điều tôi đã thấy, và cảm nhận qua nhiều lần có duyên gặp gỡ người âm trong giấc mơ. Tôi đặt tên cho giấc mơ này là "Người về từ bên kia thế giới".
Phi Hải
Thanked by 2 Members:
|
|
#13
Gửi vào 05/06/2011 - 21:05
Không biết từ bao giờ đã có những lời xì xầm, đồn đãi về căn nhà tại góc đường Hazard và Euclid, nay đã bị san bằng, chỉ còn mảnh đất trống với ba ụ đất như gò mả chơ vơ. Nhắc tới căn nhà này, hình như ai cũng rợn tóc gáy, tránh né trả lời những câu hỏi vì sợ vạ lây hay xui xẻo. Thế nhưng, tôi đã chấp nhận làm phóng sự về căn nhà ma này, và về những vùng đất chết trên đường Euclid, dù từ nhỏ tôi rất sợ bóng tối và ít thèm nghe những chuyện kinh dị ma quái.
- Ở đó có ma!
Sự tò mò đã buộc tôi phải điều tra cho tận nguồn, xem thử đâu là hư thực. Đầu tiên tôi gọi một ông thầy bùa, tạm gọi tên là ThF, tôi đã quen từ lâu, tu theo Mật Tông Tây Tạng, đọc nói được tiếng Phạn Pali-Sanskrit, và biết xử dụng thần chú. Anh đã tu tập và luyện bùa quá độ, bị bùa phản, tẩu hỏa, bán thân bất toại, xuýt chết. Hiện nay anh tu thiền, sống ẩn dật. Tôi gọi anh ThF nói:
- Nhờ anh đi xem phong thủy tại một mảnh đất mà tôi tính mua để đầu tư.
Anh nhận lời. Xe tôi vừa mới lên đường Bolsa chạy về hướng Euclid, anh ThF đã nói:
- Em muốn mua mảnh đất trên đường Euclid và Hazard phải không?
Tôi ngạc nhiên, vì tôi chưa cho anh biết vị trí mảnh đất. Tôi chột dạ hỏi ngay:
- Sao anh biết?
Anh cười mỉm:
- Em muốn mua đất đó, dễ lắm, và chắc chắn em sẽ mua được với giá rẻ. Em trả giá cỡ nào họ cũng bán. Nhưng anh nói trước, ở đó có ma.
Tôi trả lời nhanh:
- Bởi vậy mới nhờ anh tìm cách trừ khử.
Anh ThF nghiêm giọng nói:
- Không dễ đâu. Có các Sư, Thầy, Linh Mục đã làm phép rồi, không đuổi chúng nó đi được. Mấy con ma ở đó dữ lắm.
Tôi hỏi tiếp:
- Vậy anh sẽ làm sao?
ThF:
- Anh thắp nhang cúng tế van vái mời chúng đi chỗ khác, nhưng không bảo đảm. Ở đất này, chỉ có thể xây chùa miếu, nhà thờ, đền thánh mà thôi, không thể ở hay làm ăn.
Khi đến nơi anh chỉ vào đất nói:
- Đó, em thấy chưa, căn nhà ma người ta đã ủi sập, để bảng bán bao nhiêu lâu, không ai dám hỏi tới. Chúng nó không cho mua bán đất này. Hễ ai nẩy ý định mua, nó sẽ hại. Có mấy người sắp sửa ký escrow, nhận giấy tờ, lăn đùng ra chết hay trúng bệnh nặng.
Tôi thấy bản For Sale với tên và điện thoại agent bán nhà, ghi vội, nhưng không dám gọi, vì sợ!
Có nên cười đùa với ma?
Vài tuần sau, có một cú điện thoại từ cụ Hoàng Hoán, rủ tôi đi coi đất để mua xây dựng công viên văn hoá, triển lãm các cổ vật và các tuyệt tác của Triều Nguyễn. Chúng tôi ghé đến Chùa Phổ Đà trên đường Euclid và Hazard trước. Các Thầy chỉ cho chúng tôi mảnh đất thuộc khu chợ A-1 FOOD trước đây, và một mảnh đất bỏ hoang cách đó mấy lô, đối diện mảnh đất nhà ma. Sẵn tiện tôi hỏi Thầy trụ trì về mảnh đất nhà ma:
- Thưa Thầy, nếu mua mảnh đất nhà ma để xây đền thờ Vua Hùng có sao không?
Thầy đáp:
- Có lẽ? không sao.
Ông cụ Hoàng Hoán lạc quan nói:
- Tôi không sợ ma quỷ. Nếu mua được mảnh đất này, tôi sẽ thỉnh rước tượng Đức Trần Hưng Đạo để chình ình giữa sân, thử coi có ma quỷ nào dám làm náo loạn không?
Nhưng hôm sau, tôi được biết ông cụ Hoàng Hoán bị bệnh, không nặng lắm nhưng đủ mệt nhọc, khiến cho ông suy nghĩ lại chuyện mua mảnh đất ma. Ba tuần lễ sau ông mới khỏi bệnh.
Thực hư thế nào?
Tôi tìm tới ông Trần Thế Ngữ. Ông kể:
- Tôi nghe người ta nói nhà đó có ma, không ai ở được. Cửa ngõ đóng mở tùy tiện, đồ đạc bị xáo trộn bất thường. Sau khi những người ở đó bỏ đi, dân homeless vào ngủ bị ma rượt chạy. Tối họ thấy ma ngồi trên nóc nhà. Không những người Việt Nam mà Mỹ, Mễ ở chung quanh đều sợ.
Khi tôi nói chuyện này với thầy Thích Tuệ Uy tại Tu Viện Hộ Pháp, Thầy ngạc nhiên nói:
- Chủ nhân của Điện Phong Thủy cách đó một block nói Điện Phong Thủy bị ma phá. Họ muốn bán rẻ cho Thầy cất chùa. Hiện tượng ma phá, không chỉ ở mảnh đất góc đường Euclid và Hazard, mà dọc đường Euclid chạy dài xuống đường Bolsa.
Ma dọa người?
Tôi đếm ít nhất là tám lô đất bỏ trống, trên ba block đường, từ Hazard đến Bolsa. Những vùng đất chết này khô cặn và trơ trụi như sa mạc giữa lòng phố. Tôi phải trở lại ba lần mới chụp được hình. Lần thứ nhất, máy camera tôi bị rớt vỡ, khi tôi bước xuống xe chuẩn bị chụp hình. Lần thứ hai, xe Toyota Sienna đời 2004 mới toanh của tôi, bị đụng nặng trên đường đi tới. Lần thứ ba, tôi xuýt bị xe đụng trong lúc đi bộ qua đường Euclid.
Không biết là tôi bướng hay là ma ngoan cố? Nhưng tôi nghĩ phải can đảm, tìm hiểu về hiện tượng ma quái này, và giải oan cho các vong hồn, đang khắc khoải xung quanh khu vực này. Tôi ghé quán cà phê Trung Nguyên ba giờ chiều, trong quán "không thấy có con ma nào hết". Nhân viên nhiều hơn khách. Hai cô bán hàng tiếp tôi. Một ông khách sồn sồn ngồi nhâm nhi ly trà đá.
Tôi vào vấn đề:
- Mấy em có nghe về nhà ma ở góc đường Hazard không? Có ảnh hưởng đến business ở đây không?
Một cô nhanh nhẹn trả lời:
- Em có nghe chỗ đó có ma, nhưng em đâu có sợ, tụi em là quỉ rồi!
Tôi hỏi tới:
- Nhưng mà vắng vẻ thế này, làm sao kiếm được tiền?
Cô trả lời:
- Không phải vậy đâu, tối có khách lai rai, chỉ vì ít chỗ đậu xe thôi.
Cô nói bào chữa cho sự ế ẩm nên tôi vẫn bán tin bán nghi. Tôi băng qua đường đến nhà hàng Huế, thấy cũng vắng khách. Bàn thờ Ông Địa và Ngài Quan Công ngay ngắn. Khi cô tiếp viên đến bàn, tôi gọi ly sinh tố trái cây và nhập đề ngay:
- Tôi thấy phong thủy ở đây không thoáng lắm, không biết tiệm có khá không?
Cô tiếp viên nói:
- Ở đây ban ngày ít khách, nhưng tối đông nhờ có các bàn nhậu. Em cũng mới làm một tháng, không rõ lắm.
Little saigon bị kẹp hai phía bởi vùng đất chết?
Tôi rời khỏi tiệm khoảng sáu giờ chiều, trời mùa thu bắt đầu tối dần. Tôi chụp thêm vài tấm hình, vừa đi vừa đếm các căn nhà và các lô đất. Trong chu vi ba block có ba nhà thờ, một chùa và một điện phong thủy. Nhiều cơ sở tâm linh, tôn giáo hơn mọi nơi. Tôi ghé thư viện lục tìm các bản đồ, và các sách vở về thành phố Westminster, Garden Grove, Santa Ana và các vùng phụ cận. Những sử liệu cho thấy, khu vực này, trước đây vài chục năm là những vườn cam, bãi dâu, nhưng trước đó hai ba trăm năm, là tụ điểm của các bộ lạc người da đỏ.
Một anh bạn nghiên cứu về dân tộc học đã từng nói với tôi là khu vực này người da đỏ đã dùng làm nghĩa trang (Indian burial ground). Họ đã trù ếm đất ở đây, sau khi người Tây Ban Nha và người da trắng xâm chiếm đuổi họ đi. Tôi tìm bản đồ mới, so ra mới biết rằng vị trí của mảnh đất ếm ở phía đông, và nghĩa trang Peek Family Funeral Home ở phía tây. Khu phố Little Sàigòn bị khống chế không gian hai mặt đông tây, bằng hai vùng đất chết kèm kẹp hai bên.
Phố chợ Little Saigon chỉ phát triển về hướng bắc hoặc nam. Về phía nam là Huntington Beach, Fountain Valley. Nhà địa ốc lỗi lạc Triệu Phát đã dời văn phòng trên đường Bolsa, về đường Magnolia ở Huntington Beach. Trùng hợp? Ca sĩ Lê Uyên mở Lup ở điểm cực bắc của Little Sàigòn, trên đường Brookhurst và Pavillion Way, thuộc thành phố Garden Grove.
Trùng hợp? Các business của người Việt Nam trên đường Euclid và Beach, hai biên giới của khu phố Little Sàigòn, đều gặp khó khăn, Trùng hợp? Xem ra thì câu chuyện nhà ma này không đơn giản, không chỉ là chuyện hù trẻ em nhân dịp Halloween. Đó là khởi điểm cho một cuộc tranh luận to lớn hơn: Little Sàigòn sẽ đi về đâu?.
Đỗ Vinh
#14
Gửi vào 05/06/2011 - 22:13
Thực ra chuyện căn nhà ma ở ngả tư Euclid và Hazard tôi nghe qua lâu rồi. Trước giờ tôi đi ngang đó cũng đâu thấy gì lạ. Khoảng từ năm 95 đến năm 2000 tôi đi delivery đồ dryclean mỗi ngày, tiệm cuối cùng trong chuyến là tiệm B & M đối diện chợ VanCo Food, ngay ngả tư Euclid & Westminster. Mỗi buổi chiều xong công việc thì đã chạng vạng tối khoảng đâu tám giờ hơn. Từ B & M ra, tôi chạy dọc xuống Euclid đến Hazard quẹo phải rồi về nhà. Năm năm liền không chuyện gì xãy ra.
Thực ra nghĩ lại thì thấy có hai chuyện xui xẻo, xãy ra ngay tại góc đường đó. Lần đầu tiên là đi ngang khúc quẹo vườn dâu trên Hazard, có một cái rãnh lúc nào cũng ướt, do người ta phun nước tưới cây dâu mỗi ngày. Tôi chạy qua đó cả ngàn lần rồi mà. Một tối kia về hơi trễ, hông hiểu ma lực nào quẹo bánh xe phải rớt vô ngay cái rãnh đó, để bị cấn đáy xe nghe kộp một cái, tưởng hư luôn cũng hên chỉ bị nứt nhẹ chổ nào đó, mà từ đó về sau xe cứ bị chãy nhớt máy hoài. Chuyện đó tôi tự bảo do mình chủ quan lái xe bất cẩn coi như bỏ qua.
Lần thứ hai là bị police phạt ticket, mà đến giờ tôi vẫn thấy rất ư là...vô duyên. Hôm đó sau khi exit ra khỏi khu tiệm B & M, thì tôi chạy trên Euclid xuống Hazard như mọi đêm, thấy có xe cảnh sát chạy trước nên hơi sợ, chạy từ từ sau nó một khoảng, thấy nó quẹo phải đường Hazard. Tôi thấy mình cũng đang chạy bình thường không phạm lỗi gì, nên chầm chập quẹo sau nó rồi đi thẳng trên Hazard.
Nhưng xe cảnh sát đó đã tấp ngay vào lề đường chổ vườn dâu. Rồi đợi khi xe tôi vừa pass qua, nó lập tức phóng theo, bật đèn lên kêu tôi ngừng lại rồi cho ticket, cái tội nãy giờ dọc trên đường Euclid đã dám bám sau xe cảnh sát, quá gần "unsafe following distance"? Một lỗi nói ra không ai tin, vì hể thấy xe cảnh sát thì phản xạ tự nhiên, là ai cũng chạy từ từ lại rồi tránh xa, chứ ai mà dám chạy lại gần, lại bám sát nút nó làm chi? Rõ ràng là không đâu vào đâu.
Nhưng thôi coi như tối đó mình lơ đễnh đi. Hai chuyện đó cũng không nhằm nhò gì, với chuyện vừa mới xãy ra tối khuya hôm qua. Trước giờ tôi vốn không có mê tín dị đoan, xem phim ma thì thấy rợn rợn người ngay lúc đó, vì âm thanh ánh sáng họ làm hấp dẫn quá, chứ bước ra khỏi rạp là đâu tin nữa. Nhưng chuyện khuya hôm qua là sự thật, cái digital camera là mượn của thematrix, cùng đi thám thính với tôi còn có một VCFer nữa, giờ ngồi đây nghĩ lại còn thấy rùng mình.
Chiều qua khoảng tám chín giờ tối, tôi lại nhà một người bạn chơi, tạm gọi là Tân. Tân cũng là một VCFer active, một thời trong DeeEssEss forum, nhưng giờ thường chỉ đọc chứ hông có tham gia discuss. Sẳn ngày lễ hình như trước đó anh của Tân, là anh văn, có tiếp đón bạn lại ăn uống gì còn vài chai beer trên bàn. Thấy vậy hai đứa lai rai mỗi thằng một chai rồi bàn chuyện trên trời dưới đất. Dóc láo một hồi xoay qua chuyện căn nhà ma góc Euclid và Hazard vì Tân với tôi theo dõi msg trong VCF board thường xuyên mà.
Tôi nói:
- Chắc là xạo anh Văn ơi, làm gì có ma, chắc tại đất đó hét giá mắc quá hông ai thèm mua.
Tân nói:
- Ừ, khu này đông người làm gì còn ma.
Anh Văn tham gia vô:
- Thà là tin còn hơn hông.
Tôi nói:
- Ê! hay là tối nay mình xách sleeping bag ra đó ngủ Tân
Tân nói:
- Mà đâu có được Hải (tôi) khu đó người ta rào lại hết trơn rồi.
Anh Văn:
- Tụi bây mà dám.
Tôi nói:
- Thì mình nằm ngoài lề đường.
Tân tiếp theo:
- Nói vậy cũng hông đúng, giả sử có ma, Hải nằm đó làm sao thấy ma.
Tôi nói:
- Sao lại hông thấy, người ta đồn mấy thằng homeless nằm ngủ trong đó, bị ma nhát chạy hết hông thằng nào dám ở đó, thì mình đem sleeping bag ra đó nằm giống tụi homeless thôi.
Tân nói:
- Bởi vậy mới nói, tụi homeless nó vô nằm trong nhà mới thấy ma, còn mình nằm ngoài cũng giống người ta đi qua đi lại ngoài đường, hay như mấy nhà hàng xóm sát bên đó, họ cũng ở đó bình thường mà, làm sao mà Hải thấy ma được.
Tôi nói:
- Ờ há, có lý, à hay mình mượn thằng Bthematrix, cái digital camera tối nay chạy một vòng khu đó chụp hình xem sao, biết đâu chừng hiện lên gì hông man ? chụp vài tấm cho anh em trên VCF coi nữa, bài báo posted nói ông nhà báo nào đó bị rớt camera rồi bị tông xe tùm lum, thử coi sao man?
Tân nói:
- Ừ, đúng rồi, đi thử coi, ma cũng từng là người thôi, mình đâu làm gì ma đâu mà sợ, ok đi qua nhà thằng B mượn cái camera, xong rủ nó đi luôn.
Tụi tui lấy áo lạnh mặc xong, tôi chở Tân ra Starbuck trên Brookhurst & Edinger, mua hai ly Toffee Nut Frappucino uống cho tỉnh đêm nay, sẳn ngồi bàn thêm một lát nữa, lát sau đã mười một giờ hơn, quán bắt đầu đóng cửa. Hai đứa chạy qua nhà thematrix, trên đường qua nhà thematrix, thì tôi có gọi về cho ViT_Quay rũ đi chung, nhưng ViT_Quay từ chối vì buồn ngủ, hum.. mọi khi chơi CS đến hai, ba giờ sáng còn tỉnh như sáo đâu có sao.
Đến nhà thematrix, thematrix đưa cái máy cho mượn xong rồi cũng buồn ngủ quá giống ViT_Quay kệ đi, nãy giờ hai đứa tụi tui đã bàn với nhau, mình vốn đâu có tin là có ma, với lại cho dù là có ma đi nữa, tụi tui lại thăm ma thì ma càng vui, ở một mình lâu ngày chẳng chán sao? Có người tới chơi với ma thì ma càng khoái, biết đâu chừng ma giúp mình chuyện khác thì sao? Ok quyết định vậy đi, ra đó chụp hình về cho anh em VCFers coi chơi.
Trên đường đi, tôi lái rất cẩn thận, sợ bị đụng gì chắng qua do mình lái ẩu, làm sao đổ thừa cho ma được, nhà B tuốt tận Huntington Beach, đến lúc quay lại gần khu Euclid & Hazard, nhìn lại đồng hồ cũng đã gần mười hai giờ khuya, đến nơi an toàn chắng có gì đặc biệt xãy ra trên đường đi. Dĩ nhiên đêm khuya đường phố vắng vẻ, chắng còn ai đi ra đường vào giờ này nữa, trừ hai thằng tụi tui, khí hậu Nam Cali những đêm cuối đông, lạnh se se cộng với những ngọn đèn đường hắt ánh sáng vàng vọt, làm khung cảnh càng thêm lạnh lùng ảm đạm.
Nhưng tụi tui vốn không sợ mà, rút digital camera ra còn cẩn thận móc dây vào tay trước, sợ khi tối trời vấp phải ô đất nào chúi về trước, rồi không khéo chẳng phải là chính mình làm vỡ camera sao? Hai đứa còn cười vô tư nhắc lại mấy cái post trong VCF, nào là ông thầy này tính mua mà hông được, rồi anh chàng kia chạy qua không dám nhìn vô, chấp tay niệm Phật nhấn gas chạy miết. Hình chụp bên ngoài hàng rào thực ra lúc đó bốn bề tăm tối, nhờ có flash mới sáng vậy, nhưng nãy giờ chẳng có gì xảy ra cả, nên tôi lúc này còn giơ hai tay number one cười "hê hê hế".
Bạn tôi thì dạng tay dạng chân, ngôi nhà ma giờ đã bị sang bằng thành một khu đất trống "ba ngôi mộ" tôi thấy thực ra chỉ là ba miếng đất nhô cao hơn chung quanh một chút, lúc đó tôi đoán là Power line hay Gas line, họ làm dấu cao hơn để mai mốt quay lại build nhà tìm cho dể thấy. Nãy giờ cũng chẳng có xãy ra, bốn bề tĩnh mịch tụi tui tính rút cho rồi. Ngoài trời tuy không gió, nhưng tự nhiên cảm giác như càng ngày càng lạnh hơn, tôi nghĩ chắc mình hông quen đi đêm khuya, đứng nãy giờ ngoài này lâu rồi thì dĩ nhiên bị lạnh.
Hai đứa bảo nhau về thôi. Hai thằng băng qua đường trở lại chiếc xe, đậu bên kia đường Hazard trong parking, chổ người ta bán dâu trước vườn dâu, chụp một hai tấm nữa làm kỹ niệm, và post lên cho anh em VCFers coi chơi rồi đi về. Ngay lúc đó từ bên kia đường, bỗng nỗi lên những tiếng động lạ thường, giống như có người lay cái hàng rào sắt bên kia.
Rào...rào...rào
Rồi như người ta cầm một thanh sắt nho nhỏ, vừa đi vừa quẹt vào hàng rào sắt phát ra những tiếng
Leng keng... leng keng...
Lúc đó trời không hề có một ngọn gió. Hai đứa bàng hoàng nhìn qua bên kia đường, thì thấy hàng rào sắt đong đưa đong đưa, mặc dù không thấy ai hết và không hề có gió gì cả. Xin tạm ngưng ngang câu chuyện, để hỏi các cao thủ chuyên chụp digital camera một câu là: như các bạn nhìn thấy ở tấm hình cuối cùng trên này, tại sao trong hình lại có những vòng tròn mờ mờ, vòng to vòng nhỏ, ở khắp trong hình, tôi thề luôn là không hề dùng Photoshop edit những tấm hình này, các bạn hãy nhìn kỹ những tấm khác mình chụp ở trên nữa, thì thấy những tấm lúc đầu, hầu như KHÔNG có những vòng tròn này.
Hoặc có tấm có vài chấm, nhưng nếu không xem kỹ sẽ không thấy. Ban đầu tôi và bạn tôi sau khi về nhà lấy hình ra xem, thì cho là dust trong lense, nhưng so với những tấm hình khác lại thấy lạ, là tại sao nó lại hiện ra randomly cho mỗi tấm hình, đâu có ở cùng một vị trí đâu? Tấm này là lúc có tiếng động lạ thường, và nỗi lên nhiều hình tròn và rõ ràng nhất, những tấm hình sau này, thì những vòng tròn xuất hiện thường xuyên, hơn lúc mới tới nữa, nhưng không nhiều và rõ bằng lúc này.
Suốt khuya hôm qua tại hiện trường thì không thấy, chỉ có hiện ra trong hình thôi. It's really weird, nhưng tôi vẫn hy vọng là có một lời giải thích khoa học, ánh sáng ban đêm? hay chuyên môn kỹ thuật digital camera error? cho chuyện này. Bởi vì những gì xảy ra sau đó còn dị thường hơn nữa, nãy giờ hai tụi tui đã đi vòng quanh cái hàng rào, nhìn vô đâu thấy gì ở trỏng, nên tính bỏ đi rồi, giờ sao lại có âm thành kỳ quái nổi lên từ hướng bãi đất trống, thật là lạ quá !
Hai thằng lúc đó bắt đầu thấy hơi sờ sợ, ok, thực ra thì tôi biết là chính mình thấy lạnh gáy, chứ anh bạn Tân kế bên suy nghĩ gì thì tôi sao biết được. Ý nghĩ đầu tiên là có lẽ có người nào đó, ở trong ngôi nhà trong vườn dâu, hoặc nằm trong cái hộp gỗ bầy bên ngoài để bán dâu, họ thấy có tiếng người rồi lục đục mở khóa, bước ra dòm xem coi có ai đến phá phách gì hông. Nhưng không thể, vì rõ ràng là âm thanh lạ được phát ra từ bên kia đường Hazard. Tuy vậy tụi tui cũng quay qua nhìn cho kỹ khu vườn dâu, rõ ràng là hông có ai, và hàng rào vườn dâu thì đứng trơ trơ đó, không hề lay chuyển gì hết. Âm thanh quả thực từ bên kia khu nhà ma phát ra.
Tụi tui quay nhìn về hướng bên kia đường, và thấy hẳn là cái hàng rào sắt kia có lay chuyển đôi chút, tui kêu Tân, đang cầm máy chụp cảnh tôi và chiếc xe vì sắp đi về, chụp liền để làm chứng hiện tượng lạ. Rất rất rất rất tiếc, đây chỉ là máy digital camera chứ hông phải video camera, để quay lại sự chuyển dịch của cái hàng rào sắt kia, và cũng hông thể ghi lại những âm thanh quái dị lúc đó. Kể ra thì dông dài nhưng những sự kiện có tiếng động lạ, rồi nhìn quanh vườn dâu xem có ai hông, rồi những tấm hình bên kia đường xảy ra rất nhanh.
Sau đó không ai bảo ai hai đứa từ từ bước về hướng bên kia. Lúc đó hai thằng quả quyết chắc chắn là tiếng động, phát ra ngay từ hàng rào bên kia chứ không thể nơi nào khác. Một ý nghĩ khác thoáng qua trong đầu là, có thể trong hàng rào bên kia có một cái lều, hay gì đó có người ở, có thể là tụi homeless chui vô kia ngủ, thấy có người đến họ giả ma cho người ta sợ, để họ còn có chổ trú ẩn.
Vì thực sự lúc đó trời tối lắm, ánh đèn đường thì hiu hắt, vàng vàng không có rõ chút nào, chụp hình nhờ flash mới thấy sáng lên tí vậy thôi, và như các bạn có thể thấy chung quanh toàn là bóng tối. Có thể đã có người trong khu đất trống nãy giờ, có thể even họ nằm ngay giữa "ba nấm mồ", mà tại tối quá tụi tui đã không thấy. Một ý nghĩ khoa học khác nữa là, có thể có người chơi đùa gắn hệ thống motion sensor gì đó, hể tối khuya có người đứng gần hàng rào, thì thay vì bật đèn như những cái đèn chúng ta gắn quanh nhà, thì hệ thống này sẽ bật những cái speakers, nho nhỏ phát ra âm thanh ghê ghê hù người ta chơi.
Tôi đã đọc qua những chuyện như vầy rồi. Người ta làm vậy để dấu của, hoặc để phá chính chủ khu đất rồi mua lại đất với giá rẻ. Thời buổi này chế một hệ thống như vầy đâu có mắc. Chắc Tân bên kia cũng suy nghĩ giống vậy. Cộng thêm sự tò mò với lại nãy giờ cũng chưa có gì ghê gớm, nên hai đứa băng qua đường trở lại xem sao. Biết đâu chừng "phá án" một vụ lừa đảo bà con vùng Little SàiGòn từ trước tới giờ. Lúc bắt đầu bước xuống đường thì có tiếng: Lạch cạch.. lạch cạch rồi lại Leng keng.
Tiếng động xểnh xoảng như tiếng kim loại đụng vào nhau từ những mắc trong sợi dây xích phát ra. Tân và Tôi băng qua đường rồi, và đi vòng vòng trên Euclid hướng xuống Bolsa, vì mặt Euclid này là đường lớn có nhiều đèn và sáng hơn chút xíu, nhưng không thấy gì đặc biệt. Lúc đó tiếng động cũng đã ngưng rồi. Hai thằng quay ngược trở lại và từ từ mò dọc theo Hazard hướng xuống Bushard, mắt nhìn vào trong bãi đất trống tối tăm, nhưng tuyệt nhiên không thấy di chuyển gì trong đó, tay thì mon men cái hàng rào sắt lạnh lạnh, bấy giờ sau gáy cũng lạnh lạnh, lưng thì hơi hơi rướm mồ hôi rồi, nên từ từ thấm lạnh xuống toàn thân.
khi tụi tui đi xuống cuối cái hàng rào, thì cả hai cùng sững sờ nhận ra cái hàng rào sắt đã được mở tự bao giờ? Mặc dù chỉ vài phút trước đó, Tân và tôi đã đi vòng qua vòng lại cái hàng rào đó nhiều lần, tìm cách vào trong. Mong chụp cho bằng được tận cảnh hình "ba ngôi mồ", mà tụi tui cho là chỉ là ba ụ đất, và chẳng có gì huyền bí trong bãi đất trống này cả. Hầu để chứng minh rằng những lời đồn đãi chỉ là trò bịa đặt. Hai thằng còn nghĩ tới việc dồn nhau lên đặng trèo vào, nhưng thấy hàng rào cao quá, với lại cũng sợ cái vụ trespassing gì đó, lỡ bị người ta kêu cảnh sát tới thì sao?
Nhưng thật lạ lùng là cánh cửa đã được mở ra tự bao giờ, và dây xích sắt được khóa lại nằm ngay ngắn vào một bên, như vậy phải chăng tiếng động hồi nãy là đã có "người" nào đó cầm chìa khóa ra mở ổ khóa này? Tụi tui bán tin bán nghi, cho là có lẽ do hồi nãy mình hồi hộp quá, lại sợ tội tresspassing nên đã không nhìn kỹ, là ổ khóa xích sắt đã được mở ra trước, chứ không phải là điều huyền bí gì cả. Và tụi tui cũng đã nghe qua nhiều người có gan, không tin vào chuyện ma quỉ, nói có từng đi qua khu nhà này, tò mò muốn vào xem thực hư, nhưng cửa lúc nào cũng bị khóa lại vì thế không vào được.
Thế bây giờ hoàn cảnh hai thằng tui, khác nào như có người ra mở cửa mời mình vào nhà chơi. nhưng cũng nghe nhiều câu chuyện, không may mắn xãy ra cho những người tìm cách mua nhà, và những người homeless ngủ trong nhà, sợ thì có sợ rồi đó, thế nhưng đã có công đi tới đây, cửa đã được mở,... chẳng lẻ lại phụ lòng "người ta"...đã đến nước này rồi thôi thì một liều ba bảy cũng liều.
Thiệt tình, lúc đó tôi cũng phân vân lắm, nữa muốn kéo cửa vô đại, nữa muốn bỏ lên xe chuồn về cho rồi. Những mẩu chuyện về những ngôi nhà ma, những bãi đất hoang, nấm mộ sau vườn của NNN download từ trên VCF, lướt qua trong suy nghĩ. Những hình ảnh ghê rợn đó từ trong tiềm thức nhào ra, chạy lộn xộn trong đầu tôi. Bãi đất trống này hội tụ đủ những điều kiện của một câu chuyện ma. Câu nói "thà tin còn hơn không" cứ văng vẳng bên tai. Rồi hình ảnh kinh dị của cô bé bị chôn sống dưới giếng, trong phim The Ring hiện về. Họ đã yên mồ yên mả sao còn vô đây quấy phá làm gì.
Biết đâu chừng sự đường đột này, sẽ khiến ma lực huyền bí nào đó dưới ba ngôi mộ kia xuất hiện, và sẽ quấy nhiễu tôi, gia đình tôi, rồi cộng đồng Việt Nam ở Little SaiGon, hay bất kỳ ai tò mò đặt tai nghe về câu chuyện, hệt như trong phim thì sao? Rồi chuyện về những người hiếu kỳ tới đây tìm hiểu, bị điềm chẳng may xãy ra như rớt máy chụp hình, bị đụng xe, lâm trọng bịnh. Rồi có những con người gan dạ cá cược với nhau, nhưng lần nào tới cũng thấy một ổ khóa to đùng ngay trước cửa, đành thôi tiu nghỉu quay về. Họ đã không vào tới bên trong được, nhưng ít ra họ cũng có mạng quay về. Trước nay toàn nghe chuyện không hay xãy ra cho những người đến đây.
Từ xưa đến giờ nào có ai đến rồi hí ha hí hững đi về nói lại "ê mày, trong đó vui lắm, đi thử cho biết đi!" Mà tại sao đến phiên tụi tui cánh cửa lại mở ra một cách thần bí như vậy? Trong đầu mỗi chúng ta đều có hai dòng suy nghĩ trái ngược. Ngay khi chúng ta đang việc từ thiện, một hành động nhân đạo, vốn biết đó là một chuyện tốt đi chăng nữa, vẫn có một tên nào đó ngồi trong đầu cười khinh khỉnh "hehehe, đúng là vô công rổi nghề, ăn cơm nhà vác ngà voi" hay "hahaha, làm chỉ để người khác nhìn vô thấy, rồi khen sao nhà ngươi tốt quá".
Hay lúc chúng ta đang làm chuyện xấu xa, độc ác, thì cũng có một lương tâm cắn rứt, suy nghĩ rằng làm xong mai sẽ đi ăn chay, hay đi sám hối chuộc lại lỗi lầm. Có hông? Tôi đoán trong tâm ai cũng có hai cái tư tưởng nghịch nhau vậy. Thì tôi hiện giờ khi đối phó với chuyện này cũng rất phân vân vậy. Tôi sợ nhưng cũng muốn vào, để chụp một tấm hình, chứng tỏ mình đã không nhát gan như những người khác. Nhưng lại không biết chuyện mình làm sẽ có kết quả gì. Nếu không may xảy ra cho mình thì hông nói gì, còn chỉ vì tò mò mà mệnh hệ gì, thì gia đình người thân lo lắng, có phải là liên lụy đến mọi người hông nào? Hậu quả không lường trước được.
Nhưng mà, bản chất hiếu kỳ muốn tìm hiểu lại dâng lên. Văng vẳng bên tai tôi nghe như có ai mời gọi:
"...vào đây chơi"
..."vào đi, vào đi, vào đi"
... ... "thôi vào đi mà"
Chợt nhớ hôm nao ở Việt Nam, có những khu vực đã được dựng bảng cảnh báo rồi, người quen khuyên nhủ là có đầy dẫy ma túy xì ke, còn dám xách xe Honda chạy ngang. Chẳng lẻ bây giờ ở đây chỉ là một bãi đất trống, mà mình lại không dám bước vào. Tôi quay lại nhìn Tân, có phải là Tân vừa dụ tôi vô không. Nhưng lúc đó rõ là Tân đang nghiến răng, gương mặt Tân cũng phân vân, cặp mắt dao động nao núng hệt như tôi.
- Vậy ai vừa kêu tôi đó!
Càng về khuya quang cảnh càng tĩnh mịch. Đã không còn thấy xe cộ nào chạy ngang qua đây. Lúc bấy giờ trời đổ lạnh lắm rồi. Hay là mồ hôi tôi đổ ra nhiều quá ? Cũng chẳng biết nữa. Giữa những giây phút sợ hãi đó đột nhiên tôi nhớ lại lời hát:
Anh đến thăm em đêm ba mươi
Còn đêm nào vui bằng đêm ba mươi
Anh nói với người phu quét đường
Xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em.
Tôi thầm nghĩ. Ừ, mình đâu phải đi đào mồ đào mả ai, ăn cắp vàng hoặc luyện bùa thiên linh cái gì đâu. Nhớ lại trên đường đi, hai đứa đã quan niệm là đến đây để thăm ma mà, tôi xốc chiếc áo khoác lại, mạnh dạn kéo cổng ra, quay lại cười trấn tĩnh Tân. "Hừm...đêm nay trời tối không trăng không sao, khác nào đêm ba mươi trong bài hát" tôi thầm nghĩ, tôi nháy mắt với Tân, chụp cho một tấm hình làm bằng chứng, đã đi vào khu nhà ma đêm nay.
Sau khi chụp xong tấm hình, tôi quay lưng lại từ từ đi vào trong bãi đất ma, tôi nghe tiếng chân của Tân nhè nhẹ sau lưng, tụi tui từng bước từng bước một tiến tới ba ngôi mộ ở ngay chính giữa bãi đất ma. Tôi có thể cảm nhận được mặt đất dưới chân mình, chổ lồi chổ lỏm chứ không bằng phẳng. Cách đây vài năm người ta đã vội vàng kéo sập ngôi nhà ma, rồi từ đó đến nay bãi đất này được bỏ
hoang như vậy. Không có ai chăm sóc, cỏ dại mọc lan tràn ra. Đèn đường chỉ chiếu tí ánh sáng mờ mờ ngoài hàng rào, chứ đến vòng trong này, thì hầu như không thấy rõ gì cả.
Hai thằng im lặng dọ dẫm đi trong bóng tối, tôi hông nói gì, Tân cũng hông nói gì. Có thể nghe được tiếng thở phì phò của nhau, phần vì hồi hộp và phần thì trời lạnh nên khó thở. Mặc dù chung quanh bãi đất này, đều có những căn nhà khác, nhưng lúc bấy giờ bốn bề đều im phăng phắc. Giữa không gian vắng lặng này, tôi cảm giác như có một làn hơi lạnh, từ trong xương tủy lạnh ra. Cộng thêm cái lạnh bên ngoài nữa, làm tôi cũng hơi run run.
Chợt nghe như có những âm thanh xì xào, nho nhỏ nỗi lên chung quanh tôi, mặc dù tối đó hoàn toàn không có gió. Rồi những tiếng xì xào đó lại thôi. Thêm vài bước nữa tôi chợt muốn quay phắt trở ra ngoài ngay, chẳng muốn bước vào thêm bước nào nữa. Nhưng có Tân đi bên cạnh, tôi cũng an tâm lại phần nào. Vả lại đến nước này mà quay về, cũng hơi quê với Tân, lưỡng lự rồi chậm chạp nhấc thêm một bước. Trời lúc đó tối...tối lắm, càng ngày tôi càng đi chậm lại vì sợ té và sợ ma .
Tưởng cũng lâu độ chừng vài phút, hai thằng mới tới được giữa bãi đất ma, mặc dù khoảng cách từ cổng vào đây chỉ chừng mươi mét. Hai thằng đứng yên lại một hồi lâu để cảm nhận, tôi thấy lưng và hai bàn tay mình mồ hôi ra nhiều rồi, ươn ướt và lạnh sao đó. Cổ họng thì nghèn nghẹn và khô khô. Cảm giác sợ hãi xen lẫn với sự vui sướng chinh phục được đỉnh cao mới, đó là dám làm những gì mà trước giờ ít ai làm qua. Đột nhiên tôi nghe tiếng lách cách phát ra sau lưng mình, và có một tia sáng lóe lên giữa bóng đêm.
Giựt mình tôi quay lại, Tân yên lặng chụp hình, tôi định thần nhìn kỹ. Qua tia flash từ máy digital camera, tôi chợt nhận ra ba miếng đất nhô lên, quả thật mang hình ba ngôi mộ, với cỏ hoang mọc leo cả lên trên. Không một dấu hiệu gì giống như là để làm dấu Power line hay Gas line cả. Hai trong ba ngôi mộ nằm song song với nhau, còn một ngôi mộ nằm riêng ra một phía.
Hai ngôi mộ gần nhau thì dài và lớn hơn ngôi mộ kia. Cả ba quây quần lại thành một vòng tròn ngay giữa bãi đất ma. Giống như đây là một gia đình có hai người lớn và một em bé. Giữa bãi đất trống tại sao lại có ba ngôi mộ này? Xin thú thật với các bạn, khi type những dòng này đã là hơn hai giờ sáng. Mặc dù đã ba, bốn ngày trôi qua, nhưng khi ngồi đây nhớ lại chuyện xãy ra khuya hôm đó, tôi vẫn còn cảm thấy sởn gai ốc. Đôi lần tôi gọi điện thoại cho Tân, nhưng Tân đều tránh né chuyện này. Hể tôi vừa hơi nhắc đến thì Tân cứ khăng khăng không muốn bàn tới, cứ nói tôi "thôi đừng nhắc chuyện này nữa".
Vì những chuyện kế tiếp thật là kỳ bí và khiếp đãm quá. Nhà đang bật heat mà tôi thấy lạnh xương sống và nổi da gà. Có thể làm kinh hãi nhưng người mang bịnh yếu tim hay nhạy cảm. Những điều xảy ra sau đó thật là kinh dị có cả sự chết chóc. Nhớ lại lúc trên đường đi, còn nói chuyện rôm rã, chứ thiệt tình hồi ra đây đến giờ, hầu như hai đứa yên lặng. Nhất là sau khi tụi tui tính đi về rồi hàng rào run lên xoàn xoạt, như mời gọi tôi trở lại, thì chắc luôn là chưa tên nào hé miệng nói với tên kia điều gì. Hai đứa chỉ liên lạc bằng ánh mắt bằng cử chỉ.
Nhưng rõ là có lúc tôi cảm thấy như tôi "nghe" được ý nghĩ của Tân, mà Tân hông hề hé môi gì cả, và hình như Tân cũng vậy, tôi suy nghĩ mông lung nhiều lắm, giờ cũng chẳng nhớ lúc đó mình nghĩ gì nữa. Sau một hồi tụi tui đi tản ra xung quanh ba ngôi mộ dò xét. Cũng hông thấy hiện tượng gì đặc biệt cho lắm, tụi tui nhìn nhau ý "nói" thôi đi về. Hai thằng lầm lũi bước lại cánh cửa. Cả hai cùng thẫn thờ...không thốt lên được tiếng nào...cánh cửa đã...đã được đóng lại từ bao giờ!
Hai thằng sững sờ nhìn cánh cửa đã được khép lại tự lúc nào... Tân nhìn qua tôi, tôi nhìn lại Tân. Tôi thấy miệng Tân há hốc ra, tôi thì nhớ rất rõ là mình bước vào trước rồi Tân mới theo sau. Thế nhưng sau đó tôi không hề nghe tiếng Tân đóng cửa lại. Qua ánh mắt của Tân, tôi nhận ra ngay Tân xác nhận điều đó. Và ý chừng như Tân hỏi lại tôi "có phải Hải quay lại đóng cánh cửa giởn chơi hông?"
Nhưng rồi Tân đọc được và hiểu ngay trong ánh mắt sợ hãi của tôi là "không phải". Và rõ là nãy giờ hai thằng đi kế bên nhau, vào chổ ba ngôi mộ mà. Bấy giờ hai đứa ngỡ ngàng cùng một ý nghĩ: Thế ai đã đóng cánh cửa này? Trong lúc tụi tui còn đang bàng hoàng, không biết nên làm gì thì...giữa không gian im lặng như tờ, hai thằng càng thêm hoảng hốt khi chợt nghe sau lưng vọng lên một tiếng kêu thật thảm thiết.
Hai thằng giựt bắn người, quay lại nhìn ra sau lưng. Trời ơi! Giữa bãi đất tha ma là một con mèo đen nằm phục lên trên ngôi mộ nhỏ. Con hắc linh miêu giương cặp mắt xanh lè lên, nhìn hai đứa tụi tui kêu thật ai oán Meeeeeooo...Meeeeeooo... Tôi run lên vì sợ, hai thằng tranh nhau chạy lại mở cửa thoát thân, tôi thấy Tân đụng vào chốt cửa rồi nhưng lại giật mình quay lại, tôi đoán là Tân tính chụp thêm, một tấm hình con mèo này nữa làm chứng rồi mới chạy ra.
Nhưng riêng tôi thì sợ lắm rồi, nên bất chấp là mang tiếng nhát gan, tôi lách qua Tân, giơ tay tính kéo chốt cửa lên. Nhưng ngón tay tôi vừa chạm vào cửa, thì có một luồng điện chạy phực qua, làm tôi hết hồn co tay lại. Giờ tôi mới hiểu ra hành động vừa rồi của Tân. Sau lưng hai thằng tui, con linh miêu vẫn cất lên những tiếng meo meo não nề, tôi quay lại nhìn Tân, Tân cũng hoảng lắm rồi. Song Tân cũng thử một lần nữa, Tân vừa chạm tay vào hàng rào, tôi nghe nổ tạch tạch và chổ bàn tay của Tân với hàng rào lóe lên như nẹt lửa.
Tân rút tay về ngay và nhìn sang ý kêu đến phiên tôi thử đi, tôi vừa bị điện giựt rồi cũng sợ lắm, nhưng biết làm sao đây, tôi lại thò tay ra và cũng bị giựt còn mạnh hơn hồi nãy nữa. Hai tụi tui ngán rồi không đứa nào dám thò tay ra đụng cửa hàng rào sắt nữa. Trong khi đó trên nấm mộ nhỏ kia con linh miêu vẫn kêu lên từng tiếng thê lương sầu thảm. Hông hiểu sao nãy giờ hai đứa tui hông sợ gì hết. Nhưng bây giờ nghe tiếng con linh miêu này kêu lại hoảng sợ đến thế, tôi nghĩ lẹ qua trong đầu cầu nguyện đủ thứ.
Nào là Chúa, Đức Mẹ Maria, Phật Thích Ca, Quan Thế Âm Bồ Tát, Thánh Ala, Đức Jehovah, Đức thầy Huỳnh Phú Sổ...tùm lum hết. Hắc linh miêu tử kia vẫn không ngớt kêu vang. Mồ hôi mẹ mồ hôi con đua nhau đổ ra trên lưng tôi, tôi thấy chưa bao giờ lạnh như lúc này. Tôi và Tân nhìn nhau sợ hãi, Tân như đang lẩm bẩm "chết rồi Hải ơi! chết rồi! làm sao thoát ra bây giờ, có ai cứu mình hông, chết rồi Hải ơi!"
Hai đứa như nghệch ra hông biết làm sao thoát thân đây. Trong lúc hoang mang tui chợt nhớ đến, bài học căn bản đầu tiên ở trại chuyển tiếp Thái Lan, là ở trên đất Mỹ nếu bạn có chuyện gì cần giúp đỡ khẩn cấp, thì hãy gọi số 911. Tôi nghĩ lại mình có thói quen để cellphone trong túi quần bên trái, tôi chụp tay xuống nhưng sao thấy đùi trái phẳng trơn, hông có gì cộm lên cả, tôi thọc tay vô túi quần phải cũng hông có gì. Tôi lục tung hết các túi áo khoác, tôi mò mẫm xuống hai túi quần sau, cũng hông thấy cái cellphone
Rõ ràng mình có đem theo cellphone, tôi nhớ lúc trên đường đi, còn dùng phone gọi rũ ViT_Quay đi ra chung nữa mà, vừa sợ vừa bực mình ! chẳng lẻ mình làm mất cái cellphone, trong lúc cần nó nhất như vầy, tôi móc hết túi này đến túi kia mà vẫn không tìm thấy cái cellphone. Con linh miêu kia thì cứ ngồi đó giương cặp mắt ma quái, nhìn hai đứa tui mà kêu meo meo thiệt là thảm thiết. Nghe mà rợn tóc gáy, tôi loay hoay nhìn xuống đất xem có đánh rơi cái phone không.
Nhưng trời quá tối đi, hông thấy gì hết. Trong lúc gần như tuyệt vọng đó, tôi bỏ tay vô túi quần trái phía trước lần nữa, thì đụng ngay một vật bằng sắt lạnh lạnh. Nó đây rồi! Mừng quá tui rút phone ra. Lụp chụp mãi tui bấm được số 911. Sau khi reng reng vài tiếng, đầu dây bên kia một giọng nữ thánh thót cất lên, hỏi tôi cần giúp gì hông, tôi lấp bấp trình bày sự việc bị stuck, trong một cái hàng rào tại Euclid và Hazard ở thành phố Westminster.
Nữ nhân viên kia bình tĩnh khuyên tụi tui cứ an tâm, đừng hoảng hốt, don't worry cô ta sẽ send người đến help liền. Khoảng chừng một phút sau, có hai chiếc xe cảnh sát chớp đèn, từ hướng ngã tư Euclid và Westminster chạy xuống. Hông hiểu sao lúc thấy ánh đèn xe cảnh sát từ xa, hai đứa chúng tui tự nhiên như tỉnh ra. Lúc đó như có một làn sóng vô hình ấm áp, phủ lên cả hai đứa, tôi hông thấy lạnh nữa. Đồng thời đem lại cho tôi một cảm giác bình an vô sự, như là chưa có chuyện gì kinh dị xãy ra vậy.
Chỉ thấy bóng dáng hai chiếc xe tiến đến gần, mà tôi từ sợ sệt chuyển qua an tâm, hai chiếc xe cảnh sát trờ đến, quẹo phải trên đường Hazard rồi dừng xe bên phía vườn dâu. Tự dưng tôi nghe tiếng lách cách bên tai, thì ra Tân lại bấm máy chụp hình rồi, tôi không ngờ Tân cũng trở lại bình thường nhanh như vậy, mặc dù trước đó thôi, hai đứa còn hoang mang không biết làm gì.
Xe ngừng lại hai viên cảnh sát bước ra, đứng bên kia soi đèn pin về hướng bãi đất ma. Thấy hai viên cảnh sát rồi tôi mừng lắm. Quên cả sự sợ hãi vừa rồi, một tay tôi kéo chốt cửa lên, tay kia xô cửa bước ra. Thật lạ thay cánh cửa nhẹ nhàng mở ra, mà hông có hiện tượng giựt hay xẹt lửa nữa. Hai vị cảnh sát ngoắc đèn pin ý chừng họ muốn hỏi thăm, tôi bước đến nói chuyện với họ. Trong khi đó Tân quay vào trong chụp được một tấm hình con linh miêu.
Hai nhân viên cảnh sát chợt hỏi tụi tui đi đâu vào giữa đêm khuya như thế này, tôi trình bày rằng tụi tui nghe đồn bãi đất này có ma. Nhân việc gần đây đọc được một bài viết online, nên hai đứa tò mò rũ nhau ra đây xem sao. Nhân viên cảnh sát tóc trắng tỏ vẻ ngạc nhiên nói rằng: anh ta được chuyển về đây tuần tra hằng đêm khoảng ba năm nay rồi, sao chưa hề nghe ai nói đến việc căn nhà ma này. Anh ta còn vặn hỏi thế những lời đồn đãi về căn nhà ma này như thế nào, tôi thuật lại những chuyện đọc trong post của BlueTiger, và những chuyện khác tôi nghe từ bạn bè. Anh ta nghe xong chỉ cười hề hề.
Đang nói chuyện tôi quay lại nhìn về hướng ba ngôi mộ, thì một lần nữa cảm giác kinh hãi lại xâm chiếm tâm hồn tôi. Từ hồi nào, phía bên kia đường Hazard, con hắc linh miêu đã di chuyển ra ngoài hàng rào, đến gần góc ngả tư đường, ngồi giương cặp mắt xanh lè chăm chú nhìn bốn người chúng tôi, tôi ú ớ hướng tay mình chỉ về linh miêu. Vị cảnh sát tóc trắng giơ cao đèn pin hướng về bên kia đường. Ánh đèn quét tới nơi, linh miêu bỗng rú lên một tiếng thật lạ, và quay đầu bỏ chạy.
Nghe tiếng rú đó hai vị cảnh sát băng qua đường, rọi đèn chiếu theo, tôi và Tân nhờ có hai vị cảnh sát gần đó, nên cảm thấy lên tinh thần, vọt qua đường theo họ. Dõi mắt nhìn theo, thì thấy linh miêu chạy dọc trên Euclid về hướng đường Bolsa. Chạy được mươi căn nhà, linh miêu nhãy lên cào cào vào khoảng không, như gặp phải một địch thủ vô hình nào đó, tụi tui tiến gần hơn thì thấy linh miêu đã thôi nhãy lên cào xé, mà nằm dãy dụa một cách đau đớn, thét lên những tiếng thật quái dị.
Đến nơi tôi định thần nhìn kỹ, thì thấy con linh vật nằm thoi thóp trên mặt đất, không còn cử động được nữa, máu từ miệng trào ra từng hồi.
..Thế nhưng...
..Đây không phải là một con mèo nhỏ như lúc nãy.
..Con linh vật hiện nguyên hình lên là một con chó đen thật lớn.
Nhân viên cảnh sát tóc đen chạy xe tới, bồng con chó bỏ vào băng sau xe, nói rằng sẽ đem đi cấp cứu tại một bịnh viện thú vật gần đó. Chiếc xe đảo một vòng chạy ngược lên hướng đường Garden Grove. Vị cảnh sát còn lại vào xe nói gì với tổng đài đó. Trong lòng tôi và Tân lúc đó cũng ngổn ngang trăm mối. Nhưng có một vị cảnh sát kế bên tôi an tâm phần nào, Tân xin viên cảnh sát còn lại, chụp một tấm hình kỷ niệm buổi tối, đầy những sự kiện kinh hoàng này.
Anh ta vui vẻ nhận lời xong bảo tụi tui rằng: khu vực này rất là nguy hiểm, thường xuyên xảy ra tai nạn xe cộ chết người; những vụ trộm cắp; giết người cướp của; băng đảng bắn nhau. Đó là lý dọ họ thường xuyên đi tuần tra vòng quanh khu vực này. Cho nên khi nãy vừa nghe tin dispatch từ 911, họ mới có thể đến nhanh như thế. Sau cùng anh ta cảnh báo tôi và Tân, từ rày về sau đừng nên đi gần khu vực này, từ chạng vạng tối đến tờ mờ sáng để tránh điều không hay xảy ra cho bản thân mình.
Lúc đó nhân viên cảnh sát kia điện đàm về, báo cho nhân viên tại hiện trường rằng: khi anh ta đến bịnh viện thú vật mở cửa sau ra, thì con chó nằm trên nệm sau xe, không còn là một con chó đen nữa, nó đã biến mất, mà thay vào đó là một con chó trắng! Quá kinh hãi rồi, tôi hối Tân đi về ngay.
Tiền Giang
#15
Gửi vào 05/06/2011 - 22:15
VW: Qua kinh nghiệm tâm linh của mình, xin ông cho biết một số nhận định về tượng, theo tâm linh học?
VCL: Nói về sự linh thiêng của một bức tượng, xét về khía cạnh tâm linh, muốn linh thiêng, phải có một bậc Đại sư, giỏi về thần thông, pháp thuật… thực hiện một nghi lễ “Điểm nhãn” long trọng. Theo Mật tông, nghi lễ “điểm nhãn” sẽ giúp cho một bức tượng vô tri thành ra có thần, linh thiêng.
Trong lịch sử, có nhiều bức tượng Phật, Chúa đầy sự linh thiêng, nhất là khi nhìn vào đôi mắt của các bức tượng này, các tín đồ cảm thấy có một sức mạnh tiềm tàng trong đôi mắt.
Theo tôi, trước hết là pho tượng đó đã được “điểm nhãn”, thứ hai, sức mạnh được cấu tạo do những luồng nhãn quang được hút từ chính các tín đồ khi ngước về pho tượng từ năm này qua năm khác. Sở dĩ đôi mắt của pho tượng có thần, là do nhân điện của mỗi người bị hút vào, do đó, sẽ càng ngày càng linh.
Tuy nhiên, xin mở ngoặc, nếu chẳng may, việc “điểm nhãn” được thực hiện bởi một tên “tà ma”, bức tượng đó có một tác hại ghê gớm cho những ai nhìn vào bức tượng. Do đó, mặc dù là tượng hình của bất kỳ một tôn giáo, nếu bị tà ma trấn ếm, thật là một tai họa.
Tôi không nói về phương diện niềm tin tôn giáo, mà nói về lý thuyết điểm nhãn. Khi đúc một lô tượng ra, tại sao có bức tượng linh, có bức không? Muốn một bức tượng linh, phải có nghệ thuật điểm nhãn, có người điểm nhãn.
VW: Còn các bức tượng linh thiêng vẫn nghe đồn đại như tượng Đức Mẹ La Vang, hay tượng Chúa Giê-Su chảy nước mắt, hay chảy máu,…ông nghĩ sao?
VCL: Đức Mẹ La Vang là địa danh linh thiêng, vì theo truyền thuyết, hồi xa xưa Đức Mẹ La Vang đã hiện ra tại đây, sau đó người ta lập đền thờ, để kính niệm. Tôi không nghĩ là có bức tượng Đức Mẹ La Vang linh thiêng. Còn tượng khóc chảy nước mắt hay máu gì đó tôi không nghe, không biết.
VW: Còn bức tượng xi-măng Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ tại Westminster, người dân quanh vùng đồn rằng cũng rất linh thiêng, theo ông, bức tượng này đã được… điểm nhãn chưa?
VCL: Theo tôi, chưa có ai điểm nhãn cho bức tượng này. Hoặc có điểm âm thầm tôi không biết. Bức tượng này chỉ là bức tượng vô tri, không linh thiêng gì hết. Tôi có nghe nhiều người nói là có những dấu hiệu linh thiêng, thấy các chiến sĩ quay về quanh bức tượng, theo tôi là sự tưởng tượng. Có lẽ tôi phải viết một bài chi tiết về vụ tượng đài này.
VW: Nhân đây, xin được hỏi ông về việc tại các Chùa, phần nhiều thân nhân có thói quen mang cốt, mang di ảnh đến Chùa để thờ phụng ở đó,… về việc này, ông nghĩ sao?
VCL: Chuyện để cốt trong Chùa, theo tôi là sai hết. Theo triết lý căn bản của nhà Phật, con người sau khi chết, xác cốt phải bị tiêu hủy, bị đốt đi để sớm đầu thai qua kiếp khác. Do đó, nếu để cốt hay linh ảnh tại Chùa theo tôi là không tốt. Vì làm như vậy là níu kéo hương linh của người chết ở trần gian.
Đạo Chúa nói là “thân xác là cát bụi phải trở về cát bụi”, đạo Phật nói “Thân xác là nhân duyên, thần thức vô mượn xác làm con người”. Do đó, nếu bị chết đi, không bao giờ thấy lại được hình dáng cũ nữa. Theo tôi, người nào thương cha mẹ, người thân quá cố, đừng bao giờ thờ tại gia, hay tại Chùa cả.
Vì mình thương là một chuyện, nhưng cả tỉ năm nữa, không bao giờ thấy lại. Như đã nói, hình thức thờ, giữ cốt chỉ làm cho hồn người chết bị lấn quấn mãi ở trần gian mà thôi. Những người cúng kiếng, cầu cho người thân mình ở lại với mình, nếu không hiểu biết thì không nói làm gì, còn nếu hiểu biết nguyên lý Phật Giáo, không nên giữ lại, đó là một hành động ác nghiệt.
Người chết chỉ mong thần thức của họ được sớm đầu thai kiếp khác, việc cúng kiếng một chén cơm, một ly nước để cầu xin chuyện này chuyện nọ là điều ích kỷ, vụ lợi cho mình ở thế gian tạm bợ, mà lại làm cho thần thức của người chết không đi đầu thai được. Chuyện cúng kiếng, dùng hồn linh của người thân để trở thành công cụ phục vụ cho những nhu cầu vật chất của mình là sai. Không nên làm.
VW: Hiện tượng linh ứng như đốt một cây nhang, cầu xin người quá cố một điều gì đó, đột nhiên cái tàn nhang cong vòng… theo nhân gian, đó là sự chấp nhận, linh ứng. Ông nghĩ sao?
VCL: Những hiện tượng cây nhang cong, hay những hiện tượng khác không giải thích được. Tuy nhiên, theo tôi, càng có sự linh ứng bao nhiêu, càng khốn nạn cho thần thức của người chết bấy nhiêu. Vì họ không đầu thai, không lên thiên đàng hay niết bàn được, cứ lẩn quẩn bên mình. Thời gian có thể là rất dài, rất lâu, mấy trăm năm lẩn quẩn là chuyện thường.
VW: Có một số người đúc tượng người thân, để thờ trong nhà, theo ông, có nên hay không?
VCL: Quan niệm thông thường, những di tượng này được đúc ra, nhằm mục đích để thần thức có chỗ quay về, để trú tạm, ban đêm đi lang thang. Theo tôi là không nên, là ác tâm. Trường hợp cô ca sĩ Lê Uyên thờ tượng chồng Lê Uyên Phương trong nhà, theo tôi là không nên.
Nhiều lần tôi đề nghị dẹp tượng đi, nhờ thầy Thích Mãn Giác làm lễ dẹp tượng đi. Nhờ các đại sư trong Chùa cầu kinh cho, nếu quả thật có thấy vong linh Lê Uyên Phương còn hiện diện.
VW: Tại sao các Chùa lại tập trung nhiều cốt, nhiều ảnh tượng nhiều thế? Theo ông thì sao?
VCL: Đó chỉ là marketing của mấy ông sư thôi. Cốt người chết sau khi được đốt 3,000 độ, không còn là gì nữa. Sau khi đốt xong, nhà quàn còn cho vào máy nghiền. Chỉ còn là chất Calcium, màu đen hay xám trắng. Thịt da đã bay tiêu hết.
Tôi đã từng nếm thử cốt rồi, không mùi không vị. Cốt không là gì hết, vì đó là chất âm. Do đó, không thể để trong nhà, nơi có nhiều dương khí, vượng khí. Để cốt trong nhà thường có hiện tượng lục đục, không may mắn, cãi nhau, làm ăn không khá.
Một số người hiểu biết, trước khi chết dặn dò người thân mình thiêu cốt, rải ra biển cho xong… vì không muốn làm phiền con cái. Họ không muốn con cái để trong nhà cốt của mình, vì sao? Vì ở nhà lúc này hay có nạn hát karaoke, tiếng động ồn ào, đinh tai nhức óc, khiến người chết không thể chịu nổi.
Một số người khác nghĩ rằng để cốt người thân ở Chùa, với mục đích chính là cho hương hồn người chết nghe tiếng kinh tiếng kệ, để các vong linh hưởng được lời xin, lời cầu. Ở Chùa, mới có nhiều người để cốt phía sau là vậy. Còn linh ảnh thì để phía trước.
Nói chung, để linh ảnh, cốt ở chùa để khi mấy vị sư cúng quảy cho những linh hồn, các hồn ma uổng tử cũng lảng vảng nghe ké.
VW: Ở Chùa mà nhiều tính âm như vậy, theo ông là nơi… không tốt?
VCL: Các nhà sư đi tu, không tham sự thành công như người đời, mà tìm sự yên tịnh, thoát trần nơi cửa Phật. Các nhà sư không còn ham thích những thói vui trần
VW: Qua kinh nghiệm tâm linh của mình, xin ông cho biết một số nhận định về tượng, theo tâm linh học?
VCL: Nói về sự linh thiêng của một bức tượng, xét về khía cạnh tâm linh, muốn linh thiêng, phải có một bậc Đại sư, giỏi về thần thông, pháp thuật… thực hiện một nghi lễ “Điểm nhãn” long trọng. Theo Mật tông, nghi lễ “điểm nhãn” sẽ giúp cho một bức tượng vô tri thành ra có thần, linh thiêng.
Trong lịch sử, có nhiều bức tượng Phật, Chúa đầy sự linh thiêng, nhất là khi nhìn vào đôi mắt của các bức tượng này, các tín đồ cảm thấy có một sức mạnh tiềm tàng trong đôi mắt. Theo tôi, trước hết là pho tượng đó đã được “điểm nhãn”, thứ hai, sức mạnh được cấu tạo do những luồng nhãn quang được hút từ chính các tín đồ khi ngước về pho tượng từ năm này qua năm khác.
Sở dĩ đôi mắt của pho tượng có thần, là do nhân điện của mỗi người bị hút vào, do đó, sẽ càng ngày càng linh. Tuy nhiên, xin mở ngoặc, nếu chẳng may, việc “điểm nhãn” được thực hiện bởi một tên “tà ma”, bức tượng đó có một tác hại ghê gớm cho những ai nhìn vào bức tượng. Do đó, mặc dù là tượng hình của bất kỳ một tôn giáo, nếu bị tà ma trấn ếm, thật là một tai họa.
Tôi không nói về phương diện niềm tin tôn giáo, mà nói về lý thuyết điểm nhãn. Khi đúc một lô tượng ra, tại sao có bức tượng linh, có bức không? Muốn một bức tượng linh, phải có nghệ thuật điểm nhãn, có người điểm nhãn.
VW: Còn các bức tượng linh thiêng vẫn nghe đồn đại như tượng Đức Mẹ La Vang, hay tượng Chúa Giê-Su chảy nước mắt, hay chảy máu,…ông nghĩ sao?
VCL: Đức Mẹ La Vang là địa danh linh thiêng, vì theo truyền thuyết, hồi xa xưa Đức Mẹ La Vang đã hiện ra tại đây, sau đó người ta lập đền thờ, để kính niệm. Tôi không nghĩ là có bức tượng Đức Mẹ La Vang linh thiêng. Còn tượng khóc chảy nước mắt hay máu gì đó tôi không nghe, không biết.
VW: Còn bức tượng xi-măng Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ tại Westminster, người dân quanh vùng đồn rằng cũng rất linh thiêng, theo ông, bức tượng này đã được… điểm nhãn chưa?
VCL: Theo tôi, chưa có ai điểm nhãn cho bức tượng này. Hoặc có điểm âm thầm tôi không biết. Bức tượng này chỉ là bức tượng vô tri, không linh thiêng gì hết. Tôi có nghe nhiều người nói là có những dấu hiệu linh thiêng, thấy các chiến sĩ quay về quanh bức tượng, theo tôi là sự tưởng tượng. Có lẽ tôi phải viết một bài chi tiết về vụ tượng đài này.
VW: Nhân đây, xin được hỏi ông về việc tại các Chùa, phần nhiều thân nhân có thói quen mang cốt, mang di ảnh đến Chùa để thờ phụng ở đó,… về việc này, ông nghĩ sao?
VCL: Chuyện để cốt trong Chùa, theo tôi là sai hết. Theo triết lý căn bản của nhà Phật, con người sau khi chết, xác cốt phải bị tiêu hủy, bị đốt đi để sớm đầu thai qua kiếp khác. Do đó, nếu để cốt hay linh ảnh tại Chùa theo tôi là không tốt. Vì làm như vậy là níu kéo hương linh của người chết ở trần gian. Đạo Chúa nói là “thân xác là cát bụi phải trở về cát bụi”, đạo Phật nói “Thân xác là nhân duyên, thần thức vô mượn xác làm con người”.
Do đó, nếu bị chết đi, không bao giờ thấy lại được hình dáng cũ nữa. Theo tôi, người nào thương cha mẹ, người thân quá cố, đừng bao giờ thờ tại gia, hay tại Chùa cả. Vì mình thương là một chuyện, nhưng cả tỉ năm nữa, không bao giờ thấy lại. Như đã nói, hình thức thờ, giữ cốt chỉ làm cho hồn người chết bị lấn quấn mãi ở trần gian mà thôi.
Những người cúng kiếng, cầu cho người thân mình ở lại với mình, nếu không hiểu biết thì không nói làm gì, còn nếu hiểu biết nguyên lý Phật Giáo, không nên giữ lại, đó là một hành động ác nghiệt. Người chết chỉ mong thần thức của họ được sớm đầu thai kiếp khác, việc cúng kiếng một chén cơm, một ly nước để cầu xin chuyện này chuyện nọ là điều ích kỷ, vụ lợi cho mình ở thế gian tạm bợ, mà lại làm cho thần thức của người chết không đi đầu thai được.
Chuyện cúng kiếng, dùng hồn linh của người thân để trở thành công cụ phục vụ cho những nhu cầu vật chất của mình là sai. Không nên làm.
VW: Hiện tượng linh ứng như đốt một cây nhang, cầu xin người quá cố một điều gì đó, đột nhiên cái tàn nhang cong vòng… theo nhân gian, đó là sự chấp nhận, linh ứng. Ông nghĩ sao?
VCL: Những hiện tượng cây nhang cong, hay những hiện tượng khác không giải thích được. Tuy nhiên, theo tôi, càng có sự linh ứng bao nhiêu, càng khốn nạn cho thần thức của người chết bấy nhiêu. Vì họ không đầu thai, không lên thiên đàng hay niết bàn được, cứ lẩn quẩn bên mình. Thời gian có thể là rất dài, rất lâu, mấy trăm năm lẩn quẩn là chuyện thường.
VW: Có một số người đúc tượng người thân, để thờ trong nhà, theo ông, có nên hay không?
VCL: Quan niệm thông thường, những di tượng này được đúc ra, nhằm mục đích để thần thức có chỗ quay về, để trú tạm, ban đêm đi lang thang. Theo tôi là không nên, là ác tâm. Trường hợp cô ca sĩ Lê Uyên thờ tượng chồng Lê Uyên Phương trong nhà, theo tôi là không nên. Nhiều lần tôi đề nghị dẹp tượng đi, nhờ thầy Thích Mãn Giác làm lễ dẹp tượng đi. Nhờ các đại sư trong Chùa cầu kinh cho, nếu
quả thật có thấy vong linh Lê Uyên Phương còn hiện diện.
VW: Tại sao các Chùa lại tập trung nhiều cốt, nhiều ảnh tượng nhiều thế? Theo ông thì sao?
VCL: Đó chỉ là marketing của mấy ông sư thôi. Cốt người chết sau khi được đốt 3,000 độ, không còn là gì nữa. Sau khi đốt xong, nhà quàn còn cho vào máy nghiền. Chỉ còn là chất Calcium, màu đen hay xám trắng. Thịt da đã bay tiêu hết. Tôi đã từng nếm thử cốt rồi, không mùi không vị. Cốt không là gì hết, vì đó là chất âm.
Do đó, không thể để trong nhà, nơi có nhiều dương khí, vượng khí. Để cốt trong nhà thường có hiện tượng lục đục, không may mắn, cãi nhau, làm ăn không khá. Một số người hiểu biết, trước khi chết dặn dò người thân mình thiêu cốt, rải ra biển cho xong… vì không muốn làm phiền con cái. Họ không muốn con cái để trong nhà cốt của mình, vì sao?
Vì ở nhà lúc này hay có nạn hát karaoke, tiếng động ồn ào, đinh tai nhức óc, khiến người chết không thể chịu nổi. Một số người khác nghĩ rằng để cốt người thân ở Chùa, với mục đích chính là cho hương hồn người chết nghe tiếng kinh tiếng kệ, để các vong linh hưởng được lời xin, lời cầu.
Ở Chùa, mới có nhiều người để cốt phía sau là vậy. Còn linh ảnh thì để phía trước. Nói chung, để linh ảnh, cốt ở chùa để khi mấy vị sư cúng quảy cho những linh hồn, các hồn ma uổng tử cũng lảng vảng nghe ké.
VW: Ở Chùa mà nhiều tính âm như vậy, theo ông là nơi… không tốt?
VCL: Các nhà sư đi tu, không tham sự thành công như người đời, mà tìm sự yên tịnh, thoát trần nơi cửa Phật. Các nhà sư không còn ham thích những thói vui trần thế, không hát karaoke, coi văn nghệ Thúy Nga, Asia v.v. Do đó, họ suốt ngày tụng kinh, các vong hồn nghe ké thế, không hát karaoke, coi văn nghệ Thúy Nga, Asia v.v.
Do đó, họ suốt ngày tụng kinh, các vong hồn nghe ké suốt ngày cũng tốt. Nhưng theo tôi, chuyện để cốt ở đâu cũng không tốt, vì như thế là cố gắng lưu giữ lại “cái nhà” của người quá cố, khiến họ không đầu thai dễ dàng được. Nghe tụng kinh ở Chùa đỡ hơn nghe nhạc Rock ở nhà, nhưng được rải tro đi là tốt nhất.
Còn chuyện mấy ông thầy, ông sư đòi tiền, xin tiền để tro cốt ở Chùa là chuyện thế gian, không dính dáng gì đến niềm tin tâm linh về tro cốt. Chuyện chùa này nổi tiếng, xin khắc tên, để cốt là chuyện business của mấy ông thầy.
Vũ Công Lý
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Dự đoán phối hợp nhiều môn huyền học cho chính trị & kinh tế thế giới |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
||
những góc nhìn khác nhau về chuyện cưới xin, xung - hợp vợ chồng |
Tử Bình | hieuthuyloi |
|
|
|
Pinned Minhminh kể chuyện . |
Linh Tinh | minhminh |
|
|
5 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 5 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |