Jump to content







Advertisements




Luân hồi - Liên hệ Tử vi


45 replies to this topic

#31

tigerstock68



 

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1221 Bài viết:
  • 1837 thanks

 

Gửi vào 02/04/2013 - 09:02

Đạo và chỉ cảm nhận được qua Tâm thức chứ không thể bằng ý thức vì tầng rung động của ý thức thô kệch có giới hạn còn tầng rung động của Tâm thức thì vi tế và cùng khắp.

Cảm ơn anh KN0WNOT cho được những bài học thâm sâu về Đạo ... không biết anh có phải là Cư Sĩ hay không?

Thanked by 2 Members:

#32

Vô Danh Thiên Địa



 

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5108 thanks

 

Gửi vào 03/04/2013 - 03:44

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

tigerstock68, on 02/04/2013 - 09:02, said:

Đạo và chỉ cảm nhận được qua Tâm thức chứ không thể bằng ý thức vì tầng rung động của ý thức thô kệch có giới hạn còn tầng rung động của Tâm thức thì vi tế và cùng khắp.

Cảm ơn anh KN0WNOT cho được những bài học thâm sâu về Đạo ... không biết anh có phải là Cư Sĩ hay không?

Vấn đề là làm sao để cảm nhận được qua Tâm thức thay vì ý thức ?

Thanked by 2 Members:

#33

tigerstock68



 

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1221 Bài viết:
  • 1837 thanks

 

Gửi vào 03/04/2013 - 09:06


Trong Tâm lý học Phật giáo, có sáu Thức nhận biết: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức. Mỗi Thức được phát sinh do sự giao tiếp đầy đủ của Căn (cũng gọi là Vật) với đối tượng là Cảnh (cũng gọi là Trần).

Căn của Nhãn Thức là mắt, của Nhĩ Thức là tai, của Tỉ Thức là mũi, của Thiệt Thức là lưỡi, của Thân Thức là thân; còn căn của Ý Thức (được gọi là ý căn) thì chưa được xác định rõ rệt. Phải chăng ý căn là Tim, Não Bộ, Thần Kinh Hệ hay cái gì khác? Một câu hỏi thường đi đôi với vấn đề này là Tâm có còn hiện hữu sau khi chết (não bộ ngưng hoạt động, tim ngừng đập)?

1. Khái niệm dẫn nhập:

Trước khi trình bày một số tài liệu để suy gẫm về ý căn, có lẽ cần nói qua khái niệm về Tâm, Tiến Trình Tâm và định nghĩa về ý căn, ý môn.

1.1. TâmThức : Tâm (Mind, Citta) và Thức (Consciousness, Viññāna ) cùng một nghĩa, đó là sự nhận biết một đối tượng, nói cách khác đó là cái biết, cái gì hay biết một đối tượng. Theo Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) không có gì khác biệt giữa Tâm và Thức. Khi phân tích chúng sanh ra hai phần vật chất và tinh thần thì Tâm được dùng để chỉ phần tinh thần, còn gọi là Danh (Nāma). Tâm luôn luôn được dùng để đề cập đến những loại tâm khác nhau (Vi Diệu Pháp chia tâm ra 121 loại hoặc 89 loại tùy theo cách phân loại). Khi chúng sanh được chia làm năm uẩn thì Thức được dùng (Thức uẩn). Tâm còn gọi là Tâm Vương; có 52 Tâm Sở (Cetasika) hay trạng thái tâm, đồng liên hợp với tâm vương, đồng phát sinh và đồng hoại diệt với tâm vương. Các loại tâm sở chia ra 13 sở hữu trợ tha, 14 sở hữu bất thiện và 25 sở hữu tịnh hảo.

Thức phát sinh do sự giao tiếp đầy đủ của Căn với đối tượng là Cảnh; sự giao tiếp, giao lưu, nối kết đầy đủ là điều kiện thiết yếu để Thức phát sinh. Chẳng hạn, nói về năng lực nhận thức "thấy" thì nhãn thức chỉ phát sinh được khi có đầy đủ ánh sáng, không có sự ngăn ngại giữa nhãn căn và cảnh sắc, thần kinh con mắt phải tốt, hệ thống thần kinh không bị hư hỏng…. Tuy nhiên phải hiểu rằng trong năm thức đầu (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức và thân thức), thức chỉ mới ghi nhận đối tượng, chưa phải là nhận biết. Cần có Tưởng (một Tâm Sở Biến Hành) mới nhận biết ở mức độ tri giác. Tưởng có chức năng phân tích chi tiết, tổng hợp, hình thành vật khái niệm và danh khái niêm.

Như đã nói ở trên, Thức phát sinh do Căn giao tiếp với Cảnh, nhưng thực ra Căn, Cảnh, Thức tác dụng với nhau, tương giao, tương tác với nhau mà Tâm Sở Xúc phát sinh. Ngoài Xúc ra, các Tâm Sở Biến Hành khác là Thọ, Tưởng, Tư, Nhất Tâm, Mạng Căn và Tác Ý. Theo Duy Thức thì có 4 Tâm Sở Biến Hành cơ bản (Xúc, Thọ, Tưởng, Tư) và thêm 1 Tâm Sở Biến Hành nữa thôi là Tác Ý. So với Duy Thức thì Vi Diệu Pháp đầy đủ hơn với 7 Tâm Sở Biến Hành và Tâm nào cũng phải có mặt 7 Tâm Sở này. Có vài sự khác biệt trong việc phân loại trong Duy Thức Học và Vi Diệu Pháp tuy nhiên ta không nên câu nệ ở nơi phân loại mà chỉ quan sát ngay nơi cái tâm đang hiện khởi mà thấy diễn tiến, vận hành của nó.


1.2. Tiến Trình Tâm (Citta-vīthi) - Tâm diễn tiến qua một lộ trình gọi là tiến trình tâm. Diễn tiến của một tâm sinh diệt như sau: Dòng tâm thức trôi chảy có thể hoặc ở trạng thái tiêu cực hoặc ở trạng thái tích cực. Tiêu cực là trôi chảy ngấm ngầm, tàng ẩn sâu trong nội tâm của sự sống nên gọi là Hữu Phần (Hữu Phần tương đương với Căn Bản Thức trong Duy Thức). Hữu Phần (Bhavanga) duy trì sự hiện hữu của tiềm thức và trôi chảy liên tục. Dòng Bhavanga ở trạng thái thụ động, có vẻ như tĩnh nhưng luôn luôn chảy xiết như một dòng nước cuồn cuộn nên Duy Thức gọi là "hằng chuyển như bộc lưu". Khi đang trôi chảy như vậy, chợt có một đối tượng tác động vào, khiến Hữu Phần này trôi qua 1 sát-na nữa, rồi rung động 2 lần và ngưng trạng thái tiềm ẩn. Hữu Phần dừng nghỉ và tâm bắt đầu trạng thái tích cực khởi qua các căn để thu nhận, đánh giá, phản ứng… trên đối tượng tác động.

Khi Hữu Phần dừng lai, tâm khởi lên theo trình tự như sau (đối với ngũ căn):

1) 1 sát-na - Ngũ môn hướng tâm: phản xạ tự nhiên của căn tương ứng hướng đến đối tượng, làm gạch nối cho thức khởi sinh.

2) 1 sát-na - Ngũ thức: khi 1 trong 5 môn hướng về đối tượng thì thức liên hệ môn ấy phát sinh.

3) 1 sát-na - Tiếp thọ tâm: phân tích chi tiết, đối chiếu với ký ức để biết từng phần của đối tượng.

4) 1 sát-na - Suy đạc tâm: tổng hợp các chi tiết để có đầy đủ dữ kiện về đối tượng.

5) 1 sát-na - Xác định tâm: nhận biết đối tượng (vật khái niệm) và đặt tên (danh khái niệm).

6) 7 sat-na - Tốc hành tâm: giai đoạn tạo tác của tâm, vai trò của Hành trong Ngũ Uẩn (Mạt Na thức trong Duy Thức Học là một phần chức năng của Tốc hành tâm).

7) 2 sát-na - Đồng sở duyên (tâm Mót): ghi nhận, thu lượm toàn bộ tiến trình tâm vừa kinh nghiệm để lưu giữ vào Bhavanga. (Tâm Mót là chữ của Ngài Tịnh Sự trong bản dịch Tạng Diệu Pháp của Ngài). Đồng sở duyên có chức năng như Sở Tàng của A-Lại-Da thức trong Duy Thức.

Nếu kể cả 3 sát-na của giai đoạn Hữu Phần thì toàn bộ tiến trình diễn ra trong 17 sát-na, nhưng nếu chỉ kể phần của tiến trình tâm thì chỉ có 14 sát-na. Tuy nhiên tiến trình sẽ lập đi lập lại trên cùng đối tượng rất nhiều lần, nếu chú ý nhiều trên đối tượng.

Tâm vận hành quả là rất nhanh. Sát na là đơn vị thời gian rất nhanh: 1 sát-na nhanh hơn nhiều lần 1 nanosecond (1 phần tỷ của giây)!

(Phần sơ lược về tâm và tiến trình tâm trên đây được dựa theo hoặc trích dẫn từ "Thực Tại Hiền Tiền" của Tỳ Kheo Viên Minh, Vi Diệu Pháp Toát Yếu của Narada Maha Thera).

1.3. Ý Căn và Ý môn:


Tâm và Tâm Sở phát sinh tùy thuộc vào điều kiện gọi là Căn (base, vatthu). Căn là sắc hổ trợ cho Thức phát sinh. Tuy rằng năm căn đầu (không kể ý căn) trùng với năm môn đầu, một căn không giống hệt như là một môn, vì nó đóng vai trò khác trong việc phát sinh ý thức. Môn (door, dvāra) là cửa qua đó những tâm và tâm sở của tiến trình nhận biết đạt đến được đối tượng.

Sau khi nhắc sơ qua khái niệm về tâm, tiến trình tâm và căn môn, xin trình bày dưới đây vài quan điểm về Ý căn của khoa học gia cũng như cuộc thực nghiệm khoa học về tâm gần đây, các trường hợp của tâm hiện hữu chưa chứng nghiệm được và sau đó tìm hiểu ý căn theo quan điểm Phật Giáo Tây Tạng và theo kinh điển Nguyên Thủy:

2. Quan Điểm của Khoa Học Gia và Thực Nghiệm về Tâm:


2.1. Quan điểm của các nhà khoa học: Các khoa học gia cho rằng tâm hay tư tưởng hay sự suy nghĩ là do từ não bộ mà phát sinh, tuy nhiên họ nhìn nhận rằng đó là một vấn đề mà khoa học chưa giải thích được, cũng như chưa giải thích được chức năng của tâm. Đa số khoa học gia cho rằng có những hoạt động điện-hóa xẩy ra trong não bộ nhưng họ không thể giải thích sự liên hệ với Ý thức như thế nào. Họ dựa trên một giả định rằng Ý thức phụ thuộc vào một cơ sở vật lý (như não bộ) nên mọi tư tưởng khởi lên đều phải kèm theo hoặc gây ra bởi những biến đổi bên trong não bộ; lý thuyết này vẫn chưa được chứng minh bằng thực nghiệm.

2.2. Sự thực nghiệm khoa học gần đây về Tâm: Bác sĩ Sam Parnia, người điều khiển dự án "Human Consciousness Project" tại Anh Quốc với mục đích nghiên cứu về trường hợp cận tử (near-death experiences) và áp dụng phương pháp khoa học thử nghiệm mới nhất hiện nay trong cuộc khảo cứu về tâm. Đầu tháng 10/2008, Bác sĩ Parnia dã dành cho AOL(1 cơ quan truyền thông) một cuộc phỏng vấn trong đó ông chứng minh 1 điều quan trọng:" Tâm có mặt, hiện hữu như một thực thể độc lập với não bộ ". Đây là điều được khám phá nhờ các cuộc thực nghiệm với những người có kinh nghiệm cận tử, sống sót qua cơn đứng tim và kể lại những kinh nghiệm sau khi tim ngừng dập và não bộ ngưng hoạt động. Bác sĩ Parnia đã dùng một dụng cụ kỹ thuật tối tân trong việc khảo sát não bộ gọi là INVOS (in-vivo optical spectroscopy) để đo lượng oxy trong não và thiết lập các kệ chứa đựng hình ảnh để kiểm tra kinh nghiệm cận tử của bệnh nhân sau khi hồi sinh. Sau khi tim và não bộ ngưng hoạt động một thời gian, bệnh nhân kể lại các kinh nghiệm trong thời gian đó và bác sĩ kiểm chứng lại các kinh nghiệm đó. Bác sĩ đã thiết lập những cuộc thực nghiệm này trong 18 tháng tại các bệnh viện tại Anh quốc và Hoa kỳ. Tuy nhiên, vì tỷ lệ số người có kinh nghiệm cận tử (hồi sinh sau khi não bộ ngưng hoạt động) rất là ít ỏi, chỉ khoảng 2%, cho nên Bác sĩ Parnia muốn thiết kế phòng thực nghiệm cho trường hợp cận tử ở khoảng 25 bệnh viện và nâng đối tượng nghiên cứu lên 1500 người. Bác sĩ nói khám phá này quan trọng nhưng những dữ kiện trên còn rất mực tiên khởi.

3. Các trường hợp chứng tỏ Tâm hiện hữu sau khi chết:


3.1. Ý kiến về sự thực nghiệm Tâm hiện hữu sau khi chết: Khám phá nói trên của Bác Sĩ Parnia đối với khoa học là một sự thực nghiệm là đáng kể. Các cuộc thực nghiệm về trường hợp cận tử tương tự như "Human Consciousness Project" rất đáng được khích lệ và hổ trợ, không những để chứng minh sư hiện hữu của tâm sau khi chết mà còn tăng cường kiến thức cho chuyên viên y-khoa để biết nên xử lý thế nào trong truờng hợp cận tử và giúp bệnh nhân có thể hồi sinh sau khi não bộ và tim ngưng hoạt động. Tuy nhiên, điều gọi là mới khám ra của khoa học (tâm hiện hữu sau khi chết) chẳng có gì mới lạ với những người có học hỏi Phật Pháp và thực hành Phật Pháp. Trong Phật Pháp, ta học về sự sinh diệt của thân tâm, tiến trình của tâm, dòng tâm thức trôi chảy…Khi chết thì có tâm Tử, rồi tiếp nối với tâm Tục Sinh đầu thai qua một kiếp sống mới. Ở đây không có sự chứng nghiệm khoa học, ở lãnh vực tôn giáo nên cần có lòng tin. Tuy nhiên, có thể lòng tin chỉ cần thiết lúc khởi đầu, không phải là sự tin tưởng vô căn cứ mà với sự hiểu biết rằng tâm thức cần được tịnh hóa, thanh lọc để có thể tự có một năng lực riêng và có thể được tăng lên qua sự học hỏi kinh sách, qua việc tư duy để phát triễn kiến thức, tăng trưỡng Trí để biến nó thành Tuệ, để thấy được bản chất của sự vật bằng sự tu chứng mà không qua sự thực nghiệm khoa học. Các tiến bộ của khoa học, như ta đã thấy, thường đi sau kiến thức của các bậc có Trí Tuệ.

3.2. Các trường hợp khác chứng tỏ tâm hiện hữu sau khi chết :

3.2.1. Trường hợp các nhà ngoại cảm: Một dữ kiện mà nay nhiều người chấp nhận có thật là trường hợp các nhà ngoại cảm có khả năng liên lạc với các "vong linh" của những người đã chết để tìm ra nơi chôn xác những người đó trong thời chiến tranh vừa qua ở Việt Nam, giúp thân nhân chôn cất lại xác kể như đã thất lạc (chính những người không tin gì về vấn đề tâm linh trước đây, nay cũng xác nhận công khai những khả năng liên lạc với người đã chết của các nhà ngoại cảm). Đây là một trường hợp khó phủ nhận và vẫn chưa có thể giải thích được.

3.2.2. Trường hợp cầu cơ: Một tài liệu gần đây trích từ cuốn "La Revue Spirite" được phổ biến gần đây trên Internet (do Nguyên Phong dịch) kể lại chuyện một "Lá Thư Từ Bên Kia Thế Giới" do một người cha (tên là bác sĩ Henri Desrives) chết cách đây khoảng hai năm gởi cho các con còn sống (Bác sĩ Pierre Desrives và các người em). Lá thư này là do cơ bút đã viết ra trong một bàn cầu cơ, xẩy ra trong 1 bệnh viện. Vong hồn Bác sĩ Henri Desrives đã nhập vào một người trong bàn cầu cơ và yêu cầu gọi con là Bác sĩ Pierre Desrives và mấy người em đến, từ đó một bức thư đã được viết ra. Trong thư, người cha kể lại những gì xẩy ra khi mới mất và sau đó:

"… một lúc sau khi lịm đi, không hay biết gì thì thấy mình lơ lững trong một bầu ánh sáng trong suốt, thấy rõ mấy mẹ con đang quay quần và xúc động …, cảm thấy bưồn bực khó chịu khi thấy gia đình đang xúc động, nhưng sau đó cảm thấy mình bình tĩnh, thoải mái và được an ủi khi người thân lên tiếng cầu nguyện … thấy ánh sáng bao quanh trở nên sáng chói và cả cuộc đời của mình từ lúc thơ ấu đến khi trưỡng thành hiện ra rõ rệt như trên màn ảnh, cảm thấy sung sướng về những điều thiện đã làm và hối tiếc về những điều đáng lẽ không nên làm… Sau đó đi vào tình trạng vật vờ rồi di chuyển nhanh chóng đến một bầu ánh sáng khác, thấy một số người nhưng muốn tiến đến gần họ thì thấy khó chịu; một lúc sau tiến đến một đám đông mà những ngưòi này thì có những rung động dễ chịu. Một người cho biết tùy theo các tần số rung động thích hợp mà mình có thể tiếp

Những điều nói đến trong " Lá thư từ bên kia thế giới " kể lại những gì xẩy ra sau khi chết, không khác mấy với diễn tiến của Thần Thức được mô tả trong " Tạng Thư Sống Chết " của Sogyal Rinpoche. Trong tạng thư này, danh từ " Bardo " được nhắc đến rất nhiều; Bardo chỉ trạng thái trung gian giữa chết và tái sinh và có nhiều nghĩa rộng lớn hơn… Điều đáng nói ở đây là tâm thức rời bỏ sắc thân để bắt đầu một kiếp sống khác.

4. Liên hệ giữa Ý thức, Cảm Thọ và Thần kinh hệ:


Giáo Sư cổ nhạc nỗi tiếng Trần văn Khê khi gỉảng về kỹ thuật trình diễn Hát Bộ có nói rằng: Khi muốn diễn tả một tâm trạng đau đớn của một người mẹ mới nghe tin con mình vừa tử trận, thì diễn viên phải dồn hết cảm xúc, ý tưởng về ruột để diễn tả qua tiếng ca nỗi đau đớn như đứt từng khúc ruột; sự rung động phải đi từ ruột mà ra. Tương tự, để diễn tả nỗi uất hận, căm giận của một vị tướng can trường mà nay phải bó tay nhìn quân giặc dày xéo quê hương, diễn viên phải dồn hết cảm tưởng bức xúc, uất hận về lá gan và sự rung động phải phát xuất từ đó…Điều này chứng tỏ hệ thần kinh ở mỗi cơ phận là tương quan với cảm xúc và ý thức liên hệ tới cơ phận đó và từ đó mới tạo sự rung động liên hệ tới cảm xúc và ý tưởng đang có. Điều này phù hợp với quan điểm của Phật Giáo Tây Tạng về sự liên hệ của thần kinh hệ với ý thức và cảm xúc như sẽ trình bày kế tiếp dưới đây.

5. Quan Điểm về Ý căn của Phật Giáo Tây Tạng

Sau đây là vài đoạn được trích dẫn từ loạt bài pháp thoại của Ngài Dalai Lama thứ 14 giảng ở Luân Đôn tháng 7 năm 1996 (in thành sách " Tứ Diệu Đế " do Ngô Quang Nhân dịch):

5.1. "Ý thức và tất cả kinh nghiệm của chúng ta phụ thuộc vào thân xác, vì thế nên tâm và thân trong một ý nghĩa nào đó là không thể tách biệt. Nhưng đồng thời, tôi cảm thấy rằng sự nghiên cứu dường như chỉ ra rằng tâm thức con người rất có thể tự có một năng lực riêng và có thể được tăng lên thông qua sự quán chiếu và thiền định, hay sự rèn luyện tâm thức. Thêm nữa, ai cũng biết rằng y học hiện đại ngày càng phải thừa nhận năng lực của ý chí trong quá trình hồi phục bệnh tật. Năng lực ý chí của một người ảnh hưởng tới sinh lý của người đó".

5.2 "Tâm thức luôn có khuynh hướng bị chi phối bởi các ý nghĩ tản mạn hoặc bởi các cảm xúc. Vì thế ta hãy thử khảo sát xem các cảm xúc và ý nghĩ tản mạn đã khởi lên trong tâm như thế nào… Ta có thể xét cảm xúc đơn thuần về mặt lý tính như là cảm giác (sensations), nhưng cố nhận hiểu cảm xúc về mặt nhận thức tinh thần ( feeling: thọ, vedanā) thì sẽ phức tạp hơn nhiều. Và cho dù chúng ta mặc nhiên chấp nhận là phải có các mối liên lạc giữa ý thức và hệ thần kinh của cơ thể, bằng cách nào đó ta vẫn phải xem xét được đến các cấp độ sâu hơn của cảm xúc. Tôi muốn chỉ rõ rằng … không cần có bất kỳ vật lý chuyển động nào của cơ thể, một người (hành thiền) vẫn có thể gây ảnh hưởng tới trạng thái sinh lý của chính mình bằng cách sử dụng năng lực tâm thức thông qua một trạng thái nhất tâm, tập trung tâm ý (a focused, single-pointed state)".

5.3. "Dĩ nhiên cơ sở thể chất của ý thức (nghĩa là ý căn – chú thích của người viết) phải bao gồm hệ thống thần kinh mặc dù các kinh văn Phật Giáo cổ điển không đề cập đến điều này. Tuy nhiên nguyên nhân chính yếu của ý thức hẳn không phải là những thực thể vật chất này. Nó phải được hiểu theo sự tương tục của chính nó, dù là ở dạng tiềm tàng hay một khuynh hướng, hay bất kỳ dạng nào khác. Đây là một đề tài rất khó, nhưng ta có thể nói rằng nguyên nhân chính yếu của thức có thể được hiểu như là dòng tương tục của thức vi tế, ở trạng thái tiềm tàng…".(Đây là nói về ý môn, tuy nhiên Phật Giáo Tây Tạng thuộc Bắc Tông nên không dùng danh từ trong tạng Luận Vi Diệu Pháp trong Nam Tông – chú thich của người viết).

Ba đoạn trích dẫn trên đây cho ta thấy quan điểm của Phật Giáo Tây Tạng rằng các cơ sở thể chất của ý thức bao gồm hệ thống thần kinh tuy nhìn nhận rằng kinh văn Phật Giáo không đề cập đến điều này. Tuy nhiên điều này rất phù hợp với sự rung động và hệ thần kinh liên quan tới cơ sở, căn cứ của ý thức và cảm xúc tương ứng (như kỹ thuật hát bộ do GS Trần văn Khê giảng dạy). Điều quan trọng đáng để ý là Ngài cũng nói về nguyên nhân chính yếu của thức, được hiểu là ý môn, chính là dòng tương tục của chính nó, của thức vi tế (the continuum of the subtle consciousness).


6. Ý căn và Ý môn từ Kinh điển Phật Giáo:


Định nghĩa, sự phân tích về ý môn và ý căn cũng như các quan điểm khác biệt về ý căn được tìm thấy qua các đoạn trích dẫn dưới đây:

6.1. Trích dẫn Chương III, phần Phân loại theo căn môn, cuốn Thắng Pháp Tập Yếu Luận, do Tỳ Kheo Thích Minh Châu dịch và thích nghĩa:

- Pali văn dịch ra Việt văn: "Nhãn môn, nhĩ môn, tỷ môn, thiệt môn, thân môn và ý môn, như vậy có sáu môn tất cả. Ở đây, mắt gọi là nhãn môn, lỗ tai gọi là nhĩ môn v.v… còn ý môn tức là Hữu Phần (Bhavanga)".

- Thích nghĩa: "Dvāra là cửa; …cửa này dùng vừa cả lối ra và lối vào. Khi một đối tượng đến với tâm, bhavanga được rung động và dừng lại. Rồi Hướng tâm (Āvajjana) khởi lên. Nếu là đối tượng ở ngoài ngang qua năm căn thì ngũ môn hướng tâm khởi lên. Nếu là đối tượng nội tâm thì ý môn hướng tâm khởi lên; Hữu Phần dừng nghỉ (Bhavangapaccheda) khởi lên trước ý môn hướng tâm và gọi là ý môn (manodvāra)".

Tỳ Kheo Thích Minh Châu dịch chữ vatthu trú căn,dùng chữ đoàn tâm thay vì ý căn để dịch chữhadayavatthu, có lẽ do chữ hadaya có nghĩa là trái tim. Dịch hadayvatthu là đoàn tâm hàm ý rằng ý căn là trái tim, điều mà Đức Phật không xác nhận hay bác bỏ, như được trích dẫn dưới đây (Phần 6.4).

6.2. Phần 193 – Ý môn Tổng Hợp, cuốn Vi Diệu Pháp Nhập Môn của Tỳ Kheo Giác Chánh: "… Ý môn là Tâm Hộ Kiếp để cho Ý thức khởi lên thâu bắt Cảnh pháp".

6.3. Chương III, trang 144, Bản trích yếu về Căn – Compendium of Bases (vatthusangaha), "A Comprehensive Manual of Abhidhamma", Bhikkhu Bodhi, 1993:

" Phân tích các Căn: Trong cõi Dục Giới, các Tâm và Tâm Sở phát sinh tùy thuộc vào điều kiện gọi là Căn (vatthu). Căn là sắc hổ trợ cho Thức phát sinh. Mặc dầu năm căn đầu (ngoại trừ ý căn) trùng với năm môn đầu, một căn không giống hệt như là một môn, bởi vì nó đóng một vai trò khác trong sự phát sinh ý thức. Môn là cửa ngõ qua đó tâm và tâm sở của tiến trình nhận biết đi tới được đối tượng. Căn là sắc hổ trợ cho sự phát sinh của tâm và tâm sở."

Tỳ kheo Bodhi dùng chữ heart-base để dịch chữ hadayavatthu và nói rằng, theo các nhà chú giải Pali, trái tim là sắc hổ trợ cho tất cả mọi tâm chỉ trừ ngũ song thức. Tuy nhiên Tỳ Kheo Bodhi nói rằng trong tạng Vi Diệu Pháp, heart-base không được nhắc đến một cách rõ rệt. Bộ Patthāna, cuốn cuối của Tạng Vi Diệu Pháp, chỉ nói đến ý căn một cách gián tiếp như "sắc mà ý thức tùy thuộc vào để phát sinh". Tuy vậy, chú giải cũng cho rằng "sắc ý vật ấy phải là heart base, một lổ hỗng ở bên trong quả tim (a cavity situated within the physical heart)."

6.4. Chương VI (Sắc pháp) - Cuốn "A Manual of Abhidhamma" của Narada Maha Thera (Phạm Kim Khánh dịch) nói về ý căn như sau:

"Bộ Dhammasangani không đề cập đến sắc pháp này. Trong sách Atthasālīni, danh từ hadayavatthu được giải thích là cittassa vatthu, căn cứ từ nơi đó tâm phát sinh.

Rõ ràng Đức Phật không nhất quyết chỉ nơi nào là căn của tâm như Ngài đã chỉ rõ khi đề cập đến các giác quan khác. Vào thời của Ngài, phần đông người ta tin rằng quả tim là ý căn và thuyết này hiển nhiên được kinh Upanishads hổ trợ. Nếu muốn, Đức Phật đã chấp nhận lý thuyết rất phổ thông thời bấy giờ, nhưng Ngài không nói đến. Trong bộ Patthana, bộ sách đề cập đến Duyên Hệ Tương Quan, Ngài nhắc đến căn cứ của thức (ý căn) bằng những danh từ gián tiếp như "yam rūpam nissāya", "tùy thuộc nơi sắcpháp ấy", mà không quả quyết xác nhận sắc ấy là trái tim hay bộ não. Nhưng theo quan niệm của các nhà chú giải như Ngài Buddhaghosa và Anuruddha thì ý căn nhất định là tim. Chúng ta hiểu rằng Đức Phật không hề chấp nhận hoặc bác bỏ lý thuyết rất phổ thông vào thời xa xưa ấy, cho rằng ý căn là tim".

7. Phần kết luận


7.1. Khoa học từ trước đến nay đã cho rằng ý thức có cơ sở là não bộ, nhưng đó là dựa vào một định kiến hơn là chứng cứ thực nghiệm. Gần đây, nhóm "Human Consciousness Research Group" do Bác sĩ Sam Parnia thiết lập tại Anh quốc đã có một số thực nghiệm chứng minh rằng sau khi não bộ ngưng hoạt động, tâm có mặt, hiện hữu như một thực thể độc lập đối với não bộ. Đây là một khám phá có chứng nghiệm của khoa học, nhưng điều khám phá này đã được nói đến từ lâu trong kinh điển Phật Giáo.

7.2. Những trường hợp cầu cơ trong đó người đã chết nhập vào thân xác người sống để gởi thông điệp cho người thân, tuy chưa được chứng nghiệm, nhưng khó mà phủ nhận được. Tương tự, khả năng của các nhà ngoại cảm liên lạc được với "vong linh" người đã chết cũng khó mà phủ nhận tuy chưa giải thích một cách khoa học được.

7.3. Ngài U Silananda Sayadaw, một Thiền Sư Miến Điện có thẩm quyền về Vi Diệu Pháp có nói rằng: "Ý căn là một sắc pháp, nhưng kinh điển không chỉ rõ sắc nào là Ý căn". Điều này đã nói trong phần trích dẫn 6.4 từ Vi Diệu Pháp Toát Yếu của Ngài Narada Maha Thera, chỉ ý căn là một sắc pháp. Tuy rằng có vài nhà chú giải nỗi tiếng cho rằng ý căn là trái tim, Đức Phật đã không nói như vậy là đúng hay sai.

Chữ "vatthu" tiếng Pali nghĩa là "vật" hay là "căn" (physical base) của một trong 6 thức. Chữ "hadayavatthu" phân ra hai từ với từ "hadaya" có nghĩa là tim (heart) hoặc ý (mind); nguyên chữ "hadayavatthu" thì có thể dịch là "ý vật" hoặc "ý căn" và có nghĩa là căn của ý thức, căn cứ từ đó thức phát sinh (Tỳ Kheo Thích Minh Châu dịch là đoàn tâm; Bhikkhu Bodhi dùng chữ heart base). Quả tim được nhiều người vào thời Đức Phật cho là ý căn và được kinh Upanishads hỗ trợ và các nhà chú giải như Anuruddha và Buddhaghosa quả quyết là đúng (Buddhaghosa là luận sư nỗi tiếng đã sáng tác, vào thế kỷ thứ V sau tây lịch, bộ sách "Thanh Tịnh Đạo", the Path of Purification mà đa số người hành thiền đều biết). Tuy vậy, Đức Phật đã không nói đến Ý căn, chỉ gián tiếp nhắc đến "yam rūpam nissāya " " tùy thuộc nơi sắc pháp ấy ", mà không xác nhận sắc ấy là trái tim hay bộ não hay gì khác. Ngài đã không chấp nhận hoặc bác bỏ thuyết cho rằng Ý căn là tim. Câu Pali "yam rupam nissaya" trong Tạng Vi Diệu Pháp có thể hiểu là "tâm nương vào sắc nào, sắc ấy là sắc ý vật". Với ý nghĩa này, phải chăng ý vật hay ý căn có thể là bất cứ sắc pháp nào trong thân mà tâm nương vào, tùy thuộc vào? Phải chăng ở đây hệ thần kinh mà Ngài Dalai Lama XIV nói trên đây, như là cơ sở thể chất của ý thức, hoặc trái tim, não bộ hay bất kỳ pháp nào mà tâm nương vào đều có thể là ý căn? Thật khó mà có câu trả lời rõ rệt nào. Chỉ có một điều chúng ta biết chắc chắn là ý căn là một sắc pháp, nhưng Đức Phật không nói rõ sắc pháp nào là ý căn cả.

Kết luận là chưa có sự giải đáp thỏa đáng cho câu hỏi về ý căn. Đây là một vấn đề còn bỏ ngõ, cần nhiều nghiên cứu sâu hơn. Thông thường chúng ta nói thế khi chưa có thể trả lời thỏa đáng một vấn đề, tuy nhiên nghiên cứu sâu hơn cũng không bảo đảm chắc chắn sẽ tìm được câu trả lời thỏa đáng. Chúng ta biết rằng văn huệ và tư huệ giúp ta giải quyết nhiều vấn đề, nhưng những vấn đề khác thì phải cần đến tu huệ. Hiện tại, các dữ kiện nêu trên về các vấn đề cầu cơ, các nhà ngoại cảm, câu hỏi về ý căn… vẫn còn là những vấn đề chưa giải thích được. Có lẽ với những vấn đề này chúng ta phải cần đến tu huệ mới hy vọng có sự tiến triễn về "sự hiểu biết bản chất của tâm và chức năng của nó qua các sự trải nghiệm của công phu hành thiền", nói theo lời Ngài Dalai Lama thứ 14. Một hành giả đi trên con đường Giới, Định, Huệ, hành thiền tích cực, có thể phát triễn trí tuệ, đạt được trí tuệ rốt ráo, thì có thể hiểu rõ bản chất, chức năng của tâm và hy vọng sẽ giải quyết được mọi vấn đề liên quan tới tâm.


Thanked by 2 Members:

#34

Vô Danh Thiên Địa



 

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5108 thanks

 

Gửi vào 03/04/2013 - 09:39

Thú thật tôi chưa đọc hết bài trên mà đã thấy loạn cã lên rồi. Thế mới biết cái thức nó ăn sâu vào căn tâm và không phải dể gì dùng tâm để cảm nhận.

Thanked by 2 Members:

#35

secretsoflife



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 496 Bài viết:
  • 1551 thanks
  • Location0

 

Gửi vào 03/04/2013 - 16:52

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

tigerstock68, on 02/04/2013 - 09:02, said:

Cảm ơn anh KN0WNOT cho được những bài học thâm sâu về Đạo ... không biết anh có phải là Cư Sĩ hay không?

Hy vọng Tigerstock68 hiểu được lời anh chuyển tải, bị Không Kiếp nên đôi lúc lời văn gãy gọn gây khó hiểu, nhớ giữ ý quên lời. Anh không phải là cư sĩ, chỉ là người bình thường, không có nhản mác nào hết. :)

Thanked by 2 Members:

#36

secretsoflife



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 496 Bài viết:
  • 1551 thanks
  • Location0

 

Gửi vào 03/04/2013 - 17:08

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

vodanhthiendia, on 03/04/2013 - 03:44, said:

Vấn đề là làm sao để cảm nhận được qua Tâm thức thay vì ý thức ?

Thiền định và chỉ có thiền định. Tất cả tụng niệm, trì chú, v.v... đều cần đưa đến sự nhất tâm bất loạn, đó cũng giống như giai đoạn đầu của thiền vì lực chủ định tinh thần chính là chìa khóa để mở cửa bước vào nội giới. Phật giáo có thiền định, Thiên Chúa Giáo có tĩnh tâm, Lão Trang có Tọa Vong, đều là lìa ngã trí gò bó để mà trở về với Đại Trí Huệ cùng khắp. Ngay cả các môn Huyền Học cũng đều phải có "Thành", vì "Thành" đó chính là rời bỏ bản ngã mà cảm thông với Thiên Địa, hòa nhập vào biển Chân Trí Thức vô tận. Những tôn giáo lớn như những cái lều dựng lên nền đất chung, nền đất chung đó chính là tâm linh. Không phải trùng hợp khi Chúa Jesus nói: "Ta chết mỗi ngày", và cái hòm bằng đá được đặt nằm sau tượng Tùng Quả bằng đồng có từ thế kỷ thứ 1-2, trong nhà vòm tại Court of the Pinecone, Vatican. (Nhà vòm biểu tượng cho đầu người, tùng quả biểu tượng cho tuyến tùng quả - con mắt thứ 3. Hòm đá biểu tượng cho sự chết - sự chết hằng ngày của ý thức/thể xác để Tâm thức trỗi dậy trở về với Đại Ngã.)

Trang Tử Nam Hoa Kinh:

Nhan Hồi thưa với Trọng Ni: - Con đã tiến bộ.
Trọng Ni hỏi: - Thế nghĩa làm sao?
- Con đã quên nhân nghĩa rồi.
- Được đấy, nhưng chưa đủ.
Hôm khác, Nhan Hồi trở lại thưa: - Con đã tiến bộ.
- Thế nghĩa làm sao?
- Con đã quên lễ nhạc rồi.
- Được đấy, nhưng chưa đủ.
Hôm khác nữa, lại trở lại: - Con đã tiến bộ.
- Thế nghĩa làm sao?
- Con ngồi (TỌA VONG) mà quên hết thảy được.
Trọng Ni kinh ngạc hỏi: - Thế nào là ngồi mà quên hết thảy?
Nhan Hồi đáp: - Cởi bỏ thân thể, trừ tuyệt sự thông minh, rời hình thể, bỏ trí tuệ, hợp nhất với đạo, như vậy là ngồi mà quên hết thảy.

Trọng Ni bảo: - Hợp nhất thì không còn lòng riêng nữa, biến hoá thì không câu nệ. Anh quả thực là hiền nhân rồi. Thầy muốn theo gót anh.


(Trang tử Nam Hoa Kinh: Chương 6 - Đạo là Tôn sư của Ta. Dịch giả Nguyễn Hiến Lê)


Ghi chú: Trọng Ni là Khổng Tử, Nhan Hồi là cao đệ của Khổng Tử. Xem ra Nhan Hồi lén thầy mà Tọa Vong theo Lão Trang và ngay chính Khổng Tử cũng không hiểu tọa vong là gì... :)) . Đây có thể là điểm khác biệt khiến tinh thần của Lão Tử vượt thoát, khác xa Khổng Tử, đến nỗi mà Khổng Tử phải lên tiếng than với môn sinh của mình: "Loài chim ta biết nó bay được, loài cá ta biết nó lội được, loài thú ta biết nó chạy được. Chạy thì ta dùng lưới để bẫy, lội thì ta dùng câu để bắt, bay thì ta dùng tên để bắn. Đến loài rồng cưỡi gió mây mà lên trời thì ta không sao biết được. Nay ta đã được gặp Lão Tử – ông ấy thật là rồng vậy." (Sử gia Tư Mã Thiên) Ngay cả câu ví dụ cũng toàn sự bắt, sự sát hại, cố chiếm hữu thiên nhiên làm của riêng mình, xa lìa bản tính Tự Nhiên của Trới Đất thì sao mà có thể trở về với Đạo Lớn? Cố ép thiên hạ về mình, Vạn Thế Sư Biểu chỉ là sư biểu thích hợp với chủ trương riêng của Đại Hán thôi.

Trở lại ý thức và Tâm thức. Một thời gian sau thiền định thì tầng rung động thô kệch của ý thức sẽ được lắng xuống và điều này còn tùy thuộc vào Thân Khẩu Ý ta giữ hằng ngày (cột trâu cho thuần thục đến khi thả trâu ra nó vẫn "tự nhiên" theo mình - giữ giới mà không giữ giới, không có nghĩa là thọ nhục mà giống như không thọ nhục). Từ từ thì tầng rung động (trường lực) của ta sẽ vi tế hơn và ta sẽ nhận chân được mỗi động niệm của ý thức ta (ý thức và Tâm thức bắt đầu tách ra) và cũng từ đó Tâm thức ta với rung động vi tế hơn sẽ bắt đầu trỗi dậy. (Tìm trâu, cột trâu, thả trâu, v.v... trong Thập Mục Ngưu Đồ nói đến quy trình tuần tự của Ý thức/đầy tớ + Tâm thức/Chú Nhân Ông này). Đá thả vào nước thì chìm, dầu đổ vào nước thì nổi. Tầng rung động của Tâm thức ta cũng vậy, càng vi tế thì càng trở về Gốc của Tự Nhiên, giống như gốc của Vũ trụ được hình thành từ những tầng rung động sâu bên dưới của Hạ nguyên tử vậy. Nói thêm là trường chay là điều kiện tiên quyết, nếu không thì chỉ là xây nhà trên cát, nhiều lúc lại còn nguy hiểm vì trường lực xấu do thọ nhục sẽ thu hút linh hồn xấu bên kia đến, nhẹ là bị quấy phá, nặng nữa là bị giả dạng tiên Phật dẫn đi sai đường. Bên trên chỉ là sơ lược về tuần tự, chứ nếu sâu vào thì phải cần thầy chỉ dẫn, những vị thầy có khả năng giúp đệ tử từng bước một bên trong nội giới chứ không đơn giản chỉ là bên ngoài.

Xin tạm kiếu chủ đề này một thời gian.

Thanked by 3 Members:

#37

Vô Danh Thiên Địa



 

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5108 thanks

 

Gửi vào 03/04/2013 - 23:39

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

knownot, on 03/04/2013 - 17:08, said:

Thiền định và chỉ có thiền định.
Thiền là phương tiên. Định là muc dích . Phương tiện thì vạn thù. Định thì biết Tâm ở đâu nó ra làm sao. Không Định thì chẳng biết tâm là cái gì dù có cắt nghĩa giải thích ngàn vạn chữ hay dùng khoa học thí nghiệm chứng minh nó hie6.n hửu hay không hiện hữu .


Thanked by 3 Members:

#38

TuBinhTuTru



 

    Thượng Khách

  • Thượng Khách
  • 821 Bài viết:
  • 1516 thanks

 

Gửi vào 04/04/2013 - 07:26

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

vodanhthiendia, on 03/04/2013 - 23:39, said:

Thiền là phương tiên. Định là muc dích . Phương tiện thì vạn thù. Định thì biết Tâm ở đâu nó ra làm sao. Không Định thì chẳng biết tâm là cái gì dù có cắt nghĩa giải thích ngàn vạn chữ hay dùng khoa học thí nghiệm chứng minh nó hie6.n hửu hay không hiện hữu .

Thiền có nhiều kiểu và thiền kiểu nào mới có Định? Vì như Vodanhthiendia nói: "Định thì biết Tâm ở đâu nó ra làm sao" ...

Knownot thì kêu: "Tất cả tụng niệm, trì chú, v.v... đều cần đưa đến sự nhất tâm bất loạn" lại là tụng niệm thể nào, trì chú ra sao ... đến sự "nhất tâm bất loạn"? Ví dụ điển hình của "nhất tâm bất loạn" là thế nào?

Và đâu cần đến ngàn vạn chữ mà Vodanhthiendia cũng có thể chạm đến ngằn mé của "Định" trong ngôn ngữ Việt đó nha ...

"Định sáng mai dậy sớm, đi thăm ông bạn già."

Chữ định trong câu nói trên có nghĩa là sao

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

?

Thanked by 1 Member:

#39

Quách Ngọc Bội



 

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4517 Bài viết:
  • 29166 thanks
  • LocationThảo Nguyên

 

Gửi vào 04/04/2013 - 08:14

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

TuBinhTuTru, on 04/04/2013 - 07:26, said:

"Định sáng mai dậy sớm, đi thăm ông bạn già."

Chữ định trong câu nói trên có nghĩa là sao

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

?

Chữ "Định" này là viết tắt của "dự định", là cái mà đến trú (trụ) ở trong tâm của ta chứ bác TBTT. Nó đâu có thể đánh đồng được với cái Định của "thiền định" là cái mà ta đưa tâm mình đến trú (trụ) ở trong nó. Mối quan hệ chủ-khách ở đây có sự khác biệt rõ rệt.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

TuBinhTuTru, on 04/04/2013 - 07:26, said:

Thiền có nhiều kiểu và thiền kiểu nào mới có Định?

Thường thấy, người ta nói "tham thiền" và "nhập định", Thiền và Định là 2 anh em song sinh cùng cha khác cô gì chú bác

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thiền có Tứ Thiền là 4 giai đoạn, cấp bậc khác nhau. Định có Ngũ Định cũng là 5 giai đoạn, cấp bậc khác nhau. Nhưng trong Thiền có Định, vì mỗi giai đoạn của Thiền mô tả trạng thái, còn mỗi giai đoạn của Định thì mô tả diễn biến của trạng thái.
Thiền kiểu gì thì cũng có Định vì do cách điều Tâm, bất kể là Tâm "có sở trụ" hay "vô sở trụ"

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 2 Members:

#40

AlexPhong



 

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2382 Bài viết:
  • 8854 thanks

 

Gửi vào 04/04/2013 - 08:31

Dự định hay định trong thiền đều là một chữ 定. Tubinhtutru thích bới lông tìm vết nhưng không giải quyết được vấn đề nêu ra. Người ta gọi đó là gào to la làng. Nói đi nói lại không khéo mang tiếng danh Thượng Khách. Người vào diễn đàn họ lại tưởng Thượng Khách toàn anh nói sàm thì hỏng hỏng. Tan nát, tan nát hết thôi.

Sửa bởi AlexPhong: 04/04/2013 - 08:32


Thanked by 1 Member:

#41

Vô Danh Thiên Địa



 

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5108 thanks

 

Gửi vào 04/04/2013 - 09:24

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

TuBinhTuTru, on 04/04/2013 - 07:26, said:

Thiền có nhiều kiểu và thiền kiểu nào mới có Định? Vì như Vodanhthiendia nói: "Định thì biết Tâm ở đâu nó ra làm sao" ...

Knownot thì kêu: "Tất cả tụng niệm, trì chú, v.v... đều cần đưa đến sự nhất tâm bất loạn" lại là tụng niệm thể nào, trì chú ra sao ... đến sự "nhất tâm bất loạn"? Ví dụ điển hình của "nhất tâm bất loạn" là thế nào?

Và đâu cần đến ngàn vạn chữ mà Vodanhthiendia cũng có thể chạm đến ngằn mé của "Định" trong ngôn ngữ Việt đó nha ...

"Định sáng mai dậy sớm, đi thăm ông bạn già."

Chữ định trong câu nói trên có nghĩa là sao

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

?

Biết Tâm đang lọan thì thấy chữ Định. Chẳng biết tâm loạn thì chạy vòng vòng tìm chữ Định nghĩa là gì.
Ngôn ngữ Việt chữ Định một vọng một tịnh đều từ Tâm .

Sửa bởi vodanhthiendia: 04/04/2013 - 09:27


#42

secretsoflife



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 496 Bài viết:
  • 1551 thanks
  • Location0

 

Gửi vào 04/04/2013 - 11:00

Hôm nay sắp xếp lại kệ sách, giở trang sách cũ Tinh Thần Khoa Học Đạo Học của cây đại thụ cố Giáo sư Nguyễn Đăng Thục, lướt thấy đoạn này lại liên quan đến câu hỏi của anh Vodanhthiendia nên gõ trích tặng những ai quan tâm:

...
Trang Tử, trong Đại Tôn Sư: "Tam nhật nhi hậu năng ngoại thiên hạ, dĩ ngoại thiên hạ hĩ, ngỡ hựu thủ chi, thất nhật nhi hậu năng ngoại vật. Dĩ ngoại vật hĩ, ngô hựu thụ chi, cửu nhật nhi hậu năng ngoại sinh. Dĩ ngoại sinh hĩ, nhi hậu năng triêu triệt. Triêu triệt nhi hậu năng kiến độc. Kiến độc nhi hậu năng vô cổ kim. Vô cổ kim nhi hậu năng thập ư bất tử bất sinh."

Ta luyện tọa vong được ba ngày, tâm hồn hư tĩnh, thì ta có thể siêu ra ngoài xã hội nhân tính. Một khi đã siêu lên trên xã hội nhân tính, ta giữ cho vững tâm trạng ấy, mà lại cố gắng tiến lên thì sau bảy ngày ta lại siêu ra ngoài hình thức của sự vật. Đã siêu được qua hình thức của sự vật, ta lại giữ cho vững tâm trạng ấy mà cố đi lên, thì sau chín ngày, ta có thể siêu ra ngoài nghĩa sống chết thông thường (tương đối). Đã ra ngoài nghĩa sống chết thông thường có giới hạn, thì tinh thần ta mới có sực triêu triệt. Triêu triệt sau rồi mới kiên độc. Kiên độc sau rồi mới có thể ra ngoài thời gian, không còn cổ kim quá khứ hay vị lai. Một khi đã ra ngoài thời gian tương đối, thì mới bắt đầu thực hiện được nghĩa sống chết là một. (knownot ghi chú: 3, 7, 9 là số ngày bế quan không gián đoạn. Càng lâu thì sự thâm nhập càng sâu.)

Vậy triêu triệt ở Trang Tử tức là tinh thần thấu triệt như lúc bình minh yên tĩnh, trong suốt như mặt nước hồ thu, không gợn sóng, không chút mảy may tạp niệm đến làm gián đoạn nguồn thông cảm của Ý THÀNH; giòng nội giới với giòng ngoại giới không bị ngừng trệ, trở ngại bởi những hình thức của vật thể nào nữa, mà thời thời vãng lai miên tục. Ấy là kết quả của thái độ tọa vong. Một khi đạt tới sự triêu triệt thì tinh thần tựa hồ đứng giữa Trung Tâm của Vũ Trụ, chỉ có một mình với một bầu nội giới chu lưu, khác gì ngọn hải đăng phóng tán những làn sóng hào quang trong bầu trời tăm tối, khác nào đâu cột vô tuyến điện thu vào hay phóng ra trong không trung những trào lưu ba động lực. Chỉ có thái độ tọa vong kiến độc ấy mới trực tiếp với chân thực tại của vạn vật, khuyếch xung cái mình giới hạn mà đồng thể với Đại Ý Thức vô hạn vô biên. Đã không có giới hạn của vật chất hay tư duy thì mới biến thông được, mới thực sống trong thuần túy kinh nghiệm với vạn vật miên tục mà Liệt Tử gọi là "Quân Nhất, Tuyệt Nhi Bất Tuyệt", tức là không cổ kim, không đông tây, ngoài quan niệm không gian, thời gian và nhân quả, hình thức của tri thức la tập khu biệt và phân tách.... (Tinh Thần Khoa Học Đạo Học - Gs Nguyễn Đăng Thục)



Thanked by 1 Member:

#43

secretsoflife



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 496 Bài viết:
  • 1551 thanks
  • Location0

 

Gửi vào 04/04/2013 - 11:07

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

vodanhthiendia, on 03/04/2013 - 23:39, said:

Thiền là phương tiên. Định là muc dích . ...

Thiền là phương tiện, Định là một trong những tiến trình cần phải có, đều là nhắm đến CỨU CÁNH TỐi THƯỢNG như câu chú cuối cùng trong bài kệ Bát Nhã:

...Yết đế, yết đế
Ba la yết đế
Ba la tăng yết đế
Bồ đề tát bà ha...


...Vượt qua, vượt qua
Vượt qua bờ bên kia
Vượt qua hoàn toàn
Tuệ giác Thành tựu...

Nguyên cả bài chú Bát Nhã là nói đến quá trình của Tâm thức trong Nội giới.

Chuyển tải ý cũng đã tạm đủ, lần này xin kiếu thiệt.

Thanked by 3 Members:

#44

Vô Danh Thiên Địa



 

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5108 thanks

 

Gửi vào 04/04/2013 - 11:59

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

knownot, on 04/04/2013 - 11:07, said:

Thiền là phương tiện, Định là một trong những tiến trình cần phải có, đều là nhắm đến CỨU CÁNH TỐi THƯỢNG như câu chú cuối cùng trong bài kệ Bát Nhã:

...Yết đế, yết đế
Ba la yết đế
Ba la tăng yết đế
Bồ đề tát bà ha...


...Vượt qua, vượt qua
Vượt qua bờ bên kia
Vượt qua hoàn toàn
Tuệ giác Thành tựu...

Nguyên cả bài chú Bát Nhã là nói đến quá trình của Tâm thức trong Nội giới.

Chuyển tải ý cũng đã tạm đủ, lần này xin kiếu thiệt.

Yết Đế Yết Đế
Vượt qua mục đích
Vượt qua Bát Nhã ...


Thanked by 2 Members:

#45

TuBinhTuTru



 

    Thượng Khách

  • Thượng Khách
  • 821 Bài viết:
  • 1516 thanks

 

Gửi vào 04/04/2013 - 23:39

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

QuachNgocBoi, on 04/04/2013 - 08:14, said:

Chữ "Định" này là viết tắt của "dự định", là cái mà đến trú (trụ) ở trong tâm của ta chứ bác TBTT. Nó đâu có thể đánh đồng được với cái Định của "thiền định" là cái mà ta đưa tâm mình đến trú (trụ) ở trong nó. Mối quan hệ chủ-khách ở đây có sự khác biệt rõ rệt.

Dự là phó từ - có nghĩa là "trước" hay "góp phần vào", như vậy QuachNgocBoi cho rằng chữ "Định" tôi nói trong câu "Định sáng mai dậy sớm, đi thăm ông bạn già" là theo nghĩa "Dự định"?

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Khi tôi hỏi: Chữ định trong câu nói trên có nghĩa là sao thì tôi muốn xem người đọc sẽ hiểu như thế nào về chữ định đó như:



"(dự) Địnhsáng mai dậy sớm, đi thăm ông bạn già"
"Định (bụng) sáng mai dậy sớm, đi thăm ông bạn già"
"(ý) Định sáng mai dậy sớm, đi thăm ông bạn già"
"Định (tâm) sáng mai dậy sớm, đi thăm ông bạn già"


.... chí đến:


"(quyết) Địnhsáng mai dậy sớm, đi thăm ông bạn già"
"(nhất) Địnhsáng mai dậy sớm, đi thăm ông bạn già"


.v.v...


Như vậy, QuachNgocBoi có thấy được trong đám tư tưởng (xyz) ấy thì cái tư tưởng nào tương ứng với cái gọi là "thiền định" để chỉ mới thấy được ngằn mé của "tâm" thôi?


Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |